Cuộc chiến năm 1979 của Trung Quốc với Việt Nam: Đánh giá lại

18-war-dang-upi

Tổng bí thư Đặng Tiểu Bình và Tổng thống Hoa Kỳ Jimmy Carter trong cuộc gặp gỡ tại Hoa Kỳ năm 1979.

Xiaoming Zhang*. The China Quarterly, 2005

Người dịch: Nguyễn Tuấn Anh

Bài viết này cố gắng khám phá nhận thức của riêng Trung Quốc về cuộc chiến năm 1979 với Việt Nam. Chúng bao gồm các mối quan hệ lịch sử của Trung Quốc với Việt Nam và ảnh hưởng của mối quan hệ này đến cách tiếp cận của Bắc Kinh đối với cuộc chiến, vai trò của Đặng Tiểu Bình, chiến lược quân sự của Trung Quốc và sự chuẩn bị cho cuộc tấn công. Nó cho thấy cách thức tiếp cận chiến tranh của Bắc Kinh có những đặc điểm riêng biệt của Trung Quốc: tính toán thời điểm và cách thức sử dụng sức mạnh quân sự, mục tiêu cơ bản trong chiến tranh và dựa trên cơ sở nào để được đánh giá thành công. Bài báo điểm lại những hậu quả của cuộc xung đột, cả về mặt chính trị và quân sự, và những bài học kinh nghiệm mà chính người Trung Quốc đã rút ra.

Đầu năm 1979, Trung Quốc xâm lược Việt Nam, theo lời của giới lãnh đạo Trung Quốc là “dạy cho Việt Nam một bài học” mà nước này sẽ khó mà quên. Bất chấp tuyên bố chiến thắng của Bắc Kinh, giới học thuật hiện tại nhìn chung đồng ý rằng cuộc chiến đã không diễn ra tốt đẹp như Trung Quốc mong đợi và Quân đội Giải phóng Nhân dân (PLA) thể hiện sự yếu kém trong cuộc xung đột. Chính Trung Quốc chứ không phải Việt Nam mới thực sự nhận được bài học. 1. Tài liệu của Trung Quốc về cuộc chiến vẫn được bảo mật cao và các thông tin có sẵn không chỉ rời rạc và sai lệch mà còn thật sự đáng nghi ngờ về tính trung thực. Có rất ít tài liệu bằng tiếng Anh và phần lớn những gì hiện có chứa đầy sự suy đoán và không chính xác, được hỗ trợ bởi những lời đồn thổi ở Hồng Kông và Đài Loan. Tuy nhiên, giờ đây, việc kiểm soát thông tin của Bắc Kinh dường như đang đang giảm đi. Nhiều tài liệu lưu hành nội bộ liên quan đến hoạt động và kinh nghiệm của PLA trong cuộc chiến năm 1979 đã đến được các thư viện Mỹ và có thể truy cập để sử dụng trên internet. Ngoài ra, nhiều hồi ký của các sĩ quan quân đội cấp cao đã được xuất bản. 2.

Bài báo này cố gắng khám phá nhận thức của riêng Trung Quốc về cuộc chiến năm 1979 với Việt Nam dựa trên việc kiểm tra các tài liệu nguồn chính và nghiên cứu của các học giả hàng đầu. Bắt đầu bằng cuộc thảo luận về quan hệ lịch sử giữa Trung Quốc với Việt Nam và ảnh hưởng của chúng đến cách tiếp cận của Bắc Kinh đối với cuộc chiến, cũng như vai trò của Đặng Tiểu Bình. Sau đó, nó xem xét vai trò của PLA, bao gồm chiến lược quân sự của Trung Quốc và sự chuẩn bị cho cuộc tấn công cũng như quan điểm riêng của PLA về các hoạt động quân sự. Cuối cùng, nó cũng xem xét những hậu quả của cuộc xung đột, cả về mặt chính trị và quân sự, và những bài học kinh nghiệm mà chính người Trung Quốc đã rút ra. Bài báo trình bày về cách tiếp cận chiến tranh của Bắc Kinh, cho thấy một loạt các đặc điểm khác biệt của Trung Quốc: giới lãnh đạo Bắc Kinh không ngần ngại sử dụng vũ lực sau khi tính toán kỹ lưỡng về thời điểm và cách thức sử dụng sức mạnh quân sự; mục đích cơ bản của PLA là nắm bắt và duy trì thế chủ động của chiến dịch; và cơ sở chính mà Trung Quốc dựa vào để đánh giá thành công của hành động quân sự này là địa chính trị hơn là hiệu quả của chiến dịch. 3. PLA đã bị Việt Nam xử lý một cách thô bạo, nhưng đã hoàn thành các mục tiêu chiến lược của Bắc Kinh, đó là chuyển hướng sự chú ý của Việt Nam sang áp lực quân sự mới ở biên giới phía bắc của họ, điều này đã làm giảm chủ nghĩa phiêu lưu của Việt Nam ở Đông Nam Á. Tuy nhiên, PLA đã thất bại trong việc phân tích các bài học kinh nghiệm rút ra từ cuộc xung đột, từ triết lý và truyền thống quân sự lỗi thời, điều này có thể hạn chế quá trình hiện đại hóa và biến đổi của lực lượng này.

Bối cảnh lịch sử – văn hóa

Bắc Kinh và Hà Nội từng là đồng minh thân cận kể từ cuộc chiến tranh Đông Dương đầu tiên vào đầu những năm 1950. Tại sao CHND Trung Hoa quyết định gây chiến với CHXHCN Việt Nam vào cuối năm 1978? Các lý do của Bắc Kinh rõ ràng bao gồm “giấc mơ đế quốc” bá quyền của Hà Nội ở Đông Nam Á; xâm phạm biên giới của Trung Quốc và tiếp theo là xâm nhập vào lãnh thổ Trung Quốc; ngược đãi Hoa kiều sinh sống tại Việt Nam; và sự thân thiết của Việt Nam với Liên Xô, quốc gia đang mở rộng phạm vi ảnh hưởng sang Đông Nam Á. 4. Các nhà quan sát vào thời điểm đó và một số nghiên cứu sau này cho rằng các mục tiêu thực sự của Bắc Kinh là chuyển hướng áp lực quân sự của Hà Nội khỏi Campuchia và trói chặt các lực lượng của họ ở mặt trận thứ hai này. 5. Robert Ross biện luận việc Bắc Kinh sử dụng vũ lực chống lại Việt Nam không chỉ là phản ứng trước hành động xâm lược của Hà Nội ở Đông Dương mà còn là phản đối việc Việt Nam hợp tác với Liên Xô bao vây tách Trung Quốc khỏi Đông Nam Á. 6. Các nghiên cứu khác lập luận rằng cuộc xâm lược Việt Nam của Trung Quốc nhằm làm mất uy tín của Liên Xô như một đồng minh đáng tin cậy trong trường hợp khủng hoảng. 7.

Trong nghiên cứu của mình về mối quan hệ của Bắc Kinh với Việt Nam trước chiến thắng của Hà Nội năm 1975, Zhai Qiang kết luận rằng “chính sách thực dụng không phải là ngôn ngữ duy nhất được các nhà lãnh đạo Trung Quốc sử dụng trong quan hệ quốc tế”. Mặc dù họ tự xưng là những người theo chủ nghĩa quốc tế Mác – Lênin, nhưng họ hoàn toàn thừa hưởng di sản lịch sử của Trung Quốc: quan điểm coi Trung Quốc là trung tâm của thế giới, các quốc gia nhỏ ở ngoại vi Trung Quốc, bao gồm cả Việt Nam, là thấp kém hơn và nằm trong quỹ đạo ảnh hưởng của Trung Quốc. Mặt khác, “niềm tự hào lịch sử và sự nhạy cảm về văn hóa” là yếu tố chính ảnh hưởng đến thái độ của người Việt Nam đối với Trung Quốc. Trong suốt lịch sử của mình, người Việt Nam thích vay mượn từ nền văn minh và thể chế Trung Quốc, nhưng có sửa đổi cho phù hợp với mình để sử dụng, trong khi vẫn kiên quyết bảo tồn nền độc lập và di sản văn hóa của họ. Họ tìm kiếm sự giúp đỡ của Trung Quốc khi nội bộ yếu kém và thù địch khi thống nhất và không bị xâm lược từ bên ngoài. 8. Những hình ảnh lịch sử tương phản mà lãnh đạo và nhân dân hai nước nắm giữ liên quan đến mối quan hệ Trung – Việt rõ ràng đã đóng một vai trò quan trọng trong quyết định của Bắc Kinh tiến hành cuộc tấn công trừng phạt Việt Nam.

Từ đầu những năm 1950, Trung Quốc đã là là nước hỗ trợ chính trị và quân sự mạnh mẽ cho Hà Nội, đã giúp đỡ Việt Nam trong cuộc đấu tranh cách mạng chống Pháp và đánh thắng quân xâm lược Mỹ. Các nghiên cứu hiện tại cho thấy chính sách của Trung Quốc đối với Hà Nội trong hai cuộc chiến tranh Đông Dương đầu tiên được dẫn dắt bởi những cân nhắc nhiều mặt, từ truyền thống lịch sử đến tư tưởng cách mạng và an ninh quốc gia. Tuy nhiên, xuyên suốt là não trạng về sự ưu việt của người Trung Quốc đã chi phối nhận thức của họ về mối quan hệ của họ với Việt Nam. 9. Mặc dù các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã lặp đi lặp lại tuyên bố rằng người Việt Nam cần được đối xử “bình đẳng”, Chen Jian nhận xét rằng bản thân những lời lẽ đó đã phản ánh niềm tin mạnh mẽ của họ rằng “họ chiếm một vị thế để đưa ra các giá trị và quy tắc ứng xử chi phối các mối quan hệ của họ với láng giềng.” 10. Bắc Kinh tuyên bố rằng họ chưa bao giờ áp đặt các điều kiện kinh tế và chính trị đối với khoản viện trợ vật chất và quân sự khổng lồ của họ cho Hà Nội. Trung Quốc muốn Hà Nội công nhận vai trò hàng đầu của họ trong phong trào giải phóng dân tộc trong khu vực và trên thế giới. Thái độ này của Trung Quốc đã gây khó chịu cho người Việt Nam, những người đặc biệt nhạy cảm về các vấn đề quá khứ của họ với Trung Quốc. Bất chấp việc Bắc Kinh và Hà Nội gọi nhau là “đồng chí anh em” vào thời điểm đó, chủ yếu là người Việt Nam ngày càng ác cảm với phiên bản hiện đại của Trung Quốc trong mối quan hệ của họ.11.

Một đánh giá về tài liệu Trung Quốc liên quan đến cuộc chiến 1979 chỉ ra rằng các báo cáo về hành vi sai trái của Việt Nam đối với Trung Quốc kể từ năm 1975 làm tổn thương thêm cảm giác ưu việt của Trung Quốc. Ban lãnh đạo Việt Nam đã áp dụng chính sách coi chủ nghĩa đế quốc Mỹ là kẻ thù lâu dài, nhưng Trung Quốc là “kẻ thù trực tiếp, nguy hiểm nhất” và là “kẻ thù tương lai mới” mà Việt Nam cần chuẩn bị chiến đấu. 12. Đáp lại, Tổng cục Chính trị Quân đội Nhân dân Việt Nam kêu gọi các lực lượng vũ trang Việt Nam thực hiện chiến lược tấn công chống Trung Quốc, chủ động tiến công, phản công địch trong và ngoài lãnh thổ Việt Nam, biến vùng biên giới thành mặt trận chống Trung Quốc.13. Việt Nam khinh thường PLA và quá tin tưởng vào sức mạnh quân sự của mình cũng là chất xúc tác thúc đẩy PLA hành động. Các lực lượng thiện chiến của QĐNDVN đã chiến đấu gần như liên tục trong nhiều thập kỷ và có thể tuyên bố giành chiến thắng trước hai cường quốc phương Tây lớn, trong khi các chuyên gia Việt Nam cho rằng PLA có năng lực tác chiến thấp và tinh thần kém. QĐNDVN đặc biệt tự hào về vũ khí do Nga sản xuất và các thiết bị Mỹ thu giữ được, theo truyền thông Việt Nam, chúng vượt trội hơn nhiều so với bất cứ thứ gì mà PLA sở hữu. 14.

