Cuộc Thập tự chinh lần thứ ba
Thời gian: năm 1189-> 1192
Địa điểm: vùng Cận Đông ( Anatolia, Levant, Palestine )
Kết quả: Hiệp ước Ramla
- Jerusalem vẫn còn nằm trong sự kiểm soát của Hồi giáo
- Thập tự quân chiến thắng trong tất cả các cuộc đụng độ quân sự
- Ý củng cố kiểm soát các cảng của Syria
- Người Hồi giáo cho phép người Thiên chúa giáo không vũ trang được hành hương vào Đất Thánh
Lãnh thổ thay đổi: Cyprus, Acre, Jaffa và phần lớn bờ biển Palestine nằm trong sự kiểm soát của Thập tự quân
Lực lượng đôi bên
Quân Thập tự chinh
- Vương quốc JerusalemVương quốc Anh
- Hiệp sĩ Templar
- Hiệp sĩ Teutonic
- Hiệp sĩ Hospitaller
- Vương quốc của Pháp
- Blois
- Đế quốc La Mã Thần thánh
- Swabia
- Áo
- Montferrat
Vương quốc Hungary
Chỉ huy của quân Thập tự chinh
- Richard I của Anh
- Guy của Lusignan – Jerusalem
- Henry II của Champagne – Jerusalem
- Robert de Sable – Hiệp sĩ Templar
- Meister Sibrand – Hiệp sĩ Teutonic
- Garnier de Nablus – Hiệp sĩ Hospitaller
- Balian của Ibelin – Jerusalem
- Philip II của Pháp
- Theobald V của Blois
- Frederick I – Đế quốc La Mã Thần thánh
- Fredrick VI của Swabia
- Leopold V của Áo
- Conrad của Montferrat
Géza của Hungary
Lực lượng của quân Thập tự chinh
Anh: 8.000 người
Pháp: 2.000 người
Đức: 20.000 người ( có nguồn tin lên đến 100.000)
Người Saracens và đồng minh
- Ayyubids
- Zengids
- Đế quốc Seljuk
Đế quốc Byzantine
Vương quốc Sicilia
Chỉ huy của người Saracens và đồng minh
- Saladin – Ayyubid
- Kilij Arslan II – Đế quốc Seljuk
- Isaac II Angelus – Đế quốc Byzantine
- Isaac Komnenos – Đế quốc Byzantine
- Tancred của Sicily
Lực lượng người Saracens và đồng minh
Không có thông tin chi tiết
Cuộc Thập tự chinh lần thứ ba ( năm 1189-1192), cũng được gọi là Thập tự chinh của các nhà vua, là một nỗ lực của các nhà lãnh đạo châu Âu để chiếm lại các Đất Thánh từ Saladin (Salah ad-Din Yusuf ibn Ayyub). Đó là phần lớn thành công, nhưng đã giảm ngắn-mục tiêu cuối cùng của mình trong cuộc tái chiếm Jerusalem.
Sau sự thất bại của cuộc Thập tự chinh thứ hai, triều đình Zengid kiểm soát một Syria thống nhất và tham gia vào các cuộc xung đột với triều Fatimid cai trị Ai Cập, kết quả cuối cùng của cuộc chiến dẫn đến việc thống nhất các lãnh thổ Ai Cập và Syria dưới sự chỉ huy của Saladin, người lãnh đạo phong trào Thánh chiến và quyết tâm đánh đổ các Thành bang Kitô giáo để chiếm lại Jerusalem vào năm 1187. Bị thúc đẩy bởi lòng nhiệt thành tôn giáo, Henry II của Anh và Philip II của Pháp đã chấm dứt các cuộc xung đột của họ để bắt đầu lại một cuộc thập tự chinh mới (mặc dù Henry II đã chết vào năm 1189 và quân Thập tự chinh của Anh được Richard Lionheart chỉ huy thay thế). Hoàng đế La Mã Thánh Thần Frederick Barbarossa vốn đã cao tuổi đáp lại lời kêu gọi bằng cách huy động một đội quân lớn và dẫn đầu nó đến vùng Anatolia, nhưng ông đã bị chết đuối trước khi đến được vùng Đất Thánh. Rất nhiều người trong đội quân của ông đã không còn động lực và quyết định quay về nhà.
Sau khi đuổi người Hồi giáo ra khỏi Acre, lực lượng Thiên chúa giáo đã tranh chấp nhau về chiến lợi phẩm của cuộc chiến; vì thất vọng với Richard, Leopold V của Áo-người thừa kế của Frederick và Philip đã rời Đất Thánh vào tháng 8 năm 1191. Saladin đã thất bại trong mọi cuộc đụng độ quân sự trước Richard và Richard đã chiếm thêm được một số thành phố cứ điểm quan trọng ven biển. Tuy nhiên, vào ngày 02 tháng 9 năm 1192, Richard đã ký một hiệp ước với Saladin trong đó nói rằng Jerusalem sẽ vẫn thuộc người Hồi giáo kiểm soát, nhưng người Thiên chúa giáo hành hương không vũ trang được cho phép đến tham quan thành phố và Richard rời Đất Thánh vào ngày 9. Những thành công của cuộc Thập tự chinh lần thứ ba cho phép quân Thập tự chinh duy trì một vương quốc lớn có trụ sở tại Cyprus và bờ biển Syria. Nhưng sự thất bại của cuộc Thập tự chinh lần thứ ba trong việc tái chiếm Jerusalem đã dẫn đến việc kêu gọi một cuộc Thập tự chinh lần thứ tư sáu năm sau đó.
Tóm tắt bối cảnh
Người Hồi giáo thống nhất đất nước: Sau sự thất bại của cuộc Thập tự chinh lần thứ hai, Nur ad-Din Zangi đã kiểm soát Damascus và thống nhất Syria.
Cuộc chinh phục của Saladin: Saladin là người lãnh đạo cuộc thánh chiến chống lại quân Thập tự chinh và cũng là người trở thành vua của cả Ai Cập và Syria và sáng lập ra triều đại Ayyubid.
Sự sụp đổ của Vương quốc Jerusalem: Do Guy Lusignan-vua của Jerusalem đã không nghe lời khuyên của Raymond xứ Tripoli mà mang quân đi giải vây cho Tiberias dẫn đến quân Thập tự chinh bị thất bại và hoàn toàn tê liệt tại trận Hattin, hậu quả gần của nó là sự sụp đổ của vương quốc Jerusalem và hàng loạt các thành phố khác của quân Thập tự chinh trong năm 1087.
Đến cuối năm 1089, Saladin chiếm được Acre và Jerusalem. Giáo hoàng Urban III được cho là đã bị chết vì đau tim khi nghe tin về sự sụp đổ này. Tuy nhiên thì tại thời điểm xảy ra cái chết của ông, tin tức về việc Jerusalem thất thủ vẫn chưa thể đến được tai của ông ta, mặc dù ông đã biết về kết quả của trận chiến Hattin và sự sụp đổ của Acre.
Chuẩn bị
Đức Giáo Hoàng mới-Gregory VIII tuyên bố rằng việc chiếm Jerusalem là hình phạt cho tội lỗi của người Kitô hữu trên khắp châu Âu. Đây là một lời kêu gọi cho một cuộc thập tự chinh mới đến Đất Thánh. Henry II của Anh và Philip II của Pháp đã kết thúc cuộc chiến tranh giữa họ với nhau và thậm chí đã ra một sắc lệnh thuế mới ” thuế thập phân Saladin ” đánh vào các công dân của họ để tài trợ cho cuộc Thập tự chinh. Tại Anh, Baldwin của Exeter, Tổng-giám-mục Canterbury, đã thực hiện một chuyến đi tới xứ Wales để thuyết phục 3.000 binh lính mang chiếc chữ thập ( dụ dỗ họ tham gia cuộc Thập tự chinh), chuyến đi này được ghi lại trong quấn hành trình của Giraldus Cambrensis.
Chiến dịch của Barbarossa
Hoàng đế cao tuổi của Đế quốc La Mã Thánh Thần Frederick Barbarossa đáp lại lời kêu gọi này ngay lập tức. Ông đã nhận chiếc Thánh Giá tại tòa nhà thờ chính ở Mainz vào ngày 27 tháng 3 năm 1188 và là người đầu tiên khởi hành để đến về phía vùng Đất Thánh vào tháng 5 năm 1189 với một đội quân gồm khoảng 100.000 người, bao gồm 20.000 hiệp sĩ. Tuy nhiên, một số sử gia tin rằng đây là một con số cường điệu và rằng con số thực có thể chỉ lên đến hơn 15.000 người, bao gồm 3.000 hiệp sĩ. Một đội quân khoảng 2.000 người được dẫn đầu bởi Géza-hoàng tử Hungary, em trai của vua Béla III của Hungary cũng đi cùng với Barbarossa để đến Đất Thánh.
Hoàng đế Byzantine Isaac II Angelus đã thực hiện một liên minh bí mật với Saladin để cản trở bước tiến của Frederick để đổi lấy sự an toàn của Đế quốc của mình. Trong khi đó, quốc vương Hồi giáo Rum hứa cho Frederick hành quân an toàn qua vùng Anatolia, nhưng sau khi phải chịu nhiều cuộc tập kích Frederick đã mất kiên nhẫn và vào ngày 18 tháng 5, 1190, quân đội Đức đã công chiếm Iconium, thủ đô của Vương quốc Hồi giáo của Rum. Ngày 10 tháng 6 năm 1190 con ngựa nhỏ của Frederick đã trượt ngã trong khi qua sông Saleph và hất ông ta vào các tảng đá. Sau đó ông bị chết đuối trên con sông này. Sau đó, phần lớn quân đội của ông đã trở về Đức để tham dự đoán cuộc bầu chọn Hoàng đế sắp tới. Frederick xứ Swabia-con trai của ông ta tiếp tục dẫn đầu khoảng 5000 người còn lại 5.000 đến Antioch. Ở đó, cơ thể của vị hoàng đế đã được đun sôi để loại bỏ phần xác thịt-phần này được chôn tại nhà thờ Thánh Peter, bộ xương của ông đã được đặt trong một cái túi để tiếp tục cuộc thánh chiến. Tuy nhiên tại Antioch thì quân Đức tiếp tục bị hao hụt bởi dịch sốt. Frederick Trẻ tuổi ( vì bố ông ta cũng tên là Frederick ) đã phải yêu cầu sự hỗ trợ của người thân tộc ông là Conrad của Montferrat để đưa ông đến Acre một cách an toàn bằng cách vượt qua Tyre, nơi xương cốt của ông cha được chôn cất ở đó.
Cuộc khởi hành của Richard và Philip
Henry II của Anh quốc qua đời vào ngày 06 tháng 7 1189 sau khi phải chịu một thất bại trước con trai ông-Richard I (Lionheart) và Philip II. Richard thừa kế ngôi vua và ngay lập tức bắt đầu gây quỹ cho cuộc thập tự chinh này. Trong tháng bảy năm 1190, Richard và Philip đã cùng khởi hành từ Marseille, Pháp đến Sicily. Philip II đã thuê một đội tầu vận tải của người Genova để vận chuyển quân đội của mình trong đó bao gồm 650 hiệp sĩ, 1.300 ngựa chiến và 1.300 hộ sỹ đến Đất Thánh.
William II của Sicily đã chết vào năm trước đó và được kế nhiệm bởi Tancred, người đã tống Joan của Anh quốc- vợ của William và cũng là em gái của Richard vào tù. Richard ra tay can thiệp và chiếm được Messina-thủ đô của Sicily vào ngày 04 tháng 10 năm 1190 và Joan đã được phóng thích. Richard và Philip lại có vấn đề về cuộc hôn nhân của Richard, bởi vì ông này ( Richard ) đã quyết định kết hôn với Berengaria của Navarre và phá vỡ lời hứa hôn từ lâu của mình với Alys-em gái cùng bố khác mẹ của Philip. Philip rời Sicily và đi thẳng tới Trung Đông vào ngày 30 tháng Ba năm 1191 và đến Tyre vào giữa tháng. Ông tham gia vào cuộc bao vây Acre vào ngày 20 tháng 5. Richard đã không khởi hành từ Sicily cho đến ngày 10 tháng 4 năm đó.
Ngay sau khi khởi hành từ Sicily, Hạm đội gồm chiếc 100 tàu của Richard (chở 8.000 quân) đã bị tấn công bởi một cơn bão mạnh. Một số tàu bị mắc cạn, trong đó có một chiếc chở Joan và Berengaria-vị hôn thê mới của ông ta và một lượng lớn các kho báu được tích lũy để chi dùng cho cuộc thập tự chinh này. Họ đã ngay lập tức phát hiện ra rằng Isaac Dukas Comnenus của Síp đã thu giữ kho báu này. Những phụ nữ trẻ thì không bị hề hấn gì. Richard tiến vào Limassol vào ngày 6 và gặp Isaac,ông này đã ngay lập tức đồng ý trả lại đồ đạc cho Richard và cũng gửi ké 500 binh sĩ của ông đến vùng Đất Thánh. Sau khi trở lại pháo đài Famagusta của ông, Isaac đã phá vỡ lời tuyên thệ của ông về lòng hiếu và ra một mệnh lệnh bắt Richard phải rời khỏi hòn đảo này. Sự kiêu ngạo của Isaac khiến Richard nổi giận và tiến hành chinh phục hòn đảo này trong vài ngày sau đó ông tiếp tục hành trình đến Đất Thánh và tham gia vào cuộc bao vây Acre.
Cuộc bao vây Acre
Cuộc vây hãm Acre là một trong những cuộc đối đầu đầu tiên của cuộc thập tự chinh lần thứ 3, kéo dài từ 28 tháng tám năm 1189 cho đến ngày 12 tháng 7 1191, và lần đầu tiên trong lịch sử mà vị vua của Jerusalem bị ép buộc phải đích thân đứng nhìn công cuộc bảo vệ Đất Thánh. Nó cũng là một trong những sự kiện đẫm máu nhất toàn bộ của thời kỳ của các cuộc thập tự chinh của giai cấp thống trị người Kitô giáo ở phương đông.
Bối cảnh
Sau khi Saladin đánh bại quân Thập tự chinh ở trận Hattin vào ngày 04 tháng 7 năm 1187, ông ta đã chinh phục một phần lớn Vương quốc Jerusalem trong đó có cả thành phố Acre với một sự đề kháng nhỏ và ngày 2 tháng 10 ông chiếm nốt Jerusalem. Sau đó Thập tự quân chỉ kiểm soát Tyre, Tripoli và Antioch, những nơi này đã bị Saladin tấn công trong năm 1188 mặc dù ông này đã không thu được thành công. Tin tức về sự sụp đổ của Jerusalem và Palestine đã gây sốc cho châu Âu và ngay lập tức đã có những lời kêu gọi về một cuộc Thập tự chinh mới bởi Giáo hoàng Gregory VIII vào tháng 10 năm 1187 và được tiếp tục bởi người kế nhiệm Đức Giáo Hoàng Clement III.
