Kể chuyện lịch sử hoàng gia Anh Quốc

kate-william

Pha Lê

Nhân dịp hoàng gia Anh đón mừng công nương Kate sinh hạ hoàng tử, nghiencuulichsu xin giới thiệu bài viết của tác giả Pha Lê về lịch sử hoàng gia Anh quốc với văn phong dí dỏm, dễ hiểu, lôi cuốn nhưng cũng chứa nhiều thông tin bổ ích.

Kate vừa sinh hạ một hoàng tử, khiến báo chí các nước  um hết cả lên. Nếu mọi thứ diễn ra suôn sẻ, cậu bé sẽ trở thành người kế vị tương lai của nước Anh (sau bố và ông). Nếu chỉ có thế mà thiên hạ xuýt với xoa thì quá chán! Lịch sử của Hoàng Gia Anh có nhiều điều vô cùng thú vị; nhân dịp Kate sinh hạ hoàng tử, xin “chộp ngay cơ hội” để viết loạt bài về lịch sử Hoàng Gia Anh – một đề tài tôi khoái từ rất lâu nhưng chưa có “cớ” để làm.

Những bài thế này sẽ không dài dòng, chứ dài là đọc rất buồn ngủ. Tuy nhiên, học ít nhưng vẫn phải học đến nơi đến chốn; muốn biết một cách tương đối tường tận về Hoàng Gia Anh là chúng ta phải thăm dò thời kỳ “trước khi có vua” một chút: ông vua đầu tiên (của cái nơi sau này thành Anh quốc) là ai? Vì sao có vua? Vua từ đâu chui ra?

Xin cám ơn một ông Bê Đê

Đùa thế thôi cho nó giật gân đúng mốt, chứ ông này tên viết đúng là Bede, sống vào khoảng 673-735 năm sau Công Nguyên. Ông là một thầy tu, và là một dịch giả rất giỏi; Bede yêu lịch sử nên cất công sưu tầm, dịch thuật, ghi chép các sự kiện xưa của nước Anh, rồi soạn ra nhiều sách sử vô cùng giá trị. Xứ sương mù gọi ông là “Cha đẻ của lịch sử Anh Quốc”. Thời của Bede, nước Anh rất loạn, người nào cũng lo giữ đầu nên chẳng ai chịu ghi chép gì; nếu không có ông là chúng ta sẽ mù tịt về những gì diễn ra ở Anh vào thời xa xưa. Ông cũng là người dùng hệ thống thời gian BC (Before Christ – trước Công Nguyên), và AD (Anno Domini – Công Nguyên, dịch chính xác là “Năm của Chúa”); các sử gia (lẫn dân chúng) về sau cũng dùng cách chia thời gian giống Bede, nên phải cảm ơn ông Bede cái đã.

Thế Bede viết gì?

La Mã, Anglo-Saxon, và vị vua đầu tiên của Anh

Lúc ăn lông ở lỗ, nước Anh cũng trải qua thời kỳ đồ đá, đồ đồng, đồ sắt… như mọi quốc gia khác; thời kỳ này chẳng có gì đặc biệt, trừ chuyện dân Anh bắt đầu xây stonehenge vào năm 3100 trước Công Nguyên, còn lại thì cuộc sống nói chung là bình bình.

Đến năm 650 BC, tộc người Celts (Celtic) kéo đến lãnh thổ nước Anh, và phát triển văn hóa Celts. Nhưng cuộc sống vẫn còn theo kiểu bộ lạc, bầy đàn, chưa có vua theo nghĩa của từ vua. Chủ yếu chỉ có “vua” theo kiểu thủ lĩnh bộ lạc, mỗi bộ lạc cai trị rải rác trên nước Anh.

Năm 55 trước Công Nguyên, đế chế La Mã bắt đầu dòm ngó Anh. Đối với họ, vùng đất này thật giàu có với nhiều quặng vàng, sắt, và đồng; mà chủ của xứ này lại là một đám mọi rợ (La Mã chỉ xem người dân La Mã là người văn minh, ai không phải La Mã đều là mọi rợ). Từ 55 BC đến 43 AD, đế chế của các Caesar đã chiếm trọn nước Anh, rồi đặt tên “Britannia” cho thuộc địa mới. Ngày hôm nay, Britain (Anh Quốc) là tên chính thức của xứ sương mù.

Nhưng người La Mã chiếm đất xong cũng chẳng thích cai trị gì nhiều (quản lý mệt chết), mà chỉ muốn… thu thuế và xây dựng. Thăm dò địa hình, người La Mã phát hiện rằng Britannia có một vùng rất thuận lợi để phát triển buôn bán, vì nơi đây có con sông vô cùng lớn chảy qua. Đó chính là sông Thames, dân La Mã bắt đầu gầy dựng thành phố mới tại đây, và đặt tên “Londinium” cho thành phố. London chính thức chào đời.

Ngoài việc phổ biến luật lệ (truyền từ thời Hy Lạp) cho “đám mọi rợ”, người La Mã còn chỉ họ cách trồng rau, nhập giống rau, xây dựng hệ thống đường bộ, xây nhà tắm nước nóng công cộng (từ đó xây luôn hệ thống ống dẫn nước; giống dân Hy Lạp, dân La Mã chuộng sự sạch sẽ) và xây… toilet.  Họ không giết (hết) các vị vua của mấy bộ tộc Celts, mà cứ để cho các ông cai trị như cũ, rồi thu thuế (dĩ nhiên cũng có tí đánh nhau nọ kia, nhưng thôi kể ra nó dài dòng lẻ tẻ, đọc mệt lắm).

 Đến năm 400 AD, đế chế La Mã bắt đầu tịt ngòi, vì thiếu nhân lực để chém giết ở nơi khác nên họ rút toàn bô quân lẫn người từ Anh về quê hương, chấm dứt nền cai trị ở Britannia. Nước Anh hứng chịu một thời kỳ bạo loạn kéo dài khoảng 200 năm, khi các ông vua, các bộ lạc xâu xé lẫn nhau giành chủ quyền, để rồi tộc người Anglo-Saxon của xứ Scandinavia chiếm thế thượng phong vào khoảng năm 600. Năm 757, vị vua đương nhiệm của Anglo-Saxon tên Offa chiếm gần hết lãnh thổ nước Anh, đẩy người Celts về phía Tây.

Có thể xem Offa như vị vua đầu tiên của xứ sương mù, và vùng đất ông ép dân Celts di cư tới trở thành xứ Wales.

Tuy người La Mã có công đặt tên cho nước Anh và thành phố London, các thị trấn/thành phố nhỏ ở Anh là do người Anglo-Saxon đặt tên. Nếu đuôi của thị trấn có những chữ như: ton, wick, worth, bridge, den, ham… thì đó là vùng do người Anglo đặt tên (ví dụ: Luton, Buckingham, Birmingham, Epworth, Alnwick…)

Bốn vị thần của Anglo-Saxon: Tiw, Woden, Thor, và Friya, trở thành 4 ngày trong tuần của tiếng Anh: Tuesday (thứ 3), Wednesday (thứ 4), Thursday (thứ 5) và Friday (thứ 6).

Vậy là nước Anh bắt đầu có chủ rồi, nhưng từ ông Offa (triều đại Anglo-Saxon) đến bà Nữ hoàng Elizabeth đệ Nhị (Nhà Windsor của Vương quốc Liên hiệp Anh) còn xa lắm, hẹn mọi người vào kỳ sau.

Offa trở thành vị vua Anglo Saxon đầu tiên của xứ sương mù; đến năm 796, Offa qua đời, sau đấy thì sao?

Offa có một cậu con trai tên Egfrith, nhưng cậu này ốm yếu thế nào đó mà thay cha làm vua được 5 tháng là lăn đùng ra chết. Của đáng tội, thời còn sống thì vua Offa vì sợ họ hàng giành ngôi với thằng con, nên giết hết đám họ hàng gần, đến khi Egfrith qua đời thì dòng họ nhà Offa chẳng còn ma nào. Ngai vàng lọt vào tay của một gã bá vơ thuộc họ bà con xa lắc của Offa.

