Bản tuyên bố về lịch sử vương triều Mạc (bài 3)

fig-04

Nguyễn Xuân Lung

Phần III: Sự kiện số II

NHÀ MẠC CẮT ĐẤT 6 ĐỘNG: TÊ PHÙ, KIM LẶC, CỔ SÂM, LIỄU CÁT, AN LƯƠNG, LA PHÙ CHÂU VĨNH AN  TRẤN YÊN QUẢNG CHO NHÀ MINH 

  1. KHÁI QUÁT SỰ KIỆN:

Qua ngòi bút sử gia Lê trung hưng cuối năm 1540 một lần nữa nhà Mạc tiếp tục cắt đất sáu động tại biên giới đông bắc Đại Việt cho nhà Minh, sau khi đã “hoàn thành” việc cắt đất hai châu Quy Thuận năm 1528. Lần cắt đất thứ hai này của nhà Mạc được sử ghi chép tỉ mỉ, rõ ràng về số lượng, đơn vị hành chính, địa danh nơi bị cắt đất, nhân chứng và vật chứng cùng thời gian xảy ra, sử chép:

“Mùa đông tháng 11, Mạc Đăng Dung cùng với cháu là Văn Minh và bề tôi là bọn Nguyễn Như Quế, Đỗ Thế Khanh, Đặng Văn Trị, Lê Thuyên, Nguyễn Tổng, Tô Văn Tốc, Nguyễn Kinh Tế, Dương Duy Nhất, Bùi Chí Vĩnh, qua trấn Nam Quan, mỗi người đều cầm thước, buộc dây vào cổ, đi chân không đến bò rạp ở mạc phủ nước Minh, rập đầu quỳ dâng tờ biểu xin hàng, biên hết đất đai, quân dân, quan chức trong nước để xin xử phân, nộp các động: Tê Phù, Kim Lặc, Cổ Sâm, Liễu Cát, An Lương, La Phù của châu Vĩnh An trấn Yên Quảng xin cho nội thuộc vào Khâm Châu”

[ĐVSKTT, tr621, q2, NXB VHTT, 2004]

          Qua nội dung sử chép, hai sự kiện lịch sử của nhà Mạc đồng thời xảy ra cùng một thời điểm.

                   * Nhà Mạc đầu hàng nhà Minh

                   * Nhà Mạc cắt đất 6 động của Đại Việt cho nhà Minh

          Sự kiện nhà Mạc đầu hàng nhà Minh chúng tôi xin tách ra đưa vào một sự kiện riêng. Tại sự kiện số II này chỉ giành cho việc phân tích, đánh giá, phục hồi sự kiện để trả lại lịch sử khách quan việc dâng nộp 6 động đất đai mà sử đã chép.

          Trong quá trình khảo cứu diễn biến sự kiện số II sẽ xuất hiện liên tiếp 2 địa danh quan trọng đó là:

          – Châu Như Tích

          – Châu Thiếp Lãng

          Cùng với địa danh 6 “động” từ các nguồn sách khác nhau, chúng thường được viết ra không thống nhất. Chính vì vậy, việc làm đầu tiên cần phải: Thống nhất tên các địa danh khác nhau này về đúng, chính xác, địa danh chuẩn. Địa danh chuẩn theo thông lệ căn cứ trong bản dịch quốc sử Đại Việt, quốc sử Trung Hoa: Tống, Nguyên, Minh cùng sự kết hợp các loại sách dư địa chí khác nhau cần tìm đến trong quá trình nghiên cứu về sau.

  1. Thống nhất địa danh

1.1. Châu

Chọn địa danh chuẩn là: – Như Tích

                                        – Thiếp Lãng

Như vậy các tư liệu có tên châu như sau;

– Thạch Tích (Phan Bội Châu chép)

– Như Âm (Lê Tắc chép)

Cùng là một địa danh: Như Tích

Nghĩa là: Thạch Tích = Như Âm = Như Tích

Các tư liệu có tên là:

Chiêm Lãng (Nguyễn Văn Siêu chép, Hải Đoan chép)

Thiệm Lãng (Phan Huy Chú chép)

Cùng là 1 địa danh: Thiếp Lãng

Nghĩa là: Chiêm Lãng = Thiệm Lãng = Thiếp Lãng

1.2. Động

Chọn địa danh chuẩn là:

– Động Tư Lẫm

– Động Thìn La

– Động Kim Lặc

– Động Liễu Cát

– Động Cổ Sâm

Do vậy các tư liệu chép là:

* Tê phù, Tư phù, Tê Lẫm, Bài Lẫm = Tư Lẫm (cùng 1 địa danh)

* Thời La = Thìn La (cùng 1 địa danh)

* Tư Lặc, Khả Lặc = Kim Lặc (cùng 1 địa danh)

* Nha Cát, Cát, Cá Cát = Liễu Cát (cùng 1 địa danh)

* Cổ Xung = Cổ Sâm (cùng 1 địa danh)

Lấy một ví dụ “Đại Nam nhất thống chí” chỉ ra việc sử thần Lê trung hưng nhầm lẫn (hay cố tình?) dùng địa danh: TÊ PHÙ như sau:

“Động TƯ LẪM sử nhà Lê chép là TÊ PHÙ là nhầm”

[ĐNNTC, q2, tr1300, NXB lao động, 2012]

  1. Các đơn vị hành chính cần chú ý

* Nhà Tống dùng đơn vị hành chính là “quản”

“Quản” tương đương với “động” ở Đại Việt.

* Nhà Minh sử dụng đơn vị hành chính là “Đô”.

1 “Đô” bao gồm 1 hoặc 2,3 “động”.

* Nhà Lê Đại Hành dùng đơn vị hành chính là “trấn”

VD: Trấn TRIỀU DƯƠNG, “trấn” nhà Lê Đại Hành tương đương với “thừa tuyên” nhà Lê

Sau đây là một số đơn vị hành chính thường được dùng tại thời Lê – Mạc:

– Thừa Tuyên: Là đơn vị hành chính cao nhất trong một quốc gia tương đương 2,3 tỉnh ngày nay (nhà Lê nước ta có 13 thừa tuyên)

– Phủ: Là một đơn vị hành chính sau thừa tuyên phủ được dùng tại miền núi

– Huyện: Là đơn vị hành chính sau trấn, phủ, châu

– Động: Là một đơn vị hành chính tương đương huyện, sau phủ, châu được dùng tại miền núi.

– Xã: Là một đơn vị hành chính sau huyện tương đương một làng lớn 500 hộ dân tại miền đồng bằng.

– Thôn: Là đơn vị hành chính sau xã tương đương 100 hộ dân

– Trang, nguyên: Là một đơn vị hành chính tương đương thôn được dùng ở miền trung du.

– Sách: Là một đơn vị hành chính nhỏ hơn thôn hay được dùng tại các trung du và miền núi.

– Hương, giáp: Là đơn vị hành chính nhỏ hơn thôn thường được dùng ở đồng bằng.

1 thôn = 1, 2 giáp, hương.

  1. Các chức danh cổ cần được quan tâm

Chúng tôi xin cung cấp một số chức danh cổ hay gặp trong các tư liệu sử dụng tại sự kiện số II này để người đọc dễ hình dung địa vị  chức trách của các nhân vật lịch sử tham gia sự kiện:

          – Đô Ty: Tên gọi tắt của thượng thư sảnh tả hữu ty thời Đường – Tống tên gọi tắt của đô chỉ huy sứ nhà Minh.

          – Đô đốc thiêm: Được dùng đời Hồng Đức nhà Lê, trật tòng nhị phẩm, ngang hàng thượng thư và thái tử tam thiếu bên văn.

          – Đô ngự sử: Là trưởng quan của ngự sử, đài, trật chính tam phẩm, vinh phong tư chính thượng khanh, giữ phong hóa pháp độ.

          – Kinh lược đại sứ: Chức tạm thời do vua ban ủy nhiệm đi kinh lý một công việc nào đó.

          – Kinh lược sứ đồng tri: Là chức danh cấp phó của kinh lược sứ, chức của võ quan, trật tòng lục phẩm.

          – Tả Thị Lang: Trật tòng tam phẩm là chức quan tứ nhị của thượng thư tại lục bộ.

          – Binh bộ thị lang: Bộ trưởng một bộ trong triều đình lục bộ: Lại, hộ, lễ, binh, hình, công.

          – Tri Châu: Tổng quan của một châu, nắm giữ công việc của 1 châu.

          – Tuần Vũ: Chức danh đứng đầu một tỉnh nhỏ, trật tòng nhị phẩm.

          – Trấn điện tướng quân (VD: Trấn tướng Hoàng Đình Nhã)

          Trật tòng ngũ phẩm, võ quan cai quản một trấn thời Lê Đại Hành, Lý, Trần.

          – Khâm sai đại thần: Là đại thần trong triều được đặc phái ra ngoài làm việc nội chính hay ngoại giao, xong công việc, bỏ đi.

[Mười ba chức danh cổ được tham khảo từ sách: “Từ điển chức quan Việt Nam”, tác giả: PGS – TS. Đỗ Văn Ninh – viện sử học]

          Tương tự như tại sự kiện số I, chúng tôi xin chép ra các phản ứng hai chiều từ dư luận xã hội đối với sự kiện lịch sử số II này do sử cũ chép.

  1. PHẢN ỨNG TỪ DƯ LUẬN XÃ HỘI ĐỐI VỚI SỰ KIỆN SỐ II
  2. Những nhận thức đồng quan điểm với sử

           Cho đến ngày nay, nhận thức của xã hội về sự kiện I, sự kiện II do sử gia Lê trung hưng biên chép về nhà Mạc nhìn chung là chưa thay đổi, dù rằng từ năm 1985 đến nay đã có bốn cuộc hội thảo cấp quốc gia về vương triều Mạc.

          Lần thứ nhất: Năm 1994, hội thảo vương triều Mạc tại Hải Phòng.

          Lần thứ hai: Năm 2010, hội thảo về lịch sử vương triều Mạc tại Hà Nội, nhân kỉ niệm 1000 năm Thăng Long.

          Song song với những hội thảo quy mô quốc gia trên, đã có trên 10 đầu sách được biên soạn về nhà Mạc, các tác giả đa phần là sử gia, nhà nghiên cứu lịch sử đương đại. Đầu tiên là cuốn sách: Vương triều Mạc (1527 – 1592) do viện sử học ấn hành năm 1992. Sau đó là những cuốn sách tập hợp các nghiên cứu từ các hội thảo được in và phát hành ra công chúng. Đặc biệt, PGS – TS. Đinh Khắc Thuân đóng góp ba đầu sách nghiên cứu về nhà Mạc, trong ba cuốn đó, có một luận án bảo vệ chức danh Tiến sĩ của ông tại Paris (Pháp). Gần 30 năm qua, những quan điểm mới của giới sử học về vấn đề nhuận triều, ngụy triều của nhà Mạc và một số vấn đề khác đã được đánh giá khách quan hơn, một vài giáo sư sử học đã nhìn nhận lại sự kiện I và sự kiện II của nhà Mạc trên quan điểm khác nhằm tìm kiếm sự trung thực cho lịch sử giai đoạn này.

          Nhưng trên thực tế từ những công trình biên soạn riêng rẽ của các công trình đã biên soạn về nhà Mạc, sự kiện 1 và sự kiện II của nhà Mạc đã không được giải quyết đến tận gốc, những nhận thức mới này không lan tỏa được ra ngoài xã hội, nhất là những người đọc sử yêu thích lịch sử dân tộc.

          Năm 2012 trên tờ báo “Thanh Niên” phát hành ngày 10/11, PGS-TS. Tạ Ngọc Liễn – viện sử học đã viết một bài báo dài với tựa đề: “Nên công bằng với nhà Mạc”. Chúng tôi không đi sâu vào nội dung bài báo, nhưng với cách đặt tên bài báo, tác giả vừa mong muốn vừa đề nghị toàn xã hội có cái nhìn khách quan công bằng hơn với lịch sử nhà Mạc. Sau đây chúng tôi xin điểm qua một số đánh giá sự kiện số II của nhà Mạc, mà giới sử học nước nhà đã viết.

1.1.“Việt sử thông giám cương mục” chép:

 “Đăng Dung lại xin dâng đất các động: Tê Phù, Kim Lặc, Cổ Sâm, Liễu Cát, La Phù, An Lương thuộc châu Vĩnh An ở Yên Quảng để lệ thuộc vào Khâm Châu nhà Minh”

[Việt sử thông giám cương mục, q11, tr1338, NXB văn sử địa, 1959]

NHÀ MẠC CẮT ĐẤT 6 ĐỘNG CỦA ĐẠI VIỆT CHO NHÀ MINH

1.2. Tại mục dư địa chí phủ Hải Đông, trong sách: “Lịch triều hiến chương loại chí” Phan Huy Chú chép:

“Nhà Mạc buổi đầu” đem dâng 2 châu, 4 động cho nhà Minh, cõi đất mới hẹp đi (*)

(*: Là chú thích của  Phan Huy Chú)

“*”: 2 châu là châu Như Tích, châu Thiệm Lãng, 4 động là: Động Cổ Sâm, động Tê Lẫm (hay Phù), động Kim Lặc, động Liễu Cát”

[Lịch triều hiến chương loại chí, t1, tr112, NXB KHXH, 1962]

NHÀ MẠC CẮT ĐẤT 2 CHÂU, 4 ĐỘNG CỦA ĐẠI VIỆT CHO NHÀ MINH

1.3. Trong sách: “Việt Nam quốc sử khảo” Phan Bội Châu chép về sự kiện II này như sau:

“Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê, sợ nhà Minh hỏi tội, đã lấy 2 châu: Thạch Tích và Niệm Lãng và 4 động: Cổ Sâm, Tư Lẫm, Kim Lặc, Liễu Cát hiến cho nhà Minh. Bản án kết tội bọn ấy nên ghi là: “Lấy đất đai của nước, nhân dân nước tặng người nước ngoài, tội đáng chém ” chúng nó lấy lời gì để biện bạch được.”

[Việt Nam quốc sử khảo, tr 112, NXB khoa học xã hội, 1982]

NHÀ MẠC CẮT ĐẤT 2 CHÂU, 4 ĐỘNG CỦA ĐẠI VIỆT CHO NHÀ MINH

1.4. Trong sách: “Việt Nam sử lược” do Trần Trọng Kim biên soạn, tới sự kiện II này, sử gia viết:

“Đến tháng 11 năm Canh Tý (1540) Mạc Đăng Dung thấy quân nhà Minh sửa soạn sang đánh sợ hãi quá chừng, bèn để Mạc Phúc Hải ở lại giữ nước, rồi cùng với bọn Vũ Như Quế cả thảy hơn 40 người, tự trói mình ra hàng, sang chịu tội ở cửa Nam Quan, lạy phục xuống đất để nộp sổ điền thổ và sổ dân đinh, lại xin dâng đất 5 động: Tê Phù, Cổ Sâm, Kim Lặc, Liễu Cát, La Phù và đất châu Khâm, lại đem vàng bạc dâng riêng cho nhà Minh”

[Việt Nam sử lược. tr294-295, NXB văn hóa thông tin. 2008]

NHÀ MẠC CẮT ĐẤT 5 ĐỘNG CỦA ĐẠI VIỆT CHO NHÀ MINH

1.5. Nhà sử học phía nam Phạm Văn Sơn trong “Việt sử toàn thư” của ông, đánh giá sự kiện II như sau:

“Trong bối cảnh lịch sử như vậy, Mạc Đăng Dung chỉ mất một ít vàng bạc và 5 động mà tránh được tai họa chiến tranh. Đối với những nhà sử học chân chính chúng ta không có gì phải đòi hỏi hơn nữa”

[Việt sử toàn thư, tr436, NXB Sài Gòn 1960]

NHÀ MẠC CẮT ĐẤT 5 ĐỘNG CỦA ĐẠI VIỆT CHO NHÀ MINH

1.6. Giáo trình giảng dạy trường đại học sư phạm Hà Nội, do Nguyễn Phan Khoa, Trương Hữu Quýnh, Nguyễn Cảnh Minh biên soạn, viết về sự kiện 2 như sau:

“Run sợ trước thế lực của quân Minh, Mạc Đăng Dung sai người lên biên giới gặp quan tướng nhà Minh dâng biểu xin hàng, sau đó Đăng Dung còn cử người sang tận kinh đô nhà Minh dâng biểu xin hàng và cắt đất 5 động ở phía đông bắc (các động: Tư Lẫm, Kim Lặc, Cổ Sâm, Liễu Cát, La Phù) cho sát nhập vào Khâm châu”

[Lịch sử Việt Nam, q2, đại học sư phạm Hà Nội, tr73, NXB giáo dục, 1980]

NHÀ MẠC CẮT ĐẤT 5 ĐỘNG CỦA ĐẠI VIỆT CHO NHÀ MINH

1.7. Lê Thành Khôi tác giả cuốn:

“Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến giữa thế kỉ XX” đã viết về sự kiện 2 như sau:

“Để lấy lòng nhà Mình vốn đang phải đối phó với các cuộc nổi dậy của nông dân, cũng như áp lực của người Mông Cổ tại biên giới. Mạc Đăng Dung đã dâng cho họ 5 động, 5 động này được sáp nhập vào Khâm châu (1541)”

[Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến giữa thế kỉ XX, tr287, NXB Nhã Nam 2014]

NHÀ MẠC CẮT ĐẤT 5 ĐỘNG CỦA ĐẠI VIỆT CHO NHÀ MINH

1.8. Hội thảo vương triều Mạc 1994 tại Hải Phòng, PGS – TS Đỗ Văn Ninh Viện sử học viết về sự kiện II như sau:

“Năm 1540, Mạc Đăng Dung từng cùng cháu và một số bầy tôi lại từng qua trấn Nam Quan tự buộc dây vào cổ bò rạp ở mạc phủ nhà Minh dâng biểu xin hàng, nộp 6 động: Tê Phù, Kim Lặc, Cổ Sâm, Liễu Cát, An Lương, La Phù của châu Vĩnh An, đất Yên Quảng cho vào Khâm Châu”

[Nhà Mạc và dòng họ Mạc trong lịch sử, tr303, hội khoa học lịch sử Việt Nam  xuất bản 1996]

NHÀ MẠC CẮT ĐẤT 5 ĐỘNG CỦA ĐẠI VIỆT CHO NHÀ MINH

1.9. Sách giáo khoa lớp 10: “Hướng dẫn trả lời câu hỏi và bài tập lịch sử 10” do Nguyễn Thị Côi (chủ biên), Nguyễn Thị Thế Bình, Nguyễn Thị Bích, NXB đại học quốc gia TP Hồ Chí Minh XB 2006, các tác giả đã viết về sự kiện 2 như sau:

“Việc nhà Mạc thực hiện chính sách ngoại giao lúng túng, Mạc Đăng Dung cùng 40 quan lại cởi trần quỳ gối cửa ải Nam Quan dâng sổ sách, cắt đất 5 động phía đông cho nhà Minh là việc làm đáng chê trách”

[Sách giáo khoa lớp 10: “Hướng dẫn trả lời câu hỏi và bài tập lịch sử 10”, tr127., NXB đại học quốc gia TP Hồ Chí Minh XB, 2006]

NHÀ MẠC CẮT ĐẤT 5 ĐỘNG CỦA ĐẠI VIỆT CHO NHÀ MINH

1.10. Khi hiệu đính bản dịch “Đại Việt sử ký toàn thư” năm 1968, tại sự kiện I đã trình bày ở phần trên, cố giáo sư Đào Duy Anh đã chú thích 1 dòng chữ( mười lăm từ) nhưng rất quan trọng cho bản chất sự kiện số I. Chú thích ấy là tư liệu quan trọng cho học trò của ông là cố giáo sư Trần Quốc Vượng và một số giáo sư sử học khác sử dụng trong những công trình nghiên cứu sau này của họ.

