Bernard de Lattre de Tassigny sinh ngày 11 tháng 2 năm 1928 tại Paris, Pháp. Ông là con một của tướng quân Jean de Lattre de Tassigny và Simonne de Lamazière, cả hai đều là quý tộc Pháp.
Bernard 12 tuổi khi Pháp bị Đức xâm chiếm vào tháng 7 năm 1940 trong Thế chiến thứ hai. Cha của ông đã chiến đấu trong quân đội khi Đức xâm lược, sau đó chỉ huy các lực lượng trong “vùng tự do” ở Montpellier và Tunisia, nhưng ông bị bắt vì chống lại sự chiếm đóng của quân đội Đức ở Vichy vào tháng 11 năm 1942 và bị kết án 10 năm tù. Bernard de Lattre, khi đó mới 15 tuổi, đã hỗ trợ cha vượt ngục khỏi nhà tù Riom vào ngày 3 tháng 9 năm 1943. Cha ông đến Algiers (Algieria) qua London, trong khi Bernard và mẹ đi lẩn trốn. Cuối cùng, Bernard đã thoát khỏi Pháp qua dãy núi Pyrenees, và vượt qua Tây Ban Nha để đến Bắc Phi. Ở đó, giống như cha mình, ông gia nhập lực lượng của Người Pháp Tự do.
Khi mới 16 tuổi, Bernard đã được Tướng Charles de Gaulle đặc cách gia nhập đội quân đang được tập hợp để giải phóng Pháp, và sau đó chiến đấu ở miền Nam nước Pháp và cả ở Đức. Ông bị thương nặng vào ngày 8 tháng 9 năm 1944, tại Autun, trở về sau đó để chiến đấu một lần nữa ở Đức. Chính vì những hành động của mình trong các chiến dịch này mà ông đã nhận được Médaille militaire, huân chương cao quý thứ ba của Cộng hòa Pháp, sau Légion d’honneur ordre de la Libération. Ông là người trẻ nhất nhận được huân chương đó.
Sau chiến tranh, Bernard de Lattre học tại trường quân sự Pháp (EMIA) từ tháng 8 năm 1945, đào tạo về kỵ binh thiết giáp. Ông được thăng cấp Trung úy vào ngày 26 tháng 11 năm 1948. Bernard de Lattre phục vụ trong quân đội Pháp trong Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất vào ngày 1 tháng 7 năm 1949. Ông trở thành chỉ huy một trung đội và tham gia trận Diên Mai. Ông nhận được huân chương chiến tranh thứ hai của mình trong chiến dịch này, được cha ông trao tặng huân chương vào ngày 11 tháng 5 năm 1951.
Ông bị giết 19 ngày sau đó, gần Ninh Bình, trong trận sông Đáy khi tuân theo mệnh lệnh của cha mình để giữ thị trấn bằng mọi giá. Trận chiến này được cho là đã chặn đứng cuộc tiến công của quân Việt Minh của Tướng Giáp trên đồng bằng sông Hồng lúc bấy giờ. Tạp chí Times viết: Anh đã anh dũng ngã xuống, là tấm gương của những đức tính quân tử tốt nhất. Sau cái chết của con trai mình, cha của ông đã sắp xếp cho một thánh lễ Công giáo được tổ chức tại nhà thờ lớn ở Hà Nội.
Hai ngày sau trận chiến, thi thể của Bernard de Lattre được đưa về nước Pháp, cùng với cha ông, và người lính trẻ được chôn cất với nghi lễ danh dự cho quân đội. Mộ của ông hiện nằm trong nghĩa trang ở Mouilleron-en-Pareds.
Cái chết của Bernard de Lattre đã được báo chí đưa tin rộng rãi vào thời điểm đó, bao gồm các bài báo trên Le Figaro, Le Monde, The New York Times và tạp chí Time. Đám tang của ông đã được đăng trên tạp chí Life như Hình ảnh của Tuần. Bernard Fall trong cuốn sách Street Without Joy mô tả cái chết của Bernard trong bối cảnh của trận chiến như sau:
Cuộc tấn công ban đầu của Việt Minh, bắt đầu vào ngày 29 tháng 5,như thường lệ, hoàn toàn bất ngờ. Khi bình minh ló dạng, phần lớn sư đoàn bộ binh 308 tràn qua các vị trí của quân Pháp trong và xung quanh Ninh-Bình, tiến sâu vào thị trấn và chốt chặt những người Pháp còn sống sót trong nhà thờ. Trong đêm đầu tiên hỗn loạn đó của trận chiến, một tiểu đoàn quân tiếp viện Việt Nam được tập hợp vội vã từ Nam Định gần đó đã được tung vào trận chiến. Một trong những đại đội do người con duy nhất của Tổng tư lệnh Pháp, Trung úy Bernard de Lattre, được lệnh phải giữ bằng mọi giá một pháo đài của Pháp nằm trên một vách núi nhìn ra Ninh Bình. Mặc dù bị pháo kích dữ dội, đại đội của de Lattre vẫn bám trụ, nhưng khi bình minh ló dạng, de Lattre và hai trong số các Hạ sĩ quan của anh ta đã chết trên vách núi. (Trước khi chiến tranh Đông Dương kết thúc, hai mươi người con trai của các thống chế và tướng lĩnh Pháp đã chết với tư cách là sĩ quan, hai mươi hai người khác chết ở Algeria sau đó).
