
Nhóm khoa học gia trong Dự án Manhattan cho ra đời các quả bom nguyên tử đầu tiên
Trích The Rising Sun
Tác giả John Toland
Trần Quang Nghĩa dịch
I . “Đó Không Hề Là Quyết Định Mà Anh Phải Lo Lắng”
1.
Vào sáng ngày 15/7, Augusta, tuần dương hạm trước đây đã mang Roosevelt đến dự cuộc họp lịch sử với Churchill bên ngoài Newfoundland để công bố Hiến chương Đại Tây Dương, giờ đang neo đậu tại Antwerp với vị Tổng thống mới của Hoa Kỳ, Harry S. Truman. Qua giờ trưa một chút ông lên chuyên cơ tổng thống, Bò Thiêng, bay đến Potsdam, dự cuộc họp có mật danh “Terminal” (Mức Cuối).
Chiến tranh đã cưỡng ép thế đồng minh không mấy thoải mái giữa chủ nghĩa tư bản với Chủ nghĩa Cộng Sản và sự ló dạng của hòa bình đã phơi bày những mối xung khắc ngấm ngầm giữa Đông và Tây. Mối liên minh gắn kết tại Yalta đang tan rã. Stalin đã không giữ lời hứa sẽ tôn trọng Tuyên Bố về Âu châu Giải phóng bằng cách rắp tâm cộng sản hóa mọi lãnh thổ mà Hồng Quân giải phóng ở Đông Âu. Chính ông ta nghi ngờ phương Tây âm mưu sau lưng mình: chứng cứ về những dàn xếp “chông-Xô viết mà nhóm Dulles vừa mới kết thúc gần đây ở Bắc Ý.
Không có nghi ngờ gì về cách thức tân Tổng thống dự tính sẽ vận dụng với người Nga. Molotov đã cảm thấy lúng túng trước sự thẳng thắng của Tổng thống. “Hoa Kỳ sẵn sàng thực thi một cách trung thành tất cả những thỏa hiệp đã đạt được tại Yalta và chỉ yêu cầu chính quyền Xô viết cũng làm tương tự,” ông đã nói với Ngài Ủy viên Đối Ngoại tại cuộc họp đầu tiên của họ tại Washington. “Nhưng tôi muốn được hiểu rõ là việc này chỉ có thể dựa trên cơ sở đồng thuận xem xét chứ không trên cơ sở đường một chiều.”
“Chưa hề có ai nói với tôi như thế bao giờ!” Molotov giận dữ kêu lên.
“Hãy thực thi các thỏa thuận của ngài, thì ngài sẽ không bị ai nói như thế,” Truman đáp lại.
Mục tiêu của Truman đối với “Terminal” là rõ ràng. Ông chỉ muốn thiết lập những nguyên tắc chính trị và kinh tế cho việc chiếm đóng Đức quốc, thi hành Tuyên Bố về Âu châu Giải phóng (đặc biệt vấn đề liên quan đến Ba Lan) và giải quyết vấn đề tái thiết. Tất cả những việc này đều có trên chương trình nghị sự của toàn bộ các buổi làm việc. Nhưng việc kết thúc cuộc chiến ở châu Á cũng cần được chú tâm ngang bằng mặc dù không chính thức. Đối với Truman, vấn đề “khẩn cấp nhất” này ở Potsdam không thể được giải quyết trên bàn hội nghị chính thức mà yêu cầu một cuộc gặp riêng với Stalin. Theo đề nghị của Marshal và MacArthur ông phải nói bóng gió với người Xô viết về việc tham gia cuộc chiến chống Nhật càng sớm càng tốt. Ông phải tiến hành việc này thậm chí có mật tin cho biết là bom nguyên tử sẽ sớm được thử ở New Mexico.
Ông đã mang theo mình bản tuyên bố nháp kêu gọi Nhật đầu hàng. Nó được cổ vũ bởi một chính khách đã từng nỗ lực ngăn ngừa cuộc chiến xảy ra, Joseph Grew. Khiếp đảm vì các báo cáo về những trận oanh tạc dự dội xuống Tokyo, ông đã đến gặp Truman vào 29/5 (ông là Quyền Bộ trưởng Ngoại giao trong khi Stettinius tham dự hội nghị Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc với lời yêu cầu Tổng thống đưa ra lời tuyên bố với người Nhật là việc đầu hàng vô điều kiện không có nghĩa là kết thúc hệ thống quân chủ. Nếu không có sự bảo đảm đó, ông nói, chưa chắc là người Nhật chịu đầu hàng. Ông được ủng hộ bởi các chuyên gia về Viễn Đông trong Bộ Ngoai giao, như Eugene Dooman, Joseph Ballantine và Giáo sư George Blakeslee.
“Tôi đã suy nghĩ về vấn đề này,” Truman trả lời, “và đối với tôi hình như đó là một ý tưởng ổn thỏa.”
Ông muốn Đại sứ Grew tư vấn với các Tham mưu Trưởng Liên quân và các Bộ trưởng Chiến tranh và Hải quân trước khi đưa ra quyết định cuối cùng.
Stimson và Forrestal “thích ý tưởng này,” và Marshall cũng vậy, nhưng Tổng Tham mưu sợ rằng lời tuyên bố công khai “vào thời điểm này là quá sớm.” Stimson nghĩ rằng lời lẽ trong tuyên bố còn tùy thuộc vào thử nghiệm quả bom có thành công hay không. Bộ trưởng Chiến tranh đã không ngừng lo âu về việc sử dụng quả bom. Ông dẫn đầu một nhóm dân sự tiếng tăm được biết dưới tên Ủy ban Lâm thời trong đó có ba nhà khoa học lừng danh, được lập ra nhằm cố vấn cho Tổng thống về những vấn nạn quân sự và khoa học phát khởi qua việc phóng thích năng lượng nguyên tử. Ông đưa ra kết luận của mình cho Ủy ban, sẽ nhóm họp hai ngày tới với Tướng Marshal và Ban Khoa học cố vấn gồm bốn người. “Thưa Quí vị,” ông nói, “trách nhiệm của chúng ta là giới thiệu một hành động có thể làm xoay chuyển tiến trình của văn minh. Trong tay mình chúng ta trông chờ sớm sẽ có được một loại vũ khí có sức phá hủy hoàn toàn chưa hề được biết đến. Yếu tố quyết định của hôm nay là chiến tranh. Nghĩa vụ của chúng ta là mang cuộc chiến này đến một kết thúc mau chóng và thắng lợi. Chúng ta có thể nói rằng vũ khí mới này của mình đã trao vào tay chúng ta một quyền lực bao trùm. Cho nên nghĩa vụ của chúng ta là sử dụng quyền lực này bằng sự khôn ngoan nhất có thể vận dụng. Đối với chúng ta giờ này vấn đề quan trọng bậc nhất là làm thế nào việc sử dụng vũ khí mới này sẽ xuất hiện trong viễn cảnh của lịch sử.”
Một thành viên trong Ban Khoa học, Tiến sĩ J. Robert Oppenheimer, nhà vật lý chịu trách nhiệm thiết kế và thử nghiệm quả bom, ước lượng rằng chỉ một quả bom nổ sẽ chắc chắn cướp đi sinh mạng của 20,000 người. Con số này gây khiến đảm Stimson. Mục tiêu, ông nói xen vào, sẽ là sự phá hủy về quân sự, chứ không phải sinh mạng của thường dân. Chẳng hạn, Kyoto, một trong những thành phố nằm trong danh sách mục tiêu, không nên bị thả bom; nó là một trung tâm văn hóa với những đền thờ được tôn kính. Kiến thức của ông về cố đô này đến một cách ngẫu nhiên; gần đây con trai của một người bạn ông, một sinh viên về Đông phương học, đã kể cho ông rất nhiều về những nét duyên dáng của Kyoto.
Đối với tâm trí của Tướng Marshal thì không có vấn đề gì, quả bom nên được sử dụng để nhanh chóng kết thúc cuộc chiến và cứu lấy sinh mạng của người Mỹ, nhưng ông không muốn dùng uy tín của bộ phận mình để gây áp lực cho ủy ban. Ông nói rằng ông hi vọng quả bom sẽ không phải thả xuống; vì việc này sẽ tiết lộ quá sớm cho người Xô viết thứ vũ khí mới mà người Mỹ sở hữu được và làm giảm đi hiệu quả răn đe trong thời hậu chiến.
Khi họ tạm ngừng họp để ăn trưa Tiến sĩ Arthurt Holly Compton, một nhà khoa học cố vấn khác, quay trái sang Stimson và hỏi liệu có thể sắp xếp một vụ minh họa phi quân sự để gây áp lực với người Nhật. Khả năng của giải pháp được đem ra bàn cãi trên bàn ăn. Nếu thông báo trước một nơi cô lập trên đất Nhật để quả bom được ném xuống, phi cơ chở bom có thể bi bắn hạ. Hơn nữa, nếu bom không nổ thì sao? Biết bao nhiêu việc có thể sai sót. Còn nếu việc thử nghiệm được tiến hành trên một vùng đất trung lập, các nhà lãnh đạo Nhật có thể cho đó là trò dàn dựng. Kết luận là quả bom nên được sử dụng càng sớm càng tốt “vào một mục tiêu nhằm minh chứng cho sức tàn phá khủng khiếp của nó” – mà không cảnh báo trước.
Ba nhà khoa học trong Ủy ban Lâm thời – Vannevar Bush, James B. Conant và Karl Compton – nhất trí nhưng một số nhà khoa học khác trong nhóm chế tạo bom bàng hoàng vì đề đạt của họ. Họ được cầm đầu bởi Tiến sĩ james Franck, một người Đức tị nạn và nhà vật lý đoạt giải Nobel. Ông và bảy nhà khoa học tiếng tăm khác gởi một báo cáo đến ủy ban:
. . . . . . Nếu Hoa Kỳ là quốc gia đầu tiên phóng thích một phương thức tàn phá bừa bãi mới cho nhân loại, Hoa Kỹ sẽ phải đánh mất sự ủng hộ rộng khắp trên toàn thế giới, làm tăng nguy cơ chạy đua vũ trang, ngăn trở cho
khả năng tiến tới sự thỏa thuận quốc tế về công cuộc kiểm soát tương lai của loại vũ khí này.
Những điều kiện thuận lợi nhiều hơn nữa cho sự thành tựu cuối cùng của một thỏa thuận như thế có thể được tạo ra nếu các quả bom nguyên tử trước tiên phải được phô diễn trước thế giới qua một vụ nổ có tính minh chứng trên một vùng không dân cư được chọn lựa một cách thích đáng.
Sau những ngày cuối tuần dài suy xét tại Phòng Thí nghiệm Khoa học Los Alamos ở New Mexico, Arthur Compton, Oppenheimer và hai thành viên khác của Ban Khoa học – Ernest Lawrence và Enrico Fermi – thảo ra bức thư hồi đáp của họ cho Báo cáo Franck. “Cõi lòng chúng tôi nặng chĩu,” Compton nhớ lại, “khi vào ngày 16/6 chúng tôi nộp báo cáo này cho Ủy ban Lâm Thời.”
. . . . . . Những ai tán thành giải pháp minh chứng thuần túy kỹ thuật sẽ muốn loại trừ việc sử dụng các vũ khí nguyên tử và sợ rằng nếu chúng ta dùng vũ khí ngay bây giờ những đàm phán tương lai sẽ gặp trở ngại. Những người khác nhấn mạnh đến cơ hội cứu vớt sinh mạng người Mỹ bằng việc sử dụng quân sự ngay lập tức và tin tưởng rằng việc sử dụng như thế sẽ cải thiện những triển vọng quốc tế, theo chiều hướng chúng liên quan đến việc ngăn ngừa chiến tranh hơn là việc loại bỏ vũ khí đặc biệt này.
Chúng tôi thấy mình đi gần hơn với những quan điểm thứ hai: chúng tôi không thấy giải pháp nào khác hơn có thể chấp nhận được là chỉ đạo việc sử dụng với mục đích quân sự *.
Tại Washington, Stimson và Phụ tá Bộ trưởng Chiến tranh, John J. McCloy. Đang chuẩn bị một cuộc họp quyết định với Ban Tham mưu Liên quân và Tổng thống để quyết định hoặc phong tỏa và oanh tạc Nhật Bản cho đến khi họ khuất phục hoặc đổ bộ trên các đảo chính. McCloy chống đối cả hai giải pháp. Hàng tuần liền ông và Grew đã thảo luận riêng về tương lai của Nhật Bản và đi đến kết luận nên cho nó cơ hội đầu hàng trong danh dự. McCloy hứa sẽ dùng ảnh hưởng của mình lên Stimson và giờ đây cho biết, “Chúng ta nên đi khám lại cái đầu mình đi nếu chúng ta không cân nhắc một giải pháp chính trị.” Nước Mỹ thống lĩnh không phận và hải phận và, ngoài ra, còn sở hữu bom nguyên tử. Nhật Bản nên được cho phép duy trì Nhật Hoàng trên cơ sở hiến pháp và cũng có quyền sử dụng nhưng không có quyền kiểm soát những nguyên liệu sống còn.
Tổng thống, McCloy tiếp tục nói, nên gởi đến Nhật Hoàng, hoặc chính phủ Suzuki, một thông điệp cá nhân phác họa đề nghị này, với lời đe dọa nếu đề nghị này không được chấp nhận Hoa Kỳ sẽ không có phương cách nào khác trừ phi sử dụng một vũ khí mới, bom nguyên tử, xuống Nhật bản. Một biện pháp như thể chắc chắn sẽ đưa đến sự kết thúc cuộc chiến mà không chịu thêm thương vong nào nữa, và nếu không, Hoa Kỳ sẽ ở trong tư thế hợp đạo lý hơn nếu phải sử dụng quả bom. Khi McCloy giải thích rõ ràng hình thức lẫn nội dung của đề nghị, Stimson hoàn toàn đồng ý cho rằng đó là một cách thức ngoại giao sắc sảo cần tiến hành và ông sẽ ủng hộ nó trong cuộc họp. Vào chiều chủ nhật, tuy nhiên, ông điện cho McCloy, “Jack,“ ông nói, “ngày mai tôi không thể dự họp được.” Ông bị một cơn đau nửa đầu mãn tính hành hạ. “Tôi sẽ sắp xếp với Nhà Trắng để cử anh đi thay thế tôi.”
Ngay trước 3 giờ30 thứ hai, 18/6, , McCloy đến phòng họp ở Nhà Trắng , tham mưu trưởng của Tổng thống, Đô Đốc Leahy, đã có mặt ở đó cùng với hai trong số các Tham mưu Trưởng Liên quân – King và Marshal– nhưng Arnold được Trung Tướng Ira C. Eaker đại diện. Sau đó Stimson, trông có vẻ hốc hác và đau đớn, bước vào. Ông đã cố lết ra khỏi giường.
* Trong một bài nói chuyện tại Đại học Notre Dame vào ngày 6/2/1967, Tiến sĩ Edward Teller tỏ ra hối tiếc về quyết định này: “Lẽ ra chúng ta có thể cho nổ quả bom trên bầu trời Tokyo ở một cao độ an toàn và vừa đủ để rung lắc các cửa sổ mà thôi. Lẽ ra chúng ta có thể thị uy theo một cách thức tuyệt vời là tài năng kỹ thuật của con người có thể chấm dứt một cuộc chiến thảm khốc nhất.”
Truman kêu gọi mọi người góp ý, bắt đầu với Marshall. Tham mưu Trưởng Quân đội nhấn mạnh là không có lựa chọn nào khác ngoài việc xâm chiếm các đảo chính. Cuộc đổ bộ khởi đầu lên đảo Kyushu vào
1/11, sẽ tập trung 766,700 quân. Tổn thất sẽ rất nặng nề, nhưng một mình không lực, ông nói, đơn giản là không đủ để chinh phục Nhận Bản. Nói thay Không Lực, Eaker khẳng định lời nhận định này; binh chủng không quân đã không thể khuất phục quân Đức. Đô Đốc King cũng ủng hộ Marshall.
Trước sự thất vọng của McCloy, Stimson gật đầu tán thành. Tuy nhiên, ông cũng đề nghị là một số giải pháp khác cần được xem xét. “Tôi tin chắc rằng có một tầng lớp dưới đông đảo ở Nhật Bản không tán thành cuộc chiến hiện nay nhưng ý kiến và ảnh hưởng đầy đủ của họ vẫn chưa được cảm nhận. . . Tôi cảm thấy cần làm một điều gì đó để khích động họ và phát huy bất kỳ ảnh hưởng nào họ có thể có trước khi việc giải quyết vấn đề của họ trở nên cần thiết.” Nhưng ông không nói gì về thông điệp gởi đến Nhật Hoàng mà ông đã ngõ ý với McCloy là mình sẽ đề nghị.
Truman quay sang Leahy. Đô đốc, cộc lốc như bao giờ, cực lực phản đối công thức Casablanca của Roosevelt. “Tôi không đồng ý với ai cho rằng trừ khi chúng ta đạt được việc đầu hàng vô điều kiện chúng ta là kẻ thất trận. Tôi không sợ bất kỳ mối đe dọa nào từ Nhật Bản trong tương lai trước mắt, cho dù chúng ta không thành công trong việc cưỡng bách họ đầu hàng vô điều kiện. Điều tôi sợ là việc chúng ta khăng khăng đòi họ đầu hàng vô điều kiện chỉ sẽ khiến họ thêm tuyệt vọng và do đó gia tăng số thương vong của chúng ta. Tôi không nghĩ điều này cần thiết chút nào.”
Truman không tin là công luận sẽ sẵn sàng chấp nhận nới lỏng yêu sách đầu hàng vô điều kiện. Về phần chiến dịch Kyushu – và ở đây McCloy nghĩ là ông có vẻ phần nào miễn cưỡng – ông nói rằng ông “hoàn toàn tin chắc là các Tham mưu Trưởng Liên quân nên tiến hành.” Nhưng họ không được xâm chiếm đảo chính Honshu mà không tham vấn ông. Ông cũng không muốn những vấn đề phát triển đến một mức độ mà “ông không có một giải pháp nào khác” trừ việc tán thành cuộc xâm chiếm.
Trong tình trạng như thế, cuộc họp hiển nhiên là đã kết thúc và những người tham dự, trong một tâm trạng đè nén, rục rịch đứng lên. Nhưng Tổng thống đã bảo họ nán lại. “Không ai được rời phòng này mà không cho một ý kiến rõ ràng. McCloy, nảy giờ anh không nói gì cả. Quan điểm của anh thế nào?”
McCloy nhìn sang Stimson dò hỏi. Stimson gật đầu. McCloy nhắc lại những gì mình đã trình bày với Bộ trưởng Chiến tranh, kể cả câu “Chúng ta nên đi khám lại cái đầu mình đi nếu chúng ta không cân nhắc một giải pháp chính trị.” Đô đốc King trố mắt nhìn ông, nhưng Truman rất ấn tượng. “Tốt, đây chính là điều tôi muốn được xem xét,” ông nói. “Trình bày rõ thông điệp mà anh muốn chúng ta nên gởi đi.”
McCloy đọc lại thông điệp mà mình soạn gởi Nhật Hoàng hứa hẹn chế độ quân chủ và kết thúc là lời đe dọa sử dụng bom nguyên tử. Hai từ cuối cùng làm mọi người giật nảy mình. McCloy “cảm nhận được các thính giả của mình ớn lạnh cả xương sống. Mọi người trong phòng đều hay biết về quả bom, nhưng đó là một bí mật hiếm khi được đề cập đến trừ ở chốn riêng tư.
Truman nói rằng việc sử dụng bom nguyên tử là một “khả năng tốt,” như thể chủ đề chưa từng được mang ra thảo luận tại một buổi họp chính thức mà ông tham dự. Ông bảo mọi người nán lại; đó là lúc mà vấn đề được đặt lên bàn làm việc. Cuộc nói chuyện tập trung vào tính thực tiễn của chính quả bom và liệu người Nhật có nên được báo trước khi sử dụng nó. Mặc dù phần lớn thảo luận liên quan đến tính không thể dự đoán được của quả bom – “Làm sao chúng ta biết được nó có nổ không? . . . “Đó sẽ là một thảm bại nếu nó không hoạt động“ – mọi người hình như đều nhìn nhận là nó sẽ được thả xuống nếu cần thiết. Dù không có phát biểu chính thức nào, quyết định sử dụng quả bom, về cơ bản, đã được khẳng định. Truman bảo McCloy “hãy suy nghĩ thêm vể thông điệp nhưng đừng đề cập về quả bom vào lúc này.”
Tình táo hẳng sau phút cuối cùng của buổi họp, Stimson rời phòng họp với quyết tâm hẳn lên khi thấy rằng Nhật Bản được trao cho cơ hội hiện thực để đầu hàng. Với sự giúp đỡ của Grew và Forrestal ông bắt đầu sắp xếp tất cả những lý lẽ ủng hộ việc cảnh báo Nhật Bản trước khi bom được sử dụng. Đồng thời McCloy, Dooman và Ballantine bắt đầu soạn thảo văn bản về lời tuyên bố với nhân dân Nhật Bản về các điều khoản đầu hàng, được đồng ban hành bởi Mỹ, Anh và Trung Hoa. Đoạn 12 chứa đựng một ngoại lệ duy nhất đối với việc đầu hàng vô điều kiện và là ngoại lệ sống còn nhất đối với nhân dân Nhật bản – khả năng duy trì sự tại vị của Nhật Hoàng.
Các lực lượng chiếm đóng của Đồng minh sẽ rút lui khỏi Nhật Bản ngay sau khi những mục tiêu này đã được hoàn thành và đã được thiết lập ở đó thể theo nguyện vọng được thể hiện một cách tự do của nhân dân Nhật Bản một chính phủ có trách nhiệm và hiếu hòa. Điều này có thể bao gồm một nền quân chủ hợp hiến dưới triều đại hiện thời nếu những quốc gia yêu chuộng hòa bình có thể được thuyết phục về lòng quyết tâm thành khẩn của một chính phủ muốn theo đuổi những chính sách hòa bình làm vô hiệu hóa được chủ nghĩa quân phiệt gây hấn trong tương lai ở Nhật Bản.
Vào sáng thứ hai, ngày 2/7, Truman nói chung tán thành bảng tuyên bố, nhưng James F. Byrnes, tân Ngoại trưởng, cật vấn về đoan 12. Cordell Hull cũng vậy. Nó nghe có vẻ “quá đáng như một sự nhân nhượng,” ông ta khuyên Byrnes. “Nhật Hoàng và thành phần lãnh đạo phải bị tước đoạt mọi đặc quyền và đứng ngang hàng trước pháp luật như mọi người khác.” Công luận cũng theo quan điểm này. Trong cuộc thăm dò gần đây của viện Gallup một phần ba đồng ý hành hình Nhật Hoàng Hirohito và 37 phần trăm muốn đưa ra xét xử, bỏ tù chung thân hoặc hành hình. Chỉ 7 phần trăm tin rằng nên để yên ông ta hoặc sử dụng như một vị vua bù nhìn.
Trên đường đến Potsdam trên tàu Augusta, Tổng thống và Byrnes đưa ra quyết định cuối cùng là loại bỏ câu gây tranh cãi. Đồng thời Truman tự mình xem xét lại quyết định có nên sử dụng bom hay không. Giữa các lãnh đạo của phe Đồng minh, trong đó có Churchill, đều có sự đồng thuận về việc thả bom một khi đã sẵn sàng. Theo một nghĩa nào đó quyết định của Truman là không thể tránh khỏi. “Theo ý kiến của tôi,” Tướng Leslie Groves, người giám sát Dự án Manhattan, sau này có viết, “quyết định của ông ta là một quyết định phi-can thiệp-về cơ bản, một quyết định không làm xáo trộn những kế hoạch đang tồn tại.” Dù sao thì phải có người bấm nút và người đó là Tổng thống, và Truman giờ đây phải nhận lấy trách nhiệm trong vòng bí mật.