Nhưng thật đáng tiếc đến sự kiện II, cố giáo sư Đào Duy Anh đã không chú thích gì về sự kiện lịch sử số II khi ông hiệu đính bản dịch (1968). Không những thế, trong tác phẩm “Lịch sử Việt Nam” của ông tái bản năm 2016, cố giáo sư Đào Duy Anh đồng quan điểm với sử thần Lê trung hưng về việc nhà Mạc cắt đất Đại Việt cho nhà Minh:

“Bấy giờ nhà Minh muốn lấy cớ hỏi tội họ Mạc đã cướp ngôi nhà Lê, phát binh 1 vạn(?) quân xâm lược nước ta. Họ Mạc phải nộp đất 5 động thuộc châu Vĩnh An( Quảng Yên) để xin hàng”

[Lịch sử Việt Nam. tr316, NXB văn học, 2016]

NHÀ MẠC CẮT ĐẤT 5 ĐỘNG CỦA ĐẠI VIỆT CHO NHÀ MINH

Tập hợp 10 dẫn chứng ở trên bắt đầu từ bộ quốc sử triều Nguyễn: “Cương mục” và các tác phẩm lịch sử của các sử gia cận đại và hiện nay nổi lên 2 điểm như sau:

  • Số lượng châu, động mà các sử gia đưa ra tại sự kiện II, mâu thuẫn nhau quá lớn.
  • 10 dẫn chứng ở trên đều đồng thuận với sử gia Lê trung hưng: Nhà Mạc cắt đất Đại Việt cho nhà Minh. Hầu hết những ghi chép này không lý giải phân tích gì sự kiện II mà chỉ hoàn toàn áp đặt theo sử chép và tự ý đưa ra số lượng châu, động khác nhau một cách tùy tiện, không thể lý giải nổi.

III. MỘT SỐ SỬ GIA CÓ QUAN ĐIỂM PHẢN BÁC SỰ KIỆN II

Gần như tuyệt đại đa số các sử gia nước ta đồng quan điểm về sự kiện II mà sử gia Lê trung hưng biên chép, nhưng cũng có một số sử gia có quan điểm phản bác nội dung sự kiện số II, tuy số lượng rất khiêm tốn, sau đây chúng tôi xin dẫn ra ý kiến từ 3 nhà sử học đương đại.

  1. Tham luận tại hội thảo vương triều Mạc năm 1994 tại Hải Phòng, nhà nghiên cứu lịch sử Hải Đoan đã viết về sự kiện 2 này như sau:

“Nhưng đến thế kỉ thứ 19, Phan Huy Chú trong lịch triều hiến chương loại chí lại chép Mạc Đăng Dung làm mất 2 châu: Như Tích, Chiêm Lãng và 4 động: Tê Phù, Kim Lặc, Cổ Sâm, Liễu Cát. Đến thế kỉ 20 Phan Bội Châu cũng ghi mất 6 động, lúc ghi mẩt 4 động trên và 2 châu Thanh và Khâm. Còn Trần Trọng Kim chỉ ghi là 5 động gồm: Tê Phù, Kim Lặc, Cổ Xung, Liễu Cát, La Phù và đất Khâm châu”

Như vậy, số đất đai của ta mà 1 số sử gia nói là Mạc Đăng Dung cắt dâng cho nhà Minh không thống nhất.

Một nguồn tài liệu đáng tin cậy về vấn đề này là nội dung bài biểu xin hàng của Mạc Đăng Dung có đề cập đến. Trong bài biểu có:

“…còn việc quan thú Khâm châu tâu rằng 4 động Tê Phù, Kim Lặc, Cổ Sâm, Liễu Cát thuộc 2 đô (chứ không phải châu, Hải Đoan chú) Như Tích và Chiêm Lãng là đất cũ của Khâm châu. Nếu quả thực như lời ấy, thì đó là lỗi mạo nhận của họ Lê trước, nay thần xin giao trả lại…”

Mạc Đăng Dung nói lấp lửng như vậy, sau không rõ có trả hay không, vì thực tế nhiều điều như ông ta hứa như bỏ đế hiệu, như nộp người vàng đều thấy lờ đi. Trong tờ sắc dụ của vua Minh gửi Mạc Phúc Hải cũng không thấy nhắc đến việc bốn động này. Lại nữa tháng 11 năm Canh Tý (1540) bọn Mạc Văn Minh, Nguyễn Văn Thái, Hứa Tam Tỉnh mang tờ hàng biểu của Mạc Đăng Dung tới Yên Kinh mất gần một năm trời. Đến 20 tháng 10 năm Tân Sửu (1541) Mao Bá Ôn mới trình được lên vua Minh, trong khi đó ngày 22 tháng 8 năm này Mạc Đăng Dung đã chết. Như vậy việc nộp đất cho giặc của Mạc Đăng Dung với tình hình sử liệu như trên cũng chưa thể khẳng định mà cần xem xét kĩ hơn”

[Nhà Mạc và dòng họ Mạc trong lịch sử, tr70 – 71, hội khoa học lịch sử VN, 1996]

Kết luận cuối cùng của nhà nghiên cứu lịch sử Hải Đoan cũng chỉ dừng lại ở những đề nghị tiếp tục xem xét thận trọng sự kiện này.

  1. Tại hội thảo năm 1994 cố giáo sư Trần Quốc Vượng đã có những quan điểm ngược lại với người thầy của ông (cố giáo sư Đào Duy Anh)

“3. Toàn thư lại chép… Việc “xin hàng” năm này Minh sử quyển 32 có chép nhưng không hề chép việc cắt đất mà chỉ chép vào năm Gia Tĩnh 20 (1541): Mao Bá Ôn về triều tâu Mạc Đăng Dung” đã trả lại đất 4 động đã xâm chiếm, xin nội phụ xưng thần “thần Siêu trong Phương Đình dư địa chí mục Quảng Yên vỉết: “Mạc Đăng Dung nộp 2 châu Như Tích, Chiêm Lãng cho nhà Minh thuộc vào Khâm châu…đời sau lấy việc cắt đất bắt tội nhà Mạc. Nay xét( dẫn đủ các sách nói: Như Tích, Chiêm Lãng, Tư Lẫm, Cổ Sâm, Liễu Cát, Thời La… 7 động đầu nhà Tống đều đặt động trưởng, niên hiệu Hồng Vũ (1368- 1400) nhà Minh đặt chức tuần ty ở Như Tích để thống hạt cả, năm thứ 2 Tuyên Đức( 1427) các động Tư Lẫm, Thời La, Cổ Sâm cắt cho phụ vào Giao Chỉ, năm thứ 19 Gia Tĩnh (1540) Mạc Đăng Dung trả lại đất 4 động ấy cho nhà Minh, năm thứ 21 (1541) tri châu Lâm Huy Nguyên (của Minh) hoạch định lương giới nhưng chỉ còn Chiêm Lãng, Thời La mà thôi”. Nhà Mạc trả lại nhà Minh là trả lại đất lẩn, không phải cẳt đất để đút lót, thần Siêu đã soi tỏ sự vô tội của nhà Mạc. Cớ sao sử gia thời nay còn bới lại chuyện ấy? Là vì không biết xem xét tỉ mỉ và vì thiên lệch vậy!

Sử nhà Minh chép hệt như thần Siêu: Quan cát địa sứ của Minh đi hoạch định cương giới (1541) thì chỉ cỏ đất 2 châu mà đã là của Minh rồi, còn lại đều là tên đất khống! Đấy chẳng qua là đường lối “Thần phục giả vờ” (vassalitéfictive) của mọi triều đại Việt Nam”

[Nhà Mạc và dòng họ Mạc trong lịch sử, tr34-35, hội lịch sử Việt Nam, 1996]

Bài viết của cố giáo sư Trần Quốc Vượng tại hội thảo vương triều Mạc năm 1994, những lập luận của ông đã dựa hẳn vào “Phương đình dư địa chí” của Nguyễn Văn Siêu không đủ sức thuyết phục và vẫn bỏ ngỏ các vấn đề tồn tại khác của sự kiện II. Đó là vấn đề: Diễn biến sự việc tại thời điểm trước và sau năm (1540), nguồn gốc sở hữu đất đai khu vực mà sử chép. Theo chúng tôi, bài viết của cố giáo sư Trần Quốc Vượng tại diễn đàn hội thảo cũng chỉ mang tính cảnh báo cần thận trọng nghiên cứu sự kiện lịch sử số II.

  1. Vào năm 2000, luận án tiến sĩ được bảo vệ thành công tại Paris (Pháp) của PGS – TS Đinh Khắc Thuân (chức danh ngày nay). Đối với sự kiện II, ông đã có những quan điểm hoàn toàn mới, sâu hơn, cụ thể hơn, khách quan hơn từ các nguồn tư liệu quan trọng của Trung Quốc: Thù vực chu tư lục, Khâm châu chí, Minh sử…Trong tác phẩm: “Góp phần nghiên cứu lịch sử triều Mạc ở Việt Nam” ra đời năm 2012 của ông, đây là những trang viết sâu nhất, khách quan nhất về sự kiện II từ trước đến nay nhằm trả lại sự thật lịch sử sự kiện số II, ông viết:

“4. Vấn đề trả lại đất cho nhà Minh

Việc trả lại đất mà thường được gọi là: “Việc cắt đất của nhà Mạc cho nhà Minh” cũng từng bị phê phán khá gay gắt và Mạc Đăng Dung được coi là “chủ mưu” trong việc này bị lên án là người “không biết liêm sĩ”, là “phản quốc”. Theo nguồn sử liệu Việt Nam, Mạc Đăng Dung đã có ít nhất là 2 lần “cắt đất” cho nhà Minh. Đó là vào năm 1528, cắt hai châu Quy Thuận và năm 1540 cắt 1 số động cho nhập vào đất Khâm châu.

Về sự kiện năm 1540, hiện còn sự khác biệt về số động và tên gọi cả các động mà nhà Mạc trả lại cho nhà Minh được ghi trong những tác phẩm sử học khác nhau. Trong bảng 2(*), ta thấy số lượng động là 4, có chỗ lại ghi là 5, thậm chí là 6, còn tên các động này thì là Kim Lẫm, Tư Lặc, Cổ Sâm, Liễu Cát và La Phù hoặc Tư Phù, Kim Lặc, Cổ Sâm, Liễu Cát, An Lương (An Lãng), La Phù, tại sao có sự khác biệt này? Thực tế số động mà nhà Mạc đã trả lại cho nhà Minh là bao nhiêu?

Những địa danh thuộc Khâm châu ở sát biên giới Việt Trung, xuất hiện khá sớm trong lịch sử từ những năm đầu công nguyên, khi Mã Viện dựng cột đồng trụ trên núi Phân Mao, mà ở đó cư dân địa phương được định vị bằng các tên gọi là “động”. Để bảo vệ đất biên giới, quân đội dựng doanh trại ở các động này, đặc biệt là ở các vị trí chiến lược quan trọng suốt theo chiều dài biên giới, sổ động ngày một đông dân cư và dần dần được liên kết với nhau với mục đích tăng cường khả năng quân sự, nên đã hình thành các “đô”. “Đô” được hình thành trên cơ sở được liên kết các động lại với nhau, tương tự hình thức xuất hiện đơn vị hành chính “tổng” sau này. Vùng biên giới đông bắc, vốn có 3 “đô” là: Như Tích, Thời La và Chiêm Lãng với 7 “động” là: Chiêm Lãng, Thời La, Tư Lẫm, Liễu Cát, Cổ Sâm, Kim Lặc và La Phù. Trong đó, các động Tư Lẫm, La Phù, Liễu Cát và Kim Lặc thuộc “đô” Như Tích, còn các động Cổ sâm, Chiêm Lãng thuộc “đô” Chiêm Lãng, động Thời La cũng là “đô” Thời La. Mỗi “động” có người đứng đầu gọi là “động chủ”. Trong niên hiệu Chí Nguyên (1285-1314) thuộc vua Thế Tổ triều Nguyên, động trưởng động Tư Lẫm là Hoàng Thế Hoa vì có công với triều đình trong việc giữ gìn an ninh biên giới nên được ban ấn tín cai quản cả 7 động này. Năm 1368, năm nhà Minh thành lập hai vị tướng quân là Lưu Vinh Trung và Chu Lượng Tổ được phái đến vùng Khâm châu nhằm củng cố quyền lực của vương triều mới này. Họ đã đổi chức “động chủ” thành chức “động trưởng” và cấp cho ấn tín mới. Trong thời kì này, dân cư ở đây tương đối đông đúc, cụ thể như vào năm 1427, 4 động Tư Lẫm, Cổ Sâm, Kim Lặc và Liễu Cát có 29 thôn với 292 hộ.

