Sự giúp đỡ của Liên Xô sau năm 1975

2

Hình : Các chuyên gia Liên Xô và công nhân Việt Nam trên công trường nhà máy thủy điện Hòa Bình

Sergei Alpha

I

Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và hoàn thành sứ mệnh thống nhất đất nước, Việt Nam bước vào công cuộc xây dựng lại đất nước, song gặp phải muôn vàn khó khăn không những do hậu quả nặng nề về chính trị, kinh tế – xã hội do chiến tranh để lại, mà còn do tác động tiêu cực của quan hệ giữa các nước lớn. Trong bối cảnh đó, tháng 6/1978, Việt Nam quyết định tham gia Hội đồng Tương trợ kinh tế (khối SEV) do Liên Xô đứng đầu.

Đặc biệt, xuất phát từ mối quan hệ hợp tác chặt chẽ về mọi mặt trên tinh thần anh em, từ tình hữu nghị và đoàn kết không gì lay chuyển được giữa hai nước, từ mong muốn tiếp tục phát triển và hoàn thiện sự hợp tác về mọi mặt giữa hai nước, ngày 3/11/1978, tại Thủ đô Moscow, các nhà lãnh đạo cao nhất của Việt Nam và Liên Xô đã ký kết Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác Việt Nam – Liên Xô (sau đây gọi tắt là Hiệp ước năm 1978). Như vậy, sau hơn 28 năm kể từ khi thiết lập quan hệ ngoại giao (1950), từng ký kết và thực thi nhiều văn bản pháp lý đưa quan hệ Việt Nam – Liên Xô phát triển sâu rộng, Hiệp ước năm 1978 trở thành văn kiện hợp tác toàn diện nhất và ở cấp độ cao nhất trong lịch sử quan hệ song phương.

Hiệp ước năm 1978 phản ánh tầm quan trọng của mối quan hệ cũng như sự gắn bó chặt chẽ, mật thiết giữa Việt Nam và Liên Xô, đặc biệt phản ánh lòng tin cao giữa hai Đảng, hai Nhà nước và tình hữu nghị bền chặt giữa nhân dân hai nước. Bản Hiệp ước năm 1978 gồm 9 Điều, với nội dung và tinh thần chủ đạo trong tất cả những Điều đó là Liên Xô sẽ tiếp tục hợp tác, giúp đỡ, hỗ trợ Việt Nam về mọi mặt theo nguyên tắc tương trợ anh em và tinh thần đoàn kết với Việt Nam là mệnh lệnh của cả trái tim và trí tuệ. Thời kỳ đó, do sự phức tạp và khó lường trong quan hệ giữa các nước lớn nói chung, sự căng thẳng trong quan hệ Việt Nam – Trung Quốc nói riêng mà dư luận quốc tế đặc biệt chú ý đến bản Hiệp ước này, nhất là Điều 6 và Điều 7 của Hiệp ước. Nguyên văn Điều 6 là: Hai Bên ký kết Hiệp ước sẽ trao đổi ý kiến với nhau về tất cả các vấn đề quốc tế quan trọng có liên quan đến lợi ích hai nước. Trong trường hợp một trong hai Bên bị tấn công hoặc bị đe dọa tiến công thì hai Bên ký kết Hiệp ước sẽ lập tức trao đổi ý kiến với nhau nhằm loại trừ mối đe dọa đó và áp dụng những biện pháp thích đáng có hiệu lực để bảo đảm hòa bình và an ninh của hai nước và Điều 7 là: Hiệp ước này không liên quan đến quyền và nghĩa vụ của hai Bên theo các hiệp định hai bên và nhiều bên mà họ tham gia và không nhằm chống một nước thứ ba nào.

Nhìn chung sau khi Hiệp ước năm 1978 được ký kết, quan hệ Việt Nam – Liên Xô phát triển tốt đẹp, gặt hái thêm những thành công trong hợp tác song phương. Ngày 16/3/2016, tờ RBTH – một ấn phẩm của hãng truyền thông Rossiyskaya Gazeta (Nga) có bài viết với tiêu đề: Liên Xô đã giúp Việt Nam tái thiết thời hậu chiến như thế nào. Bài báo đã điểm lại những dấu mốc quan trọng trong quan hệ hợp tác kinh tế giữa Liên bang Xô viết và Việt Nam kể từ khi hai nước chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao (năm 1950). Trong giai đoạn từ năm 1978 đến giữa những năm 1980, Liên Xô đã cung cấp các khoản viện trợ từ 700 triệu đến 1 tỷ USD viện trợ hàng năm cho Việt Nam. Các viện trợ bao gồm các khoản cho vay, tín dụng thương mại, đào tạo kỹ thuật, các dự án hỗ trợ, trợ giá. Các khoản viện trợ của Liên Xô đến Việt Nam tăng vọt khi Hà Nội gia nhập khối Comecon, một tổ chức kinh tế của các quốc gia khối XHCN bao gồm Liên Xô, Bulgaria, Cộng Hòa Séc, Hungary, Ba Lan và Romania. Cơ khí Hà Nội, Cẩm Phả, Sông Công; thủy điện Thác Bà, Sông Đà, Trị An; mỏ than Mông Dương, Apatite Lào Cai, hóa chất Lâm Thao, dầu khí Việt – Xô, Bệnh viện và Nhà văn hóa hữu nghị Việt – Xô, Bách khoa Hà Nội, cầu Thăng Long… cùng biết bao công trình khác đều do Liên Xô giúp xây dựng.