Tyre
Trong Tyre, Conrad của Montferrat đã cố thủ thành công trước các đợt tấn công của Saladin vào cuối năm 1187. Sau đó nhà vua hướng sự chú ý của mình vào các mục tiêu khác, nhưng sau đó đã cố gắng thương lượng một hiệp ước để thành phố đầu hàng, nhưng trong giữa năm 1188 lực lượng tăng viện đầu tiên từ châu Âu đến Tyre bằng đường biển. Cũng với những cam kết khác theo các điều khoản của hiệp ước Saladin sẽ phải phóng thích vua Guy, người mà ông đã bắt tù binh tại Hattin ( để đổi lấy việc bàn giao thành phố, nhưng mặc dù quân Kitô giáo đã có tiếp viện và không giao thành phố nữa ông vẫn cho thả Guy). Việc này đã leo thang xung đột giữa Guy-người đã có lỗi trong thảm họa của Hattin và Conrad-người đã bảo vệ thành công Tyre khỏi cuộc xâm lược tiếp theo. Guy đã được phóng thích và xuất hiện trước Tyre, nhưng Conrad đã không để cho ông ta vào thành phố và tuyên bố rằng là ông sẽ quản lý nó cho đến khi các vị vua khác sẽ đến từ trên biển để nhận bàn giao.Đây là điều đúng theo quy định trong di chúc của Baldwin IV: ông (Conrad của Montferrat) là người bà con gần nhất về đằng nội của Baldwin V. Guy bỏ đi trước khi xuất hiện một lần nữa ở bên ngoài Tyre với vợ của mình là nữ hoàng Sibylla, người sở hữu vương quốc này trên phương diện luật pháp, nhưng ông lại bị từ chối bởi Conrad và ông đã phải hạ trại của mình ở bên ngoài cổng của thành phố.
Vào cuối mùa xuân năm 1188, William II của Sicily đã gửi tới một đội tàu với 200 hiệp sĩ, họ đến vào ngày 06 Tháng Tư năm 1189, Ubaldo Lanfranchi, Đức Tổng-giám-mục của Pisa cụng đến với 52 tàu. Guy đã thành công trong việc thuyết phục hai đội quân này về phe mình. Trong tháng Tám, Conrad lại từ chối không cho ông ta tiến vào thành phố, vì vậy ông này ( Guy ) đã cho dỡ trại và tiến về phía nam để tấn công Acre, ông và quân đội của mình hành quân dọc theo bờ biển, trong khi quân đến từ Pisans và Sicilia đi bằng đường biển. Guy rất cần một căn cứ vững chắc để từ đó ông có thể tổ chức một cuộc phản công vào Saladin và kể từ lúc ông không thể lấy lại Tyre, ông đã hướng sự quan tâm của mình vào Acre-50 km ( 31 dặm ) về phía nam ( của Tyre). Vì vậy, Guy và Conrad lại trở thành những đồng minh để chống lại Saladin.
Acre
Cảng Acre nằm trên một bán đảo ở Vịnh Haifa. Phía Đông của phần cũ của thành phố là cảng và nó được bảo vệ để phòng thủ từ biển, trong khi về phía tây và phía nam bờ biển được bảo vệ bởi một bức tường thành kiên cố. Bán đảo này được bảo vệ về phía đất liền bằng hai công sự được gia cố bằng các tháp canh. Đơn vị đồn trú người Hồi giáo của thành phố có thể đông gấp hai lần so với quân đội do Guy, người đến ngày 28 tháng 8, 1189. Ông này đã cố gắng để tấn công bất ngờ các đơn vị đồn trú bằng một cuộc xung phong vào các bức tường, nhưng chiến thuật này đã không thành công và do đó Guy cho lập doanh trại của ông ở bên ngoài thành phố để chờ quân tiếp viện, lực lượng này bắt đầu đến đó bằng đường biển một vài ngày sau đó. Một hạm đội Đan Mạch và Frisian sẽ thay thế cho người Sicilia, họ đã rút lui khi nghe tin tức về cái chết của William II. binh sĩ Pháp và Flemish cũng đã đến dưới sự chỉ huy của James của Avesnes, Henry I của Bar, Andrew của Brienne, Robert II của Dreux, và Philip của Dreux-anh trai của ông ( Guy ), Giám mục của Beauvais. Binh sỹ người Đức dưới sự chỉ huy của Margrave Louis III của Thuringia và Otto I của Guelders và người Ý dưới sự chỉ huy của Đức-Tổng-Giám mục Gerhard của Ravenna và Giám mục của Verona cũng đã đến. Louis của Thuringia đã có thể thuyết phục Conrad, anh em họ đằng mẹ của ông đưa quân từ Tyre đến. Khi Saladin được thông báo về việc hội binh này, ông đã tập hợp quân đội và hành quân đến Acre, nơi ông đã tấn công không thành công vào doanh trại của Guy vào ngày 15.
Trận Acre
Ngày 04 Tháng 10 năm 1189, Saladin di chuyển về phía đông của thành phố và đối mặt với doanh trại của Guy. Quân Thập tự chinh (trong đó bao gồm 7.000 bộ binh và 400 kỵ binh) không kể lực lượng của Guy đã dàn trận trước lực lượng của Saladin. Quân đội Thiên chúa giáo bao gồm các lãnh chúa phong kiến của vương quốc này, nhiều đội quân Thập tự chinh nhỏ đến từ châu Âu và các thành viên của các Tổ chức Hiệp sỹ thánh chiến, quân đội Hồi giáo bao gồm quân đội từ Ai Cập, Turkestan, Syria và Lưỡng Hà.
Người Hồi giáo dàn một đội hình bán nguyệt về phía đông của thành phố và quay mặt về phía Acre. Quân Thập tự chinh đóng ở giữa với xạ thủ bắn nỏ trang bị nhẹ ở dòng đầu tiên và kỵ binh nặng trong dòng thứ hai. Tại trận Arsuf sau đó các Kitô hữu đã chiến đấu một cách mạch lạc, ở đây các trận chiến bắt đầu với một chiến tách biệt giữa các Templar và cánh phải của Saladin. Các hiệp sỹ Templar đã đánh bại đối phương làm cho họ phải điều quân tiếp viện từ các phần khác trong đội hình của họ. Do đó cánh trung quân của Kitô giáo có thể tiến lên một cách ổn định để tấn công vào cánh quân trung tâm của Saladin, các xạ thủ bắn nỏ liên tục xạ kích để mở đường cho một cuộc tấn công bằng bộ binh và nó đã gặp không sức đề kháng quá lớn. Cánh quân trung tâm dưới sự chỉ huy trực tiếp của Saladin và cánh phải đã phải bỏ chạy.
Tuy nhiên khi những kẻ thắng trận tản mát ra để cướp bóc chiến lợi phẩm. Saladinđã cho tập hợp người của mình và khi các Kitô hữu bắt đầu nghỉ ngơi với đống chiến lợi phẩm của họ, thì ông đã tung các kỵ binh nhẹ của mình ra để tấn công những kẻ đang thỏa mãn chiến thắng. Người Kitô giáo kháng cự một cách rời rạc và người Thổ Nhĩ Kỳ tàn sát những kẻ đào tẩu cho đến khi bị chặn lại bởi các đội quân mới xuất hiện từ sườn bên phải của người Kitô giáo. Vào lúc này của cuộc chiến, lực lượng dự bị dưới sự chỉ huy của Guy đang cầm cự với người Saracens ở Acre, cũng phải rút lui và do đó khoảng 5.000 người Hồi giáo phá vòng vây ra khỏi thành phố và tiến về phía Bắc, rồi họ gia nhập với cánh phải của Saladin và đánh ồ ạt vào nhóm Hiệp sỹ Templar, những người bị chặn mất đường rút lui của họ. Gerard de Ridefort-Đại thủ lĩnh của Templar đã bị giết. Andrew của Brienne cũng thiệt mạng và Conrad đã được giải cứu bởi Guy. Cuối cùng thì quân Thập tự chinh cũng đẩy lui được đội quân phá vây, Thương vong của phe Kitô giáo trong dao động khoảng từ 4.000 -> 5.000 trong tổng số 10.000 người. Saladin không thể đẩy họ trở lại vì không thể triển khai một cuộc tấn công dữ dội nữa và chiến thắng của ông là vẫn chưa hoàn toàn.
Cuộc bao vây kép
Trong mùa thu, nhiều quân Thập tự chinh châu Âu đã kéo đến, cho phép Guy phong tỏa Acre bằng đường bộ. Tin tức về sự xuất hiện sắp xảy ra của Frederick I, Hoàng đế La Mã Thần thánh đã đến tai Thập tự chinh, không chỉ làm tăng tinh thần chiến đấu của quân Thiên Chúa Giáo mà còn buộc Saladin phải mang đến nhiều binh sĩ hơn nữa để vây cả thành phố và doanh trại của quân Thập tự chinh trong hai cuộc vây hãm riêng biệt.
15 tháng trôi qua mà không có hành động lớn giữa hai bên. Ngày 31 tháng 10, 50 chiếc Galley của người Hồi giáo đã phá vỡ phong tỏa đường biển và vượt qua vòng vây của người Cơ Đốc giáo để cung cấp cho thành phố thực phẩm và vũ khí. Ngày 26, một hạm đội Ai Cập xuất hiện để thiết lập lại quyền kiểm soát khu cảng và đường vào nó. Trong tháng 3 năm 1190, khi thời tiết trở nên tốt hơn, Conrad đi tới Tyre trên tàu riêng của mình và sớm trở lại với các nguồn cung cấp cho quân Thập tự chinh, giúp họ chiến đấu chống lại hạm đội Ai Cập từ trên bờ. Các vật liệu xây dựng đưa tới bởi Conrad đã được dùng để chế tạo các máy móc và thiết bị bao vây, mặc dù những máy móc này đã bị mất khi quân Thập tự chinh cố gắng để tấn công thành phố vào tháng 5.
Ngày 19 tháng 5, Saladin đã tiếp tục tăng cường quân đội của mình trong những tháng trước đó, đã bắt đầu một cuộc tấn công vào doanh trại của quân Thiên chúa giáo, cuộc tấn công này kéo dài tám ngày trước khi nó bị đẩy lùi. Ngày 25 tháng 7, bất tuân mệnh lệnh chỉ huy của họ, binh lính người Thiên Chúa giáo đã đổ ra và tấn công vào bên sườn phải của Saladin và họ bị đánh bại. Có thêm quân tiếp viện từ Pháp tới doanh trại của Thập tự quân trong mùa hè do Henry II của Champagne, Theobald V của Blois, Stephen I của Sancerre, Ralph của Clermont, John của Fontigny, Alain của Saint-Valéry, Đức Tổng-Giám-Mục của Besançon, Giám mục của Blois và Giám mục của Toul. Frederick VI-Công tước của Swabia đến vào đầu tháng 10 với phần còn lại của quân đội của cha mình ( Frederick Barbarossa ) sau khi hoàng đế bị chết đuối tại sông Saleph vào ngày 10 tháng Sáu và ngay sau đó quân Thập tự chinh người Anh dưới sự chỉ huy của Baldwin Exeter, Tổng-giám mục-Canterbury. Trong tháng 10, Bá tước của Bar cũng đã đến và ngườiKitô hữu đã có một bước đột phá qua Haifa và cố gắng này đã cho phép họ mang được nhiều thực phẩm hơn để đến doanh trại của quân Thiên Chúa giáo tại Acre.
Sinh hoạt ở trong thành phố ( Hồi giáo) và doanh trại của quân Thiên Chúa giáo tại Acre nhanh chóng trở nên khó khăn sau khi họ bị phong tỏa bởi Saladin. Thực phẩm vẫn còn hạn chế, nguồn nước cung cấp cho người Thiên Chúa giáo đã trở nên bị ô nhiễm bởi xác chết động vật và con người ( quân Hồi giáo hạ độc các nguồn nước bằng xác chết của động vật và con người ) và các dịch bệnh lây lan nhanh chóng bắt đầu. Bị lây bệnh sốt rét nên Louis của Thuringia đã phải trở về nhà khi người Pháp đến và ông này đã chết ở Síp trên đường trở lại Acre vào ngày 16. Ở khoảng cuối tháng Bảy đến tháng Mười, vợ của Guy-Nữ hoàng Sibylla đã chết và một vài ngày sau đó thì cả hai cô con gái của họ-Alais và Marie đều chết hết. Vì cái chết của nữ hoàng, Guy đã bị mất quyền đòi ngai vàng của Jerusalem như là người thừa kế hợp pháp của Sibylla. người thừa kế chính của bà ta lúc này chính là cô em gái cùng cha khác mẹ-Isabella của Jerusalem. Tuy nhiên Guy đã từ chối ủng hộ Isabella.
Các nhà quý tộc của vương quốc này ( tàn dư phe đả.ng của Raymond ) đã sử dụng cơ hội này để truất ngôi của Guy và sắp xếp cuộc hôn nhân của Conrad với Isabella. Tuy nhiên, Isabella đã kết hôn với Humphrey IV của Toron và tình trạng hôn nhân của Conrad là không chắc chắn (ông này đã cưới một công chúa Byzantine vào năm 1187, vài tháng trước khi đến Tyre, cô ta đã bãi hôn khi ông ta vắng mặt) . Ngoài ra, người chồng đầu tiên của Sibylla lại là William Longsword-anh trai của Conrad, một cuộc hôn nhân giữa Isabella và Conrad có thể bị coi là “loạn luân”. Giáo trưởng Eraclius bị bệnh, và Baldwin- của Exeter, người đại diện được chỉ định của ông lại đột ngột qua đời vào ngày 19. Vì vậy đích thân Đức Tổng-Giám-Mục Ubaldo Lanfranchi của Pisa và cũng là người thừa kế của giáo hoàng, cùng với Philip-Đức Giám mục của Beauvais đã đồng ý để Isabella ly hôn với Humphrey vào ngày 24. Conrad rút về Tyre cùng với Isabella nhưng Guy vẫn khăng khăng cho rằng ông ta vẫn là vua của Jerusalem: tranh chấp này đã không được giải quyết triệt để cho đến khi có một cuộc bầu cử vào năm 1192.
