Tổ tiên Phật Thích Ca là ai?

thanh-tich-pg-copy3.jpg

Hà Văn Thùy

Cho đến nay ta chỉ biết về cội nguồn Phật Thích Ca với những dòng vắn tắt: “Dòng Thích-ca vốn là vương tộc, cai trị một trong 16 vương quốc của Ấn Độ thời bấy giờ, ngày nay thuộc miền Nam Nepal. Kinh đô thời đó là Ca-tì-la-vệ (sa. kapilavastu), là nơi Phật sinh ra và trưởng thành. Vua cha là Tịnh Phạn (sa. śuddhodana, pi. suddhodana), trị vì tiểu vương quốc Thích-ca. Thời bấy giờ, tiểu vương quốc dòng Thích-ca có một hội đồng trưởng lão tham gia quốc sự, nhưng vương quốc này bị phụ thuộc vào nước Kiêu-tát-la (sa. kośala). Ngay trong thời Phật còn tại thế, tiểu vương quốc Thích-ca bị một quốc vương của Kiêu-tát-la đem quân xâm chiếm và tiêu diệt gần hết” (Wikipedia-tháng 4. 2010). Sử sách không cho ta biết cội nguồn xa hơn về chủng tộc của Ngài vì vậy không thể biết chiều sâu của nền văn hóa đã sinh ra Ngài.

Dựa vào một số tài liệu di truyền và khảo cổ học được công bố gần đây, tôi xin trình bày một số khảo cứu về vấn đề này.

Theo những khám phá khoa học từ đầu thế kỷ XXI thì người hiện đại Homo sapiens xuất hiện ở Đông Phi 195.000 năm trước. 85.000 năm trước, con người ra khỏi châu Phi. Lúc đó đương thời Băng Hà, mực nước biển thấp hơn hôm nay 130 mét. Từ Đông Phi, những nhóm khoảng 15-20 người vượt qua cửa Hồng Hải tới bán đảo A Rập. Bị bức tường băng giá chắn ngang nên một phần dừng lại trên đất Yemen. Bộ phận còn lại theo ven biển Nam Á đi về phương Đông. Khoảng 80.000 năm trước, từ các cửa sông, họ đi vào chiếm lĩnh Ấn Độ. Nhưng 74.000 năm trước, núi lửa Toba ở Sumatra của Indonesia phun trào, phủ lớp dung nham dầy trên tiểu lục địa Ấn, tàn phá môi sinh và tiêu diệt toàn bộ dân cư khoảng 10.000 người. Tiếp đó là hàng nghìn năm trong “mùa đông hạt nhân.” Sự việc bi thảm tới mức xương cốt của họ bị đốt cháy khiến cho sau này khảo cổ học hầu như không tìm được dấu tích của họ, ngoài một số dụng cụ đá cũ.

Do vượt qua đất Ấn trước thảm họa nên đoàn di cư tiếp tục đi về phương Đông. Khoảng 70.000 năm trước, từ phía Tây đảo Borneo, có một dòng người đi về phía Bắc, chiếm lĩnh đất Việt Nam. Ở đây, hai đại chủng người tiền sử Australoid và Mongoloid hòa huyết sinh ra bốn chủng người Việt cổ là Indonesian, Melanesian, Vedoid và Negritoid. Trong đó người Indonesian đa số, giữ vai trò lãnh đạo về xã hội và ngôn ngữ, sau này được gọi là người Lạc Việt.[1] Trong khi phần lớn người di cư gặp gỡ hòa huyết thì có những nhóm nhỏ người Australoid đi về phía Tây, qua Lào,[2] Thái Lan, Miến Điện tới đất Ấn Độ. Họ trở thành dân cư bản địa đầu tiên của Ấn Độ, thay cho lớp người trước đó bị tuyệt diệt.

Khoảng 50.000 năm trước, người Lạc Việt Indonesian từ Đông Dương đi qua Miến Điện tới miền Đông Ấn Độ. Tại đây, họ gặp những người bản địa di cư từ Việt Nam sang trước đó. Khoảng 40.000 năm trước, những dòng người Lạc Việt, sau khi đi lên khai phá Trung Hoa, cũng từ Tây Nam Trung Quốc di cư vào Ấn Độ[3]. Hai dòng di cư tạo thành dân cư bản địa, sau này được gọi là Dravidian, chiếm lĩnh đại bộ phận lãnh thổ tiểu lục địa Ấn Độ. Những mốc thời gian trên chỉ là sự bắt đầu. Sau này, khoảng 10 – đến 15.000 năm trước, theo chân người Việt, công cụ đá mới cùng lúa nước được đưa tới, phát triển nghề nông cùng văn hóa nông nghiệp ở Ấn Độ, mà đỉnh cao là văn hóa sông Indus từ khoảng 3000 – 1800 năm TCN. Thế giới biết tới những giá trị vật thể của văn hóa Indus qua hiện vật khảo cổ nhưng biết chưa nhiều giá trị tinh thần của văn hóa này. Sự giống nhau giữa sọ người Dravidian Ấn Độ và người Indonesian ở Đông Dương là không thể phủ định. Nhưng do mang sẵn quan niệm “con người từ phương Tây sang phương Đông” nên các học giả người Pháp thuộc Viễn Đông Bác cổ đưa ra giả thuyết: “Khoảng 1.500 năm TCN, do người Arian xâm lăng Ấn Độ, người Indonesian từ Ấn Độ tràn sang, thay thế người Melanesian trở thành dân cư Việt Nam.”[4] Chỉ tới nay, nhờ di truyền học khám phá dấu vết trong gen dân châu Á, việc di cư của người tiền sử từ Việt Nam sang Ấn Độ mới được xác nhận.