Tuy nhiên, họ hàng xa của Offa chẳng phải Offa, nước Anh một lần nữa rơi vào tình cảnh “loạn chủ”, lãnh chúa của các vùng không ai nghe lời ai, thi nhau giành giật chức vua. Từ năm 796 đến năm 871, xứ sương mù có đến hơn 30 ông vua, mỗi ông ‘chấm mút’ được vài năm (giỏi lắm là cỡ chục năm) thì sẽ bị ông khác cướp ngôi rồi chấm mút tiếp.

 Trong tình cảnh đất nước nhiều vua đâm loạn, nước Anh yếu thế và trở thành miếng mồi ngon cho các thành phần bất hảo, đặc biệt là người Vikings khét tiếng hung hăng. Thời còn Offa, người Vikings chỉ dám mò đến bờ biển Anh và cướp chút đỉnh, nhưng đến thời loạn xạ này thì dân Vikings liên tục kéo thuyền tới cướp bóc, hãm hiếp con gái nhà lành. Vào những năm 850, người Vikings bắt đầu dấn sâu vô đất liền, và năm 865 thì họ phát động chiến dịch “tổng tấn công” Anh Quốc.

Các ông vua chấm mút gặp Vikings là cụp đuôi, đánh trả mấy cũng không xi nhê. Lúc đó, một vị vua (nói đúng hơn là lãnh chúa của xứ Wessex, cũng là cháu chắt của một ông vua quèn trên), tên Alfred, thấy bực bội, quyết định cầm quân xông trận. Alfed đẩy toàn bộ quân Vikings về phía Đông, giành lại gần hết lãnh thổ nước Anh.

Alfred vừa giỏi vừa anh minh nên được người đời gọi là Alfred the Great (Alfred vĩ đại). Ông lên làm vua, chấm dứt thời kỳ trăm vua không được bát nước xáo. Ông bắt người Vikings ký hiệp ước, trong đó quy định rằng dân Vikings chỉ được quản lý một phần của bờ biển phía Đông. Chưa hết, biết người Vikings rất giỏi đóng thuyền, đi biển, nên Alfred tiện thể bảo dân chúng học lóm, sau đó ông kết hợp kỹ thuật đóng thuyền của dân Vikings với mô hình tàu chiến của người La Mã, Hy Lạp, cải tiến nên một loại tàu gọn gàng hơn, mạnh mẽ hơn cho hạm đội Anh. Về sau, nước Anh liên tục thắng thế trong các trận thủy chiến nổi tiếng, và hải quân Anh trở thành một đội quân mạnh hùng hậu; tất cả là nhờ họ đã học lóm người Vikings. 

Nhưng cũng vì Alfred, mà người Anh và người Pháp bắt đầu ghét nhau như chó với mèo.

Vì sao vậy? Vì ban đầu, dân Vikings đánh chiếm Anh quá dễ dàng, ông vua nào của xứ sương mù lúc ấy cũng kém cỏi, nên đám Vikings cứ tha hồ cướp giết hiếp. Đến lúc Alfred đánh trả, lên ngôi vua, dân Vikings bỗng dưng mất gần hết một nguồn lợi nhuận dồi dào.

Đối với dân Vikings, chỉ quản lý một vùng biển phía Đông của Anh là chưa đủ. Thiếu tiền, họ quyết định giương buồm xuống phía Nam, và tại đây, họ phát hiện ra rằng nước Pháp dễ ăn hơn thật. Họ nhanh chóng cắm trại ở bờ biển Pháp và từ đó tủa ra đi cướp bóc, những khu trại này liên tục lan rộng – chẳng khác gì một dạng ‘nhà nghỉ có hệ thống’ của người Vikings.

Người Vikings nhanh chóng chiếm được một vùng lớn của Pháp. Vì là dân phương bắc, nói tiếng Old Norse, và được người đời gọi là Norsemen, nên họ đặt tên cho vùng mình chiếm được ở Pháp là Normandy (có nghĩa: Đất nước của người Norse).

Trong một thời gian khá dài, Normandy không thuộc Pháp, và Công tước của Normandy (tách khỏi vua Vikings để đến Pháp cai trị) chả ưa gì vua Pháp. Biết rằng cái đám du thủ du thực này là do ông Alfred của tụi Ăng-Lê đẩy qua, vua Pháp đem lòng hậm hực với vua Anh từ đó.

sau khi Alfred qua đời, nước Anh sẽ ra sao?

May mắn cho Alfred là con cái của ông đều là người giỏi giang, cậu con trai cả Edward lên nối ngôi vua, ông con này cũng học rộng hiểu nhiều, và do ông làm trưởng nam, nên người đời gọi ông với biệt danh “Cậu cả Edward” (Edward the Elder).

Việc đầu tiên Edward làm là chiếm thêm đất của dân Vikings ở bờ biển phía đông. Đây là phần đất nhỏ mà vua cha Alfred đã ký hiệp ước cho người Vikings sử dụng, nhưng hiệp ước của những năm 800s này vốn dĩ rất tạm bợ. Lúc Edward lên ngôi vua thì ông đi lấy lại đất, nói chung là “tui mạnh tui có quyền”.

Cậu cả này cũng may mắn có rất nhiều con gái, dĩ nhiên con trai thì ông cũng có một mớ, nhưng con gái lại đặc biệt nhiều, tới hơn… 10 đứa. Tiện thể, ông gả một số công chúa cho các quý tộc của những vùng lớn ở Anh, đất nước từ đó khá yên ấm, không ai đứng lên nổi loạn hay giành ngôi cả. Nói chung lời than phiền về Edward thì chẳng có nhiều, phải mỗi tội là ông không mộ đạo, vào thời đấy thì tội này hơi nghiêm trọng tí, nên Edward hay bị các nhà thờ mắng (nhưng đến giờ vua Anh vẫn vậy, chủ yếu là cúng vái lấy lệ).

Đến lúc Edward I qua đời, thì con trai thứ của ông là Æthelstan (cứ viết thành Athelstan cho nó dễ nhìn) nối ngôi (con cả chết sau Edward độ mươi ngày, thế là hỏng ăn). Athelstan thích chiến tranh hơn bố, và mộ đạo hơn, ông thường cho rằng chiến thắng của mình trên mặt trận là do Chúa ban. Ông vác quân đi đánh vua Olaf của Ireland và vua Constantine II của Scotland, rồi đánh tiếp xứ Wales (của dân Celtic). Athelstan thắng, và trở thành vị vua đầu tiên của một nước Anh như nước Anh chúng ta biết ngày nay (tức toàn lãnh thổ Anh, với  Wales, Scotland, và Ireland làm “thuộc địa”).

 Đánh thắng rồi nhưng vẫn phải cai trị cho ra hồn mới giữ được lãnh thổ. Athelstan giống ông ngoại, thích ban hành luật lệ nên lãnh đạo rất nghiêm. Và cũng học từ bố, Athelstan hiểu rằng đem gả công chúa cho các ông vua/lãnh chúa khác là điều có lợi. Sẵn tiện Athelstan còn rất nhiều chị em gái (mà bố chưa gả đi hết kịp), ông bắt từng người đi lấy chồng. 

Nhưng vào cái thời chưa có bệnh viện sạch vi khuẩn, Athelstan làm vua được hơn chục năm là băng hà. Trong lúc hấp hối thì ông giao ngai cho người em mình quý nhất: Edmund, tức vua Edmund I (vì sau này có Edmund II nên Edmund đầu tiên thành Edmund I. Nếu trong tương lai nước Anh có thêm một Athelstan nữa thì Athelstan cổ sẽ là Athelstan I; nhưng chắc sẽ không có ông nào nữa đâu, tên gì khó đọc chết).

Đánh hơi thấy vua Anh đang “chuyển giao công nghệ”, vua Ireland, vua Scot… chộp thời cơ để vùng lên giành độc lập. Nhưng Edmund I từng tham gia đánh trận với ông anh, nên chẳng phải tay mơ; Scotland và Ireland tiếp tục phải làm thuộc địa, và hoàn toàn công nhận Edmund như thủ lĩnh của mình vào năm 944. Vì là một nhà lãnh đạo quân sự giỏi nên người đời gọi Edmund là “Edmund cừ khôi” (Edmund the Magnificent).