Quân đội của Saladin lúc này đã quá đông nên quân Thập tự chinh không thể tiến hành bất kỳ cuộc tăng viện nào trên bộ đất và mùa đông có nghĩa là không có nguồn cung cấp hoặc tiếp viện bằng đường biển. Trong doanh trại Kitô giáo, các thủ lĩnh bắt đầu phải chống chọi với dịch bệnh. Theobald của Blois và Stephen của Sancerre đã chết và Frederick của Swabia cũng đã chết vào ngày 20 tháng 1 năm 1191. Henry của Champagne đã phải nằm dài vì bệnh tật trong nhiều tuần trước khi hồi phục. Giáo Trưởng Eraclius cũng đã chết trong cuộc bao vây nhưng rõ vào ngày tháng nào.
Ngày 31 tháng 12, một nỗ lực khác để tấn các bức tường thành đã không thành công và vào ngày 06 tháng 1 năm 1191 một phần bức tường sụp đổ dẫn đến việc người Kitô giáo đã tiến hành nhiều nỗ lực để đè bẹp đơn vị đồn trú Hồi giáo ở trong thành phố. Ngày 13 tháng 2, Saladin thành công trong việc phá vỡ đội hình của người Thiên chúa giáo và vào được thành phố để ông có thể thay thế những người lính phòng thủ đã kiệt sức bằng một đơn vị đồn trú mới nếu không thì có thể toàn bộ lực lượng đồn trú cũ đã chết vì bệnh dịch. Conrad của Montferrat cố gắng tiến hành một cuộc tấn công bằng đường biển vào chiếc tháp Flies nhưng gặp bất lợi về gió và vỉa đá ngầm bên dưới bề mặt nước đã ngăn cản không cho các con tàu của ông có thể tiến vào đủ gần để gây thiệt hại đáng kể. Tuy nhiên trong tháng ba khi thời tiết trở nên tốt hơn và các con tàu lại một lần nữa có thể cập bến và cho bốc dỡ vật tư lên bờ biển, người Kitô giáo lại một lần nữa tránh khỏi nguy cơ thất bại. Leopold V của Áo đến và nắm quyền kiểm soát lực lượng Thiên chúa giáo. Sự kiện các con tàu cập bờ cũng là những thông tin xấu cho Saladin. Ông đã bỏ lỡ cơ hội của mình để đè bẹp số Kitô hữu còn lại và bây giờ vua Richard của Anh quốc cùng với vua Philip của Pháp quốc đang trên đường đến Đất Thánh, mỗi người đi kèm với một đội quân của mình. Cơ hội để chiến thắng của Saladin là đã bị tuột mất.
Các vị vua ở Acre
Philip đến ngày 20 Tháng Tư và Richard ngày 08 tháng 6 năm 1191 sau khi ông tranh thủ cơ hội để chinh phục đảo Síp trên đường đi. Richard I đến với một hạm đội của Anh gồm 100 tàu ( chở 8.000 quân), trong khi Philip II đã đến với một hạm đội của Genova dưới sự chỉ huy của Simone Doria. Philip đã sử dụng thời gian chờ đợi Richard để chế tạo những chiếc tháp công thành và bây giờ những vị vua hùng mạnh nhất của châu Âu đã xuất hiện, và lúc này chỉ có thành phố chứ không phải là doanh trại của người Kitô giáo bị bao vây. Khi Richard đến, ông đã tìm cách đàn phán với Saladin và một cuộc ngừng bắn ba ngày đã được thoả thuận để cuộc đàn phán có thể được tiến hành. Tuy nhiên, cả Richard và Philip đều bị ốm và cuộc đàn phán đã không xảy ra.
Các máy công thành đã phá được những lỗ thủng ở bức tường của Acre, nhưng mỗi lần quân Thiên chúa giáo tổ chức một đợt công thành thì họ lại phải chống trả lại một cuộc tấn công dữ dội từ đội quân của Saladin và nó tạo cho đơn vị đồn trú của Acre có cơ hội để sửa chữa những thiệt hại trong khi các Kitô hữu phải phân tâm để đối phó với quân Hồi giáo ở phía ngoài. Ngày 01 tháng 7, Philip của Alsace đã chết trong doanh trại, đây là một cuộc khủng hoảng lớn cho vua Pháp, vì kể từ khi Philip-Bá tước của Flanders và Vermandois và cũng là một trong những người quan trọng nhất trong đoàn tùy tùng của nhà vua chết đi thì ông này đã không còn người thừa kế và việc giải quyết thừa kế của ông là một vấn đề khẩn cấp nhưng rất khó khăn vì nhà vua đang ở rất rất xa nước Pháp.
Vào ngày 03 tháng 7, một cuộc bắn phá đủ dữ dội để tạo ra lỗ thủng trong các bức tường, nhưng các cuộc tấn công của quân Thiên chúa giáo vẫn bị đẩy lùi. Ngày 04 tháng 7, thành phố đề nghị xin đầu hàng, nhưng Richard từ chối các điều kiện của họ. thời gian này Saladin không tiến hành được một cuộc tấn công quy mô lớn nào vào doanh trại của quân Thiên chúa giáo. Ngày 07 tháng bảy, thành phố đã gửi một sứ giả để yêu cầu Saladin trợ giúp và đe dọa sẽ đầu hàng nếu ông ta không giúp đỡ. Ngày 11 tháng 7, đã xảy trận chiến cuối cùng và vào ngày 12 thành phố lại một lần nữa đưa ra điều kiện xin đầu hàng cho quân Thập tự chinh và lần này họ đã được chấp nhận. Conrad của Montferrat đã trở về Tyre vì Richard đã ủng hộ cho Guy của Lusigna làm vua của Jerusalem, và chiến dịch được tạm dừng theo yêu cầu đàn phán của Saladin. Saladin đã không đích thân tham gia vào các cuộc đàm phán, nhưng đã chấp nhận cho thành phố được đầu hàng. Quân Kitô giáo tiến vào thành phố và đơn vị đồn trú Hồi giáo đã bị tống giam. Conrad giơ cao ngọn cờ của Vương quốc Jerusalem và sau đó là cờ của Pháp, Anh và Áo trong thành phố.
Leopold của Áo rời khỏi Acre ngay sau khi chiếm được thành phố sau khi có một cuộc cãi vã với Richard: là người lãnh đạo còn sống sót của Đế quốc Đức hoàng, ông yêu cầu phải được đối xử ngang bằng với vị thế Philip và Richard nhưng đã bị từ chối và cờ hiệu của ông bị xé rách và ném xuống từ các thành lũy của Acre. Ngày 31 Tháng Bảy, Philip cũng trở về nhà để giải quyết việc thừa kế Vermandois và Flanders và chỉ còn Richard ở lại để phụ trách các lực lượng viễn chinh Thiên chúa giáo.
Việc hành quyết các tù nhân
Lúc Richard và Saladin để hoàn tất việc đầu hàng của thành phố. Lực lượng Kitô giáo bắt đầu xây dựng lại tuyến phòng thủ của Acre và Saladin thu tiền để trả cho các khoản chuộc binh lính đồn trú lúc này đang bị bỏ tù. Ngày 11 tháng 8, Saladin giao số tiền đầu tiên của ba lần thanh toán đã được lên kế hoạch và tiến hành trao đổi tù nhân, nhưng Richard lại từ chối điều này bởi vì các quý tộc Christian đã không được bao gồm trong cuộc trao đổi này và nó đã bị đổ vỡ rồi các cuộc đàm phán thêm nữa cũng không thành công. Richard cũng đã nhấn mạnh về việc bàn giao này Philip cũng phải chia sẻ với các tù nhân qua người mà nhà vua Pháp đã ủy quyền, đó là Conrad của Montferrat người thân tộc của ông. Conrad miễn cưỡng đồng ý, dưới áp lực của Richard. Ngày 20 tháng tám, Richard nghĩ rằng Saladin đã bị trì hoãn quá lâu và mang 2700 tù nhân Hồi giáo từ đơn vị đồn trú của Acre ra chặt đầu. Saladin phản ứng bằng cách hành động tương tự, hành hình tất cả các tù nhân Kitô giáo mà ông đã bắt. Ngày 22 Tháng Tám, Richard và quân đội của ông rời thành phố và nó được bàn giao tạm thời cho các quân viễn chinh của Bertram de Verdun và Stephen de Lonchamp.
Hậu quả
Các đội quân Thập tự chinh đã hành quân về phía nam, với biển đến quyền và quân đội của Saladin sau họ lại của họ. Ngày 07 tháng chín, họ gặp nhau tại trận Arsuf, phía bắc của Jaffa, trong đó Saladin đã bị đánh bại. Richard bắt Jaffa vào ngày 10, nhưng vì lý do chiến lược quyết định không vây Jerusalem. Các tranh chấp về vương quyền của Jerusalem đã được giải quyết trong tháng 4 năm 1192, với cuộc bầu cử của Conrad của Montferrat, nhưng ông đã bị ám sát chỉ vài ngày sau chiến thắng của mình. Nữ hoàng Isabella mang thai đã được vội vã kết hôn và Philip cháu trai của Richard, Henry của Champagne.
Trận Arsuf
Ngày: 07 tháng 9 năm 1191
Địa điểm: Arsuf- Đất Thánh
Kết quả: Thập tự quân chiến thắngQuân Thập tự chinh: Quân Anh, Hiệp sĩ Templar, Hiệp sỹ Hospitaller. Chỉ huy Richard I của Anh quốc, Robert de sable – Templar, Garnier de Nablus – Hospitaller.Lực lượng: 20.000 người bao gồm: 14.000 bộ binh, 4.000 hiệp sĩ, 2.000 turcopoles ( cung kỵ và kỵ binh hạng nhẹ).Thiệt hại: 700 ngườiQuân Hồi giáo: Vương triều Ayyubids ( binh lính đến từ Thổ nhĩ kỳ, Syria, Ai Cập, Lưỡng Hà …).Chỉ huy: Saladin.Lực lượng: 20.000 kỵ binh, không rõ số lượng bộ binh.Thiệt hại: 7.000.
Trận Arsuf là một trận chiến của cuộc Thập tự chinh lần thứ ba, trong đó Richard I của Anh quốc đã đánh bại Saladin ở Arsuf. Sau một loạt các cuộc tấn công quấy rối bởi lực lượng của Saladin, trận chiến đã tham gia vào sáng ngày 07 Tháng 9 năm 1191. Lực lượng của Richard đã chống lại mọi nỗ lực để phá vỡ sự gắn kết trong đội hình của họ cho đến khi hàng ngũ của các Hiệp sỹ Hospitaller bị phá vỡ, ông tập hợp lại lực lượng của mình và dẫn họ tới chiến thắng.
Tiến về phía Nam từ Acre
Sau khi chiếm được Acre năm 1191, Richard đã phải chiến đấu theo kiểu hàng loạt các cuộc đụng độ với Saladin ( có khả năng là Saladin chiến đấu trên sân nhà và cóđông quân hơn nên dễ dàng hơn trong việc thay thế những người lính bị tử trận của mình hơn nên ông ta ưa cách đánh tiêu hao-và ông ta cũng chẳng muốn đối trận với quân địch có trang bị tốt hơn ), mà mục tiêu chính là để ngăn chặn sự tái chiếm Jerusalem. Biết rằng mình cần phải kiểm soát được hải cảng Jaffa trước khi thực hiện được một nỗ lực tấn công về Jerusalem, Richard bắt đầu hành quân dọc theo bờ biển từ Acre vào ngày tháng 8m 1191. Richard đã cố gắng chuẩn bị trước với sự chú ý tới mọi tiết. Ý thức được những bài học của thảm họa tại trận Hattin , ông biết rằng cái mà quân đội của ông cần nhất là nước và sự kiệt sức là nguy hiểm lớn nhất của họ. Mặc dù bị nhiều sức ép về thời gian, ông đã cho chỉ hành quân trong buổi sáng trước khi phải chịu cái nóng đỉnh cao trong ngày. Ông đã cho dừng lại nghỉ ngơi thường xuyên, luôn luôn ở bên cạnh các nguồn nước. Hạm đội khởi hành đi dọc theo bờ biển để cung cấp những hỗ trợ tức thì, đó là một nguồn cung cấp lương thực và nơi điều trị cho những người bị thương. Ý thức được sự nguy hiểm từ khả năng xuất hiện vào bất cứ lúc nào của đối phương cũng như kỹ năng tấn công đánh và rút ( hit-and-run) của họ, ông luôn tìm cách giữ đội hình các cột một cách chặt chẽ với một xương sống gồm mười hai đại đội kỵ binh, mỗi đại đội có khoảng một trăm hiệp sĩ. Lực lượng bộ binh hành quân tạo thành một cánh để hộ tống cho kỵ binh khỏi bị tấn công từ phía đất liền ( tức là 12 đại đội kỵ binh lần lượt nối đuôi nhau lập thành một cột sát mép bờ biển, lực lượng bộ binh lập thành một cột ở bên trái lực lượng kỵ binh để bảo vệ họ ). Bất chấp liên tục bị quấy rối bởi các cung thủ và tarantulas của Saladin vào ban đêm, chiến thuật của Richard vẫn đảm bảo tổ chức và kỷ luật của Thập tự quân vẫn được duy trì hoàn cảnh khó khăn nhất. Baha ad-Din ibn Shaddad, nhà sử gia Hồi giáo mô tả cuộc hành quân như sau:Người Hồi giáo bắn tên vào các bên sườn của họ, cố gắng để khuấy động họ phá vỡ hàng ngũ, nhưng họ vẫn kiểm soát được một cách kiên nhẫn đội hình của mình và tiếp tục hành quân, họ vẫn tiến binh một cách rất đều đặn cùng với các con tàu của họ lúc này di chuyển dọc theo bờ biển song song với họ ( vừa hỗ trợ vừa cung cấp bảo vệ từ phía biển cho lục quân ), cho đến khi họ kết thúc từng giai đoạn hành quân và hạ trại .
Phản ứng của Saladin
Khi quân Thập tự chinh đã hành quân đến phía bên kia của sông ở Caesarea, Saladin cũng tiến hành cách bố trí đội hình riêng của mình. Ông đã lên kế hoạch tung quân của mình qua các con đường La Mã cổ ở sâu bên trong vùng nội địa, cho phép ông ta có thể tấn công theo hướng nào có cơ hội thuận tiện nhất. Nhưng việc quân Thập tự chinh hành quân dọc theo ven biển đã bắt buộc ông phải theo tiến theo hướng song song với họ. Vào lúc bình minh lên, các cuộc tấn công quấy rối không có tác dụng như dự định; và chúng đã được đẩy mạnh cường độ và trở thành những trận chiến nhỏ trong quá trình hành quân. Khi quân đội của Richard tiến đến Caesarea vào ngày 30 tháng Tám, lực lượng bảo vệ phía sau ( hậu quân) được chỉ huy bởi Hugh III của Burgundy đã phải chịu các cuộc tấn công nghiêm trọng và nó bị cắt ra khỏi phần còn lại của quân đội trong một thời gian. Richard đã cố gắng để tập hợp toàn bộ đội quân trong khi các giáo sỹ đi cùng với họ hô to Sanctum Sepulchrum adjuva (“Thánh Sepulchre hãy trợ giúp chúng tôi!”).