Sau hết, nó đơn thuần là một vũ khí quân sự, ông lập luận, và nó phải được sử dụng. *
*Trả lời một câu hỏi do tác giả đặt ra trong cuộc phỏng vấn vào năm 1958 là liệu có phải quyết định chỉ đến sau một cuộc truy vấn lương tâm gay go hay không, Tổng thống Truman trả lời, “Không có đâu, tôi chỉ làm” – ông búng ngón tay- “như vầy! “Một năm sau, vào ngày 28/4/1959, ông nói tại một buổi sêmina ở Đại học Georgia, “Bom nguyên tử không phải là ‘một quyết định lớn lao’. Nó đã được sử dụng trong cuộc chiến, và để cho các bạn thêm thông tin, có nhiều người bị giết bởi bom lửa tại Tokyo hơn bị giết do bom nguyên tử gây ra. Nó đơn giản chỉ là một vũ khí dữ dội khác trong kho vũ khí của công chính. Việc ném hai quả bom đã kết thúc cuộc chiến, cứu vớt hàng triệu sinh mạng. Nó cũng giống như pháo binh ở phía chúng ta. Napoleon nói rằng chiến thắng luôn đứng về phía pháo binh. Nó thuần túy là một quyết định quân sự để kết thúc cuộc chiến.”
Vào cuối buổi sêmina, một sinh viên lần nữa hỏi vặn ông. “Đó không hề là một quyết định mà anh phải lo lắng,” Tổng thống trả đũa lại. “Nó chỉ là bên nào có khẩu pháo lớn hơn thì chiến thắng trong cuộc chiến và đó là vì điều ấy mà nó được sử dụng. Không có gì khác hơn là một hỏa lực.”
2
Địa điểm hiện thời của cuộc họp là một thị trấn hấp dẫn bao quanh bởi những rừng cây tại vùng ven Potsdam. Gần như hoàn toàn không bị ảnh hưởng bởi chiến tranh, Babelsberg đã từng là một nơi nghỉ dưỡng mùa hè và sân thể thao của những người trong ngành điện ảnh Đức. Nó khiến cho Thiếu tướng John
Deane, trưởng Phái đoàn Quân sự Mỹ tại Moscow, nhớ đến một thành phố ma. Vào chủ nhật, 15/7, Truman được sắp xếp ở trong một ngôi nhà quét vôi ba tầng, từng là nhà của một nhà sản xuất phim ảnh giờ đang có mặt trong tiểu đoàn khổ sai Nga. Tọa lạc trên bờ hồ Griebnitz, “Nhà Trắng Nhỏ”, như nó được gọi, được bao bọc bởi những lùm cây và một ngôi vườn duyên dáng, cũng như ngôi nhà, có vẻ đang trong tình trạng bị bỏ phế. Churchill được bố trí chỗ ở gần đó trong chốn tráng lệ đã tàn lụi. Stalin ở cách đó một dặm.
Cuộc họp, được ấn định bắt đầu vào thứ hai, 16/7, được dời lại qua ngày hôm sau vì Stalin lên một cơn đau tim nhẹ. Câu hỏi về quả bom vẫn còn đó – liệu nó có nổ không? – được trả lời vào chiều thứ hai vào lúc 7giờ 30 qua một bức điện từ Washington gởi đến Stimson:
ĐƯỢC GIẢI PHẪU VÀO SÁNG NAY, VIỆC CHẨN ĐOÁN VẪN CHƯA HOÀN TẤT NHƯNG KẾT QUẢ HÌNH NHƯ THỎA ĐÁNG VÀ VƯỢT QUÁ SỰ MONG ĐỢI. BÁO CHÍ ĐỊA PHƯƠNG ĐƯỢC LOAN TIN VÌ MỐI QUAN TÂM VƯƠN XA. TIẾN SĨ GROVES HÀI LÒNG. ÔNG TRỞ VỀ (Washington). NGÀY MAI SẼ ĐƯA TIN TIẾP CHO ANH.
Quả bom nguyên tử đã nổ thành công tại Alamogordo, New Mexico. Groves và tùy viên của ông, Chuẩn tướng Thomas Farrel, đã quan sát vụ nổ từ khoảng cách mười ngàn ya (hơn 900 mét). Khiếp sợ trước vụ nổ khủng khiếp Farrel kêu lên: “Chiến tranh qua rồi!” “Vâng, nó qua rồi!” Groves nói, ngay sau khi chúng ta bỏ một hay hai quả bom lên nước Nhật!”
Stimson đánh điện đáp lại: TÔI XIN GỞI LỜI CHÚC MỪNG ĐẾN TIẾN SĨ VÀ CHUYÊN VIÊN CỦA MÌNH. Thời điểm không thể nào tốt hơn đối với Tổng thống. Trưa hôm sau Tổng Tư Lệnh Stalin (ông vừa được phong chức mới) đến Nhà Trắng Nhỏ với Molotov và thông dịch viên của ông, Pavlov.
Stalin tán gẫu một cách hòa nhã một vài phút với Truman và Byrnes, rồi đề cập đến chủ đề hàng đầu trong tâm trí của Tổng thống: cuộc chiến Thái Bình Dương. Ông ta bật mí rằng người Nhật yêu cầu ông làm trung gian hòa bình nhưng ông vẫn chưa có câu trả lời xác định, vì họ chưa sẵn sàng chấp nhận đầu hàng vô điều kiện. Cả Truman và Byrnes đều biết về mọi chi tiết của vụ đề nghị của Nhật Bản-thông điệp bay qua lại giữa Togo và Sato đã bị chặn lại và giải mã-nhưng họ giả vờ như mới được nghe lần đầu. Dù không được nhắc tới, Stalin thông báo rằng Hồng quân sẽ sẵn sàng sẽ tấn công vào đầu tháng tám. Trở ngại duy nhất là giải quyết những vấn đề linh tinh với Tưởng Giới Thạch, như việc chuyển nhượng Dairen.
Dairen nên được duy trì như một cảng mở, Truman nói. Nếu chúng tôi kiểm soát được nó, Stalin trả lời trấn an, nó sẽ như thế. Vào giờ ăn trưa Stalin tỏ ra cởi mở. Ông khen rượu vang ngon. Đó là một lời bình phẩm đẹp lòng: khi người bồi bàn giật chiếc khăn khỏi chai rượu, một nhãn hiệu California xuất hiện.
Phiên họp đầy đủ đầu tiên khai mạc vào 10:05 tại Cung điện Cecilienhof, nơi cư ngụ một thời của Thái Tử Wilheim và gần đây được sử dụng làm bệnh viện quân đội. Được trang bị xinh đẹp, dinh cơ bằng đá nâu hai tầng thênh thang trên hồ khiến Tướng Deane nhớ đến một động sản ở Newport hoặc Grosse Pointe.
Các thành viên dự họp an tọa quanh một chiếc bàn gỗ xồi bề thế trong sảnh tiếp khách của cung điện được trang trí bằng cờ của ba quốc gia. Theo đề nghị của Stalin, Truman (thông dịch viên của Churchill nghĩ ông trông như một “vị chủ tịch lễ phép nhưng cương quyết của một Chủ tịch Hội đồng Quản trị”) ngồi vào ghế chủ tịch. Những thảo luận đầu tiên tập trung vào những vấn đề hậu chiến của Âu châu. Sau đó tại nơi ở của mình Churchill giãi bày với Lord Moran, “Stalin rất cởi mở nhưng ông ta mở miệng rộng quá.” Ông nhận xét là vị Tổng Tư Lệnh đã đổi ra hút xì gà, có lẽ sau khi qua một cơn đau tim. “Ông ta nói ông ta thích hút xì gà hơn là thuốc điếu. Nếu ông bị chụp hình khi hút xì gà với tôi mọi người sẽ cho rằng chính là do ảnh hưởng của tôi. Tôi đã nói như thế với ông ta.” Moran hỏi vị Thủ tướng ông có nghĩ là Truman có thực tài không. “Tôi cho rằng ông ta có thực tài. Với mọi khía cạnh nào thì ông ta cũng là người vô cùng cương quyết. Ông ta không đến xỉa gì đến mặt đất mềm mại, ông ta dựng cả bàn chân vững chắc lên đó.” Để minh họa ông dậm cả hai bàn chân trần mạnh mẽ lên sàn nhà.
Một vài giờ sau Stimson lại nhận thêm một bản báo cáo từ Ủy ban Lâm thời
BÁC SĨ ĐÃ VỪA TRỞ VỀ RẤT PHẤN KHỞI VÀ TIN TƯỞNG VÌ THẰNG NHỎ CŨNG TO KHỎE NHƯ ANH LỚN NÓ. ÁNH SÁNG TỪ MẮT NÓ CÓ THỂ NHÌN RÕ TỪ ĐÂY TỚI HIGHHOLD [Nhà của Stimson trên Long Island] VÀ TÔI CÓ THỂ NGHE TIẾNG HÉT CỦA NÓ TỪ ĐÂY ĐẾN NÔNG TRẠI CỦA TÔI.
Viên sĩ quan giải mã bức mật điện ngộ nghĩnh này tưởng rằng vị tướng Stimson 77 tuổi vừa lên chức bố và thắc mắc không biết cuộc họp có đình hoãn một ngày để ăn mừng hay không. “Thằng nhỏ” tất nhiên là quả bom plutonium vừa mới nổ tại New Mexico và “anh lớn của nó” chính là quả bom uranium chưa được thử và sẽ thả xuống nước Nhật.
Thành công ở Alamogordo làm hàng chục các khoa học gia đã chế tạo ra nó thêm rầu rĩ. Tiến sĩ Leo Szilard (như Tiến sĩ Franck, một người tị nạn Đức Quốc Xã) gởi một thư thỉnh cầu đến Ủy ban Lâm thời do chính ông soan thảo và được 57 nhà khoa học Chicago ký tên vào. Nó khẩn khoản xin cảnh báo trước một cách thích hợp cho nhân dân Nhật và tạo cơ hội cho họ đầu hàng. *
Tại buổi ăn trưa vào thứ tư, Truman đánh tiếng với Churchill về vấn đề báo tin cho người Nga biết về quả bom. Churchill đề nghị nếu Truman “quyết định phải báo,” ông nên giải thích là ông đang chờ việc thử nghiệm có thành công không. Rồi thì thế nào ông cũng phải trả lời câu hỏi, Tại sao ngài không báo với tôi trước? Churchill cũng góp lời khuyên khác. Cụm từ “đầu hàng vô điều kiện” làm ông bối rối; nó có thể dẫn đến sự tổn thất to lớn sinh mạng người Mỹ. Bộ không thể diễn tả nó dưới một hình thức khác để các Đồng minh đạt được “tất cả những tất yếu cho hòa bình và an ninh, mà vẫn để lại cho giới quân sự Nhật một ít danh dự và cho đất nước Nhật một đảm bảo sống còn, sau khi họ đã tuân thủ tất cả những biện pháp an toàn cho người chiếm đóng.”
“Tôi không nghĩ bọn Nhật còn lại danh dự gì đâu sau trận Trân Châu Cảng,” Truman bẽ lại. “Nói cho cùng họ có điều gì đó mà họ sẵn sàng đối mặt với cái chết không tránh khỏi với một số lượng rất lớn, và điều này có thể không quá quan trọng đối với chúng ta cũng như đối với họ.”
Chiều đó Truman gặp Stalin. Tổng thống không đề cập đến quả bom, nhưng Stalin có một mật tin để tiết lộ mà Trumann đã biết. Vị Generalissimo trao cho ông thông điệp mật yêu cầu Ông hoàng Konoye được đón tiếp với tư cách đặc sứ hòa bình. Stalin tự hỏi liệu ông ta có nên phớt lờ nó hay không; Liên bang Xô viết “rốt cuộc” cũng sẽ tuyên chiến với Nhật Bản.
* Szilard còn đi xa hơn khi trong bản nháp ban đầu của thỉnh nguyện thư, kêu gọi cấm triệt việc sử dụng bom nguyên tử: “Một khi chúng được giới thiệu như là một công cụ của chiến tranh thật khó không bị cám dỗ trong việc sử dụng chúng. . . Do đó một quốc gia đã đặt ra tiền lệ sử dụng sức mạnh được giải phóng mới mẻ này của tự nhiên vì mục đích hủy diệt này phải chịu trách nhiệm là đã mở cánh cửa đến một kỷ nguyên tàn phá với mức độ không thể tưởng tượng được.”
Một ít đồng nghiệp của ông ký chứng thực bản nháp này trên cơ sở là nếu quả bom không được sử dụng họ sẽ bị kết tội vì cho phép chiến tranh tiếp diễn và sự tàn sát cứ nối tiếp. Những người khác không hoàn toàn đồng ý với Szilard và thảo ra thỉnh nguyện thư của riêng mình. Một bản như thế kết luận: “Tóm lại, chúng ta có phải để cho máu của dân Mỹ tiếp tục đổ xuống khi chúng ta sở hữu một phương tiện đi đến chiến thắng nhanh chóng không? Không! Nếu chúng ta có thể cứu vớt thậm chí một nhóm nhỏ mạng sống người Mỹ, thì cũng phải sử dụng vũ khí này-ngay bây giờ!”
Một cách ngây thơ Truman bảo ông ta cứ làm những gì ông cho là tốt nhất. Stalin đề nghị ông ta sẽ “ru ngủ” người Nhật: thế nào nếu ông ta bảo với chính phủ Nhật là thông điệp đó quá mơ hồ về chuyến thăm của Konoye nên ông ta không thể đưa ra câu trả lời cụ thể?
Và thế là tùy viên của Molotov ở Moscow, Alexander Lozovsky, sau khi bắt Đại sứ Sato đợi cả năm ngày, cuối cùng gởi cho y một mật điện: Đề nghị của Nhật Hoàng quá mơ hồ và sứ mệnh của Ông Hoàng Konoye không rõ ràng nên chính phủ của ông cảm thấy không thể trả lời dứt khoát cho bất kỳ câu hỏi nào. Sato gởi tiếp báo cáo về Tokyo với lời khẩn cầu được chấp nhận hòa bình trên bất kỳ điều kiện nào miễn là Nhật Hoàng còn tại vị trên ngai vàng:
TÔI BIẾT RẰNG SẼ LÀ MỘT TRỌNG TỘI KHI DÁM ĐƯA RA NHỮNG PHÁT BIỂU NHƯ THẾ, DÙ BIẾT CHÚNG TRÁI VỚI NHỮNG QUAN ĐIỂM CỦA CHÍNH PHỦ. TUY NHIÊN, LÝ DO TÔI DÁM LÀM VẬY LÀ VÌ TÔI TIN TƯỞNG RẰNG CHÍNH SÁCH DUY NHẤT ĐỂ QUỐC GIA CHÚNG TA SỐNG CÒN PHẢI TRÙNG KHỚP VỚI NHỮNG Ý TƯỞNG NÀY.
Nhưng các cấp trên của ông ở nhà vẫn chưa sẵn sàng đi xa đến thế, và nếu có, thì trước tiên người Mỹ phải đưa ra những đảm bảo liên quan đến Nhật Hoàng.
Tại Thụy Sĩ, tuy nhiên, Per Jacobsson tỏ ra cương quyết hơn bao giờ để mở lại kênh thương thuyết. Cuối cùng ông đã khắc phục thành công sự miễn cưỡng của Tướng Okamoto để tin cậy vào những lời hứa hẹn nào của người Mỹ không phải trên văn tự – bằng lối ngụy biện: người Mỹ đã đi ngược với những lời hứa trên giấy tờ sau Thế chiến I; giờ đây họ đang khước từ việc hứa hẹn trên giấy vì họ dự tính sẽ giữ lời. Điều này gợi nhớ đến lô-gic của Đông phương và Tướng Okamoto đồng ý điện về Tokyo một “đề nghị mạnh mẽ” nhằm chấm dứt chiến tranh.
Như một kết quả của hành động tích cực của Okamoto Allem Dulles bay đến Potsdam để bước đầu báo cáo với Stimson về việc thương lượng của người Nhật. Dulles không mong một đáp ứng tức thì, và cũng không nhận được nó. Ông ta hài lòng, dù sao đi nữa, là khả năng rất thực về cuộc thương thảo qua Okamoto đã được đến “những khu vực quyền hành của Hoa Kỳ một cách đúng lúc và tôi nghĩ, một cách hiệu quả.” Nhưng các nhà lãnh đạo Mỹ, giờ đang thủ đắc vũ khí tối thượng, đã cương quyết chỉ chấp nhận không gì ngoài việc đầu hàng vô điều kiện, và không còn khả năng xem xét những thỏa thuận thậm chí như những người Nhật có đầu óc hiếu hòa nhất quan sát chúng.
Vào ngày 21/7 Stimson đọc lớn cho Truman và Byrnes một báo cáo chi tiết từ những nhân chứng mô tả cảnh tượng đáng sợ ở Alamogordo. Cả hai đều “vô cùng hài lòng” và Truman thì “phấn khích cùng tột.” Sáng hôm sau Stimson mang báo cáo đến cho Churchill, và ông ta vô cùng hớn hở. Thủ tướng cúi người về phía trước. “Stimson, thuốc súng là loại gì đó?” ông vừa hỏi vừa vung vẩy điếu xì gà. “Tầm thường. Loại điện gì? Vô nghĩa. Quả bom nguyên tử này là Chúa Phục sinh trong cơn thịnh nộ.” Bổng ông nhớ lại điều gì đó vui thích. “Giờ thì tôi biết điều gì xảy ra với Truman ngày hôm qua. Vậy mà lúc đó tôi đã không hiểu ra. Khi ông ta trở lại buổi họp sau khi nghe báo cáo này ông ta là một con người đổi khác. Ông dạy người Nga thế này thế kia và gần như là làm chủ toàn phiên họp.” Sự phấn khích của ông vượt quá niềm vui thành tựu khoa học. Vậy là không còn cần phải mở cuộc xâm chiếm Nhật Bản. “Giờ toàn bộ bức tranh đầy ác mộng đã tan biến,” sau này ông viết. “Thay vào đó là cảnh tượng-đẹp và sáng-của sự kết thúc toàn bộ cuộc chiến trong một hoặc hai cú sốc dữ dội. . . Hơn nữa, chúng ta không cần đến người Nga.”
Đối với Churchill và Truman, quyết định thả bom đã được đưa ra. Nhưng ba nhà quân sự Mỹ vẫn tiếp tục thảo luận các biện pháp. Vượt qua sự dè dặt có tính đạo lý, Đô đốc Leahy ngờ rằng các nhà khoa học và những người trong chương trình muốn sử dụng quả bom “vì số tiền quá lớn đã được tiêu tốn cho dự án.” Tướng Arnold cam đoan là chỉ cần bỏ bom qui ước cũng đủ kết thúc cuộc chiến, ngay cả khi Marshall khăng khăng là sử dụng quả bom hoặc tiến hành cuộc xâm chiếm tốn kém. Tướng Dwighjt Eisenhower cũng chống đối quyết liệt kết luận của Marshall. Ông bảo riêng với Stimson là Nhật Bản đã thua trận. Bỏ quả bom đó là hoàn toàn không cần thiết.” Hơn nữa, người Mỹ cần tránh khiêu khích sự kết án của thế giới bằng cách sử dụng một vũ khí mà, theo ý kiến ông, “không còn là biện pháp bắt buộc để cứu sinh mạng lính Mỹ.”
Vào tối ngày 23/7, Churchill là chủ của buổi chiêu đãi. Nhiều vụ nâng cốc uống mừng và diễn văn bị Ban nhạc Không lực Hoàng gia lấn át. Tinh quái, Churchill thì thào với Leahy là đây cách ông trả đũa khi bị “làm buồn chán đến phát khóc” bởi thứ âm nhạc cổ diển tại buổi chiêu đãi của Truman và Stalin.
Tổng thống nói ông hi vọng mình đã công tâm tại cuộc hội nghị và sẽ nỗ lực để được như thế trong tương lai. Ngay lập tức Stalin đứng dậy. “Trung thực là trang sức của bậc nam nhi,” ông nói và dài dòng chúc tụng Truman. King dựa người qua Mora và thì thầm, “Nhìn Tổng thống kìa. Tất cả việc này đều mới mẻ với ông ta, nhưng ông ta có thể đảm đương được. Ông là người Mỹ điển hình hơn cả Roosevelt, và ông ta sẽ làm tốt công việc, không chỉ cho Hoa Kỳ mà còn cho toàn thế giới.”
TIệc uống mừng càng lúc càng dạt dào. Churchill xưng tụng nhà lãnh đạo Xô viết là Stalin Vĩ đại, và bù lại Stalin làm cử tọa giật mình với câu “Hẹn gặp gỡ lần tới tại Tokyo!” Sau bữa tráng miệng Stalin bắt đầu đi vòng quanh bàn tiệc lớn thu thập thủ bút trên tờ thực đơn của ông ta.
Xét về giao tế buổi tiệc chiêu đãi là một thành công hoàn toàn, nhưng sáng hôm sau lại sống lại những mối hoài nghi về sự thống nhất tiếp tục của Ba Ông Lớn. Field-Marshal Brooke, giờ đã là Lord Alanbrooke, ghi chú mấy dòng u ám trong nhật ký của mình: “Một sự kiện nổi bật rõ ràng hơn hết là không có gì được dàn xếp!” Ba Ông Lớn không còn kéo lại gần nhau bằng mối ràng buộc của một lý tưởng chung.
Truman bắt đầu buổi sáng với các tin tức cho biết quả bom sẽ sẵn sàng vào khoảng 4-5 tháng tám, chắc chắn không trễ hơn 10/8. Trước buổi ăn trưa ông nhận được báo cáo cuối cùng của các Tham mưu Trưởng Phối hợp, yêu cầu Nga tham gia cuộc chiến càng sớm càng tốt để mau chóng dẫn đến việc đầu hàng sớm nhất của Nhật Bản. Kết luận này phản ánh thái độ bảo thủ của họ về thứ vũ khí chưa được thử nghiệm. Ngoại trưởng Byrnes, tuy nhiên, không hề nghi ngại. Như Churchill, ông cho rằng quả bom là một phương thức để kết thúc cuộc chiến. Nó khiến sự tham gia của Nga, vốn chắc chắn sẽ gây thêm rắc rối cho những dàn xếp hậu chiến, là không cần thiết. Vào buổi ăn trưa ông thuyết phục được Truman đồng ý là khi loan báo cho Stalin biết về quả bom, ông sẽ loan báo một cách bất chợt như không hề có chủ đích. Nếu khác đi thì vị Tổng Tư Lệnh có thể nhận ra nội dung đầy đủ của nó và chuyển quân vào Mãn châu chống lại quân Nhật trước thời hạn ông ta đã hứa – “đầu tháng tám.” *
Sau khi phiên họp chiều đó tạm dừng, Truman kéo Stalin ra một bên và nói ra một cách thản nhiên, không sử dụng từ “hạt nhân” hay “nguyên tử”, rằng người Mỹ có “một vũ khí mới có sức tàn phá bất thường.”
Và cũng thản nhiên không kém Stalin đáp lại là ông rất vui khi nghe được tin này và hi vọng người Mỹ sẽ “sử dụng nó hiệu quả để chống lại bọn Nhật.” *
* Trong vòng hai giờ các Tham mưu Trưởng Phối hợp sẽ nghe Tướng Alexei E. Antonov, Tham mưu Trưởng Hồng Quân, thông báo rằng “Quân đội Xô viết giờ đang tập trung ở vùng Viễn Đông và sẽ sẵn sàng bắt đầu chiến dịch chống quân Nhật vào nửa cuối tháng tám. Tuy nhiên, thời điểm thực sự còn tùy thuộc vào kết quả cuộc hội đàm với các đại biểu Trung Quốc hiện thời vẫn chưa kết thúc.”
Churchill, người chia sẻ với ý kiến của Byrnes muốn tách Nga ra khỏi Á châu, rụt rè tiến đến Truman. “Việc đó thế nào?” ông hỏi một cách bí ẩn.
“Ông ta không hỏi gì cả.”
Trong vòng 24 giờ lệnh vận hành thả quả bom nguyên tử đầu tiên đang trên đường đến Tướng Carl A. Spaatz, tư lệnh mới của Không lực Chiến lược:
Nhóm Hổn hợp 509, Không lực thứ 20 sẽ giao quả bom đặc biệt đầu tiên ngay khi thời tiết cho phép bom được thả xuống bằng mắt sau ngày 3 tháng 8 năm 1945 vào một trong các mục tiêu: Hiroshima, Kokura, Niigata và Nagasaki. Để mang theo nhân viên khoa học và quân sự từ Bộ Chiến tranh nhằm quan sát và ghi chép về những hiệu quả của vụ nổ bom, phải có thêm phi cơ đồng hành cùng máy bay chở bom. Các phi cơ quan sát sẽ duy trì vị trí cách điểm va chạm của quả bom vài dặm. . .