Là chi phái Việt cổ từ Việt Nam sang hay từ Trung Quốc xuống, người Dravidian mang theo bản sắc của văn hóa Việt, với những hạt nhân “tham thiên lưỡng địa”, “nhân chủ thái hòa, tâm linh”… Chính những hạt giống đã làm nảy sinh quan niệm về “sự quân bình giữa các yếu tố của tự nhiên và sự tôn trọng phụ nữ” giống như hiện tượng từng thấy nơi người Indian ở Caduevo phía Bắc Canada theo phát hiện của Levi Strauss trong cuốn Nhiệt đới buồn. Trong tác phẩm Văn học Phật giáo, tiến sĩ Lê Mạnh Thát cho rằng, truyền thuyết “một bọc trăm trứng” là do từ kinh Phật đưa tới. Nhưng thực ra, có cơ sở để cho rằng, truyền thuyết “một bọc trăm trứng” xuất hiện ở kinh đô Lương Chử của nhà nước Xích Quỷ khoảng 2800 năm TCN nên đã từ đất Việt truyền vào văn hóa Dravidian để sau đó nằm trong kinh Phật.

Khoảng 1.500 năm TCN, người Aryan từ Ba Tư xâm lăng Ấn Độ. Họ là những bộ lạc du mục hùng mạnh và tàn bạo. Tới Ấn Độ, người Aryan cướp đoạt của cải, tàn sát và bắt người Dravidian bản xứ làm nô lệ. Họ cũng mang tới Ấn Độ tiếng Phạn, xã hội đẳng cấp và tôn giáo thờ đa thần. Thời gian này xuất hiện kinh Veda cùng đạo Bàlamôn, tôn giáo chứng minh cho sự hợp lí của tình trạng bất bình đẳng giai cấp trong xã hội.

Khoảng 500 năm TCN, Đức Phật ra đời. Hoàn cảnh của Đức Phật có những điều đặc biệt. Là hậu duệ của chủng Dravidian bản địa, nhưng là dòng dõi hoàng tộc có thế lực, họ Thích-ca vẫn giữ được lãnh địa cùng ngôi vị của mình và có liên hệ hôn nhân với một hoàng tộc người Aryan.

Ở thời điểm khi Đức Phật ra đời, kinh Veda mất đi tính thiêng liêng để trở thành những nghi lễ cứng nhắc. Một cải cách tôn giáo đã đưa ra tôn giáo mới Upanishad nhân bản hơn, cởi mở hơn trong phân biệt giai cấp. Là người có tư chất đặc biệt, được giáo dục tốt, thái tử Tâtđạtđa thấm đẫm trong mình văn hóa của dòng giống Dravidian đồng thời hấp thụ tinh túy của Veda và Upanishad, đã tìm cách cứu vớt chúng sinh.

Đức Phật là một nhà cách mạng thực thụ và cuộc thập tự chinh chống lại Bàlamôn của ông giành được sự ủng hộ hăng hái của các đẳng cấp bị áp bức. Thách thức thiên tính của kinh Veda, nền tảng của Bàlamôn, Ngài cho rằng tất cả mọi người đều bình đẳng và hệ thống đẳng cấp mà kinh Veda và những kinh sách Bàlamôn khác đã cho xử phạt tôn giáo, là hoàn toàn sai. Trong kinh Nikaya, Đức Phật được cho là đã hô hào các nô lệ rằng: ” … Như những con sông lớn, khi đã hòa mình vào đại dương, thì tên gọi khác nhau không còn và được gọi là đại dương. Chỉ cần như vậy, các anh em varnas-Kshatriya, Bàlamôn, Vaishya và Sudra – khi bắt đầu thực hiện theo các giáo lý và kỷ luật của Như Lai, từ bỏ tên của các đẳng cấp khác nhau, xếp hàng và trở thành thành viên của một và cùng một xã hội. “

Nhờ được hậu thuẫn của hoàng tộc và sự ủng hộ của tầng lớp nghèo khổ chiếm số đông trong xã hội, đạo Phật được phổ biến rộng khắp lục địa Ấn Độ và lan sang các quốc gia Đông Á.

Từ cội nguồn của Phật Thích Ca cũng như tính nhân bản của đạo Phật cho thấy, đạo Phật là sản phẩm của một dòng Việt mang văn hóa nông nghiệp Việt tộc di cư vào Ấn Độ trong quá khứ.