Saladin, đánh giá sự tiến quân của đội hình của đối phương và ra quyết định tiến hành một cuộc tấn công ở Arsuf gần Jaffa, trong khi quân đội của ông phải đối mặt với quân Thập tự chinh ở phía tây và phía biển. Sườn phía bắc của ông được bảo vệ bởi các cánh rừng của Arsuf với con sông Rochetaillée và đầm lầy ở phía trước. Ở phía nam, sườn trái của ông đã được bảo vệ bằng một dải các ngọn đồi có cây cối rậm rạp, nó trải xuống chính những tàn tích của thành phố Arsuf. Kế hoạch là dử quân Thập tự chinh tiến vào sau một loạt những trận trá bại và tiêu diệt họ bằng một cuộc tổng tấn công khi mà thế trận của họ đã bị vỡ. Khoảng cách giữa những ngọn đồi của Arsuf và biển chỉ có hai dặm ( 3 km), làm cho Richard ít có khoảng không gian để cơ động, và hạn chế sức mạnh tổng lực của các hiệp sĩ được bọc thép dày. Saladin coi đây là cái bẫy hoàn hảo nhưng Richard đã nhanh chóng biến nó thành một cơ hội cho ông ta.
Trận đánh
Vào rạng sáng ngày 7 tháng 9 năm 1191, sứ giả của Richard đi đến các doanh trại và thông báo rằng trận chiến sẽ xảy gia ngày hôm đó. Các Hiệp sĩ Templar dưới sự chỉ huy của Robert de sable được lệnh phía trước, cùng với người Angevin và Bretons ( tiểu quốc thuộc Pháp), theo sau là Guy của Lusignan và Poitevins. Tiếp đến là những người Anglo-Norman và sau đó là những người Flemings dưới sự chỉ huy của James của Avesnes . Sau người Flemings là đến người Pháp và cuối cùng là Hiệp sĩ Cứu tế, đứng đầu là Fra Garnier de Nablus. Dưới sự lãnh đạo của Henry II của Champagne, một đội quân nhỏ đã được tách ra để trinh sát các ngọn đồi và một toán các hiệp sĩ dưới sự chỉ huy của Hugh của Burgundy được tách ra để đi chạy ngược chạy xuôi khắp các hàng quân để đảm bảo rằng họ giữ được tổ chức của thế trận.
Cuộc tấn công đầu tiên của người Saracen diễn ra vào lúc chín giờ sáng. Trong một nỗ lực để phá hủy sự gắn kết của đối phương và làm lung lay quyết tâm của họ, các cuộc tấn công dữ dội đã được kèm theo âm thanh khủng khiếp của tiếng chiêng trống và thanh la, tiếng kèn cùng với tiếng người la hét. QuấnItinerarium Regis Ricardi có ghi: “Vì vậy, người Thổ Nhĩ Kỳ đông một cách không kể xiết đổ vào quân đội của chúng ta từ mọi phía, từ hướng biển và từ đất liền. Lúc đó khoảng không gian xung quanh không rộng đến hai dặm (3 km), và dường như là không cái gì có thể tồn tại trước những đợt tấn công của người Thổ Nhĩ Kỳ “. Nhưng khi đợt tấn công này không có hiệu quả như mong muốn, nó được hướng sang bên cánh trái của quân Thập tự chinh và các Hiệp sỹ Hospitaller phải chịu áp lực lớn nhất. Từng bước từng bước một, các cuộc tấn công kéo sang phần còn lại của đội hình của Richard. Những cuộc tấn công diễn ra theo cùng một kiểu: người Bedouins và Nubians bắn tên và phóng lao vào đội hình của kẻ thù, trước khi cho phép các cung kỵ tiến lên và tấn công theo kiểu phi ngựa vòng quanh, một kỹ thuật được thực hành rất tốt của người châu Á. Các xạ thủ bắn nỏ của quân Thập tự chinh trả lời khi khả năng này là có thể, mặc dù nhiệm vụ chính của các quân Thập tự chinh chỉ đơn giản là để duy trì đội hình của họ khi đối mặt với các hành động khiêu khích. Tại một số vị trí dọc theo đội hình hình cột của Thập tự quân, hai đội quân đã tham gia cận chiến.
Các Hiệp sỹ Hospitaller phá vỡ hàng ngũ
Tất cả những nỗ lực tột bậc nhất của Saladin cũng không thể chia chia cắt đội hình hình cột của Thập tự quân hoặc ngăn chặn bước tiến của họ về hướng Arsuf. Richard được xác định là giữ vững các đội quân của mình lại với nhau, buộc đối phương phải lao vào như những con thiêu thân trong những cuộc tấn công lặp đi lặp lại, và rồi ông thấy rằng đây đúng là dịp để tung các hiệp sĩ của mình vào một cuộc tấn công tổng lực tập trung. Tuy nhiên lúc này vẫn tồn tại những rủi ro vì binh sỹ không chỉ hành quân dưới sự khiêu khích nghiêm trọng của đối phương mà họ còn bị nắng nóng và khát. Và tình hình cũng rất là nghiêm trọng vì người Saracens đã giết chết rất nhiều ngựa đến mức một số những hiệp sĩ riêng của Richard bắt đầu tự hỏi xem liệu có thể triển khai một cuộc tấn công vào lúc này.
Vào lúc mà lực lượng tiên phong tiến vào được vào Arsuf vào giữa buổi chiều, các xạ thủ bắn nỏ của Hospitaller ở phía hậu quân đã vừa nạp tên vừa bắn lại vừa đi giật lùi. Chắc chắn rằng chiến đấu theo kiểu này làm cho họ bị mất đội hình và đối phương đã nhanh chóng tận dụng cơ hội này và di chuyển vào khoảng trống đó. Đối với quân Thập tự chinh, trận Arsuf lúc này đã bước vào một giai đoạn quan trọng. Garnier de Nablus yêu cầu Richard cho phép tấn công. Nhưng ông này từ chối và vẫn ra lệnh duy trì vị trí chung. Mệnh lệnh này là quá với sức mà các Hiệp sỹ Hospitaller có thể chịu đựng. Ông ta (Garnier de Nablus ) rút kiếm tấn công vào người Saracen sau một tiếng hô Thánh George! và cuấn theo sau một cách nhanh chóng tất cả các phần còn lại của hiệp sĩ của mình rồi một số người Pháp cũng bị cuấn theo họ.
Phản ứng của Richard
Hành động nông nổi của các Hiệp sỹ Hospitaller có thể làm cho toàn bộ chiến thuật của Richard bị phá sản. Nhưng rất may là khi mà Garnier de Nablus bắt đầu cuộc tấn công của mình thì Saladin lại ra lệnh cho cung thủ của mình xuống ngựa để bắn tên được chính xác hơn và họ đã bị choáng bởi cuộc tấn công bất ngờ của các Hiệp sỹ Hospitaller.
Richard biết rằng nếu ông không hỗ trợ cho các Hiệp sỹ Hospitaller, họ sẽ ngay lập tức bị cô lập và tàn sát. Nhưng nếu ông quyết định gửi quá nhiều kỵ binh tăng viện cho họ, có thể ông sẽ làm suy yếu toàn bộ lực lượng còn lại của mình. Muzaffar al-Din Gökböri, một trong những chỉ huy của Saladin đang cố gắng để tập hợp người của mình với ý định là tấn công vào các cung thủ của đối phương. Trước khi ông ta vào được một vị trí để triển khai được cuộc tấn công này, Richard tập hợp lại quân đội của mình và tung ra một đợt tấn công thứ hai bao gồm các hiệp sĩ người Breton và Angevin hướng tới sườn trái của Saladin. Bản thân Richard dẫn đầu một cuộc tấn công thứ ba và cuối cùng bao gồm các hiệp sĩ người Norman và người Anh.
Trong một nỗ lực để khôi phục lại tình hình, Taqi al-Din, cháu trai của Saladin đã điều 700 người là vệ sĩ riêng của Sultan ( Saladin ) để vào sườn trái của Richard. Cảnh giác với sự nguy hiểm vì lúc này lực lượng của ông đã bị trải ra rải rác. Richard cho tập hợp lại lực lượng của mình một lần nữa rồi và rồi tung ra đợt tổng tấn công cuối. Nó đã gây ra nhiều áp lực hơn so với sức ép mà đối phương có thể chịu được; quân của Saladin đã bị vỡ trận và bị truy kích một cách gắt gao trên những ngọn đồi của Arsuf bởi các hiệp sĩ Thập tự chinh. Ngọn cờ của nhà vua ( Richard ) đã được cắm trên ngọn đồi của Saladin, trong khi doanh trại của quân Saracen bị cướp phá. Vào lúc này bóng tối đã buông xuống, Richard không cho phép đuổi theo nữa.
Thiệt hại và hậu quả
Như thường lệ với những trận đánh thời trung cổ, rất khó để đánh giá chính xác thiệt hại ở mức nào. Các nhà sử gia Kitô giáo tuyên bố người Hồi giáo bị giết khoảng 32 vị tiểu vương và 7.000 binh sỹ nhưng con số thực thì có thể là hơn hoặc ít hơn. Thiệt hại của Richard là không quá 700 người trong đó có James của Avesnes.
Arsuf là một chiến thắng quan trọng, nhưng không giống như chiến thắng của Saladin ở trận Horn of Hattin, trận này không phải là một trận thắng quyết định. Quân đội đối phương đã không bị phá hủy, nhưng tháo chạy được coi là một sự xấu hổ của người Hồi giáo và nó thúc đẩy nâng cao tinh thần chiến đấu cho quân Thập tự chinh. Sau khi tháo chạy Saladin đã có thể tập hợp lại và cố gắng để tiếp tục giao tranh nhưng chỉ làm cho quân Thập tự chinh giật mình quay lại và phản ứng chứ ông ta không còn khả năng tổ chức một cuộc tấn công với quy mô hoành tráng. Mùa đông đã bắt đầu có nghĩa là Saladin không thể tiếp tục theoi đuổi. Arsuf đã làm hoen ố danh tiếng của Saladin như là một chiến binh bất khả chiến bại và đã chứng tỏ lòng dũng cảm của Richard trong cương vị một người lính và kỹ năng của ông như là một chỉ huy. Richard đã có thể tấn công và giữ được Jaffa – một động thái quan trọng chiến lược để chiếm lại Jerusalem. Khi lấy đi Jaffa của Saladin, Richard đã đe doạ nghiêm trọng đến Jerusalem lúc này đang nằm trong tay Saladin bởi vì Jaffa là một hải cảng rất gần thành phố Thánh Địa.
Sau khi ông ngã bệnh nặng trong năm 1170, Henry II đưa ra kế hoạch để phân chia vương quốc của mình, còn ông sẽ điều hành một cách tổng thể qua các con trai của ông tới vùng lãnh thổ của họ. Năm 1171, Richard đến Aquitaine cùng với mẹ mình và vua Henry II phải phong cho ông danh hiệu công tước xứ Aquitaine theo yêu cầu của Eleanor. Richard và mẹ của ông đã bắt đầu các chuyến đi khắp vùng Aquitaine trong năm 1171 trong một nỗ lực nhằm xoa dịu những người dân địa phương. Họ cùng nhau đặt viên đá cho phần hạ tầng của tu viện St Augustine tại Limoges. Trong tháng 6 năm 1172, Richard được chính thức công nhận là Công tước Aquitaine khi ông được cấp cho ngọn thương và cờ xí tại một buổi lễ đã được tổ chức tại Poitiers và được tổ chức lại ở Limoges, nơi ông được đeo chiếc nhẫn của St Valerie-đây là biểu hiện của người đứng đầu vùng Aquitaine.
Trận Jaffa
Thời gian xảy ra trận đánh: năm 1192
Địa điểm: thành phố Jaffa
Kết quả: Quân thập tự chinh chiến thắngPhe quân Thập tự chinh: chỉ huy Richard I của Anh quốc,lực lượng 80 Hiệp sĩ + quân phòng thủ tòa lâu đài của Jaffa. Quân tiếp viện Richard và 54 Hiệp sĩ + 2000 lính bắn nỏ người GenovaPhe Hồi giáo: chỉ huy Saladin,lực lượng 7.000 kỵ binh
trận Jaffa là một trong một loạt các chiến dịch giữa quân đội của Saladin và lực lượng thập tự chinh của vua Richard Lionheart. Đó là trận chiến cuối cùng của cuộc Thập tự chinh lần thứ ba, sau đó Saladin vua Richard đã tiến hành thương lượng cho một thỏa thuận ngừng bắn. Mặc dù quân Thập tự chinh đã không giành lại được thành phố Đất Thánh Jerusalem, người hành hương Thiên chúa giáo được phép nhập cảnh vào thành phố và quân Thập tự chinh đã giữ lại quyền kiểm soát một dải đất khá lớn kéo dài từ Beirut tới Jaffa.Trận Jaffa là một trận chiến mang tính chất quyết định, nó thể hiện cả tinh thần quyết tâm của Saladin và sự dũng cảm đến mức thiếu thận trọng của Richard. Đây là trận chiến cuối cùng trước khi hiệp ước giữa Richard và Saladin được kết luận và nó giúp giữ lại sự hiện diện của quân Thập tự chinh ở phía nam và đảm bảo rằng ít nhất là tại thời điểm đó người Thiên chúa giáo đã hiện diện bên ngoài Đất Thánh.
Bối cảnh
Ngày 07 Tháng 9 Năm 1191, sau khi giành chiến thắng trong trận Arsuf, quân Thập tự chinh tiến từ Arsuf đến Jaffa, nơi mà họ đã tổ chức chiếm đóng và tăng cường phòng thủ., họ-người Thiên chúa giáo hy vọng rằng Jaffa sẽ là căn cứ để phát động những cuộc tấn công và chiếm lại thành phố Jerusalem. Khi mùa đông năm 1191->1192 đến gần, các chiến dịch đã bị bỏ dở và các cuộc đàm phán thường xuyên hơn nữa giữa Richard Lionheard và Saladin đã được tiến hành, mặc dù không có kết quả ngay lập tức. Trong những tháng mùa đông, Richard mang quân đi chiếm và tăng cường phòng thủ cho Ascalon, nơi mà các công sự trước đây của nó đã bị san bằng bởi Saladin. Mùa xuân 1192 người ta vẫn chỉ thấy các cuộc đàm phán vẫn được tiếp tục và đồng thời các cuộc giao tranh giữa các lực lượng thù địch cũng nổ ra thường xuyên. Trong thời gian này, Richard đã bắt đầu nhận tin tức đáng lo ngại của các hành động của John- anh trai của ông và Philip Augustus. Khi xuân qua hè tới thì ngày càng trở nên rõ ràng rằng Richard sẽ phải quay trở lại nước Anh để bảo vệ quyền lợi của mình ở đó.