Nhưng cuối những năm 80, đầu những năm 90 của thế kỷ XX, mối quan hệ này bị sa sút do những biến động chính trị ở Liên Xô. Khi đó, Liên Xô lâm vào cuộc khủng hoảng trầm trọng cả về chính trị lẫn kinh tế – xã hội. Kết cục là vào cuối tháng 12/1991, Liên Xô sụp đổ, 15 quốc gia độc lập ra đời.

Liên Xô là quốc gia viện trợ lớn nhất cho Việt Nam khi đó. Hoàng Khư, một cựu chuyên viên kỹ thuật của liên doanh dầu khí Vietsovpetro cho biết: Toàn bộ các cơ sở công nghiệp của Việt Nam sau chiến tranh đã được khôi phục và xây dựng bởi sự giúp đỡ của người Liên Xô. Sự giúp đỡ của các chuyên gia Liên Xô đã vượt ra ngoài phạm vi lĩnh vực dầu và khí đốt. Chuyên gia Liên Xô đã giúp đỡ rất nhiều trong việc tái thiết miền Nam, làm sạch những vùng đất nông nghiệp đã bị nhiễm chất độc da cam và các hóa chất độc hại khác.

Nikolai Baltak, một chuyên gia kỹ thuật người phục vụ ở Việt Nam từ năm 1983 đến năm 1987 cho biết: Chúng tôi đã xây dựng hàng loạt các nhà máy thủy điện ở Việt Nam. Chúng tôi đã giúp đỡ cho đến khi Liên Xô không còn khả năng để trợ giúp Việt Nam. Tuyến đường sắt Bắc-Nam từ thành phố Hà Nội đến thành phố Hồ Chí Minh đã được người Liên Xô giúp xây dựng lại, Liên Xô đã cũng cung cấp sự hỗ trợ về kỹ thuật để xây dựng lại các cây cầu lớn nhất trong cả nước. Các cơ sở hạ tầng du lịch thời Pháp bị phá hủy bởi chiến tranh đã được người Liên Xô giúp đỡ xây dựng lại. Những khách du lịch đầu tiên từ châu Âu đến Việt Nam sau khi kết chiến tranh chính là người Liên Xô. Việt Nam sau chiến tranh đã bị bao vây cô lập, nhưng ngay cả với người Liên Xô bình thường họ cũng có một cái nhìn sâu sắc vào việc tái thiết lại Việt Nam.

2
Hình : Chuyên gia Liên Xô nghiên cứu khảo sát công trình thủy điện.

Tham khảo:

https://www.rbth.com/…/how-russian-aid-helped-rebuild…

https://tapchicongsan.org.vn/…/tu-hiep-uoc-huu-nghi-va…

II. Cam Ranh – 24 năm làm căn cứ quân sự của Liên Xô

Cuối năm 1978, Liên Xô đã ký thỏa thuận với Việt Nam về việc xây dựng và cùng khai thác Trạm cung ứng vật tư kỹ thuật tại Cam Ranh. Theo đó, quân cảng này là nơi tiếp nhận tàu chiến, tàu ngầm, tàu hộ tống cùng nhiều máy bay trinh sát, vận tải và máy bay mang tên lửa của Hải đoàn tác chiến cơ động số 17 thuộc Hạm đội Thái Bình Dương. Nếu Liên Xô đưa tàu ngầm và các chiến hạm mang đầu đạn hạt nhân vào quân cảng Cam Ranh thì ta từ chối, vì sẽ làm phức tạp thêm, hơn nữa trong hiệp định ký kết giữa hai nước không ghi. Theo quy định trong Hiệp định, tại quân cảng Cam Ranh cùng lúc có thể tập trung từ 8-10 tàu chiến Liên Xô, 4-8 tàu ngầm có khu neo nổi và tối đa 6 tàu hộ tống. Tại sân bay cùng lúc có thể tiếp nhận từ 14-16 máy bay mang tên lửa, 6-9 máy bay trinh sát do thám và 2-3 máy bay vận tải. Tùy theo tình hình chiến sự cụ thể, số lượng máy bay và tàu chiến có thể tăng lên theo thỏa thuận giữa hai Bộ Quốc phòng Liên Xô và Việt Nam.

Ngày 2/5/1979, Chính phủ Liên Xô và Việt Nam đã ký hiệp định về việc sử dụng Cam Ranh làm Trạm cung ứng vật tư kỹ thuật cho Hạm đội Thái Bình Dương của quân đội Liên Xô trong 25 năm. Mùa hè năm đó, tàu ngầm nguyên tử phóng ngư lôi K-45 đã neo đậu tại Cam Ranh, sau đó ít lâu, các máy bay hải quân của hạm đội Thái Bình Dương bắt đầu hạ cánh. Tháng 12/1979, Đô đốc S.G.Gorshkov – Tổng tư lệnh Hải quân Liên Xô đã đến Hà Nội để đặt quan hệ công tác với Bộ Quốc phòng Việt Nam. Sau đó, ông đã dành một ngày thăm căn cứ Cam Ranh, giống y như cách Tổng thống Mỹ Johnson đã tới để ngắm nhìn địa thế “sông núi nước Nam” 10 năm về trước.