Nhưng lãnh đạo quân sự giỏi thường hay có nhiều kẻ thù. Đánh nhau xong, thay vì ngồi nhà đọc luật như tiền bối, Edmund I lại thích tự mình đi lùng bắt du thủ du thực, và bị một gã tên Liofa thù dai. Ngày nọ, Liofa lẻn vô nhà thờ lúc Edmund I đang làm lễ mét, và ám sát vua nước Anh.

Sau Edmund I, nước Anh bắt đầu có dấu hiệu đi xuống. Nói chung là còn lắm thăng trầm rồi Hoàng gia mới có được nữ hoàng Elizabeth như hôm nay.

Sau khi Vua Edmund I “cừ khôi” bị ám sát, xứ sương mù ra sao?

Anh em: con cái của Edmund lần lượt nối ngôi. Đầu tiên là vua Edred (em trai Edmund) rồi tới vua Edwyn (con
trai Edmund); hai ông này chả có gì đặc biệt lắm. Điều đáng kể duy nhất là Edwyn – giống với đa số vua Anh – 
làm Giáo hội phát khùng vì ông lén cưới con gái của bà mẹ kế (bất chấp sự phản đối của nhà thờ). Edwyn chết
trẻ, và em trai của ông – vua Edgar – lên thay anh.

Edgar, nói cho công bằng, cũng không đặc biệt lắm nếu xét về trí tuệ hay tài cầm quân, nhưng Edgar có công xoa dịu mối rạn nứt giữa Giáo hội và vua Anh (“di chứng” từ thời Edwyn), ông cũng là người “viết công thức” cho Lễ Đăng quang của Vua và Nữ hoàng Anh sau này.

Trước thời Edgar, vua Anh khi lên ngôi chỉ tuyên hệ rồi ngồi chờ nhà thờ phong chức phong tước, nhìn chung thì không “hoành tráng”. Edgar nghĩ ra cái lệ “đội vương miện”, cầm trịch cầm trượng này kia. Về sau, Vua lẫn Nữ hoàng Anh khi đăng quang sẽ vào nhà thờ, Tổng giám mục sẽ đội vương miện cho Vua/Nữ hoàng. Vua ngồi chễm chệ, với quả cầu (tượng trưng cho đức tin) cùng cây trượng (tượng trưng cho quyền lực) trên tay, oách vô cùng.

Nói chung Edgar không xấu, nhưng giống ông anh Edwyn, Edgar hơi chán trong vụ… cưới vợ. Vợ đầu của Edgar – nữ quý tộc Ethelfleda – là người tốt. Bà hạ sinh Thái tử Edward, nhưng Elthelfleda mất sớm (có tài liệu ghi rằng Ethelfleda không phải vợ đầu, các sử gia vẫn còn đang cãi nhau chuyện này, nhưng Edward là con cả, nên cứ theo giả thuyết Ethelfleda làm vợ đầu). Edgar cưới vợ thứ hai – nữ quý tộc Elfrida. Bà này thì nham hiểm kinh khủng. Bà sinh Hoàng tử Ethelred. Lúc Edgar mất, Edward nối ngôi cha, trở thành vua Edward. Elfrida bực tức vô cùng khi thấy thằng con của mình không ngồi trên ngai vàng.

Vua Edward không hề ghét đứa em cùng cha khác mẹ, ông tặng hai mẹ con lâu đài để ở, và lui tới thăm hỏi thường xuyên. Edward chẳng nghi ngờ gì mẹ kế, nên trong một lần tới thăm em, ông bị Elfrida sát hại.

Edward mộ đạo (hơn máy ông Vua Anh khác): rồi chết thảm, nên nhà thờ phong Thánh cho Edward, người đời gọi ông là “Thánh tử vì đạo Edward” (Saint Edward the Martyr). Có cái này tôi thắc mắc mãi: “Cậu cả Edward” lý ra phải là Edward I, còn “Edward Tử vì đạo” là Edward II. Nhưng Hoàng gia Anh không ghi chép thế, Edward I và Edward II là vào thời mãi sau này. Mấy “Edward của những năm 900s không có đệ nhất đệ nhị, họ được nhắc đến kèm theo “biệt danh”, tức chỉ là “Edward the Elder” và “Edward the Martyr” thôi. Ai biết thêm về vụ này xin chỉ giáo.

Edward tử vì đạo, ông em cùng cha khác mẹ Ethelred lên ngôi theo đúng ý “mụ” Elfrida. Nhưng Ethelred có làm nên trò trống gì không? Nước Anh sắp có đánh nhau, có Vua “ngoài quốc tịch”, và (theo một số tài liệu) ông vua “mê dzai” đầu tiên …

Làm Vua thì phải quyết đoán; thế nhưng ngay từ đầu Ethelred đã có bà mẹ “quyết định dùm cho”. Bà mẹ cũng chỉ giỏi đâm thọt sau lưng, chứ điều hành đất nước cũng dốt như thường; hai mẹ con chọn ra một hội đồng cố vấn cũng dốt: gặp ông Vua ỡm ờ, lời khuyên hay hoặc dở kiểu gì cũng không biết đường suy luận để làm theo. Vì thế nên người đời gọi Ethelred là “Ethelred Bất cố vấn” (Ethelred the Unready). Ủa: tại sao Unready (Không sẵn sàng) lại là Bắt cố vấn? Chữ Unready là dịch sai, “bí danh” của ông này viết bằng tiếng Ango cổ là Ethelred Unraed, mà Unraed lại có nghĩa “Uncounselled” – Bắt cố vấn. Nhưng một số dịch giả xưa đổi Unraed thành Unready, nên ông vua này chết tên “dịch sai”.

Thấy nước Anh lục đục, dân Vikings vốn ngoan ngoãn bao lâu nay bèn chộp lấy cơ hội hòng chơi đểu cho bớt ngoan. Elthelred đánh không lại người Vikings hiếu chiến, nên vác dép chạy qua Normandy trú thân (sau này lấy vợ rồi đẻ con luôn bên đó). Nước Anh vô chủ, người Vikings và đám họ hàng cháu chắt của Ethelred (những người dũng cảm không đi “vượt biên” qua Normandy như ông Vua này) đánh nhau giành quyền làm chủ nước Anh.

Vậy là, xứ sương mù có vài ông “Vua ngắn hạn”, ông nọ lên ngôi được dăm ba bữa là chết, ông khác lên; cứ như vậy cho đến khi tướng Canute của người Vikings thắng thế, trở thành vua Canute.

Người Ango mới đầu ghét Canute, vì ông này không chung quốc tịch với họ; nhưng Canute xoa dịu dân chúng bằng cách chăm chỉ cho tiền nhà thờ, giáo hội, và đồng ý để người Anh giữ tập tục, văn hóa Anglo cũ.

Chỉ tiếc rằng Canute lãnh đạo giỏi nhưng dạy con không khéo, nên khi ông qua đời: hai thằng con trai của ông xâu xé nhau cái ngai vàng: nền hòa bình ông cắt công gìn giữ lại tiêu đi đâu mất. Chán nữa, hai đứa đánh nhau cho đã để rồi chết trẻ, không ai làm Vua được bao năm.

Mất vua, người Anh sợ nước nhà không chủ thì lại dẫn tới loạn lạc, họ gấp rút mời con trai của ông Ethelred ‘Bất cố vấn” từ Normandy về. Ông con này tên Edward, quyết đoán hơn bố, nhưng mộ đạo, không hiếu chiến; nhìn chung ông là một vị Vua không đến nỗi tệ. Theo sách sử thường viết, Edward mộ đạo quá nên dù có lấy vợ rồi, ông cũng “không làm gì cả”, bà vợ không có bầu nối dõi, Edward chẳng có lấy một mụn con. Cũng vì thế mà người đời gọi ông là “Giáo sĩ Edward” (Edward the Confessor). Đến khi Edward mất, nước Anh tiếp tục tình trạng vô chủ, nên ba lãnh tướng/lãnh chúa đánh nhau giành quyền cai trị.

Nhưng đó là “theo sách sử thường viết”.

Còn tường tận hơn, thì nó là thế này.