Trận đánh
Vào ngày 5 tháng 7 năm 1192, Richard đã bắt đầu rút lui về phía bắc từ vùng Đất Thánh. Có nhận ra rằng Jerusalem đã không được phòng thủ ( vậy mà không hiểu sao Richard lại không tiến lên để chiếm lấy thành phố), ông bắt đầu cho rút lui các lực lượng Thập tự quân ra khỏi lãnh thổ thù địch. Hầu như ngay lập tức sau khi Richard rút lui, Saladin đã tiến hành bao vây thị trấn Jaffa vốn được sử dụng như là một căn cứ hoạt động của Richard trong những cuộc hành quân vào sâu trong nội địa trước đây của ông nhằm để chiếm lấy Jerusalem. Các binh sĩ của Saladin trong việc công chiếm các bức tường thành của thành phố, chỉ còn tòa thành của Jaffa là vẫn nằm trong tay người Thiên chúa giáo và những người phòng đã cố gắng để gửi tin nhắn để nói về hoàn cảnh của họ . Richard thu thập được một nhóm nhỏ các binh sĩ và bắt đầu cuộc hành trình của ông trở lại thành phố. Khi nhìn thấy cờ của Hồi giáo bay từ trên các bức tường, ông cho rằng thành phố đã bị chiếm, cho đến khi một người lính thuộc lực lượng phòng thủ bơi ra gặp ông và thông báo về tình hình nghiêm trọng của tòa thành.
Khi được báo tin Richard nhảy ào xuống nước một cách thiếu thận trọng và lội qua những con sóng để tiến bãi biển. Một lần nữa Richard lại cho thấy lòng dũng cảm của ông và giá trị của nó tại chiến trường. Ông dẫn đầu năm mươi tư hiệp sĩ và 2.000 xạ thủ bắn nỏ người Genova và Pisan vào trận chiến. Trận chiến ngày càng trở nên quyết liệt và con ngựa của ông đã bị giết chết bởi trúng tên. Khi Saladin thấy Richard chiến đấu như một người lính bộ binh, ông đã ra lệnh mang một con ngựa từ chuồng ngựa của mình và gửi đến Richard như để thay thế. Richard Lionheart và các hiệp sĩ của ông tập hợp lại và hạ thấp các ngọn thương của họ xuống và hướng chúng vào lực lượng kỵ binh Hồi giáo đông đảo lên đến 7.000 người. Được hỗ trợ bởi hàng loạt những trận mưa tên từ các cung thủ bắn nỏ của mình, nhà vua đã ép được quân đội của Saladin quay trở lại thành phố, nơi họ bị bao vây và đánh bại. Richard đã chiếm lại được Jaffa cho quân Thập tự chinh.
Richard Lionheart của Anh quốc
Richard I (Ngày 8 tháng 9 năm 1157 – 6 tháng 4 năm 1199) là Vua của Anh từ 06 tháng 7 năm 1189 cho đến khi ông chết. Ông cũng là Công tước của Normandy, Công tước Aquitaine, Công tước xứ Gascony, Chúa tể của Ireland, Chúa tể Cyprus, Bá tước xứ Anjou, Bá tước của Maine, Bá tước Nantes và Chúa tể của Brittany tại các thời điểm khác nhau trong cùng một thời kỳ. Ông được biết đến như là Coeur de Lion, hoặc Richard Lionheart, ngay cả trước khi ông lên ngôi ông đã có tiếng tăm như là một nhà lãnh đạo quân sự lớn và chiến binh dũng cảm. Người Saracen gọi ông là Melek-Ric hoặc Malek al-Inkitar – Vua của nước Anh.
Ở tuổi 16 Richard đã chỉ huy quân đội của mình dấy lên những cuộc nổi loạn tại Poitou chống lại vua Henry II-cha của ông ta. Richard là một trong các nhà lãnh đạo cao cấp của cuộc Thập tự chinh lần thứ ba, các chiến dịch do ông chỉ huy sau sự ra đi của Philip Augustus đã rất thành công và thu được những chiến thắng đáng kể trước Saladin-thủ lĩnh của người Hồi giáo, nhưng Richard đã không thể chiếm lại Jerusalem.
Mặc dù chỉ nói được tiếng Pháp và ít khi sống ở Anh (Ông sống tại lãnh địa của mình-Công quốc Aquitaine, ở phía tây nam của nước Pháp và thường chỉ sử dụng nước Anh làm một nguồn thu để hỗ trợ cho quân đội của mình), ông được xem là một anh hùng về mặt đạo đức của những người tôn sùng ông. Ông là một trong rất ít những vị vua của Anh được nhớ tới bởi danh hiệu chứ không phải Triều đại của mình (few Kings of England remembered by his epithet, rather than regnal number ). Và nó là một biểu tượng mang tính lâu dài ở Anh.
Giai đoạn đầu tới khi trở thành Công tước Aquitaine
Gia đình và tuổi trẻ
Richard được sinh ra vào ngày 08 tháng 9 năm 1157, có lẽ là tại Beaumont Palace. Ông là một người anh em của William IX-Bá tước Poitiers; Henry nhà vua trẻ và Matilda-nữ công tước của Sachsen. Là con trai hợp pháp thứ ba của vua Henry II của Anh quốc, Ông đã không được dự kiến sẽ nối ngôi. Ông là anh trai của Geoffrey II, Công tước xứ Brittany; Leonora của Anh quốc-Nữ hoàng xứ Castile; Joan của Anh quốc và John-Bá tước của Mortain, người kế vị ông làm vua. Richard là em cùng mẹ khác cha với Marie de Champagne và Alix của Pháp. William IX Bá tước Poitiers-con trai cao tuổi nhất của Henry II và Eleanor của Aquitaine ( như đã nói ở trong cuộc thập tự chinh lần 2, bà này bỏ chồng cũ là Louis VII-vua Pháp để lấy Henry II ), qua đời năm 1156, trước khi sinh ra Richard. Richard thường được mô tả là một người con trai được mẹ là Eleanor của Aquitaine. Henry-cha ông là một người Pháp và là cháu nội lớn tuổi nhất của William the Conqueror. Mối quan hệ gần gũi nhất với người Anh trong hệ phả của Richard là Edith-vợ của Henry I của Anh. Sử gia đương thời Ralph Diceto đã chứng minh rằng dòng dõi của gia đình ông qua Edith có liên quan đến Alfred the Great ( trong những bài trước đã có bài nói về ông này ) vị vua vĩ đại của người Anglo-Saxon và nước Anh và từ đó gia đình ông có dây mơ rễ má với Noah và Woden. Theo truyền thuyết của vùng Angevin thậm chí còn có cả dòng máu của quái vật dưới địa ngục trong gia đình của ông.
Trong khi cha của ông đến thăm vùng đất của ông ( ở Pháp ) từ Scotland, thì có thể lúc đó Richard lại đang ở nước Anh. Ông được nuôi nấng bởi một người phụ nữ có tên là Hodierna và khi ông lên ngôi vua ông đã ban cho bà ta tiền bạc của mình một cách hào phóng. Người ta không được biết nhiều về giáo dục của Richard. Mặc dù được sinh ra ở Oxford, Richard không nói được tiếng Anh, ông là một người có đào tạo và sáng tác được thơ và biết viết bằng tiếng Limousin (lenga d’òc) và bằng tiếng Pháp. Ông được cho là có ngoại hình khá hấp dẫn với tóc mầu hung đỏ và mắt sáng với một làn da nhợt nhạt. Theo sử gia Clifford Brewer thì ông có chiều cao trên trung bình, khoảng 6 feet 5 inches (1,96 m) nhưng bộ xương của ông đã bị thất lạc từ ít nhất là thời Cách mạng Pháp cho nên không ai biết chính xác chiều cao của ông. Từ khi còn nhỏ ông đã cho thấy khả năng về chính trị và quân sự, tinh thần Hiệp sỹ và lòng can đảm trong chiến đấu được thể hiện trong lúc kiểm soát các quý tộc nổi loạn trong lãnh địa của mình. Henry anh trai của ông đã lên ngôi vua nước Anh trong khi cha của ông vẫn còn sống như là Henry III. Các nhà sử học đã phải đặt tên là Henry “nhà vua trẻ” để không nhầm ông với vua Henry III của Anh sau này, người cũng là cháu trai của ông.
Các cuộc liên minh qua hôn nhân (marriage alliance ) là rất phổ biến ở các Triều đình thời trung cổ: nó cho phép các gia đình ( Đại quý tộc) tuyên bố quyền thừa kế các vùng đất của nhau và tạo ra các liên minh chính trị và các hiệp ước hòa bình. Trong tháng 3 năm 1159 Richard đã được bố trí để kết hôn với một trong các cô con gái của Ramon Berenguer IV, Bá tước của Barcelona, tuy nhiên, thỏa thuận này đã không thành công và cuộc hôn nhân này không bao giờ xảy ra. Henry-anh trai của Richard đã kết hôn với Margaret, con gái của Louis VII của Pháp quốc và là người (Margaret ) thừa kế ngai vàng của Pháp, ngày 02 tháng 11 năm 1160. Mặc dù có liên minh giữa dòng Plantagenet và dòng Capetian-Triều đại đang trị vì nước Pháp, nhưng đôi khi giữa hai nhà vẫn có các cuộc xung đột. Năm 1168, sự can thiệp của Giáo hoàng Alexander III là điều cần thiết để đảm bảo một thỏa thuận ngừng bắn giữa hai Nhà. Henry II đã chinh phục xứ Brittany ( thuộc Pháp ) và kiểm soát vùng Gisors và Vexin, vốn là một phần của hồi môn của Margaret. Đầu những năm 1160 đã có đề xuất cho hôn nhân giữa Richard và Alys (Alice), con gái thứ hai của vua Louis VII; vì sự cạnh tranh giữa các vị vua của nước Anh và Pháp, Louis đã cản trở cuộc hôn nhân. Một hiệp ước hòa bình đã được ký kết trong tháng 1 năm 1169 và cuộc hứa hôn của Richard với Alys đã được chấp nhận. Henry II lên kế hoạch để phân chia vương quốc của mình cho ba con trai của ông vào thời điểm đó, Henry sẽ trở thành vua của nước Anh và có quyền kiểm soát Anjou, Maine và Normandy, trong khi Richard sẽ kế thừa vùng Aquitaine từ mẹ mình và trở thành Bá tước Poitiers , và Geoffrey sẽ nhận được vùng Brittany thông qua hôn nhân liên minh với Constance-người thừa kế vùng này. Tại buổi lễ hứa hôn, Richard đã chấp nhận và tỏ lòng tôn kính nhà vua của nước Pháp và chấp nhận chở thành chư hầu của vua Pháp như là Công tước vùng Aquitaine.
Cuộc nổi loạn chống lại Henry II
Theo Ralph của Coggeshall, vua Henry Trẻ là kẻ xúi giục các cuộc nổi loạn chống lại Henry II; ông muốn cai trị độc lập hơn ít nhất là một phần của lãnh thổ cha ông đã hứa với ông, và để thoát khỏi sự phụ thuộc của ông vào Henry II, người kiểm soát chặt hầu bao của ông. Jean Flori, một sử gia chuyên nghiên cứu về thời trung cổ, tin rằng con trai bà Eleanor thao tác với cuộc nổi dậy chống lại cha mình. Vua Henry trẻ rời bỏ cha mình và chạy vào triều đình Pháp và tìm kiếm sự bảo vệ từ Louis VII, Richard và Geoffrey-các em trai của ông đã sớm bắt trước ông, chỉ có John lúc này mới 5 tuổi vẫn còn với Henry II. Louis đã hỗ trợ cho ba người con trai của Henry II và thậm chí ông còn phong tước hiệp sĩ cho Richard và buộc họ phải trở thành chư hầu. Cuộc nổi loạn này đã được mô tả bởi Jordan Fantosme, một nhà thơ đương đại, như là một “cuộc chiến tranh mà không có tình yêu”.
Ba anh em thực hiện lời tuyên thệ tại triều đình Pháp rằng họ sẽ không đàn phán với Henry II mà không có sự đồng ý của Louis VII và các quý tộc Pháp. Với sự hỗ trợ của Louis, vua Henry Trẻ đã thu hút được sự hỗ trợ của nhiều nhà Đại quý tộc qua những hứa hẹn về đất đai và tiền bạc, một trong những Đại quý tộc là Philip, Bá tước của Flanders, người đã được hứa là sẽ nhận được £ 1.000 và nhiều tòa lâu đài. Ba anh em cũng nhận được sự ủng hộ ở nước Anh-những người sẵn sàng nổi loạn, dẫn đầu là Robert de Beaumont, Bá tước xứ Leicester, Các cuộc nổi loạn ở Anh bắt đầu từ Hugh Bigod, 1 Bá tước Norfolk, Hugh de Kevelioc, Bá tước của Chester và William I của Scotland. Liên minh đã thu được thành công ban đầu nhưng vào tháng 7 năm 1173 họ đã bị bao vây ở Aumale, Neuf-Marche, Verneuil và Hugh de Kevelioc đã bị bắt ở Dol – Anh. Richard đã đi Poitou và thu thập những nhà quý tộc trung thành với ông và mẹ của ông để tiến hành một cuộc nổi loạn chống lại cha mình. Eleanor bị bắt, do đó chính Richard đứng ra chỉ huy chiến dịch của ông chống lại những người ủng hộ Henry II tại vùng Aquitaine của riêng mình. Ông đã hành quân đến La Rochelle, nhưng đã bị phản đối bởi cư dân ở vùng này và phải rút về thành phố Saintes mà ông đã thành lập như là một căn cứ hoạt động.