Phân đội đầu tiên của Hạm đội Thái Bình Dương gồm 54 người đến đây tháng 4/1980 và tháng 8 năm đó quân số được bổ sung thêm 24 người thuộc bộ phận thông tin liên lạc. Thi hành lệnh của Bộ tổng tham mưu các lực lượng vũ trang Liên Xô và Chỉ thị số 13/1/0143 của Cục Tham mưu hạm đội Thái Bình Dương ngày 28/8/1980, Trạm cung ứng vật tư kỹ thuật đã được thành lập trên bán đảo Cam Ranh mang phiên hiệu đơn vị 31350. Bộ Tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang và Chính phủ Liên Xô đã giao cho Trạm cung ứng vật tư kỹ thuật 922 nhiệm vụ làm giảm nhẹ đáng kể áp lực cho Hạm đội Thái Bình Dương nói riêng và toàn bộ Hải quân Liên Xô nói chung trong việc cung cấp dự trữ cần thiết cho các chiến hạm và tàu hộ tống đang làm nhiệm vụ tại Biển Đông. Cam Ranh trở thành căn cứ hải quân lớn nhất của Liên Xô ở nước ngoài, căn cứ duy nhất bên bờ Biển Đông, nơi cách cảng gần nhất của Nga 2.500 hải lý.

Từ mùa Thu năm 1983 đến tháng 8/1991, hải đoàn cơ động số 17 triển khai tại Cam Ranh, từ tháng 8/1991 đến tháng 12/1991 được thay thế bằng hải đoàn cơ động số 8 và sau đó là hải đội tàu hỗn hợp 119. Thời điểm năm 1986, trên sân bay triển khai trung đoàn không quân hỗn hợp độc lập gồm 4 máy bay Tu-95, 4 chiếc Tu-142, phi đoàn máy bay Tu-16 khoảng 20 chiếc các loại, phi đoàn MiG25 khoảng 15 chiếc, hai máy bay vận tải An-24 và 3 máy bay lên thẳng Mi-8. Ngoài ra trung đoàn còn quản lý và chỉ huy căn cứ chống tàu ngầm, tiểu đoàn tên lửa và tiểu đoàn kỹ thuật.

Tháng 2/1984, theo đề nghị của phía Việt Nam, Chính phủ Xô Viết đã quyết định khôi phục và xây dựng thêm một loạt công trình tại căn cứ Cam Ranh. Việc xây dựng Cam Ranh bước sang một giai đoạn mới, chuyển từ hình thức tự hạch toán kinh tế sang hình thức đấu thầu khoán gọn, bắt đầu giai đoạn xây dựng kiên cố thay cho các kết cấu lắp ghép tạm thời. Phó tổng giám đốc Công ty Xây lắp Liên Xô tại Việt Nam giai đoạn 1987-1989 Evgeny Stepanovich Bobrenev đã kể lại trong cuốn “Liên Xô – một từ không bao giờ quên” (Nguyễn Đình Long dịch) rằng, Cục kỹ thuật xây dựng nước ngoài thuộc Bộ Quốc phòng Liên Xô, đơn vị có nhiều kinh nghiệm xây dựng các công trình ở hơn 60 nước trên thế giới đảm nhiệm việc lựa chọn và đưa chuyên gia đến Cam Ranh. Họ là những chuyên gia tài năng của các đơn vị trong và ngoài quân đội được các tổ chức Đảng, Đoàn giới thiệu, được chở sang bằng đường hàng không qua Moscow hay Vladivostok theo hành trình Moscow – Taskhent – Karachi (đôi khi là Bombay) – Calcutta – Hà Nội – Cam Ranh.

Trên cơ sở Hiệp định ký giữa Liên Xô và Việt Nam ngày 20/4/1984, hai bên đã ký hợp đồng xây dựng cụm đài rađar số ba, là công trình viện trợ không hoàn lại. Tính chung từ năm 1984 đến năm 1987, Tổng Công ty Xây lắp Liên Xô đã xây dựng tổng cộng 28 nhà ở và công trình chuyên dụng các loại. Lúc đó tổng số người Liên Xô sống trong khu quân sự là 6.000 người, kể cả công nhân xây dựng. Theo thỏa thuận trong mục 71 của Hiệp định ký ngày 20/4/1984, các công trình xây dựng xong sẽ bàn giao cho phía Việt Nam sử dụng. Các hạng mục đầu tiên được xây dựng xong từ tháng 12/1987, sau đó các chuyên gia Liên Xô bắt đầu sử dụng theo hình thức thuê miễn phí.

Có thể thấy rằng, về cơ bản, các công trình được Liên Xô – Nga xây dựng ở Cam Ranh bao gồm: Khu nhà ở của Trạm cung ứng vật tư kỹ thuật, trong đó có sở chỉ huy đơn vị 31350 và doanh trại cho quân số biên chế của đơn vị, nhà ăn 250 chỗ, lò bánh mỳ, tổ hợp tắm hơi – giặt là, CLB, trường phổ thông số 183, 18 tòa nhà ở, kho tổng hợp lưu giữ và cấp phát vật tư, đội xe (gồm cả xe chuyên dụng); vùng bến nhỏ; bể chứa ngầm thể tích 14.000m3 dùng để chứa nhiên liệu; hai hầm lạnh dung tích 270 tấn dùng để chứa thực phẩm lưu trữ; 12 kho khung sắt dùng để chứa các loại vật tư khác nhau; Hai bể lọc giếng khoan, một dùng cho sinh hoạt, một dùng cho chiến hạm và các tàu hộ tống; Trạm phát điện trung tâm công suất 24.000kW cấp điện cho tất cả các công trình thuộc khu quân sự và của Việt Nam trên bán đảo.