Cái chết của Bernard de Lattre ảnh hưởng rất nhiều đến cha và mẹ của ông. Đặc biệt, cha của ông được cho là đã bị ảnh hưởng nặng nề, và ông qua đời vì bệnh ung thư chưa đầy tám tháng sau đó. Mẹ của ông, hiện được tự xưng là Madame la Maréchale sau khi chồng bà được thăng chức, được mô tả trong một cáo phó xuất bản năm 2003, là đã “dành hết tâm huyết để tưởng nhớ con trai bà và cho lịch sử của chồng bà và quân đội ông ấy đã chỉ huy “.
Năm 1952, một cuốn sách dày 308 trang có tựa đề Un destin héroïque: Bernard de Lattre (Một số phận anh hùng: Bernard de Lattre), được xuất bản. Cuốn sách là tập hợp những câu chuyện về cuộc đời của Bernard, cùng với những bức thư mà ông đã viết. Cuốn sách được viết và hiệu đính bởi giáo sư triết học người Pháp Robert Garric. Một văn bản phản hồi thêm về cái chết của Bernard de Lattre đã được mẹ ông cung cấp trong tác phẩm hai tập về chồng bà: Jean de Lattre: mon mari (Paris, 1972). Trong tác phẩm này, bà viết về phản ứng của chồng bà trước cái chết của con trai họ, nhưng cũng viết về cảm xúc của chính bà, và chủ nghĩa lý tưởng của một thế hệ lính Pháp chết như con trai bà.
Một trong những đài tưởng niệm dành cho Bernard de Lattre là một nhà nguyện nhỏ ngoài trời ở xã Wildenstein, thuộc khu Haut-Rhin département ở Alsace, miền đông bắc nước Pháp. Hiện nay được gọi là Chapelle Saint-Bernard, công trình kiến trúc này được khánh thành vào năm 1955. Nó bao gồm một bàn thờ và một nơi trú ẩn nhỏ bên cạnh một con đường mòn đi bộ đường dài. Việc xây dựng tại địa điểm này bắt đầu vào năm 1954, sử dụng các kế hoạch đã được bà de Lattre phê duyệt. Vật liệu xây dựng được sử dụng là đá sa thạch màu hồng từ Rouffach gần đó.
Địa điểm này được dành để tưởng nhớ Bernard de Lattre, chồng của bà Jean de Lattre, và các lực lượng Pháp đã chiến đấu trong khu vực vào năm 1944 để giải phóng Alsace khỏi quân Đức trong Thế chiến thứ hai. Nhà nguyện sau đó rơi vào tình trạng hư hỏng, nhưng đã được tu bổ vào ngày 20 tháng 8 năm 2004, ngày dành riêng cho Thánh Bernard của Clairvaux. Ở đây có một buổi lễ hàng năm được tổ chức để vinh danh Bernard de Lattre de Tassigny, với sự tham dự của các hiệp hội cựu chiến binh, chức sắc địa phương và bà con của de Lattre.
Cũng nằm ở Wildenstein là Trung tâm Bernard de Lattre, trong đó có đài tưởng niệm Jean de Lattre. Đài tưởng niệm này ban đầu được đặt tại Algeria, nhưng đã được chuyển đến Wildenstein vào năm 1962 sau khi Algeria giành được độc lập từ Pháp. Kỷ niệm thêm về tên của Bernard de Lattre được đưa ra khi lớp học 1984-1985 của Ecole Militaire Interarmes, trường quân sự mà ông đã theo học, được đặt tên là Trung úy Bernard de Lattre de Tassigny để vinh danh ông. Một buổi lễ hàng năm cũng diễn ra tại các ngôi mộ của de Lattre ở Mouilleron-en-Pareds.
Các nhà sử học và các tác giả khác viết về Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất đã bình luận về tính biểu tượng của cái chết của Bernard de Lattre. Trong perdus: de l’Indochine à l’Algérie, dans la tourmente des guerres (2007), nhà báo và tác giả người Pháp Hélène Erlingsen nói rằng cái chết của Bernard de Lattre là biểu tượng “của thế giới hiện đại bị chiến tranh tàn phá” và cuộc đời của ông là “đại diện cho thời đại của chúng ta”.
Cái chết của Bernard de Lattre đã được đặt trong bối cảnh liên quan đến những cái chết khác trong cuộc chiến này, với Brian Moynahan, trong tác phẩm năm 2007 Thế kỷ Pháp: lịch sử minh họa của nước Pháp hiện đại, lưu ý rằng “tất cả 21 người con trai của các thống chế và tướng lĩnh Pháp đã chết ở Đông Dương ”.
Link: https://en.m.wikipedia.org/…/Bernard_de_Lattre_de_Tassigny
Sevgei Akpha/ @nclsgroup