Một ngày sau đó tuần dương hạm trọng tải nặng Indianapolis bỏ neo cách bờ biển đảo Tinian trong Marianas một ngàn mét. Nhiều tàu nhỏ bu quanh con tàu chiến, và các sĩ quan cao cấp thuộc mọi ban ngành leo lên boong tàu dể theo dõi việc bốc dỡ một hàng hóa tối mật, một ống kim loại khoảng 18 in-xơ đường kính và cao 2 bộ – trái tim của quả bom nguyên tử đầu tiên. Nó cân nặng vài trăm cân và chứa U-235, một chất dẫn suất của uranium, bọc bằng chì. Tình huống trọng đại bị làm hỏng do một tính toán sai lầm nhỏ nhặt. Dây kéo tời dùng hạ thấp ống kim loại xuống chiếc tàu đổ bộ ngắn hơn 6 bộ, khiến các binh sĩ cười chế nhạo các thủy thủ. Nhưng rồi cuối cùng công việc tế nhị cũng hoàn tất và U-235 đến bờ biển bình yên. Trách nhiệm nghiêm trọng của Indianapolis đã xong. **
Vào 25/7 đảng Lao động thách thức cương vị lãnh đạo của Churchill tại cuộc đầu phiếu lần đầu tiên kề từ lúc chiến tranh bắt đầu. Churchill bay về nhà, và mặc dù vẫn còn tin tưởng đảng Bảo thủ của mình sẽ chiếm đa số có thực trong cuộc bầu cử, ông mang theo bên mình một linh cảm không tốt. “Tôi mơ thấy mình đã chết,” ông bảo với Moran. “Tôi ngồi-giấc mơ thật sống động-thi thể của tôi nằm trên bàn bên dưới tấm khăn trải bàn màu trắng trong căn phòng trống không của mình. Tôi nhận ra bàn chân trái của mình ló ra từ dưới tấm khăn trải bàn. Trông như thật.” Sau đó ông thêm, “Có lẽ đây là lúc kết thúc.” Ông lên giường ngủ vẫn còn tin tưởng vào chiến thắng nhưng tỉnh giấc “với một cú đâm đau nhói.” Thình lình ông bổng tin chắc là mình sẽ bị đánh bại và nghĩ: “Quyền hành dể tạo hình cho tương lai không còn nằm trong tay tôi nữa. Kiến thức và trải nghiệm mà tôi đã thu thập được, uy tín và thiện chí mà tôi đã gặt hái được trong nhiều xứ sở, tất cả rồi sẽ biến mất.
Quả bom đang ở Tinian, các lệnh sử dụng đảo này đều bị cắt đứt. Giờ tất cả việc còn lại là gởi đi cảnh báo cuối cùng cho Nhật Bản, Tuyên bố Potsdam ***. Vào ngày Churchill thất cử, Tổng thống Truman cho Phòng Tin tức Chiến tranh ở Washington phát đi thông điệp công khai đến Nhật Bản. Nó đe dọa “sự tàn phá khủng khiếp đất nước Nhật Bản” trừ khi Nhật chịu đầu hàng vô điều kiện, nhưng không đề cập đến quả bom
nguyên tử; cũng không hề chứa đoạn văn về sự duy trì Nhật Hoàng. Nó giới hạn nền quân chủ Nhật Bản nằm trên bốn đảo chính, nhưng có hứa hẹn là nhân dân Nhật sẽ không “bị nô lệ như một chủng tộc hoặc bị tàn phá như một quốc gia” và sẽ được phép sử dụng tài nguyên. Hơn nữa, lực lượng chiếm đóng sẽ rút đi ngay lập tức ngay khi trật tự mới được thiết lập và có bằng chứng thuyết phục là các khả năng gây chiến của Nhật Bản đều bị hủy diệt.
* Vào năm 1946 Alexander Werth, thông tín viên chiến tranh ở Liên bang Xô viết cho Sunday Times ở London, hỏi Molotov không biết người Nga có được thông báo về quả bom tại hội nghị Potsdam hay không. Molotov giật mình, suy nghĩ một lúc rồi đáp: “Đó là một đề tài tế nhị, và cậu trả lời cho câu hỏi của anh là cả Có và Không. Chúng tôi được báo về một ‘siêu bom’, về một quả bom mà ‘cái tương tự như thế chưa hề được nhìn thấy’; nhưng từ nguyên tử không được dùng đến’”.
** Không đầy bốn ngày sau đó tàu Indianapolis bị bắn trúng ba ngư lôi phóng ra từ tàu ngầm I-58 do Trung úy Mochitsura Hashimoto chỉ huy. Nó chìm sau 12 phút. Không có phao cứu sinh và ít bè cứu sinh. Thật khó tin, tàu Indianapolis không được nghe thấy gần như đến bốn ngày và kết quả chỉ có 316 trong số thủy thủ đoàn 1,196 được cứu sống. Đó là thảm họa trên biển gây tranh cãi nhất trong lịch sử hải quân Hoa Kỳ.
Trung Hoa và Anh đã tán thành tuyên bố, nhưng đến đêm người Nga mới được nhận được bảng tuyên bố. Có thể hiểu được họ ngạc nhiên và bực tức. Ngay lập tức Molotov gọi điện yêu cầu việc phát đi bảng tuyên bố hoãn lại một ít ngày. Quá trễ, Byrnes trả lời rất tiếc, nó đã được phát ra. Ông vội vàng nói thêm, “Tôi nghĩ rằng việc tham vấn với Liên bang Xô viết về tài liệu ấy là không thích hợp vì chính phủ của ngài không lâm chiến với Nhật Bản.
Các máy thu của Nhật bắt được sóng phát thanh của lời tuyên bố vào buổi sáng 27/7, giờ Tokyo. Phản ứng đầu tiên của Togo là “hiển nhiên đó không phải là lệnh đầu hàng vô điều kiện.” Có lẽ Đồng minh giờ đã biết được bản thân Nhật Hoàng là mong muốn hòa bình nên họ mới dịu giọng như vậy. Tất nhiên, cũng có một số điều mơ hồ hiển nhiên là cần phải bước vào thương thảo với Đồng minh để làm rõ và “duyệt xét lại – thậm chí dù là điều nhỏ nhặt-những điểm bất lợi trong bảng tuyên bố.” Ông ta báo cáo ngay lập tức lên Nhật Hoàng thúc giục tối hậu thư “nên được xử lý với sự thận trọng cao nhất, ở quốc nội cũng như quốc ngoại. Ông đặc biệt lo lắng điều gì có thể xảy ra nếu Nhật Bản cho người ta biết là mình dự định bác bỏ nó. Trong những báo cáo tiếp theo gởi đến Sáu Ông Lớn và sau đó đến toàn bộ Nội các, Togo đề nghị toàn bộ tiến trình như đã phác họa cho Nhật Hoàng. Đô đốc Toyoda phản pháo là họ nên ban hành ngay lập tức một tuyên bố là “chính phủ coi bảng tuyên bố như là một điều vô lý và sẽ không cứu xét nó.”
Thủ tướng Suzuki ủng hộ Togo, nhưng mọi người đồng ý là bảng tuyên bố phải được loan tin trên báo chí. Phe quân sự muốn chính thức bác bỏ nó khi bảng tuyên bố xuất hiện trên mặt báo, nhưng Suzuki đề nghị là họ cứ phớt lờ tối hậu thư. Một thỏa hiệp cuối cùng đạt được: họ sẽ cho phép báo chí in một phiên bản đã được kiểm duyệt, không có lời bình luận hoặc chỉ trích.
Vào buổi sáng, tuy nhiên, một vài tờ báo không đếm xỉa gì đến những chỉ thị và cho đăng bài chính luận, khiến Bộ Ngoại giao bực dọc. Báo Mainichi chạy tít lớn CHUYỆN NỰC CƯỜI và báo Ashahi Shimbun tuyên bố: “Vì bảng tuyên bố chung của Mỹ, Anh và Trùng Khánh không có gì to tát, nó chỉ làm quyết tâm của chính quyền dâng cao để tiến hành cuộc chiến về phía trước không lay chuyển cho đến thắng lợi cuối cùng!’
Togo cho rằng phe quân sự phải chịu trách nhiệm-các chủ biên tập tự mình không bao giờ có đủ can đảm thách thức chính quyền – và họ phản pháo lời kết tội của ông bằng cách nhấn mạnh lại là bảng tuyên bố nên bị bác bỏ một cách chính thức. Một lần nữa thỏa thuận lại đạt được: Thủ tướng sẽ đọc một phát biểu xem thường các điều khoản của Đồng minh nhưng không bác bỏ chúng. Đúng bốn giờ Suzuki nói với cánh báo chí,
“Tuyên bố Potsdam, theo ý kiến tôi chỉ là sự xào nấu lại Tuyên bố Cairo, và do đó chính phủ không coi tuyên bố có tầm quan trọng lớn lao. Chúng ta phải mokusatsu nó.” Từ đó có nghĩa đen là “thủ tiêu” nhưng khi sau đó Suzuki kể lại cho con trai mình, ông sử dụng nó thay cụm từ tiếng Anh “Miễn bàn.” Mà trong tiếng Nhật không có từ tương đương. Tuy nhiên người Mỹ hiểu theo nghĩa của tự điển là: “phớt lờ” và “xử sự với sự khinh bỉ im lặng.”
*** Bộ Ngoại giao phân biệt rõ giữa Potsdam Proclamation (tài liệu 26/7 yêu sách Nhật Bản đầu hàng vô điều kiện) với Potsdam Declaration (tuyên bố chính sách của Đồng minh liên quan đến Âu châu), mặc dù cả hai thường được gọi chung là “declaration” (tuyên bố).
Ngày 30/7 New York Times chạy tít trên trang đầu: NHẬT BẢN CHÍNH THỨC BÁC BỎ TỐI HẬU THƯ ĐẦU HÀNG VÔ ĐIỀU KIỆN CỦA ĐỒNG MINH.
Vậy là việc sử dụng bom nguyên tử là không thể tránh khỏi, nhưng đối với người Mỹ vẫn còn một câu hỏi bỏ ngỏ: “Liệu người Nga có tuyên chiến trước khi quả bom mang đến sự đầu hàng nhanh chóng của Nhật không? Chỉ vài ngày trước, Tướng Antonov đã hoãn lại cuộc tiến công cho đến “nửa cuối tháng tám.” Giờ đây, sau khi tuyên bố đã phát đi, Molotov thúc giục một bức thư chính thức mời Nga tham gia vào cuộc chiến. Truman chần chừ 48 giờ nhưng cuối cùng, vào ngày cuối cùng của tháng bảy, gởi cho Stalin bản phác thảo lời mời mơ hồ nói rằng “Sẽ là thích đáng nếu Liên bang Xô viết cho thấy mong muốn tham vấn và hợp tác với các siêu cường khác đang lâm chiến với Nhật Bản với một quan điểm liên kết hành động vì lợi ích của cộng đồng thế giới là duy trì hòa bình và an ninh.”
Trong một ghi chú che đậy, nhằm nỗ lực chuyển gánh nặng sáng kiến về phía người Nga Truman nói rằng ông sẽ gởi một bản sao chính thức, có chữ ký sau khi Stalin đã đi đến thỏa thuận với Tưởng Giới Thạch. “Nếu ngài quyết định sử dụng nó, thế thì tốt. Tuy nhiên, nếu ngài quyết định đưa ra một phát biểu biện minh cho hành động của mình trên một cơ sở khác hoặc vì bất kỳ một lý do nào khác tốt hơn là đừng sử dụng bức thư này, đối với tôi điều đó cũng không sao. Tôi để ngài tự suy xét.”
“Terminal” đã xong. Truman, Atlee và Stalin bề ngoài biểu lộ sự hài lòng của mình, nhưng bên dưới là bầu không khí thờ ơ và bất mãn. Truman, ngờ vực các động cơ của người Nga, trong lòng quyết tâm không cho phép họ “có vai trò gì trong việc kiểm soát Nhật Bản” hoặc tiết lộ bất cứ điều gì về quả bom cho đến khi đạt được một thỏa thuận nào đó về quyền kiểm soát và thanh sát. “Mẹ không bao giờ biết có ai ngoan cố như bọn Nga đâu,” ông viết cho mẹ mình. “Con hi vọng sẽ không dự một cuộc họp nào khác với họ nữa-nhưng, tất nhiên, con phải dự thôi.”
Leahy tự hào trước cách thức Truman đương đầu với Stalin, đặc biệt trong việc từ khước “bị thúc ép vào những thỏa thuận bồi thường sẽ lặp lại lịch sử của Thế Chiến I,” nhưng việc Xô viết tiếp tục chống đối về những đề nghị quan trọng đến hòa bình tương lai của Âu châu đã khiến đô đốc “nghi ngại nghiêm trọng là bất kỳ hiệp ước hòa bình nào mà chính quyền chúng ta chấp nhận được khó có thể thương lượng.” Byrnes cũng tỏ ra bất mãn. NHững nhượng bộ mà Stalin thắng được là do người Nga tiến hành thực hiện việc mặc cả về phần họ và vào lúc này Byrnes “không mấy tin cậy lời cam kết của họ.”
“Terminal” đã trao cơ hội duy nhất cho những người chiến thắng trong cuộc chiến mang đến trật tự và công lý mới trong một thế giới sâu xé bởi xung đột kéo dài một thập kỷ. Tuy nhiên, thay vào đó, nó tạo ra những xung đột mới trong thời hậu chiến.
3
Tại Moscow, Đại sứ Sato một lần nữa cố gắng thuyết phục Tokyo là Liên bang Xô viết không có ý định can thiệp vì lợi ích của Nhật Bản:
. . . TÔI TIN TƯỞNG RẰNG STALIN CẢM THẤY TUYỆT ĐỐI KHÔNG CẦN THIẾT PHẢI THỎA THUẬN TỰ NGUYỆN VỚI NHẬT BẢN. VỀ ĐIỂM NÀY TÔI THẤY CÓ SỰ BẤT CẬP NGHIÊM TRỌNG GIỮA QUAN ĐIỂM CỦA NGÀI VÀ HIỆN TÌNH.
Nhưng các nhà lãnh đạo Nhật không thể đối diện với sự thật. Họ hình như bị tê liệt khi bám vào niềm tin mơ mộng là Liên bang Xô viết đến hổ trợ Nhật Bản. Thậm chí Kido người vốn có đầu óc thực tiễn trông chờ
câu phúc đáp thuận lợi một khi Molotov và Stalin về đến Moscow. Togo tiếp tục thúc ép Sato:
. . . TÔI YÊU CẦU PHẢI NỖ LỰC NHIỀU HƠN NỮA NHẰM LÀM CHO LIÊN BANG XÔ VIẾT NHIỆT TÌNH VỚI PHÁI BỘ ĐẶC BIỆT . . . VÌ ĐÁNH MẤT MỘT NGÀY ĐỐI VỚI VẤN ĐỀ HIỆN NAY CÓ THỂ LÀM CHÚNG TA PHẢI HỐI TIẾC TRONG MỘT NGÀN NĂM, TÔI YÊU CẦU ÔNG NGAY LẬP TỨC NÓI CHUYỆN VỚI MOLOTOV.
Trong khi người Nhật hi vọng trông chờ Nga giải quyết vấn đề của họ, quả bom nguyên tử đầu tiên đả sẵn sàng được giao, chỉ đợi thời tiết tốt, và những quả bom khác đang trên đường đi. Thay vì thăm dò hòa bình với một nước Nhật đang tuyệt vọng tìm kiếm nó, các nhà lãnh đạo Mỹ quyết tâm chấm dứt chiến tranh ngay tức khắc – và trả thù cho nổi ô nhục Trân Châu Cảng cũng như cho vô số tội ác dã man họ đã phạm phải trên khắp Thái Bình Dương – với một vũ khí đã nặng nề thêm vì tranh cãi.
Quả bom được lắp ráp trong một lều bom có máy điều hòa nhiệt độ trên Tinian vào ngày đầu tháng tám. Nó dài 10 bộ (khoảng 3 mét) và có đường kính 28 in-xờ (khoảng 71 cm), ngoại trừ kích thước, nó trông giống một quả bom thường.
Những người có nhiệm vụ bỏ nó, Nhóm 509, đã được huấn luyện trong vòng bí mật mà chỉ có chỉ huy của họ, Đại tá Paul W. Tibbets Jr, biết sứ mạng của họ là gì. Khu vực của họ có hàng rào kẻm gai bao quanh và được bảo vệ bằng súng máy. Một vị tướng cũng phải cần có giấy phép mới vào được.
Với tất cả biện pháp an ninh nghiêm nhặt, Nhóm 509 hình như không có việc gì để làm. Thỉnh thoảng họ bay đi thành đoàn ba máy bay để ném một quả bom đơn lẻ trên lãnh thổ kẻ thù. Họ bị các đơn vị khác trên
đảo cười nhạo. Một người châm biếm nặc danh viết về họ:
Vào không trung sự bí mật bay lên,
Họ đi đến đâu, không ai hay biết.
Ngày mai họ lại trở về,
Nhưng chúng ta không hề biết họ đã ở đâu.
Đừng hỏi tôi về kết quả hoặc điều gì như thế,
Trừ khi bạn muốn gặp rắc rối.
Nhưng theo lời của một người hiểu chuyện,
Nhóm 509 đang đánh thắng cuộc chiến.
Vào buổi sáng ngày 5/8, thời tiết được dự báo là thuận lợi cho việc cất cánh sau nửa đêm. Đêm hôm trước Đại úy William Parsons, một chuyên gia quân nhu có trách nhiệm nạp bom, đã chứng kiến bốn máy bay B-29 rơi liên tiếp khi cất cánh. Ông bảo với Tướng Thomas Farrel, chỉ huy dự án bí mật, rằng nếu phi cơ chở bom không cất cánh an toàn, một vụ nổ nguyên tử có thể bùng phát phá hủy toàn bộ đảo.
“Chúng ta sẽ phải cầu nguyện cho chuyện ấy đừng xảy ra.”
“Này, nếu tôi đứng ra lắp ráp quả bom ở giai đoạn cuối sau khi bay ra khỏi đảo, thì việc đó sẽ không xảy ra.” Farrel hỏi trước đây ông ta có bao giờ lắp ráp một quả bom trong những điều kiện như thế này chưa. “Chưa, nhưng tôi có nguyên một ngày để thử mà.”
“Thế thì hãy thử coi.”
Vào buổi chiều tối quả bom, được viết nguệch ngoạc trên đó những thông điệp gởi Nhật Hoàng, được
lăn khỏi khu nhà có điều hòa không khí vào ánh nắng chói chang và chuyển đến khoang đựng bom của chiếc B-29 có tên mẹ của Đại tá Tibbets là Enola Gay. Lúc hoàng hôn Parsons leo vào thân máy bay ngột ngạt. Ngồi xổm cạnh quả bom, ông thực tập thao tác lắp ráp cuối cùng giờ này qua giờ khác.
“Trời đất ơi,” Farrel kêu lên khi thấy bàn tay của Farrel đầy máu, “để tôi mượn cho anh một cặp bao
tay da lợn. Chúng mỏng lắm.”
“Thôi không cần. Tôi muốn cảm nhận sự tiếp xúc.”
Vào 7:17 tối Farrel đánh điện cho Groves: CHUYÊN GIA [Parsons] SẼ NẠP BOM SAU KHI CẤT CÁNH. . . Vừa sau 10 P.M. sáu phi hành đoàn được triệu tập đến lều họp Quonset để nghe dặn dò. Họ tỉnh táo nhìm Tibbets bước lên bục. “Đêm nay là đêm mà tất cả chúng ta đã chờ đợi,” ông nói. “Những tháng dài huấn luyện giờ đang được thử nghiệm. Chúng ta sẽ sớm biết mình thành công hay thất bại. Nhờ những nỗ lực của chúng ta có thể đêm nay sẽ làm nên lịch sử.” Họ phải thả quả bom chứa sức tàn phá tương đương với 20,000 tấn TNT (Phi hành đoàn Enola Gay đã được thông báo ba ngày trước vật mà họ chở theo.) “Vì quả bom này rất mạnh, chúng ta phải sử dụng những chiến thuật khác những chiến thuật khi ta dùng những quả bom thông thường.” Ông giải thích rằng ba phi cơ khí tượng sẽ cất cánh trước tiên và bay qua ba thành phố được chọn lựa để có thể thay đổi mục tiêu ở phút cuối cùng. Một giờ sau Enola Gay, theo sau bởi hai máy bay hộ tống với các trang bị nhiếp ảnh và khoa học, sẽ bay đi. Cả ba sẽ gặp nhau lại trên bầu trời Iwo Jima một vái phút sau bình minh.
Tại buổi chỉ dẫn cuối cùng vào nửa đêm mỗi người được phát một cặp kính bảo hộ của người thợ hàn giúp che chở cặp mắt của mình khỏi ánh sáng mãnh liệt lóe lên từ vụ nổ. Phi hành đoàn cúi đầu trong im lặng sợ sệt uống từng lời của Tuyên úy William Downey, một người theo đạo Tin Lành 27 tuổi to con: “. . . Chúng con cầu nguyện Người cho chiến tranh sớm chấm dứt, và chúng con sẽ tìm lại được hòa bình trên mặt đất. Cầu mong Ngài sẽ che chở cho những người bay đêm nay được an lành, và đem họ trở về bình yên với chúng tôi. . . “
Đoàn người lần lượt bước trang trọng vào sảnh ăn tập thể để dùng bữa tối trước khi bay. Sau khi ba máy bay thời tiết cất cánh vào lúc 1:37 A.M., một đám đông những người đưa tiễn và nhiếp ảnh gia tề tựu chung quanh chiếc Enola Gay, và ánh đèn flash thi nhau lóe chớp, khiến một số người e sợ các du kích Nhật trong vùng đồi núi có thể điện về Tokyo về một sự kiện phi thường đang sắp xảy ra.
Enola Gay và hai chiếc phi cơ hộ tống chạy đến đường băng. Từ tháp kiểm soát phía Bắc William Laurence, biên tập viên khoa học của tờ New York Times và là phóng viên duy nhất viết bài cho sự kiện này, chăm chú theo dõi, bên cạnh Tướng Farrel, khi Enola Gay chầm chậm ầm ầm lăn bánh xuống đường băng. Nó tăng tốc đến 180 dặm một giờ, nhưng vì trọng tải nặng, nó hình như cứ bám riết mặt đất. Những người chứng kiến, nhớ lại vụ bốn Siêu pháo đài đã rớt đêm hôm trước, rướn người như muốn tiếp sức nâng máy bay lên không.
Tibbets đang chúc mũi xuống để tăng tốc nhưng cơ phó của ông, Đại úy Robert A. Lewis, nghĩ nó đang “ngốn đường băng hơi nhiều một chút,” và bắt đầu lấy lại áp suất cho bánh xe. Cuối cùng, khi chỉ còn cách đầu mút đường băng vài mét, chiếc phi cơ to sầm vọt lên trong bóng đêm.
Tại tháp kiểm soát, Tướng Farrel quay sang một sĩ quan Hải quân. “Tôi chưa hề chứng kiến một máy bay chạy lấy đà nhiều như thế,” ông nói. “Tôi tưởng là Tibbets không cất cánh lên được rồi chứ.”
Lúc đó là đúng 2:45 A.M., ngày 6/8. Đây sẽ là một ngày để nhớ.

Hội nghị Potsdam
II . Hiroshima

Quả bom Hiroshima đang nằm trên đảo Tinian
1.
Ngay khi Enola Gay leo đến độ cao 4,000 bộ (khoảng 1200 m) Đại úy Parsons hạ thấp người chui vào khoang chứa bom và trong khi phụ tá của ông, Thiếu úy Morris Jeppson, dùng đèn pin chiếu sáng quả bom, ông thận trọng gài ngòi nổ qua đuôi bom. Đã qua nửa giờ trước khi Parsons nói, “Okay, vậy là được rồi.”
Jeppson gỡ bỏ chốt màu xanh lá ra khỏi bom, thay thế nó bằng một chốt đỏ. Mạch điện đã đóng kín; quả bom sẵn sàng được bỏ xuống. Trong khoang phía sau Tibbets cố ngủ-ông đã thức trọn 24 giờ-nhưng không thể nào nhắm mắt được, và sau 15 phút ông lại bắt đầu bò trở lại qua một ống thông hẹp dài 30 bộ (khoảng 9 mét) dẫn đến phòng trước. Xạ thủ đuôi máy bay, George R. Caron, giữ ông lại. “Này, Đại tá,” anh hỏi, “có phải hôm nay chúng ta tách nguyên tử ra không?”
“Cậu nói gần đúng đó, Bob.”