Khi từ biệt Cam Ranh, người Nga đã chở đi 588 người, 819 tấn hàng trong đó có 50 chiếc ôtô và xe chuyên dụng, 190 tấn dầu diezel, 133 tấn dầu mỡ các loại, vũ khí đạn dược cũng như tài liệu lưu trữ và tài liệu mật, bằng cả đường hàng không và đường biển. Đồng thời, người Nga bàn giao cho phía Việt Nam 57 tòa nhà và công trình thuộc căn cứ, 85km đường dây tải điện lưới, 62km đường điện cáp, 25km công trình ngầm, 250m cầu cảng, sân bay và hệ thống quản lý kho. Đại tá quân dự bị, cựu binh Cam Ranh kể lại rằng, cho đến tận năm 1992, khi Liên Xô tan rã, thủ tục ra vào khu quân sự vẫn do phía Việt Nam quy định. Theo thỏa thuận thì mỗi tháng chỉ 4 chuyến xe được đi ra ngoài theo kế hoạch định trước với số lượng người hạn chế, chủ yếu là dành cho thủy thủ Hạm đội Thái Bình Dương. Còn số nhân viên kỹ thuật của Trạm cung ứng vật tư kỹ thuật thì do “nhiều yếu tố” nên ra “vùng tự do” là vi phạm luật.

Những năm đầu thập niên 1990, căn cứ này chủ yếu do phía Việt Nam sử dụng. Năm 1994, phó Thủ tướng Yuri Yarov đã đến thăm vịnh Cam Ranh. Năm 1995, nhờ có trung tâm thông tin ở căn cứ này mà nhiều hoạt động vận chuyển ma túy đã bị bắt giữ. Năm 1993 Nga đã ký hợp đồng kéo dài thời gian sử dụng căn cứ quân sự ở vịnh Cam Ranh. Các thiết bị bắt sóng ở đây dùng để theo dõi các trao đổi thông tin của Trung Quốc ở vùng biển Đông. Theo giới quân sự Mỹ, vị trí của Cam Ranh khá lý tưởng để kiểm soát mọi hoạt động xung quanh đảo Hải Nam, một địa điểm chiến lược đặc biệt đối với Trung Quốc.

Ngày 12/12/1995 cũng xảy ra tai nạn máy bay khủng khiếp tại đây. Ba trong 5 chiếc máy bay tiêm kích Su-27 của phi đội “Dũng sĩ Nga” trên đường trở về Nga sau khi trình diễn ở Malasia đã ghé qua sân bay Cam Ranh để tiếp nhiên liệu thì đã gặp tai nạn khi hạ cánh. Đại tá Vanyukov nhớ tới những đồng đội đã hy sinh khi làm nhiệm vụ ở Cam Ranh như sau: Chúng ta cần giữ ký ức về họ. Hãy tưởng nhớ tất cả mọi người: nhớ vị đô đốc hải quân đã hy sinh trong tai nạn ở Sân bay Cam Ranh, những phi công cất cánh bay đi mà không thấy trở về; nhớ những chiến sỹ hải quân hy sinh khi làm nhiệm vụ, những chuyên gia dân sự chết vì các bệnh nhiệt đới, nhớ cả cậu con trai viên quản trị trưởng còn ở tuổi đến trường đã chết vì quả lựu đạn Mỹ để lại. Chúng ta vẫn sống khi ký ức về chúng ta vẫn còn.

Trong hồi ức Cam Ranh, Trung tướng V.F. Aistov – Viện sĩ Viện Hàn lâm khoa học tự nhiên Nga và ông M.Z. Nagumanov – Phó Tổng Giám đốc Tổng Cty Xây lắp Liên Xô thời kỳ 1987-1989 vẫn nhớ chi tiết một vị tướng hàng đầu của Việt Nam đã hứng nước thẳng từ vòi của hệ thống lọc và xử lý sinh học nước khoan ngầm của căn cứ để uống, một hành động mà họ cho là thể hiện lòng tin của lãnh đạo cao cấp Việt Nam đối với các chuyên gia Liên Xô và thành quả lao động của họ. Hai ông còn nhớ rõ các ca sĩ, nghệ sĩ hàng đầu của Việt Nam thời điểm đó như Ái Vân, Thanh Thanh Hiền, Vương Linh- Đặng Hùng… và tên các tiết mục mà họ đã mang đến Cam Ranh để biễu diễn phục vụ các bạn Liên Xô.