Trong hơn hai thập kỷ, Trung Quốc đã cung cấp cho Hà Nội 20 tỷ đô la hỗ trợ, nhiều hơn bất kỳ quốc gia nào khác. Khi Việt Nam bắt đầu ép buộc người Hoa hồi hương ở miền Bắc Việt Nam và gia tăng xâm phạm lãnh thổ Trung Quốc ở biên giới, nhiều người Trung Quốc cho rằng Hà Nội vô ơn với sự viện trợ và hy sinh này. Đã có một làn sóng phẫn nộ của công chúng đối với Việt Nam. 15. Những người đã hỗ trợ cộng sản Việt Nam trong các cuộc chiến chống Pháp và Mỹ của họ cảm thấy đặc biệt bị phản bội và mong muốn “dạy cho Việt Nam một bài học.” Trong số đó có Đặng Tiểu Bình, phó thủ tướng kiêm tổng tham mưu trưởng PLA, người mà sự khó chịu với thái độ vvoo ơn của Việt Nam đối với viện trợ của Trung Quốc có thể bắt nguồn từ giữa những năm 1960. 16. Khi mối hiềm khích giữa hai nước ngày càng gia tăng vào cuối những năm 1970, ông ngày càng trở nên đa cảm, thậm chí từng gọi Việt Nam là wangbadan (nghĩa đen là “trứng rùa” nhưng có thể được dịch là con của một con chó cái) trước một nhà lãnh đạo nước ngoài. 17. Các nhà lý luận quân sự nói chung đồng tình rằng “với chủ ý thù địch của cả hai bên, giận dữ và sự thù hận… cổ vũ” cho chiến tranh. 18. Sự xấc xược của Việt Nam cùng với các cuộc đụng độ biên giới ngày càng gia tăng và sự di cư liên tục của Hoa kiều đã kích động cảm xúc trong giới lãnh đạo chính trị và quân sự Trung Quốc, và việc cân nhắc việc sử dụng vũ lực.

Bước đầu tiến tới chiến tranh của Trung Quốc

Hiện vẫn chưa có tài liệu chắc chắn về thời điểm và cách thức Bắc Kinh đưa ra quyết định hành động quân sự chống lại Việt Nam. Nayan Chanda, phóng viên Đông Nam Á lâu năm của Tạp chí Kinh tế Viễn Đông, báo cáo với một số chi tiết rằng lãnh đạo Trung Quốc đã đưa ra quyết định “dạy cho Việt Nam một bài học” vì hành vi “vô ơn và kiêu ngạo” tại một cuộc họp hàng tuần của Bộ Chính trị vào đầu tháng Bảy năm 1978. Tuy nhiên, ông cho rằng chính tại cuộc họp này, giới lãnh đạo Trung Quốc đã liên kết “thuyết phục” rằng quyết định hành động quân sự của họ như một động thái “làm suy yếu vị thế của Liên Xô trong Thế giới thứ ba.” 19. Các nguồn tin mới của Trung Quốc cho thấy rằng việc suy tính phản ứng quân sự đối với cuộc khủng hoảng giữa Trung Quốc và Việt Nam là một quá trình chậm chạp; không có quyết định nào được đưa ra cho đến rất lâu sau đó. Hơn nữa, hành động ban đầu được coi là một cuộc xung đột cục bộ giữa các quốc gia hơn là một phần trong chiến lược chống bá quyền toàn cầu của Trung Quốc. Trong những năm đầu của thời kỳ Sau-Mao, Bắc Kinh áp dụng phong cách lãnh đạo đồng thuận thường bao gồm một quá trình tham vấn không chính thức kéo dài giữa các lãnh đạo cấp cao và cấp dưới, bao gồm cả các viên chức chính phủ và sĩ quan quân đội cấp thấp hơn chịu trách nhiệm về vấn đề này, trước khi đưa ra quyết định cuối cùng.

Zhou Deli, tham mưu trưởng Quân khu Quảng Châu, nhớ lại rằng, vào tháng 9 năm 1978, một cuộc họp về “cách đối phó với lãnh thổ của chúng ta bị quân Việt Nam chiếm đóng” đã được tổ chức tại Bộ Tổng tham mưu PLA. 20. Trọng tâm ban đầu là xung đột biên giới, vốn được coi là nguyên nhân chính dẫn đến sự leo thang căng thẳng hiện nay giữa hai nước kể từ năm 1976. 21. Một dự thảo đề xuất kiến nghị một cuộc hành quân quy mô nhỏ chống lại một trung đoàn quân địa phưng Việt Nam tại Trùng Khánh, một huyện biên giới tiếp giáp với tỉnh Quảng Tây. Tuy nhiên, sau khi xem xét các báo cáo tình báo cập nhật về một cuộc xâm lược Campuchia sắp tới của Việt Nam, đa số những người tham gia cho rằng bất kỳ hành động quân sự nào được thực hiện phải có tác động đáng kể đến Hà Nội và tình hình Đông Nam Á. Họ đề nghị một cuộc tấn công vào một đơn vị quân đội chính quy của Việt Nam trên một khu vực địa lý rộng lớn hơn. 22. Mặc dù cuộc họp kết thúc mà không có bất kỳ quyết định cụ thể nào, nhưng nó đã thiết lập luận điểm cho kế hoạch chiến tranh cuối cùng của Trung Quốc chống lại Hà Nội, và có thể là bằng chứng đầu tiên về sự liên kết của hành động quân sự ở biên giới phía Bắc của Việt Nam với sự xâm lược của họ ở Đông Nam Á.

Tuy nhiên, một chiến dịch quân sự quy mô lớn chống lại Việt Nam có nguy cơ gây ra những hậu quả đối với hình ảnh quốc tế của Trung Quốc trong khu vực và trên thế giới. Chuyến thăm chính thức theo lịch trình của Đặng Tiểu Bình tới Thái Lan, Malaysia và Singapore vào đầu tháng 11 đã tạo cơ hội tìm kiếm sự ủng hộ của các nước này đối với chính sách Việt Nam của Trung Quốc. Trong chuyến đi của mình, Deng đã gây ấn tượng với chủ nhà nước ngoài rằng Trung Quốc sẽ sử dụng vũ lực chống lại sự xâm lược của Việt Nam nếu Việt Nam tấn công Campuchia. 23. Tại Trung Quốc, các phương tiện truyền thông đầy rẫy các bài xã luận và bình luận lên án việc Việt Nam xâm phạm lãnh thổ của Trung Quốc và cảnh báo về khả năng trả đũa. 24.

Vào ngày 23 tháng 11, Bộ Tổng tham mưu triệu tập một cuộc họp khác, tại cuộc họp một kế hoạch chiến tranh mới đã được xem xét. Cân nhắc các khuyến nghị trước đó, Bộ Tổng tham mưu đã mở rộng phạm vi và thời gian hoạt động. Các kế hoạch đã biến tất cả các vị trí quân sự và thành phố lớn của Việt Nam trên biên giới Quảng Tây và Vân Nam trở thành mục tiêu cho các cuộc tấn công, dự đoán rằng điều này sẽ ngăn chặn sự xâm lược của Việt Nam. Một lần nữa, một số cảm thấy rằng các hoạt động này không đi đủ xa vì chúng vẫn chỉ giới hạn ở một khu vực hẻo lánh và không gây ra mối đe dọa ngay lập tức cho Hà Nội. Tuy nhiên, họ không lên tiếng bất đồng ý kiến, cho rằng lãnh đạo trung ương đã xem xét vấn đề một cách tỉ mỉ. Cuộc họp đã chỉ định chiến dịch sẽ được thực hiện bởi các Quân khu Quảng Châu và Côn Minh. 25. Nó cũng khuyến nghị chuyển các lực lượng dự bị chiến lược của PLA, tổng cộng gồm bốn quân đoàn và một sư đoàn, từ các Quân khu Vũ Hán và Thành Đô để tăng cường cho các mặt trận Quảng Tây và Vân Nam. 26.

Vào ngày 7 tháng 12, Quân ủy Trung ương (QUTƯ) đã triệu tập cuộc họp, được cho là kéo dài 4-5 giờ và quyết định phát động một cuộc chiến tranh giới hạn ở biên giới phía nam của Trung Quốc để “đánh trả” Việt Nam. 27. Ngày hôm sau, QUTƯ phát lệnh giao các Quân khu Quảng Châu và Côn Minh tiến hành chiến dịch quân sự với toàn bộ lực lưỡng sẵn sàng hành động vào ngày 10 tháng 1 năm 1979. Các chỉ thị quy định rằng cuộc chiến sẽ được giới hạn nghiêm ngặt, được tiến hành trong vòng 50 km tính từ biên giới và kéo dài hai tuần. Sau đó, nó nhấn mạnh các nguyên lý cốt lõi của học thuyết hoạt động truyền thống của PLA yêu cầu Bộ tư lệnh hai quân khu “tập trung lực lượng vượt trội để bao vây lực lượng đối phương từ hai bên sườn, tiêu diệt từng lực lượng đối phương bằng các trận tiêu diệt nhanh quyết định, và sau đó là rút ngay lập tức ”. 28. Thời điểm của lệnh này cho thấy Trung Quốc đáp trả cuộc xâm lược Campuchia sắp tới của Việt Nam, nhưng bằng cách tiến hành một chiến dịch quân sự lớn ngay cả trước khi các lực lượng Việt Nam vượt sông Mekong cũng thể hiện phản ứng giận dữ với hành vi vô ơn của Việt Nam trong nhiều năm.

Đặng Tiểu Bình đưa ra quyết định

 Mặc dù cỗ máy chiến tranh của Trung Quốc đã được khởi động vào đầu tháng 12, nhưng ngày tấn công cụ thể vẫn chưa được xác định. Các nghiên cứu trước đây đã suy đoán rằng quyết định chiến tranh của Bắc Kinh được đưa ra tại Hội nghị Công tác Trung ương từ ngày 10 tháng 11 đến ngày 15 tháng 12 năm 1978. 29. Trên thực tế, cuộc họp này, được kêu gọi để xem xét một chương trình nghị sự cải cách kinh tế trong mười năm tới, giải quyết dứt điểm các di sản của Cách mạng Văn hóa. Vẫn còn chưa rõ liệu có một cuộc thảo luận quan trọng nào về tình hình Đông Dương hay không. 30. Tuy nhiên, cuộc họp đã củng cố địa vị của Đặng Tiểu Bình trong ban lãnh đạo trung ương, cho phép ông ta, mặc dù chỉ là một trong năm Phó Chủ tịch Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) và Tổng tham mưu trưởng, trở thành người ra quyết định về Việt Nam.

Tại hội nghị CMC vào đêm cuối năm, Đặng chính thức đề xuất cuộc chiến tranh trừng phạt chống Việt Nam. Tất cả những người tham gia, bao gồm Hoa Quốc Phong, chủ tịch ĐCSTQ, được cho là ủng hộ đề xuất này. Tại cuộc họp, Đặng chỉ định Xu Shiyou chỉ huy các chiến dịch từ Quảng Tây ở phía đông, (31) và Yang Dezhi, tư lệnh Quân khu Vũ Hán, chỉ huy các chiến dịch từ Vân Nam ở phía tây, bỏ qua Wang Bicheng, tư lệnh Quân khu Côn Minh. 32. Dường như lo ngại về sự thay đổi chỉ huy vào trước chiến tranh, Đặng sau đó đã cử hai cấp phó của mình đến Côn Minh để giám sát quá trình chuyển quân và chuẩn bị chiến tranh. Không có sự chỉ huy tập trung, hai quân khu sẽ tiến hành chiến tranh một cách độc lập mà hầu như không có sự phối hợp hay hợp tác. Cuộc họp cũng nhắc lại rằng cuộc xâm lược phải nhanh chóng và tất cả quân đội phải rút về sau khi đạt được các mục tiêu chiến dịch. 33.

Các bài viết hiện tại cho rằng một số nhà lãnh đạo Trung Quốc đã phản đối một cuộc tấn công vào Việt Nam, nhưng họ không đồng ý về những người lãnh đạo và hình thức thực hiện của đối phương*. 34. Do Đặng Tiểu Bình là kiến trúc sư trưởng của kế hoạch, nên không ai dám thách thức quyết định của ông ta, vì ông ta có địa vị cao và uy tín trong Đảng. Quyền kiểm soát của Đặng đối với Bộ Tổng tham mưu đã cho ông một kênh thuận tiện để thiết lập bộ máy quân sự Trung Quốc trước khi ban lãnh đạo trung ương đưa ra quyết định chính thức. Hành động giống như Mao, Đặng đã tham khảo ý kiến riêng của các cộng sự đáng tin cậy trước khi đưa ra quyết định, và chỉ sau đó quyết định của ông ta mới được Bộ Chính trị chính thức thông qua.

Một trong những cộng sự thân cận nhất của Đặng là Trần Vân (Chen Yun), một phó chủ tịch [Ủy ban Trung ương] khác của ĐCSTQ và là một Nguyên lão của Đảng, người được cho là đã đóng góp đáng kể vào quyết định chiến tranh ở Việt Nam. 35.