Như vậy, từ thời Tống đến thời Minh, xuất hiện 3 loại hành chính: Đô, động, thôn, mỗi đô gồm từ 1 đến 4 động, mỗi động có trên dưới 7 thôn, mỗi thôn có chừng 40 hộ, cả thảy 3 đô, 7 động trên lệ vào Khâm châu dưới thời Minh. Nhưng năm 1427, có 4 động thuộc về nhà Lê của Việt Nam. Sách Khâm châu chí chép “năm Tuyên Đức thứ 2 (1427), động trưởng động Tư Lẫm là Hoàng Kim Quảng và Động trưởng động Cổ Sâm là Hoàng Khoan, cùng với Hoàng Tử Kiều, Hoàng Kiến kéo theo 4 động với 29 thôn, 292 hộ về An Nam”. Trong số 4 động trên, thì 3 động: Tư Lẫm, Kim Lặc và Liễu Cát thuộc về đô Như Tích, còn động Cổ Sâm thuộc đô Chiêm Lãng. Khi theo về với nhà Lê, 3 động của đô Như Tích thuộc về phủ Vạn Ninh, còn động Cổ Sâm thuộc về phủ Tân Yên lúc bấy giờ. Các vị động trưởng này đều được nhà Lê phong thưởng chức tước, như động trưởng Hoàng Kim Quảng được phong là Kinh lược sứ đồng tri. Sau đó, vua Minh cho gọi các động trưởng này về nhưng không thành. Cụ thể là: “Tháng 9 năm chính thống thứ 5 (1440), ngự sử Chu Giảm phụng chiếu thư đem theo 3 ty đô, bố (bố chánh sứ), án (án sát sứ), đến Khâm châu chiêu dụ phản dân Hoàng Kim Quảng, Hoàng Khoan, Hoàng Tử Kiều, Hoàng Kiến. Nhưng cả 4 người đều không đến trình diện. Cuối cùng Chu Giám phải bỏ về. Nhưng vào năm 1540, khi nhà Minh đe dọa quân sự, con cháu các vị động trưởng này liền bỏ về, như trong lời tâu lên vua Minh Mao Bá Ôn viết:

“Các chức hành lệnh ở 4 động: Tư Lẫm, Cổ Sâm, Liễu Cát và Kim Lặc của Khâm châu, nguyên là chức tước của An Nam, lại có chú thêm là chức tham chánh phó sứ. Vậy xin chiếu nguyên ngạch biên vào sổ của Khâm châu và ưu đãi như hiện nay, chờ 3 năm sau, cấp lương theo cấp bậc”

Rõ ràng là nhà Minh đã lấy lại 4 động này trước khi diễn ra sự đầu hàng trên của nhà Mạc. Tình thế hết sức căng thẳng đã buộc Mạc Đăng Dung phải chấp nhận 1 việc đã rồi và kết cục ông đã phải giải trình trong biểu đầu hàng của mình rằng:

“Thủ thần Khâm châu tâu xưng là 4 động: Tư Lẫm, Kim Lặc, Cổ Sâm, và Liễu Cát của 2 đô Như Tích và Chiêm Lãng là đất cũ của Khâm châu. Nếu quả như vậy thì những đấy ấy do triều trước họ Lê mạo nhận mà có. Nay hạ thần xin dâng các xứ ấy lệ vào Khâm châu”

Quả là Mạc Đăng Dung chưa hề cắt đất cho nhà Minh, nhưng ông đã phải bó tay và buộc phải chấp nhận sự kiện các động trưởng của 4 động ở sát biên giới đông bắc trở lại với nhà Minh. Với những vùng đất này, nhà Mạc cũng không thể tránh khỏi sự đối mặt với lời viện cớ có tính tiền lệ có từ thời Tống rằng: “những đất mà nhà Tống đã chiếm đóng thì sẽ trao trả lại cho Giao Chỉ, nhưng những đất mà thủ lĩnh của nó tự theo về thì không thể trả lại được”. Tương tự như vậy, làm sao nhà Mạc có thể giữ lại được 4 động trên khi mà các động trưởng đã bỏ về với nhà Mình? Thực tế chỉ có 4 động thuộc 2 đô như vừa trình bầy ở trên trả về đất Khâm châu”

[Góp phần nghiên cứu lịch sử triều Mạc ở Việt Nam, tr56 – 60, NXB khoa học xã hội, 2012]

Như ở trên chúng tôi đã viết: Đây là những trang viết mổ xẻ phân tích sự kiện II dài nhất và chất lượng nhất, với trình độ chuyên môn sâu về lịch sử. Ông đã chỉ rõ những diễn biến khách quan quá trình hình thành và kết thúc sự kiện II. Ngoài xã hội, nhiều nhà phê bình lịch sử chuyên nghiệp, không chuyên đã có những quan điểm phản bác về sự kiện II này như tác giả Huệ Thiên, Lê Văn Hòe, Trần Khuê vv…

  1. TIẾNG NÓI CHÍNH THỐNG CỦA GIỚI SỬ HỌC NƯỚC NHÀ VỀ SỰ KIỆN II

Mỗi một giai đoạn lịch sử từ các triều đại phong kiến trước kia hay nước CHXHCN Việt Nam ngày nay, tính kế thừa từ những giá trị của lịch sử là vô cùng lớn lao, từ đó, từng giai đoạn lịch sử nhất định xuất hiện các bộ quốc sử do nhà nước quân chủ hay nước CHXCN Việt Nam biên soạn tiếp theo, tính kế thừa của lịch sử đã được các sử gia từng giai đoạn lịch sử cụ thể tiếp nối tuân thủ triệt để.

Vì vậy, các bộ sách biên chép về lịch sử như: “Lịch sử Việt Nam” do ủy ban khoa học xã hội Việt Nam chủ biên, xuất bản năm 1971. Hay, lịch sử Việt Nam thế kỷ…” do viện sử học chủ biên, xuất bản năm 2007, là những bộ quốc sử nối tiếp được hiệu đính, biên dịch, chép thêm các giai đoạn lịch sử kế cận. Đồng thời công bố những phát hiện mới về lịch sử đất nước, các bộ sách lịch sử ra đời tiếp nối là tiếng nói chính thống của giới sử học nước nhà giai đoạn hiện nay. Lịch sử nhà Mạc là một bộ phận cấu thành lịch sử của đất nước, những ghi chép phân tích đánh giá từ những bộ lịch sử mới, là những quan điểm chính thống dẫn hướng chỉ đạo toàn bộ việc dạy học lịch sử dân tộc, cũng như định hướng công luận về lịch sử nước nhà. Đối với lịch sử nhà Mạc, hai cuốn quốc sử mới: “Lịch sử Việt Nam” xuất bản 1971 và 2007 đã có những đóng góp không nhỏ cho quá trình kế thừa, phát huy những giá trị lịch sử. Viết về sự kiện lịch sử thứ II này, tại cuốn Lịch sử Việt Nam, tập 1 tái bản năm 1976 đã có những nhận định như sau:

“Thậm chí họ Mạc còn dựa vào thế lực của ngoại bang, đầu hàng, thỏa hiệp với nhà Minh để hòng đổi lấy sự “ủng hộ” của nước ngoài. Lúc bấy giờ, triều Minh đã suy vong và đang mắc kẹt trong những cuộc xung đột với phong kiến Mông Cổ ở phía bắc, với “giặc biển” ở phía đông và đặc biệt là với phong trào khởi nghĩa của nông dân trong nước. Trong tình hình đó, nhà Minh mà ý chí xâm lược đã bị đè bẹp bởi cuộc kháng chiến anh dũng của dân tộc ta vào đầu thế kỉ XV, rõ ràng không dám xâm phạm đến nước ta. Nhưng họ Mạc đã tỏ ra hèn hạ không kế thừa được truyền thống giữ nước vô cùng oanh liệt của dân tộc. Trước sự đe dọa của nhà Minh, Mạc Đăng Dung đã đầu hàng và đem dâng một phần đất của tổ quốc cho kẻ thù để mong được rảnh tay đàn áp nhân dân và đối phó với phe phái đối lập trong nước.”

[Lịch sử Việt Nam, tập 1, tr289 – 291, NXB khoa học xã hội Hà Nội, TB 1976]

36 năm sau ( 1971 – 2007), tại cuốn Lịch sử Việt Nam”, quyển 3, thế kỉ XV – XVI do viện sử học Việt Nam chủ biên và xuất bản, tai mục: Cuộc chính biến ở Đại Việt năm 1527 và mưu toan của nhà Minh” chép:

“Ý muốn chống cự lại quân Minh của nhà Mạc sớm tiêu tan, vì nhà Mạc không nắm biết được thực tình đầy khó khăn của nhà Minh lúc đó và mưu kế hư trương thanh thế từ xa của quân Minh, đã làm cho nhà Mạc hoảng sợ. Phía trước là quân Minh đe dọa, phía sau là lực lượng phù Lê diệt Mạc đang hoạt động mạnh mẽ. Trước tình thế đó, để giữ được quyền lợi của dòng họ, Mạc Đăng Dung và Mạc Đăng Doanh đã chấp nhận đầu hàng”

[Lịch sử Việt Nam, thế kỉ XV- XV, q3, tr438 – 439, viện khoa học xã hội – viện sử học Việt Nam xuất bản, 2007]

Tại mục: “ Lịch sử vùng đất mà Mạc Đăng Dung cắt nhượng cho nhà Minh” chép:

“Nếu đối chiếu so sánh những ghi chép trong các nguồn sử liệu Trung Quốc và Việt Nam, chúng ta thấy ai là chủ quyền đầu tiên, cũng như sự thay đổi về mặt địa lí hành chính của những địa danh nói trên là vấn đề rất phức tạp, ngày nay thật khó xác định rõ được. Chúng ta chỉ biết vùng đất tranh chấp đó ở thế kỉ XV đầu thế kỉ XVI là nằm trong biên giới Đại Việt, sau đấy năm 1540, Mạc Đăng Dung cắt nhượng cho nhà Minh và vùng đất này thuộc vào lãnh thổ Trung Quốc”

[Lịch sử Việt Nam, thế kỉ XV- XVI, q3, tr455, viện khoa học xã hội – viện sử học Việt Nam xuất bản, 2007]

Đối chiếu hai cuốn sách “lịch sử Việt Nam” ra đời cách nhau 36 năm (1971 – 2007), chúng ta nhận thấy những quan điểm chính thống từ các sử gia nước nhà đối với lịch sử vương triều Mạc nói chung hay sự kiện hai nói riêng là không thay đổi theo thời gian.

A – PHỤC HỒI SỰ KIỆN 

  1. ĐÁNH GIÁ SƠ BỘ SỰ KIỆN, XUẤT PHÁT TỪ SỰ GHI CHÉP CỦA SỬ

Quyển 2, sách, “Đại Việt sử ký toàn thư” NXB văn hóa thông tin ấn hành năm 2004 tại trang 621 sử chép:

“Mùa đông tháng 11, Mạc Đăng Dung cùng với cháu là Văn Minh và bề tôi là bọn Nguyễn Như Quế, Đỗ Thế Khanh, Đặng Văn Trị, Lê Thuyên, Nguyễn Tổng, Tô Văn Tốc, Nguyễn Kinh Tế, Dương Duy Nhất, Bùi Chí Vĩnh qua trấn Nam Quan mỗi người đều cầm thước, buộc dây vào cổ, đi chân không đến bò rạp ở mạc phủ nước Minh, rập đầu quỳ dâng tờ biểu xin hàng, biên hết đất đai, quân dân, quan chức trong nước để xin xử phân, nộp các động: Tê Phù, Kim Lặc, Cổ Sâm, Liễu Cát, An Lương, La Phù của châu Vĩnh An trấn Yên Quảng xin cho nội thuộc lệ vào Khâm châu”

[ĐVSKTT, q2, tr621, NXB VHTT, 2004]

Chúng tôi gọi sự kiện trang 621 là (A), chỉ sau 20 dòng chữ tiếp theo tại trang 622, sự kiện A đột nhiên được viết hoàn toàn khác đi:

“Tháng 10 ngày 20, bọn Mao Bá Ôn về Yên Kinh tâu nói rằng: “Mạc Đăng Dung tự trói mình dâng lễ hàng ở cửa ải, xin tuân theo chính sóc, tước bỏ tiếm hiệu TRẢ LẠI ĐẤT 4 ĐỘNG ĐÃ XÂM CHIẾM”

[ĐVSKTT, q2, tr622, NXB VHTT, 2004]

Chúng tôi gọi sự kiện trang 622 này là (B)

So sánh 2 sự kiện nêu trên, tự  bản thân từng câu, từng chữ đã tách thành 2 nội dung mang bản chất hoàn toàn mâu thuẫn nhau:

* Sự kiện A: Do chính người chép sử cung cấp.

* Sự kiện B: Lời viết thông qua một nhân vật trung gian là Mao Bá Ôn.

* Số lượng động khác nhau: 4 và 6

* Hành động của đối tượng sự kiện khác nhau:

– Cắt đất 6 động châu Vĩnh An trấn Yên Quảng của Đại Việt cho nhà Minh (A)

– Trả lại đất 4 động đã xâm chiếm của nhà Minh cho nhà Minh (B)

Lịch sử chỉ có một sự thật

(A) đúng thì (B) sai và ngược lại

  1. XÁC ĐỊNH CHÍNH XÁC NGUỒN GỐC CHỦ QUYỀN VÙNG ĐẤT TẠI SỰ KIỆN SỐ II

Tại mục “Lịch sử vùng đất mà Mạc Đăng Dung cắt nhượng cho nhà Minh” trong cuốn “Lịch sử Việt Nam thế kỷ XV – XIV” xuất bản năm 2007, các sử gia ngày nay nhấn mạnh đến yếu tố chủ quyền đầu tiên đối với vùng đất tại sự kiện số II này:

“Nếu đối chiếu so sánh những ghi chép trong các nguồn tư liệu Trung Quốc và Việt Nam chúng ta thấy ai là chủ quyền đầu tiên, cũng như sự thay đổi về mặt  địa lý hành chính của những địa danh nói trên là vấn đề rất phức tạp , ngày nay khó xác định rõ được.”

[Lịch sử Việt Nam thế kỷ XV – XIV, q3, tr455, viện KHXH – viện sử học VN xuất bản, 2007]

Như vậy, mấu chốt quan trọng nhất của sự kiện II nằm tại vấn đề lịch sử vùng đất do sử chép, nghĩa là chủ sở hữu đầu tiên số đất đai này thuộc về Đại Việt hay Trung Hoa? Từ tính chất rất phức tạp của sự kiện số II, cộng với hành vi nghiêm trọng của việc “cắt đất”, đã đẩy sự kiện này của nhà Mạc thành 1 bản án trong lịch sử đất nước, tập trung rất nhiều sử gia, các học giả trong nước đã gắng công phiên án cho nhà Mạc, nhưng cho đến nay chưa có sử gia nào thành công. Các sử gia trong cuốn “Lịch sử Việt Nam thế kỷ XV – XIV” nhận định tiếp:

“Trong quan hệ chính trị giữa nhà Mạc và nhà Minh, việc Mạc Đăng Dung cắt nhượng đất cho nhà Minh là vùng 2 đô NHƯ TÍCH – CHIÊM LÃNG cùng 4 động: Tư Lẫm, Kim Lặc, Cổ Sâm, Liễu Cát là vấn đề nặng nề nhất, bị nhiều sử gia sau này lên án gay gắt. Tuy nhiên từ thế kỷ XIX, có học giả từng muốn phiên án cho Mạc Đăng Dung trong vấn đề này.”

[Lịch sử Việt Nam, t3, tr448, NXB VHTT, 2007]

Xuất phát từ những tính chất phức tạp, nghiêm trọng của sự kiện lịch sử số II, việc góp phần làm rõ sự thật lịch sử sự kiện số II  không những xác lập lại lịch sử chân chính của nhà Mạc nói riêng, mà còn bổ xung những tư duy chiều sâu cho phương pháp nghiên cứu lịch sử. Góp phần tìm lại những giá trị nguyên thủy của lịch sử luôn chứa hai giá trị cốt lõi là: Khách quan và công bằng.

  1. Xác định chính xác nguồn gốc chủ quyền đất đai 2 châu (đô) Như Tích – Thiếp Lãng.

Nhằm xác định chính xác chủ quyền, sở hữu đất đai ban đầu vùng đất hai châu Như Tích – Thiếp Lãng, hành trình mà chúng tôi phải tìm tới từ những nguồn tư liệu sau đây:

          * Tư liệu từ dư địa chí cổ Đại Việt và Trung Hoa.

          * Từ liệu từ quốc sử Đại Việt, quốc sử Trung Hoa: Tống, Minh, Thanh.

Từ những bằng chứng xác đáng nhất sẽ là chìa khóa mở tiếp ra những diễn biến phức tạp của sự kiện lịch sử kéo dài từ 1427 đến 1540 tại khu vực biên giới đông bắc nước ta từ  kỷ nhà Lê đến kỷ nhà Mạc.

1.1. Những bằng chứng chính xác, những căn cứ pháp lý quan trọng từ nguồn sách dư địa chí, bản đồ cổ Đại Việt quyết định nguồn gốc chủ quyền 2 châu Như Tích – Thiếp Lãng thuộc ai.

          Có lẽ không quá khó, quá phức tạp để tìm ra nguồn tư liệu này của chính đất nước chúng ta, đó là:

          Cuốn: “Ức trai di tập” của Nguyễn Trãi hay còn gọi là “An Nam vũ cống” được ông soạn năm 1435 và cuốn “Hồng Đức bản đồ” do triều đình vua Lê Thánh Tông lập năm (1467 – 1469).