Đại tá quân dự bị S.I. Urbanovich nhắc lại kỷ niệm lần đến ban chỉ huy trung đoàn bảo vệ của phía Việt Nam để xin cho các phụ nữ của căn cứ được ra thị trấn Mỹ Ca gần đó chơi nhân dịp ngày 8/3. Các chỉ huy trung đoàn xếp ra bàn hai bình ba lít rượu truyền thống của lính thủy đánh bộ là rượu ngâm rắn biển và sò huyết, còn đồ nhắm thì chỉ có xoài xanh thái lát chấm muối và một xô đá lạnh. Và không nhớ là chúng tôi uống đến cốc rượu thứ bao nhiêu khi tôi muốn biết về hướng giải quyết đề nghị của mình thì được câu trả lời: Giờ nào việc nấy. Và cuối cùng, sau những lời nói bóng gió, tôi nghe thấy câu: Đồng chí Liên Xô thân mến, việc này chúng tôi giải quyết lâu rồi. Nhắc lại các sự kiện ngày ấy, tôi luôn tin tưởng rằng mối quan hệ anh em thân thiết giữa quân nhân hai nước Việt – Nga sẽ vượt qua được mọi rào cản của ngoại giao quan liêu.

Cựu thủy thủ công binh V.M. Koval thì lại nhớ đến một chi tiết rất người là những lần “ăn trộm” dừa để giải khát: Các bạn Việt Nam đã từng phải lấy dây kẽm gai quấn quanh gốc dừa nhưng chúng tôi vẫn hái được. Sáng ra dưới gốc dừa là cả một đống vỏ trái dừa đã bị uống hết nước. Một năm quân ngũ “vui vẻ” của tôi trôi qua thật nhanh trên đất nước nóng bức nhưng tuyệt vời đến mức làm chúng tôi đem lòng yêu mến này, yêu và gọi Việt Nam của tôi. Và mỗi lần trò chuyện khi nhắc đến đất nước này, tôi lại nói: Còn ở Việt Nam chúng tôi thì.

Năm 2000, hải quân Nga đã chính thức thông báo, hiện nay căn cứ này không còn quan trọng như trước nữa. Ngày 24/7/2001 Bộ trưởng Quốc phòng Nga Sergey Ivanov thông báo: Nga cần phải rời khỏi Cam Ranh. Năm 2002, Tổng thống Nga Vladimir Putin đã ra lệnh đóng cửa căn cứ này sau khi Hà Nội và Moscow thống nhất được việc chấm dứt hợp đồng cho Nga thuê miễn phí Dù còn 3 năm nữa mới hết hợp đồng thuê Cam Ranh. Ngày 2/5/2002, hai bên ký biên bản tiếp nhận – bàn giao các hạng mục tại Cam Ranh. Ngày 3/5, chuyến bay vận tải quân sự IL-76 cuối cùng chở các chuyên gia và các quân nhân Nga về nước.

Ngày 4/5/2002 – ngày cuối cho sự hiện diện quân sự của Nga tại Việt Nam – các quân nhân, chuyên gia Nga rời PMTO 922 trên ôtô trong tiếng nhạc bài “Các sĩ quan”. Còn các chiến sĩ Vùng 4 Hải quân Việt Nam đứng nghiêm trên cầu cảng để tiễn những người bạn Nga. Trên boong “Sakhalin-09”, Chuẩn đô đốc Eryomin, chỉ huy trưởng cuối cùng của căn cứ giơ tay chào những người đồng đội Hải quân Việt Nam. Chuẩn đô đốc Eryomin trong cương vị Chỉ huy trưởng Trạm cung ứng vật tư kỹ thuật 922 của Cam Ranh nhận định, căn cứ quân sự trước đây của Mỹ trên bán đảo Cam Ranh – Khánh Hòa đã thu hút sự chú ý của Liên Xô bằng chính vị trí địa lý của nó, xét về mọi phương diện thì hoàn toàn ưu việt cho việc triển khai một căn cứ hải quân. Nó cho phép khống chế các eo biển Malaysia và Philippines, có thể tiến hành trinh sát điện tử Biển Đông, biển Philippines… thậm chí tới tận khu vực vịnh Pécxích hay vùng bắc Ấn Độ Dương. Bán đảo Cam Ranh bọc trong mình hai vịnh Bình Ba và Cam Ranh, nơi không chịu ảnh hưởng của các hiện tượng thời tiết, có độ lớn và sâu để có thể neo đậu mọi loại chiến hạm và tàu hộ tống, kể cả tàu sân bay.

Trong thời gian ở lại, phía Liên Xô đã làm một số việc tùy tiện như khai thác đá ở các núi trong vịnh… không xin ý kiến và trao đổi với phía Việt Nam. Nhận được tin, Tướng Lê Đức Anh với cương vị là Tổng tham mưu trưởng lập tức tới Cam Ranh. Sau khi thị sát, ông phê bình: Để họ làm thế này thì đây sẽ bị sa mạc hóa. Không được. Mỗi cục đá ở đây phải quý như một cục vàng. Về tới Hà Nội, Tướng Lê Đức Anh báo cáo với Tổng Bí thư Lê Duẩn và Bộ Chính trị, kiên quyết không cho phía Liên Xô phá núi lấy đá và khai thác cát trong vùng vịnh. Trưởng đoàn chuyên gia và tùy viên quân sự Liên Xô phản đối. Tướng Lê Đức Anh nói: Tôi sẽ đảm bảo có đá cho các anh” và ông cho phép mở con đường dài 30km vào mỏ đá trong đất liền, phía Liên Xô và người dân rất phấn khởi.