Có một số mối quan tâm lớn: liệu Liên Xô có đáp trả bằng các cuộc tấn công trả đũa từ phía bắc để buộc Trung Quốc phải chiến đấu trên hai mặt trận; liệu Hoa Kỳ có tận dụng cơ hội để thu lợi từ tình hình này hay không; dư luận thế giới sẽ phản ứng như thế nào; và liệu chiến tranh với Việt Nam có cản trở chương trình nghị sự mới của Trung Quốc về hiện đại hóa kinh tế hay không. 36. Theo phân tích tình báo của Bộ Tổng tham mưu, Mát-xcơ-va sẽ có ba lựa chọn quân sự để đối phó với cuộc xâm lược: một cuộc tấn công vũ trang lớn bao gồm một cuộc tấn công trực tiếp vào Bắc Kinh; xúi giục những người dân tộc thiểu số có vũ trang, những người đang sống lưu vong ở Liên Xô, tấn công các tiền đồn của Trung Quốc ở Tân Cương và Nội Mông; hoặc lợi dụng các cuộc giao tranh để gia tăng căng thẳng biên giới giữa hai nước.

Tuy nhiên, do Liên Xô không có đủ lực lượng để tiến hành bất kỳ chiến dịch quân sự lớn nào chống lại Trung Quốc ngay lập tức, các nhà lãnh đạo Trung Quốc, đặc biệt là Đặng, tin rằng một hành động quân sự mang tính phòng thủ, hạn chế và ngắn gọn chống lại Việt Nam sẽ không kích động sự can thiệp của Mát-xcơ-va và sự phẫn nộ của quốc tế. 37. Hai cuộc xung đột biên giới trước đó, với Ấn Độ năm 1962 và Liên Xô năm 1969, đã chứng thực tính toán này. Mong muốn về một cuộc chiến ngắn cũng giúp làm giảm bớt sự phản đối trong nước và biện minh cho lựa chọn chính sách của Bắc Kinh. Tuy nhiên, các nhà lãnh đạo Trung Quốc không thể hạ thấp đề phòng, họ đồng thời ra lệnh cho quân đội ở các quân khu phía bắc và tây bắc tăng cường sẵn sàng chiến đấu đề phòng các cuộc tấn công của Liên Xô. 38.

Cuộc họp cuối năm đã hoãn lại thời gian hành động quân sự. Các nhà phân tích phương Tây cho rằng Bắc Kinh vẫn bị kìm hãm bởi lo ngại về phản ứng quốc tế. Do đó, Đặng đã sắp xếp các chuyến đi đến Hoa Kỳ và Nhật Bản để “kiểm tra mực nước*”. 39. Tuy nhiên, những người có quan hệ gần gũi với Đặng cho rằng nguy cơ phản ứng dữ dội của quốc tế sẽ không ngăn cản được Đặng vì ông ta sẽ không nhượng bộ một khi đã hạ quyết tâm. 40. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc lo lắng hơn về việc liệu lực lượng của họ có đủ thời gian để chuẩn bị đầy đủ cho cuộc xâm lược hay không. Binh lính Trung Quốc đã không tham gia bất kỳ cuộc chiến nào trong một thời gian dài, trong khi nhiều người trong số họ không thể hiểu rõ vì sao chiến đấu chống lại một quốc gia láng giềng nhỏ bé và là một đồng minh truyền thống. 41.

Ngay sau cuộc họp ngày cuối năm, Đặng đã cử Yang Yong, Phó tổng tham mưu trưởng và Zhang Zhen, giám đốc Tổng cục Hậu cần, lần lượt đến Vân Nam và Quảng Tây để kiểm tra điều kiện chiến đấu của quân đội. Kinh hoàng trước sự thiếu sẵn sàng của họ, Zhang ngay lập tức đề nghị hoãn chiến tranh trong một tháng. Sau đó, ông nhớ lại rằng CMC đã đồng ý đẩy lùi cuộc phản kích tự vệ cho đến giữa tháng Hai. 42. Yang đưa ra báo cáo của mình, cùng với các đề xuất về kế hoạch chiến tranh, vào ngày 22 tháng 1 tại nhà của Đặng với sự chứng kiến của các lãnh đạo chính của CMC. 43. Có khả năng là tại cuộc họp này, giới lãnh đạo Trung Quốc đã khẳng định lại quyết định chiến tranh và xác định khung thời gian cho ngày-N. Ngày hôm sau, Bộ Tổng tham mưu tổ chức một cuộc họp để hoàn thiện kế hoạch tác chiến và quân đội được lệnh sẵn sàng hành động vào ngày 15 tháng 2. 44. Để ngăn chặn tình hình trở nên mất kiểm soát, ban lãnh đạo trung ương đặc biệt yêu cầu Xu Shiyou ngừng các hoạt động quân sự và rút quân về sau khi chiếm được Lạng Sơn và Cao Bằng, hai thành phố lớn của Việt Nam ở biên giới. 45.

Ngày 11 tháng 2 năm 1979, hai ngày sau khi Đặng Tiểu Bình trở về Bắc Kinh từ chuyến công du đến Hoa Kỳ và Nhật Bản, một hội nghị Bộ Chính trị mở rộng đã được triệu tập. Tại hội nghị, Đặng đã nêu rõ lý do cơ bản cho tấn công Việt Nam, và sau đó, lệnh phát động tấn công Việt Nam vào ngày 17 tháng 2 được ban hành cho các chỉ huy quân sự địa phương ở Quảng Tây và Vân Nam. 46. Đây là ngày mà các nhà quan sát bên ngoài đã dự đoán trước từ lâu. Họ suy đoán một cách hợp lý rằng thời điểm tấn công có thể liên quan mật thiết đến các yếu tố thời tiết: sẽ không thuận lợi để tiến hành các hoạt động quân sự vào mùa mưa, thường bắt đầu vào tháng 4, hoặc tấn công quá sớm khi các lực lượng vũ trang Liên Xô có thể vượt qua các con sông đóng băng dọc biên giới Trung Quốc – Liên Xô. 47. Đặng và các nhà lãnh đạo Trung Quốc khác đã tính toán kỹ lưỡng mọi hậu quả có khả năng xảy ra khi quân của họ vượt qua biên giới Việt Nam. Họ giới hạn phạm vi, thời gian và không gian cho cuộc chiến và coi đây là “cuộc phản công tự vệ”, cố gắng giảm bớt mọi phản ứng tiêu cực trong và ngoài nước. 48. Tuy nhiên, khi cuộc chiến bắt đầu, Đặng rất chú ý đến những gì đang diễn ra, và đưa ra một số chỉ thị và mệnh lệnh cụ thể (trái ngược với phong cách lãnh đạo của Mao Trạch Đông). 49.

Chiến lược, Mục tiêu và Chuẩn bị.

 Gerald Segal tuyên bố rằng động cơ chính của Trung Quốc khi tấn công Việt Nam là để kiểm tra tham vọng và sự xâm lược của Việt Nam ở Đông Nam Á và mối đe dọa của họ đối với an ninh quốc gia Trung Quốc, cũng như vạch trần sự yếu kém của Liên Xô. Nhưng tính toán chính trị kém đồng nghĩa với việc các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã tự đặt mình vào thế khó trong việc tạo ra một chiến lược trừng phạt Việt Nam và họ không bao giờ có cơ hội thành công. 50. Mong muốn của Trung Quốc khi tuyên bố rõ ràng là “dạy cho Việt Nam một bài học” đã chuyển tải mục tiêu chiến tranh quan trọng nhất của họ là “một hành động trả thù”. 51 Ngay từ đầu, Bắc Kinh đã giới hạn các mục tiêu và việc tiến hành chiến tranh không để vượt ra ngoài xung đột biên giới song phương. Ban lãnh đạo quân sự của Quảng Châu và Côn Minh được yêu cầu phải đưa ra một chiến lược tác chiến không chỉ hoàn thành mục tiêu trừng phạt mà còn phải hạn chế các hành động trong thời gian và không gian. Câu hỏi thực sự đặt ra cho các nhà hoạch định quân sự địa phương của Trung Quốc là đánh giá thế nào là mục tiêu của việc dạy cho Việt Nam một bài học đã đạt được hoặc đo lường được. Kinh nghiệm kiến thức thông thường của PLA luôn đặt ra áp lực đặc biệt đối với việc tiêu diệt các lực lượng quan trọng của đối phương (yousheng liliang). Một trong những truyền thống hoạt động của PLA là sử dụng một lực lượng vượt trội tuyệt đối để đảm bảo chiến thắng. Đến giữa tháng 1 năm 1979, hơn một phần tư quân đội tác chiến của PLA đã được tập hợp tại biên giới Trung Quốc – Việt Nam, với tổng cộng hơn 320.000 quân.

Rút ra từ kinh nghiệm chiến đấu của chính mình và dựa trên phong cách hoạt động và chiến thuật mà PLA đã phát triển trong quá khứ, Xu Shiyou đã đáp ứng các yêu cầu chiến tranh của lãnh đạo trung ương bằng cách tiếp cận được gọi là niudao shaji (dùng dao mổ trâu để giết gà). Việc tiến hành kiểu giao tranh này bao gồm ba yếu tố cơ bản: các cuộc tấn công phải tập trung vào các phần quan trọng trong phòng thủ của kẻ thù, nhưng không tập trung vào điểm mạnh của kẻ thù; sử dụng lực lượng và hỏa lực áp đảo để đập tan tuyến phòng thủ của địch ngay tại điểm giao tranh; quân tấn công phải di chuyển nhanh nhất có thể để thọc sâu, bằng mọi cách đánh vào trái tim của kể địch. Bằng cách này, Xu dự kiến lực lượng của mình sẽ cắt tuyến phòng thủ của kẻ thù thành nhiều mảnh, phá vỡ sự kháng cự của địch thủ, và sau đó tiêu diệt quân phòng thủ. 52.

Theo các nguyên tắc này, các Quân khu Quảng Châu và Côn Minh đã phát triển các kế hoạch chiến tranh tương ứng của họ với trọng tâm là tiêu diệt các sư đoàn chính quy của Việt Nam ở biên giới Trung Quốc. Cuộc chiến sẽ diễn ra trong hai giai đoạn. Trong giai đoạn đầu, một cuộc tấn công hai mũi nhọn sẽ được tiến hành nhằm vào Cao Bằng và Lào Cai, nhằm bao vây hai sư đoàn Việt Nam ở đó và tiêu diệt chúng, đồng thời phát động một cuộc tấn công đồng thời vào Đồng Đăng nhằm khiến Hà Nội mơ hồ về mục tiêu chiến tranh của Trung Quốc. Sau đó, lực lượng PLA tại Quảng Tây sẽ tập trung tấn công Lạng Sơn, trong khi lực lượng của Vân Nam sẽ cố gắng giao tranh với một sư đoàn Việt Nam ở khu vực Sa Pa. Tổng cộng tám đạo quân PLA sẽ tham chiến ngay lập tức, còn một đạo quân giữ làm dự bị.

Bắc Kinh cũng đã vạch ra một chiến lược về thời điểm và cách thức sử dụng lực lượng không quân. Lực lượng Không quân PLA sẽ điều 18 trung đoàn không quân cộng với 6 nhóm bay bổ sung để chuẩn bị hỗ trợ các hoạt động trên bộ. Để tránh leo thang xung đột, CMC hạn chế việc sử dụng sức mạnh không quân trong lãnh thổ của Trung Quốc, đồng thời ra lệnh cho các đơn vị không quân chuẩn bị hỗ trợ cho các hoạt động mặt đất “nếu cần thiết” nhưng không đưa ra định nghĩa rõ ràng như thế nào hoặc khi nào là tình huống “cần thiết”. Lệnh quy định rằng bất kỳ hoạt động nào bên ngoài không phận Trung Quốc phải được CMC cho phép. Dựa trên nguyên tắc này, chiến lược yêu cầu tất cả các đơn vị không quân phải sẵn sàng chiến đấu để đảm bỏa phòng không và yểm trợ mặt đất, đồng thời phải thực hiện càng nhiều chuyến bay trên vùng trời biên giới càng tốt khi cuộc tập kích mặt đất bắt đầu nhằm ngăn chặn không quân Việt Nam có hành động chống lại Trung Quốc. Các nhân viên chỉ huy và kiểm soát không lưu và các bên kiểm soát chiến thuật được cử đến các sở chỉ huy tiền phương của Quân khu Quảng Châu và Côn Minh, sở chỉ huy và một số sư đoàn lục quân sẽ đảm nhận nhiệm vụ tấn công chính. 53.