1.2  Cuốn “Ức trai di tập – dư địa chí” hay “An Nam vũ cống”

dua dia chi.png

“An Nam Vũ Cống” được Nguyễn Trãi soạn năm 1435. Đây là cuốn sách gồm 54 mục trình bày về vị trí địa lý, hình thể sông núi, thổ nhưỡng, tập tục cư dân toàn cõi Đại Việt. “An Nam Vũ Cống”  được in từ bản khắc năm Tự Đức thứ 2 (1868), do hai nhà nghiên cứu Phan Duy Tiếp, Hà Văn Tấn hiệu đính, biên dịch và chú thích năm 1960. Trong 54 mục trình bày địa lý, tại mục “XXV Vân Cừ, Kim Tiêu, Phân Mao ở về An Bang”(sau tránh tên húy đổi làm An Quảng (Yên Quảng)) Nguyễn Trãi viết:

“Vân Cừ là tên sông, tên khác của sông Bạch Đằng, tiền Ngô Vương bắt Hoằng Tháo, Hưng Đại vương bắt Mã Nhi đều ở chỗ ấy. Phân Mao là tên núi, Kim Tiêu là cột đồng ở phía tây lộ phủ Hải Đông 300 dặm có dãy núi Phân Mao, ở nửa chừng dãy núi có cột đồng của Mã Viện dựng, lớn chừng 3 thước khoảng niên hiệu Nguyên – Hóa (806 – 820) đời Đường đô hộ là Mã Thông lại dựng cột đồng ở chỗ cũ đời Hán. An Bang xưa là bộ Ninh – Hải; tây và nam tiếp nối Hải Dương; đông và bắc giáp với Khâm châu, có 2 lộ phủ, 8 thuộc huyện, 6 châu, 302 làng xã, 44 trang. Đấy là phiên giậu thứ 2 ở phương đông vậy”

[Ức trai di tập – dư địa chí, tr34, NXB sử học, 1960]

Phần dẫn trên là một trong 54 mục mà Nguyễn Trãi viết. Sau đó vua Lê Thái Tông sai Nguyễn Thiên Túng viết tập chú, Nguyễn Thiên Tích viết lời cẩn án. Lời cẩn án của Nguyễn Thiên Tích là một bản danh sách chép rõ tên các phủ, huyện, châu và số xã, thôn, trang, động, sách. Tại mục XXV trên của Nguyễn Trãi, Nguyễn Thiên Tích viết lời cẩn án chi tiết như sau:

“Cẩn án(*) phủ Hải Đông có 3 huyện , 4 châu, 101 xã:

Huyện Hoa Phong có 14 xã, 1 thôn

Huyện Yên Hưng có 25 xã, 1 thôn, 15 trang

Châu Vân Đồn (triều Lý là trang, thương nhân ngoại quốc ở đấy) có 10 trang, 1 phường

Huyện Hoành Bồ có 25 xã, 2 trang

Châu Tân An có 16 xã, 1 thôn, 53 trang

Châu Vạn Ninh có 18 xã, 2 trang, 4 động

Châu Vĩnh An có 3 xã

Phủ Dương Tuyền có 5 huyện, 2 châu, 201 xã

Huyện An phố có 30 xã

[Minh mở đường thủy vạn ninh, Vĩnh An phố. Trương phụ đặt đệ(quân thông tin liên lạc), thủy dịch(trạm đường thủy) thẳng đến Khâm châu, lại đặt mã dịch(trạm chạy ngựa) từ Gia Lâm đến Hoành Châu]

          Huyện Hoành Cừ có 40 xã

          Huyện Yên Nhiêu có 6 xã

          Châu Như Tích có 67 xã, 4 động

          Châu Thiếp Lãng có 11 xã, 9 động”

[Ức trai di tập – dư địa chí, tr34 – 35, NXB sử học, 1960]

Từ những khái quát thống kê không chi tiết ban đầu của Nguyễn Trãi trong “An Nam vũ cống”:

“An Bang xưa…có 2 lộ phủ, 8 thuộc huyện, 6 châu, 302 làng xã, 44 trang…”

          Nguyễn Thiên Tích đã cụ thể hóa chi tiết đến từng địa phương như đã dẫn ở trên và điều cần quan tâm nhất ở nội dung này là: Nguyễn Trãi đã công nhận An Bang có 6 châu.

“An Bang xưa …. 6 châu…”

Nguyễn Thiên Tích triển khai chi tiết:

“phủ Dương Tuyền….

Châu Như Tích

Châu Thiếp Lãng…”

Như vậy, với nhận thức của cá nhân Nguyễn Trãi giai đoạn 1435 và của người cẩn án sau đó đã cùng thể hiện quan điểm Đại Việt sở hữu hai châu:

– Như Tích

– Thiếp Lãng

1.3  Cuốn dư địa chí “Hồng Đức bản đồ”

hong duc ban do.png

1.3.1. Những nguyên tắc pháp lý cao nhất cho sự ra đời của “Hồng Đức bản đồ”:

         Chúng ta đều nhận thấy, quá trình hình thành “An Nam vũ cống” hay “Hồng Đức bản đồ” là một tiến trình quan trọng trong việc quản lý lãnh vực cương giới, đất đai lãnh thổ Đại Việt. Tiến trình này là nhận thức nảy sinh từ một cá nhân(Nguyễn Trãi) hay một bộ máy quản lý xã hội từng giai đoạn lịch sử của đất nước. Phạm vi ảnh hưởng từ sản phẩm địa lý học ra đời tại giai đoạn này, mang ý nghĩa chính trị rất lớn về công việc đối nội cũng như đối ngoại của một quốc gia có chủ quyền, độc lập và toàn vẹn lãnh thổ. Nhằm thống kê quản lý lãnh thổ, lãnh hải đất nước, trước năm 1945, Đại Việt có hai cuốn dư địa chí được gọi là quốc chí mà nội dung của nó chứa đựng tính pháp lý cao nhất trong lĩnh vực địa lý học, đó là: “Hồng Đức bản đồ” và “Đại Nam nhất thống chí”.

Cũng như ngày nay, bản đồ hành chính nước CHXHCN Việt Nam khi xuất bản và phát hành phải tuân thủ nghiêm ngặt các bước thủ tục pháp lý cao nhất mà trình tự xuất bản phải tuân theo:

         – Biên giới quốc gia thể hiện theo quyết định của nhà nước CHXHCN Việt Nam

         – Địa danh quốc tế theo quyết định của bộ tài nguyên và môi trường.

         – Địa giới, địa danh trong cả nước theo tài liệu nào đó, quyết định bởi chính phủ nước CHXHCN Việt Nam.

         Đề cập  vấn đề trên, chúng tôi muốn nhấn mạnh tầm quan trọng của các văn bản pháp quy mà quốc gia (phong kiến hay ngày nay) thể hiện trong lĩnh vực địa lý, bản đồ nhằm thực hiện chủ quyền lãnh thổ lãnh hải mà quốc gia đang sở hữu và quản lý.

         Sự xuất hiện các tác phẩm dư địa chí do các cá nhân biên soạn, tuy cùng bản chất với sách do quốc gia ấn hành. Nhưng hoàn toàn không thể so sánh tính pháp lý, tầm quan trọng đặt ngang bằng với sách, bản đồ quốc gia ấn định. Do những biến động lịch sử từng giai đoạn, nhận thức của một cá nhân soạn sách dư địa chí có thể không trùng khớp với quan điểm pháp lý tối cao của một quốc gia thực hiện trách vụ của mình trong lĩnh vực địa lý học.

 

1.3.2. Sự ra đời của “Hồng Đức bản đồ”

Trước tiên đó là sự ghi chép từ quốc sử Đại Việt đối với một lĩnh vực của một quốc gia: Địa lý học, “Đại Việt sử ký toàn thư” kỷ nhà Lê chép:

“Đinh Hợi năm thứ 8 (1467) (Minh Thánh Hóa thứ 3)… tháng 6 ngày mùng 1… sai 12 thừa tuyên tra xét trong hạt mình những nơi sông núi hiểm dị, cùng sự tích xưa nay, vẽ thành bản đồ, ghi chú rõ ràng gửi cho bộ hộ để làm bản đồ địa lý”

[Đại Việt sử ký toàn thư, q2, tr289 – 290, NXB VHTT, 2004]

* Lần thứ nhất:

         Công việc bắt đầu năm 1467 đến năm 1469 hoàn thành “Hồng Đức bản đồ” là dấu ấn đầu tiên trong lĩnh vực quản lý lãnh thổ, đất đai, cương giới mang tầm vóc quốc gia, sử chép:

“Kỉ Sửu năm thứ 10 (1469)… định bản đồ của phủ châu huyện xã trang sách thuộc 12 thừa tuyên trong nước”

[Đại Việt sử ký toàn thư, q2, trs310, NXB VHTT, 2004]

* Lần thứ hai:

Do có sự mở rộng đất đai của Chiêm Thành bản đồ Hồng Đức được định lại lần thứ 2 vào năm 1490, sử chép:

“Canh Tuất năm thứ 21 (1490) Minh Hoằng trị thứ 3. Mùa hạ, tháng 4, ngày mồng 5 định lại bản đồ trong nước; 13 xứ thừa tuyên có 52 phủ, 178 huyện, 50 châu, 20 hương, 36 phường, 6851 xã, 322 thôn, 637 trang, 40 sách, 30 nguyên, 30 trường ”

[Đại Việt sử ký toàn thư, q2, tr417 – 418, NXB VHTT, 2004]

* Đánh giá sự ra đời của “Hồng Đức bản đồ” Nguyễn Văn Siêu đã bình luận trong “Phương đình dư địa chí” như sau:

“Cương lý nước ta đến đời Hồng Đức nhà Lê có thể gọi là đủ và kĩ lắm”

[Phương đình dư địa chí, tr103, NXB tự do Sài Gòn, 1960]

Từ sự ghi chép của quốc sử Đại Việt, cùng với nhận xét trong “Phương đình dư địa chí” của Nguyễn Văn Siêu. Cách ngày nay gần 600 năm, vấn đề đất đai cương vực lãnh thổ quốc gia đã trở nên một nhiệm vụ trọng yếu trên toàn cõi Đại Việt, dưới sự lãnh đạo toàn diện, thống nhất của một chính thể phong kiến hùng mạnh nhất trong lịch sử Đại Việt. “Bản đồ Hồng Đức” chi tiết tới từng trang, sách, xã, huyện, châu, phủ, trên toàn bộ lãnh thổ Đại Việt.

* “Hồng Đức bản đồ” cung cấp về khu vực đất đai khảo sát tại sự kiện số II:

Tại mục thừa tuyên Yên Quảng sách chép:

“Thừa Tuyên Yên Quảng: 1 phủ, 3 huyện, 4 châu.

Phủ Hải Đông: 3 huyện, 4 châu

  1. Huyện Hoành Bồ: 27 xã
  2. Huyện An Hưng: 15 xã
  3. Huyện Hoa Phong: 14 xã
  4. Châu Tiên An
  5. Châu Vạn Ninh: 13 xã, 6 trang, 2 nguyên
  6. Châu Vĩnh An: 3 xã
  7. Châu Vân Đồn: 37 sách”

An Quảng Thừa Tuyên

Sơn xuyên hình thế chi đồ

Untitled 2.png

  1. B: Tây nam giáp Hải Dương giới, D: Nam; G: Đông Nam giáp Đại Hải
  2. B giáp Lạng Sơn; D: An hưng huyện; E: Bạch Đằng; F: Hoa Phong huyện
  3. C: Tiên An châu; D: Hoành bồ huyện

F: Vân Đồn châu; G: Đại Hải

  1. B: Vạn Trùng Sơn; C: Hải đông phủ

D: Vạn Ninh châu giáp Quảng Đông

F: Vĩnh An châu; G: Hồng Đàm

  1. B: Bắc giáp nội địa giới; D: Bắc

G: Đông bắc giáp Đại Hải”

[Hồng Đức bản đồ, tủ sách viện khảo cổ, tr44 – 45, bộ quốc gia giáo dục xuất bản, 1962]

1.4. So sánh “An Nam vũ cống” và “Hồng Đức bản đồ”

“An Nam vũ cống” thừa nhận Yên Quảng có 6 châu trong đó có hai châu: Như Tích, Thiếp Lãng.

“Hồng Đức bản đồ” không công nhận 2 châu: Như Tích, Thiếp Lãng là đất đai của Đại Việt. Từ sự so sánh hai tư liệu địa chí trên, ta thấy cùng một chính thể quân chủ phong kiến, thời gian ra đời của hai tác phẩm địa lý học này(1435 – 1469) cách nhau là 34 năm lại có sự khác biệt là tại sao?

Như ở trên chúng tôi đã trình bày “An Nam vũ cống” là nhận thức chính trị  đối với địa lý quốc gia của một cá nhân tại thời điểm lịch sử năm 1435. “Hồng Đức bản đồ” là văn bản địa lý học mang tầm vóc của một quốc gia và là một văn bản pháp lý cao nhất của một quốc gia ghi chép nội dung nguồn gốc chủ quyền đất đai, biên giới lãnh thổ, lãnh hải Đại Việt.

Ai cũng biết, bản gốc “Hồng Đức bản đồ” đã thất lạc, khá nhiều sự phân tích, đánh giá của các nhà địa lý học nước ta về  sự xuất hiện bản tiếp theo(13 thừa tuyên). Chúng tôi không đi sâu vào vấn đề trên, nhưng để khẳng định sự chính xác từ văn bản gốc(xuất hiện giai đoạn 1467 – 1469) sang bản(sau 1490) trở đi, chúng tôi sẽ lần lượt tuân thủ phương pháp đối chứng với các tư liệu địa lý học khác ở phần sau đây.

1.5. Sự thận trọng cần thiết

Cuốn “Hồng Đức bản đồ” mà chúng tôi đã dẫn ở trên, được bộ quốc gia giáo dục Sài Gòn xuất bản năm 1962, ngày nay cuốn này được in trong bộ sách “Tổng tập dư địa chí”. Sách do nhóm ông Trương Bửu Lâm chọn, biên dịch từ nguồn Đông Dương văn khố tại Tokyo (Nhật Bản) số ICO: 891 (chúng tôi không có khả năng đối chứng toàn bộ tác phẩm “Hồng Đức bản đồ” mà chỉ chú trọng đối chứng mục Thừa Tuyên, Yên Quảng đã dẫn).

          Sau đây là những tư liệu từ quốc sử Đại Việt và dư địa chí để đối chứng chi tiết mục thừa tuyên Yên Quảng gồm:

          – Quốc sử triều Nguyễn: “Việt sử thông giám cương mục”

          – “Lịch triều hiến chương loại chí”

          – “Phương đình dư địa chí”

* “Việt sử thông giám cương mục” chép về thừa tuyên Yên Quảng như sau:

“Định bản đồ trong nước, nhà Lê định bản đồ 12 thừa tuyên như sau:…”  [VIII. Yên Bang một phủ]

Phủ Hải Đông quản lĩnh 3 huyện:

          + Hoa Phong

          + Hoành Bồ

          + Yên (An) Hưng

Và  4 châu

          + Tân (Tiên) An

          + Vạn Ninh

          + Vân Đồn

          + Vĩnh An”

[Việt sử thông giám cương mục, q11, tr1088, NXB văn sử địa, 1959]

* “Lịch triều hiến chương loại chí” mục An Bang chép:

“Phủ Hải Đông

Có 4 huyện, 3 châu

Huyện: Hoành Bồ

Huyện: Yên Hưng

Huyện: Hoa Phong

Huyện Tân Bình

Châu: Vạn Ninh

Châu: Vân Đồn

Châu: Vĩnh An”

[Lịch triều hiến chương loại chí, q1 – dư địa chí, tr112 – 113, NXB sử học, 1960]

* Cuốn sách “Phương đình dư địa chí” của Nguyễn Văn Siêu chép Yên Bang thừa tuyên như sau:

“Yên Bang thừa tuyên 1 phủ, 3 huyện, 4 châu

Hải Đông phủ: 3 huyện, 4 châu

– Hoành Bồ huyện: 27 xã

– Yên Hưng huyện: 24 xã, 1 trang

– Hoa Phong huyện: 18 xã

– Tiên Yên (Tân An) châu: 13 xã, 67 trang

– Vạn Ninh châu: 13 xã, 6 trang, 2 nguyên

– Vĩnh An châu: 3 xã

– Vân Đồn châu: 37 sách”

[Phương đình dư địa chí, tr103, NXB Sài Gòn, 1960]

Từ việc đối chứng nhằm so sánh tư liệu đã dẫn của “Hồng Đức bản đồ” bản ICO:891 của nhóm ông Trương Bửu Lâm với:

          – Quốc sử triều Nguyễn: “Việt sử thông giám cương mục”

          – “Lịch triều hiến chương loại chí”

          – “Phương đình dư địa chí”

(thậm chí cả Đại Nam nhất thống chí nhưng quá dài) ba tư liệu đem đối chiếu đều trùng khớp và thống nhất chỉ có một sai lệch nhỏ(Lịch triều hiến chương loại chí đưa một châu thành một huyện).

Từ sự đối chứng trên kết luận:

Thừa tuyên Yên Quảng chỉ có 3 huyện, 4 châu không có 2 châu:

– Như Tích

– Thiếp Lãng

Một câu hỏi đặt ra ở đây là: Nguyễn Trãi đã thừa nhận hai châu Như Tích – Thiếp Lãng thuộc Đại Việt và chỉ sau 34 năm, cùng một thể chế chính trị, lại nhằm vào thời điểm nhà nước phong kiến phát triển cực thịnh, hùng mạnh nhất trong lịch sử phong kiến Đại Việt. Triều đình vua Lê Thánh Tông đã không công nhận hai châu Như Tích – Thiếp Lãng thuộc sở hữu của Đại Việt (một vị vua anh minh đã từng chỉ dụ phải bảo vệ từng m2 đất của cha ông). Cũng cùng một giai đoạn lịch sử này, đã ra đời bộ “luật Hồng Đức”: chỉ riêng một trang Vân Đồn đã có ba điều luật được viết trong bộ luật, gồm: Điều 612, điều 615, điều 616, viết về trang Vân Đồn Yên Quảng.

[Điều 612, 615, 616 – Lê triều hình luật, tr315 – 317, NXB văn hóa, 1997]

          Ba điều luật ghi chép giành cho trang Vân Đồn trong bộ luật Hồng Đức, chứng tỏ tầm quan trọng chiến lược và phòng thủ đặc biệt của đất nước tại biên giới đông bắc Đại Việt kỷ nhà Lê.

          Đưa ra sự mâu thuẫn giữa hai tác phẩm dư địa chí trên, chúng tôi  chưa vội  khẳng định tính xác thực nguồn gốc sở hữu của hai châu Như Tích và Thiếp Lãng, mà chỉ nhằm một mục đích dẫn nhập cho những vấn đề về sau, chứng minh TÍNH KHÁCH QUAN MANG TẦM VÓC QUỐC GIA giai đoạn lịch sử này của nhà Lê.