Tibbets đổi phiên với cơ phó của mình. Lewis rời buồng lái để ăn chút gì đó và đưa mắt nhìn những ánh đèn nhỏ màu xanh lá trên một chiếc hộp đen. Ông hỏi Parsons chúng có nghĩa “quái gì thế”. Chúng báo cho biết là quả bom ngon lành; đèn đỏ nghĩa là có trục trặc.
Tibbets ngắm nhìn Núi Suribachi, loang lỗ vì bị oanh kích, chầm chậm hiện ra khỏi mặt biển trong ánh sáng của buổi bình minh. Ông đẩy cần gạt về phía trước và chiếc Enola Gay bắt đầu lên cao. Lúc đó là 4:52 A.M. Trong vài phút máy bay đã lên đến 9,000 bộ (khoảng 2700 mét), tại đó nó được hai phi cơ hộ tống đi theo. Phía dưới trên đảo Iwo Jima-căn cứ dự phòng khẩn cấp-Thiếu tá William Uanna, trưởng an ninh của Tibbets đang đợi. Tibbets gọi ông ta qua điện đài: “Bud, chúng tôi đang tiến đến mục tiêu.”
Tibbets nhấc bộ đàm và bảo mọi người ở yên vị trí cho đến khi vụ oanh tạc kết thúc. Một khi Nhật ở trong tầm mắt, ông nói, những cuộc trao đổi của họ sẽ được thu băng. “Để dành cho lịch sử, vì vậy các cậu khéo giữ mồm giữ miệng. Chúng ta chở theo quả bom nguyên tử đầu tiên.”
Hầu hết phi hành đoàn từ trước đến nay chưa hề nghe từ “nguyên tử”. Nội âm thanh của nó nghe đã ớn lạnh.
Mục tiêu chính yếu là Hiroshima nằm ở bờ biển đông nam của Honshu, đảo chính của Nhật Bản. Từ đây, thành phố lớn thứ tám của đế chế, 120,000 dân đã được sơ tán về vùng quê, nhưng còn 245,000 người ở lại. Thành phố gần như không bị chiến tranh tàn phá. Như dân chúng ở Dresden * trước họ, các công dân Hiroshima cảm thấy là thành phố của họ sẽ an toàn vì ở đó có tổng hành dinh của Quân đoàn thứ 2 và là quân cảng quan trọng. Các lý do mà họ hi vọng mình không bị oanh tạc đi từ ngây thơ đến hợm hĩnh: họ an toàn vì họ có nhiều bà con ở Hoa Kỳ; thành phố của họ, như Kyoto, quá đẹp đến nổi người Mỹ muốn chiếm nó làm nơi cư trú sau chiến tranh; mẹ của Tổng thống Truman sống gần đó. Họ không mảy may chú ý đến 700,000 tờ truyền đơn thả xuống từ trên trời cách đây hai ngày, cảnh báo họ là thành phố của mình cùng với những thành phố khác sẽ bị xóa sổ trừ khi Nhật chịu đầu hàng ngay lập tức. Lúc 7:09 A.M. (một giờ sớm hơn giờ Tinian), còi báo động vang lên trong một phút. Đó là cảnh báo có không kích lần thứ ba kể từ nửa đêm và ít ai đến hầm trú ẩn. Còi báo động hú lên là do Straight Flush, một chiếc máy bay khí tượng có vẽ hình một tên lính Nhật bị dội xuống bồn cầu. Chiếc này bay cùng phi trình với Tibbets nếu điều kiện thời tiết tại Hiroshima khá thuận lợi. Nếu không, Tibbets sẽ bay đến Kokura hoặc Nagasaki.
* Thành phố của Đức gồm nhiều dân tị nạn Đức đến nương náu ở trung tâm. Vào tháng 2 năm 1945 không quân Anh Mỹ đã ném bom xuống nội thành trong ba đợt oanh tạc, phá hủy hầu như hoàn toàn trung tâm thành phố, với số thương vong hàng trăm dân thường, phần lớn đàn bà và trẻ em, trong khi các khu công nghiệp và quân sự ở ngoại thành gần như nguyên vẹn.
Từ xa Hiroshima trông như bao phủ bởi một màn sương u ám nhưng khi Straight Flush bay đến địa điểm ném bom, người cắt bom kiêm quan sát viên, Thiếu úy Kenneth Wey, có thể trông thấy Hiroshima rõ ràng qua kính nhắm bom. Nó bằng phẳng và gồm sáu đảo dài mảnh nằm trong vùng châu thổ của sông Ota. Từ 32,000 bộ (hơn 9750 mét) thành phố nom như những ngón tay của một bàn tay biến dạng. Trên mũi phía nam các bến tàu nhô ra mặt biển Inland xinh đẹp. Chính vùng châu thổ cũng được những ngọn núi nhỏ bao bọc.
Vào lúc 7:25 Straight Flush quay trở về căn cứ của nó, Tinian, dưới hỏa lực rải rác của súng phòng không cách quá xa mục tiêu. Viên cơ trưởng, Thiếu tá Claude Eatherly, ra lệnh cho điện báo viên gởi đi thông điệp sau đây: “Mây thấp, 1 đến 3/10ths. Lượng mây giữa, 1 đến 3/ths. Thông báo: Bom ưu tiên.”
Enola Gay đã vừa đạt đến độ cao oanh tạc gần 32,000 bộ, và cơ phó Lewis ghi chú trong sổ phi trình ông đang viết theo lời yêu cầu của thông tín viên William Laurence của báo New York Times: “Này, các bạn ơi, không còn lâu đâu.”
Tibbets được thông báo về bức thông điệp của Eatherly và quay sang viên hoa tiêu của mình, Đại úy Theodore Van Kirk: “Là Hiroshima.” Lúc 7:50 (đồng hồ của họ chỉ 8:50) chiếc phi cơ to lớn đến đảo Shikoku. Qua khỏi đó là Honshu-và Hiroshima. Phi hành đoàn vội vã cột dây bộ áo bảo vệ của mình. Ra đa và máy IFF (Máy nhận diện bạn hay thù) bật tắt. Tàu đang bay ở chế độ tự động. Parsons báo lên phía trên cho biết đèn xanh lá vẫn cháy, rồi bò về phía trước đến phòng lái nơi ông nhìn qua vai của Tibbets xuyên qua một lỗ mở lớn giữa đám mây. Một thành phố đang phơi mình bên dưới. “Anh có đồng ý đó là mục tiêu hay không?” Tibbets hỏi.
“Vậng,” Parsons gật đầu trả lời.
Lúc đó là 8:09 A.M.”Chúng ta sắp tống bom đi rồi,” Tibbets thông qua bộ đàm. “Mang kính bảo hộ vào và đặt chúng lên trán. Khi bắt đầu đếm ngược, kéo kính xuống che mắt và để đó cho đến khi lóe sáng đã tắt.”
Lewis viết thêm một hàng nữa vào sổ phi trình, ghi chép duy nhất trong chuyến bay sứ mệnh: “Sẽ có một lần tạm nghỉ ngắn trong khi chúng ta ném bom mục tiêu.”
Máy bay công cụ, The Great Artiste, hạ thấp xuống 1,000 ya (chừng 914 mét). Máy bay hộ tống khác, Number 91, bắt đầu bay vòng để đánh dấu thời gian và vị trí cho các bức ảnh.
Người cắt bom của Eunola Gay, Thiếu tá Thomas Ferebee, đang nhoài người về phía trước, con mắt
trái ép sát vào ống nhắm bom Norden, bộ râu mép của ông xòe ra hai bên. Lúc 8:13:30 Tibbets nói, “Phiên anh đó.” Ống nhắm bom của Ferebee yêu cầu chỉnh lại đường bay tự động khi Siêu Pháo đài hướng về tây 31,600 bộ phía trên Hiroshima với tốc độ mặt đất xấp xỉ 285 dặm một giờ. Mây bay rải rác và Ferebee có thể phân biệt rõ ràng cảnh tượng đã quá quen thuộc nhờ các bức không ảnh chụp mục tiêu-bảy phụ lưu của sông Ota tạo thành sáu đảo. Tiêu điểm, chính giữa Cầu Aioi, đang bò từ từ đến dấu chữ thập trong ống nhắm.
“Bắt được rồi,” ông nói. Trong 45 giây ông gởi tín hiệu truyền tin thả bom qua bộ đàm. Phi hành đoàn kéo kính bảo bộ xuống-tất cả trừ hai hoa tiêu và Ferebee, người không thể mang kính bảo hộ mà nhìn qua ống nhắm.
Lúc 8:15:17 các cánh cửa của khoang bom tự động bật mở. Việc ném bom được canh giờ bằng điện qua ống nhắm bom dựa vào thông tin Ferebee nhập vào. Ngón tay ông chực sẵn nút bật tắt sẵn sàng ấn nếu bom không được thả ra. Tiếng ra-điô bổng ngừng bặt và ông nhìn thấy quả bom thon dài rơi, đuôi xuống trước, rồi quay ngược lên và chúc mũi xuống Hiroshima. Máy bay đã trút bỏ được 9000 cân nên nhẹ hẳn và bay vọt lên trên. Tibbets quay vòng sang phải thật gắt cho đến khi lấy được 150 độ, rồi chúc mũi xuống để tăng tốc.
Các cánh cửa khoang bom của The Great Artiste mở rộng ra và ba túi trang bị bắn ra. Gần như lập tức mổi túi bung ra một chiếc dù, treo lơ lững phía dưới là một ống hình trụ giống như một bình cứu hỏa – đó là những máy phát gởi về các dữ liệu.
Tibbets ra lệnh mọi người “hãy bảo đảm đã đeo kính bảo hộ.” Bom được ấn định sẽ nổ trong 43 giây, và đến giây thứ 35 ông kéo kính bảo hộ mình xuống mắt.
Hiroshima quang đãng cũng như bầu trời trên kia khi dân chúng tiếp tục với những công việc thường nhật. Những người nhìn thấy ba chiếc dù đang rơi tưởng là máy bay đã bị bắn và phi hành đoàn đang cố thoát ra hoặc tưởng rằng thêm truyền đơn được rải xuống. Một người đàn ông, nhớ mình đã thấy những tờ truyền đơn vừa qua lấp lánh trong nắng như thế nào khi rơi xuống, nên nghĩ, người Mỹ đã gởi đến chúng ta thêm những thứ xinh đẹp đây.
Cách Cầu Aioi vài trăm ya về phía bắc (mục tiêu của Ferebee), Binh nhì Shigeru Shimoyama, một tân binh mới nhập ngũ, nhìn lên qua cặp kính dày cộm một trong những chiếc dù đang bay giạt. Cậu đứng bên ngoài doanh trại, một cấu trúc lớn bằng gỗ trước đây là nhà kho. Cậu đến Hiroshima được bốn ngày mà đã “thấy chán gần chết.” Cậu mong được trở lại Tokyo làm nghề đóng sách vỡ học sinh. Ngay lập tức một ánh sáng ửng hồng lóe lên trong bầu trời như một bóng đèn flash vũ trụ.
Tất cả đồng hồ ở Hiroshima đều dừng lại mãi mãi ở 8:15.
Quả bom nổ cách mặt đất 660 ya (khoảng 600 mét) thành một quả cầu lửa gần 110 ya (100 mét) đường kính. Những ai đứng trực tiếp bên dưới đều không nghe thấy gì, sau đó họ cũng không thể nhất trí cái lóe sáng pika (sét) có màu gì-xanh lam, hồng, đo đỏ, nâu sậm, vàng hoặc tím.
Hơi nóng phát ra từ quả cầu lửa kéo dài chỉ một phần của giây nhưng nóng quá khủng khiếp (gần như 300,000 độ) đến nổi làm tan chảy bề mặt đá granit trong vòng 1000 ya kể từ tâm chấn hay điểm zero trên mặt đất- điểm trực tiếp bên dưới quả cầu lửa. Mái ngói mềm ra và đổi màu từ đen đến xanh ô liu hay nâu. Khắp trung tâm của thành phố nhiều bóng đen được in trên tường. Trên Cầu Yorozuyo mười người vĩnh viễn để lại phác họa của mình trên đường ray và bề mặt đường trán nhựa.
Một lúc sau đến một chấn động không có ở trần gian xóa sổ tất cả trừ một số ít ngôi nhà chống động đất kiên cố trong vòng hai dặm. Ferebee gần như trúng đích, chỉ cách điểm rơi ấn định hơn 300 ya một chút (khoảng 270 mét).
Binh nhì Shimoyama cách điểm zero 550 ya về phía bắc. Cậu không trực tiếp phơi nhiễm với lóe sáng pika nếu không thì đã tiêu tùng rồi, nhưng luồng hơi nóng ném cậu bay vào nhà kho rộng, đẩy cậu vào cây đà của mái nhà đang sụp đổ ở đó năm chiếc đinh dài trong lưng câu giữ cậu treo lơ lững cách mặt đất vài bộ. Kính cận cậu vẫn còn nguyên vẹn.
Năm trăm ya xa hơn về hướng bắc Đại úy Hideo Sematoo, một đại đội trưởng, vừa mới chạy lên văn phòng của mình và giờ đang tháo chiếc dây giày bốt. Tòa nhà đổ sập trên người ông và bốc cháy. Ông nhớ về bảy năm chiến đấu của mình ở Mãn châu, Trung Quốc, Singapore, Malaysia và Tân Guinea. Chết cháy khổ hơn chết trận xiết bao! “Tenno Heika banzai! (Nhật Hoàng Vạn Tuế)” ông hô to. Khi lửa cháy đến bên ông, đống đổ nát bên trên ông bổng trượt đi và ông chui ra ngoài. Nôn ói, ông nhìn lên bầu trời vàng kỳ quái. Mặt đất bằng phẳng cho đến hút tầm mắt. Mọi thứ đều biến mất-Lâu đài Hiroshima sừng sững và tổng hành dinh Quân đoàn thứ hai. Theo bản năng ông loạng choạng và lết bò về hướng nhánh chính của sông Ota. Ở đó, chen chúc dọc theo bờ sông, là hàng trăm bệnh nhân thất thần và các y tá từ Bệnh viện Quân đội. Tóc họ đều cháy sạch, da họ cháy đen xạm. Ông cảm thấy ớn lạnh.
Cách tâm chấn 1000 ya ở bên kia, bà Yasuko Nukushina bị mắc kẹt giữa đống đổ nát của quán rượu gia đình. Ý nghĩ đầu tiên của bà là cô con gái bốn tuổi, Ikuko, đang chơi đâu đó bên ngoài. Không hiểu sao bà nghe thấy tiếng kêu của con bé bên cạnh bà: “Con sợ lắm, mẹ ơi.” Bà bảo con gái mình bị chôn và sẽ chết ở đó. Nghe thấy mình nói như thế khiến bà cào bới một cách tuyệt vọng đống đổ nát. Là một người đàn bà mảnh khảnh, chỉ cao khoảng bốn bộ 6 in-xơ, nhưng trong cơn cuống cuồng bà chui ra được sân. Chung quanh là cảnh tan hoang, Bà phần nào cảm thấy mình có trách nhiệm, quả bom “của bà” cũng tàn phá khu lân cận. Dân chúng qua lại vô cảm và lặng lẽ như người mộng du trong bộ quần áo tả tơi, ngún khói. Đó như một đám rước của vong hồn, gợi nhớ cảnh địa ngục của Phật giáo. Bà ngơ ngác như bị thôi miên cho đến khi có người chạm vào người bà. Nắm lấy tay Ikuko, bà gia nhập vào đám rước. Trong cơn hoảng loạn của mình bà có ảo giác là hàng ngàn máy bay đang vần vũ trên bầu trời và thi nhau ném bom không ngừng nghỉ.
Một ngàn bốn trăm ya cách điểm zero về phía đông tại tu viện Cơ đốc giáo duy nhất trong thành phố, Cha Bề trên Hugo Lasalle, một người Đức, nghe tiếng phi cơ bay trên đầu. Ông ra đến cửa sổ. Bầu trời không mây bổng lóe sáng vàng-và trần nhà rơi xuống. Bị thương và chảy máu, Cha Lasalle lần mò ra đến đường phố. Trời tối sầm. Toàn bộ thành phố bao phủ bởi một màn bụi. Với một tu sĩ Đức khác ông bắt đầu lục lọi qua đống gạch vụn để tìm kiếm các cư dân của tu viện.
Sáu đoạn phố về phía nam, Michiko Yamaoka 15 tuổi vừa ra khỏi nhà để đi làm tại văn phòng điện thoại. Cô nhớ “một ánh chớp đèn flash,” rồi một giọng nói nghe xa xăm gọi “Michiko!” Mẹ của cô. “Con đây,” cô trả lời nhưng không biết mình ở đâu. Cô không nhìn thấy được – chắc cô đã bị mù! Cô nghe tiếng mẹ la lên “Con gái tôi bị chôn dưới này!” Một tiếng nói khác, tiếng một người đàn ông, khuyên người mẹ hãy tránh hỏa hoạn đang quét xuống đường phố. Michiko van xin mẹ hãy tự cứu mình và nghe thấy tiếng bước chân chạy mất hút vào im lặng. Cô sắp sửa phải chết. Rồi một tia cột ánh sáng rọi vào khi khối bê tông được đẩy sang một bên bởi các chiến sĩ. Mẹ cô người đầy máu, một tay bị lệch vì một thanh gỗ đè. Bà ra lệnh Michiko chạy thoát. Chính bà thì ở lại để cứu hai người thân dưới đống đổ nát của nhà họ.
Michiko di chuyển qua một thế giới của ác mộng-qua các thi thể cháy đen-một bé đang khóc bị kẹt cứng dưới những khung sắt cong queo của một tòa nhà bê tông cốt sát sụp đổ. Cô thấy ai đó quen mặt và kêu lên.
“Chị là ai?” cô gái khác hỏi.
“Michiko.”
Người bạn nhìn chằm chằm vào cô. “Mũi và chân mày bạn đâu mất rồi!”
Michiko rờ mặt mình. Mặt cô bị sưng phồng đến nổi mũi cô như đã biến mất.
Trong cùng khu vực, 350 thiếu nữ từ Trường Nữ Thương Mại đang làm việc trên một miếng đất trống trải, dọn sạch để làm khu tản cư. Họ mặc mompei và áo vét xanh da trời nhưng không đội nón, và người nào mà tò mò quay nhìn pika-gần 300 cô cả thảy- chết ngay lập tức. Chỉ riêng có Miyoko Matsubara 12 tuổi theo bản năng dấu mặt vào trong cánh tay. Cô tỉnh lại trong nổi hoang vu không thể tưởng tượng được-không người, không nhà cửa-chỉ có những đổ nát vô hạn. Chiếc mompei của cô đâu rồi? Tất cả thứ cô mặc quanh eo là một dây nịt trắng và nó đang bắt lửa. (Người nào mặc y phục đen phơi nhiễm trước pika sẽ bị phỏng nhiệt đầu tiên nhưng cái lóe sáng tàn khốc lại phản chiếu vô hại với chất liệu trắng.) Cô liền lấy bàn tay phải phủi tắt ngọn lửa nhưng bổng khiếp đảm khi thấy từng lớp da, da của cô, bóc ra lủng lẳng.
Bà Tomita đã hạ sinh một bé gái sáng hôm đó. Cùng với chồng, Torao, bà đang trầm trồ đứa con gái mới sinh, Hiroko, khi một lóa sáng khủng khiếp lấp đầy cửa sổ. Bà Tomita nhớ nghe một tiếng rít trước khi bất tỉnh. Bà tỉnh dậy thấy mình nằm trên sàn nhà. Chồng bà đã đi rồi. Bé sơ sinh trong y phục đỏ nằm phía trên một máy khâu-vẫn còn sống nhưng im tiếng một cách không tự nhiên. Bà Tomita quấn băng thật chặt quanh cái bụng căng phòng của bà-cô mụ đã dặn bà chứ có đi nhiều-và bước ra ngoài đường phố cùng với đứa con mới sinh. Torao thì đào bới điên cuồng trong đống đổ nát để tìm hai đứa con khác của họ. Anh tìm được đứa con gái lớn vẫn còn sống, nhưng đứa em trai thì bị chôn vùi tuyệt vọng đâu đó trong đống gạch. Có tiếng ai đó hét lên báo động nhiều phi cơ đang bay tới khiến gia đình tìm chỗ ẩn nấp trong một con rãnh thoát nước hôi hám.
Không tới 1 dặm phía nam điểm zero tòa nhà chính của Đại học Hiroshima đứng nguyên vẹn giữa cảnh hoang tàn. Kim chiếc đồng hồ lớn đối diện với khuôn viên đại học, đã ngừng vào lúc 8:15. Nhưng quả bom, vốn đã làm ngừng nhiều đồng hồ treo cũng như đồng hồ tay khác vào thời khắc đó, không làm gì được với nó; vài ngày trước đây nó đã ngừng tại thời khắc thảm họa đó như một lời tiên tri.
Hai y tá sinh viên, đang nằm dưỡng bệnh trong khu bệnh xá bằng gỗ của Bệnh viện Chữ Thập Đỏ nằm bên kia đường, không nghe cũng không thấy quả bom. Cảm nhận đầu tiên của họ là phổi mình như sụp xuống. Kyoko Sato bò ra khỏi tòa nhà sụp đổ, và chui vào một nơi đầy bụi bặm. Một tiếng gọi tắt nghẹn, “Sato-san!” dẫn cô đến gần bạn của mình, và được bạn lôi ra từ đám xà bần vụn vỡ. Hai người cùng dìu nhau cố băng qua đường để báo cáo với bệnh viện nhưng không thể chen qua được dòng người đen kịt câm lặng đang di chuyển ra khỏi thành phố, nữa trần truồng và đẫm máu nhưng không hoảng loạn, thậm chí không khóc. Cái điều không tưởng của nó thật quá khủng khiếp.
Bác sĩ Fumio Shigeto, trưởng khoa nội của bệnh viện, không bao giờ đến được phòng khám vào buổi sáng đó. Trên đường đến bệnh viện, ông đang đợi xe điện ở cuối một hàng người dài quẹo quanh góc đường của ga tàu hỏa Hiroshima, cách tâm chấn 2,000 ya về phía đông. Tia chớp lóe hình như biến một nhóm thiếu nữ đứng ở đầu hàng thành màu trắng, gần như vô hình. Một quả bom lửa! Khi ông buông mình xuống vệ đường, che mắt và tai, một miếng sắt nặng đập vào lưng ông. Những cuộn khói che lấp mặt trời. Trong bóng tối ông sờ soạng như thằng mù để cố đến chổ ẩn nấp trước khi đợt tấn công tiếp thep ập đến. Sợ hơi độc, ông lấy khăn tay che miệng.
Một làn gió từ hướng đông thổi qua dần dần làm rõ khu vực như thể trời đang bình minh, bày ra một cảnh tượng khó tin: những tòa nhà phía trước nhà ga sụp đổ, nằm bẹp xuống, các thi thể gần như trần truồng và âm ỉ cháy nằm la liệt khắp mặt đất. Trong số những người đứng chờ ở trạm xe điện chỉ có mình ông, người đứng cuối hàng, là không bị thương, vì được che chở bởi khúc quanh của nhà ga. Bác sĩ Shigeto bắt đầu đi đến bệnh viện nhưng bị một bức tường lửa đang tiến tới chận lại. Ông quay lại và chạy tìm một khoảng trống-về phía sân tập của quân đội sau nhà ga. Ông trông thấy rất nhiều người sống sót đi loanh quanh, kêu khóc một cách điên cuồng, và để giảm đau đớn gây ra do các vết bỏng họ giơ cánh tay với các lớp da bong tróc từng mảnh lòng thòng.
Một cô y tá tiến đến ông; ông chắc hẳn là một bác sĩ vì ông mang một túi đen và có một ria mép cắt xén gọn gàng. Cô ta nhờ ông giúp một bác sĩ khác và vợ đang nằm trên mặt đất. Ý nghĩ đầu tiên của ông là : Sẽ ra sao nếu đám đông các người tuyệt vọng này khám phá ra mình là bác sĩ? Ông không thể giúp đỡ tất cả họ. “Làm ơn chữa trị vợ tôi trước,” người bác sĩ bị thương nói, mình mẫy đấm đìa máu. Shigeto chích long não cho người đàn bà để chống sốc, tiếp theo tiêm một mũi thuốc cầm máu. Ông sắp xếp lại băng quấn mà cô y tá đã bó rồi quay sang người bị thương khác, chữa trị họ cho đến khi ông hết sạch cả thuốc và trang bị y tế. Ông không thể làm gì nữa. ông chạy như bay về phía các ngọn đồi.