Từ cuối tháng 12 năm 1978 đến hết tháng 1 năm 1979, quân đội Trung Quốc lao vào huấn luyện chiến đấu và tập trận. Vì nhiều người trong số họ là những tân binh đã từ lâu chỉ tham gia sản xuất nông nghiệp nên sự cố gắng điên cuồng vào phút cuối như vậy dù hữu ích nhưng chắc chắn là không đủ. Việc huấn luyện chủ yếu tập trung vào các kỹ năng cơ bản của binh lính như bắn súng và ném lựu đạn, rất ít đơn vị có thể thực hiện bất kỳ cuộc huấn luyện hay diễn tập chiến thuật ý nghĩa nào ở cấp trung đoàn và sư đoàn. Nhiều sĩ quan báo cáo rằng họ không chắc về khả năng chiến đấu của lính của mình. Cuối cùng, quân đội PLA được chỉ định để xâm lược đã được huấn luyện kém và chuẩn bị không đầy đủ cho một cuộc chiến tranh hiện đại chống lại các lực lượng của Việt Nam có kinh nghiệm chiến đấu thu được trong 25 năm chiến tranh trước cuộc xung đột, yếu tố này dường như đã bị bỏ qua. 54.

Bất chấp nhu cầu huấn luyện khẩn cấp, PLA vẫn tiếp tục truyền thống quân sự của mình, sử dụng tuyên truyền chính trị để nâng cao tinh thần và cải thiện hiệu quả chiến đấu. Một cỗ máy tuyên truyền đã được thiết lập để thuyết phục binh lính rằng quyết định của lãnh đạo trung ương tiến hành chiến tranh là cần thiết và chính đáng. Việt Nam đã biến chất trở thành “Cuba phương Đông”, “côn đồ châu Á” và “con chó chạy theo Liên Xô”, cố gắng theo đuổi tham vọng bành trướng của mình. Hệ tư tưởng chính trị của chủ nghĩa Mác, mặc dù được hai nước chia sẻ, nhưng không ngăn được Trung Quốc phát động các hành động tự vệ chống lại một nước láng giềng nhỏ khi lợi ích tối quan trọng của quốc gia bị ảnh hưởng.

Các bài giảng, các cuộc mít tinh tố cáo, ảnh và tang vật chứng cứ nhằm khơi dậy lòng yêu nước, căm thù giặc. Ít nhất họ đã đưa ra một lời giải thích rõ ràng hợp lý cho những người lính Trung Quốc bình thường và ít học về lý do tại sao Trung Quốc nên tiến hành các cuộc tấn công quân sự vào Việt Nam, một quốc gia anh em, đồng chí trong suốt thời gian dài.

Chiến dịch quân sự

Các cuộc phản công tự vệ của PLA được thực hiện trong ba giai đoạn. Đầu tiên là từ ngày 17 đến ngày 25 tháng 2, quân Trung Quốc đập tan tuyến phòng thủ đầu tiên của Việt Nam và đánh chiếm các tỉnh lỵ Cao Bằng, Lào Cai, các thị trấn biên giới trọng điểm như Cam Đường và Đồng Đăng, cửa ngõ vào Lạng Sơn. Giai đoạn thứ hai là chiến dịch đánh vào Lạng Sơn và các vùng phụ cận ở phía đông, Sa Pa và Phong Thổ ở phía tây bắc, từ ngày 26 tháng 2 đến ngày 5 tháng 3. Giai đoạn cuối cùng là tiếp tục nỗ lực nhằm bình định các lực lượng còn sót lại của kẻ thù trong khi phá hủy các cơ sở quân sự ở khu vực biên giới với Trung Quốc trước khi rút quân hoàn toàn vào ngày 16 tháng 3. Các hoạt động quân sự được tiến hành bên trong lãnh thổ Việt Nam dọc theo biên giới kéo dài 900 km từ đông sang tây. Trong 30 ngày, quân Trung Quốc đã đánh những trận đẫm máu nhất kể từ Chiến tranh Triều Tiên; sau đó nó trở thành bước ngoặt đối với PLA. Cuộc tấn công của Trung Quốc khiến Hà Nội bất ngờ. Tình báo Việt Nam rõ ràng đã thất bại cảnh báo giới lãnh đạo Hà Nội chuẩn bị trước cuộc xâm lược của Trung Quốc. Mặc dù Bắc Kinh đã đe dọa trong nhiều tháng, các nhà lãnh đạo Việt Nam không thể tin “một nước xã hội chủ nghĩa anh em” sẽ tấn công họ. Khi một lượng lớn quân Trung Quốc tràn qua biên giới, Thủ tướng Phạm Văn Đồng và Tổng Tham mưu trưởng QĐNDVN Văn Tiến Dũng đang thăm Phnom Penh. Cách thức tấn công rộng khắp của PLA cũng khiến bộ chỉ huy cấp cao của Việt Nam bối rối trong việc xác định trục chính của lực lượng xâm lược và mục tiêu thực sự của cuộc tấn công. 55. Trong khi đưa ra yêu cầu khẩn cấp để Mátxcơva thực hiện các nghĩa vụ của mình theo hiệp ước hữu nghị và hợp tác mới được ký kết giữa hai nước, phản ứng ngay lập tức của Hà Nội là “tùy cơ ứng biến, tung ra bất cứ sự kháng cự nào có thể làm chậm bước tiến của Trung Quốc.” 56. Các trận đánh lớn diễn ra quanh các thị trấn biên giới Sóc Giang, Dong He, Đồng Đăng, Cao Bằng, Lào Cai và Cam Đường. Các cuộc giao tranh diễn ra ở từng hẻm núi và từng ngọn đồi. Cả hai bên đều thể hiện sẵn sàng tấn công và phản công bất chấp thương vong nặng nề. Đến ngày 20 tháng 2, các cố vấn Liên Xô kết luận rằng phòng thủ kiểu du kích và không hiệp đồng của Việt Nam sẽ không thể ngăn chặn được các bước tiến của quân Trung Quốc. Một khuyến nghị được đưa ra là không vận ngay lập tức 30.000 quân từ Campuchia về để củng cố tuyến phòng thủ giữa Lạng Sơn và Hà Nội.

Các nguồn tin của Liên Xô chỉ ra rằng các cố vấn của họ đã rất nỗ lực tìm kiếm nhà lãnh đạo Việt Nam và thuyết phục ông ta hành động. 57. Không hiểu rõ mục tiêu chiến tranh của Bắc Kinh, Hà Nội tỏ ra chậm chạp trước tình hình thay đổi nhanh chóng trên chiến trường. Bất chấp bước đột phá ban đầu của PLA, địa hình, đặc biệt là thiếu đường và sự kháng cự ác liệt của lực lượng chính quy Việt Nam, các đơn vị biên phòng khu vực và dân quân, đã sớm khiến quân Trung Quốc rơi vào tình huống tác chiến không thuận lợi, bộc lộ nhiều điểm yếu và kém hiệu quả của lực lượng PLA trong chỉ huy, thông tin liên lạc và hậu cần. Hầu hết các vấn đề vốn đã tồn tại trong truyền thống của PLA. Trong một số trường hợp, Bộ tư lệnh mặt trận Trung Quốc đã yêu cầu yểm trợ trực tiếp trên không khi các cuộc tấn công mặt đất gặp phải sự kháng cự dữ dội từ phía Việt Nam. Bộ Tổng tham mưu từ chối, thay vào đó ra lệnh cho họ chỉ dựa vào sự hỗ trợ của hỏa lực pháo binh. 58. PLA và các tướng lĩnh của nó được sinh ra từ một truyền thống thể chế đã quen với chiến tranh bộ binh với hỏa lực pháo binh và ưu thế về quân số. “Tinh thần của lưỡi lê” tiếp tục thịnh hành. Kết quả là Chiến tranh Trung-Việt năm 1979 đã vô cùng chết chóc và tàn khốc.

Sự thành công của cuộc xâm lược trừng phạt của PLA phụ thuộc vào các chiến thuật thâm nhập, đánh sườn và bao vây Cao Bằng. Tuy nhiên, hai sư đoàn tấn công thọc sâu không thể đến đích trong vòng 24 giờ. Địa hình đồi núi, rừng rậm, không có đường giao thông và các cuộc phục kích của lực lượng địa phương và dân quân Việt Nam đã gây ra những khó khăn không ngờ cho quân Trung Quốc. Sự chậm trễ này buộc Xu Shiyou phải rút lại lệnh tấn công ngay lập tức vào Cao Bằng, mặc dù một đội quân dưới sự chỉ huy của phó tướng, Wu Zhong, đã tiến sát thành phố từ phía đông và nam. 59. Tuy nhiên, một cuộc điều tra đang diễn ra về đảng phái chính trị của Wu trong Cách mạng Văn hóa đã đình chỉ chức vụ chỉ huy của Wu ngay giữa chiến dịch. Trong một bức điện tín ngày 20 tháng 2, Xu nhắc lại nhiệm vụ trước đó và chiến dịch sẽ tiếp tục dưới sự chỉ huy của cấp phó khác, mặc dù sau này, quân của Xu vẫn chiến đấu trên đường đến Cao Bằng từ phía bắc. Mãi đến ba ngày sau, Xu và các sĩ quan tham mưu của ông mới nhận ra rằng thành phố chỉ được bảo vệ bởi một số ít quân Việt Nam đang kiểm tra các trụ sở của họ và của chính quyền tỉnh trước khi rút lui. Sau đó, ông ta ra lệnh tấn công vào thành phố, quân Trung Quốc đã chiếm được sau một số giờ giao tranh. 60. Việc chiếm được Cao Bằng quá trễ đã làm đảo lộn kế hoạch chiến dịch ban đầu của PLA, vốn được thiết kế để tìm kiếm các cuộc giao tranh nhanh chóng và quyết định. Lực lượng Việt Nam phân tán thành các đơn vị cấp đại đội và trung đội, ẩn nấp trong rừng núi, hang động và tiếp tục phản công.

Sự kháng cự liên tục của bộ đội và dân quân Việt Nam đã buộc quân Trung Quốc phải sửa đổi chiến thuật hành quân, chia quân thành các đội hình cấp tiểu đoàn và đại đội để tham gia các cuộc hành quân tìm diệt ở các khu vực Cao Bằng, Trà Lĩnh, Trùng Khánh và Quảng Hòa. Các chiến thuật mới bao gồm chặn đường, lùng sục vùng đồi núi, tìm kiếm hang động, đốt rừng và phá hủy đường hầm. 61. Các cuộc giao tranh ác liệt tiếp tục diễn ra và hàng trăm binh lính và dân thường Việt Nam đã thiệt mạng. Mãi đến ngày 6 tháng 3, các tài liệu Việt Nam chiếm được dường như cho thấy sư đoàn QĐNDVN được giao nhiệm vụ bảo vệ Cao Bằng đã bị đánh bại. Nếu không có điều đó, tổn thất nặng nề của PLA trong giai đoạn đầu có nghĩa là hoạt động có vẻ kém thành công hơn nhiều. 62.

Bắc Kinh ngày càng lo lắng về diễn biến của cuộc chiến, buộc chỉ huy chiến trường ở Quảng Tây phải bắt đầu trận đánh quyết định chiếm Lạng Sơn, một cửa ngõ bảo vệ Hà Nội từ phía bắc, càng sớm càng tốt. 63. Dường như không hài lòng với những gì đã xảy ra tại Cao Bằng, Xu tổ chức lại kế hoạch tiến quân và thúc quân của mình đánh mạnh hơn vào Lạng Sơn. Sáu sư đoàn Trung Quốc đã tham gia vào trận chiến quyết định này, bắt đầu vào ngày 27 tháng 2, sau một đợt pháo kích lớn. Sau những trận chiến ác liệt, các lực lượng Trung Quốc lần đầu tiên giành được quyền kiểm soát phần lớn các khu đất cao xung quanh và sau đó chiếm được phần phía bắc của thành phố vào ngày 2 tháng 3, đây là ngày dự kiến tạm dừng các hoạt động quân sự. Do bộ máy tuyên truyền của Hà Nội không chịu thừa nhận thất bại của quân Việt Nam ở Lạng Sơn, Xu quyết định tiếp tục tiến quân, thúc quân qua sông Kỳ Cùng, (sông này chia cắt thành phố Lạng Sơn thành các quận phía Bắc và phía Nam), chiếm toàn bộ thành phố, sau đó tiến sâu hơn về phía nam tạo thế quân sự uy hiếp Hà Nội. 64. Mặc dù Bắc Kinh tán thành quyết định của Xu, nhưng họ tuyên bố rút quân vào ngày 5 tháng 3, ngay sau khi quân đội Trung Quốc chiếm đóng phần phía nam của Lạng Sơn, tuyên bố rằng họ đã đạt được mục tiêu chiến tranh của mình.