 

 

  1. Những bằng chứng chính xác từ nguồn tư liệu Đại Việt, Trung Hoa, các loại sách dư địa chí, chứng minh nguồn gốc chủ quyền 2 châu Như Tích – Thiếp Lãng.

          Như chúng tôi đã trình bày ở phần trên, kết hợp chặt chẽ tư liệu dư địa chí, sử liệu Đại Việt và Trung Hoa là phương pháp mà chúng tôi tuân thủ chặt chẽ từ đầu tới cuối mỗi sự kiện lịch sử của nhà Mạc. Hai nguồn tư liệu này bổ sung cho nhau tạo thành một hành lang pháp lý khoa học đầy đủ khách quan và chính xác đẩy lùi từng bước “lịch sử nhận thức”, góp phần trả lại lịch sử khách quan từng sự kiện lịch sử đang khảo xét.

2.1. Những bằng chứng từ nguồn quốc sử Đại Việt khẳng định nguồn gốc đất đai tại sự kiện số II.

Sách “Đại Việt sử ký toàn thư” kỷ nhà Lê Đại Hành chép(xin lưu ý: Nhà Lê Đại Hành gọi thừa tuyên Yên Quảng là trấn Triều Dương)

“Trước đây ở trấn Triều Dương của ta bọn Văn Dũng làm loạn giết người rồi trốn sang TRẤN NHƯ TÍCH THUỘC KHÂM CHÂU NƯỚC TỐNG. Trấn tướng là Hoàng lệnh Đức chứa giấu.” Vua sai Trấn tướng Triều Dương là Hoàng Thành Nhã đuổi bắt, Lệnh Đức không chịu trả về, nay Nghiên Tẩu đến Như Tích tra ra được chuyện chứa giấu ấy, đem hết bọn trai gái già trẻ đã chứa cộng 113 người, gọi Thành Nhã sang giao cho nhận về.Vua cảm ơn nhà Tống, sai sứ sang tạ ơn”

[Đại Việt sử ký toàn thư, q1, tr237, NXB VHTT, 2004]

Cùng một sự kiện trên “Việt Sử thông giám cương mục” chép:

“Bính Thân, năm thứ 3(996) (Tống năm chí đạo thứ 2) tháng 2, mùa xuân, sai sứ sang nhà Tống. Trước đây, bọn Văn Dũng, dân Trấn Triều Dương phạm tội trốn sang NHƯ TÍCH THUỘC KHÂM CHÂU BÊN TỐNG, được trấn tướng nhà Tống là Hoàng Lệnh Đức chứa chấp. Đến đây Nghiên Tẩu đến trấn Như Tích hỏi biết rõ đầu đuôi về việc chứa phạm nhân, mới đem giao trả ta, tất cả trai gái già trẻ hơn trăm người mà trước đây Hoàng Lệnh Đức đã chứa chấp. Nhà Vua lại bắt 27 người Đán không biết tiếng Trung Quốc đưa sang Quảng Tây giao cho Tống. Nhân tiện sai sứ sang tạ ơn Tống”

[Việt sử thông giám cương mục, q3, tr243, NXB văn sử địa, 1957]

Từ hai lần dẫn bởi hai bộ quốc sử Đại Việt trấn Như Tích thuộc Khâm châu nhà Tống đã đi vào lịch sử cả hai nước Đại Việt và Trung Hoa trước nhà Mạc hơn 500 năm, đồng thời khẳng định chính xác sở hữu ban đầu vùng đất Như Tích thuộc ai.

          Qua những ghi chép ở trên, từ năm 996 kỷ Lê Đại Hành khái niệm “biên giới” tại thời điểm lịch sử này cho thấy, từng ngọn núi, dòng sông, tuy còn chưa chuẩn xác tới từng mét đất. Nhưng lãnh thổ Đại Việt và Trung hoa tại khu vực biên giới là khá rõ ràng, ngay cả các chức danh đối ứng giữa hai quốc gia đã rất chuẩn mực: “Trấn tướng Triều Dương” – “trấn tướng Như Tích” các công việc liên quan tới biên giới giữa hai quốc gia đã rất tỉ mỉ và hoàn chỉnh với pháp luật mỗi nước.

          Khái niệm “miền biên giới” có lẽ do những biến động chính trị sắc tộc gây nên bởi yếu tố con người, “nhân” – “quả” từ những sự kiện ấy là nội dung diễn biến sự kiện số I ở trên và số II đang khảo cứu.

2.2. Những bằng chứng từ quốc sử Trung hoa khẳng định nguồn gốc đất đai tại sự kiện số II.

2.2.1. Từ “Tống sử”:

“Ba trấn Như Hồng – Như Tích – Đốt Bộ thuộc Khâm châu đều ở ngoài cồn bể. Bọn Bốc Văn Dũng ở trấn Triều Dương thuộc Giao châu can tội giết người, đem gia thuộc chạy sang trấn Như Tích, trấn tướng Như Tích là Hoàng Lệnh Đức cho bọn Văn Dũng ẩn núp ở đó. Lê Hoàn sai tướng Triều Dương là Hoàng Thành Nhã đưa thư sang  bắt nhưng Lệnh Đức không cho bắt. Vì có giặc biển vào cướp luôn luôn nên năm Chí Đạo thứ 2 (996). Triều đình cho công bộ viên ngoại lang trực sứ quán là Trần Nghiêu Tẩu làm chuyến vận sứ và nhân tiện đưa chiếu thư cho Hoàn, rồi Nghiêu Tẩu đến Như Tích xét ra được việc dung ẩn bọn Văn Dũng. Nghiêu Tẩu bắt Nam phụ lão ấu của bọn ấy 130 người giao cho quan chức ở trấn Triều Dương và bảo đừng hành hạ chúng. Thành Nhã nhận được người, đưa thư tạ ơn Nghiêu Tẩu. Lê Hoàn bèn dâng biểu cảm ơn và bắt 23 tên giặc biển phái giao nộp Nghiêu Tẩu.”

[Tống sử 448, liệt truyện, tr247, q4 từ tr 5654 – 5663 tài liệu lịch sử, khoa lịch sử, ĐH KHXH&NV. KH: TL/LS.0093]

2.2.2. Từ quốc sử triều Minh

“Minh thực lục” ghi chép về biến động tại hai đô Như Tích – Thiếp Lãng như sau(xin lưu ý: Nhà Tống gọi là trấn Như Tích, nhà Minh dùng từ “đô” Như Tích)

“(867) ngày 20 tháng chạp năm Tuyên Đức thứ 9(19/1/1435) châu Khâm Quảng Đông tâu: “Hai đô Như Tích – Thiếp Lãng tiếp giáp với huyện Vạn Ninh Giao Chỉ, trước đây nhân Lê Lợi phản nghịch, bọn người trong đó là bọn Hoàng Khoan bị cưỡng bức, trợ giúp giặc Man cùng tài sản của dân. Mới đây đem bản mệnh chiêu phủ, bọn Khoan cam tâm nghe lời giặc không tuân theo.”

[Minh thực lục 21, tr2591 – 2592, Tuyên tôn, q115. 8a – 8b, NXB Hà Nội, 2010]

          Một văn bản ngoại giao rất quan trọng mà nhà Minh gửi cho nhà Lê vào năm 1442 như sau:

“[917] ngày 8 tháng 3 năm Chính thống thứ 7 (18/4/1442)

Ngày Kỷ Tỵ, sứ thần An Nam Lê Quyến từ giã bệ rồng. Mệnh ban cho quốc vương Lê Lân sắc cùng ban mũ dạ,  khăn đội đầu, y phục dệt kim, sắc như sau:

“Trẫm phụng mệnh trời, coi dân 4 cõi hải nội, hải ngoại đều là con đỏ của triều đình, muốn mọi nơi được an sinh lạc nghiệp, không trái với tính trời. Tiên hoàng đế nước ta, thể theo bụng Hoàng thiên dẹp bỏ việc binh, thương xót dân, muốn thiên hạ được nghỉ ngơi, nên đã mệnh cho người đời trước, phong ngươi làm quốc vương An Nam để kế thừa cha ngươi.  Đó cũng thể theo đạo trời, với lòng dân thương người vậy. Năm trước: Hoàng Kim Quảng người châu Khâm phủ Liêm Châu Quảng Đông bị người nước ngươi dụ dỗ ngu muội làm điều sai quấy xung 2 đô: THIẾP LÃNG – NHƯ TÍCH phụ về An Nam. Lấy lời sàm mê hoặc cha ngươi, nên cha ngươi (Lê Lợi) cho lập vệ đặt quân tại thôn NHA CÁT. Bắt ép 281 hộ phải theo, xâm chiếm cương vực, dụ hiếp nhân dân, việc này do người dưới tại nước ngươi làm, cha con ngươi không biết được.

Phàm 281 hộ chẳng đáng gây thiệt hại nơi này, để có ích nơi khác, nhưng trọng tín nghĩa không thể dối trời, sắc đến sai bọn Hoàng Khoan, 281 hộ giao cho châu Khâm quản lý. Tội trạng cũng tha không hỏi đến, vệ đã lập hãy bỏ đi như cũ, để thể hiện đạo kính trời, thờ nước lớn, ngươi sẽ được hưởng phúc mãi mãi. Khâm thử”

[Minh thực lục v26, tr1807 – 1808, Anh Tông, tr2a – 2b, NXB Hà Nội, 2010]

2.3. Những bằng chứng từ tư liệu dư địa chí Đại Việt và Trung hoa, khẳng định nguồn gốc đất đai tại sự kiện số 2.

2.3.1. Từ dư địa chí Đại Việt:

Cuốn “An Nam chí lược” do Lê Tắc soạn năm 1333 (đời Trần) ghi chép sự kiện mà quốc sử Đại Việt và Trung hoa đã chép ở trên.

“Nguyên Khâm châu có 3 trấn ở gần bờ biển là: Như Âm (Như Tích), Như Hồng, Xung Bộ. Trước đây có bọn Văn Dũng dân Triều Dương thuộc Giao Châu bị án giết người, rồi đem cả gia quyến trốn qua trấn Như Âm (Như Tích)…”

[An Nam chí lược, q1, TTDĐC,tr359, NXBTN, 2012]

2.3.2. Dư địa chí đời Tống

Trong cuốn “Lĩnh ngoại đại đáp” được soạn năm 1178 của Chu Khứ Phi đời Tống, địa danh Như Tích được viết ra rất nhiều lần, bởi vị trí quan yếu của nó tại biên giới nhà Tống với Đại Việt.

Trong mục: “Khâm, Liêm khê động đô tuần kiểm sứ” chép:

“Khâm, Liêm đều gọi là nơi cực biên, cách cõi nước An Nam không xa. Ngày trước thuyền bè của An Nam đến nhiều ở Liêm, sau vì thuyền đắm nhiều, mới lại đi đến khâm. Nay Liêm châu không cai quản các khê động, còn khi kèm chức khê động là phòng bị An Nam mà thôi. Phía tây Liêm là Khâm, phía tây Khâm là An Nam. Người giao mà đến, đại để đi  bằng thuyền nhỏ, đã ra khỏi cảng theo dọc bờ mà đi, không đầy nửa dặm thì vào ngay cảng của Khâm, nếu đến Liêm tất phải qua cảng của Khâm. Trong lúc sang ngang dòng nước, sóng gió nhiều khi dữ, người Giao Chỉ đi đến Khâm từ châu Vĩnh An ở cõi nước ấy, sáng đi thì tối đến Khâm. Ở cửa cảng có đặt trại “Đề Trạo” để những cõi gần nào có thuyền biển sang thì tiết chế. Một ty tuần kiểm ở duyên hải đón và đưa thuyền ấy. Đó là cách phòng bị ở đường biển vậy, còn như ở lục địa thì có 7 động ở ĐỘNG NHƯ TÍCH có đặt đồn thú để giữ vững bờ cõi của ta.”

[Lĩnh ngoại đại đáp, tr17 – 18, Phan Duy Tiếp dịch, TL/LS khoa sử,

ĐH KHXH&NV, KH: LS /TL: 0059]

Chu Khứ Phi mô tả việc dùng người trong quân sự 7 khê động châu Khâm tại biên giới giữa Trung hoa và Đại Việt thời Tống, tại mục: “Động đinh thú biên” chép:

“Dân châu cơ my gọi là “động đinh” họ cường tráng vũ dũng có thể dùng được, tù trưởng ở khê động dùng làm binh vệ, gọi là “Điền Tử giáp”. Quan dùng một người dân ấy không thể được. Duy động Đinh của 7 động ở Khâm châu đi thú biên cho quan vì là quyền lực của 7 động ấy yếu hơn ung quản, cho nên phải nghe theo mệnh lệnh vậy. Xưa một Viên Tri Khâm động trực phòng tuần sứ thần, đem một trăm quan quân đi thú ĐỘNG NHƯ TÍCH để phòng bị Giao Chỉ. Nhân vì quan quân ngược đãi họ, động từ xin không dùng quan quân, xin tự lấy động đinh thay đổi thúc giữ. Bởi thế nên một mình Khâm châu có lính thú động binh”.

[Lĩnh ngoại đại đáp, tr39 – 40, Phan Duy Tiếp dịch TL/LS khoa sử, ĐH KHXH&NV, KH: LS /TL: 0059]

Trên đây là những bằng chứng nằm tại các nguồn sử liệu Đại Việt và nhà Tống, nhà Minh, thời gian xuất hiện của các tư liệu đã dẫn này cách năm 1540 là (996 – 1540) là 644 năm.

  Chúng tôi không dẫn ra các bằng chứng khác viết sau năm 1540 từ “Việt sử thông giám cương mục”, “Đại Nam nhất thống chí”, “Việt kiệu thư” hay “Thù vực chu tư lục”, bởi xét thấy thật không cần thiết và quá dài.

  1. Lịch sử trước nhà Mạc 500 năm chứng minh nguồn gốc sở hữu “động” Tư Lẫm thuộc Khâm Châu Trung Hoa.

* Sách “Việt sử thông giám cương mục” chép sự kiện xảy ra tại “động” Tư Lẫm kỷ nhà Lý như sau:

“Kỉ Hợi năm Chương thánh Gia Khánh thứ 1 (1059) (Tống Gia hựu thứ 4). Tháng 3, mùa xuân… quân ta kéo đến TƯ LẪM DOANH THUỘC KHÂM CHÂU, diễn võ dương uy rồi trở về, việc hành quân này là vì ghét nhà Tống tráo trở”

[Việt sử thông giám cương mục, q3, tr82, NXB văn sử địa, 1959]

          Lẽ ra phải dẫn “Đại Việt sử ký toàn thư” trước khi dẫn “Việt sử thông giám cương mục”. Nhưng “Đại Việt sử ký toàn thư” không ghi cụ thể địa danh “Tư Lẫm” (xin lưu ý rằng ở sự kiện số I binh bộ thị lang Lê Văn Thịnh đi sứ bàn xét 2 châu Quy Hóa – Thuận An “toàn thư” chỉ cung cấp địa điểm là trại Vĩnh Bình. Trong khi đó “Cương mục” cung cấp rất chi tiết động “Tư Lẫm” tại sự kiện năm 1059, “toàn thư” chỉ cung cấp địa danh Khâm châu một cách chung chung (một câu hỏi cứ tồn tại, tại sao điều này xảy ra?).

“Đại Việt sử ký toàn thư” chép:

“Kỉ Hợi, chương thánh Gia Khánh năm thứ 1 (1059) (Tống Gia Hựu thứ 2) mùa xuân, tháng 3, đánh Khâm châu nước Tống, khoe binh rồi về, vì ghét nhà Tống phản phúc”

[Đại Việt sử ký toàn thư, t1, tr319, NXB VHTT, 2004]

3.1. Quốc sử Trung hoa “Tống sử”, “Việt Kiệu thư” đời Minh chép cùng 1 sự kiện trên như sau:

“Năm Gia Hựu thứ 4 (1059) Giao Chỉ vào cướp phá QUẢN TƯ LẪM THUỘC KHÂM CHÂU” (Tống dùng đơn vị là “quản”, “quản” tương đương với “động” nhà Minh dùng)

[Tống sử liệt truyện: Giao Chỉ 488, liệt truyện 247, q4, Tr 5654 – 5663, TL/LS khoa sử, ĐH KHXH&NV, KH: TL/LS: 0093]

* “Việt Kiệu thư” đời Minh chép sự kiện trên như sau:

“Năm thứ 4 (1059) người Giao Chỉ vào ăn cướp QUẢN TƯ LẪM THUỘC KHÂM CHÂU”

[Việt Kiệu thư, q3 – q4, tr49, TL/LS khoa sử, ĐH KHXH&NV, KH: TL/LS 0003]

          Với một sự kiện lịch sử xảy ra tại một “động” thuộc nhà Tống tiếp giáp với biên giới Đại Việt – động Tư Lẫm. Sự kiện lịch sử trên cách nhà Mạc 500 năm về trước do chính quốc sử Đại Việt, quốc sử Trung hoa biên chép. Nguồn gốc chủ quyền đất đai mà chúng ta quan tâm càng được khẳng định rõ ràng và cụ thể hơn, tính thống nhất và quá trình liên tục lịch sử vùng đất tại sự kiện lịch sử số II được thể hiện từ nhà Tống (ít nhất từ năm 996) tới nhà Minh trước năm 1427 (996 – 1427).