Trong khi đó, Henry II đã tung ra một đội quân rất đắt tiền của mình gồm hơn 20.000 lính đánh thuê để trấn áp cuộc nổi loạn. Ông đã hành quân về Verneuil và Louis phải rút lực lượng của mình về. Quân đội của Henry hành quân để chiếm lại Dol và tiêu diệt quân phản loạn ở Anh quốc. Tại thời điểm này, Henry II đã đưa ra một đề nghị hòa bình cho các con trai của ông, nhưng theo lời khuyên của Louis nên lời đề nghị này đã bị từ chối. Lực lượng của Henry II đã bất ngờ chiếm Saintes với đội quân đông đảo của ông ta, tuy nhiên Richard đã có thể đào thoát với một nhóm nhỏ các binh sĩ trung thành. Ông đã tìm nơi ẩn nấp ở Château de Taillebourg trong phần còn lại của cuộc chiến. Vua Henry trẻ và các Công tước của Flander lên kế hoạch đổ bộ lên nước Anh để hỗ trợ cuộc nổi dậy của Bá tước Leicester. Biết được kế hoạch này Henry II trở lại Anh với 500 binh sĩ và tù nhân của mình (bao gồm cả Eleanor và các hôn thê cùng vợ của các con trai của ông ), nhưng khi về đến Anh ông mới nhận ra rằng cuộc nổi loạn đã bị sụp đổ. William I của Scotland và Hugh Bigod bị bắt vào ngày 13 và 25 tháng bảy tương ứng. Henry II trở về Pháp, nơi ông đã tiến hành bao vây Rouen, nơi mà Louis VII được sự ủng hộ của vua Henry trẻ sau khi ông đã từ bỏ kế hoạch đổ bộ của mình vào nước Anh. Louis đã bị đánh bại và một hiệp ước hòa bình-Hiệp ước Montlouis được ký kết vào tháng 9 năm 1174.
Khi Henry II và Louis VII đã thực hiện một cuộc ngưng bắn ngày 08 tháng 9 năm 1174, Richard đã bị loại bỏ. Bị bỏ rơi bởi Louis và không thể đối mặt với quân đội của cha mình trong một trận chiến, Richard đã đi đến triều đình của Henry II tại Poitiers, ngày 23 tháng Chín và cầu xin sự tha thứ, khóc lóc và quỳ xuống chân của Henry, người đã trao cho Richard cái hôn của hòa bình ( chính vì vậy mà sau này Richard cũng tha thứ cho John người em trai của mình? ). Vài ngày sau, những người anh em khác của Richard cũng tìm kiếm sự hoà giải với cha của mình. Các điều khoản mà ba anh em nhận được thua xa về mặt rộng rãi so với những gì mà họ đã nhận được trước đó trong cuộc xung đột ( khi trước Richard được giao bốn tòa lâu đài tại Aquitaine và một nửa số thu nhập từ công quốc này) và sau này Richard được trao quyền kiểm soát hai lâu đài ở Pitou và một nửa thu nhập của Aquitaine; vua Henry trẻ được trao hai lâu đài ở Normandy và Geoffrey được phép có một nửa thu nhập từ Brittany. Eleanor sẽ vẫn là tù nhân của Henry II cho đến khi ông này chết, một phần là để kiềm chế hành động của Richard.
Dưới triều đại của Henry II
Khi chiến tranh kết thúc là lúc bắt đầu quá trình bình định các tỉnh đã nổi dậy chống lại Henry II. Ông đi đến vùng Anjou với mục đích này và giao quyền quản lý vùng Britany cho Geoffrey. Trong tháng 1 năm 1175, Richard đã được cử đến Aquitaine để trừng phạt các Đại quý tộc, những người đã chiến đấu vì ông ta. Theo quấn biên niên sử của Roger Howden dưới triều đại Henry II, hầu hết các lâu đài thuộc sở hữu của các phiến quân đã được trả lại cho chính quyền sở tại trong 15 ngày trước khi chiến tranh bùng nổ, trong khi những tòa khác đã bị san bằng. Có ý kiến cho rằng vào thời gian này cho các lâu đài được xây dựng phổ biến là bằng đá và nhiều nhà quý tộc đã mở rộng hoặc tăng cường phòng thủ cho các lâu đài của họ, nên điều này không phải là một nhiệm vụ dễ dàng (bình định các tỉnh nổi dậy ). Gillingham lưu ý rằng quấn biên niên sử của Roger Howden là nguồn chính mô tả các hoạt động của Richard trong giai đoạn này, mặc dù ông lưu ý rằng nó chỉ ghi những chiến dịch thành công và sau chiến dịch này Richard đã có biệt hiệu là “Richard Lionheart”. Một trong những thành công đầu tiên là cuộc vây hãm Castillon-sur-Agen. Tòa lâu đài “nổi tiếng là kiên cố”, nhưng trong một cuộc bao vây hai tháng những người bảo vệ đã bị đánh bại bởi những chiếc tháp công thành của Richard.
Henry dường như không muốn ủy thác cho bất kỳ người con trai nào của mình những nguồn lực có thể sẽ được sử dụng để chống lại ông. Người ta đã nghi ngờ rằng Henry đã chiếm đoạt Công chúa Alys, người mà Richard đã đính hôn, con gái của Louis VII của Pháp làm người vợ thứ hai của mình, hoặc như là tình nhân. Sự kiện này đã làm cho cuộc hôn nhân giữa Richard và Alys về mặt kỹ thuật là không thể trong con mắt của Giáo Hội, Nhưng Henry nói quanh co rằng lâu đài Vexin-của hồi môn của Alys là rất có giá trị. Richard đã không sẵn sàng từ bỏ Alys bởi vì cô này là em gái của vua Philip II của Pháp-một đồng minh thân cận của ông.
Sau thất bại trong việc lật đổ cha mình, Richard tập trung vào việc bình định các cuộc nổi dậy trong nội bộ của các quý tộc Aquitaine, đặc biệt là vùng lãnh thổ Gascony. Sự trấn áp khốc liệt ngày càng gia tăng của ông đã dẫn đến một cuộc nổi dậy chính ở đó năm 1179. Hy vọng sẽ truất quyền của Richard, các phiến quân tìm kiếm sự giúp đỡ của các anh em của ông-Henry và Geoffrey. Bước ngoặt đã xảy ra trong Charente Valley vào mùa xuân năm 1179. Chiếc pháo đài của Taillebourg được bảo vệ tốt và được xem là bất khả xâm phạm. Lâu đài được bao quanh bởi một vách đá trên ba mặt và một thị trấn ở mặt thứ tư với một bức tường ba lớp. Đầu tiên Richard cho phá hủy và cướp phá các trang trại và các vùng đất xung quanh pháo đài, khiến quân phòng thủ không có quân tiếp viện hay đường rút lui. Đơn vị đồn trú trong lâu đài tiến ra ngoài và tấn công Richard, đầu tiên là ông đã đánh bại đội quân và sau đó theo sau lực lượng phòng thủ để vào thành và dễ dàng chiếm tòa lâu đài trong hai ngày. Chiến thắng của Richard tại Taillebourg đã làm nản chí nhiều nhà quý tộc muốn nổi loạn và buộc họ phải tuyên bố trung thành. Chiến dịch này cũng tạo cho Richard danh tiếng là một chỉ huy quân sự có trình độ cao.
Năm 1181-1182, Richard phải đối mặt với một cuộc nổi dậy trong trong hạt Angoulême. Đối thủ của ông đã xin Philip II của Pháp để hỗ trợ và chiến tranh lan rộng qua Limousin và Périgord. Richard bị cáo buộc có nhiều hành động tàn bạo chống lại các kẻ thù của mình, kể cả cưỡng-hiếp. Tuy nhiên, với sự hỗ trợ từ người cha của mình và từ vua Henry Trẻ, Richard đã thành công trong việc đưa bắt các Nam tước Aimar V của Limoges và Elie của Périgord phải quỳ gối.
Sau khi Richard hoàn thành các cuộc chinh phục những nhà nổi loạn của mình, ông một lần nữa thách thức cha mình về ngai vàng nước Anh. Từ năm 1180-1183 sự căng thẳng giữa Henry và Richard ngày càng lớn dần vì như vua Henry đã ra lệnh cho Richard phải thần phục vua Henry Trẻ ( anh trai của Richard) nhưng Richard từ chối. Cuối cùng năm 1183, Vua Henry trẻ và Geoffrey, Công tước xứ Brittany xâm chiếm Aquitaine trong một nỗ lực để bắt Richard quy phục. Các quý tộc của Richard đã về phe của những người này và quay lưng lại với công tước của họ. Tuy nhiên, Richard và quân đội của ông đã có thể giữ chân được đội quân xâm lược và họ hành quyết bất kỳ tù nhân nào mà họ bắt được. Cuộc xung đột đã tạm dừng một cách ngắn ngủi vào tháng 6 năm 1183 khi vua Henry trẻ qua đời. Tuy nhiên, Henry II vẫn tiếp tục cho John-con trai út của ông xâm lược Aquitaine. Sau cái chết của vua Henry Trẻ, Richard đã trở thành con trai cao tuổi nhất và là người thừa kế vương miện nước Anh nhưng ông vẫn tiếp tục chống lại cha mình.
Để củng cố vị trí của mình, năm 1187 Richard liên minh với Philip II-con trai riêng của Louis VII-chồng cũ của Eleanor với Adele của Champagne. Để đổi lấy sự giúp đỡ của Philip để chống lại cha mình, Richard hứa thừa nhận chuyển quyền của mình sang cho ông kia hai tỉnh Normandy và Anjou. Richard đã quy thuận Philip vào tháng 11 cùng năm này. Khi tin tức của Trận Hattin đến tai họ, ông đã nhận chiếc Thập tự trước sự hiện diện của rất nhiều quý tộc Pháp.
Năm 1188 Henry II dự định chuyển quyền thừa kế Aquitaine cho John-con trai út của ông. Năm sau, Richard đã cố gắng để chiếm ngôi vua Anh cho mình bằng cách tham gia liên minh với Philip để chống lại cha mình. Vào ngày 04 tháng 7 1189, lực lượng của Richard và Philip đánh bại quân đội của Henry tại Ballans. Henry với sự đồng ý của John, đã đồng ý để Richard làm người thừa kế của mình. Hai ngày sau, Henry II đã chết tại Chinon và Richard đã thừa kế ông để thành vua của nước Anh, Công tước của Normandy và của Anjou. Nhà sử học Roger Hoveden tuyên bố rằng xác chết của Henry bị chảy máu từ mũi và có sự hiện diện của Richard ở đó, đây là một dấu hiệu cho rằng Richard đã gây ra cái chết của cha ông.
Một vị vua và một Thập tự quân
Bạo lực nhằm vào người Do Thái
Các kế hoạch Thập tự chinh
Richard đã nhận thập giá như là Công tước của Poitou năm 1187. Cha của ông và Philip II cũng đã làm như vậy tại Gisors vào ngày 21 tháng 11 năm 1188, sau khi nhận được tin tức về sự sụp đổ của Jerusalem trước Saladin. Khi trở thành vua, Richard và Philip đã đồng ý để tham gia cuộc Thập tự chinh lần thứ ba cùng với nhau, vì mối lo ngại rằng, trong thời gian người này vắng mặt, người kia có thể chiếm đoạt lãnh thổ của mình.
Richard đã tuyên thệ một lời thề từ bỏ quá khứ tội ác của mình để thể hiện rằng mình xứng đáng để nhận chiếc thập tự. Ông bắt đầu gây dựng và trang bị cho một đội quân thập tự chinh mới. Ông dành phần lớn ngân quỹ của cha mình ( cùng tiền huy động từ thuế thập phân Saladin), tăng thuế và thậm chí đồng ý phóng thích cho vua William I của Scotland khỏi lời tuyên thệ của ông với Richard để đổi lấy 10.000 đồng Mark. Để tăng thêm tiền, ông đã cho bán các chức vụ chính thức, quyền lợi và các vùng đất cho những người quan tâm đến họ. Những người đương chức cũng đã bị buộc phải trả một khoản tiền lớn để giữ được chức vụ của họ. William Longchamp, Giám mục của Ely và Tể tướng của nhà vua đã chiến thắng trong một cuộc bỏ thầu với giá 3.000 £ để vẫn là Tể tướng. Ông này rõ ràng đã bị trả giá cao hơn bởi Reginald của Ytalia nhưng vẫn trúng thầu.
Richard thực hiện một số thỏa thuận cuối cùng tại lục địa. Ông khẳng định sự bổ nhiệm của người cha mình cho William Fitz Ralph vào vị trí quan trọng-quản gia của Normandy. Tại Anjou, Stephen của Tour đã được thay thế và bị tạm giam vì yếu kém trong công tác quản lý tài chính. Payn de Rochefort, một hiệp sĩ vùng Angevin, đã được nâng lên vị trí của Anjou. Tại Poitou, Peter Bertin-cựu thị trưởng của Benon, đã trở thành quản gia và cuối cùng tại Gascony, Helie de La Celle-người đứng đầu ngự lâm quân đã được chọn để làm đại quản gia ở đó. Sau khi tái định vị một phần đội quân của mình, ông ở lại phía sau để bảo vệ tài sản ở Pháp của ông, cuối cùng Richard bắt đầu cuộc thập tự chinh vào mùa hè 1190. (Sự chậm trễ của ông đã bị chỉ trích bởi những người hát rong chẳng hạn như Bertran de Born ) Ông bổ nhiệm Hugh-Giám mục Durham và William de Mandeville, Bá tước thứ 3 của Es*** làm nhiếp chính-ông này lại chết sớm và được thay thế bởi Tể tướng William Longchamp của Richard. John-em trai của Richard đã không cảm thấy hài lòng bởi quyết định này và bắt đầu âm mưu chống lại William.
Richard cho rằng nước Anh là “lạnh và luôn luôn mưa” và khi ông gây quỹ cho cuộc thập tự chinh của mình, người ta đã kể rằng ông đã tuyên bố, “tôi đã có thể bán London nếu tôi có thể tìm thấy một người mua nó ” Tuy nhiên, mặc dù vậy nước Anh lại là một phần quan trọng trong vùng lãnh thổ của ông, đặc biệt quan trọng ở chỗ nó cho ông một danh hiệu hoàng gia nào đó để ông có thể tiếp cận các vị vua khác một cách bằng vai phải lứa-ông cũng không phải đối mặt với vấn đề nội bộ hay các mối đe dọa lớn ở bên ngoài trong thời kỳ trị vì của ông, không giống như các lãnh thổ lục địa và vì vậy không cần thiết phải có sự hiện diện liên tục của ông ở đó. Giống như hầu hết các vị vua các Nhà Plantagenet trước thế kỷ 14, ông không thấy không cần thiết phải học Tiếng Anh. Trao đất nước này vào tay của các quan chức khác nhau, ông đã chỉ định (bao gồm cả mẹ của mình), Richard có nhiều sự quan tâm hơn đến các vùng đất rộng lớn ở Pháp của mình. Cuối cùng sau khi hoàn tất giai đoạn chuẩn bị của mình, ông đã có một đội quân gồm 4.000 binh sỹ vũ trang, 4.000 bộ binh và một hạm đội gồm 100 chiếc tàu.