Đánh giá cuộc chiến tranh của Trung Quốc với Việt Nam

Chiến tranh của Trung Quốc với Việt Nam năm 1979 là chiến dịch quân sự lớn nhất mà PLA khởi xướng kể từ Chiến tranh Triều Tiên. Dựa trên chiến lược của Mao Trạch Đông “trong mọi trận chiến, tập trung lực lượng vượt trội tuyệt đối để chống lại kẻ thù”, Bắc Kinh đã triển khai 9 đội quân chính quy cùng với các đơn vị địa phương và đặc biệt, lên tới hơn 300.000 quân, để tiến hành cuộc chiến tranh trừng phạt Việt Nam trong một tháng. Các đơn vị máy bay chiến đấu của Lực lượng Không quân đã thực hiện 8.500 phi vụ tuần tra trên không, trong khi các đơn vị trực thăng và vận tải đã thực hiện 228 phi vụ trong các nhiệm vụ không vận; 65.

Hải quân đã cử một lực lượng đặc nhiệm (gồm hai khinh hạm tên lửa và ba phi đội tàu tấn công tên lửa và ngư lôi) đến quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa) để chuẩn bị [chống lại]  sự can thiệp của hải quân Liên Xô. Ngoài ra, các tỉnh Quảng Tây và Vân Nam đã huy động hàng chục nghìn dân quân và lao động để hỗ trợ các hoạt động quân sự này. 66. Trong cuộc xung đột, quân Trung Quốc đã chiếm được ba tỉnh lỵ của Việt Nam và hơn một chục thị trấn và quận lỵ biên giới, tuyên bố đã giết và bị thương 57.000 quân Việt Nam, đồng thời đánh thiệt hại nặng bốn sư đoàn chính quy và mười trung đoàn khác cùng với việc bắt giữ một lượng lớn vũ khí. Bắc Kinh khẳng định rằng cuộc chiến chống Việt Nam năm 1979 đã kết thúc với chiến thắng của Trung Quốc. 67.

Tuy nhiên, hầu hết các nghiên cứu đương đại đều lưu ý rằng Việt Nam “thực sự vượt trội hơn” các lực lượng Trung Quốc trên chiến trường vì các vấn đề của PLA trong hoạt động và báo cáo thương vong nặng nề. 68. Hà Nội tuyên bố rằng chỉ có dân quân và lực lượng địa phương tham gia vào cuộc xung đột, và không sử dụng chiến thuật phòng thủ mà tấn công liên tục chống lại quân xâm lược Trung Quốc. Họ chỉ mất Lạng Sơn và các thành phố khác sau khi gây thương vong to lớn cho quân Trung Quốc. 69. Đài phát thanh Hà Nội thời đó thông báo rằng Việt Nam đã giết và làm bị thương 42.000 quân Trung Quốc. 70. Rất ít tài liệu của Việt Nam được cung cấp cho các nhà nghiên cứu về kết quả hoạt động và thiệt hại của họ trong cuộc xung đột ngoài thông tin được đăng tải bởi các cá nhân trên không gian mạng, điều này ngược lại cho thấy sự tham gia đáng kể của lực lượng chính quy QĐNDVN và thương vong nặng nề hơn. 71. Việc đánh giá lại cuộc chiến của Trung Quốc với Việt Nam nếu chỉ dựa vào các nguồn của Trung Quốc là một chiều nhưng có thể được soi sáng.

Một cách tiếp cận để đánh giá lợi ích và tổn thất của Trung Quốc là tập trung vào thương vong. Bắc Kinh ban đầu thừa nhận rằng 20.000 quân Trung Quốc bị giết hoặc bị thương trong cuộc xung đột biên giới với Việt Nam. 72. Các Học giả hiện tại có xu hướng ước tính khoảng 25.000 PLA thiệt mạng trong chiến dịch và 37.000 người khác bị thương. 73. Các nguồn tin gần đây của Trung Quốc phân loại thiệt hại của PLA là 6.900 người chết và khoảng 15.000 người bị thương, tổng số thương vong là 21.900 người từ lực lượng xâm lược hơn 300.000 người. Thương vong của Trung Quốc trong một cuộc chiến ngắn như vậy trong mọi trường hợp đều cao đáng kể, tiếp tục cho thấy một trong những đặc điểm lâu dài trong phong cách tác chiến và chiến thuật của PLA: sẵn sàng chịu tổn thất nặng nề khi xét thấy cần thiết. 74. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc coi thương vong là một tiêu chí tương đối không quan trọng để cân nhắc thành công quân sự miễn là họ tin rằng tình hình chiến lược tổng thể nằm trong tầm nắm bắt và kiểm soát của họ. 75.

Từ quan điểm của Trung Quốc, cuộc chiến năm 1979 với Việt Nam là một phản ứng quân sự được dàn dựng có chủ ý đáp trả chính sách của Việt Nam đối với Trung Quốc và sự bành trướng của nước này ở Đông Nam Á cũng như tham vọng toàn cầu của Liên Xô.76. Mặc dù chiến dịch này bộc lộ những khiếm khuyết của PLA trong học thuyết và chiến thuật hiện đại, nhưng từ đầu đến cuối, Trung Quốc đã nắm bắt được thế chủ động và tiến độ của cuộc xung đột. Bắc Kinh đã gây bất ngờ cho Hà Nội không chỉ bằng cách tiến hành các cuộc tấn công lớn mà còn bằng cách rút quân nhanh chóng mà không bị sa lầy ở Việt Nam.77. Cách đánh giá phản ứng của Liên Xô đối với cuộc xâm lược cũng đã thành công trong việc vạch trần sự bất lực hoặc không sẵn lòng của Matxcova đối với Việt Nam. Lòng tin của Việt Nam vào Liên Xô về an ninh rõ ràng là một trải nghiệm đáng thất vọng. Điều cuối cùng trở nên quan trọng hơn nữa là cuộc chiến năm 1979 là sự khởi đầu của chính sách “làm chảy máu” Việt Nam của Bắc Kinh trong nỗ lực kiềm chế sự bành trướng của Hà Nội ở Đông Nam Á. Việc Việt Nam rút khỏi Campuchia sau cuộc tấn công của Trung Quốc là điều mong muốn của giới lãnh đạo Trung Quốc, nhưng họ không bao giờ lường trước được việc rút quân ngay lập tức. Trung Quốc vẫn lựa chọn sử dụng chiến lược duy trì áp lực quân sự đối với Việt Nam, bao gồm đe dọa thường xuyên bằng lời nói về một cuộc tấn công thứ hai, và thỉnh thoảng tăng cường pháo kích và các trận đánh lớn ở biên giới trong trong suốt gần một thập kỷ 1980. 78. Một nghiên cứu vào đầu những năm 1990 kết luận: “Chiến tranh được coi thành công nhất khi nhìn vào tính chiến thuật trong chiến lược của Trung Quốc về một cuộc chiến tranh tiêu hao kéo dài”. 79.

Tương tự, cuộc chiến không gây ra hậu quả quốc tế đáng kể cho Trung Quốc. Việc sử dụng vũ lực chống lại Việt Nam đã làm dấy lên sự nghi ngờ của Indonesia và Malaysia, những người luôn cảnh giác với ảnh hưởng của Trung Quốc trong khu vực. Việc Việt Nam chiếm đóng Campuchia, đe dọa Thái Lan, tạo điều kiện cho sự phát triển liên tục của liên minh đối lập mạnh mẽ các nước ASEAN chống lại Việt Nam. 80. Về mối quan hệ Trung-Mỹ, cuộc xâm lược trừng phạt của Trung Quốc tỏ ra đặc biệt thành công. Trong khi Washington công khai lên án cả cuộc xâm lược Campuchia của Việt Nam lẫn cuộc xâm lược Việt Nam của Trung Quốc, thì họ cũng chia sẻ lợi ích của Trung Quốc trong việc kiềm chế ảnh hưởng của Liên Xô ở Đông Nam Á. Việc Bắc Kinh sẵn sàng sử dụng vũ lực, bất kể thương vong phải gánh chịu, đã khiến Trung Quốc trở thành “một biện pháp răn đe có giá trị” đối với chủ nghĩa bành trướng Liên Xô -Việt Nam; Washington tiếp tục tìm kiếm mối quan hệ thân thiết với Trung Quốc để tạo đối trọng với Liên Xô. 81.

Giới lãnh đạo Việt Nam dường như không phản ứng khi hiểu rõ chiến lược và mục tiêu chiến tranh của Trung Quốc, nhưng Trung Quốc kiên trì duy trì cuộc xâm lược năm 1979 để mở đầu cho kế hoạch lâu dài của Bắc Kinh nhằm xâm phạm chủ quyền và độc lập của Việt Nam. 82. Sau khi Trung Quốc tuyên bố rút quân ngày 5 tháng 3, Hà Nội đã kêu gọi một cuộc tổng động viên toàn quốc cho cuộc chiến tranh đồng thời thúc đẩy xây dựng các vị trí phòng thủ trong và xung quanh Hà Nội. Đến cuối tháng 5, PLA đã quay về trạng thái bình thường. 83. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn tiếp tục đề phòng, duy trì một số lượng lớn quân dọc biên giới phía bắc đối mặt với Trung Quốc vào thời điểm nền kinh tế của nước này “trong tình trạng tồi tệ hơn bất kỳ thời điểm nào kể từ năm 1975”. 84. Kết quả là, những nỗ lực của Hà Nội để chống lại hai cuộc chiến tranh đồng thời, ở Campuchia và biên giới phía bắc, rõ ràng đã khiến đất nước phải trả giá cao về kinh tế và xã hội, triệt tiêu nỗ lực hiện đại hóa nền kinh tế của Hà Nội, và quan trọng hơn là làm suy yếu tham vọng địa chính trị của họ. Tuy nhiên, giới lãnh đạo Việt Nam đã không nắm bắt được tầm quan trọng của tình hình và tiếp tục để đất nước phụ thuộc vào Liên Xô cho đến khi nó sụp đổ vào năm 1991.

Nếu có bài học nào mà người Việt Nam nên rút ra từ cuộc chiến năm 1979 với Trung Quốc, thì đó là Việt Nam, như một tướng Việt Nam sau này đã nhận xét, “phải học cách chung sống với láng giềng lớn của chúng ta”. 85. Về câu hỏi tại sao Trung Quốc lại lo lắng sử dụng vũ lực hạn chế để chống lại Việt Nam vào năm 1979, phân tích ở đây phù hợp với khẳng định của các nghiên cứu khác rằng các mối đe dọa đối với toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền là đặc biệt quan trọng đối với Bắc Kinh, đủ để mở rộng trách nhiệm của PLA ra ngoài việc phòng về chống lại sự tấn công. 86.

Tranh chấp lãnh thổ và căng thẳng biên giới là cái cớ thúc đẩy Bắc Kinh cân nhắc sử dụng vũ lực chống lại nước láng giềng phía Nam, trong khi sự trỗi dậy của tình cảm dân tộc chủ nghĩa có xu hướng củng cố tâm lý của người Trung Quốc rằng một hình thức trừng phạt nào đó đối với một đồng minh cũ phản bội quay lưng lại với Trung Quốc là cần thiết. Tình cảm này cũng đóng một vai trò quan trọng trong việc mang lại sự đồng thuận rộng rãi giữa các nhà lãnh đạo chính trị và quân sự Trung Quốc để ủng hộ Đặng, nhân vật trung tâm trong việc đưa ra quyết định triển khai quân đội chống lại Việt Nam. Đối với các vấn đề chủ quyền lãnh thổ, luôn làm dấy lên cảm xúc của người Trung Quốc, quan điểm quân sự dường như là yếu tố chủ yếu trong các quyết định bắt đầu các hành động thù địch thực tế. Cuộc họp tham mưu tháng 9, bắt đầu đưa ra các khuyến nghị cho lãnh đạo trung ương để đối phó với mối quan hệ đang xấu đi giữa Trung Quốc và Việt Nam, là điểm khởi đầu của một hoạt động quân sự lớn. Phân tích của quân đội về phản ứng của Liên Xô cũng giúp làm sáng tỏ mọi nghi ngờ về việc chấp nhận rủi ro, nếu có. Tuy nhiên, quân đội vẫn phải tuân theo mong muốn của giới lãnh đạo trung ương. Một khi quyết định tiến hành một cuộc xâm lược trừng phạt vào Việt Nam, các tướng lĩnh PLA đã nhiệt tình thực hiện sứ mệnh của mình với ưu tiên sử dụng lực lượng tối đa.