VỚI NHỮNG TRÌNH BÀY RÕ RÀNG, CỤ THỂ TỪ CÁC NGUỒN DƯ ĐỊA CHÍ VÀ SỬ LIỆU Ở TRÊN, ĐÃ KHẲNG ĐỊNH CHÍNH XÁC NGUỒN GỐC SỞ HỮU ĐẤT ĐAI HAI CHÂU NHƯ TÍCH – THIẾP LÃNG LÀ THUỘC TRUNG HOA, ĐÓ LÀ CHÂN LÝ KHÁCH QUAN KHÔNG THỂ BÀN CÃI.

B – DIỄN BIẾN LỊCH SỬ VÙNG ĐẤT TẠI SỰ KIỆN II

  1. GIAI ĐOẠN TỪ NĂM 1427 ĐẾN NĂM 1527
  2. Tư liệu lịch sử từ quốc sử nhà Minh chép về sự kiện II

          Năm 1427 là dấu mốc quan trọng trong lịch sử đất nước là năm chấm dứt 20 năm thuộc Minh, chiến thắng vĩ đại của Lê Lợi khắc sâu mãi mãi trong lịch sử dân tộc. Đúng vào thời điểm đó, một loạt vấn đề phức tạp xảy ra tại biên giới đông bắc Đại Việt. Nhằm làm rõ những diễn biến lịch sử tại khu vực trên, chúng tôi sẽ đưa ra những tư liệu lịch sử của nhà Minh ra trước phần dẫn này, việc đó nhằm làm rõ từng giai đoạn cụ thể của sự kiện lịch sử đã xảy ra rồi so sánh với sử liệu Đại Việt, để thấy nguyên nhân là do tư liệu quốc sử Đại Việt không cung cấp bất cứ một nội dung nào liên quan đến sự kiện xảy ra tại vùng đất đông bắc vào năm 1427 tại kỷ nhà Lê.

          Trong khi đó, quốc sử nhà Minh ghi chép rất cụ thể các chi tiết sự kiện xảy tại sự kiện lịch sử số II. Như vậy, bắt buộc chúng tôi phải dẫn tư liệu sử nhà Minh ra trước để có thể so sánh từng sự việc xảy ra tại sự kiện số II với quốc sử của nước ta trong giai đoạn lịch sử này.

* Những ghi chép về sự kiện II tại “Minh thực lục”

Ngày 29 tháng 2 năm chính thống thứ 5, tại mục 906, “Minh thực lục chép:

“[906] Ngày 29 tháng 2 năm Chính thống thứ 5 (1/4/1440).

Tuần vũ Quảng Đông giám sát ngự sử chu giám tâu rằng: Dân châu Khâm bọn Hoàng – Khoan làm phản theo An Nam, chiêu phủ năm này qua năm khác nhưng không phục, xin sắc mệnh cho quan đại thần tại triều đình bàn bạc gửi văn thư hứa miễn thuế lương thực nếu trở về với nghề nghiệp cũ, ngoài ra xin cử 1 đô chỉ huy thanh liêm được việc đến trấn thủ tại châu Khâm. Thiên tử mệnh: số thuế bọn Khoan thiếu, hãy ngưng lại không thu, còn ra sắc dụ cho tam ty Quảng Đông rằng:

“Con người ta không ai là không thích an lạc ghét khổ sở, bọn Khoan đều do các quan lại tại quận huyện tham bạo ngược đãi, bất đắc dĩ phải tìm kế tự toàn. Trẫm từ khi lên ngôi đến nay lấy sự dưỡng dân làm chính sách, các ngươi là những người được tuyển chọn cẩn thận, hãy thể theo ý Trẫm, lấy lòng trung phủ dụ còn có thể cảm hóa được loài vật như cá, lợn huống gì là con người! Các ngươi mỗi người hãy cử quan cao cấp một viên, cùng với tuần vũ, án sát, ngự sử thân đến chiêu dụ,  chỉ dùng những lời tử tế cảm hóa, bọn chúng nhớ ơn vui lòng khâm phục, khiến dân được yên. Lại  ban một đạo sắc dụ bọn Khoan, giao các ngươi đưa đi.  Châu Khâm là nơi quan trọng, hãy bàn bạc chọn trong đám đô chỉ huy 1 tay lão thành thanh liêm, được việc đến trấn thủ, không được phép sinh sự”

[Minh thực lục v25, tr1285 – 1286, Anh tông, q6a, NXB Hà nội, 2010]

  Cùng năm 1440, 8 tháng sau, vấn đề châu Khâm lại được xới lên tại triều đình nhà Minh, từ sự việc của hai thủ lĩnh địa phương: Hoàng Khoan và Hoàng Kim Quảng. “Minh thực lục” chép:

“[909] Ngày 15 tháng 10 năm Chính thống thứ 5 (9/11/1440) dân châu Khâm Quảng Đông là bọn Hoàng Khoan từ đầu năm Tuyên Đức (1427) dụ dỗ cư dân hơn 290 hộ cùng ruộng đất hiến cho An Nam. Trước đây đã sắc cho tuần phủ, án sát ngự sử cùng các quan tại tam ty mang sắc phủ dụ nhưng bọn Khoan không tuân. Khảo xét chí thư về châu này từ khí Hán Mã Viện bình định xong (Giao Chỉ), lấy cột đồng làm giới hạn phía tây nam, [Núi] Phân Mao lĩnh giới hạn đó từ đời Hán Vũ đế đến nay đều lệ thuộc châu Khâm. Nay trong vòng núi Phân Mao hơn 300 dặm, trong vòng cột đồng hơn 200 dặm đều do An Nam xâm chiếm.

Nếu như ban sắc dụ vương An Nam trả lại đất đã xâm chiếm thì không cần phải gọi về, vì đã được trả lại.

Bộ binh bàn định như sau:

“Nên đợi đến ngày An Nam sai sứ triều cống sẽ ban sắc cho quốc vương nước này trả lại đất đã xâm lấn. Vẫn biểu dụ bọn Khoan rằng: Nếu tình nguyện đem gia đình trở về sẽ được tha tội” sắc cho lực lượng phòng thủ biên giới. Được hoàng thượng chấp thuận”

[Minh thực lục v25, tr1397 – 1398, Anh tông, q72, tr5a – 5b, NXB Hà Nội, 2010]

  Qua 2 mục [906] và [909] trích dẫn trên ta biết:

           – Sự kiện xảy ra vào năm 1427.

           – Thủ lĩnh Hoàng – Khoan là người cầm đầu trong nhóm.

– Mọi biện pháp chiêu phủ từ triều đình Minh từ 1427 đến 1440 không thành công.

– Số lượng dân sát nhập vào Đại Việt là 290 hộ.

– Nhà Minh muốn giải quyết sự việc bằng con đường ngoại giao.

          Năm 1442, sứ thần nhà Lê sang nhà Minh triều cống, vua Minh đã gửi chiếu thư cho vua Lê Thái Tông với nội dung sự kiện tại châu Khâm như sau:

“[917] ngày 8 tháng 3 năm Chính thống thứ 7 (18/4/1442)

Ngày Kỷ Tỵ, sứ thần An Nam Lê Quyến từ giã bệ rồng. Mệnh ban cho quốc vương Lê Lân sắc cùng ban mũ dạ,  khăn đội đầu, y phục dệt kim, sắc như sau:

“Trẫm phụng mệnh trời, coi dân 4 cõi hải nội, hải ngoại đều là con đỏ của triều đình, muốn mọi nơi được an sinh lạc nghiệp, không trái với tính trời. Tiên hoàng đế nước ta, thể theo bụng Hoàng thiên dẹp bỏ việc binh, thương xót dân, muốn thiên hạ được nghỉ ngơi, nên đã mệnh cho người đời trước, phong ngươi làm quốc vương An Nam để kế thừa cha ngươi.  Đó cũng thể theo đạo trời, với lòng dân thương người vậy. Năm trước: Hoàng Kim Quảng người châu Khâm phủ Liêm Châu Quảng Đông bị người nước ngươi dụ dỗ ngu muội làm điều sai quấy xung 2 đô: THIẾP LÃNG – NHƯ TÍCH phụ về An Nam. Lấy lời sàm mê hoặc cha ngươi, nên cha ngươi (Lê Lợi) cho lập vệ đặt quân tại thôn NHA CÁT. Bắt ép 281 hộ phải theo, xâm chiếm cương vực, dụ hiếp nhân dân, việc này do người dưới tại nước ngươi làm, cha con ngươi không biết được.

Phàm 281 hộ chẳng đáng gây thiệt hại nơi này, để có ích nơi khác, nhưng trọng tín nghĩa không thể dối trời, sắc đến sai bọn Hoàng Khoan, 281 hộ giao cho châu Khâm quản lý. Tội trạng cũng tha không hỏi đến, vệ đã lập hãy bỏ đi như cũ, để thể hiện đạo kính trời, thờ nước lớn, ngươi sẽ được hưởng phúc mãi mãi. Khâm thử”

[Minh thực lục v26, tr1807 – 1808, Anh Tông, tr2a – 2b, NXB Hà Nội, 2010]

Từ mục [917] đã dẫn xuất hiện các sự kiện cụ thể:

          – Thủ lĩnh địa phương thứ hai: Hoàng Kim Quảng

          – Địa danh cụ thể: hai “đô” Như Tích – Thiếp Lãng

          – Nhà Lê đã cho lập vệ(đồn) quân sự tại động Nha Cát (Cát, Liễu Cát, Cá Cát) sau năm 1427.

          – Số hộ dân phụ vào An Nam chính xác là 281 hộ.

          Xin lưu ý mục [917], “Minh thực lục” vừa dẫn hai địa danh trong “An Nam vũ cống”  mà Nguyễn Trãi ghi chép xuất hiện trong văn bản ngoại giao đầu tiên mà nhà Minh gửi cho nhà Lê năm 1442, với nội dung: đòi đất hai châu (đô): Như Tích – Thiếp Lãng đã được sát nhập vào Đại Việt năm 1427.

  1. TƯ LIỆU TỪ QUỐC SỬ KỶ NHÀ LÊ

          Từ 2 bộ quốc sử Đại Việt, chúng ta không thể nghiên cứu để có thể tìm ra một bằng chứng hiện hữu nào cho sự kiện hai châu Như Tích – Thiếp Lãng. “Đại Việt sử ký toàn thư” chỉ cung cấp một số dữ liệu chung chung liên quan đến đất đai khu vực Khâm châu sẽ được chúng tôi lần lượt đưa ra sau đây.

2.1. Giai đoạn vua Lê Thái Tông và Lê Nhân Tông

          Ở trên chúng tôi đã đưa ra văn bản ngoại giao đầu tiên nhà Minh gửi cho nhà Lê vào ngày 8 tháng 3 năm Chính thống thứ 7 của nhà Minh. Tức ngày 18/4/1442 (dương lịch), nội dung cốt yếu của chiếu thư này nhằm đòi nhà Lê trao trả đất đai thuộc 2 “đô” (châu) Như Tích, Thiếp Lãng, do các thủ lĩnh địa phương làm phản chạy sang An Nam (nhà Lê).

          Về phía nhà Lê, chúng ta chỉ thấy ghi chép trong sử những sứ bộ ngoại giao đi làm nhiệm vụ: “Bàn việc Khâm châu”. Sử không cung cấp bất cứ một tình tiết diễn biến nào thêm nữa( tại sao lại như vậy?).

a, Việc đi sứ lần 1:

Sau 6 tháng nhận được chiếu thư từ nhà Minh(14/4/1442), nhà Lê có sứ bộ sang nhà Minh. Sử ghi chép phái bộ này thực hiện ba nhiệm vụ như sau:

          – Tạ ơn cho mũi áo

          – Nạp cống, cầu phong, báo tang

          – Tâu việc địa phương Khâm châu

Sử chép:

“Nhâm Tuất, năm thứ 3 (1442) (Minh chính thống thứ 7) mùa đông, tháng 10, sai sứ sang nước Minh. Đồng Tri Hải tây đạo Nguyễn Thúc Huệ và thiêm trị thẩm hình viện Đỗ thì Việp sang tạ ơn cho mũ áo, Thi ngự sử Triệu Thái sang, tâu việc địa phương Khâm châu, bọn tham tri Nguyễn Đình Lịch và Phạm Du sang báo tang tham tri Lê Truyền, Đô ngự sử Nguyễn Văn Kiệt, Ngự tiền học sinh cục trưởng Nguyễn Hữu Phu sang cầu phong”.

[Đại Việt sử ký toàn thư, q2, tr185, NXB VHTT, 2004]

          So sánh chi tiết nội dung phái bộ sứ thần nhà Lê sang Minh đợt này, chúng tôi xin lưu ý nội dung mục [917] “Minh thực lục” đã dẫn ở phần trên cùng với nội dung mà sứ thần nhà Lê phải đảm trách trong kỳ đi sứ cuối năm 1442.

                   * Vua Minh ban mũ dạ, khăn đội đầu, y phục dệt kim

                   – Sứ thần nhà Lê sang tạ ơn cho mũ áo

* Vua Minh gửi chiếu thư đòi đất 2 “đô” Như Tích, Thiếp Lãng thuộc Khâm châu

                   – Sứ thần nhà Lê sang tâu việc địa phương Khâm châu

          Từ sự so sánh trên, chúng ta phần nào hiểu được trình tự diễn biến xảy ra tại khu vực đất đai này, dù sử Đại Việt không cung cấp chi tiết (hay cố tình hoặc can thiệp sử cũ).

b, Việc đi sứ lần 2:

          Hai năm sau (1444) sử cung cấp phái bộ đi sứ lần hai nhằm giải quyết đất đai tại khu vực Khâm châu như sau:

“Giáp Tý, năm thứ 2 (1444) (Minh Chính thống năm thứ 9)…

Tháng 11, sai sứ sang nước Minh, Tả thị lang là Đào Công Soạn và ngự tiền chấn lôi quân chỉ huy là Lê Quát sang nộp cống hàng năm. Tham tri đông đạo Nguyễn Lam sang tâu việc: ĐỊA GIỚI KHÂM CHÂU”

[ĐVSKTT, q2, tr189, NXB VHTT, 2004]

          Dù rất kiệm chữ, sử chỉ ghi chép: “Việc địa phương Khâm châu” hoặc “Địa giới Khâm châu” cũng có thể gợi ý cho người đọc sử hiểu mức độ về tình hình căng thẳng tranh chấp địa giới giữa hai nước tại khu vực giáp ranh với Khâm châu của nhà Minh.

c, Lần đi sứ thứ 3:

          Năm 1447 (5 năm sau) lần đi sứ thứ ba mà phái bộ nhà Lê nhận trách nhiệm tâu việc Khâm châu, sử chép:

“Đinh Mão, năm thứ 5 (1447) (Minh Chính thống thứ 12) …

Tháng 9 ngày 29, sai sứ sang nước Minh ngự sử trung thừa là Hà phủ làm chánh sứ, đồng tri thẩm hình viện là Đinh Lan làm phó sứ, nộp cống hàng năm và tâu việc Khâm châu”.

[ĐVSKTT, q2, tr192, NXB VHTT, 2004]

          Như vậy, tại giai đoạn vua Lê Thái Tông, xuất hiện ba phái bộ sứ thần nhà Lê được cử sang nhà Minh tâu việc địa giới Khâm châu vào các năm:

                   – Năm 1442

                   – Năm 1444

                   – Năm 1447

          Sử không hề ghi chép chi tiết, nhưng từ sự so sánh giữa quốc sử nhà Minh mà chúng tôi cố ý cung cấp trước, sẽ để người đọc hiểu sự liên quan chi tiết đến các vấn đề mà chúng ta đang quan tâm tại sự kiện lịch sử số II này.

          Khu vực biên giới Yên Bang đông đạo Đại Việt trở nên căng thẳng từ sự cung cấp bởi những trang sử tiếp theo chép những sự kiện xảy ra tại đây, cùng ứng phó của triều đình vua Lê Thần Tông giai đoạn này:

“Mậu Thìn, năm thứ 6 (1448) (Minh Chính thống thứ 13).

Biên giới phía đông ngoa truyền rằng, nước Minh sai sứ sang hội khảo địa giới. Vua sai tham tri đông dạo là Trình Dục đến nơi dò xét hư thực, trở về báo cáo. Dục đến biên giới không dò hỏi gì, chỉ nghe lời người đi đường nói về tâu ngay là có quân hai ty khâm sai của phương bắc và quan trấn thủ tổng binh Quảng Đông đem quân và ngựa sang rất nhiều. Vua sai tả khấu Lê Khắc Phục, tả hữu nạp ngôn là Nguyễn Mộng Trừu và Nguyễn Văn Phú, hữu thị lang là Đào Công Soạn, trung thừa Hà Liệt và bọn đồng tri tây đạo Nguyễn Thúc Huệ, Nguyễn Lam, Bùi Cầm Hồ, Trình Dục, phó sử thẩm hình viện Trình Mân, Tham tri nội mật viện Lê Văn đến để hội khám. Lại sai đồng tri phủ hạ Nam Sách là Lê Thiệt đem hơn 1 vạn 2 nghìn quân hội đồng với các quân Trấn Yên Bang phòng bị việc biên giới… cả miền đông đều rối động”.