Chiếm đóng Sicily
Trong tháng 9 năm 1190, Richard và Philip đến Sicily. Sau cái chết của vua William II của Sicily, Tancred của Lecce-người anh em họ của ông ta đã chiếm quyền lực và tự đội vương miện lên đầu làm vua Tancred I của Sicilia vào năm 1190, mặc dù người thừa kế hợp pháp là Constance-dì của William, vợ của Hoàng đế mới Henry VI. Tancred đã giam giữ hoàng hậu Joan-vợ góa của William, cũng là em gái của Richard và đã không đưa cho cô số tiền mà cô phải được thừa hưởng ở William. Khi Richard đến, ông yêu cầu phải thả em gái của ông ra cùng với tài sản thừa kế của cô, cô được trả tự do vào ngày 28 tháng Chín, nhưng không nhận được tiền thừa. Sự hiện diện của quân đội nước ngoài cũng gây ra tình trạng bất ổn: trong tháng 10, người dân Messina nổi loạn, đòi người nước ngoài phải rời đi. Richard tấn công Messina và chiếm thành phố vào ngày 04 tháng 10 năm 1190. Sau khi cướp bóc và đốt cháy thành phố, Richard thành lập căn cứ của ông ở đó, nhưng sự việc này đã tạo ra căng thẳng giữa Richard và Philip Augustus ( vua Pháp ). Ông ở lại đó cho đến khi Tancred cuối cùng đã đồng ý ký một hiệp ước vào ngày 04 tháng ba năm 1191. Hiệp ước này đã được ký bởi Richard, Philip và Tancred. Các điều khoản chính của nó là:
- Joan sẽ nhận được 20.000 ounce vàng như là bồi thường cho tài sản thừa kế của mình, vốn bị chiếm giữ bởi Tancred.
- Richard chính thức tuyên bố cháu trai của mình, Arthur của Anh quốc, con trai của Geoffrey, như là người thừa kế của mình và Tancred hứa sẽ gả một cô con gái của ông cho Arthur khi anh này đến tuổi trưởng thành, 20.000 ounce vàng sẽ được trả về bởi Richard nếu Arthur không kết hôn với con gái của Tancred.
Hai vị vua ở lại ở Sicily trong một thời gian, nhưng việc này dẫn đến sự gia tăng căng thẳng giữa họ và người của họ, đồng thời Philip Augustus âm mưu với Tancred để chống lại Richard. Hai vị vua cuối cùng gặp nhau để xóa bầu không khí căng thẳng và đạt được thỏa thuận, bao gồm việc kết thúc hứa hôn của Richard với Alix-em gái của Philip ( người được cho là người tình của Henry II-cha của Richard).
Cuộc chinh phục Cyprus
Trong tháng 4 năm 1191, Richard với một hạm đội lớn rời Messina để đến Acre. Nhưng một cơn bão làm tan tác hạm đội. Sau khi mất một số thời gian để tìm kiếm, ông đã phát hiện ra rằng chiếc tàu chở em gái và Berengaria-vị hôn thê của mình đã neo trên bờ biển phía nam Cyprus, cùng với các xác của một số tàu đắm khác, bao gồm cả chiếc tàu chở kho báu. Những người sống sót những chiếc tàu đắm đã bị bắt làm tù binh của bạo chúa chúa đảo Isaac Komnenos.
Ngày 01 tháng 5 năm 1191, hạm đội của Richard đến cảng Lemesos (Limassol) ở Cyprus. Ông ra lệnh cho Isaac thả các tù nhân và trả lại kho tàng. Isaac từ chối, do đó Richard đã cho đổ bộ quân của ông xuống Limassol.
Đồng thời các hoàng tử ở vùng Đất Thánh đến Limassol, đặc biệt là Guy của Lusignan. Tất cả đều tuyên bố ủng hộ Richard miễn là ông hỗ trợ Guy chống lại đối thủ của ông này là Conrad của Montferrat.
Bị các quý tộc địa phương bỏ rơi, Isaac cố gắng dàn hòa với Richard và xin cùng tham gia vào cuộc thập tự chinh của ông và và nói rằng con gái của mình (Isaac) cũng kết hôn với một người cũng có tên là Richard. Tuy nhiên, Isaac đã đổi ý và cố gắng trốn thoát. Sau đó Richard tiến hành chinh phục toàn bộ hòn đảo, quân đội của ông được chỉ huy bởi Guy de Lusignan. Isaac đầu hàng và bị xích bằng một sợi dây xích bằng bạc, bởi vì Richard đã hứa rằng ông sẽ không xích ông ta trong dây xích bằng thép. Vào ngày 01 tháng 6, Richard đã chinh phục toàn bộ hòn đảo. Ông ủy quyền cho Richard de Camville và Robert Thornham làm thống đốc. Sau đó ông bán hòn đảo cho các Hiệp sĩ Templar và sau nữa thì nó đã được mua lại trong năm 1192 bởi Guy của Lusignan và trở thành một vương quốc phong kiến ổn định.
Cuộc chinh phục thần tốc của Richard vào hòn đảo là rất quan trọng. Hòn đảo này chiếm một vị trí chiến lược quan trọng trên các tuyến đường hàng hải đến Đất Thánh vì sự chiếm đóng của các Kitô hữu không thể được tiếp tục mà không có sự hỗ trợ từ biển. Síp vẫn là một thành trì của người Kitô giáo cho đến khi xảy ra Trận Lepanto năm 1571. Thành tích của Richard cũng đã được công bố công khai và góp phần làm tăng danh tiếng của ông. Richard cũng thu được lợi ích đáng kể về tài chính từ cuộc chinh phục vào hòn đảo này.
Richard rời đi Acre vào ngày 5 tháng 6 cùng với các đồng minh của mình.
Tại vùng Đất Thánh
Vua Richard đổ bộ xuống Acre vào ngày 08 tháng sáu năm 1191. Ông đã hỗ trợ Guy của Lusignan-chư hầu của ông ở Poitevin, người đã đem quân giúp ông ta tại Síp. Guy là người chồng goá vợ-Sibylla của Jerusalem và đã cố gắng để giữ lại vương quyền của Jerusalem, bất chấp cái chết của vợ ông trong Cuộc vây hãm Acre năm trước. tuyên bố của Guy là thách thức Conrad của Montferrat, chồng củaIsabella-em gái cùng cha khác mẹ của Sibylla: Conrad, người có công phòng thủ Tyre và cứu vương quốc khỏi bị sụp đổ hoàn toàn vào năm 1187, ông này được hỗ trợ bởi Philip của Pháp, con trai của Louis VII của Pháp-người anh họ của ông, và bởi một người anh em họ khác-Công tước Leopold V của Áo. Richard liên minh với Humphrey IV của Toron, Người chồng đầu tiên của Isabella, người mà cô này đã bị buộc phải ly dị vào năm 1190. Humphrey trung thành với Guy và nói thành thạo tiếng Ả Rập, do đó Richard sử dụng ông này như một phiên dịch trong các cuộc đàm phán.Richard và lực lượng của mình hỗ trợ trong việc chiếm Acre bất chấp đang bị ốm nghiêm trọng. Ở một khoảng thời, trong khi đang bị bệnh khó đại tiện ( kết quả của thiếu vitamin C khi hành quân dài ngày trên biển), Richard được cho là vẫn ra bảo vệ các bức tường với một chiếc nỏ trong khi được khênh đi trên một chiếc cáng. Cuối cùng, Conrad của Montferrat đã kết thúc được các cuộc đàm phán đầu hàng với Saladin và hành quân vào thành phố với các lá cờ của các vị vua. Richard cãi nhau với Leopold V của Áo qua vụ việc của Isaac Komnenos (ông này-Isaac Komnenos lại có họ hàng với bà mẹ người Byzantine của Leopold) và vị trí của ông này trong cuộc thập tự chinh. Cờ hiệu của Leopold đã được cắm cùng với các cờ hiệu của vua Anh và vua Pháp. Điều này được hiểu như là sự xúc phạm đến sự kiêu ngạo của cả Richard và Philip, vì Leopold là một chư hầu của Hoàng đế La Mã Thần thánh (Mặc dù ông là chỉ huy cao cấp nhất còn sống sót trong lực lượng của đế quốc La Mã Thánh thần). Người của Richard đã xé lá cờ xuống và ném nó vào trong con hào của Acre. Leopold rời khỏi cuộc thập tự chinh ngay lập tức. Philip cũng rời khỏi đó ngay sau đó vì lý do sức khỏe kém và sau những tranh chấp hơn nữa với Richard về vị thế của Cyprus (Philip yêu cầu sở hữu một nửa hòn đảo) và về vương quyền của Jerusalem. Richard đột nhiên thấy mình không có đồng minh.Richard đã giữ 2.700 tù nhân Hồi giáo làm con tin để ép Saladin phải hoàn tất tất cả các điều khoản của sự đầu hàng của các vùng đất xung quanh Acre. Philip trước khi rời khỏi Acre đã giao các tù nhân của mình cho Conrad, nhưng Richard buộc ông phải bàn giao họ cho anh ta. Richard sợ lực lượng của mình sẽ bị phong tỏa ở trong Acre, vì ông tin rằng chiến dịch của ông không thể tiến triển nếu ông tiếp tục giữ các tù nhân. Vì thế, ông đã ra lệnh hành quyết tất cả các tù binh của mình. Sau đó ông chuyển về phía nam, đánh bại lực lượng của Saladin ở Trận Arsuf vào ngày 07 tháng 9 năm 1191. Ông đã cố gắng thương lượng với Saladin, nhưng cuộc thương lượng này đã không thành công. Trong nửa đầu năm 1192, ông và quân đội của ông đã tăng cường cho Ascalon.Sau một cuộc bầu cử Richard đã buộc phải chấp nhận Conrad của Montferrat làm vua của Jerusalem, và ông đã bán Cyprus cho Guy-người được bảo trợ bị đánh bại của ông. Chỉ vài ngày sau, vào ngày 28 Tháng Tư năm 1192, Conrad bị đâm chết bởi thành viên của tổ chức sát thủ Hashshashin trước khi ông này có thể kịp đăng quang. Tám ngày sau, Henry II của Champagne-cháu trai của Richard đã kết hôn với quả phụ bụa Isabella, mặc dù cô này đang mang bầu với Conrad. Vụ giết người chưa bao giờ được điều tra đến kết luận cuối cùng và Richard bị người đương thời nghi ngờ rằng có sự tham gia của ông vào vụ ám sát này.Biết rằng ông không có hy vọng giữ lại Jerusalem ngay cả khi ông chiếm được nó, Richard đã ra lệnh rút lui. Thời này bắt đầu một giai đoạn của các cuộc xung đột nhỏ với lực lượng của Saladin trong khi Richard và Saladin vẫn đang cố gắng đàm phán để giải quyết cuộc xung đột, khi cả hai nhận ra rằng ở vị trí của họ thì việc tiến lên là không có cơ sở. Richard biết rằng cả Philip và của chính John-em trai của ông đã bắt đầu một âm mưu chống lại ông. Tuy nhiên, Saladin đã khẳng định những thông tin trên rồi đốt trụi các công sự ở Ascalon, những thứ mà người của Richard đã cố công để xây dựng lại, và một vài điểm khác. Richard đã thực hiện một nỗ lực cuối cùng để tăng cường vị thế mặc cả của mình bằng cách cố gắng xâm nhập vào Ai Cập-căn cứ cung cấp chính của Saladin-nhưng không thành công. Cuối cùng, Richard đã không còn thời gian nữa. Ông nhận ra rằng chuyến đi trở về của ông là không thể trì hoãn, vì cả Philip và John đều lợi dụng sự vắng mặt của ông để nổi loạn và xâm hại quyền lợi của ông ởh và Pháp. Ông và Saladin cuối cùng đi đến một sự nhất trí vào ngày 2 tháng 9 năm 1192, thỏa thuận này bao gồm các quy định đòi hỏi chấm dứt phá hủy các bức tường của Ascalon cũng như một thỏa thuận cho phép người Thiên chúa giáo đến Jerusalem. Nó cũng bao gồm một thỏa thuận ngừng bắn ba năm.
Bị giam cầm và trở về AnhThời tiết xấu buộc tàu của Richard phải đi vào Corfu, nơi đây thuộc vùng đất của Hoàng đế Byzantine Isaac II Angelos, người phản đối việc chiếm đảo Síp của Richard-trước đây là lãnh thổ Byzantine. Cải trang là một Knight Templar, Richard khởi hành từ Corfu với bốn người hộ tống, nhưng con tàu của ông lại bị đắm ở gần Aquileia buộc Richard và nhóm của ông phải đi vào một con đường đất nguy hiểm qua trung tâm châu Âu.Trên đường đi đến lãnh thổ của Henry của Saxony-anh rể của ông, Richard đã bị bắt ngay trước Giáng sinh năm 1192, ở gần Vienna bởi Leopold V, Công tước của Áo đã cáo buộc Richard đã dàn sếp cho cái chết của Conrad của Montferrat-anh em họ của ông ta. Ngoài ra, Richard đã xúc phạm cá nhân Leopold bằng cách cho vứt các lá cờ của ông từ các bức tường của Acre xuống đất. Richard và thuộc hạ của ông đã cải trang như là những khách hành hương nghèo, nhưng ông đã bị nhận dạng hoặc là vì ông đã đeo một chiếc nhẫn đắt tiền, hoặc nhấn mạnh về việc ông đã ăn món gà nướng, một món ăn quý tộc.Công tước Leopold giam giữ tù nhân của ông tại Dürnstein Castle. Những rủi ro của ông đã sớm được thông báo tới nước Anh, nhưng trong một vài tuần các quan nhiếp chính đã không biết chắc chắn về nơi ông bị giam giữ. Khi ở trong tù, Richard đã viết lá thư Ja nus hons pris hoặc Ja nuls om pres, và gửi đến Marie de Champagne-người chị cùng mẹ khác cha của mình. Ông đã viết các bài thơ bằng tiếng Pháp và Occitan, để thể hiện cảm xúc khi bị bỏ rơi bởi người dân và em gái của mình. Việc tạm giam quân thập tự là trái với luật pháp và căn cứ vào điều này Giáo hoàng Celestine III đã rút phép thông công của Công tước Leopold.Ngày 28 tháng 3 năm 1193, Richard đã được đưa đến Speyer và bàn giao cho Henry VI, Đức Thánh Hoàng đế La Mã, vị Hoàng đế này đã bị bực mình bởi các hỗ trợ mà dòng Plantagenets đã trao cho gia đình của Henry the Lion và việc Richard công nhận Tancred ở Sicily và người bị ông ta giam giữ ở Trifels Castle. Henry VI cần tiền để nuôi một đội quân và khẳng định quyền của ông đối với miền nam Ý, tiếp tục giam giữ Richard để đòi tiền chuộc. Để đáp lại Đức Giáo Hoàng Celestine III đã rút phép thông công Henry VI như ông đã làm đối với Leopold vì đã bỏ tù Richard một cách trái pháp luật.Richard đã phản đối việc rút phép thông công của Giáo Hoàng và bầy tỏ sự tôn kính với hoàng đế và tuyên bố với ông, “Tôi sinh ra từ một đẳng cấp mà Thiên Chúa đã không công nhận là có khả năng siêu thường – I am born of a rank which recognizes no superior but God “. Mặc dù vẫn có khiếu nại của ông như các điều kiện giam cầm là không khắc nghiệt.Hoàng để yêu cầu trả 150.000 Mark (65.000 £ bạc) trước khi ông phóng thích nhà vua, đây là khoản tiền đúng bằng số tiền huy động từ khoản thuế thập phân Saladin chỉ mới một vài năm trước và tương đương 2-3 lần thu nhập hàng năm của Vương quốc Anh dưới thời Richard. Eleanor của Aquitaine tìm cách để thu thập tiền chuộc. Cả giáo sĩ và giáo dân bị đánh thuế một phần tư giá trị tài sản của họ, các kho vàng bạc của các giáo hội bị tịch thu, và tiền đã được huy động từ thuế bất động sản và tiền triều cống. Cùng lúc đó, John-em trai của Richard và vua Philip của Pháp đã gửi 80.000 Mark cho Hoàng để tiếp tục giam giữ Richard cho đến Michaelmas ( ngày thánh Michael ) năm 1194. Nhưng Hoàng đế đã từ chối nhận khoản tiền này. Số tiền để giải cứu nhà vua đã được chuyển đến Đức bởi đại sứ của hoàng đế và cuối cùng vào ngày 04 tháng Hai năm 1194 Richard được phóng thích. Philip đã gửi một tin nhắn đến John: “Hãy tự chăm sóc bản thân, ma quỷ sắp xuất hiện”.