Cũng trong thời gian này, tình hình biên giới phía Bắc nước ta vô cùng nóng bỏng, có những “trọng điểm” Tướng Lê Đức Anh mới chỉ tới hai lần. Nhưng với Cam Ranh, ông đã thị sát tới bốn lần bởi trong mắt Tướng Lê Đức Anh, vị trí Cam Ranh vô cùng quan trọng trong hiện tại cũng như tương lai. Nó gắn liền tới sự tồn vong và thịnh vượng của đất nước sau này. Theo ông: Cam Ranh là vị trí chiến lược, một khu vực phòng thủ then chốt của miền Trung và của cả nước là căn cứ bảo vệ cả một vùng biển rộng lớn và quần đảo Trường Sa… Tướng Lê Đức Anh trăn trở, tìm mọi cách thuyết phục các đồng chí lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước ta, thu hồi bằng được cảng Cam Ranh càng sớm càng tốt. Bằng cách nào để thu hồi cảng Cam Ranh một cách êm thấm? Bởi trước đây Tổng Bí thư Lê Duẩn và Tổng Bí thư Brezhnev Liên Xô đã ký Hiệp định đoàn kết và hợp tác toàn diện, những gì đã ký kết thì hai bên phải tôn trọng. Lúc này với cương vị là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Đại tướng Lê Đức Anh nghiên cứu kỹ “Hiệp định” xem chỗ nào “sơ hở” để tháo gỡ.

Mặc dù biết “Hiệp định” còn thời hạn tới năm 2004, nhưng được sự nhất trí của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Đại tướng Lê Đức Anh lúc này với cương vị là Chủ tịch nước đã chỉ đạo Bộ Quốc phòng và các cơ quan Nhà nước tiến hành trao đổi một cách kiên trì, mềm mỏng, khôn khéo để phía Nga tự rút, trao lại cảng Cam Ranh cho Việt Nam trước thời hạn. Thấy vậy, Đại tướng Lê Đức Anh nói: Các anh rút, chúng tôi chỉ xây dựng cảng cho Hải quân Việt Nam sử dụng, chứ nhất định không cho bất cứ nước nào vào đây thuê. Tôi cam đoan như vậy.

Ông Yuri Krutskikh, cựu quân nhân tàu ngầm thuộc Hạm đội Liên Xô, phụ trách khâu vũ khí trên một tàu ngầm điện – diesel lớp Dự án 641 (NATO định danh là lớp tàu Foxtrot), thuộc trung đoàn tàu ngầm điện – diesel số 19 thuộc Hạm đội Thái Bình Dương của Liên Xô (đã nghỉ hưu, hiện ở Vladivostok, Nga) đầu tháng 3/2021 ra mắt cuốn sách thứ hai viết về những sự kiện thời ông đóng quân tại căn cứ Cam Ranh (Việt Nam) cuối những năm 1980. Cuốn sách này mang tên Cam Ranh hay là chiếc tàu ngầm lớp Foxtrot cuối cùng. một đoạn trong cuốn sách này về sự kiện (chưa kiểm chứng) lực lượng hải quân Xô viết đóng tại Cam Ranh suýt “để mất” 1 quả ngư lôi hạt nhân trên chiếc tàu ngầm diesel – điện lớp Foxtrot (Dự án 641) mà tác giả phục vụ.

Ông kể: Cuối những năm 1980, ông Krutskikh cùng tàu ngầm được đưa đến căn cứ Cam Ranh để tuần tra Biển Đông. Thời gian ông Krutskikh phục vụ tại Cam Ranh khoảng 7 tháng. Nhiệm vụ của đơn vị ông là giám sát hoạt động của các tàu sân bay và căn cứ hải quân của Mỹ ở Biển Đông, giám sát tuyến hàng hải qua eo biển Malacca. Tàu ngầm lớp Foxtrot được đóng từ cuối những năm 1950, đến thời ông Krutskikh phục vụ là cũng đã hơn 30 năm tuổi nhưng vẫn còn rất bền bỉ, dù điều kiện sinh hoạt trên tàu rất vất vả. Mỗi khi ra khơi, tàu ngầm của ông luôn mang theo 22 quả ngư lôi, trong đó có 2 quả gắn đầu đạn hạt nhân mà theo ước tính, mỗi quả đủ sức đánh chìm một tàu sân bay hạt nhân của Mỹ. Thủy thủ và sĩ quan trên tàu ngầm có tiêu chuẩn riêng về khẩu phần rượu. Thợ máy khoảng 20 lít/tháng, trưởng đài vô tuyến là 15 lít, hoa tiêu 10 lít, và lính phụ trách vũ khí là 3 lít/tháng. Vũ khí mà tàu ngầm mang theo khi tuần tra gồm ngư lôi, mìn biển, súng trường, súng ngắn, và đắt tiền nhất là ngư lôi, nhất là ngư lôi hạt nhân.

Khi về căn cứ, ngư lôi hạt nhân sẽ được tháo dỡ từ tàu ngầm, đưa lên bờ cất vào kho. Một lần có sự kiện hy hữu xảy ra với việc này. Sau một chuyến công tác, tàu quay về căn cứ và thủy thủ phải đưa 2 quả ngư lôi hạt nhân lên bờ. Ông nói: Mọi thứ đều bình thường. Chúng tôi đo tốc độ gió bảo đảm ở mức bình thường rồi đưa ngư lôi ra, báo cho bộ phận trên bờ. Họ đến, kiểm tra mọi thứ và cho phép tiến hành. Quả ngư lôi hạt nhân đầu tiên được đưa khỏi tàu ngầm. Bạn có bao giờ giữ một quả ngư lôi hạt nhân trong tay? Nó là một điếu xì gà khổng lồ màu xanh đen, không có dấu hiệu phân biệt gì với những quả ngư lôi khác cả về màu sắc lẫn kích cỡ. Cũng chẳng có những dấu hiệu cảnh báo như ký hiệu phóng xạ hay đầu lâu và xương chéo.