[ĐVSKTT, q2, tr193 – 194, NXB VHTT, 2004]

2.2. Giai đoạn vua Lê Thánh Tông

          Đến thời vua Lê Thánh Tông, khu vực biên giới tại Yên Bang, giáp Khâm châu nhà Minh càng trở nên phức tạp hơn, tác động từ sự tranh chấp đất đai đã đẩy những việc có liên quan giữa hai bên Đại Việt và nhà Minh liên tục xảy ra. Về phía Nhà Lê đã dự báo, tăng cường lực lượng quân sự, cảnh giác cao độ tại khu vực tranh chấp đất đai tại đây:

“Sai đô đốc thiêm sự Khuất Đả đem 500 quân ngũ phủ đến bảo KHẢ LẶC trấn Yên Bang đuổi giặc cỏ, không đuổi kịp rồi về”

Đinh Hợi năm thứ 8 (1467) (Minh Thành hóa thứ 3)

[ĐVSKTT, q2, tr290, NXB VHTT, 2004]

Tại năm 1467 đã xảy ra rất nhiều việc liên quan tới biên giới khu vực đông bắc như việc: thuyền chở lương của nhà Minh trôi dạt vào Yên Bang đông đạo, sử chép:

“Đinh Hợi năm thứ 8 (1467) (Minh Thành hóa thứ 3) ngày 16, quan trấn thủ Yên bang tâu việc thuyền chở lương của người Minh bị dạt đến xứ ấy…

Vua nói: “Các khanh nói tuy là phải, nhưng lỡ ra kẻ gian phản phúc thì sao?” … Rốt cuộc giữ người Minh không cho về”.

[ĐVSKTT, q2, tr278 – 279, NXB VHTT, 2004]

          Tác động từ việc tranh chấp đất đai tại biên giới Yên Quảng giáp Khâm châu nhà Minh, nhà Lê đã dùng những biện pháp tăng cường phòng thủ cùng việc cảnh giác cao độ giành cho khu vực biên giới. Cùng năm đó, ngày 20 vua Lê Thánh Tông sắc dụ cho các quan quân trấn thủ biên giới trong đó có Yên Bang, chỉ dụ viết:

“Đinh Hợi năm thứ 8 (1467) (Minh Thành hóa năm thứ 3) sắc dụ các quan Trấn Thủ, phó tổng binh và thổ quan ở các xứ Lạng Sơn, Yên Bang, Bắc Bình rằng: “Quan giữ bờ cõi của triều đình, cố nhiên phải giữ đất yên dân đánh ngăn giặc ngoài, đó là chức phận của mình”.

 [ĐVSKTT, q2, tr289, NXB VHTT, 2004]

          Vào năm 1467 này, những dòng chữ đầu tiên mà quốc sử Đại Việt chép xuất hiện địa danh một trong bốn động thuộc hai châu Như Tích – Thiếp Lãng: Đó là bảo Khả Lặc (xin lưu ý: Kim Lặc = Khả Lặc = Tư Lặc).

Sử chép:

“Đinh Hợi năm thứ 8 (1467) (Minh Thành hóa năm thứ 3) sai đô đốc thiêm sự Khuất Đả đem 500 quân ngũ phủ đến BẢO KHẢ LẶC trấn Yên Bang đuổi đánh giặc cỏ, không đuổi kịp, rồi về”.

[ĐVSKTT, q2, tr290, NXB VHTT, 2004]

Chúng ta biết rằng vào thời điểm năm 1467 cũng là năm triều đình vua Lê Thánh Tông bắt đầu soạn bộ “Hồng Đức bản đồ”. Sử liên tục ghi chép những sự kiện nóng xảy ra tại khu vực Yên Bang, cùng các biện pháp quân sự mà triều đình nhà Lê đưa ra nhằm đối phó, củng cố và phòng thủ biên giới.

Sử chép:

“Năm Đinh Hợi thứ 8 (1467) Minh Thành hóa năm thứ 3)…ngày 16 bàn đặt vệ quân ở trấn Yên Bang vì là đất ấy độc địa, phòng khi có việc cảnh cấp ở biên giới thì đường xa ngăn trở không ứng cứu kịp”

          Lần thứ hai quốc sử cung cấp địa danh KHẢ LẶC:

“Giặc cỏ đánh bảo KHẢ LẶC trấn Yên Bang, sai đô đốc thiêm sự tây quân phủ là Khuất Đả đem 1000 quân  ngũ phủ, và sai thêm quân hai ty Điện tiền và hai ty hiệu úy đi đánh. Cho gọi thái sư Đinh Liệt, thái bảo Nguyễn Lỗi và Lê Niệm và ngũ phủ Trịnh Văn sái vào cửa Gia Hựu họp bàn phương kế đánh giặc cỏ lại cử kiêu vệ diệp tổng tri là Lê Công Nghi đem quân ngũ phủ đến cứu. Sai bọn đô đốc đồng tri nam quân phủ Nguyễn Đức Trung đi trông coi đánh giặc cỏ ở Yên Bang cho phép chém trước tâu sau. Phát 3 vạn thăng gạo kho, sai người phủ trong đô làm lương chở đến trấn Yên Bang để cấp cho quân ăn”

[ĐVSKTT, q2, tr293, NXB VHTT, 2004]

          Quốc sử Đại Việt không hề ghi chép bất cứ một tình tiết nào liên quan đến khu vực đất đai hai châu Như Tích – Thiếp Lãng và diễn biến xảy ra năm 1427 của bốn thủ lĩnh bốn động thuộc Trung hoa chạy sang nhà Lê. Nhưng qua hai giai đoạn lịch sử của nhà Lê do sử cung cấp:

                   – Giai đoạn vua Lê Thái Tông, Lê Thần Tông

                   – Giai đoạn vua Lê Thánh Tông, sự kiện lịch sử số II luôn tìm thấy những ghi chép việc tranh chấp đất đai giữa hai nhà nước Đại Việt và Trung Hoa tại biên giới đông bắc. Các sự kiện này đã được thể hiện trong công việc ngoại giao cùng với việc đối phó bằng quân sự tại nơi xảy ra tranh chấp quyết liệt, nhất là đồn quân sự Khả Lặc.

          Sử chép tiếp vấn đề tại Khả Lặc lần thứ 3:

“Tháng 8, khâm sai quyền lại khoa cấp sự trung, nghiêm nhân thọ hặc tâu tổng binh trấn Yên Bang là Lê hối không biết trù liệu đánh giặc và đốc tướng Khuất Đả đuổi đánh thất cỏ đến phải thua. Sắc cho Nhân Thọ đi xét hỏi và bắt đưa về kinh” (Khuất Đả thua trận ở bảo Khả Lặc)

[ĐVSKTT, q2, tr293, NXB VHTT, 2004]

          Xin được chú ý rằng: Bảo Khả Lặc mà chúng tôi liên tục dẫn ra ở trên “Việt sử thông giám cương mục chú thích bảo Khả Lặc như sau:

“Lời chua: Thành Khả Lặc, tức sở Kim Lặc thuộc sở thủ ngữ kinh lược sứ ở đô ti An Bang”.

[VSTGCM, q4, tr1064, NXB văn sử địa, 1959]

Một địa danh quan trọng trong 4 động liên quan tại sự kiện số II xuất hiện trong quốc sử Đại Việt: Động Kim Lặc

Mức độ xuất hiện sự kiện và những diễn biến căng thẳng tại vùng đất đông bắc Đại Việt với việc thay đổi nhân sự, cùng việc củng cố phòng thủ đã được triều đình vua Lê Thánh Tông thực hiện:

“Lấy thân vệ tổng tri Nguyễn Đông làm phó tổng binh trấn thủ Yên Bang kiêm thừa tuyên sứ ty. Lấy hàn lâm viện thị tộc học sỹ quyền phó đô ngự sử đài là Đào Tuấn làm thái bộc tự khanh quyền Yên Bang đẳng xứ tán trị thừa tuyên sứ ty tham chính tri bản vệ quân sự. Quyền đô đốc đông quản phủ Trịnh Công Lộ từ trấn Yên Bang về, dâng sớ về việc tiện nghi 4 điều:

  1. Lập doanh bảo Tân yên Vạn Ninh để chống giặc ngoài
  2. Tuyển đặt hương trưởng làm giáp thủ để trông coi lẫn nhau
  3. Chọn người có tài cán văn võ làm quan trấn thủ
  4. Lấp đường các quan ải, không cho đốn chặt cây cối để mở thông đường đi mà làm mất thế hiểm trở.”

[ĐVSKTT, q2, tr294, NXB VHTT, 2004]

Hoặc:

“Dụ cho đô đốc đồng tri Nguyễn Đức Trung tạm trấn thủ Yên Bang. Sai bọn tổng binh Nguyễn Văn Đàm đến Yên Bang đánh giặc dưới quyền tiết chế của Nguyễn Đức Trung”.

[ĐVSKTT, q2, tr295, NXB VHTT, 2004]

          Tần xuất sự kiện  diễn ra tại Yên Bang, chiếm tới 30% sự vụ giai đoạn này của triều đình nhà Lê. Tới cuối năm 1467, sự việc tại khu vực này, càng diễn ra những tình tiết mới căng thẳng, dồn dập hơn.

Sử chép:

“Dời quân dinh của trấn thủ Yên Bang đến Bài Lẫm”

[ĐVSKTT, q2, tr297, NXB VHTT, 2004]

          Qua ghi chép trên từ quốc sử xuất hiện một địa danh quan trọng thứ 2: Bài Lẫm, 4 động liên quan tới sự kiện lịch sử số II mà chúng tôi cố gắng đưa ra những dẫn chứng chính xác nhất, nhằm đưa sự kiện số II trở về vị trí sự thật của lịch sử, thì đã có 2 địa danh trong 4 động xuất hiện trong quốc sử Đại Việt, dù đã bị thay từ đầu (Tư = Bài), (Kim = Khả) còn giữ lại 2 từ sau; (Lẫm) và (Lặc).

          Một năm sau sử chép:

“Mậu Tý năm thứ 9 (1468) (Minh thành hóa thứ 4)…

Tạ Chủng tâu việc các châu Vĩnh An, Vạn Ninh bị giặc bắt người cướp của”

[ĐVSKTT, q2, tr307, NXB VHTT, 2004]

          Vào năm 1472, sự kiện tranh chấp đất đai nóng bỏng từ khu vực biên giới châu Vạn Ninh – Yên Bang vẫn giữ nguyên mức độ. Sử chép:

“Nhâm Thìn năm thứ 8 (1472) (Minh thành hóa thứ 8)…

Tháng 12, sắc dụ bọn thái bảo kiến dương bá Lê Cảnh Huy rằng: “Nhận được tờ tâu của trấn Yên Bang nói là người Minh sai quân đi lối Quảng Tây để hội khám sao mà nhiều thế. Ngươi phải hỏa tốc sai người đi thăm dò sự tình, nếu thấy sự thể hơi khác thì lập tức làm tờ tâu  cho các xứ họp quân để phòng giữ”.

[ĐVSKTT, q2, tr342, NXB VHTT, 2004]

Với sự cung cấp từ quốc sử Đại Việt, những diễn biến thực tế xuất hiện tại biên giới Yên Bang đông đạo, giai đoạn lịch sử này của nhà Lê, chúng tôi xin tóm tắt những sự kiện lịch sử đã xảy ra như sau:

          * Giai đoạn vua Lê Thái Tông, Lê Nhân Tông, sau năm 1440 có ba lần sứ thần nhà Lê sang nhà Minh tâu việc địa giới Khâm châu.

          * Giai đoạn vua Lê Thánh Tông: Xung đột từ tranh chấp đất đai tại vùng đất hai châu Như Tích – Thiếp Lãng xảy ra liên tục với tần suất ngày càng dữ dội. Nhà Lê liên tục phải ứng phó với “giặc cỏ”  thực chất là những nhóm quân sự  cải trang mà nhà Minh tương kế tựu kế đánh vào vùng đất hai châu này, nhất là đồn Khả Lặc (Tư Lặc – Kim Lặc) và đồn Bài Lẫm (Tư Lẫm) của nhà Lê chiếm giữ do bốn động trưởng của nhà Minh giao nộp.

          Sự kiện bốn động thuộc hai châu Như Tích – Thiếp Lãng không được giải quyết bằng con đường ngoại giao giữa nhà Lê và nhà Minh từ (1427 – 1527) tới khi nhà Mạc ra đời năm 1527: Đã là 100 năm tròn, nhà Mạc đón nhận những tồn tại lịch sử vùng đất tranh chấp này từ 100 năm trước đó.

  1. XÁC ĐỊNH SỐ “ĐỘNG” THAM GIA SỰ KIỆN LỊCH SỬ NĂM 1427

          Những địa danh thuộc Khâm châu Trung hoa nằm sát biên giới Đại Việt, đã được “Lĩnh ngoại đại đáp” ghi chép cụ thể:

“Từ Ung Châu dần về phía Đông nam gọi là Khâm châu, phía Tây Nam của Khâm châu liền cõi với Giao Chỉ, đường lục (nội địa) thì có 7 động ngăn trở, đường thủy thì thuyền bé đi thông được”

[Lĩnh ngoại đại đáp, tr6, TL/LS khoa sử, ĐH KHXH&NV, Phan Duy Tiếp dịch, KH: LS/TL 0059]

Hoặc: Tại mục “Động Đinh thú biên” chép:

“Duy động đinh của 7 động ở Khâm châu đi thú biên cho quan vì là quyền lực của 7 động ấy yếu hơn ung quản”…

[Lĩnh ngoại đại đáp, tr39 – 40, TL/LS khoa sử, ĐH KHXH&NV, Phan Duy Tiếp dịch, KH: LS/TL 0059]

          Theo “Khâm châu chí” sách dư địa chí địa phương đời Minh vùng biên giới của Minh giáp Đại Việt có 3 “đô” đó là:

                   – Đô Như Tích

                   – Đô Thiếp Lãng

                   – Đô Thìn La

Tại mục “Tỉnh Quảng Yên”“Phương đình dư địa chí” chép:

          “Nay xét sách: “Dư kỷ địa thắng” thì trại “Như Tích” ở phía Tây Khâm châu 160 dặm, cách châu Vĩnh An của Giao Chỉ 20 dặm, giữa trên đỉnh núi cao, thế rất hiểm trở, trước đặt trại (đồn quân sự) để quản hạt 7 động” và sách “thống chí” chép: phía tây châu có Như Tích, Cát (Liễu Cát), Chiêm Lãng, Tư Lẫm, Cổ Sâm, Thời La. Bảy động đầu nhà Tống đều đặt Động trưởng, niên hiệu Hồng Vũ nhà Minh mới đặt chức Tuần Tư ở Như Tích để thống hạt cả, đất ấy phía bắc giáp hai sông đông tây, phía Nam giáp Giao Chỉ. Năm thứ Mười bốn niên hiệu Vĩnh Lạc, lại đặt thêm chức Vỹ đào Tuần tư, năm thứ 2 niên hiệu Tuyên Đức, các động: Tư Lẫm, Thời La, Cổ Sâm, Cát làm phản phụ vào nước Giao Chỉ. Năm thứ 19, niên hiệu Gia Tĩnh, Mạc Đăng Dung cầu hòa giả lại đất bốn động cho nhà Minh”

[Phương Đình dư địa chí. tr237, NXB tự do Sài Gòn, 1960]

Tại mục “Tỉnh Quảng Yên”, “Đại Nam nhất thống chí” chép:

“Khâm Châu Chí chép: 7 động (Chiêm Lãng, Thìn La, Tư Lặc, Cổ Sâm, Cá Cát, Tư Lẫm, La Phù) nguyên là đất 3 quận (Thìn La, Chiêm Lãng và Như Tích)”

[Đại Nam nhất thống chí, q2, tr1299, NXB lao động, 2012]

Đối chiếu cả “Phương Đình dư địa chí” qua tác phẩm “Dư Kỷ địa thắng” và “Đại Nam nhất thống chí” dẫn từ tác phẩm “Khâm Châu chí” ta biết:

Vùng đất Khâm Châu giáp biên giới Đại Việt có 7 động là điều không thể bàn cãi. 7 động này thuộc 3 “đô” (quận, quản, trấn):

– Như Tích

– Thiếp Lãng

– Thìn La

3 “đô” quản 7 “động”. Sự phân bố 7 “động” trong 3 “đô” như sau:

  1. “Đô” Như Tích có 4 “động”:

– Động Tư Lẫm

– Động Liễu Cát

– Động La Phù

– Động Kim Lặc

  1. “Đô” Thiếp Lãng có 2 “động”:

– Động Cổ Sâm

– Động Thiếp Lãng (Xin lưu ý tên “động” trùng với tên của “đô”)

  1. “Đô” Thìn La có 1 “động”:

– Động Thìn La (Xin lưu ý tên “động” trùng với tên của “đô”)

[Theo “Khâm Châu chí” PGS – TS Đinh Khắc Thuân – Lịch sử triều Mạc, 2012].

Tại Sự kiện xảy ra năm 1427, chỉ có 4 “động” chạy sang với nhà Lê:

– Tư Lẫm

– Cổ Sâm

– Liễu Cát

– Kim Lặc

Trong đó: Ba “động”: Tư Lẫm, Liễu Cát, Kim Lặc thuộc vào “đô” Như Tích

Một “động”: Cổ Sâm thuộc “đô” Thiếp Lãng tham gia sự kiện số II.