2
Phi hành đoàn của Enola Gay nhìn thấy một điểm sáng màu tím đỏ nhiều dặm bên dưới họ lập tức nở rộng thành một quả cầu lửa tím. Quả cầu này nổ thành một khối hỗn loạn của lửa và mây tỏa ra các vòng khói sương mù. Một cột khói trắng nhô ra từ các đám mây tím, dâng lên nhanh chóng đến độ cao 10,000 bộ (khoảng 3,014 mét), ở đó nó nở ra thành một cây nấm khổng lồ sôi sục một cách dữ dội khi nó tiếp tục lên cao gần 50,000 bộ (khoảng 15200 m).
Một làn sóng chấn động rung lắc Enola Gay. Tibbets tưởng bị hỏa lực phòng không bắn bèn la lên “Súng phòng không!” Parsons hét lên đấy là chấn động và thêm, “Chúng ta ra khỏi tầm bắn rồi.” Cơ phó Lewis quay đầu nhìn chớp lóe cho dù ông đã gỡ bỏ cặp kính bảo vệ màu đen vài giây trước khi vụ nổ xảy ra để nhìn vào bảng điều khiển. Còn Ferebee quá mê mẩn trước quỹ đạo dài của quả bom đến nổi quên cả kéo cặp kính xuống. Nó như một chớp lóe của đèn flash máy ảnh đập vào mặt. Tibbets tháo nhanh cặp kính, lướt qua bảng điều khiển rồi nghiêng tàu quay trở lại về hướng Hiroshima để quan sát kết quả.
“Trời đất quỹ thần ơi, cái gì đây!” Trung sĩ Caron, pháo thủ đuôi, la lớn trong bộ đàm.
“Trời ơi,” Lewis nói, “chúng ta đã làm cái gì thế này?” Ông ghi vội mấy từ “Ôi trời” trong sổ phi trình.
Hiroshima trông như bị “xé toạc”, và khiến ông cảm thấy như thể họ là “Buck Rogers các chiến binh thế kỷ 25.”
Hoa tiêu, Van Kirk, thoạt đầu choáng váng, sau đó tràn ngập niềm tự hào và cuối cùng thì khoan khoái vì tất cả đã qua. Lời hoan hô vang lên trong bộ đàm; nó có nghĩa là cuộc chiến đã kết thúc. Rồi phi hành đoàn bắt đầu nghĩ đến những người trên mặt đất.
Tibbets ra lệnh điện đài viên gởi một thông điệp trong vùng an toàn rằng mục tiêu chủ yếu đã bị đánh bom bằng mắt trần với kết quả tốt. Parsons gởi một bức điện khác, bức này bằng mật mã:
KẾT QUẢ RÕ RÀNG, THÀNH CÔNG TRONG MỌI MẶT, HIỆU QUẢ CÓ THỂ THẤY ĐƯỢC LỚN HƠN TRINITY [cuộc thử nghiệm ở Alamogordo]. ĐIỀU KIỆN BÌNH THƯỜNG TRONG PHI CƠ THEO SAU CHUYẾN GIAO HÀNG, TIẾN VỀ KHU GIÁO HOÀNG [Tinian]. . .
Cách đó một vài dặm các nhà khoa học trong chiếc The Great Artiste ngồi dán mình với thiết bị ghi lại vụ nổ. Trong phi cơ nhiếp ảnh Tiến sĩ Bernard Waldman, một nhà vật lý từ Notre Dame, đang ngồi trong ghế chuyên viên cắt bom, vận hành một máy quay phim tốc độ cao mà ông đã mang đến từ Mỹ. Không có thời gian để thử nghiệm trong không trung. Ông đã đếm đến 40 sau khi quả bom được ném xuống và bật máy
quay. Khi máy bay lượn đi Thiếu úy Russell Gackenbach, hoa tiêu, cũng bấm được một chuỗi ảnh với máy ảnh bỏ túi của mình.
Trên mặt đất, hai dặm rưỡi cách tâm chấn về hướng nam, nhiếp ảnh gia tin tức trước đây Gonichi Kimura đang làm việc bên ngoài chuồng ngựa cho Quân đội khi anh nhìn thấy một chớp lóe dữ dội về bên trái của mình và đồng thời cảm thấy một luồng hơi nóng như sắt nung. Thoạt đầu anh nghĩ lò chứa của Công ty Ga Hiroshima đã phát nổ, nhưng ngay sau đó anh nhận ra lò ga vẫn còn đứng đó, theo bản năng anh cảm thấy là một quả bom đặc biệt nào đó đã được ném xuống và quyết định chụp ảnh ngay sau khi anh có thể lấy được máy ảnh, mà anh cất trong nhà kho gần đấy. Ngay lúc anh bò qua đống đổ nát của chuồng ngựa, cột khói trắng nhỏ từ quả bom đã biến thành màu hồng và phần trên bắt đầu nở rộng, khiến nó trông như một cái nấm khổng lồ, và nó cứ to lớn khủng khiếp lên mãi.
Tại nhà kho Kimura tìm tất cả các cửa sổ đã bể nát vì luồng hơi nóng, và trên nền nhà có nhiểu mảnh kính vỡ nơi anh cất máy ảnh đến nổi thậm chí anh không thể bước vào trong, nhưng cuối cùng anh cũng vói được và mở ngăn tủ ra. Cây cối bên ngoài nhà kho cản đường, vì thế anh quay lại chuồng ngựa để chụp những bức ảnh đầu tiên của mình về đám mây nguyên tử-“đúng ra, một cảnh tượng ghê khiếp”- Các đám cháy bùng phát trong phần phía tây của thành phố đang lan rộng nhanh chóng, và anh chụp hết cả cuộn phim từ máy nhà của một xưởng máy. * Kimura thoát khỏi quả bom không bị thương tật, nhưng anh không bao giờ gặp lại vợ mình-anh đã để chị ở nhà sau bữa ăn sáng đó.
Những ai gần tâm chấn không hề nghe tiếng bom nổ. Ở càng xa, âm thanh càng dễ nhận biết, rồi vỡ tan. Cách ba dặm nó nghe như tiếng rùng rùng của tiếng sấm không thuộc thế giới này; cách bốn dặm nó là tiếng rền rĩ xa xăm rồi trở thành tiếng bùm chói tai. Gần hải cảng Kure, cách 12 dặm về hướng đông nam, Tadahiko Kitayama nghĩ rằng bãi rác quân nhu gần đó đã phát nổ, và vài dặm ở bờ biển, những người cứu hộ đang cố nâng chiếc tàu ngầm bốn-người Koryu, bị mắc cạn trong bãi bùn đáy biển, nghe một tiếng nổ vang như sấm điếc cả tai. Mấy phút sau đó họ nhận thấy một chiếc B-29 bay từ hướng Hiroshima.
Trong 15 phút không khí bên trên Hiroshima bị khuấy động bởi những sức mạnh vũ trụ. Rồi những giọt mưa to hạt bắt đầu lao thẳng xuống. Cột mây dâng cao đã mang hơi nước đủ cao để hơi nước đông lại, và nhiễm bụi phóng xạ, rơi thành những giọt lớn. “Cơn mưa đen,” kỳ lạ và gần như siêu nhiên, gây khiếp đảm cho những người sống sót. Có phải đó là loại dầu độc sẽ dính cứng vào da thịt và giết chết họ từ từ? Nó trút xuống những người gần như trần truồng, để lại những vệt xám trên thân thể họ, ghi khắc trong tâm khảm nhiều người một nhận thức về mối thảm họa không tưởng tượng được đã đến thăm viếng Hiroshima. Bà Tomita cố che chở đứa con hai giờ tuổi của mình, nhưng bé Hiroko bị nhiễm nặng bụi phóng xạ. Bé vẫn không thốt ra một âm thanh nào sau vụ nổ.
**
Cơn mưa chết chóc, đã thay đổi thành cơn mưa bụi vàng vọt, mù sương, lan ra về hướng tây bắc. Gần như không cơn mưa nào rơi xuống vùng phía đông nơi đám cháy càng lúc càng dữ dội, và Bác sĩ Yoshimasa Matsuzaka, chuyên khoa da liễu và đứng đầu bộ phận dân phòng thành phố, đang nỗ lực lập lại trật tự cho cơn hỗn loạn. Phớt lờ thương tích của mình, ông mặc vào đồng phục dân phòng mà vợ ông đã lục lọi được từ đống đổ nát trong phòng làm việc của ông, dựa mình vào con trai, ông bước về phía trạm cảnh sát Khu Đông giơ cao lá cờ Mặt Trời Mọc trên đầu cây gậy dài. Cảnh tượng của đám diễu hành nhỏ đầy quyết tâm mang đến sự cấp cứu ban đầu-Bà Matsuzaka và ba cô y tá theo sau-làm dân chúng an tâm. Nhóm dựng lên một trạm cấp cứu trước cơ quan cảnh sát-cách tâm chấn 1,200 ya-và những người bị thương, bị bỏng bắt đầu xếp thành từng hàng phía trước trạm.
Từ ngôi nhà bị tàn phá của mình cách đó không tới nửa dặm cảnh sát trưởng, Shiroku Tanabe, cố gắng một cách tuyệt vọng để đến được trạm cấp cứu. Nhưng ông bị ngăn trở khi có đến hàng ngàn người tị nạn (họ trông “như thể vừa bò ra từ một vũng máu”) lũ lượt kéo nhau ra khỏi điểm zero. Lúc mà Tanabe đến được
trạm cấp cứu, nó đã bốc hỏa. ông điều động và tổ chức một đội xách nước đi đến một hồ nước gần đó. Mặc dù phân nửa trạm đang bốc cháy, Bác sĩ Matsuzaka và đội cấp cứu gan lỳ vẫn tiếp tục chữa trị cho người bị thương và thúc giục họ tìm chỗ trú bên ngoài thành phố.
* Kimura tự tráng phim ở nhà. Chúng hơi quá sáng nhưng sử dụng được, và một tấm được in lại trong phần hình ảnh của sách này. Phim của Waldman bị hư khi nó được xử lý trong phòng tối trang bị hiện đại ở Tinian. Thiết bị phải giữ ở nhiệt độ 200 C nhưng do máy lạnh hư, phim gặp nhiệt độ nóng nên bị tróc lớp nhũ tương. Các bức ảnh trong máy ảnh nhỏ của Trung úy Gackenbach rất tuyệt.
* * Kỳ diệu thay toàn bộ gia đình, trừ đứa con trai không bao giờ được tìm thấy, sống sót với ít dấu hiệu bệnh tật. Hiroko được đặt tên hiệu là “Pikato” (chớp lóe nhỏ), và lớn lên thành một thiếu nữ khỏe mạnh và duyên dáng-một vộ địch quần vợt tại địa phương. Gia đình Tomita xây dựng lại trên đống đổ nát của ngôi nhà củ.
Khắp thị trấn, những mảnh vỡ vụn dễ cháy bắt lửa từ những lò than chứa đầy than nóng (các bà nội trợ đang chuẩn bị bữa ăn sáng). Hàng ngàn đám lửa nhỏ này bốc xoáy lên cuồng nộ bởi một cơn lốc xoáy bị hút về phía tâm chấn với một sức mạnh làm bật rễ cả những cây cổ thụ. Từng luồng hơi lửa nóng-chúng dường đã xuất phát từ những đèn hàn khổng lồ-xé toạc không thương tiếc những mái tôn như thể chúng là giấy bìa, phá nát những ngôi nhà và làm cong vẹo những cây cầu sắt. Cột điện thoại cháy nổ.
Gần địa điểm Lâu đài Hiroshima bốn người đàn ông chập choạng bước qua đường phố đang cháy mang chân dung to lớn của Nhật Hoàng; họ đã cứu được nó từ địa ngục của trung tâm liên lạc Quân đoàn 2 và đang cố gắng mang nó an toàn ra khỏi thành phố. Khi nhìn bức ảnh, những hàng dài người tị nạn mất hồn bổng bật lên tiếng kêu “Chân dung Hoàng thượng!” Những người bị bỏng hay chảy máu cúi chào thật thấp. Những ai không thể đứng lên chấp tay cầu nguyện. Khi tấm hình lắc lư qua Công viên Asano Sentei đến một con thuyền chờ sẵn, đang neo đậu trên sông, những cành thông cao ngất ngưởng cháy thành những ngọn đuốc. Những quân nhân bị thương trên bờ sông, đang đợi để được giải cứu, đứng nghiêm và chào khi con thuyền hướng về phía thượng nguồn đến chốn an toàn qua cơn mưa những tàn lửa.
Chỉ huy của họ, Tướng Fujii, bị thiêu cháy tại doanh trại gần lâu đài ngay trong phút đầu tiên nhưng Binh nhì Shigeru Shimoyama, người ở gần điểm zero hơn vẫn còn sống thậm chí sau khi bị các cây đinh trên thanh đà ở mái đâm xuyên qua người. Một cách đau đớn anh kéo người ra khỏi các cây đinh, và dùng đầu như cây rầm, tông liên tiếp vào mái nhà, mặt đầm đìa máu, cho đến khi thoát ra được. Các đám lốc bụi dày làm anh ngạt thở, anh biết là có một sức mạnh vô song nào đó đã quét qua thành phố như bàn tay của một gã khổng lồ đầy căm thù. Tại bờ sông anh trông thấy hàng chục người bị thương nhảy điên cuồng xuống nước. Họ nghĩ họ đang làm gì vậy? Mặt nước đã bao phủ bởi một lớp váng màu đỏ son. Có phải máu không? Shimoyama cứ lẩm bẩm với chính mình là hãy giữ bình tỉnh. Anh không lạ gì những tai họa; anh gần như bị giết chết trong trận động đất năm ’23, cuộc đột kích Doolittle và trận oanh tạc Tokyo bằng bom lửa vào 13/4. Anh bước đến bờ sông ngược chiều gió; như vậy đám lửa sẽ ở đằng sau anh.
Ngay trên đường đi anh bắt gặp một con ngựa đang đứng một mình. Nó màu hồng; luồng hơi nóng đã lột da nó. Nó nhìn anh van nài và bước theo anh ngập ngừng. Cảnh tượng đầy xót xa làm mê muội Shimoyama, và anh phải lấy hết sức để rướn tới (anh còn nằm mơ về con ngựa hồng nhiều năm sau đó. Nửa tá quân nhân khác cũng lầm lũi đi theo bờ sông về hướng bắc với cùng một mục đích, nhưng nom như mỗi người đều cô độc, chỉ bận tâm lo cho sự sống còn của riêng mình. Những dân thường, một số gần như trần truồng, cố dấn bước theo họ, nhưng khi tiếng rùng rùng của ngọn lửa phía sau càng kêu lớn hơn, các quân nhân bước nhanh hơn, bỏ lại người khác phía sau.
Một vài dặm về phía thượng nguồn Shimoyama lội qua sông nơi mực nước chỉ ngang cổ. Khi anh tiến gần đến ngoại ô nơi sức tàn phá của quả bom chưa đến, anh bị ám ảnh bởi một ý nghĩ-đó là một quả bom nguyên tử. Anh phải về nhà và nhìn con gái lần cuối cùng trước khi anh chết vì phóng xạ. Vào năm 1943 ông anh rễ của anh đã tin cho anh biết là người Nhật đang chế tạo một quả bom nguyên tử và trong một vài ngày qua, kỳ lạ thay, trong doanh trại của anh binh sĩ bàn tán râm ran về một quả bom như thế đến nổi khi có ai nổi cáu một người sẽ bảo, “Cậu ta như một quả bom nguyên tử.” Anh đi qua hàng chục nữ sinh trung học, bị bỏng nặng, nằm ườn ra trên vệ đường. Từ mặt, chân và tay họ từng dải da dài lủng lẳng như ruy băng. Họ dang tay ra van xin nước. Nhưng anh có thể làm gì được? Phía trước con đường, dân làng đang đắp những lát dưa leo lên vết phỏng của những người sống sót khác và mang những người bị thương nặng nhất đến trạm cứu cấp trong các xe đẩy rau quả.
Các báo cáo manh mún đầu tiên đến được Tokyo chỉ cho biết là Hiroshima đã gánh chịu một thảm họa không tiền khoáng hậu. Tổng Hành Dinh Đế Chế không thể gọi về trung tâm liên lạc Quân đoàn 2 để biết thêm chi tiết.
Hầu tước Kido ngay lập tức thông báo cho Nhật Hoàng biết là Hiroshima đã bị tàn phá bằng một vũ khí bí mật nào đó. “Trong tình huống này chúng ta phải chấp nhận điều không thể tránh khỏi,” Nhật Hoàng nói. Ông không thể che dấu nổi phiền muộn của mình. “Dù có điều gì xảy ra với tôi, chúng ta phải kết thúc cuộc chiến này ngay khi có thể. Thảm kịch này không nên được lặp lại.” Nhưng cả hai đều đồng ý là thời điểm tâm lý vẫn chưa đến đối với Nhật Hoàng để có thể tự mình hành động.
Trong ánh sáng chết dần của hoàng hôn đám cháy bắt đầu giảm dần và từ xa Hiroshima trông có vẽ thanh bình, như một doanh trại khổng lồ của một đoàn quân lặng lẽ đóng trên đồng bằng. Và tận trên cao, các vì sao bắt đầu lấp lánh trên nền trời đang đen sẫm. Dòng chảy ra khỏi thành phố đã đảo chiều khi những đoàn người cứu trợ đầu tiên lác đác từ bên ngoài đổ về.
Bác sĩ Shigeto của Bệnh viện Chữ Thập Đỏ, người đã chạy khỏi trận tàn sát khủng khiếp, đã trở lại. Đi từ trạm cứu cấp này đến trạm cứu cấp khác, ông đều được cho biết là nước uống có hại cho người bị phỏng. Ngược lại, ông thông báo, nước tống chất độc từ những vết bỏng ra khỏi cơ thể. Ông cho dựng bảng thông báo: BẠN CÓ THỂ CHO UỐNG NƯỚC. BÁC SĨ SHIGETO, PHÓ GIÁM ĐỐC, B.V. CHỮ THẬP ĐỎ.
Khi ông đi sâu hơn vào trong thành phố bị tàn phá, ông thấy mình bị các đống gạch đổ ún khói cản đường. Mặc dù hình như không có lối đi qua, ông kinh ngạc khi trông thấy một xe tải lớn chạy bằng than ầm ầm tiến đến, ra khỏi màn khói, trên xe chen chúc những người. Ông nhận ra bác tài, một người nấu rượu sake ở ngoại ô của ông. Ông ta đã đương đầu với địa ngục để mang thức ăn khẩn cấp và rượu sake cho khách hàng của mình, nhưng thấy những cửa hiệu của họ đều bị cháy rụi. Shigeto định vượt qua xe tải. “Không có ai ở trong đó đâu!” người tài xế la lên. “Không một con thú. Bác sĩ vào đó làm gì?” Shigeto đành phải để người ta kéo mình lên xe tải.
Bác sĩ phải mượn một chiếc xe đạp để vượt dặm đường cuối cùng về nhà. Ông bất ngờ gặp một phụ nữ, mang trên vai một em bé, lang thang trên con đường tối tăm. Khi nhìn thấy ông bà òa khóc không dứt. đó chính là vợ ông, và trong ký ức của mình, bà đã thắp một nén nhang trên bàn thờ Phật của gia đình.
Bên ngoài thành phố, các trạm cấp cứu đành bất lực khi nhìn hàng trăm người chết mỗi giờ. Shizuko 7 tuổi đang hấp hối mà không ai nghe em khóc hoặc phàn nàn. Em liên tiếp xin nước, và mẹ em tiếp nước cho em không nghe lời khuyên của người săn sóc. Tại sao không cho em thoải mái khi ra đi? “Cha [anh là một thủy
thủ đang ở đâu đó trên một hòn đảo Thái Bình Dương] đang xa nhà ở nơi nguy hiểm,” Shizuko nói như thể đang nhìn thấy cha trước mặt. “Mẹ ráng sống nghe mẹ. Nếu mẹ con ta đều chết, cha sẽ cô độc lắm.” Em nhắc lại tên các bạn bè và người thân. Khi nhắc đến ông bà nội em thêm, “ông bà thương con lắm.” Em khóc “Cha ơi, cha ơi!” và qua đời.
Ngày hôm đó có lẽ 100,000 sinh mạng đã tiêu vong ở Hiroshima, và một số bằng đó chết dần vì phỏng, thương tích và một chứng bệnh của thời đại nguyên tử, nhiễm độc phóng xạ.*
* Giáo sư Shogo Nagaoka, người quản lí đầu tiên của đài Tưởng Niệm Hòa Bình ở Hiroshima, kết luận là ít nhất 200,000 người chết do tác động của quả bom. Con số này được chứng thực bởi Bác sĩ Naomi Shohno và K. Sakuma sau một cuộc nghiên cứu sâu rộng.
Có 22 trong số nạn nhân là tù binh chiến tranh người Mỹ, và trong đó có một số phụ nữ. Sự kiện này được tiết lộ với một tờ báo Nhật vào tháng 7 năm 1970 bởi Hiroshi Yanagida, một chuẩn úy quân cảnh, có nhiệm vụ canh gác những người Mỹ. Có 23 tù binh tất cả. người thứ 23, một quân nhân trẻ, được lôi ra từ đống gạch vụn vẫn còn sống, nhưng bị đám đông những người Nhật sống sót nổi giận giết chết.
3
Lúc 2:58 P.M., giờ địa phương, Enola Gay đáp xuống North Field ở Tinian. Vài trăm sĩ quan và quan khách ào tới bao quanh chiếc phi cơ khi phi hành đoàn xuất hiện. Tướng Spaatz sải chân và gắn huy chương D.S.C cho Tibbets, bối rối thọc ống píp vào ống tay áo khoác để đứng nghiêm. Phi hành đoàn được săn hỏi tại câu lạc bộ sĩ quan, một ngôi nhà máy tôn, bên ly nước lemonade pha rượu bourbon. Một sĩ quan tình báo hỏi hoa tiêu Van Kirk thời điểm chính xác của viêc thả bom. Anh trả lời, “Lúc 091517K”- mười bảy giây hơn qui định.
“Tại sao lại trễ vậy?”
Mọi người cười lớn. Tướng Farrel rời buổi hỏi đáp để gởi báo cáo đầy đủ đầu tiên của mình (một bản
tin trước đây đã được truyền đi dựa trên những báo cáo ban đầu được điện từ Enola Gay) đến Tướng Groves.
. . . CHỚP LÓE KHÔNG QUÁ CHÓI LÓA NHƯ TRINITY DO ÁNH SÁNG MẶT TRỜI. TRƯỚC TIÊN LÀ MỘT QUẢ CẦU LỬA TRONG VÀI GIÂY ĐỔI THÀNH ĐÁM MÂY TÍM VÀ LỬA SÔI SỤC VÀ QUAY TÍT LÊN TRÊN. CHỚP LÓE ĐƯỢC QUAN SÁT NGAY KHI PHI CƠ QUAY ĐẦU VỀ. TẤT CẢ ĐỀU ĐỒNG Ý ÁNH SÁNG RỰC RỠ MÃNH LIỆT. . .
TOÀN BỘ THÀNH PHỐ TRỪ HAI ĐẦU XA NHẤT CỦA KHU BẾN TÀU BỊ CHE PHỦ BẰNG MỘT LỚP BỤI XÁM ĐEN KẾT NỐI VỚI CỘT MÂY. NÓ CUỒN CUỘN DỮ DỘI VỚI NHỮNG TIA LỬA NHÌN THẤY ĐƯỢC TRONG BỤI. ĐƯỜNG KÍNH ƯỚC TÍNH CỦA LỚP BỤI NÀY ÍT NHẤT LÀ BA DẶM. MỘT QUAN SÁT VIÊN NÓI RẰNG NÓ TRÔNG GIỐNG NHƯ THỂ TOÀN THỊ TRẤN BỊ XÉ TOẠC VỚI NHỮNG CỘT BỤI VỌT CAO KHỎI THUNG LŨNG TIẾN GẦN ĐẾN THỊ TRẤN. DO BỤI NÊN VIỆC QUAN SÁT BẰNG MẮT SỰ THIỆT HẠI VỀ CẤU TRÚC KHÔNG THỂ THỰC HIỆN ĐƯỢC.
THẨM PHÁN [Parsons] VÀ NHỮNG QUAN SÁT VIÊN KHÁC CẢM THẤY RẰNG CÚ ĐÁNH NÀY THẬT KHỦNG KHIẾP VÀ ĐÁNG SỢ THẬM CHÍ KHI SO SÁNH VỚI TR [Trinity]. HIỆU QUẢ CỦA NÓ CÓ THỂ ĐƯỢC NGƯỜI NHẬT CHO LÀ GÂY RA BỞI THIÊN THẠCH.