Bài học kinh nghiệm

Bất chấp sự thành công về mặt chiến lược của Trung Quốc, một số câu hỏi quan trọng vẫn cần được giải quyết, chẳng hạn như PLA nhận thức như thế nào về hiệu quả hoạt động của mình tại Việt Nam, bài học kinh nghiệm nào rút ra từ chiến dịch và mức độ ảnh hưởng của kinh nghiệm này đối với PLA về tương lai của mình. Là một phần truyền thống của PLA, tất cả các binh sĩ tham gia xung đột đều được lệnh phải viết tóm tắt kinh nghiệm chiến đấu của họ. Nhìn lại, giới lãnh đạo PLA thấy mình ở một vị trí mâu thuẫn. Trong khi tuyên bố rằng Trung Quốc đã thắng trong cuộc chiến, họ phải thừa nhận cái giá cao mà PLA đã phải trả. Theo quan điểm của lãnh đạo PLA, việc đánh giá công bằng về những khiếm khuyết của PLA là bắt buộc. Tuy nhiên, họ lo lắng về xu hướng đánh giá quá cao khả năng và hiệu quả của quân đội Việt Nam. 87.

Tất nhiên, niềm tự hào dân tộc và định kiến văn hóa của họ chắc chắn đã ngăn họ đưa ra kết luận thẳng thắn về kinh nghiệm của PLA trong cuộc chiến, có thể tổng hợp thành sáu chủ đề. Đầu tiên tập trung vào một châm ngôn truyền thống của PLA rằng bất kỳ quyết định và chiến lược quân sự đúng đắn nào đều phải nắm bắt tốt tình hình về mọi mặt. Cuộc chiến năm 1979 cho thấy trước chiến tranh PLA ít chú ý đến học thuyết và chiến thuật tác chiến của QĐNDVN. Kết quả là quân đội Trung Quốc đã đánh giá thấp khả năng chiến đấu của đối thủ. Có thể do lo sợ sẽ đánh giá quá cao quân đội Việt Nam, tài liệu của PLA kết luận rằng lực lượng chính quy của đối phương thiếu kiên trì trong tấn công và phòng thủ và có ít hoạt động phối hợp, nhưng đã thừa nhận rằng các chiến thuật kiểu du kích, đặc công và dân quân của Việt Nam đã thành công một cách đáng ngạc nhiên trong việc giữ cho lực lượng Trung Quốc lúng túng khi họ mong muốn tìm kiếm các trận chiến quyết định với các lực lượng chính của QĐNDVN trong một cuộc chiến tranh chớp nhoáng. 88.

Một sĩ quan Hoa Kỳ đã từng đúc kết kinh nghiệm của Hoa Kỳ trong Chiến tranh Việt Nam, lưu ý rằng không thể “xuyên thủng, đánh tạt sườn hoặc bao bọc” các vị trí kiên cố của Việt Nam mà “không chịu thương vong cực kỳ nặng nề”. 89. Chiến thuật của PLA đẩy lính bộ binh vào cận chiến với đối thủ và chấp nhận tổn thất nhân mạng cao có thể giúp giải thích lý do tại sao Trung Quốc đưa ra những nhận định này về sự kém cỏi của quân đội Việt Nam trong việc bảo vệ vị trí của mình. 90. Những khó khăn bất ngờ trong hoạt động khiến Trung Quốc rút ra bài học thứ hai từ cuộc xung đột liên quan đến tình báo và kế hoạch. Thiếu thông tin trong thời gian dài về một đồng minh truyền thống là một thách thức lớn đối với việc lập kế hoạch và tác chiến của Trung Quốc. Đánh giá của PLA về địa lý và địa hình của miền Bắc Việt Nam thường dựa vào các bản đồ và thông tin địa lý đã lỗi thời, trong khi khả năng trinh sát của họ bị hạn chế trên chiến trường. 91. Một thất bại lớn của quân đội Trung Quốc là không tính đến số lượng lực lượng dân quân khổng lồ trong tính toán sức mạnh quân sự Việt Nam. Kinh nghiệm của PLA cho thấy dân quân Việt Nam đã kháng cự không ngừng và thực hiện các cuộc đột kích bất ngờ vào quân xâm lược nhiều hơn là quân chính quy của QĐNDVN. Các nhà hoạch định PLA ban đầu nghĩ rằng họ đã tập hợp một lực lượng 8:1 áp đảo chống lại lực lượng Việt Nam.

Nhưng chỉ riêng khu vực Cao Bằng đã có từ 40.000 đến 50.000 dân quân, điều này đã làm thay đổi đáng kể tỷ lệ lực lượng thành 2:1. Trong suốt chiến dịch, PLA không bao giờ có thể duy trì ưu thế lực lượng để thực hiện một cuộc tấn công nốc-ao. Cuộc chiến này cũng cho thấy việc thực hiện các hoạt động quân sự ở nước ngoài sẽ khó khăn như thế nào nếu quần chúng địa phương được huy động để chống lại. 92. Xung đột với Việt Nam cho phép PLA rút ra bài học thứ ba về khả năng chiến đấu của mình. Đây là lần đầu tiên ban lãnh đạo PLA tiến hành các hoạt động hiệp đồng binh chủng với xe tăng và pháo binh hỗ trợ các cuộc tấn công của bộ binh, đồng thời tập hợp lực lượng không quân và hải quân để yểm trợ vòng ngoài. Sự lạc hậu về học thuyết và chiến thuật đã ngăn cản lực lượng Trung Quốc thực hiện một chiến dịch hợp đồng tác chiến thực sự.

Trong khi những ràng buộc về chính trị và tư duy quân sự lạc hậu của Bắc Kinh đã loại trừ khả năng lực lượng không quân hỗ trợ các hoạt động, lực lượng mặt đất cũng cho thấy hiệu quả kém trong việc thực hiện các chiến thuật vũ khí tổng hợp giữa các đơn vị bộ binh, xe tăng và pháo binh. Một ví dụ rõ ràng là bộ binh chưa bao giờ được huấn luyện đầy đủ kiến thức về cách cơ động với các đơn vị xe tăng. Những người lính bộ binh buộc chặt mình trên xe tăng bằng dây thừng để không bị ngã khi hành quân, đã bị mắc kẹt khi bị đối phương bắn. Mặt khác, các đơn vị xe tăng, thường hoạt động mà không có sự yểm trợ của bộ binh và liên lạc trực tiếp giữa hai bên, đã chịu nhiều thiệt hại và tổn thất bất ngờ. 93. Kinh nghiệm chiến tranh năm 1979 đã dạy cho PLA những bài học quý giá về kỹ năng phối hợp binh chủng. Bài học thứ tư là vấn đề chỉ huy và kiểm soát xuất phát phần lớn từ truyền thống và văn hóa của PLA. Các mối quan hệ cá nhân giữa các sĩ quan chỉ huy và binh lính, vốn đã được vun đắp trong quá khứ, vẫn còn quan trọng đối với PLA.

Vì mối quan hệ giữa các cá nhân quan trọng hơn luật lệ, nên không có gì ngạc nhiên khi các lãnh đạo của Quân khu Quảng Châu sau đó thừa nhận rằng họ cảm thấy không thoải mái khi chỉ huy các đơn vị chuyển đến từ Quân khu Vũ Hán và Thành Đô trong chiến dịch. 94. Các lãnh đạo này cũng nhận được nhiều lời phàn nàn từ cấp dưới về phong cách lãnh đạo của Xu vì trước đó ông không chỉ huy họ. Các vấn đề về chỉ huy của PLA là do thiếu các sĩ quan có kinh nghiệm chiến đấu. Mặc dù đã cử các sĩ quan cấp cao hơn, từng là cựu chiến binh, đến các đơn vị quân đội cấp thấp hơn để giúp chỉ huy, các hoạt động của PLA vẫn yếu kém vì các sĩ quan cấp thấp không có khả năng đưa ra các phán đoán độc lập và phối hợp hoạt động vào những thời điểm quan trọng. Tuy nhiên, cuộc chiến năm 1979 với Việt Nam đã rửa tội cho một thế hệ cán bộ quân đội trẻ trên chiến trường, và ngày nay nhiều người trong số họ đang phục vụ ở các vị trí cao của PLA. 95.

PLA không đủ hệ thống và cấu trúc cung cấp hậu cần hiện đại để hỗ trợ một hành động tấn công nhanh, có khoảng cách xa. Các thống kê hoạt động cho thấy mức tiêu thụ đạn dược và nhiên liệu trung bình hàng ngày là 700 tấn trong mỗi loại. 96. Hoạt động hậu cần là một lĩnh vực chính để PLA rút ra bài học. Không có các phương tiện lưu trữ và vận chuyển đầy đủ, hai Quân khu Quảng Châu và Côn Minh phải kết hợp  hệ thống tiếp tế với nhau, và hệ thống này không bao giờ hoạt động trơn tru và hiệu quả. Một lượng đáng kể vật tư đã bị mất do quản lý kém hoặc do sự phá hoại của Việt Nam. Khi lực lượng của họ tiến sâu hơn vào lãnh thổ Việt Nam, các sĩ quan hậu cần cũng khó có thể giữ được đường dây liên lạc mà không phải điều một lực lượng lớn để bảo vệ chúng. PLA kết luận rằng điều cần thiết là phải tạo ra một bộ chỉ huy vận tải để đối phó với các vấn đề mà quân đội của họ gặp phải trong các hoạt động. 97. Kinh nghiệm này dường như vẫn còn phù hợp ở Trung Quốc ngày nay khi cựu phó chỉ huy trưởng Đại học Quốc phòng PLA phát biểu tại hội nghị chuyên đề về “kiểm soát thông tin liên lạc” vào năm 2002. 98.

Bài học cuối cùng là cách giải thích cách áp dụng học thuyết cũ về chiến tranh nhân dân cho một cuộc xung đột vượt ra ngoài biên giới của Trung Quốc. Một nguyên tắc của học thuyết chiến tranh nhân dân là huy động dân chúng ủng hộ chiến tranh. Kinh nghiệm chiến tranh năm 1979 cho thấy rằng các lực lượng khổng lồ của PLA gần như không thể hoạt động bên ngoài đất nước do không nhận được sự hỗ trợ của quần chúng như cuộc chiến trong nước. Bộ máy tuyên truyền của Bắc Kinh đã khơi dậy lòng yêu nước và lòng tự hào trong binh lính Trung Quốc. Những biểu hiện mạnh mẽ của lòng yêu nước đã giúp PLA nhận được sự hỗ trợ trực tiếp cho các hoạt động từ người dân sống ở hai tỉnh biên giới. Chỉ riêng tại tỉnh Quảng Tây, hơn 215.000 dân địa phương đã được huy động khiêng cáng, bảo vệ và khuân vác vận chuyển tiếp tế cho mặt trận; và trên 26.000 dân quân khu vực biên giới đã thực sự tham gia chiến đấu trực tiếp. Vào thời điểm đó hệ thống tiếp tế của PLA là một mớ lộn xộn các thành phần đòi hỏi mọi đơn vị phải tự túc về “hậu cần bán lẻ” (retail logistics) cho hệ thống tiếp tế trên chiến trường. 99. Chính quyền địa phương đã làm cho mọi việc trở nên dễ dàng hơn đối với quân đội bằng cách đơn giản hóa các thủ tục trưng dụng, giúp họ nhận được đầy đủ vật chất và thực phẩm tươi trong thời gian ngắn nhất có thể. Một kinh nghiệm như vậy đã thuyết phục ban lãnh đạo PLA rằng việc huy động chính quyền địa phương và dân thường ủng hộ một cuộc chiến vẫn là chìa khóa dẫn đến chiến thắng. 100.

Những bài học kinh nghiệm từ cuộc chiến năm 1979 với Việt Nam có thể không chặt chẽ, toàn diện và đầy đủ khách quan vì PLA không đánh giá thành công của mình trong một chiến dịch quân sự dựa trên kết quả hoạt động mà dựa trên cơ sở tác động của cuộc xung đột đối với tình hình chung. Chịu ảnh hưởng sâu sắc từ lời dạy của Mao rằng chiến tranh về cơ bản là một chủ trương chính trị, miễn là Trung Quốc có thể tuyên bố thành công trong việc đạt được các mục tiêu chiến lược và quân sự của mình, PLA sẽ coi các vấn đề thất bại chiến thuật là thứ yếu. Đây cũng là lý do tại sao những bài học này khác biệt đáng kể so với những bài học trong các nghiên cứu phương Tây, vốn chỉ có thông tin và độ chính xác trong một chừng mực nào đó, nhưng có vẻ hơi quá khi từ nguồn [thông tin] hạn chế rút ra kết luận về một chủ đề cực kỳ phức tạp. 101. Các nghiên cứu của PLA coi Cách mạng Văn hóa (1966–76) là nhân tố bất lợi làm xói mòn truyền thống tốt đẹp của PLA và kết quả là lực lượng

Trung Quốc đã hoạt động kém hiệu quả trong cuộc chiến. Các bài học mà PLA học được tập trung nhiều hơn vào cấp độ chiến thuật của chiến tranh với trọng tâm là chỉ huy và kiểm soát, phối hợp giữa các đội quân, cơ cấu lực lượng và vũ khí hơn là vào triết lý chiến lược và học thuyết. Trong quá trình đánh giá kinh nghiệm chiến tranh năm 1979, PLA dường như không cố gắng che giấu hoặc coi nhẹ những khiếm khuyết và vấn đề của chính mình vào thời điểm đó; tuy nhiên, nó đã không tính đến những tư duy và truyền thống quân sự sai lầm của mình. 102.