Edward nhân hậu, mộ đạo, từ bi, nhưng chỉ bấy nhiêu thì sẽ chẳng giữ nước được yên ổn lâu dài. Cái may mắn nhất của Edward là ông được một vị tướng rất giỏi tên Godwin hậu thuẫn, ông này văn võ song toàn: quản lý nước Anh để cho Edward rảnh rang ngồi tu trong nhà thờ. Godwin gả con gái cưng cho Edward, với hy vọng là cháu ngoại của ông sẽ lên ngôi vua – một phần thưởng xứng đáng cho người thay Edward trị quốc. Vậy mà, cái ông này không đụng tới con gái của Godwin lấy một đêm.

Edward tuy làm Vua Anh nhưng từ bé ông sống ờ Normandy (bố chạy trốn qua đó mà), nên Edward quen với phong tục, văn hóa của Normandy hơn, và không hợp với nước Anh cho lắm. Vì thế, Edward hứa với vị Công tước của xứ Normandy tên William rằng, nếu Edward không có con, ông sẽ nhường ngôi cho William.

William nghe xong rất hí hửng.

Godwin biết được điều này, nên ông gả con gái cho Edward: hy vọng rằng Edward sẽ sản xuất dùm ông một đứa cháu, để cái ngai không phải đỡ đít của thằng Công tước đáng ghét kia. Nhưng như đã kể, Godwin có há mồm chờ đến trẹo hàm cũng không thấy đứa cháu nào rớt xuống.

Godwin tức điên; ra lệnh đuổi tất tần tật người Normandy ra khỏi lãnh thổ nước Anh, trong đó có cả bạn bè, họ hàng của Edward. Edward giận lắm nhưng không làm gì được, và cũng từ đó, cuộc sống của Vua Edward ngày càng buồn chán, ông chẳng nói rành tiếng Anglo, không quen văn hóa Anglo: mà bạn bè người Normandy lại bị đuổi về hết, Edward thui thủi một mình.

Đang đau khổ, một tia sáng bỗng hé lên cho Edward.

Số là, ông Godwin có một cậu con rất đẹp trai, tên Harold Godwinson (có nghĩa: Harold, con trai của Godwin – một dạng nói gọn của “Harold, Godwin’s son”. Một số tên họ của Tây có thế mố xẻ ra giống vậy, ví dụ như Williamson, Ferguson cũng có nghĩa gốc “Con trai của William”, hoặc “Con trai của Fergu”)

Theo lời tả, Harold có mái tóc vàng, thân hình vạm vỡ, Edward thì lại rất thích… trai đẹp (vài nhà sử học tin rằng việc Edward không “yêu vợ” và không có con chẳng phải chỉ vì ông mộ đạo). Đang cô đơn, bỗng dưng có trai đẹp tới làm quen (chẳng biết đây có phải là ý đồ của ông Godwin “cha” không), nhưng Edward cảm thấy đời vui trở lại, và “thân thiết” với Harold hơn bao giờ hết. Ổng mê Harold đến mức quên bẳng lời hứa với Công tước William xứ Normandy. Trước khi lìa trần, thay vì nhường ngôi cho William, Edward tuyên bố: ngai vàng thuộc về Harold.

Kết quả: ở cái xứ sau này thành Pháp, có một vị Công tước đang nổi khùng.

Phần trước, vua “Giáo sĩ Edward” trước khi ngắc ngoải thì nhường ngôi cho Harold đẹp trai thay vì cho Williams – Công tước xứ Normandy – như đã hứa. Sự tình sau đấy ra sao?

Để trận choảng nhau giành ngôi vua thêm phần chi tiết, hấp dẫn; chúng ta hãy tìm hiểu một chút về ông Williams của xứ Normandy nào.

Bây giờ thì nhiều người biết đến William với biệt danh “William kẻ chinh phục” (William The Conquerer), nhưng cái biệt danh đấy là mãi sau này ông mới có, lúc đầu ai cũng gọi ông là “Thằng con hoang William”.

Vào năm 1066, chức vụ Công tước xứ Normandy chẳng khác gì vua xứ Normandy. Như đã biết trong bài về Alfred vĩ đại, người Vikings chiếm vùng đất này trên lãnh thổ nước Pháp. Vua Pháp lúc đó cũng chẳng phải… vua Pháp. Mãi đến năm 1181, Philippe Auguste mới bắt đầu lấy danh hiệu “Rex Franciae” (King of France – vua Pháp), chứ trước đấy thì vua Pháp chỉ là “Rex Francorum” (King of the Franks – vua của người Franks). Bởi vậy, người Normandy chả có lý do gì để khoái người Franks, người Burgundians, người Lorraines… cả, dù về sau mấy xứ này đều thống nhất thành Pháp.

Robert – Công tước xứ Normandy và cũng là bố của William – thuộc dạng “thích là phải nhào vô túm lấy”. Ngày đẹp trời nọ, ông “vi hành” và bắt gặp một cô gái xinh xắn. Tên cô này khác nhau tùy theo sách sử mà bạn đọc (có sách nói cô tên là Herleva, có sách đề tên Harlotta, có sách lại ghi Arlot… để tiện thì cứ gọi cô là Herleva cho rồi). Theo truyền thuyết do người Anglo-saxon bịa ra để chọc tức dân Norman, Robert bắt cóc Herleva và giở trò đồi bại. Còn thực tế hơn thì Robert có đến thưa chuyện với bố của Herleva. Ông bố đòi Robert phải cưới con gái mình, nhưng Robert không chịu. Lý do vì cô gái đẹp này làm nghề thuộc da, mà nghề đó thời bấy giờ là nghề thấp hèn nhất (vì lúc ấy bạn phải dùng hỗn hợp pha từ nước tiểu, mỡ động vật, phân chó… để thuộc); nên Robert không cưới Herleva được, chỉ có thể đem cô vào lâu đài dưới danh nghĩa thê thiếp. Ông bố hậm hực, “Thôi thì đành làm thiếp”.

Herleva hạ sinh cho Robert thằng con trai William. Do bố mẹ không kết hôn theo pháp luật nên từ nhỏ William đã chết biệt danh ucon hoang”. Chính vì William bị người đời ghẹo nên đến khi bố Robert mất và không có con chính thức, William thừa kế danh hiệu Công tước xứ Normandy, ông luôn muốn chứng tỏ cho toàn dân biết rằng đứa con hoang cũng có thể thành người vĩ đại.

Thành thử, lúc bị Edward giáo sĩ cho leo cây vụ ngai vàng nước Anh: ông hẳn học đem quân tới xứ sương mù đòi đánh chiếm (chứ ông khác là chỉ cau có ngồi yên vị ở Normandy rồi rủa thầm, đi đánh đám người Franks cho gần, đánh chi tới nước Anh xa lắc).

Tuy William hung hăng nhưng ông rất khôn, không hề suy nghĩ theo kiểu lôi lính đi đánh cho đến khi nào “chúng nó” chết mới thôi. Khi biết William và Harold gầm gừ nhau, một vị vua người Viking tên Hardrada thừa nước đục, đòi cầm quân chiếm nước Anh. Thế là Williams đổ bộ lên bờ biển phía Nam của xứ sương mù, gần thị trấn Hasting, và… ngồi đó chờ. Quân của vua Harold Goodwinson hùng hồ đi đánh Hardrada trước, Harold thắng: chưa kịp nghỉ, đoàn quân phải lũ lượt kéo đến Hasting để uýnh William tiếp.

Phe của William thì quá khỏe, vừa chẳng đánh ai vừa ngồi vắt vẻo mấy ngày: còn lính tráng của Harold thì mệt đứt hơi sau trận chiến với Hardrada. Khỏi nói cũng biết, William chiến thắng, lên làm vua nước Anh. Triều đại Anglo-Saxon chấm dứt, thay vào đó là triều đại Normandy.

“William kẻ chinh phục” không phải là một vị vua được dân chúng yêu mến. Dân của xứ sở này đã quen với triều đại Anglo-saxon: Vua Harold Goodwinson thì vừa đẹp trai vừa tốt bụng, nên họ căm thù ông vua mới đến từ Normandy kinh khủng. Thế là William phải liên tục dùng vũ lực để ép người dân y lệnh của mình. Người xưa còn ghi chép lại rằng, cư dân của nhiều làng mạc đã rủ nhau trốn vào rừng, chấp nhận sống trong đói kém chứ quyết không chịu trả thuế cho ông “con hoang” kia.