Độ chính xác cuối cùng về mặt từ ngữ sự kiện bốn “động” này là:

– Chỉ có 4 “động”: Tư Lẫm, Kim Lặc, Liễu Cát, Cổ Sâm thuộc 2 “đô” Như Tích, Thiếp Lãng tham gia sự kiện II. Từ trước đến nay nhiều sách viết không thống nhất và sai lệch [ngay cả “An Nam chí nguyên” cũng viết sai lệch] nguyên nhân là do việc dùng từ “Thuộc” và từ “Và”.

Ví dụ:  4 “Động”….thuộc 2 “Đô” Như Tích, Thiếp Lãng là đúng, chính xác.

              4 “Động”….và hai “Đô” Như Tích, Thiếp Lãng là sai, không chính xác.

III. NHÀ MẠC RA ĐỜI VÀ SỰ KIỆN 2 CHÂU NHƯ TÍCH – THIẾP LÃNG

          Nhà Mạc ra đời thay thế nhà Lê quản lý và điều hành Đại Việt, nhà Mạc kế thừa từ nhà Lê vùng đất hai châu Như Tích – Thiếp Lãng, nghĩa là nhà Mạc kế thừa những tồn tại diễn biến lịch sử tại vùng đất nói trên 100 năm về trước (1427 – 1527).

  1. Những diễn biến lịch sử liên quan đến số phận 4 động: Kim Lặc, Tư Lẫm, Cổ Sâm, Liễu Cát từ 1527 đến 1540.

          Trước những biến động từ chính trường Đại Việt năm 1509 đến năm 1527. Triều đình nhà Minh đã có những toan tính mới nhằm vào những yếu tố bất ổn của Đại Việt. Bản thân sự kiện hai châu Như Tích – Thiếp Lãng đã cháy âm ỉ suốt 100 năm về trước, đến giai đoạn này lại là thời cơ bùng phát dữ dội, chính ngay tại địa phương Khâm châu nhà Minh.

          “Minh sử” cung cấp cho chúng ta biết việc tri châu Khâm châu: Lâm hy nguyên là người đầu tiên dâng sớ lên Minh Thế tông đòi lại bốn động này cho Trung hoa.

“Minh sửs” chép:

“Ông đang làm tri châu ở Khâm châu thì có việc đánh An Nam. Ông đề nghị đòi lại 4 động mà An Nam chiếm đoạt ngày trước”.

[Minh sử, ltr, t43, q103, tr89, TL/LS khoa sử, ĐH KHXH&NV.

KH: LS/TL 0032]

Cùng một sự việc đó “Minh thực lục” đã chép cụ thể việc Lâm Hy Nguyên tri châu Khâm châu là người khởi xướng việc đòi lại đất bốn động này (khi đó Lâm Hy Nguyên đã mất chức tri châu tại đây):

“[1288] ngày 10 tháng 1 năm Gia Tĩnh thứ 21 (16/12/1542)…

Lời tâu đưa xuống bộ binh, được bộ này đồng ý và phúc tâu rằng:

“Người đầu tiên bàn xin lấy lại 4 động này là thiêm sự Lâm Hy Nguyên, nay đã bãi chức, nhưng công không nên quên” chiếu chấp nhận và thưởng cho Hy Nguyên tiền và lụa”

[Minh thực lục v82, tr5295 – 5296, Thế tông, q268, tr3a – 3b, NXB Hà Nội, 2010]

  Mùa xuân năm 1540 Mao Bá Ôn điều quân áp sát biên giới Đại Việt, sự việc bốn động của Khâm châu được “Minh sử” chép:

“Bá Ôn đóng quân ở biên giới đưa hịch dụ người Giao Chỉ, ai bắt được bố con Đăng Dung thì được trọng thưởng. Đăng Dung sợ, xin bó thân chịu tội TRẢ LẠI 4 ĐỘNG CỦA KHÂM CHÂU và đời đời xưng thần phụng cống”

[Minh sử, t48, q120, tr67a – 74a, tờ 74, tr148 (bản dịch) .TL/LS khoa sử, ĐH KHXH&NV, KH: LS /TL 0032]

  1. Kết quả cuối cùng của sự kiện II

          Nhà Mạc ra đời năm 1527, đặt quyền quản lý đất đai, dân số, chức lệnh và quân sự trên bốn động: Tư Lẫm, Kim Lặc, Cổ Sâm, Liễu Cát thuộc hai “châu” Như Tích và Thiếp Lãng – Khâm châu (thời gian, từ năm 1527 đến năm 1540). Nhằm giải quyết nút thắt lịch sử và tránh một cuộc chiến tranh xâm lược quy mô lớn từ phương bắc. Nhà Mạc phải chấp nhận một trong những yêu cầu từ phía nhà Minh trả lại đất đai bốn động này, mà “Minh sử” đã chép:

“Ông (Lâm Hy Nguyên) đề nghị đòi lại 4 động mà An Nam chiếm đoạt ngày trước”.

[Minh sử ltr, t43, q103, tr89 (bản dịch) TL/LS khoa sử,

ĐH KHXH&NV, KH: TL/LS 0032]

  Trong văn bản ngoại giao mà Mạc Văn Minh cùng các tù trưởng Đại Việt đến kinh đô nhà Minh, sau ngày 29/4/1541, biểu chép:

“[1232] ngày 4 tháng 4 năm Gia Tĩnh thứ 20 (29/4/1541) mới đây thần nghe tri châu châu Khâm tỉnh Quảng Đông Lâm Hy Nguyên xưng rằng các động Tư Lẫm, Kim Lặc, Cổ Sâm, Liễu Cát thuộc 2 đô Như Tích, Thiếp Lãng là đất cũ của châu Khâm, nếu đúng như vậy thần xin vâng lời”

[Minh thực lục, tr4196 – 4973, thế tông, t248, tr1b – 5a, tr216,

Minh thực lục quan hệ Trung Quốc – Việt Nam, NXB Hà Nội, 2010]

  Văn bản ngoại giao của nhà Mạc được chuẩn bị trước giai đoạn giữa năm 1540. Nhưng đầu năm 1540, trước sức ép quân sự trên toàn tuyến biên giới Đại Việt. Bốn thủ lĩnh cai trị bốn động: Tư Lẫm, Kim Lặc, Cổ Sâm, Liễu Cát đã đồng loạt quay về với chính đất nước họ. Hành động này của các tù trưởng bốn động nằm ngoài ảnh hưởng của nhà Mạc vào thời điểm đó, bốn thủ lĩnh địa phương tại đây đã là hàng cháu (3 hoặc 4 đời) đối với Hoàng Khoan, Hoàng Kim Quảng, Hoàng Kiến, Hoàng Tử Kiều (thế tập).

          “Thù vực chu tư lục” cung cấp vấn đề này qua tấu gửi – Minh thế tông của Mao Bá Ôn:

“Các chức hành lệnh ở 4 động: Tư Lẫm, Cổ Sâm,  Liễu Cát, Kim Lặc của Khâm châu nguyên thuộc An Nam. Xin chiếu theo nguyên ngạch chiếu quan mà biên vào sổ quan của Khâm châu, cho ưu đãi như hiện tại. Chờ sau 3 năm cấp lương theo cấp bậc”.

[Thù vực chu tư lục, tờ 141 – 142 (bản dịch Trần Lê Hữu), TL/LS

khoa sử, ĐH KHXH&NV, KH: LS/TL 0089]

          Năm 1427, bốn động trưởng của bốn động Tư Lẫm, Kim Lặc, Cổ Sâm, Liễu Cát đem đất, đem dân chạy sang với nhà Lê. Nhà Lê phong bốn động trưởng đó với chức danh là: Kinh lược sứ, kinh lược sứ đồng tri (là chức danh cấp phó của kinh lược sứ, võ quan hàm lục phẩm), thiêm sự, được nối đời (thế tập) giữ đất và cho bốn động này thuộc vào châu Vạn Ninh – Đại Việt.

          Từ sự ưu đãi của nhà Lê, nhà Lê chấp nhận sự quản lý truyền thống (thế tập) tại bốn động đã giúp nhà Lê quản lý và đặt sự cai trị của mình lên vùng đất ấy 100 năm (1427 – 1527).

          Đầu năm 1540, khi bốn động trưởng đầu hàng Mao Bá Ôn và cùng kéo nhau trở về với nhà Minh, Mao Bá Ôn đã đề nghị:

          – Giữ nguyên chức tước nhà Lê phong cho bốn động trưởng.

          – Giữ nguyên chế độ ưu đãi (hàm lục phẩm) với bốn vị động trưởng tại đây.

          Phúc đáp lời tâu của Mao Bá Ôn, chiếu thư của Minh Thế Tông viết:

“Đất đai bốn động đã dâng trả lại nguyên là biên giới của ta, chuẩn cho thu vào bản đồ. Sức cho nha môn tuần phủ Lưỡng Quảng phải ưu đãi tử tế. Những người có tội (chạy sang nhà Lê) ĐÃ ĐẦU HÀNG (bốn vị động trưởng họ Hoàng đầu hàng nhà Minh khi Mao Bá Ôn đem quân tới biên giới) đều được khoan tha”.

[Thù vực chu tư lục, tờ 145 (bản dịch Trần Lê Hữu), TL/LS khoa sử,

ĐH KHXH&NV, KH: LS/TL 0089]

          Hành động tự nguyện quay trở về với nhà Minh của bốn vị động trưởng, còn được mô tả chi tiết từ “Minh thực lục”:

“[1238] Ngày 10 tháng 1 năm Gia Tĩnh thứ 21 (135/12/1542)…

Mạc Phúc Hải sai quan thuộc ty tuyên vệ là bọn Nguyễn Điển Kính dâng sản vật địa phương, biểu văn, nạp cống, trả lại bốn động cho châu Khâm. Thái kinh tâu rằng: bốn động hấp nhiễm phong tục di đã lâu, sợ chưa thuần nhất hướng theo sự giáo hóa, xin đặt đồn tại Hà Châu, đem ty tuần kiểm trước đây đặt tại châu Khâm dời đến đồn này, để khống chế các Di và dẹp tàn dư bọn ác, khiến DÂN MỚI QUY PHỤ có chỗ nương dựa không còn lo sợ”.

[Minh thực lục, v82, tr295 – 296, thế tông, q268, tr3a – 3b, Minh thực lục

 quan hệ Trung Quốc – Việt nam, tr221, NXB Hà Nội, 2010]

          “Quy” là từ Hán Việt nghĩa là quay lại, trở về: “Quy phụ”, từ 2 lời dẫn trên càng rõ hơn hành động cuối cùng của bốn động trưởng bốn động: Tư Lẫm, Cổ Sâm, Kim Lặc, Liễu Cát đầu năm 1540 khi họ đồng loạt quay trở về Trung hoa.

          Nhà Mạc đứng trước một tình huống đã rồi của sự việc trên, nhà Mạc trả lại bốn động là trả lại đất của nhà Minh do bốn động trưởng bốn động:  Tư Lẫm, Cổ Sâm, Kim Lặc, Liễu Cát, thuộc 2 “đô” Như Tích – Thiếp Lãng – Khâm châu – Quảng Đông – Trung hoa chạy sang nhà Lê năm 1427. Trước khi nhà Mạc ra đời 100 năm, thực chất việc nhà Mạc trả đất đai bốn động cho nhà Minh nằm trên giấy tờ ngoại giao, còn trên thực địa là đất khống hoàn toàn.

          Nhà Minh thu hồi được số đất đai bốn động năm 1540 từ nhà Mạc trên phương diện ngoại giao. Nhưng những diễn biến xảy ra sau 1540 ảnh hưởng tới xã hội, văn hóa, phong tục cùng việc phòng thủ quân sự tại khu vực bốn động trên vẫn âm ỉ vài chục năm sau, “Minh thực lục” chép:

“[1306] ngày 26 tháng 6 năm Vạn Lịch thứ 38 (14/8/1610) bốn động của châu Khâm vị trí tại phía Tây, tiếp giáp với thập đại sơn, dân nhiễm phong tục của Di, khuôn phép phong tục Hán khó thi hành. Triều trước đặt ra thổ ty, cấp cho ấn tín cùng thẻ bài, dẫu triều này thay bằng động trưởng. Vào thời Tuyên Đức (1427) làm phản sát nhập vào đất di Giao chỉ, vào năm Gia Tĩnh thứ 21 (1540) mới trở lại bản đồ [Trung Quốc] hàng năm nạp tiền thuế đinh, nhưng có nhiều thiếu thuế, trong động có bọn gian thường cấu kết với người Di (An Nam) gây mối lo. Động trưởng chức vị thấp, không thể kiềm thúc, nay bàn mỗi động đặt một thổ ty cùng với động trưởng làm việc”.

[Minh thực lục, v117, tr8918 – 8921, thần tông, q472, tr8b – 9a,

Minh thực lục – quan hệ Trung Quốc  – Việt Nam, tr256, NXB Hà Nội, 2010]

          Xuyên suốt cả quá trình dẫn giải trên, chúng tôi đã chứng minh lịch sử diễn biến khách quan của sự kiện II và xin khép lại sự kiện lịch sử số II tại đây.

  1. Kết luận sự kiện II

          Đầu mối của sự kiện số II xảy ra tại biên giới đông bắc Đại Việt đến nay đã tròn 600 năm (1427 – 2017), trong đó 100 năm đã âm ỉ cháy trong chính sách đối nội, đối ngoại của nhà Lê. Rồi nó bùng phát dữ đội 13 năm dưới chính quyền nhà Mạc (1527 – 1540), cộng tất cả thời gian hai thời kỳ lịch sử ấy tròn 113 năm. Để có thể tổng kết sự kiện I và sự kiện II một cách tổng quát, xin xem trên sơ đồ mô tả sơ lược sự kiện lịch sử số I và số II sau:

Trên trục hoành thời gian (t) biểu đồ thăng giáng của của sự kiện I và sự kiện II được miêu tả bằng các mũi tên hướng ra và hướng vào của sáu nhân vật sống cách nhau hơn 400 năm nhưng bản chất hành động giống nhau, tại hai quốc gia khác nhau.

Untitled 2.png

Có người lập luận rằng: Cứ cho rằng nhà Mạc không cắt một mét vuông đất nào của đất nước cho nhà Minh. Nhưng bốn động mà họ tự nguyện giao nộp cho nhà Lê là của ta, thuộc về ta, ta đâu có xâm chiếm của họ?… Vì thế nhà Mạc phải có trách nhiệm gìn giữ bảo vệ bốn động đó. Về vấn đề này, chúng tôi cho rằng: Dù bốn động trưởng bốn động này không tự nguyện quay trở lại với chính nước họ, thì nhà Mạc bắt buộc phải trả lại nhà Minh. Đấy là một điều khoản nhằm chấm dứt chiến tranh tránh cho đất nước một cuộc ngoại xâm quy mô lớn từ phía nhà Minh. Nhà Mạc đã từng bảo vệ thành công 13 năm bốn động này với những lực lượng quân sự được triển khai tương tự như thời nhà Lê. Tuy nhiên chúng ta (hậu thế) không thể mặc cả với tiến trình lịch sử khách quan của nhà Mạc đã từng diễn ra (như chúng tôi đã trình bày).

Đất nước ta nhỏ bé nằm sát cạnh một đất nước Trung Hoa khổng lồ, một dân tộc người Hán, dân tộc đó với tư tưởng Hán hóa cao độ từ 5000 năm lịch sử của họ. Đế quốc Mông Cổ làm mưa làm gió đến cả châu Âu, chiếm đóng toàn bộ lãnh thổ Trung Hoa, nhưng chính đội quân xâm lược ấy về sau cũng bị Hán hóa. Đến ngày nay: Hoàng Sa, một phần Trường Sa của đất nước chúng ta cũng đang bị xâm chiếm, với những toan tính Hán hóa đường chín đoạn âm mưu độc chiếm biển Đông. Ông cha, tổ tiên chúng ta giữ gìn, bảo vệ được đất nước, nền văn hóa Việt này cho con cho cháu là sự đúc kết kinh nghiệm đối ứng trước một người hàng xóm khổng lồ từ hàng ngàn năm qua. Từ kỷ nhà Lý, vua Lý Thánh Tông sau cuộc tấn công Kháo Túc bị thất bại, quân Tống còn cách kinh thành Thăng Long vài chục dặm. Vua Lý đã dùng biện pháp: “Dùng biện sỹ để bàn hòa, không nhọc tướng tá, không tốn máu mủ mà bảo an được tông miếu”. Kiều Văn Ứng nhà Lý được cử đi sứ sang dinh Quách Quỳ (đóng tại phía bắc sông Như Nguyệt), lần một không giải quyết được yêu cầu của vua Lý. Lần đi sứ thứ hai, vua Lý phải chấp nhận một điều kiện (mang tính phô trương của Tống): [chỗ nào quân Tống đã chiếm tức là đất của Tống].

Chúng ta chỉ có thể góp phần đưa những sai sót lịch sử, sai lệch lịch sử trở về đúng giá trị chân chính của nó, đồng thời góp phần nhận dạng: “lịch sử nhận thức” tồn tại trong lịch sử. Chúng ta không thể và càng không thể mặc cả với tiến trình khách quan của lịch sử nói chung và lịch sử nhà Mạc nói riêng.

TÓM LƯỢC SỰ KIỆN LỊCH SỬ SỐ II

Untitled.png

Bình luận về bài viết này