Các nghiên cứu phương Tây liên kết các bài học về Việt Nam của PLA với đánh giá lại năm 1985 của lãnh đạo Trung Quốc về bản chất của chiến tranh hiện đại và các mối đe dọa mà Trung Quốc phải đối mặt, và những nỗ lực tiếp theo nhằm hợp lý hóa và chuyên nghiệp hóa PLA trong suốt những năm 1980. 103. Những bài học về Việt Nam của PLA và sự bùng nổ xung đột liên tục ở biên giới Việt Nam – Trung Quốc trong suốt những năm 1980 có thể đã giúp giới lãnh đạo Trung Quốc thực hiện chuyển đổi chiến lược từ chú trọng chuẩn bị chiến tranh tổng lực sang chuẩn bị chiến tranh cục bộ và hạn chế như xu hướng thời đại. 104. Một vài nỗ lực đã được thực hiện trong quá trình chuyển đổi PLA thành một lực lượng hiện đại vào những năm 1980 để thay đổi tư duy quân sự thiếu sót của họ, vốn luôn coi thường vai trò của lực lượng không quân. Do đó, nếu có điều gì mà PLA dường như vẫn chưa trung thực, thì đó chính là các bài học về ưu thế trên không hoặc hỗ trợ trên không. Các tài liệu và sách giáo khoa của PLA tiếp tục trích dẫn “khả năng ngăn chặn” của không quân Trung Quốc là lý do chính khiến Không quân Việt Nam không tham gia vào cuộc xung đột. 105. Nguyên soái Ye Jianying thậm chí còn bình luận một cách lố bịch rằng các hoạt động không quân nghi binh của Trung Quốc trong cuộc chiến chống lại Việt Nam là một “cách sử dụng không quân tài tình”. 106. Nhận xét như vậy không chứng tỏ gì ngoài việc giới lãnh đạo Trung Quốc không đánh giá cao vai trò quan trọng của không quân trong chiến tranh hiện đại.

Tuy nhiên, tổng quan về kinh nghiệm của PLA trong cuộc chiến năm 1979 với Việt Nam cung cấp những hiểu biết hữu ích về cách các lãnh đạo Trung Quốc tiếp cận các vấn đề chiến tranh và chiến lược, phù hợp với kết quả của các nghiên cứu hiện có khác. 107. Đầu tiên, các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã cân nhắc và tính toán về thời

điểm và cách thức sử dụng sức mạnh quân sự, nhưng không ngần ngại tiến hành chiến tranh khi họ quyết định là lợi ích quốc gia của Trung Quốc gặp rủi ro hay bị đe dọa. Thứ hai, PLA tỏ ra ưa thích việc chiếm giữ và duy trì thế chủ động trong hoạt động bằng cách triển khai một lực lượng vượt trội. Thứ ba, nhận thức về chiến thắng quân sự của Trung Quốc nằm ở đánh giá của họ về kết quả địa chính trị hơn là về hiệu quả hoạt động trên chiến trường. Kể từ cuộc chiến tranh với Việt Nam năm 1979, PLA đã thực hiện những sửa đổi sâu rộng trong học thuyết quốc phòng, chỉ huy và kiểm soát, chiến thuật tác chiến và cơ cấu lực lượng, trong khi các hoạt động quân sự trên thế giới cũng đã thay đổi rất nhiều kể từ cuộc chiến năm 1979. Ngày nay, sẽ không ai mong đợi lực lượng vũ trang Trung Quốc lặp lại những gì họ đã làm trong cuộc chiến tranh biên giới với Việt Nam. Từ góc độ lịch sử, những đặc điểm khác biệt của Trung Quốc bộc lộ trong cuộc chiến năm 1979 với Việt Nam có thể vẫn còn phù hợp với thể chế quân sự của Trung Quốc và sự hiểu biết của giới quan sát về cách tiếp cận của Trung Quốc trong việc sử dụng sức mạnh quân sự không chỉ trong quá khứ mà cả hiện tại và trong tương lai.


Chú thích :

* Tôi đã nhận được rất nhiều lợi ích từ những nhận xét và đề xuất của Nick Sarantakes, Andrew Scobell, Toshi Yoshihara và Zhai Qiang. Các quan điểm được trình bày trong bài viết này là của tôi và không nhất thiết phản ánh chính sách hoặc thái độ chính thức của Bộ Không quân, Bộ Quốc phòng hoặc chính phủ Mỹ.

  1. Gerald Segal, Defending China (New York: Oxford University Press, 1985), pp. 211–227; Nayan Chanda, Brother Enemy: the War after the War (New York: Harcourt Brace Jovanovich, 1986); King C. Chen, China’s War with Vietnam, 1979 (Stanford: Hoover Institution Press, 1987); Steven J. Hood, Dragons Entangled: Indochina and the China- Vietnam War (Armonk, NY: M.E. Sharpe, 1992); Bruce Elleman, Modern Chinese Warfare, 1785–1989 (London: Routedge, 2001), ch. 17.
  2. Ví dụ, tài liệu nội bộ do Văn phòng Tổng cục Chính trị biên soạn, ZhongYue bianjing ziwei huanji zuozhan zhengzhi gongzuo jingyan xuanbian (Compilation of Materials on Political Work and Experience in the Counterattack in Self-defence on the China–Vietnamese Border), 2 vols. (Beijing: Published by the compiler, 1980), hereafter ZGJX; internal documents compiled by the Guangzhou Military Region Forward Political Department Cadre Section, ZhongYue bianjing ziwei huanji zuozhan ganbu gongzuo ziliao huibian (Compilation of Materials on Cadre Work in the Counterattack in Self-defence on the China–Vietnamese Border) (Guangzhou: Published by the compiler, 1979), sau đây là GGZH; Các trang mạng internet của Trung Quốc chứa các tài liệu, hồi ký, cá nhân hồi ức và các đoạn trích từ các ấn phẩm của Trung Quốc về cuộc chiến năm 1979 với Việt Nam. Nhiều báo cáo về các trận đánh đối tượng-bài học của các đơn vị riêng lẻ. Hữu ích nhất là “Zhongyue zhanzheng beiwanglu” (“Memorandums of Sino-Vietnam War”) available at: http://jngs.3322. org/mymemo/war79/part 1.htm, hereafter ZZB. The most notable ones are Zhou Deli’s memoirs and recollections of Xu Shiyou and his role in the war with Vietnam: Yi ge gaoji canmouzhang de zishu (Personal Recollections of a High-ranking Chief of Staff) (Nanjing: Nanjing Press, 1992), and Xu Shiyou di zuihou yizhan (The Last Battle of Xu Shiyou) (Nanjing: Jiangsu People Press, 1990).
  1. On these three findings, see Andrew Scobell, “Is there a Chinese way of war?” Parameters, Vol. 35, No. 1 (Spring 2005), pp. 118–121.
  1. Renmin ribao (People’s Daily), 19 March 1979. For English, see Beijing Review, 23 March 1979.
  2. Harlan W. Jencks, “China’s ‘punitive’ war on Vietnam: a military assessment,” Asian Survey, Vol. 19, No. 8, (August 1979), pp. 802–803; Hood, Dragons Entangled, pp. 50–57; Segal, Defending China, pp. 213–14; Carlyle A. Thayer, “Security issues in Southeast Asia: the Third Indochina War,” paper delivered at Conference on Security and Arms Control in North Pacific, Canberra, ACT, 12–14 August 1987.
  3. Robert S. Ross, The Indochina Tangle: China’s Vietnam Policy, 1975–1979 (New York: Columbia University Press, 1988), p. 253.
  4. Thayer, “Security issues in Southeast Asia.” Elleman, Modern Chinese Warfare, p. 285.
  1. Qiang Zhai, China and The Vietnam Wars, 1950–1975 (Chapel Hill, NC: The University of North Carolina Press, 2000), pp. 6, 219.
  2. He Di, “The most respected enemy: Mao Zedong’s perception of the United States,” in Michael Hunt and Liu Jun (eds.), Toward a History of Chinese Communist Foreign Relations, 1920s-1960s: Personalities and Interpretative Approaches (Washington, DC: Woodrow Wilson International Center for Scholars Asian Program, 1995), pp. 27–66; Chen Jian, “China’s involvement in the Vietnam War, 1964–1969,” The China Quarterly, No. 142 (June 1995), pp. 356–387.
  3. Chen Jian, Mao’s China and the Cold War (Chapel Hill, NC: The Uni. of North Carolina Press, 2001), p. 237.
  4. Xem Xiaoming Zhang, “China’s involvement in Laos during the Vietnam War, 1963–1975,” The Journal of Military History, No. 66 (October 2002), pp. 1141–66. 12. Wang Taiping (ed.), Zhonghua renmin gongheguo waijiaoshi (Diplomatic History of the People’s Republic of China) (Beijing: World Knowledge Press, 1999), p. 68.
  5. Han Huanzhi, Dangdai Zhongguo jundui de junshi gongzuo (Contemporary China’s Military Affairs), Vol. 1, (Beijing: Social Science Press, 1988), pp. 559–560.
  1. Henry J. Kenny, “Vietnamese perceptions of the 1979 war with China,” in Mark A. Ryan, David M. Finkelstein and Michael A. McDevitt (eds.), Chinese Warfighting: The PLA Experience since 1949 (Armonk, NY: M.E. Sharpe, 2003), p. 228.
  2. Guo Ming (ed.), ZhongYue guanxi yanbian sishi nian (A 40-Year Development of the China-Vietnam Relationship) (Nanning: Guangxi People Press, 1992), p. 106.
  3. See Arne Odd Westad et al. (eds.), “77 conversations between Chinese and foreign leaders on the wars in Indochina, 1964–1977,” Cold War International History project, Working Paper 22 (Washington DC: Woodrow Wilson Center, 1998), pp. 94–98, and pp. 194–95.
  4. Lee Kuan Yew, From the Third World to First: The Singapore Story: 1965–2000 (New York: HarperCollins, 2000), p. 595.
  5. Raymond Aron, Peace and War: A Theory of International Relations (Garden City, NY: Anchor Press, 1973), p. 19.
  1. Chanda, Brother Enemy, p. 261.
  2. Cuộc họp do Zhang Caiqian, phó tổng tham mưu trưởng chủ trì, với sự tham gia của các sĩ quan từ các bộ phận chiến dịch và tình báo của Bộ Tổng tham mưu cũng như những người từ các Quân khu Quảng Châu và Côn Minh. Zhou Deli, Personal Recollections, trang 239–240.
  3. Theo tác giả cuốn tiểu sử của Wang Shangrong, một vấn đề lớn mà Bộ Tổng tham mưu phải giải quyết thường xuyên là xung đột biên giới giữa Trung Quốc và Việt Nam sau năm 1976. Luo Yuansheng, Baizhan jiangxing Wang Shangrong (Tiểu sử của Tướng Wang Shangrong) ( Bắc Kinh: PLA Art Press, 1999), trang 375–77.
  4. Zhou Deli, Personal Recollections, pp. 239–243.
  5. Lee Kuan Yew, The Singapore Story, p. 601.
  1. Ví dụ, xem China News Agency’s commentary on 27 October, Beijing Review, No. 44 (3 November 1978), pp. 25–26; Reports, Beijing Review, No. 45 (10 November 1978), pp. 20–22; People’s Daily editorial on 10 November, Beijing Review, No. 46 (17 November 1978), pp. 26–27.
  2. Zhou Deli, Personal Recollections, pp. 244–45.
  3. Họ là các quân đoàn 43, 54 và sư đoàn 58 của quân đoàn 20 từ Vũ Hán Quân đoàn 13 và 50 từ Thành Đô. Thông tin này dựa trên mẩu lịch sử rời rạc trên trang web của ZZB.
  4. Min Li, ZhongYue zhanzheng shinian (Ten Years of Sino-Vietnam War) (Chengdu: Sichuan University Press, 1993), p. 15.
  5. Zhou Deli, Personal Recollections, p. 246; Han Huaizhi, Contemporary China’s Military Affairs, Vol. 1, pp. 663–678.
  1. Chen, China’s War, pp. 85–86.
  2. Sun Dali, “A turning point in the history of new China,” in Lin Zhijian (ed.), Xin Zhongguo yaoshi shuping (Review of Important Events of New China) (Beijing: CCP History Press, 1994), pp. 476–500.
  3. Jin Ye, Hu Juchen and Hu Zhaocai, Baizhan jiangxing Xu Shiyou (Biography of General Xu Shiyou) (Beijing: PLA Art Press, 1999), p. 332; Wang Xuan, Mao Zedong zhi jian – minjiang zhixing Xu Shiyou (The Sword of Mao Zedong: A Star General Xu Shiyou) (Nanjing: Jiangsu People Press, 1996), p. 132.
  4. Có tin đồn rằng sự thay đổi tư lệnh này một phần là do mối quan hệ cá nhân không tốt đẹp giữa Xu và Wang khi Wang là phó tư lệnh cũ của Quân khu Nam Kinh, đã công khai tham gia phe chính trị đối lập địa phương chống lại Xu trong Cách mạng Văn hóa năm 1966.
  5. “Tóm tắt Bài giảng về cuộc phản công năm 1979 để tự vệ ở biên giới Trung-Việt,” không có tác giả nhưng xuất hiện chi tiết chính xác trong ZZB.
  6. Chen, China’s War, pp. 85–87; Ross, Indochina Tangle, pp. 230–31; Andrew Scobell, China’s Use of Military Force: Beyond the Great Wall and the Long March (Cambridge: Cambridge University Press, 2003), pp. 130–32.