Tuy nhiên, nếu nhìn theo con mắt của thời nay, thì William làm được hai việc tốt:

  1. Nhằm giảm tối đa các trường hợp trốn thuế, khai gian của cải vì “ghét thẳng Vua mới”, William ra lệnh cho “các ban ngành đoàn thể” của mình đi tới từng nhà, ghi chép lại toàn bộ của cải của một gia đình (ví dụ như: số lượng nô lệ, cừu, ngựa, bò, gia vị mắm muối, vải vóc quần áo…); phải lùng sục hết những chỗ “có khả năng giấu của”. Sau đó lên danh sách rồi bắt đầu dựa vô đấy để mà đánh thuế. Ngày nay, những ghi chép ấy trở thành các tài liệu vô cùng giá trị.
  2. William đem ngôn ngữ vùng Normandy (tiếng Viking cổ lai tiếng Pháp, gọi là Franco-Norman) đến Anh. Nhưng người dân xứ này đã quen nói tiếng Anglo, nên họ không nói được tiếng mới; William cố học tiếng bản địa nhưng cũng không thành. Người Anglo và người Norman cũng nhất quyết không chịu chuyển hẳn sang một thứ tiếng. Tuy nhiên: sống riết với nhau thì hai bên cũng bập bẹ được đôi chữ để trao đổi buôn bán, tiếng Anglo từ từ lai tiếng Franco-Norman, trở thành một ngôn ngữ mới: dễ học hơn, dễ điều chỉnh hơn, và đặc biệt là có ngữ pháp đơn giản hơn. Đó là tiếng Anh mà con nít nước ta đang phải è cổ học thêm.

Vài nhà ngôn ngữ (nhất là mấy ông Pháp), hay chê rằng tiếng Anh không phải là thứ tiếng quý-xờ-tộc, là ngôn ngữ có gốc từ một đứa con hoang. Quả thực, tiếng Anh ít rườm rà, ít câu nệ hơn, chính vì vậy mà nó dần chiếm thế thượng phong. Dù mắng William hay tiếng Anh là con hoang cỡ nào đi nữa thì giờ đây nhiều người phải xài tới nó, cuối cùng, William vẫn thắng thế!

Tặng ông con hoang, bức tranh thêu quý nhất

Trong phần trước, chúng ta đã biết: con hoang William thì được làm vua, con sãi ở chùa thì quét lá đa. Để chúc mừng chiến thắng, ai đó đã làm tặng vua William một bức tranh thêu to vật vã. Nói “ai đó” là vì đến giờ chưa nhà nghiên cứu nào biết chắc được tên tuổi của nhân vật đã đặt hàng bức tranh thêu này. Đa số ngả theo giả thuyết ông em cùng mẹ khác cha của William là Odo đã đặt thêu bức tranh; lý do vì Odo làm giám mục, và người ta tìm thấy bức tranh thêu trong nhà thờ của Odo. Nhưng nói thế chả khác nào nói tượng Pharaoh là do người Anh đặt hàng vì nó nằm ở Bảo tàng Anh; có thể sau khi William băng hà, Odo đem bức tranh đó về nhà thờ cất thôi.

Tác phẩm vĩ đại này có tên “Bức tranh thêu Bayeux” (đặt tên theo huyện Bayeux), nó dài gần 70 mét, và là bức tranh thêu lớn nhất còn sót lại từ thời Trung cổ. Nó quý đến nỗi, Pháp đã lập nên một bảo tàng riêng cho nó – bảo tàng Musée de la Tapisserie de Bayeux – nằm ở Normandy (tất nhiên).

tranh-thieu-bayeux

Một phần của bức tranh thêu tại bảo tàng

Bức tranh thêu lại những hình ảnh của trước và sau cuộc chiến ở Hasting, bắt đầu từ Edward giáo sĩ và kết thúc khi Harold Godwinson bại trận. Thời Cách mạng Pháp; quân đội xém cắt nhỏ nó ra để… đậy vũ khí, nhưng may mắn là họ sớm phát hiện ra giá trị của nó.

Sau khi biết sử, chúng ta có thể hiểu tường tận hơn những hình thêu trên bức tranh này rồi. Cùng học nào!

Khi William người chinh phục qua đời, ông giao phần Normandy cho con trai cả là Robert và nước Anh cho người con thứ hai là William hay còn gọi là Rufus. Trong tiếng Latin, Rufus có nghĩa là màu đỏ vì ông này có mái tóc đỏ và khuôn mặt cũng đỏ nốt.

Khi Robert đi đánh những người Hồi Giáo ở Đất Thánh, ông này giao cho em trai cai trị nốt Normandy. Gì thì gì, chuyện cai trị Anh và Normandy cũng là chuyện nhà.

Ít lâu sau, William Rufus đi săn và trúng tên…chết. Vì ông này chưa kết hôn nên không có người nối dõi. Lúc này, Robert cũng đang trên đường về Normandy. Em của hai ông này là Henry thấy rằng nếu muốn chiếm ngai vàng nước Anh thì phải hành động ngay và luôn, ông bèn đi đến Winchester để đứng tên các tài sản của nhà vua, sau đó đến Westminter và chính thức lên ngôi.

Tất nhiên, Robert nổi đóa vì chuyện này và chuẩn bị để tấn công, nhưng mỗi chuyện chuẩn bị không thôi cũng mất cả năm trời.

Giới quý tộc Norman ở Anh phải chọn giữa Henry và Robert. Chuyện này cũng chẳng dễ dàng gì bởi ông nào cũng sở hữu đất đai ở Normandy. Rốt cuộc thì họ đứng về phía Henry bởi ông này đang ở London với mũ miện trên đầu. Chuyện tấn công của Robert thất bại thảm hại nên ông này đành nhận tiền bồi thường và trở về Normandy. Tuy nhiên Henry muốn nhiều hơn thế. Năm 1106 Henry tấn công Normandy và bắt sống Robert. Normandy và nước Anh lại về cùng một chủ.

Mục tiêu lớn nhất của Henry I là cả Anh và Normandy sẽ vào tay con trai mình. Ông dành cả cuộc đời mình để chống lại đám quý tộc Pháp muốn chiếm Normandy từ tay ông. Nhưng năm 1120, đứa con trai duy nhất của Henry bị chết đuối.

Trong suốt 15 năm sau đó; Henry hi vọng sẽ có được một đứa con trai nữa nhưng rốt cuộc phải chấp nhận sự thật rằng con gái Matilda của mình sẽ là người kế vị duy nhất. Henry gả Matilda cho Geoffrey Plantagenet – một quý tộc bự ở Pháp. Geoffrey lại là người kế vị Anjou – 1 vùng lớn và quan trọng ở miền Tây Nam Normandy.

Henry mong rằng nhờ cuộc hôn nhân này; đất đai của gia đình sẽ được mở rộng thêm, ông ép các quý tộc của mình hứa phải chấp nhận Matilda khi ông qua đời. Tuy nhiên, ông bố vợ và ông con rể cãi nhau to và chẳng bao lâu sau Henry qua đời. Ngai vàng không biết vào tay ai.

Lúc này thì những người thừa kế hợp pháp đều không có mặt ở Anh: Matilda thì ở tận Anjou còn cháu trai của Henry là Stephen thì đang ở Boulogne – cách Anh một ngày đường. Như Henry đã làm trước đây, Stephen nhanh chóng đến Anh để giành ngôi báu. Và cũng như trước đây; giới quý tộc lại ở giữa hai con đường: chọn Stephen người đang ở Anh hay Matilda người đã cãi cọ với cha mình và vẫn đang ở Pháp. Đa số chọn Stephen. Người ta cho rằng ông “giỏi chuyện chiến sự nhưng dốt ở hầu hết các mặt trận khác”.

Bốn năm sau, Matilda xâm chiếm nước Anh. Cuộc nội chiến đã làm nước Anh điêu tàn và kiệt quệ nhưng không bên nào thắng bên nào nên cuối cùng, hai bên đi đến một thỏa hiệp: Stephen vẫn giữ ngai vàng nhưng con trai của Matilda là Henry sẽ là người kế vị. May mắn cho nước Anh là ngay năm sau: Stephen qua đời, và nước Anh và những vùng đất ở Pháp lại một lần nữa có cùng một chủ. Con trai của Matilda là Henry lên ngôi, được biết đến là Henry II.