Vụ việc đã có một ảnh hưởng lâu dài đến nước Áo, do việc một phần số tiền từ khoản tiền chuộc của vua Richard đã được sử dụng bởi Công tước Leopold V để tài trợ cho việc thành lập một thành phố mới-Wiener Neustadt trong năm 1194 và thành phố đã có một vai trò quan trọng trong nhiều thời kỳ khác nhau của lịch sử nước Áo thậm chí cho đến nay.
Những năm sau đó và cái chết
Trong lúc Richard vắng mặt, John-em trai của ông đã nổi loạn với sự trợ giúp của Philip; thành quả của cuộc chinh phục của Philip trong thời gian Richard bị cầm tù là vùng Normandy. Richard đã tha thứ cho John khi họ gặp nhau, đây có thể là sự cần thiết về mặt chính trị và đặt ông này làm người thừa kế của ông thay thế cho Arthur vì ông này có mẹ là Constance của Brittany và có lẽ bà này đã ngả về phía Philip II.
Richard bắt đầu cuộc tái chiếm Normandy của ông. Sự sụp đổ của lâu đài Château de Gisors trước các cuộc tấn công của người Pháp trong năm 1196 đã tạo ra một khe hở trong hệ thống phòng thủ Normandy. Công cuộc tìm kiếm một địa điểm để xây dựng một lâu đài mới để bảo vệ Công quốc Normandy và hoạt động như một căn cứ mà từ đó Richard có thể khởi động chiến dịch của mình để chiếm lại Vexin từ tay người Pháp đã bắt đầu. Một vị trí phòng thủ tự nhiên đã được xác định ở thượng nguồn sông Seine, một tuyến đường vận tải quan trọng trong lanh địa Andeli. Theo các điều khoản của thỏa ước Hòa bình Louviers (tháng 12 năm 1195) giữa Richard và Philip II, không nhà vua nào được phép củng cố vị trí này, bất chấp quy định này Richard dự định xây dựng Chateau Gaillard thành một tòa lâu đài lớn. Richard đã cố gắng để chiếm được thái ấp này thông qua đàm phán. Walter de Coutances, Tổng-giám-mục của Rouen đã không muốn bán thái ấp này vì nó đang là một trong những giáo phận tạo nhiều lợi nhuận nhất và các vùng đất khác thuộc giáo phận ở gần đó đã bị hư hại bởi chiến tranh. Khi Philip bao vây Aumale ở Normandy, Richard đã quá mệt mỏi vì chờ đợi và quyết định thu giữ trang viện, mặc dù hành vi đó đã bị phản đối bởi Giáo Hội. Walter de Coutances đã ban hành một mệnh lệnh chống lại công quốc Normandy, lệnh này cấm không cho tiến hành các nghi lễ nhà thờ trong khu vực này. Roger Howden chi tiết “những xác người chết không được chôn cất đang nằm trên các đường phố và quảng trường của các thành phố của Normandy”. Công cuộc xây dựng được bắt đầu với lệnh cấm treo lơ lửng ở Normandy nhưng sau đó đã được bãi bỏ vào tháng 4 năm 1197 bởi Giáo hoàng Celestine III, sau khi Richard tặng quà cho Walter de Coutances và giáo phận của Rouen, bao gồm hai thái ấp và chiếc cảng Dieppe vốn rất thịnh vượng.
Trong thời gian trị vì của Richard, chi tiêu của hoàng gia cho các tòa lâu đài giảm xuống tương ứng với các mức chi tiêu của thời Henry II-cha của Richard. Bởi vì quy định phải tập trung các nguồn lực cho chiến tranh của Richard với nhà vua của nước Pháp. Tuy nhiên, công việc xây dựng tại lâu đài Château Gaillard là một trong số những công trình tốn kém về cả tiền bạc lẫn thời gian và chi phí ước tính lên đến khoảng từ £ 15.000 đến £ 20.000 giữa những năm 1196 và 1198. Chi phí này nhiều hơn gấp đôi chi tiêu của Richard cho một lâu đài ở Anh, ước tính chỉ khoảng £ 7.000. Tốc độ xây dựng là chưa từng có, các phần chủ yếu của lâu đài đã được hoàn thành chỉ trong hai năm, trong khi hầu hết các công trình xây dựng có quy mô như vậy phải tốn ít nhất là một thập kỷ. Theo William của Newburgh, trong tháng 5 năm 1198 Richard và những người lao động làm việc trên tòa lâu đài đã bị ướt đẫm trong một “cơn mưa máu”. Trong khi một số cố vấn của ông nghĩ rằng mưa máu là một điềm xấu, Richard đã không nản lòng.
Quyết tâm chống lại kế hoạch của Philip vào các vùng đất tranh chấp ở Angevin như Vexin và Berry, Richard đã sử dụng tất cả sự tinh thông về quân sự và nguồn tài nguyên rộng lớn của ông vào cuộc chiến với vua Pháp. Ông xây dựng một liên minh chống lại Philip, bao gồm cả Baldwin IX của Flanders, Renaud-Bá tước của Boulogne và vua Sancho VI của Navarre-cha vợ của ông, người đã đột kích các vùng đất của Philip từ phía nam. Quan trọng nhất là ông đã bảo đảm quyền thừa kế vùng Welf ở Saxony cho đứa cháu trai của mình, Otto của Poitou-con trai của Henry the Lion, người được bầu làm vua Otto IV của Đức trong năm 1198.
Như một phần kết quả từ âm mưu này là Richard giành nhiều chiến thắng hơn Philip. Tại Freteval trong năm 1194, chỉ sau khi Richard trở lại từ nơi bị giam giữ quay về Anh rồi sang Pháp, Philip đã bỏ chạy và bỏ lại toàn bộ kho tài liệu lưu trữ và các văn bản về tài chính … của ông, chúng đã bị chiếm được bởi Richard. Ở trận Gisors (Đôi khi còn gọi là Courcelles) năm 1198 Richard đã dùng câu “Dieu et mon Droit” – “Thiên Chúa và Quyền của tôi”-như là phương châm của ông (câu này vẫn còn được sử dụng bởi chế độ quân chủ Anh ngày nay), thậm chí danh tiếng của ông vang vọng đến mức Hoàng đế Henry của Đế quốc La Mã Thánh thần cũng phải thừa nhận rằng trên ông ta chỉ có Đức Chúa Trời (echoing his earlier boast to the Emperor Henry that his rank acknowledged no superior but God).
Trong tháng 3 năm 1199, Richard đến Limousin để đàn áp cuộc nổi dậy của Nam tước Aimar V của Limoges. Mặc dù lúc này đang là mùa chay, Ông đã “tàn phá vùng đất của Nam tước với lửa và kiếm”. Ông ta tiến hành bao vây tòa lâu đài Chalus-Chabrol nhỏ bé và hầu như không được vũ trang. Một số nhà sử gia cho rằng có sự kiện này là do một nông dân địa phương đã phát hiện ra một kho vàng từ thời La Mã, và Richard tuyên bố từ lâu đài của ông rằng vàng ở Aimar là sở hữu của mình vì ông là một lãnh chúa phong kiến.
Trong khoảng thời gian đầu của buổi tối ngày 25 tháng ba năm 1199, Richard đã đi bộ xung quanh chu vi lâu đài mà không mặc áo giáp lưới của mình, để quan sát tình hình binh bị trên các bức tường của lâu đài. Tên lửa thỉnh thoảng được bắn ra từ các bức tường của tòa lâu đài nhưng ông không quan tâm đến chúng. Một binh sỹ phòng thủ đặc biệt quan tâm đến nhà vua-đó là một người đàn ông đứng trên tường thành, một tay cầm cây nỏ và tay kia giữ chặt một chiếc chảo mà anh ta đã sử dụng suốt cả ngày như là một chiếc lá chắn để chặn những phát tên lửa được bắn lên bởi quân tấn công. Anh ta cố nhằm bắn vào nhà vua và được ông ta vỗ tay khen ngợi ( tất nhiên là phát bắn bị trượt) tuy nhiên, sau đó một cung thủ bắn nỏ đã bắn trúng nhà vua ở vai trái gần cổ. Ông đã cố gắng để kéo mũi tên ra trong căn lều riêng của mình nhưng đã không thành công, một bác sĩ phẫu thuật, được gọi là “đồ tể” của Hoveden, đã gỡ bỏ được nó ra và vô tình hỏng cánh tay của nhà vua trong quá trình phẫu thuật. Vết thương nhanh chóng trở nên bị hoại thư. Sau đó, Richard yêu cầu được gặp tay cung thủ đã bắn hạ ông trước đó và theo các sử gia ông cũng cho gọi Peter Basile, John Sabroz, Dudo và Bertrand de Gurdon (từ thị trấn Gourdon), tay cung thủ hóa ra lại chỉ là một cậu bé (theo một số nguồn tin, nhưng không phải tất cả). Cậu bé này nói rằng Richard đã giết cha của cậu bé và hai anh em của nó và rằng nó muốn giết chết Richard để trả thù. Cậu bé đã tưởng rằng mình sẽ bị hành quyết nhưng Richard như một hành động cuối cùng của lòng thương xót, đã tha thứ cho cậu bé và nói rằng, “Hãy sống và tận hưởng ánh sáng ban ngày,” trước khi ra lệnh phóng thích cậu bé và cho cậu ta 100 đồng shilling. Sau đó Richard cho John-em trai ông thừa kế tất cả các vùng lãnh thổ của mình và để đồ trang sức của lại cho cháu trai Otto.
Richard qua đời vào ngày 06 tháng 4 năm 1199 trong vòng tay của mẹ ông, sau đó mọi người nói rằng “Khi ngày kết thúc, ông cũng kết thúc những ngày của ông ở trên trần thế.” Cái chết của ông sau này được gọi là con sư tử đã bị kiến giết. Theo một nhà chép sử, hành động của tinh thần thượng võ cuối cùng của Richard đã không có kết quả, trong một thời kỳ của sự tàn bạo ở thời trung cổ, viên đội trưởng Mercadier-người nổi tiếng ham lợi đã lột sạch tiền của tay cung thủ rồi treo cổ cậu bé ngay sau khi Richard qua đời.
Trái tim của Richard đã được chôn cất tại Rouen ở Normandy, trong trung tâm của Châlus (Nơi ông qua đời) và phần còn lại của cơ thể của ông được chôn cất ở gần mộ của cha ông ở tại Fontevraud Abbey ở Anjou.
Di sản
Richard để lại một dấu ấn không thể xóa nhòa trong trí tưởng tượng của người dân nước Anh thậm chí cho đến ngày nay, phần lớn là do khả năng về quân sự của ông. Điều này được phản ánh trong phán quyết cuối cùng về Richard I của Steven Runciman: “Ông là một đứa con xấu, một người chồng xấu và một vị vua xấu, nhưng là một người lính hào hiệp và lộng lẫy.”(quấn “Lịch sử của các cuộc thập tự chinh” Vol. III)
Trong khi còn sống, ông thường bị chỉ trích bởi các nhà sử gia (và các giáo sĩ) vì đã đánh thuế cả các giáo sĩ để có tiền chi trả cho cuộc Thập tự chinh và để có tiền chuộc bản thân mình, trong khi thường là nhà thờ và các giáo sĩ được miễn các loại thuế.
Richard không có người thừa kế hợp pháp và chỉ công nhận có một người con trai ngoài giá thú, Philip của Cognac. Kết quả là, ông đã được thừa kế bởi John-anh trai của ông làm vua của nước Anh. Tuy nhiên, vùng lãnh thổ ở Pháp của ông ban đầu đã từ chối công nhận John làm người kế nhiệm và họ muốn Arthur của Anh-cháu trai của ông, con trai của Geoffrey làm người thừa kế chứ không phải là John. Đặc biệt, việc không có bất kỳ người thừa kế trực tiếp từ Richard là bước đầu tiên của sự tan rã của Đế quốc Angevin ( và vùng này sau này đã được sát nhập vào nước Pháp). Trong khi vị vua của nước Anh tiếp tục tuyên bố sở hữu các tài sản trên lục địa châu Âu, nhưng họ không bao giờ một lần nữa kiểm soát được các vùng lãnh thổ Richard I đã thừa hưởng. ( cuộc chiến tranh Trăm năm cũng bắt nguồn từ việc Anh và Pháp tranh chấp các vùng lãnh thổ Anjou, Normandy, Aquitanie … những vùng đất thuộc sở hữu của Richard tại nước Pháp)