Tại Wasington, Groves đã nhận thông điệp sơ khởi ngay trước nửa đêm, 5 tháng tám. Vì giờ sớm nên ông không đánh thức Tướng Marshall; ông đến ngủ tại phòng làm việc để sẵn sàng khi có những báo cáo chi tiết gởi đến. Nó đến lúc 4:15 A.M., và ba giờ rưỡi sau đó Tham mưu Trưởng Marshall truyền đi tin tức qua điện thoại mật mã đến Stimson ở nhà ông ở Long Island. Bộ trưởng Chiến tranh đồng ý rằng phát biểu đã chuẩn bị sẵn của Truman liên quan đến quả bom nên được phát đi cho báo chí ngay sáng hôm đó.
Nó thông báo rằng một quả bom có tính cách mạng đã được thả xuống Hiroshima, được mô tả như là một căn cứ quân sự quan trọng. “Đó là một quả bom nguyên tử. Nó chế ngự năng lực cơ bản của vũ trụ. Sức mạnh từ đó mặt trời lấy được năng lượng đã được phóng thích chống lại những người mang chiến tranh đến vùng Viễn Đông.” Hoa Kỳ sẵn sàng xóa sổ tất cả xưởng máy, bến tàu, hệ thống giao thông của Nhật Bản. “Chỉ tránh cho nhân dân Nhật Bản khỏi bị hủy diệt toàn bộ theo như tối hậu thư ngày 26/7 tại Potsdam đã tuyên bố. Các lãnh đạo chính quyền đã bác bỏ tối hậu thư đó. Nếu giờ đây họ không chấp nhận điều kiện của chúng tôi, họ có thể mong đợi một trận mưa hủy diệt đến từ tầng trời, điều mà mặt đất này chưa hề được biết tới.”
Truman lên tàu Augusta trên đường về nhà từ Potsdam. Đại úy lục quân Franklin Graham chen vào bữa trưa của Tổng thống trong phòng ăn tập thể để trao cho ông một tin điện ngắn từ Stimson báo rằng “quả bom lớn” đã được thả xuống Hiroshima, tất nhiên rất thành công. Truman nhìn lên. “Đại úy Graham,” ông nhận xét, “đây là sự kiện vĩ đại nhất trong lịch sử,” và rơi vào im lặng. Trong vòng vài phút một thông điệp khác đã đến. Nó trích báo cáo từ Parsons cho hay các kết quả là “rất rõ ràng, thành công về mọi mặt.”
Truman đã giữ lại tin điện đầu tiên bên mình. Giờ ông đột ngột xô ghế đứng dậy và sảy bước đến Byrnes ở một bàn gần đó. “Giờ là lúc về nhà!” ông nói một cách bí ẩn. Ông nhặt chiếc nĩa và gõ leng keng vào chiếc ly. Gian phòng bổng im lặng và ông bảo với các thủy thủ về thứ vũ khí mới. Tổng thống bỏ đi đến phòng ăn tập thể của sĩ quan, tiếng hoan hô của những thủy thủ theo sau ông qua hành lang. “Hãy an tọa, quí vị,” ông bảo với các sĩ quan đang ngơ ngác. “Chúng ta vừa mới thả xuống đất Nhật một quả bom có sức nổ hơn 20,000 tấn TNT. Đó là một thành tựu vang dội. Chúng ta đã thắng trận!”
Tại quê nhà ông ở Tokyo, Bộ trưởng Nội các Sakomizu đang nằm trên giường nửa tỉnh nửa thức khi Cục Tin tức Domei điện thoại báo tin về lời tuyên bố của Truman. Những từ “bom nguyên tử” làm ông choàng tỉnh, Ông bàng hoàng, nhưng cùng lúc đó nhận ra rằng đây là “thời cơ bằng vàng” để kết thúc cuộc chiến. Không quốc gia nào có thể tự bảo vệ tránh khỏi bom nguyên tử. Sẽ không cần thiết khi đổ lỗi cho phe quân sự đã để thua trận. Ông nhấc điện thoại gọi Thủ tướng.

Enola Gay và phi hành đoàn, Tibbets là người đứng giữa

Một cái nấm khổng lồ hình thành trên cột khói khủng khiếp

Cảnh hoang tàn sau vụ nổ bom

Và các nạn nhân còn sống sót
II. . . và Nagasaki

Quả bom nổ tại Nagasaki
1
Ở Hiroshima những hiệu quả bí ẩn của phóng xạ dần được biết đến vào bình minh ngày 7/8. Shogo Nagaoka, nguyên nhà địa chất tại đại học, đang cố vươt qua đống đổ nát để đến khuôn viên đại học. Vừa mới nhập ngũ, ông đã trốn khỏi đơn vị vì lo lắng cho số phận của đại học và đã đi bộ hàng giờ liền. Ông khó có thể đo lường hết sự tàn phá vô cùng tận. Tại Đền Gokoku gần tâm chấn ông sụp xuống kiệt sức dưới chân một thạch đăng. Ông cảm thấy đau nhói-đó là phóng xạ-và bật đứng dậy. Rồi ông nhận ra một hình bóng đen kỳ lạ in trên thạch đăng và một phần bề mặt của nó bị tan chảy. Một nhận thức đột ngột và đáng sợ bừng lên trong trí ông: một quả bom nguyên tử. Nhật Bản phải đầu hàng ngay lập tức.
Tại hàng chục trạm cấp cứu các bác sĩ đều hoang mang. Các triệu chứng của các bệnh nhân rất quái lạ đến nổi nó được ngờ là chất ga độc hăng hắc đã được sử dụng để gieo rắc bệnh lỵ thuộc khuẩn hình que. Một số nạn nhân chỉ bị cháy sém một bên mặt; kỳ thay, một số người có bóng đen của mũi hoặc tai in lên má. Như Nagaoka, Bác sĩ Shigeto của Bệnh viện Chữ Thập Đỏ đã nghe nói về năng lượng nguyên tử và đoán rằng nạn nhân bị thương vì phóng xạ nguyên sinh. Ông kiểm tra các bức tường của bệnh viện bằng máy đo tia X đơn giản. Tuy nhiên, số chỉ thị quá thấp nên ông kết luận ở đó vẫn an toàn.
Những hậu quả thật khó dự đoán. Binh nhỉ Shimoyama, một trong những người ở gần tâm chấn nhất, đã cận thị trước vụ pika. Giờ đây khi anh nhìn qua kính cận mọi thứ trở nên mờ nhòe. Có phải anh sắp bị mù không? Khi anh cuối cùng gỡ cặp kính ra anh phát hiện là mình đã lấy lại thị giác hoàn hảo. Nhưng tóc anh đã rụng hết và anh đang mắc cùng một chứng bệnh đã giáng xuống hàng ngàn người khác. Trước tiên họ cảm thấy buồn nôn và ói mửa; tiếp theo bị tiêu chảy và sốt. Những phản ứng khác thì thất thường. Một số bệnh nhân mình mẫy đầy những đốm sáng-đỏ, xanh lá-vàng, đen và tím-nhưng vẫn sống; những người khác thân thể của họ không dấu vết thương tích gì thì lại chết đột ngột. Một người trốn thoát với một bàn tay bị phỏng nhẹ và phớt lờ nó cho đến khi anh bắt đầu nôn ra máu. Anh nhúng bàn tay bị thương vào nước và “một thứ gì đó kỳ lạ và hơi xanh thoát ra từ đó, giống như khói.”
Nổi khiếp sợ về điều không biết, được nhân lên với cảm giác mơ hồ về tội lỗi và hỗ thẹn, túm lấy họ: họ sống vì họ đã phớt lờ lời cầu xin được giúp đỡ của người thân và người hàng xóm và để mặc họ mắc kẹt dưới đống đổ nát đang bốc cháy. Những tiếng kêu thảm thiết của những nạn nhân đã chết sẽ ám ảnh họ mãi. Cha mẹ đã để lạc mất con cái tự nhận lỗi về mình, và con cái lạc mất cha mẹ cảm thấy mình bị trừng phạt vì tội không ngoan. Thảm kịch và nhẫn tâm đã làm lung lay cấu trúc phức tạp và sâu sắc của đời sống gia đình Nhật Bản.
Tại Tokyo Quân đội vốn cuồng tín không chịu nhận trách nhiệm đầu hàng khiến họ nghi ngờ liệu việc một thành phố lớn bị hủy diệt hoàn toàn có quan trọng gì không. Họ không thấy giá trị trong đề nghị của Ngoại trưởng Togo cho rằng Nhật nên chấp nhận Tuyên bố Potsdam thậm chí khi ông chỉ ra bằng lý luận rằng quả bom “làm thay đổi sâu sắc cán cân quân sự và mang đến cho giới quân sự những cơ sở đầy đủ để kết thúc cuộc chiến.”
“Một biện pháp như thế là không cần thiết,” Bộ trưởng chiến tranh Anami phản pháo. “Hơn nữa, chúng ta chưa biết liệu đó có phải là bom nguyên tử hay không.” Họ chỉ nghe có Truman nói. Biết đâu đó là trò lừa bịp. Tiến sĩ Yoshio Nishina, nhà khoa học hạt nhân hàng đầu của quốc gia, nên được gởi đến tận nơi để điều tra Hiroshima.
Khi Tiến sĩ Nishina và Trung Tướng Seizo Arisue, cục trưởng Tình báo, chuẩn bị lên máy bay ở Căn cứ Không quân Tachikawa, tiếng còi báo động không kích bắt đầu cất tiếng hú báo tử của nó. Arisue ra lệnh cho Tiến sĩ Nishina nán lại đợi cho đến khi tiếng còi báo an nổi lên, còn ông và vài người phụ tá cất cánh ngay lập tức. Máy bay của họ bay đến Hiroshima vừa trước hoàng hôn. Vị tướng đã từng chứng kiến nhiều thành phố hoang tàn vì bom lửa-thường có vôi gạch đổ nát âm ỉ cháy, khói bốc ra từ các căn bếp thoát hiểm nhưng vẫn còn có dấu hiệu của hoạt động con người-nhưng bên dưới ông bây giờ chỉ là một sa mạc không người trải dài. Không khói, không lửa, không gì cả. Không thấy cả một đường phố nào.
Viên phi công quay lại và nói lớn, “Thưa ngài, dưới kia chính là Hiroshima. Chúng ta làm gì bây giờ?”
“Đáp xuống!”
Chiếc phi cơ đáp xuống một vạt cỏ gần hải cảng. Khi Arisue bước xuống ông nhận thấy đám cỏ, một màu đất sét kỳ lạ, nằm rạp xuống hướng về Biển Inland: như thể nó được ủi bằng một bàn ủi khổng lồ nóng cháy. Đoàn người được được một trung tá tiếp đón với cái chào trang trọng. Má bên trái của ông bị bỏng nặng, còn má bên phải vẫn lành lặn. Một thuyền máy đưa Arisue đến Bộ Chỉ huy Vận tải Thủy. Tại bến tàu ông được tiếp đón bởi Trung tướng Hideo Baba, một người bạn từ Học viện Quân sự, báo cáo cho ông tình trạng thiếu điện, thiếu nước ở Hiroshima. Hai vị tướng ngồi ngoài trời cạnh một chiếc bàn gỗ dài chiếu sáng bằng các ngọn nến. Baba, với giọng nói nghẹn ngào, kể lại chuyện con gái ông đã ra đi như thế nào trên đường đến trường. “Không phải chỉ có con gái tôi, nhưng hàng ngàn đứa trẻ vô tội khác cũng bị tàn sát. Quả bom mới này là ma quỹ, quá tàn bạo và khủng khiếp để sử dụng.” Ông lấy hai bàn tay che lấy mặt.
Arisue ôm choàng lấy bạn mình. “Hãy nhớ chúng ta là quân nhân,” ông cuối cùng nói. Baba xin lỗi vì quá yếu mềm. Ông bảo với Arisue đang lan tràn một tin đồn là người Mỹ sắp sửa ném một quả bom mới khác lên Tokyo.”*
Dân chúng lũ lượt trở lại thành phố càng lúc càng đông. Các nhóm công tác bắt đầu thu dọn các thi thể và hỏa thiêu với bất cứ thứ gỗ gì họ có thể tìm được. Mùi xú uế bốc lên tanh tưởi, phần nào giống cá mòi nướng, nhưng một số công nhân dần dần quen và thích ngửi cái mùi đó; nó thực sự kích thích họ ăn ngon miệng hơn.
Máy bay của Tiến sĩ Nishina đến Hiroshima chiều ngày hôm sau. Ông giám sát thành phố và ngay lập tức kết luận chỉ cần một quả bom nguyên tử là có thể gây ra sự tàn phá như thế. Ông báo cho Tướng Arisue đó là một quả bom loại uranium giống như quả bom mà ông đang thử triển khai. Ông có nên tiếp tục công việc chế tạo bom không?
Arisue không trả lời.
Sự tàn phá Hiroshima khiến cho hi vọng không thực tế của Nhật Bản về một nền hòa bình được thỏa thuận qua sự hỗ trợ tốt bụng của Liên bang Xô viết càng khẩn thiết hơn bao giờ hết. Togo đánh điện cho Đại sứ Sato ở Moscow:
TÌNH HÌNH ĐÃ TRỞ NÊN CẤP THIẾT ĐẾN NỔI CHÚNG TA PHẢI CÓ ĐƯỢC SỰ MINH BẠCH VỀ THÁI ĐỘ CỦA XÔ VIẾT SỚM NHƯ CÓ THỂ. LÀM ƠN NỖ LỰC HƠN NỮA ĐỂ CÓ ĐƯỢC CÂU TRẢ LỜI NGAY LẬP TỨC.
* Nổi sợ hãi Tokyo sẽ trở thành mục tiêu cho quả bom thứ hai được khẳng định vào tối hôm sau bởi một phi công chiến đấu Mỹ bị bắn rơi gần Osaka và bị bắt. Trung úy Marcus McDildo không biết tí gì về năng lượng nguyên tử cho đến khi viên sĩ quan tra hỏi, một vị tướng, thọc mạnh lưỡi kiếm vào môi anh và đe dọa lấy đầu anh. McDildo đành khuất phục. Với giọng lè nhè của người Florida anh mô tả bắng cách nào nguyên tử được tách làm phần dương và phần âm, sau đó được ngăn cách bằng một lớp chắn bằng chì cho vào một cái hộp dài 36 bộ và rộng 24 bộ. Khi hộp được thả xuống từ một máy bay, miếng chắn chì chảy ra và phần dương và âm hợp nhất lại, phát ra một vụ nổ khủng khiếp có thể hủy diệt cả một thành phố. Khiếp sợ, người tra hỏi muốn biết mục tiêu sắp tới ở đâu. McDildo suy nghĩ nhanh chóng. “Tôi tin là Kyoto và Tokyo. Tokyo được dự tính bị bỏ bom vài ngày tới.”
Vào buổi chiều ngày 8/8 đại sứ yêu cầu được diện kiến ngay lập tức với Molotov, người đã tránh mặt ông vài tuần nay. Ông được hẹn gặp vào lúc 8 giờ tối hôm đó nhưng vài phút sau ông được yêu cầu mà không giải thích lý do là sẽ gặp sớm hơn vào lúc 5 giờ chiều. Sato cố hết sức giữ bình tĩnh khi bước vào điện Kremlin đầy ngóc ngách một vài phút trước lúc 5 giờ. Ông được đưa vào phòng làm việc của Molotov, nhưng trước khi ông có thể cất tiếng chào hỏi vị Ủy viên Ngoại giao bằng tiếng Nga như thói quen của ông, Molotov đã cắt ngang với một cái vẫy tay. “Tôi mang theo đây, nhân danh Liên bang Xô viết, một thông báo gởi đến chính phủ Nhật Bản mà tôi muốn truyền đạt với ngài.”
Linh tính cho Sato biết rằng đây là lời tuyên chiến. Mặc dù ông đã đang chờ đợi nó, nhưng khi nó đến ông như bị đấm vào mặt. Molotov rời khỏi ghế và đến ngồi xuống tại đầu một chiếc bàn dài. Sato được mời ngồi xuống chiếc ghế ở đầu kia. Với tất cả sự diễn cảm Molotov bắt đầu đọc một văn kiện:
“Sau khi Đức Quốc Xã bị đánh bại và đầu hàng, Nhật Bản vẫn còn là một siêu cường muốn tiếp tục chiến tranh.
“Yêu sách của ba siêu cường, Hoa Kỳ, Vương quốc Anh và Trung Quốc, công bố vào ngày 26/7 về một việc đầu hàng vô điều kiện của các lực lượng quân sự Nhật Bản đã bị Nhật bác bỏ. Do đó lời đề nghị của Chính phủ Nhật gởi đến Liên bang Xô viết làm trung gian ở Viễn Đông đã không còn cơ sở.
“Xét vì sự từ chối đầu hàng của Nhật Bản, Đồng minh tiếp cận với Chính phủ Xô viết với lời đề nghị tham gia cuộc chiến chống sự xâm kích của Nhật để nhanh chóng kết thúc chiến tranh, giảm bớt thương vong và góp phần vào việc tái lập nhanh chóng hòa bình.
“Trung thành với nghĩa vụ của một Đồng minh, chính phủ Xô viết đã chấp nhận lời đề nghị của Đồng minh và đã tham dự vào tuyên bố của lực lượng Đồng minh ngày 26/7.
“Chính phủ Xô viết xét thấy rằng chính sách này là phương cách duy nhất có khả năng đem lại hòa bình gần hơn, để giải thoát nhân dân khỏi bị hi sinh và đau khổ hơn nữa và đem đến cho nhân dân Nhật Bản cơ hội tránh được nguy cơ bị hủy diệt mà Đức đã chịu đựng khi từ chối đầu hàng vô điều kiện.
“Vì những điều trên, chính phủ Xô viết tuyên bố rằng bắt đầu từ ngày mai, tức là từ ngày 9/8, Liên bang Xô viết xem như đang trong tình trạng chiến tranh với Nhật Bản.”
Kềm chế cơn xúc động, Đại sứ Sato lễ phép diễn tả sự hối tiếc việc Liên bang Xộ viết vi phạm hiệp ước bất tương xâm gần một năm trước khi hết hạn. Giờ đây, ông xin một ân huệ được điện thông tin về chính phủ. Molotov dẹp bỏ bộ mặt lạnh lùng: Sato có thể đánh đi bất cứ bức điện nào và bằng mật mã. Ông nói bản thân mình lấy làm hối tiếc về điều đã xảy ra. “Tôi hoàn toàn hài lòng với các hoạt động của ngài với tư cách một đại sứ Nhật Bản mấy năm vừa qua và vui sướng vì hai chúng ta có thể duy trì mối quan hệ tốt đẹp giữa hai chính phủ chúng ta cho đến tận hôm nay mặc dù vô vàn khó khăn đối mặt chúng ta.”
“Tôi biết ơn vì thiện chí và lòng hiếu khách của chính phủ của ngài,” Sato trả lời bằng thứ tiếng Nga ngập ngừng, “khiến tôi có thể nán lại Moscow trong thời buổi khó khăn này. Thật đáng buồn khi chúng ta phải chia tay như những kẻ thù. Nhưng biết làm sao được. Dù sao, thì chúng ta hãy bắt tay nhau để chia tay. Đây có thể là cái bắt tay cuối cùng.”
Họ bắt tay nhau, nhưng gần như ngay lập tức dây điện thoại tại tòa đại sứ Nhật bị cắt đứt và mọi thiết bị ra-điô đều bị tịch thu. Sato viết một bức điện bằng tiếng Nhật thường không phải mật mã và gởi đến phòng điện tín.
2
Vụ ném bom Hiroshima không nghi ngờ gì nữa đã thúc giục người Nga đẩy nhanh thời khóa để bước vào cuộc chiến, nhưng hàng tháng rồi 1,600,000 quân dưới sự chỉ huy của Nguyên soái A. M. Vasilievsky đã tập kết dọc theo biên giới Mãn Châu. Họ đối diện với Quân đoàn Quảng Đông, với quân số phân nửa, đã bị tước đoạt hết xe bọc sắt và súng chống tăng, và hiệu năng trung bình của họ không tới 30 phần trăm đơn vị tiền tuyến trước chiến tranh.
Hai giờ sau khi Molotov đọc tuyên bố tuyên chiến với Sato, hai quân đoàn Xô viết vượt biên vào Mãn Châu từ hướng Tây. Cùng lúc đó một quân đoàn khác, đóng ở Vladivostok, xâm chiếm từ hướng đông. Dù gặp những con đường lầy lội và những dòng suối nước tràn bờ do những cơn mưa xối xả suốt ngày, nhưng ba cánh quân Nga hùng hậu vẫn ồ ạt tiến vào Tsitsihar, Taonan và thủ phủ Harbin.
Ngay sau cuộc họp với Sato, Molotov thông tin cho Đại sứ Averell Harriman cuộc chiến với Nhật sẽ bắt đầu vào nửa đêm. Liên bang Xô viết đã quyết định giữ đúng cam kết đúng lúc để bước vào trận chiến Thái Bình Dương ba tháng sau khi đánh bại Đức Quốc Xã.
Sau đó vào buổi tối Harriman và George Kennam nhận thấy Stalin đang trong một tâm trạng hào hứng. Ông thông báo rằng những đơn vị Xô viết đầu tiên đã tiến sâu 10 đến 12 cây số vào Mãn Châu. “Ai có thể nghĩ rằng tình hình diễn tiến quá nhanh vào lúc này!” ông hớn hở.
Harriman hỏi ông quả bom nguyên tử liệu sẽ có tác động gì với người Nhật? Stalin tin tưởng rằng kẻ thù sẽ tìm kiếm bất kỳ nguyên cớ gì để thành lập một chính phủ mới nhằm dàn xếp một cuộc đầu hàng. Harriman nhắc ông may mắn như thế nào khi người Xô viết đứng về phe sản xuất được quả bom, khiến Stalin bắt đầu niềm nỡ thảo luận về năng lượng nguyên tử. Ông ta hình như không mảy may băn khoăn khi các đồng minh đã ghi được một thành tựu khoa học lớn lao. Không ai biết rằng ngày hôm trước ông đã triệu tập năm nhà khoa học hạt nhân hàng đầu của Nga đến điện Kremlin và ra lệnh cho họ phát triển quả bom của chính họ ngay như có thể với bất cứ giá nào; ông ta đã cử Lavrenti P. Beria, Tổng Ủy viên An ninh Nhà nước và là người gieo khiếp đảm nhiều nhất ở Liên bang Xô viết, vào vai trò điều hành tổng quát của dự án.
Có thể hiểu được tại sao người Mỹ nói chung coi quả bom nguyên tử chủ yếu như một sự giải thoát khỏi bốn năm chiến tranh đắt giá. Tuy nhiên, một số ít nhìn xa hơn sự hân hoan thông thường. Đô đốc Leahy cho rằng nó là một vũ khí phi nhân được sử dụng cho một dân tộc đã bị đánh bại và sẵn sàng đầu hàng, và rằng người Mỹ “đã công nhận một chuẩn mực đạo đức ngang với bọn man rợ của Thời kỳ Tối tăm.”
Stimson cũng giữ nguyên thái độ băn khoăn nghiêm trọng. Chiều đó ông đã đưa cho Tổng thống xem bức ảnh minh họa sinh động “sự hủy diệt toàn bộ” của Hiroshima. Ông nói rằng họ phải đem hết sức mình để thuyết phục Nhật Bản đầu hàng càng nhanh càng tốt và thành công tùy thuộc phần lớn vào cách thức chúng ta tiếp cận người Nhật. “Khi bạn trừng phạt con chó của mình,” ông nói, “bạn không tẩy chai nó suốt ngày sau khi đã trừng phạt xong; nếu bạn muốn giữ được cảm tình của nó, hãy để trừng phạt làm công việc của nó. Với Nhật Bản cũng vậy. Về bản chất họ là một dân tộc hiếu khách và chúng ta phải nương theo điều kiện đó với họ . . . “
Nhưng Truman chưa sẵn sàng vượt quá Tuyên bố Potsdam. Không phải ông không xúc động trước bức ảnh của Hiroshima, và nhìn nhận “trách nhiệm khủng khiếp mà sự hủy diệt đó đã đặt lên chúng ta ở đây và chính ông.” Cùng lúc đó, một quả bom thứ hai sẽ phải được sử dụng lúc này. Không có buổi họp cấp cao nào được triệu tập để thảo luận về sự cần thiết của một quả bom thứ hai, không ai thử xác định liệu quả bom thứ nhất hoặc việc Nga bước vào cuộc xung đột đã đẩy nhanh ý định đầu hàng của Nhật Bản. Nếu có sự ân hận về đạo lý nào mà các nhân vật có ảnh hưởng, trừ Stimson, cảm nhận được thì chúng không được diễn đạt đến Tổng thống, còn ông thì không cảm nhận gì cả. Ộng sẵn sàng ném hai quả bom, ba-và nhiều hơn nữa, nếu việc đó cứu vớt sinh mạng người Mỹ.