Phải mất rất nhiều năm, nước Anh mới vực dậy từ cuộc nội chiến. Thời đó, có người đã viết rằng “Chúa trời và các thiên thần của ngài đã ngủ trong 19 mùa đông dài đằng đẵng.”

Nghị viện ra đời – Liên hiệp Anh sơ khai – Vua bị truất ngôi

Quá trình ra đời của Nghị viện

Vua John bị buộc phải kí Magna Carta nhưng rõ ràng là ai cũng biết ông sẽ không làm theo thỏa thuận. Giới quý tộc nổi dậy và đẩy John ra khỏi vùng đông nam. Cuộc nội chiến những tưởng không tránh khỏi lại không xảy ra nhờ cái chết bất đắc kỳ tử của John vào năm 1216.Con của John là Henry III, lúc ấy chỉ mới 9 tuổi, lên ngôi. Trong suốt 16 năm đầu trị vì, ông này bị kiểm soát bởi giới quý tộc và Magna Carta. Cho đến năm 25 tuổi, ông mới có thể tự mình trị vì đất nước. Rõ ràng là ông muốn thoát khỏi sự kiểm soát của những người đã khống chế mình trong một thời gian dài nên đã giao du với bạn bè ngoại quốc và “xía mũi” vào những cuộc chiến đắt đỏ để ủng hộ giáo hoàng ở Sicily và ở Pháp.

Làm sao giới quý tộc có thể để yên chuyện Henry vung tiền quá trán và răm rắp nghe lời của ngoại bang được. Họ bèn giành lấy chính quyền và bầu ra hội đồng riêng và gọi đó là nghị viện. Nghị viện giành quyền kiểm soát quốc khố và buộc Henry III đuổi cổ các cố vấn ngoại bang. Tuy nhiên, một số quý tộc không ủng hộ nghị viện và đứng về phía Henry III. Với sự giúp sức của họ, Henry III giành lại chính quyền, dù vậy, sau chuyện đó, ông cũng cẩn trọng hơn để giữ thế cân bằng giữa vua và giới quý tộc.

Khi Henry III qua đời năm 1272, con trai ông là Edward I hiển nhiên lên ngôi. Chính Edward I mới là người đã tạo nên một nghị viện thực thụ. Nếu như nghị viện trước kia chỉ gồm giới quý tộc thì nay ông chia nghị viện thành Thượng Viện và Hạ Viện. Thượng Viện gồm giới quý tộc và Hạ Viện gồm hiệp sĩ, người dân tự do giàu có, thương nhân… ông làm điều này để có thể tạo thêm tiền từ nguồn đóng thêm của hạ viện và của nhân dân.

Liên hiệp Vương quốc Anh sơ khai

Trong thời gian trị vì, Edward I không hào hứng lắm chuyện giành lại đất đai ở Pháp, ông muốn đưa các vùng đất còn lại của Anh Quốc nằm dưới quyền cai trị của mình. Hồi ấy vua Anh chỉ cai trị vùng England (hay còn gọi là nước Anh), còn các vùng khác như Wales, Scotland hay Ireland chưa thuộc Liên Hiệp vương quốc Anh như bây giờ. Chuyện chinh phục và thống nhất vương quốc Anh như bây giờ thì cũng dài dòng lắm.

Tóm lại là chinh phục Wales cũng đơn giản do đa phần đất của Wales do giới quý tộc Anh đang nắm giữ và người Anh cũng miễn nhiên coi xứ Wales là một phần của Anh (England). Nếu người Wales muốn có một vị hoàng tử thì họ sẽ có ngay. Edward I phong con trai đầu lòng của mình (sau này là Edward II) là hoàng tử xứ Wales. Kể từ đó, con trai đầu lòng của người trị vì sẽ là hoàng tử xứ Wales.

Ireland thì đã thuộc quyền cai trị của vua Anh từ trước. Trong các cuộc chiến để chiếm Wales và Scotland, Edwards đã vắt kiệt tiền bạc và con người của Ireland. Giới quý tộc Norman và những vị vua Ireland lặng lẽ lảng tránh sự cầm quyền của Anh, vì thế, vua Anh chỉ kiểm soát Dublin và một vùng nhỏ quanh đó.

Ở Scotland thì hơi khó khăn một chút, dù thỉnh thoảng vua Scotland thừa nhận Vua Anh là vị vua tối cao nhưng họ mạnh hơn vua Wales nhiều. Quá trình Edward I chinh phục Scotland cũng khá dài dòng, chỉ tiếc là Edward I qua đời khi đang đánh Scotland năm 1307. Trên mộ ông có khắc chữ “Edward, the Hammer of the Scots”.Edward II lên ngôi và tiếp tục công cuộc chinh phục Scotland. Sau nhiều lần thất bại, nước Anh từ bỏ quyền cai trị Scotland vào năm 1328.

Xung đột giữa vua và giới quý tộc nổ ra, Edward II bị truất ngôi và bị sát hại. Edward III lên ngôi lúc 11 tuổi và ngay khi ông nắm thực quyền, ông trừng phạt những kẻ liên đới trách nhiệm đến cái chết của cha mình. Nhưng từ chuyện này thì nguyên tắc vua thì không thể bị truất ngôi hay sát hại đã bị phá vỡ.

Tinh thần mã thượng

Edward III và con cả của ông là Hoàng Tử Đen được ngưỡng mộ vô cùng bởi sự quả cảm trên chiến trường và phong thái nho nhã trong hành xử. Họ trở thành biểu tượng của “Tinh thần mã thượng” và được các hiệp sĩ coi như mẫu mực để học theo.Nhưng thời Edward III trị vì có một sự kiện quan trọng xảy ra còn lớn hơn cả tinh thần mã thượng. Đó là nạn dịch được gọi là Black Death (Cái chết đen) đã làm 1/3 dân số nước Anh tử vong. Những người sống sót phải sống trong cảnh đói khổ và bệnh tật. Nhưng lạ lùng là dân chúng không hề nổi dậy chống lại Edward III dù ông này vẫn sống vương giả và xa hoa.

Cũng nhờ có tài ngoại giao khéo léo nên Edward III được lòng dân chúng nhưng cháu trai ông là Richard thì kém may hơn. Richard II nối ngôi vì cha ông là Hoàng Tử Đen qua đời vài tháng trước đó. Richard “được hưởng” toàn bộ rắc rối từ thời ông mình nhưng ông không được khôn khéo như ông nội cũng không được lòng dân như cha mình: cộng thêm chuyện tuổi nhỏ (lên ngôi lúc 11 tuổi), vì thế những người khác thay ông cai quản.Nhiều lần tăng thuế và chuyện chúa đất bóc lột dân đen làm dấy lên nhiều cuộc nổi dậy: nổi bật là Cuộc Nổi Dậy của Nông Dân. Cuối cùng Richard II cũng khéo léo dàn xếp được mọi chuyện và vị thế của ông lúc này đã có nhiều thay đối.

Tuy nhiên: Richard vừa trẻ người, vừa kiêu ngạo, ông gây hắn với những quý tộc quyền lực. Bạo loạn nổi lên và Richard II bị truất ngôi. Vì Richard II không có con nối dõi nên ngai vàng của Anh bị rơi giữa hai lựa chọn: một là thằng cháu 7 tuổi của con trai thứ hai của Edward III, người kia là Henry xứ Lancaster – con của con trai thứ ba của Edward III. Trong hai người thì Henry mạnh hơn, ông có được sự ủng hộ của những quý tộc quyền lực và giành được ngôi báu bằng vũ lực. Không lâu sau, Richard II qua đời một cách bí ẩn.

Henry IV dành phần lớn thời gian trị vì để củng cố quyền lực. Nhưng dù ông truyền lại ngôi cho con trai mình là Henry V một cách êm thấm nhưng ông đã gieo hạt mầm nội chiến và nửa thế kỉ sau nở ra thành cuộc chiến Hoa Hồng giữa nhà Lancaster (của Henry IV) và nhà York (của bá tước xứ March).