Điều này còn được chứng minh bằng sự suy thoái của đạo Phật trên chính quê hương của nó từ thế kỷ XIII. Một sự kiện lớn của lịch sử mà cho tới nay chưa được làm sáng tỏ: vì lý do gì, sau 18 thế kỷ thống trị, đạo Phật biến mất khỏi Ấn Độ? Có ý kiến cho rằng, một phần do nhiều nhà sư hư hỏng, xuống cấp về đạo đức nhưng chủ yếu do cuộc xăm lăng của người Hồi giáo từ Afganistan xảy ra vào thế kỷ XI đã triệt phá đền đài và tiêu diệt các nhà sư. Tuy nhiên, những lý do nêu trên không phải nguyên nhân chủ yếu. Theo tác giả Naresh Kumar[5], lý do đưa tới sự diệt vong của đạo Phật ở Ấn Độ chính là cuộc phục thù của Bàlamôn giáo. Là sản phẩm của văn minh du mục, Bàlamôn là tôn giáo chủ trương phân chia giai cấp và bảo vệ lợi ích của tầng lớp trên. Khi bị đạo Phật loại khỏi vũ đài, tầng lớp tăng lữ kiên trì tìm cách khôi phục địa vị vốn có của mình. Họ làm những cải cách tôn giáo, đưa một số giáo lý của đạo Phật vào Bàlamôn và biến Thích Ca thành một trong các vị thần Balamôn để tranh thủ tín đồ và vô hiệu hóa đạo Phật. Cũng trong quá trình này, xã hội Ấn có những biến đổi đưa những đặc trưng du mục trở thành chủ đạo. Tầng lớp thống trị vì bảo vệ lợi ích của mình đã câu kết với giới tăng lữ Bàlamôn đàn áp Phật giáo một cách khốc liệt và cuối cùng vào đầu thế kỷ XIII trục xuất Phật giáo khỏi Ấn Độ. Một tấn bi kịch của lịch sử: bị xâm lăng, người Dravidian không chỉ mất đất đai, lịch sử, văn hóa mà còn mất cả tôn giáo của mình!

Một câu hỏi nảy sinh: vì sao tại Đông Á, đạo Phật lại phát triển rực rỡ vậy? Người ta đưa ra nhiều lý do nhưng theo tôi, nguyên nhân quan trọng nhất trong các nguyên nhân là đạo Phật trở về nguồn cội của mình, trong môi trường văn hóa nông nghiệp nhân bản của Việt tộc.

Trong truyền thống, phương Đông cho rằng, Tam giáo Nho, Phật, Lão đồng nguyên về mặt triết học: Đạo của Lão là Thái cực của Nho, là Chân như của Phật và cùng là bản thể vũ trụ. Tuy nhiên, có cái đồng nguyên khác mà hôm nay mới khám phá ra: Người Lạc Việt đi lên lưu vực Hoàng Hà, Dương Tử sinh ra Lão Tử, Khổng Tử rồi đạo Lão, đạo Khổng. Sang đất Ấn sinh ra Thích Ca cùng đạo Phật. Đồng nguyên ở đây là cùng gốc Lạc Việt.

Sài Gòn, 2010- 2018


 

Tài liệu tham khảo.

  1. Hà Văn Thùy. Hành trình tìm lại cội nguồn. NXB Văn học, 2008.
  2. Two ancient human fossils from Laos reveal early human diversity

https://www.sciencedaily.com/releases/2015/04/150408100738.htm

  1. Stephen Oppeheimer. Out of Eden: The Peopling of the World: Amazon.co.uk: Stephen …

https://www.amazon.co.uk/Out…Peopling-Stephen-Oppenheimer/…/18.

  1. Trần Trọng Kim. Việt Nam sử lược.

5.http://www.sikhspectrum.com/022008/buddhism.htm

2 thoughts on “Tổ tiên Phật Thích Ca là ai?

  1. Tôi thấy tác giả không đưa ra được bằng chứng thuyết phục nào về gen, khảo cổ, ngôn ngữ, văn hóa mà lại kết luận “Từ cội nguồn của Phật Thích Ca cũng như tính nhân bản của đạo Phật cho thấy, đạo Phật là sản phẩm của một dòng Việt mang văn hóa nông nghiệp Việt tộc di cư vào Ấn Độ trong quá khứ.” Không hiểu sao bài viết như thế này lại được đăng.

    Đã thích bởi 1 người

  2. Tôi đã tìm ra ánh sáng khoa học của Tiếng Việt.Tiếng Việt là thứ Tiếng khoa học nhất thế giới ! Vì sao ta biết ? Xin trả lời là vì qua Chữ Viết của Tiếng Việt đã cho thấy độ chính xác tột cùng. Tuy thế, Chữ Tiếng Việt vẫn chưa chín mùi, bởi vẫn còn thiếu ánh sáng khọa học.

    Thích

Bình luận về bài viết này