Tại Guam, 32 bản sao mật lệnh cho việc oanh kích lần hai được in rô-nê-ô. Quyết định về cách thức và thời điểm sử dụng quả bom tiếp theo giờ nằm trong tay các Tham mưu Trưởng Liên quân. Thời điểm cất cánh ấn định là sáng sớm hôm sau, 9/8. Có 2 mục tiêu lựa chọn, cả hai đều ở trên đảo Kyushu: chính là Xưởng Vũ khí và Thành phố Kokura,” và thứ hai, “Vùng thành thị Nagasaki.”
Trên Saipan gần đó, 16 triệu tờ rơi được thiết kế để thuyết phục người Nhật đầu hàng đã được Phòng Thông tin Chiến tranh in ra. Lượt tuyên truyền đầu tiên không mấy hiệu quả. Những cụm từ cổ và lỗi thời được sử dụng, những hình vẽ cho thấy đàn ông Nhật mặc đồ kimono với vạt trái úp lên vạt phải như các bà, và chụp ảnh các chiếc đũa được đặt mỗi chiếc ở hai bên đĩa như dao và nĩa của người Âu; các từ Nhật thì thường lạc điệu một cách khôi hài: “tự do ngôn luận” trở thành “tự do từ ngữ,” và “tự do mong cầu” trở thành “khỏi cần ước muốn.” Nhưng những lỗi này đã được đính chính, và từ đầu năm các tờ rơi của người Mỹ đã gây một tác
động đối với dân chúng. Đặc biệt, tờ hiện thời sẽ gây một hiệu quả rõ nét lên tinh thần dân chúng:
GỞI NHÂN DÂN NHẬT BẢN
Hoa kỳ yêu cầu bạn lập tức chú ý đến nội dung những gì chúng tôi nói trong tờ rơi này.
Chúng tôi đang sở hữu những quả bom nguyên tử có sức hủy diệt nhất từng được con người chế tạo. Chỉ một trong các quả bom nguyên tử mới được triển khai của chúng tôi thực sự có sức công phá bằng 2,000 máy bay B-29 khổng lồ của chúng tôi trong một đợt oanh tạc. Sự kiện đáng sợ này đáng cho các bạn suy nghĩ và chúng tôi long trọng bảo đảm với các bạn rằng điều này là một sự thật không lay chuyển.
Chúng tôi vừa mới bắt đầu sử dụng vũ khí này chống lại xứ sở các bạn. Nếu bạn còn có bất kỳ ngờ vực nào, hãy tìm hiểu những gì xảy ra với Hiroshima khi chỉ có một quả bom rơi xuống thành phố đó.
Trước khi sử dụng quả bom này để phá hủy mọi khí tài quân sự mà họ dùng để kéo dài cuộc chiến vô ích này, chúng tôi yêu cầu các bạn giờ đây hãy thỉnh cầu đến Nhật Hoàng hãy kết thúc chiến tranh. Tổng thống của chúng tôi đã vạch ra cho các bạn 13 điều khoản của một cuộc đầu hàng danh dự. Chúng tôi kêu gọi bạn chấp nhận những điều khoản này và bắt đầu ra sức xây dựng một nước Nhật mới, tươi đẹp hơn và yêu chuộng hòa bình.
Giở đây chúng tôi sẽ tiến hành các bước tiến nhằm dập tắt sức kháng cự quân sự. Nói cách khác, chúng tôi sẽ cương quyết sử dụng quả bom này và tất cả các siêu vũ khí khác của chúng tôi nhằm nhanh chóng và cưỡng bách kết thúc cuộc chiến.
Hãy di tản khỏi thành phố ngay bây giờ!
Thậm chí trước khi các tập sách được phân phối, các tờ báo ở Nhật cành báo rằng các bom “loại mới” đã được sử dụng tại Hiroshima mà ta “không nên coi thường.” Kẻ thù, tờ The Nippon Times nói, giờ đang lộ diện là kẻ “chủ tâm giết hại và làm bị thương càng nhiều dân chúng vô tội càng tốt nhằm thỏa mãn ý muốn kết thúc chiến tranh nhanh chóng.” Một bài xã luận có đầu đề “Một Vi Phạm Đạo Đức Chống Lại Nhân Loại” tiết lộ rằng quả bom mới sở hữu “sức mạnh chưa từng có. Không những phần lớn thành phố bị quét sạch, mà một tỷ lệ to lớn cư dân đã bị giết hoặc bị thương.”
Vào chiều ngày 8/8 Thiếu tá Charles Sweeney, người đã lái chiếc The Great Artiste qua Hiroshima, được
loan tin là người sẽ thả quả bom thứ hai, sử dụng một phi cơ khác. Không giống như quả bom dùng tại Hiroshima, đây là đầu đạn plutonium cầu, dài 10 bộ tám in-xơ và 5 bộ đường kính, biệt danh “Ông Mập” theo tên của Churchill. Đại tá Tibbets bảo Sweeney và phi hành đoàn của ông là “Ông Mập” sẽ làm cho quả bom đầu tiên bị lỗi thời. Ông chúc họ may mắn.
Trong sứ mạng của mình Sweeney sẽ dùng Bock’s Car, trong khi hoa tiêu chính qui của nó, Đại úy Bock, lãnh nhiệm vụ lái máy bay công cụ.* Còn The Great Artiste được bố trí không chính thức cho một vai trò kép: ba nhà khoa học trẻ tuổi-Luis Alvarez, Philip Morrisori và Robert Serber-đính kèm lời kêu gọi cá nhân của mình, mà ba người cùng ký, vào một cái hộp nhỏ sẽ được thả dù xuống phía trên mục tiêu để thu thập dữ liệu. Bao thư gởi cho Giáo sư Ryokichi Sagane, một nhà khoa học hạt nhân Nhật Bản mà ba người đã từng quen biết khi làm việc chung với nhau vào thập niên 1930 tại Phòng Thí nghiệm Phóng xạ Đại học California.
Gởi Giáo sư R. Sagane,
Từ: Ba đồng nghiệp khoa học trẻ trước đây của ông trong thời gian ông dừng chân tại Hoa Kỳ
Chúng tôi gởi đến ông bức thư có tính cá nhân này để thúc giục ông sử dụng ảnh hưởng của mình với tư cách một nhà vật lý hạt nhân tiếng tăm để thuyết phục Bộ Tổng Tham mưu Nhật Bản về hậu quả khủng khiếp mà nhân dân các ông có thể gánh chịu nếu các ông tiếp tục cuộc chiến này.
Vài năm trở lại đây ông đã biết rằng một quả bom nguyên tử có thể được chế tạo nếu một quốc gia chịu bỏ ra chi phí khổng lồ để chuẩn bị những nguyên liệu cần thiết. Giờ ông đã thấy là chúng tôi đã xây dựng các nhà máy sản xuất, chắc ông không còn nghi ngờ gì khi tất cả sản lượng của những nhà mày này, làm việc 24 giờ mỗi ngày, sẽ được cho nổ trên đất nước của ông.
Chỉ trong vòng ba tuần, chúng tôi đã cho nổ thử một quả trên sa mạc Mỹ, một quả khác tại Hiroshima, và khai hỏa quả thứ ba sáng nay.
Chúng tôi khẩn nài ông xác nhận sự thật này cho các nhà lãnh đạo của ông, và làm hết sức mình nhằm chấm dứt sự tàn phá và hao tổn sinh mạng mà hậu quả là sự hủy diệt toàn phần tất cả các thành phố của ông nếu tiếp tục. Là một nhà khoa học, chúng tôi lấy làm tiếc về mục đích mà một khám phá đẹp đẽ đã được sử dụng đến, nhưng chúng tôi có thể bảo đảm với ông rằng trừ khi Nhật Bản đầu hàng ngay lập tức, cơn mưa bom nguyên tử sẽ gia tăng gấp nhiều lần cơn thịnh nộ.
Lúc 3:49 A.M. Bock’s Car ầm ầm chạy xuống đường băng dài. Không giống quả bom đầu tiên, “Ông Mập” không thể lắp ráp trong khi bay và phải gắn ngòi nổ sẵn khi cất cánh. Đường chạy lấy đà của chiếc B.29 tưởng như vô tận nhưng rồi cuối cùng mũi nó cũng chúc lên, và chầm chậm bay đi về hướng bắc trong bóng đêm, theo sát là chiếc The Great Artiste và máy bay chụp ảnh.
Ngay từ đầu hình như sứ mạng đã gặp rủi ro. Sweeney phát hiện bộ lọc nhiên liệu cho 600 ga-lông dầu trong thùng chứa ở khoang bom không chịu hoạt động. Với nhiên liệu dự trữ không sử dụng được, phạm vi hoạt động của Bock’s Car bị hạn chế một cách nguy hiểm, nhưng Sweeney vẫn quyết định dấn tới.Lúc 8:09
* Việc đổi máy bay vào phút chót làm bối rối các nhà viết sử. Do lầm lẫn các thông cáo chính thức cho biết rằng chiếc The Great Artiste đã bỏ bom và thông tin này đã được hầu hết các bài tường thuật khác trích lại, kể cả vài bài do nhân chứng viết. Sai sót được phát hiện vào năm 1946 khi có kế hoạch cho The Great Artiste về hưu, vì vai trò lịch sử của nó, và nhờ thế người ta mới biết số sê-ri của máy bay chở bom là số khác.
Giáo sư Sagane chỉ đọc được lá thư sau chiến tranh. Nếu ông nhận được ngay ông có thể thuyết phục một nhóm các khoa học gia tên tuổi gia nhập với ông trong việc phản kháng, nhưng bức thư cố tình không được giao cho ông. Ngày sau khi quả bom được ném xuống một sinh viên cũ của ông, một sĩ quan hải quân, xúc động báo tin cho ông biết là một bức thư do một vài người Mỹ gởi đến ông đã được giao cho Hải quân. Tuy nhiên một sĩ quan Lục quân đã chỉ thị Giáo sư Sagane đừng đếm xỉa gì đến tin đồn ông có thể nghe là Hải quân đã tìm được một bức thư “nói về quả bom nguyên tử” vì không có bức thư như thế.
A.M. giờ Tokyo, trước thời hạn ấn định 1 phút, một hòn đảo nhỏ xuất hiện phía trước qua một khoảng trống giữa các đám mây. Đó là Yakushima, tận bờ biển phía nam của đảo Kyushu, nơi Bock’s Car được dự trù họp với các máy bay hộ tống của mình.
Ba phút sau một chiếc B-29 khác lù lù hiện ra giữa đám mây. Đó là chiếc The Great Artiste. Hai phi cơ bay vòng vòng trong 45 phút nhưng không thấy chiếc máy bay chụp ảnh xuất hiện. “Kệ nó đi,” Sweeney bảo cơ phó. “Chúng ta không thể đợi lâu hơn được.” Ông lắc cánh và bay về hướng mục tiêu chính. Kokura, một hải cảng trên bờ biển đông bắc của Kyushu, được báo cáo là có tầm nhìn rõ. Nhưng thành phố bổng thình lình trở nên mờ mịt phần nào vì khói và sương mù, và người cắt bom Kermit Beahan, người được phân công dò tìm mục tiêu bằng mắt, không thể nào tìm được điểm nhắm. Anh gọi lại Sweeney, “Chúng ta phải di chuyển đến vị trí khác thôi.”
“Hoa tiêu nói với phi hành đoàn,” Sweeney thông báo. “Không bỏ. Lặp lại, không bỏ.” Ông nghiêng cánh thật gắt và hướng đến vị trí khác thử lần thứ hai. Đại úy Beahan nheo mắt trong lỗ nhắm đệm cao su của ông nhắm bom hiệu Nordon MK 15. Tất cả gì anh nhìn thấy chỉ là làn khói dầy đặc. “Tôi không tìm được điểm nhắm,” anh nói.
“Không bỏ,” Sweeney bảo anh. “Lặp lại, không bỏ.”
Họ bay vào từ hướng đông. Ở đây, cũng vậy, Kokura vẫn bị che khuất. Viên kỹ sư phi hành thông báo là nhiên liệu “đang tới hạn” chỉ vừa đủ để bay về Iwo Jima. Sweeney báo đã nghe rõ, và quay sang người điều khiển vũ khí-sĩ quan đang trông coi “Ông Mập”, Chỉ huy Frederic Ashworth-và nói, “Chúng ta sẽ đi đến mục tiêu thứ hai, nếu anh đồng ý.” Viên sĩ quan Hải quân gật đầu. “Hướng về Nagasaki,” Sweeney ra lệnh cho phi hành đoàn và quay tàu về hướng tây nam. Máy bay thời tiết báo cáo là trên bầu trời Nagasaki chỉ có 2 phần 10 mây.
Nagasaki, một thành phố 200,000 dân, trải rộng qua những ngọn đồi dốc, như San Francisco. Vịnh đối diện với Biển Đông Trung Hoa. Nó nổi tiếng từ xưa là một cảng ngoạn mục, đặc biệt giờ đây, mới chớm thu mà nhiều vòm lá đã phủ một màu nâu đỏ vàng rực rỡ. Trung tâm thành phố nằm đối diện với vịnh, vốn được tạo thành bởi con sông Urakami chảy vào từ hướng bắc. Qua vài thế kỷ, Nagasaki đã mở rộng từ hạt nhân này ra đến vài thung lũng, bao gồm thung lũng do con sông tạo hình giờ đây đã trở thành một phức hợp kỹ nghệ thu hút 90 phần trăm lực lượng lao động của thành phố.
Vào năm 1571 người Bồ Đào Nha đã giúp xây dựng nó từ một làng đánh cá thành một cảng ngoại thương chính của Nhật, cửa ngõ đưa vào thuốc lá, vũ khí và đạo Cơ đốc. Tín ngưỡng mới lan tràn đến độ chính quyền thi hành những biện pháp tàn nhẫn để dập tắt. Tất cả giáo sĩ hoặc bị giết hoặc bị trục xuất khỏi xứ, nhưng vào thế kỷ mười bảy 37,000 giáo dân của họ nổi dậy chống lại sự ngược đãi tôn giáo. Họ tập họp quanh một lâu đài gần Nagasaki, và với sự hỗ trợ của súng đạn từ vài con tàu Hà Lan, họ cầm cự được với binh lính của chính quyền trong ba tháng trước khi bị tàn sát không còn một mống.
Tuy nhiên, tín ngưỡng của họ vẫn sống sót, và Nagasaki trở thành thành phố được Âu hóa nhiều nhất, và theo đạo Cơ đốc nhiều nhất ở Nhật Bản, một sự pha trộn hài hòa hai nền văn hóa Đông và Tây với nhiều nhà thờ và trường Cơ đốc, hàng trăm ngôi nhà kiểu Tây phương, và điểm hấp dẫn du khách như Lâu đài Glover, ngôi nhà huyền thoại của Madame Butterfly nhìn xuống cảng.
Shigeyoshi Morimoto đang trên đường về nhà ở Nagasaki, vẫn còn chưa hết bàng hoàng. Chỉ ba ngày trước ông đã thoát chết một cách mầu nhiệm ở Hiroshima, tại đó ông đã làm việc nhiều tháng qua chế tạo những con diều phòng không cho Quân đội. Ông đang trong tiệm mua cọ vẽ cách điểm zero chưa đến 900 ya
thì quả bom phát nổ, và những vật liệu đổ nát của cửa tiệm ọp ẹp đã che chở ông khỏi pika. Ông đã chạy khỏi thành phố cùng với ba cộng sự, trên một chiếc xe than hướng về Nagasaki để tìm sự an toàn. Suốt đêm họ bàn tán không ngớt về “quả bom.” Có phải dân Nhật đã bị trừng phạt bởi một sức mạnh siêu nhiên vì tội tấn công Trân Châu Cảng? Vào lúc mà con tàu hỏa vận tải hành lý đang đổ dốc xuống trạm cuối tại Nagasaki, Morimoto có một dự cảm không lay chuyển là quả bom sẽ theo mình đến tận nhà. Ông phải cảnh báo cho bà vợ. Ngay khi ông tiến gần đến cửa tiệm của ông, ngay trung tâm thành phố, thì gần như là 11 A.M.
Xui xẻo vẫn tiếp tục theo bám Bock’s Car. Khi nó đến gần mục tiêu thời tiết bổng trở nên tồi tệ. Mây che phủ Nagasaki đến mức 9 phần 10. Sweeney bảo Chỉ huy Ashworth với mực nhiên liệu giảm bớt họ chỉ có thể bay đến một vị trí và đề nghị bỏ “Ông Mập” bằng ra-đa. Ashworth do dự; anh chắc phải bỏ bom xuống biển nếu anh không thể tìm được mục tiêu bằng mắt. Như vậy thì phí quá, anh nghĩ, và quyết định khôngvâng lời. “Tiến lên và bỏ bom bằng ra-đa,” anh bảo Sweenney, “nếu anh không thể bỏ bằng mắt.”
Điểm bỏ bom, được chọn nhằm gây ra tàn phá tối đa cho thành phố, ở trên một cao điểm gần cửa hàng diều của Morimoto. Vụ nổ sẽ xóa sạch trung tâm thị trấn, vùng cảng và đến tận các nhà máy ở Thung lũng Urakami. Nagasaki xuất hiện trên tầm ra-đa vào lúc 11 A.M. Nhân viên cắt bom Beahan la lên với Sweeney, “Tôi thấy nó rồi. Tôi thấy thành phố rồi.” vậy là cuối cùng anh có thể bỏ bom bằng mắt. Qua một khe hở trong mây anh có thể thấy bờ bao của một vận động trường trên bờ sông Urakami. Nó gần như cách tâm chấn đã chọn hai dặm về phía tây bắc nhưng như vậy cũng được. Anh canh dấu chữ thập trong ống nhắm vào vận động trường, và vài giây sau đó, lúc 11:01 A.M., phi cơ lắc lư bay hướng lên.
“Các quả bom đã bỏ,” Beahan báo cáo qua bộ đàm, rồi tự đính chính, “Bom đã bỏ.”
Morimoto, thợ làm diều, hổn hển kể cho vợ nghe quả bom bỏ xuống Hiroshima khủng khiếp đến thế nào và rằng ông sợ rằng Nagasaki cũng là mục tiêu tiếp theo. Ông bắt đầu mô tả cái pika. “Trước tiên là một lóe chớp xanh rất to-“ Một chớp lóe xanh lóa mắt cắt ngang lời nói của ông. Ông mở tung cái cửa sập trên nền nhà và xô vợ và con trai vào trong hầm trú ẩn. Khi ông kéo cửa sập nặng nề xuống mặt đất bổng chấn động khủng khiếp, như một trận động đất.
Nếu không được mây che bên trên, cửa hiệu của Morimoto, trực tiếp bên dưới điểm rơi dự tính ban đầu, sẽ bị xóa sạch nhưng quả bom nổ cách vận động trường và con sông vài trăm ya về hướng đông bắc, gần như chính xác giữa Nhà máy Thép và Vũ khí Mitsubishi và Nhà máy Ngư lôi Mitsubishi.
Hajime Iwanaga, sẽ lên 14 tuổi vào ngày hôm sau, đang tắm trong dòng sông Uragami gần Nhà máy Ngư lôi. Em trông thấy một vật thể đen (đó là hộp công cụ) bỏ rơi từ một máy bay và bung thành chiếc dù. Em gọi lớn “Máy bay bạn!” với một người bạn thân và hớn hở hụp xuống nước khi pika lóe sáng. Vài giây sau đó em trồi lên vào một thế giới chói lòa. Một cái gì đó ấm nóng bám chặt vào vai trái của em. Màu nó vàng vọt. Ngạc nhiên, em lấy tay rờ và thấy da mình lột ra. Em bơi nhanh đến bờ khi bầu trời tối đen đầy điểm gỡ, và chạy đến lấy quần áo khi hai quả cầu màu xanh lá đậm, có kích thước cỡ quả bóng chày, bay thẳng đến em. Một quả trúng áo sơ mi, làm nó bắt lửa, và tan rã. Khi em chạy vội lên bờ em nghe tiếng thằng bạn dưới sông hét lên thảm thiết, “Mẹ ơi!” Những giọt mưa nặng hạt rơi lộp đôp lên mình em một lúc.
Taeko Fukabori, lớn hơn một tuổi, đang giúp bơm nước ra khỏi một hang động thiên nhiên lớn dùng làm nơi trú ẩn công cộng cho những vụ oanh kích. Em bị ném văng vào bùn và nhớ đã từng nghe kể chuyện người ta bị chôn sống ra sao trong một vụ oanh tạc hồi tuần trước tại xưởng tàu. Khiếp đảm, em mò mẫm về phía lối ra. Bên ngoài (hang động không tới 200 ya cách điểm zero) em thấy mình đang đứng giữa địa ngục. Thi thể các công nhân tại lối vào cháy thành than đến nổi em không nhận ra phía nào là lưng phía nào là ngực.
Một người không tóc và thân thể cháy đen-không thể biết là đàn ông hay phụ nữ- bước qua, hình như quên hết sự đời, chỉ có một sợi dây lưng quần quanh hông và đang cháy.
Taeko chạy lên con dốc phía đông của thung lũng để về nhà với mẹ. Một anh lính ngăn em lại, bảo rằng hướng đó không qua được. Em đi theo anh ta vượt qua đường ray xe lửa đến con sông, không biết rằng má phải và vai phải của em đã bị bỏng. Linh tính thình lình báo cho em biết là gia đình em trên đồi vẫn bình yên.
Phía xa trên đồi, kế cận với nhà tù thành phố và cách tâm chấn chưa tới 275 ya, Kazuko Tokai 12 tuổi đã bò vào trong hầm trú ẩn nhỏ, chưa hoàn tất của gia đình để nghỉ ngơi. Lớp đất dày 2 bộ (khoảng 60 cm) bên trên em đã cứu em thoát chết khỏi pika. Em cảm thấy một cảm giác không thể mô tả được trên cơ thể và nghe một âm thanh răng rắc như tiếng chiên xèo. Em bò ra ngoài, vào bóng tối. Bối rối-em nghĩ đã là đêm-và không thể cảm nhận hay ngửi thấy cái gì cả, em bắt đầu đi mà không biết mình đi đâu.
Khi màn bụi đã lắng xuống, Kazuko thấy mình đứng trước một bức tường sụp đổ-đó là những gì còn sót lại của Nhà tù Urakami. Em quay trở lại để về nhà. Ngôi nhà đã biến mất. Kazuko kéo mẹ ra khỏi đống ngói đổ, và hai người tìm thấy ông Tokai trong đống đổ nát. Da ông lột khỏi bàn tay như một cái bao tay khi họ kéo ông ra.
Gần đỉnh dốc trong một viện điều dưỡng người bệnh lao có 70 giường-cách điểm zero 1,500 ya- Bác sĩ Tatsuichiro Akizuki đang lụi một cây kim dài vào sườn một bệnh nhân nam thì ông nghe một tiếng ồn kỳ lạ, như có một máy bay to sầm đang gầm thét lao xuống đầu họ. Nó sắp sửa đụng vào bệnh viện. “Nằm xuống đất!” ông hét lên. Ông rút kim tiêm và phóng xuống sàn phòng. Một chớp trắng lóe sáng và nhữngmảnh vụn rơi lả tả lên đầu ông. Ông cố gắng đứng dậy, không hề hấn gì. Không khí dày đặc bụi đến từ vôi tường vỡ vụn làm cho ngạt thở.
Ông sợ rằng các bệnh nhân ở tầng 2 và 3 đều đã chết, và ông đi về hướng cầu thang cùng với một y tá. Các bệnh nhân đang đi xuống, sợ hãi nhưng chỉ bị thương sơ sài. Qua cửa sổ ông nhìn thấy khói vàng ở Thung lũng Urakami. Nhà thờ đang bốc cháy; trường trung học dạy nghề cũng vậy. Bầu trời đỏ và vàng âm u. Ông bị kéo đi ra ngoài đến khu vườn. Lá cà và cây khoai tây đang âm ỉ cháy. Chắc là quả bom giống như ở Hiroshima. Hiệu trưởng của Cao đẳng Y khoa Nagasaki đã chứng kiến sự đổ nát trong thành phố đó, và mới ngày hôm qua, đã sôi nổi mô tả sự kiện đó tại buổi họp nhà trường.