Henry V là một vị vua can trường và thông minh, và cũng như Richard I, ông là một trong những vị vua được lòng dân chúng nhất. Chuyện nhà êm ấm: ông nảy ra ý định đánh chiếm Pháp. Lần này thì ông có được lợi thế rất lớn là vua Pháp bị điên còn giới quý tộc Pháp thì đang bận tranh giành nhau. Ông chiếm lại phần lớn Normandy và nhiều vùng lân cận. Năm 1420, ông được thừa nhận là người thừa kế của vua điên và cưới con gái của nhà vua là Katherine. Nhưng vua Pháp chưa kịp qua đời và ông chưa kịp làm vua nước Pháp thì chính ông qua đời. Con trai ông là Henry VI, lúc ấy mới 9 tháng tuổi, thừa hưởng ngai vàng của cả Anh và Pháp.

Cuộc chiến hoa hồng

Cuộc chiến Hoa hồng (Wars of the Roses) là một loạt các cuộc chiến tranh dân sự giành quyền kiểm soát ngai vàng của nước Anh giữa 2 nhà: Nhà Lancaster (biểu tượng một bông hồng đỏ ) và Nhà York (có biểu tượng là hoa hồng trắng ). Cuộc chiến này kéo dài qua nhiều giai đoạn lẻ tẻ giữa 1455 và 1487

Và cuộc chiến này phải kể từ Henry VI…Khi lớn lên, Henry VI trở thành một con người đơn giản và rất yêu sách. Ông là một người văn minh và hào hiệp, ông ghét giới quý tộc hiếu chiến và là một vị vua không phù hợp cho xã hội đương thời, ông là người sáng lập nên đại học Eton và đại học King ở Cambridge (hai nơi này còn tồn tại tới ngày nay). Tuy nhiên, ông bị bệnh về tâm thần và hơi dở chuyện chọn người cố vấn cho mình. Và tất nhiên giới quý tộc bắt đầu đặt ra câu hỏi ai sẽ là người trị vì đất nước.

Thời đó có chưa tới 60 gia đình quý tộc ở Anh. Qua kết hôn, hầu hết những gia đình này thì ít nhiều có mối liên hệ với nhau. Một số nhà cực kì quyền lực và có quân đội riêng rất hùng mạnh. Và giới quý tộc bắt đầu chia thành hai phe: một bên trung thành với Henry VI gọi là nhà Lancaster, và một bên ủng hộ công tước xứ York gọi là nhà York. (Công tước xứ York là người thừa kế của bá tước xứ March, người đã thua trong cuộc tranh giành ngôi báu khi Richard II bị truất ngôi).

Công tước xứ York giành được ngôi báu. Sau khi ông chết trong chiến trận, con trai của ông là Edward tiếp bước cha và lên ngôi vào năm 1461. Edward IV nhốt Henry VI ở Tháp London nhưng 9 năm sau, quân đội của Lancaster giải cứu Henry VI và đuổi Edward IV ra khỏi đất nước. Edward dựng nên quân đội mới và trở về Anh đánh bại quân đội của Lancaster. Bấy giờ Edward IV có thể ngồi yên trên ngôi báu còn sau đó thì Henry VI chết ở Tháp London. Người ta cho rằng ông bị sát hại.

Cuộc chiến giữa York và Lancaster lẽ ra đã chấm dứt nếu như con trai của Edward IV không quá nhỏ; và nếu như ông em trai của Edward là Richard xứ Gloucester không quá tham vọng. Khi Edward IV qua đời, hai đứa con trai còn nhỏ của ông là Edward V và em trai mình bị Richard nhốt ở Tháp London. Richard chiếm ngôi và trở thành vua Richard III. Một tháng sau, hai hoàng tử mất tích (mãi đến năm 1678 thì người ta mới tìm thấy 2 bộ xương bé trai trong Tháp).

Trong vở kịch “Richard III” được viết khoảng 1 thế kỉ sau đó, Shakespeare đã buộc tội Richard giết hại cháu mình và hầu như ai cũng tin điều này. Dù rằng Richard có lí do để giết cháu mình nhưng không ai có thế chứng minh được tội này của ông.Richard III chẳng hề được lòng dân. Hai nhà Lancaster và York cũng chẳng ưa gì ông nên khi một người dòng họ xa của con trai thứ của Edward III đến Anh để chiếm ngôi thì nhiều quý tộc ủng hộ ông ta. Người này là Henry Tudor; công tước xứ Richmond. Hai bên đánh nhau tại Bosvvorth và nửa số lính của Richard “phản chủ”, chạy qua phe của Henry. Chiến tranh nhanh chóng kết thúc.

Henry Tudor lập tức được lên ngôi, ngay tại chiến trường.Về phần Richard III, lính tráng của Henry đã giết rồi lột trần xác ông và đem diễu hành khắp nước, sau đó chẳng ai biết thi thể Richard đã bị quăng ở chỗ nào, hình như cũng chẳng ai thèm quan tâm, mãi cho đến 2012, người ta đã tìm thấy thi hài của ông ở bãi đậu xe ở Leicester. Đến tháng 3/2015, quan tòa quyết định sẽ làm nghi lễ chôn cất ông tại Leicester – nơi ông được tìm thấy dù con cháu ông đã đấu tranh để được đưa ông về chôn tại York Minster – đất tổ của nhà York.

Cuộc chiến giữa Lancaster và York cuối cùng cũng kết thúc. Mãi sau này, vào thế kỉ thứ 19, nhà văn Walter Scott mới đặt tên cuộc chiến là Cuộc Chiến Hoa Hồng vì biểu tượng của nhà York là hoa hồng trắng và biểu tưởng của nhà Lancaster là hoa hồng đỏ. Cuộc chiến hoa hồng gần như vĩnh viễn hủy hoại ý niệm về quân chủ ở Anh. Sau năm 1460 thì người ta gần như cho rằng chỉ cần dùng quyền lực là có được ngôi vua. Cuộc chiến gây nhiều tổn thất cho giới quý tộc với nhiều quý tộc bị giết và giới quý tộc cũ gần như không còn nữa. Và điều này hoàn toàn có lợi cho nhà Tudor để xây dựng nên một quốc gia mới.

Nhà Tudors

Henry Tudor trở thành vua Henry VII. Thời nhà Tudor trị vì từ năm 1485 được xem như đánh dấu sự kết thúc của Thời Trung Đại. Tất nhiên là thời đó không ai thấy được điều này bởi chẳng ai có lí do nào để cho rằng Henry VII sẽ trị vì khác với thời của Richard III.Thời trị vì của Tudor (1485 – 1603) được xem là thời hoàng kim trong lịch sử Anh. Dù Henry VII không nổi tiếng bằng con ông là Henry VIII hay cháu gái ông là Elizabeth I nhưng ông đã có công đặt nền móng cho một quốc gia thịnh vượng và một chế độ quân chủ hùng mạnh.

Nhìn vào mặt sáng sủa thì trong thời Tudor, Henry VIII có được một triều đình hùng mạnh và làm cho nhà thờ Anh đích thực là của Anh khi tách khỏi Nhà Thờ Công Giáo La Mã.

Con gái ông là Elizabeth (Elizabeth I) mang tới vinh quang cho quốc gia bằng việc đánh bại thủy quân hùng mạnh của Tây Ban Nha. Còn mặt ít sáng sủa hơn thì Henry VIII đã tiêu tốn hầu hết tài sản mà cha ông đã dày công tích lũy. Còn Elizabeth đã làm chất lượng của nhà nước đi xuống vì cho bán nhiều vị trí trong chính quyền. Bà làm điều này để không phải hỏi tiền nghị viện. Và dù rằng vương triều của bà đã cố gắng xử lí trình trạng đói nghèo và vô gia cư khi giá cả không ngừng tăng cao nhưng luật lệ và các biện pháp thi hành rất dã man và tàn bạo.

Nói sơ sơ về thời này là như vậy, nếu nói kỹ kỹ hơn một chút thì thời nhà này cũng có lắm chuyện hay ho. Đương cử như vụ Henry VIII li dị vợ là Catherine xứ Aragon. Nguyên nhân thì cũng có nhiều. Sâu xa thì một mặt Henry không ưa những quyền lực của nhà thờ Anh và vì đây là tổ chức quốc tế nên ông không có quyền kiểm soát, mặt khác đất đai của nhà thờ nhiều vô kể và ông muốn lấy số đất này để kiếm thêm tiền. Nguyên nhân trực tiếp thì là Henry muốn li dị Catherine vì bà này mãi không sinh được cho ông một đứa con trai nào và giờ thì bà cũng có tuổi và khó mà làm được điều này. Henry thuyết phục giáo hoàng cho mình được li dị Catherine.