Thế rồi, chậm rãi nhích từng milimét, quả ngư lôi được chuyển từ trong khoang tàu lên. Rồi một xe cần cẩu đến, cẩn thận nhấc quả ngư lôi lên “như ông bố nâng niu đứa con đầu lòng” rồi hạ nó xuống thùng một xe tải Kamaz đặc chủng đậu gần đó. Tiếp theo, quả ngư lôi hạt nhân thứ hai cũng được thủy thủ cẩn thận, chậm rãi đưa lên boong tàu, chờ cần cẩu đưa lên bờ. Bất ngờ người phụ trách bốc dỡ ngư lôi trên bờ tuyên bố dừng tiếp nhận ngư lôi do lúc này tốc độ gió vượt mức cho phép là 1 m/giây, theo máy đo gió của ông ta. Thế là xe cần cẩu ngừng bốc dỡ, quay về gara. Người phụ trách tiến về phía ông Krutskikh, giao biên bản bàn giao vũ khí và vui sướng được quay về nhà sớm với vợ con. Bạn không thể để quả ngư lôi hạt nhân nằm trên boong tàu, lỡ trời mưa và có thể nó sẽ bị đánh cắp. Và rồi chậm rãi từng milimet, chúng tôi lại đưa quả ngư lôi xuống khoang tàu, cho vào ống phóng và đậy nắp lại.

Sáng hôm sau mọi thứ có vẻ yên tĩnh… Nhưng chẳng ai vội vã với việc mang quả ngư lôi hạt nhân còn lại khỏi tàu chúng tôi. Sau bữa trưa, tôi lo lắng và gọi điện cho bộ phận vũ khí của căn cứ. Một giọng ngái ngủ trả lời là không biết gì cả, xin đừng quấy rầy (?). Nửa giờ sau, tôi gọi lại và hỏi khi nào thì cần cẩu đến để bốc dỡ ngư lôi. Giọng nói hồi nãy trả lời với vẻ bực mình rằng ngư lôi đã được bốc dỡ xong hôm qua, có biên bản giao nhận đủ 2 quả trên bàn anh ta. Ngư lôi đã ở trong kho, đừng có hỏi ngốc nghếch nữa”, rồi anh ta dập máy. Thế là ông Krutskikh liền xem lại biên bản mình đang giữ một bản và nhận ra trong đó ghi đã nhận 2 quả chứ không phải 1, có chữ ký của người phụ trách bốc dỡ vũ khí.

Như vậy quả ngư lôi đang ở trên tàu là của chúng tôi! Tôi liền báo cho chỉ huy tàu, chỉ huy tỏ ra vui sướng. Chúng tôi nhất trí nên chuyển giao quả ngư lôi hạt nhân này cho Saddam Hussein. Một cuộc tranh cãi nhỏ đã xảy ra chỉ vì câu hỏi cần lấy của Saddam bao nhiêu tiền. Chỉ huy nói rằng anh ta sẽ không chiến đấu với một người bạn, chỉ cần một triệu USD là đủ, và tôi muốn đến 10 triệu USD cũng không phải là chuyện vặt. Tuy nhiên giấc mơ triệu phú của các quân nhân tàu ngầm chỉ tồn tại được… 2 giờ. Ngay trước bữa trưa, một xe cẩu cùng các đại diện của kho vũ khí đến nơi tàu ngầm đang đậu. Tốc độ gió lúc này bình thường. Và nửa giờ sau, quả ngư lôi hạt nhân còn lại được chậm rãi, cẩn thận đưa từ dưới tàu lên, để cho cần cẩn cẩu lấy và đặt vào thùng xe tải Kamaz chuyên dụng chở ngư lôi. Và rồi quả ngư lôi được đưa về cất giữ ở kho vũ khí bên dưới lòng đất. Thật đáng tiếc, lẽ ra đã có cơ hội vào cuối những năm 1980 để thay đổi toàn bộ lịch sử thế giới: cứu Saddam Hussein khỏi phòng tra tấn và giá treo cổ, và Iraq khỏi sự sỉ nhục và cướp phá. Cũng sẽ không có xuất hiện bọn I S, không có khủ ng b ố, sẽ không có gì xảy ra. Nhưng ông Krutskikh không buồn lâu. Vài tháng sau, tàu ngầm lại nhận ngư lôi hạt nhân đi tuần tra tiếp, và sau khi quay về căn cứ, khẩu phần rượu của ông được tăng gấp đôi.