Ở đáy thung lũng Hachiro Kosana đã đi vào nhà kho của xưởng ngư lôi để lấy nguyên liệu kim loại khi anh cảm thấy có điều gì đó kỳ lạ. Anh quay lại và trông thấy cửa sổ sáng lóa với nhiều màu sắc-chắc có thùng ga nào đó phát nổ. Anh phóng người xuống sàn khi trần nhà sập xuống. Không để ý đến vết cắt trên đầu, chân và đùi, anh loạng choạng về phía phòng y tế của xưởng, nhưng nó đã không còn. Trong bóng tối lờ mờ người ta đi loang quanh một cách bất lực. Trong thâm tâm anh biết mình phải thoát khỏi nơi này và về nhà. Yếu vì mất khá nhiều máu, ông buộc xà cạp quanh đùi để cầm máu, và sợ thi thể của mình không được người thân tìm thấy và chôn cất tử tế, khiến ông dấn bước về hướng nam đến Nhà Máy Thép và Vũ Khí Mitsubishi. Chẳng bao lâu đôi chân không còn nghe lời ông được nữa và ông phải tiếp tục đi tiếp bằng tay và đầu gối.
Tại xưởng thép, trải dài gần một dặm xuống tận ga xe lửa, Etsuko Obata 16 tuổi đã bắt đầu một công việc mới vào sáng hôm đó là giũa các chi tiết máy trên tầng 2. Cơn chấn động khiến cô bất tỉnh, khi tỉnh dậy, cô thấy mình lơ lững trong đống đổ nát cách nền nhà sáu bộ (khoảng 1.8 mét). Cô được khiêng vào xe tải hướng về Bệnh viện Đại học trên con dốc phía đông, nhưng những đám lửa bắt buộc “xe cứu thương” phải quay về hướng nam, về hướng nhà ga. Đại lộ này cũng trở nên tắt nghẽn vì lửa lan tràn, và các bệnh nhân được yêu cầu xuống xe và đi bộ. Etsuko gượng đau xuống xe. Mặt trời trông lớn và đỏ, cháy đỏ. Cô cố gắng bò bên dưới xe tải để trú ẩn nhưng không thể được. Thật khó hiểu, cơn mưa nặng hạt bổng đổ xuống, rít lên trong đám lửa và mặt đất nóng bỏng.
Trên trời, phi hành đoàn trong hai chiếc B.29 trông thấy một quả cầu lửa khổng lồ dâng cao lên như thể từ lòng đất, ợ ra những vòng khói trắng cuồn cuộn.” Thông tín viên William Laurence trong chiếc The Great Artiste nhìn thấy một cột bốc lửa bắn lên cao hai dặm vào bầu trời. Ông bắt đầu ghi chép hí hoái một cách điên cuồng khi cột lửa trở thành “một sinh vật sống, một chủng loài mới, sinh ra ngay trước những con mắt không dám tin.” Một cây nấm khổng lồ dâng lên cuồn cuộn ở trên cùng, thậm chí còn như đang sống hơn cả cột lửa sừng sững. Nó sủi bọt và sôi sục trong cơn thịnh nộ màu trắng như một ngàn suối nước nóng. Trong tíc tắc nó tách khỏi cuống và một cây nấm nhỏ hơn thế chỗ. Nó như, Laurence nghĩ, một con quái vật bị chặt đầu lại mọc ra một cái đầu mới.
Trong chiếc Bock’s Car tay súng phía sau la lớn vào máy bộ đàm đến Sweeney, “Thiếu tá, ra khỏi chỗ khỉ gió này đi!”
Khi Sweeney quay máy bay đi khỏi cảnh tượng kinh khiếp, Cơ phó Albury gọi cho người cắt bom, “Này, Bea, mầy vừa giết 100,000 ngàn tên Nhật đó.”
Beahan không trả lời.
Họ bắt đầu bớt căng thẳng. Trong khi cởi bỏ bộ áo chống đạn vướng víu họ chúc mừng lẫn nhau, và điện báo viên gởi về Tinian báo cáo đầu tiên của Sweeney:
BỎ BOM NAGASAKI 090158Z BẰNG MẮT KHÔNG CÓ CHIẾN ĐẤU CƠ TẤN KÍCH VÀ KHÔNG HỎA LỰC PHÒNG KHÔNG. CÁC KẾT QUẢ “THÀNH CÔNG VỀ MẶT KỸ THUẬT” NHƯNG CÁC YẾU TỐ KHÁC LIÊN QUAN KHIẾN CẦN PHẢI THẢO LUẬN TRƯỚC KHI TIẾN HÀNH BƯỚC TIẾP THEO. CÁC HIỆU QUẢ NHÌN THẤY ĐƯỢC GẦN BẰNG VỚI HIROSHIMA. TRỤC TRẶC TRONG MÁY BAY SAU KHI NÉM BOM KHIẾN CHÚNG TÔI PHẢI TIẾN ĐẾN OKINAWA. NHIÊN LIỆU CHỈ ĐỦ ĐẾN OKINAWA.
Các nạn nhân của Nagasaki không phải đều là người Nhật. Một đội lao động của tù binh Đồng minh tại Nhà Máy Thép và Vũ khí bị luồng hơi nóng táp đến và một số người chết. Một trại tù binh chiến tranh cách đó một dặm bị hư hại nặng và không ai rõ có bao nhiêu người thiệt mạng. Thậm chí cách đó 40 dặm tại Trại Senryu, Bác sĩ Julien M. Goodman, một bác sĩ giải phẫu bị bắt tại Bataan, cảm nhận sự chấn động. Có tiếng rùng rùng nghiêm trọng, tiếp theo là một luồng hơi nóng. Mặt đất rung chuyển. Trong những giây phút sau đó có một chấn động khác, và một thầy thuốc người Úc, Bác sĩ John Higgin, nhận xét, “Đây chắc là khởi đầu của màn pháo hạm bắn chặn hùng hậu.” Các làn sóng chấn động và rung lắc tiếp tục gần năm phút. Hiện tượng khó hiểu này làm náo loạn cả trại tù binh. Các tù binh được gọi tập trung vào sảnh ăn và được thông báo không gởi thêm các chi tiết sản phẩm nào đến các hầm mỏ than.
Một thủy phi cơ Nhật đang hướng thẳng về Nagasaki qua các đám mây ở độ cao 10,000 bộ (khoảng 3,000 m). Trước đó 10 phút một thông báo đã đến căn cứ hải không quân ở Sasebo về một “trận dội bom dữ dội” gần Nagasaki, và viên hoa tiêu, một học viên sĩ quan 20 tuổi, đã cất cánh mà không xin phép để điều tra. Học viên Nobukazu Komatsu đã nghe tuyên bố của Truman về Hiroshima qua làn sóng ngắn. Có lẽ đây cũng là một quả bom nguyên tử.
Máy bay ra khỏi đám mây và chạm trán với một cột khói đen khổng lồ. Ở chóp cột, “như đầu của một con quái vật,” là một quả cầu khổng lồ đang phình ra, đổi màu như trong kính vạn hoa. Bay lại gần hơn, Komatsu nhận ra rằng các màu sắc là một ảo giác gây bởi tia nắng mặt trời. Anh bắt đầu lượn quanh đám mây; mọi vật ở bên dưới đều bị che phủ. Anh hét to với hai người đồng hành, “Hãy trốn vào trong mây!”
Chẳng khác nào lò nướng. Komatsu mở cửa sổ phòng lái và duỗi bàn tay có mang bao tay ra-cảm giác
như thọc tay vào lò hơi. Anh giật lùi tay lại, đóng sập cửa, và thấy bao tay mình phủ đầy “thứ bụi dinh dính.” Một người bạn bổng la lên. Thượng sĩ Umeda đang nôn mửa. Bóng tối và hơi nóng gia tăng. Người thứ ba, Học viên sĩ quan Tomimura, mở cửa cho thoáng. Một luồng hơi nóng áp vào mặt anh. Anh thét lên và đóng cửa sổ ngay trước khi chiếc thủy phi cơ vọt vào ánh sáng mặt trời lần nữa. Mặt mày của họ phủ đầy chất bụi dính xám xịt.
Đầu anh đau nhói, và cố nén cơn buồn nôn, Komatsu bay vòng vòng hạ thấp xuống. Bên dưới, Nagasaki là một đám lửa và mây đen cuồn cuộn. Anh giảm động cơ nhằm hạ thấp hơn để chụp ảnh nhưng hơi nóng bắt buộc anh phải quay về phía vịnh. Ở đó anh sẽ đáp vào cảng và tiếp tục đi bộ thám sát thành phố. *
3
Báo cáo của Đại sứ Sato gởi đến Tokyo cho biết Liên bang Xô viết đã tuyên chiến không hề được phát đi, lời hứa của Molotov là lời hứa cuội. Chính người Nga, vài giờ sau đó, đã phát thanh tin ấy. Nó được truyền đi từ phòng phát thanh của Bộ Ngoại giao trước bình minh sáng hôm đó, trong khi chiếc Bock’s Car vẫn còn cách Nagasaki hàng trăm dặm. Hi vọng mong manh cuối cùng của Togo về cuộc đàm phán với Liên bang Xô viết đã bị đập tan, dù ông đã thúc đẩy hết sức, dù tin chắc là nó vô vọng. Nhật Bản đã bị đâm sau lưng mà không được báo trước-ông phẫn nộ như Cordell Hull vào ngày Trân Châu Cảng. Ông tự mình mang tin đến Thủ tướng Suzuki, trách móc ông vì thất bại không thể triệu tập một cuộc họp khẩn cấp của Sáu Ông Lớn ngày hôm qua. Cơn giận của Togo là không cần thiết. Lần này Suzuki không tranh luận hoặc chơi chữ; phản ứng của ông thật đơn giản và thẳng thừng. “Chúng ta hãy kết thúc chiến tranh,” ông nói. Nhưng trước tiên ông muốn bảo đảm là Nhật Hoàng tán thành một vụ đầu hàng tức thì. Tại obunko ông nhận thấy Nhật Hoàng đồng ý chấp nhận bất kỳ điều khoản nào miễn dẫn đến hòa bình.
Với bảo đảm này Suzuki ra lệnh triệu tập một cuộc họp khẩn cấp gồm Sáu Ông Lớn. Lúc đó là 11 A.M., một phút trước khi “Ông Mập” rơi xuống Nagasaki. “Theo tình hình hiện nay,” Suzuki bắt đầu, “tôi đã kết luận rằng lựa chọn duy nhất của chúng ta là chấp nhận Tuyên bố Potsdam và kết thúc chiến tranh. Tôi muốn nghe ý kiến của các ông.”
Không ai nói gì.
“Tại sao mọi người đều im lặng như thế?” Đô đốc Yonai hỏi. “Chúng ta sẽ không đi đến đâu nếu không phát biểu thẳng thắn.”
Ba nhân vật quân sự khác bất mãn với ý muốn thảo luận về việc đầu hàng của Yonai, lúc này việc Nga xâm chiếm Mãn Châu làm họ bàng hoàng còn hơn vụ bỏ bom ở Hiroshima. **
Một sĩ quan bước vào phòng với báo cáo là quả bom nguyên tử thứ hai đã được ném xuống. Tin tức sôi sục này, cùng với tin từ Mãn Châu, đã khiến nổi bất mãn bấy lâu kìm nén của Anami, Umezu và Toyoda phơi bày. Từ thâm tâm họ hiểu rằng đầu hàng là không thể tránh khỏi nhưng vẫn quyết liệt từ chối việc công nhận Tuyên bố Potsdam cho dù nếu Nhật Hoàng được cho phép tại vị. Hơn nữa, họ nhất quyết đòi là các tội phạm chiến tranh phải để chính người Nhật xét xử, đòi Quân đội phải bị giải giới bởi các viên chức Nhật, và lực lực lượng chiếm đóng phải bị hạn chế.
* Umeda chết vì bệnh bạch cầu hai năm sau; Tomimura cũng chết vì bạch cầu vào năm 1964; Komatsu còn mắc bịnh thiếu máu.
** Sau chiến tranh Đô đốc Toyoda nói, “Tôi tin rằng sự tham gia của Nga vào cuộc chiến chống lại Nhật Bản hơn là những quả bom nguyên tử đã đẩy nhanh việc đầu hàng.” Lịch sử chính thức của Anh, Cuộc Chiến Chống Nhật, cũng ủng hộ quan điểm này: “. . . vì nó cho các thành viên của Hội đồng Tối cao thấy rõ là hi vọng cuối cùng về một nền hòa bình được thương lượng đã tiêu tan và không có lựa chọn nào khác trừ ra sớm muộn gì cũng phải chấp nhận những điều kiện của Đồng minh.”
Togo nỗ lực một cách nôn nóng cố thuyết phục họ nhận thức được thực tế của tình hình. Với Nhật Bản đang trên bờ sụp đổ, Đồng minh không nghi ngờ gì sẽ bác bỏ những điều khoản như thế và mọi nỗ lực tìm kiếm hòa bình sẽ lâm nguy. Giới quân sự có thể đưa ra cơ may nào chiến thắng không? Bộ trưởng chiến tranh Anami không thể, nhưng ông còn muốn Nhật Bản đánh thêm một trận lớn nữa-trên đất liền. Ông có thể nào ngăn kẻ thù không đổ bộ được chăng? Togo gặn hỏi.
“Nếu may mắn chúng ta có thể đẩy lùi bọn xâm lăng trước khi chúng đổ bộ,” Umezu trả lời. “Với bất cứ giá nào, tôi có thể nói một cách đầy tin tưởng là chúng ta có thể đánh tan một bộ phận lớn của lực lượng xâm lăng. Tức là, chúng ta có thể giáng những tổn thất vô cùng nặng nề xuống kẻ thù.”
Togo hỏi dồn: Điều đó có tạo ra khác biệt gì? Kẻ thù chỉ cần phát động một cuộc tấn công thứ hai, thứ ba nếu cần. Không có gì phải làm khác hơn là thương thảo cho hòa bình với tối thiểu yêu sách. Sau ba giờ vấn đề vẫn chưa giải quyết được. Suzuki đình hoãn cuộc họp và thông báo kết quả bế tắc cho Hầu tước Kido. “Chỉ có một cách giải quyết duy nhất,” ông bảo Cơ Mật Viện. “Chúng ta phải hỏi Nhật Hoàng cho ngài quyết định.”
Đó là một đề nghị táo bạo; dù Nhật Hoàng có quyền lực, nhưng vai trò của ông không bao trùm việc quyết sách. Nhưng Kido cũng nhận thức được rằng chỉ có một hành động phi thường của Ngôi Vương mới có thể cứu vãn Nhật Bản. Không chần chừ Cơ Mật Viện giải thích tình hình cho Nhật Hoàng. Nhà Vua cũng thấy được sự cần thiết phải thách thức truyền thống.
Cuộc họp Nội Các chiều hôm đó cũng không thể làm gì hơn Sáu Ông Lớn vào buổi sáng đó. Giới quân sự một lần nữa xếp hàng chống phe dân sự-tất cả trừ Yonai, người luôn khẳng định không lợi lộc gì để tiếp tục chiến tranh. “Do đó chúng ta đừng nên sợ bẽ mặt và đầu hàng nhanh như có thể, và bắt đầu xem xét ngay lập tức cách tốt nhất để bảo vệ đất nước.”
Những lời lẽ này của ông làm điên tiết các sĩ quan thân hữu của ông. Anami không thể kềm chế cơn nóng giận. “Việc chúng ta sẽ giáng cho kẻ thù những tổn thất nghiêm trọng khi chúng xâm lăng Nhật Bản là điều chắc chắn,” ông nói, “và không phải là không thể lật ngược tình thế và chuyển bại thành thắng.” Hơn nữa, các đơn vị Quân đội trên chiến trường sẽ không chịu bị giải giới. “Những chiến sĩ chúng ta nhất định không buông vũ khí. Họ biết rằng họ được lệnh không đầu hàng. Thực sự không có lựa chọn nào cho chúng ta khác hơn là tiếp tục chiến đấu.”
Bốn bộ trưởng dân sự-Canh nông, Thương mại, Vận tải và Quân nhu- thì nghĩ khác. Nhân dân đang sức cùng lực kiệt; mùa màng năm nay thất bát nhất so với nhiều năm qua; đất nước không còn sức để chiến đấu.
Anami nôn nóng ngắt lời: “Ai cũng biết chuyện đó, nhưng chúng ta phải chiến đấu đến cùng dù cho bất lợi đến mức nào đi nữa.”
Tại cửa sông Urakami các thùng chứa ga gần trạm xe lửa vọt lên không như những quả cầu lửa quái đản, rồi đâm sầm xuống đất rồi bắn lên lần nữa. Các thùng dầu bay vọt lên còn cao hơn. Ngay phía bắc, những người sống sót choáng váng tìm đường ra khỏi điểm zero. Một người đàn ông trần truồng, bộ mặt ngơ ngác, đang bồng một thằng bé ruột đổ lòng thòng ra khỏi màng bụng. Một con mèo, lông nó cháy xoắn lại, đang liếm bộ ruột đổ ra từ một con ngựa.
Midori Nishida là một cô gái chạy giấy ở Nhà máy Thép và Vũ khí có mái tóc bốc lửa vì pika. Cô tìm cách tẩu thoát băng qua cầu xe lửa Ohashi ngay phía trên vận động trường, không biết là mình đang đi về phía trung tâm của trận tàn phá. Các thanh tà vẹt đã cháy tiêu và cô xê dịch từ từ để băng qua, cố giữ thăng bằng trên đường ray méo mó. Con sông bên dưới ngập ngụa xác chết. Cái mông của một phụ nữ gần bờ sông phình to như quả bóng. Gần đó một con bò đen-trắng bao phủ bởi các đốm thịt sống màu hồng đang điềm nhiên uống nước.
Tại một chỗ Midori suýt té và cô cầu cứu một cô gái đi chiều ngược lại. Đó là một cô bạn học, nhưng thân thể bị cháy xém của Midori làm người bạn sợ hãi; cô ta bật khóc và không chịu đụng vào người Midori. Bất mãn Midori bỏ đi về bờ đông. Cô đi ngang qua một người đàn ông trần truồng cháy thành than đang đứng như một pho tượng tay chân giang rộng ra. Y đã chết. Đằng trước cô trông thấy những kiện than. Khi đến gần cô mới nhận ra đó là những thi thể người. Gương mặt của họ to và tròn như được bơm căng bằng hơi. Không có tòa nhà nào, chỉ có những đống gạch vụn cháy âm ỉ. Gần tâm chấn cô bắt gặp một bạn học khác, một chàng trai. Anh chỉ nhận ra cô khi cô lên tiếng. “Cậu đúng là Nishida đấy chứ?” Anh hỏi.
Quanh họ là những tiếng kêu rên rỉ xin được giúp đỡ. Midori cảm thấy như bị một lực kéo không cưỡng lại được về phía đó, kinh hoảng cô bỏ chạy về hướng con sông. Với người bạn đồng hành mới cô chọn đi về hướng nam dọc theo bờ sông cho đến khi họ tìm được một chỗ đủ cạn để vượt qua sông. Họ đi ngang một bà mẹ và cô con gái đang ngồi trên một gối đệm cháy sém. Cô gái nghiêng người về phía trước, đã chết, đầu cô gục xuống nước. Người mẹ nhìn cô trân trối như ngây dại. Tại sao bà ta không kéo con gái ra khỏi nước? Midori tự hỏi và tiếp tục đi về nam qua Nhà máy Thép và Vũ khí, không biết là đế giày của mình đã cháy thủng.
Khi hoàng hôn chập choạng che mờ cảnh tượng khủng khiếp của Nagasaki, hàng ngàn người sống sót không thể rời vùng bị tàn phá vì bị thương hoặc bất tỉnh. Bé Kazuko Tokai, mà hầm trú ẩn bằng đất mỏng manh của em cách điểm zero khoảng 275 ya đã cứu cô khỏi bị thương, nằm túm tụm cùng với mẹ và cha trong hầm trú ẩn công cộng trống không gần đống đổ nát của ngôi nhà họ. Ngay trước khi các vì sao xuất hiện, cha của Kazuko qua đời. Tiếng kêu của mẹ em trở nên khản đặc và không nghe rõ. “Đừng chết!” Kazuko van xin mẹ trong bóng tối. Không có tiếng mẹ trả lời, Kazuko cũng không sao lay mẹ tỉnh. Bà cũng đã chết. Cô con gái đợi. Em không nghe một âm thanh nào từ bất cứ đâu trong cõi hư vô mênh mông. Mình là người còn sống duy nhất, em nghĩ. *
Người Mỹ cho số nạn nhân thiệt mạng là 35,000; công bố chính thức của Nagasaki là 74,800.

Chiếc Bock’ Car mang theo “Ông Mập” bỏ xuống Nagasaki

Cảnh hoang tàn sau khi bom nổ

Một bóng đen do tia phóng xạ xuyên của vụ nổ xuyên qua nạn nhân và hắt lên vách nhà
Từ Chief Of Staff trong tiếng Việt có nghĩa là Tham mưu trưởng
Một số từ liên quan
Command and staff: Bộ chỉ huy và tham mưu
Headquater: Bộ Tư Lệnh
Officers of branches: sĩ quan các ngành
Chain of command: Hệ thống quân giai
Plan of offensive: Kế hoạch tấn công
Fire: Hỏa lực
Formation: Đội hình
Movement: Di chuyển
Battlefield recovery: Thu dọn chiến trường
March: Tiến quân
Commander: Tư lệnh, người chỉ huy
Chief of General Staff: Tổng Tham Mưu Trưởng
Deputy Chief of Staff: Tham Mưu Phó
Tank brigade: Thiết đoàn
Tactical zone: Vùng chiến thuật
Coastal zone: Vùng duyên hải
Navy: Hải quân
Air Force: Không quân
Airborne: Nhảy dù
Marine: Thủy quân lục chiến
Battlefield: Chiến trường
Front: Mặt trận
Theater: Vùng giao tranh
Officer: Sĩ quan
regimental staff: bộ tham mưu trung đoàn
staff officer: sĩ quan tham mưu
regimental staff: bộ tham mưu trung đoàn
staff officer: sĩ quan tham mưu
General Officer: Sĩ quan cấp tướng
Junior Officer: Sĩ quan cấp tá
Senior Officer: sĩ quan cấp úy
General of Army: Thống tướng
Genenal: Đại tướng
Lieutenant General: Trung tướng
Major General: Thiếu tướng
Brigadier: Chuẩn tướng
Colonel: Đại tá
Lieutenant Colonel: Trung tá
Major: Thiếu tá
Captain: Đại úy
Lieutenant: Trung úy
1st Lieutenant: Thiếu úy
Aspirant: Chuẩn úy
Non Command Officer: Hạ sĩ quan
Master Sergent 1st Class: Thượng sĩ nhất
Master Sergent: Thượng sĩ
Sergent 1st Class: Trung sĩ nhất
Sergent: Trung sĩ
Corporal 1st Class: Hạ sĩ nhất
Corporal: Hạ sĩ
Private 1st Class: Binh nhất
Private: Binh nhì
Recruit: Tân binh
Vice Commander: Tư lệnh phó
Assistant Chief of Staff: Trưởng phòng
Sector Commander: Tiểu khu trưởng
Sub Sector Commander: Chi khu trưởng
Sub Area Commander: Phân khu trưởng
Military Zone Commander: Quân khu trưởng
Special Zone Commander: Biệt khu trưởng
Zone: Vùng
Tactical Zone: Vùng chiến thuật
Critical Zone: Yếu điểm (điểm quan trọng)
Vital Area: Yếu khu (khu quan trọng)
Special Zone: Biệt khu
Thí dụ: Hai Yen Special Zone: Biệt khu Hải Yến
Capital Special Zone: Biệt khu thủ đô
Military Zone: Quân khu
Capital Military Zone: Quân khu thủ đô
High Command: Tư lệnh tối cao
High General Command: Tổng tư lệnh tối cao
Squad: Tiểu đội
Platoon: Trung đội
Company: Đại đội
Batallion: Tiểu đoàn
Regiment: Trung đoàn
Division: Sư đoàn
Coprs: Quân đoàn
Brigade: Lữ đoàn
Special Batallion: Biệt đoàn