Lẽ ra chuyện này cũng chẳng khó khăn gì nhưng giáo hoàng lại chịu ảnh hưởng của vua Charles V của Tây Ban Nha mà ông này lại vừa là Hoàng Đế La Mã vừa là cháu trai của Catherine. Henry rất tức giận; bèn thuyết phục các giám mục đưa ông lên làm người đứng đầu nhà thờ Anh.Ông tách khỏi La Mã, tự do li dị Catherine để cưới tình yêu mới của mình là Anne Boleyn, và kiếm được kha khá từ việc bán đất nhà thờ.

Henry VIII là người tham vọng, tính toán và tàn nhẫn. Ít ai có thể sống sót qua cơn giận của ông. Ông đã cho xử tử hai người vợ là Anne Boleyn và Catherine Howard và nhiều cận thần. Nổi bật trong số đó là Thomas Moore và Thomas Cromwell (người đã hỗ trợ ông thực hiện cuộc cải cách).

Năm 1957 Henry VIII qua đời để lại bà vợ thứ 6 và 3 đứa con: Mary (con của Catherine xứ Aragon), Elizabeth (con của Anne Boleyn – bà này bị chặt đầu vì tội ngoại tình) và Edward (con của Jane Seymour – người Henry rất yêu nhưng qua đời sau khi sinh cho ông đứa con trai duy nhất). Hiển nhiên, Edward lúc bấy giờ 9 tuổi, lên ngôi: gọi là Edward VI nhưng chẳng được bao năm thì qua đời. Chị cả Mary lên ngôi.

Thời của Henry VIII đã nảy ra phong trào Cải Cách Tin Lành do Martin Luther ở Đức và John Calvin ở Geneva khởi xướng. Giới quý tộc mới xuất hiện từ thời Tudors đa phần theo đạo tin lành (trong khi nhà vua và đại bộ phận dân đen vẫn theo đạo công giáo).

Nữ hoàng Mary, vì theo đạo công giáo nên rất được dân đen ủng hộ (và tất nhiên, không được lòng giới quý tộc) nhưng bà này được cho là thiếu khôn ngoan và cứng nhắc. Sai lầm đầu tiên trong cuộc trị vì của bà là bà đã cưới Philip – vua xứ Tây Ban Nha (là nữ hoàng nên cưới người trong nước thì không được vì thời này phụ nữ vẫn bị coi là lép vế hơn nam giới nên bà không thể dưới quyền một người chồng là thần dân của mình, cưới người ngoài thì nước Anh có nguy cơ vào tay của ngoại bang).

Nói chung, cuộc hôn nhân này không được dân chúng ủng hộ còn nghị viện thì miễn cưỡng đồng ý. Sai lầm tiếp theo là bà đã ra tay thiêu sống không biết bao nhiêu là người theo đạo tin lành (trong 5 năm trị vì bà đã thiêu sống 300 người). Việc này khiến bà có biệt danh là “Bloody Mary”. Mary qua đời khi đang ngăn chặn một cuộc bạo loạn.

Cô em gái cùng cha khác mẹ Elizabeth lên ngôi thay chị. Trước đây Mary đã có ý định “xử lý” Elizabeth vì cho rằng bà này đã lãnh đạo một cuộc bạo loạn của đạo tin lành nhưng Elizabeth khôn ngoan chẳng nói gì, chẳng làm gì, chẳng tỏ thái độ công giáo hay tin lành khi Mary còn sống. Ngoài ra, Philip cũng đã thuyết phục Mary tha cho Elizabeth.

Khi lên ngôi Elizabeth I muốn tìm một giải pháp hòa bình cho tình hình cải cách ở Anh. Bà muốn mang các thành phần tôn giáo lại với nhau và muốn nước Anh thịnh vượng. Rốt cuộc thì đạo tin lành ở Anh cũng gần với đạo công giáo hơn là so với đạo tin lành ở các nước khác ở châu Âu. Tuy nhiên Elizabeth cũng đối mặt với nhiều nguy cơ đe dọa tới ngôi vị của mình. Một là vua Pháp và Tây Ban Nha đều muốn cưới bà để Anh thuộc về họ.

Từ bài học của Mary: bà biết rằng tốt hơn hết là nên tránh những cuộc hôn nhân kiểu này và mặt khác: bà cũng cố gắng tránh
gây hấn với hai cường quốc này. Hai là nguy cơ giáo hoàng “xúi” những nước theo đạo công giáo tấn công Anh. Và cuối cùng, giới quý tộc theo đạo công giáo ở Anh muốn hoàng hậu Mary xứ Scots thay bà.Mary xứ Scots hiện là thân thích còn sống gần nhất của Elizabeth và hiển nhiên là người kế vị hợp pháp (vì Elizabeth I không cưới chồng). Mẹ của Mary là người Pháp nên Mary sống ở Pháp từ nhỏ và rất sùng đạo công giáo. Khi quay về để trị vì Scotland: bà đã gây hấn với một số quý tộc nơi đây và phải đến Anh để tránh bị trả thù. Tuy nhiên, Elizabeth đã bắt giam Mary.

Trong thời gian này; bà đã khám phá ra nhiều âm mưu của bên công giáo để đưa Mary lên làm nữ hoàng Anh. Elizabeth chẳng biết phải xử Mary ra sao. Bà biết Pháp chẳng đời nào tấn công Anh vì Mary nhưng bà sợ Tây Ban Nha sẽ làm thế. Tuy nhiên: mối liên hệ của Mary với nước Pháp cũng là một trở ngại cho Phillip (vua Tây Ban Nha) vì ông biết đưa Mary lên thay Elizabeth chẳng khác nào dâng Anh cho Pháp.

Vì thế, Elizabeth quyết định giam cầm Mary trong 19 năm trời.Tuy nhiên, một lời tuyên bố ngu ngốc của Mary đã hại bà. Mary tuyên bố Phillip sẽ là người kế vị của bà khi bà trị vì nước Anh. Với lời tuyên bố này: Phillip tấn công Anh và Elizabeth chẳng còn lí do gì để giữ mạng sống cho Mary.

Vì những âm mưu của đạo công giáo này và vì mối nguy cơ trước một nước theo đạo công giáo đang chuẩn bị xâm lược nước Anh, cách suy nghĩ của người Anh đã thay đổi. Người Anh cho rằng người theo đạo công giáo là kẻ thù của họ. Và điều này ảnh hưởng rất lớn đến đường lối chính trị của Anh.

Trong thời Elizabeth trị vì nói riêng và thời Tudor nói chung, kinh tế xã hội Anh có nhiều bước tiến rất lớn. Elizabeth tiếp tục trị vì cho đến khi qua đời năm 70 tuổi (so với thời ấy là rất thọ). Con trai của Mary; lúc bấy giờ là vua James VI của Scotland; vì là họ hàng gần với Elizabeth nhất nên nghiễm nhiên lên ngôi vua Anh.

Ở Anh; ông là vua James I.Thời kỳ trị vì của nhà Tudor chính thức chấm dứt, bắt đầu thời trị vì của nhà Stuart.


2 thoughts on “Kể chuyện lịch sử hoàng gia Anh Quốc

  1. Bài viết này rất hay, nhưng hay nhất là việc tại sao vùng Scotland không bị La Mã, rồi sau này là đám di dân Anglo-Xason, rồi sau này nữa là đám cướp biển Viking không động đến thì tác giả lại không bàn đến?. Nên nhớ, hoàng gia Anh hiện nay lại là hậu duệ của Scotland đấy!

    Thích

Trả lời

Điền thông tin vào ô dưới đây hoặc nhấn vào một biểu tượng để đăng nhập:

WordPress.com Logo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản WordPress.com Đăng xuất /  Thay đổi )

Facebook photo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Facebook Đăng xuất /  Thay đổi )

Connecting to %s