Ngày 10/12/2009, hai nước khánh thành tượng đài Tưởng niệm những người Liên Xô/Nga và Việt Nam hy sinh tại bán đảo Cam Ranh vì hoà bình, ổn định khu vực. Vấn đề hải quân Nga trở lại Cam Ranh vẫn âm ỉ đã rộ lên trên báo chí Nga trong tháng 10/2010, trước chuyến thăm Hà Nội của Tổng thống Nga Dmitri Medvedev. Giới quân sự Nga, một số tướng lĩnh, đô đốc tại ngũ và nghỉ hưu, chuyên gia quân sự Nga cũng đã đề cập khả năng hải quân Nga trở lại Cam Ranh. Hãng RIA Novosti thời điểm đó dẫn lời Trợ lý Tổng thống Nga Sergei Prikhodko nói với báo giới ngay trước chuyến thăm Việt Nam của Tổng thống Medvedev rằng, Kremlin không thấy cần phải tái lập căn cứ quân sự ở Cam Ranh, nhưng quan tâm đến hoạt động của một căn cứ bảo đảm vật chất-kỹ thuật cho hải quân. Nguồn tin cấp cao ở Moscow cho biết, Nga không định triển khai tại Cam Ranh vũ khí trang bị và binh sĩ như thời Liên Xô. Căn cứ này sẽ phần nhiều giống với căn cứ ở cảng Tartus, Syria, nơi mà các tàu hải quân Nga vẫn ghé vào trong các cuộc hành quân trên Địa Trung Hải. Việc thành lập một căn cứ như thế ở Cam Ranh không nên gây lo ngại cho các nước láng giềng của Việt Nam.

Tháng 10/2010, phát biểu trong buổi họp báo kết thúc Hội nghị cấp cao ASEAN, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng khẳng định, Việt Nam sẽ xây cảng dịch vụ tổng hợp tại Cam Ranh và Việt Nam sẽ cung cấp dịch vụ cho tàu của hải quân tất cả các nước, kể cả tàu ngầm, theo cơ chế thị trường như nhiều nước trên thế giới đã làm. Rõ ràng sự trở lại Cam Ranh của quân đội Nga là vấn đề được cả Việt Nam và Nga suy tính kỹ, trong một thời gian dài và là quyết định sáng suốt, đáp ứng lợi ích của cả hai bên, đồng thời có tầm ảnh hưởng lâu dài đến hòa bình và ổn định của khu vực Đông Nam Á. Thông tin trên được đưa ra sau khi Việt Nam ký hợp đồng mua 6 tàu ngầm lớp Kilo của Nga.

Sang tháng 11/2010, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Phùng Quang Thanh cho biết, các công ty Nga được ưu tiên trong việc xây dựng Trung tâm hậu cần dịch vụ quân sự tại cảng Cam Ranh. Việc này rất dễ hiểu bởi lẽ vũ khí, khí tài quân sự trước đây của Việt Nam đều do Liên Xô viện trợ và hiện vẫn đang được bảo quản theo phương thức “giữ tốt, dùng bền”. Các vũ khí mà Việt Nam mua sắm thời gian gần đây chủ yếu vẫn là của Nga, bởi Nga là đối tác chiến lược. Về mặt chính trị, Nga là đối tác tin cậy. Về mặt công nghệ, vũ khí của Nga cũng hiện đại và Việt Nam đã quen sử dụng, hiệu quả chiến đấu đã được thực tế kiểm chứng.

Tháng 11/2013, trong cuộc hội đàm giữa Tổng thống Nga và Chủ tịch nước Việt Nam, hai bên đã ký kết hiệp định về việc mở căn cứ chung để bảo dưỡng và sửa chữa tàu ngầm tại Cam Ranh. Các chiến hạm Nga được quyền sử dụng căn cứ theo thủ tục đơn giản hóa hơn so với các quốc gia khác. Kể từ năm 2014, không quân Nga sử dụng Cam Ranh để bố trí ở đây các máy bay tiếp nhiên liệu Il-78 thực hiện nhiệm vụ tiếp dầu trên không cho các máy bay ném bom chiến lược Tu-95 của Nga. Sự hiện diện của các máy bay tiếp dầu Nga ở Cam Ranh không vi phạm nguyên tắc của Việt Nam là cấm bố trí các căn cứ quân sự nước ngoài trên lãnh thổ nước mình. Việt Nam thực thi chính sách đối ngoại độc lập dựa trên các nguyên tắc: không liên kết và từ chối tham gia vào các liên minh. Tuy nhiên điều đó không loại trừ quan hệ thân thiện truyền thống với Nga.

The Diplomat (Nhật Bản) cho rằng: Nếu Hà Nội muốn trên sân khấu thế giới Việt Nam được xem như một cầu thủ độc lập, thì phải tuân thủ các nguyên tắc trong chính sách đối ngoại đã được thiết lập sau Chiến tranh Lạnh. Hà Nội nên tái khẳng định với thế giới, rằng Vịnh Cam Ranh mở rộng cửa cho các quốc gia khác nhau và các hạm đội khác nhau, cả quân sự và dân sự. Điều đó sẽ phục vụ lợi ích của Việt Nam.

Tham khảo:

3 thoughts on “Sự giúp đỡ của Liên Xô sau năm 1975

  1. Pingback: Why Vietnam’s Naval Bases Do Not Change the Dynamic of Vietnam-China Relations – The Diplomat – The Devil's World

  2. Pingback: Why Vietnam’s Naval Bases Do Not Change the Dynamic of Vietnam-China Relations - TheStarsHuB

  3. Pingback: Why Vietnam’s Naval Bases Do Now not Trade the Dynamic of Vietnam-China Family members – The Diplomat -

Bình luận về bài viết này