* n/v: ?some Chinese leaders oppose an attack on Vietnam, but they disagree on which leaders and what form the opposition took.

  1. Chen không chỉ ủng hộ quyết định của Deng mà còn đưa ra những khuyến nghị nhất định về cách tiến hành. Zhu Jiamu, Chen Yun nianpu (A Chronicle of Chen Yun’s Life, 1905–1995) Vol. 2 (Beijing: Central Document Press, 2000), pp. 235–36.
  2. Zhou Deli, The Last Battle, p. 16.
  3. Quân đội Trung Quốc tính toán rằng người Nga sẽ mất 14 ngày hoặc thậm chí lâu hơn để đưa ra phản ứng quân sự; khi đó Trung Quốc sẽ đạt được các mục tiêu chiến tranh của mình.
  4. Min Li, Ten Years of Sino-Vietnam War, pp. 15–17. Jin Ye, Hu Juchen and Hu Zhaocai, Xu Shiyou, p. 332; Zhang Weiming, Jin Hui and Zhang Huisheng, ZhongYue zhanzheng milu (The Secret Account of the China–Vietnam War) (Hong Kong: Tiandi Books, 1993), pp. 27–28.
  5. Segal, Defending China, p. 214.
  6. Nhiều cấp dưới của ông đã kể lại rằng Deng sẽ không thay đổi quyết định một khi ông đã suy nghĩ kỹ và đưa ra quyết định của mình. Ví dụ, xem Chen Zaidao, Chen Zaidao huiyilu (Chen Zaidao’s Memoirs) (Beijing: PLA Press, 1991), p. 462.

* n/v Test the water: ý là tìm hiểu phản ứng quốc tế trước khi tấn công Việt Nam

  1. ZGJX, Vol. 1, pp. 2–19.
  2. Zhang Zhen, Zhang Zhen huiyilu (Zhang Zhen’s Memoirs) (Beijing: PLA Press, 2003), pp. 170 -71.
  3. They were Xu Xiangqian, Nei Rongzhen and Geng Biao. Jiang Feng et al., Yang Yong jiangjun zhuan (Biography of General Yang Yong) (Beijing: PLA Press, 1991), p. 495.
  4. Zhou Deli, Personal Recollections, p. 257.
  5. Zhang Zhen, Memoirs, p. 166.
  6. Zhou Deli, Personal Recollections, pp. 259–260; Jiang Feng et al., Yang Yong, pp. 496–97.
  7. Jencks, “China’s ‘punitive’ war,’ pp. 804–805; Herbert Yee, “The Sino-Vietnamese border war” in China Report, Vol. 16, No. 1 (January–February 1980), p. 22.
  8. According to Zhou Deli, the name of the operations was chosen at the 23 January meeting. Zhou Deli, Personal Recollections, p. 258.
  9. Luo Yuansheng, Wang Shangrong, p. 378.
  1. Segal, Defending China, pp. 213–17.
  2. Ross, Indochina Tangle, p. 224.
  3. Zhou Deli, The Last Battle, pp. 123–24.
  1. Zhang Zhizhi, “Air Force troops in the self defensive counterattacks against Vietnam,” in Political Department of the Air Force (ed.), Lantian zhi lu (The Road to the Blue Sky) (Beijing: Political Department of the Air Force, 1992), pp. 350–52; Wang Hai, Wang Hai shangjiang: Wo de zhandou shengya (General Wang Hai: My Combat Career) (Beijing: Central Document Press, 2000), pp. 337–38
  2. Ví dụ, Tập đoàn quân 13, được chỉ định là lực lượng tấn công chính ở Vân Nam, đã phải điều tới 70 đại đội với 15.381 lính bổ sung, trong đó có 11.874 tân binh. “The combat history of the 13th Army during the self defensive counterattacks against Vietnam,” in ZZB. Xem thêm Zhou Deli, The Last Battle, pp. 63–64, 67–71. Zhang Zhen, Memoirs, p. 170.
  1. Theo một quan chức ngoại giao cấp cao của Việt Nam, Hà Nội đã lường trước được cuộc xâm lược của Trung Quốc, nhưng không phải với quy mô và lực lượng lớn như vậy. Kenny, “Vietnamese perception,” pp. 221, 228.
  2. Douglas Pike, PAVN: People’s Army of Vietnam (Novado, CA: Presidio, 1986), p. 264.
  1. Thông tin này dựa trên một bài báo dịch từ tiếng Trung Quốc có tựa đề “Welcomed by Vietnam with flowers,” ban đầu xuất hiện bằng tiếng Nga trên “Red Star Paper” on 16 January 2001, currently available at http://www.cmilitary.com/articleReader.php?idx_83458.
  2. Jiang Feng, et al., Yang Yong, p. 497.
  3. Zhou Deli, The Last Battle, pp. 158–59.
  4. Qu Aiguo, Baizhan jiangxing Wu Zhong (The Biography of General Wu Zhong) (Beijing: PLA Art Press, 2000), pp. 431–448.
  1. Rõ ràng là không chuẩn bị cho các hoạt động như vậy, Tổng cục Hậu cần của PLA đã tung súng phun lửa vào các trận đánh ngay giữa cuộc chiến. Zhang Zhen, Memoirs, p. 172.
  2. Zhou Deli, The Last Battle, pp. 176–77.
  3. Zhou Deli, Personal Recollections, p. 281.
  4. Zhou Deli, The Last Battle, p. 222. Han Huaizhi, Contemporary China’s Military Affairs, Vol. 1, p. 669.
  1. Zhang Zhizhi, “Air Force troops,” p. 353.
  1. ZGJX, Vol. 1, pp. 363–65. Wang Dinglie, Dangdai Zhongguo kongjun (Contemporary China’s Air Force) (Beijing: Social Science Press, 1989), p. 638.
  2. Tuyên bố chiến thắng của PLA bao gồm phá hủy 340 pháo, 45 xe tăng và khoảng 480 xe tải, thu giữ 840 pháo và hơn 11.000 vũ khí nhỏ cùng với nhiều loại thiết bị quân sự khác. Min Li, Ten Years of Sino-Vietnam War, p. 65. Also see ‘Lecture notes on the 1979 counterattack in self-defence,’ in ZZB.
  3. Kenny, “Vietnamese perceptions,” p. 231; Chen, China’s War, p. 113.
  4. Christopher E. Goscha (trans.), “Comrade B on the plot of the reactionary Chinese clique against Vietnam,” Cold War International History Project Bulletin (Washington, DC: Woodrow Wilson Center), Nos. 12–13, (Autumn/Winter 2001), p. 279. Also see Kenny, “Vietnamese perceptions,” p. 230.
  5. Radio Hanoi, domestic service, 4 March 1979, in FBIS, 5 March 1979, Vietnam, p. K25. Ước tính của Việt Nam về thương vong của Trung Quốc là 25.000 người thiệt mạng và 50.000 người khác bị thương. Kenny, “Vietnamese perceptions,” p. 235.
  6. Kenny, “Vietnamese perceptions,” pp. 217–236. The fragmentary accounts of Vietnamese involvement in the conflict are available at: http://www.china-defense.com/forum/index.php?showtopic_2016&hl_1979_war_with_Vietnam.
  7. AFP (Hong Kong), 2 May 1979, in FBIS, 3 May 1979, PRC, p. E1.
  8. Chen, China’s War, pp. 113–14. Số liệu thống kê của Chen về thương vong của PLA đã được trích dẫn rộng rãi như một nguồn hợp pháp của nhiều nghiên cứu phương Tây.
  1. Một hồ sơ nội bộ cho thấy 10.202 thương binh đã được điều trị tại 17 bệnh viện ở Quân khu Quảng Châu. Dui Yue zhiwei huanji zuozhang weiqin baozhang jinglian zhiliao huibian (Compilation of Materials on the Experience of Medical Services in the Counterattack in Self-defence Against Vietnam) do Ban quân y Cục Hậu cần Quân khu Quảng Châu biên soạn (không ghi nơi xuất bản và người biên soạn công bố, 1979). Một số nguồn tin không chính thức của Trung Quốc cũng tiết lộ rằng thương vong ở Vân Nam nhẹ hơn với 2.812 người chết và 5.074 người bị thương. Trích dẫn từ “Lecture notes on the 1979 counterattack in self-defence,” in ZZB.
  2. Ron Christman, “How Beijing evaluates military campaigns: an initial assessment,” in Laurie Burkitt et al. (eds.), The Lessons of History: The Chinese People’s Liberation Army at 75 (Carlisle, PA: Strategic Studies Institute, US Army War College, 2003), pp. 253–292. 76. Ross, Indochina Tangle, pp. 223–237; Scobell, China’s Use of Military Force, pp. 135–36.
  3. Người ta cho rằng Hà Nội đã lên kế hoạch sử dụng 4 sư đoàn để mở một cuộc phản công tại Lạng Sơn vào ngày 7 tháng 3 năm 1979, nhưng không bao giờ được thực hiện vì PLA đã rút lui.
  4. Kể từ năm 1979, đã có ít nhất sáu cuộc đụng độ biên giới lớn giữa Trung Quốc và Việt Nam (tháng 7 năm 1980, tháng 5 năm 1981, tháng 4 năm 1983, tháng 4 – tháng 7 năm 1984, tháng 6 năm 1985 và tháng 12 năm 1986 – tháng 1 năm 1987).
  5. Ví dụ, xem Annie Gilks, The Breakdown of the Sino-Vietnamese Alliance, 1970–1979 (Berkeley, CA: Institute of East Asian Studies University of California, 1992), p. 233.
  1. Chen, China’s War, p. 135.
  2. Ross, Indochina Tangle, pp. 234–35.
  3. Kenny, “Vietnamese perceptions,” pp. 234–35; Pike, PAVN, pp. 265–66.
  4. “Thông báo của Bộ chỉ huy tiền phương của Quân khu Quảng Châu về việc các lực lượng tham gia chiến tranh trở lại trạng thái bình thường,” GGZH, p. 49.
  5. Carlyle A. Thayer, The Vietnam People’s Army under Doi Moi (Singapore: Institute of South-East Asian Studies, 1994), pp. 11–12.
  6. Kenny, “Vietnamese perceptions,” p. 236.
  7. See, for example, Allen S. Whiting, “The PLA and China’s threat perceptions,” The China Quarterly, No. 146 (June 1996), pp. 596–615; Scobell, China’s Use of Military Force, p. 193.
  1. Luo Yuansheng, Wang Shangrong, p. 382.
  1. Zhou Deli, Personal Recollections, pp. 287–290.
  2. Michael Lee Lanning and Dan Cragg, Inside the VC and the NVA: The Real Story of North Vietnam’s Armed Forces (New York: Ivy Books, 1992), p. 208.
  3. Các nhà phân tích phương Tây thường tin rằng những đơn vị này của QĐNDVN, với đầy những cựu binh của cuộc chiến tranh lâu dài ở miền Nam, tỏ ra rất thiện chiến và có kỹ năng cao trong chiến thuật chiến tranh du kích. Các nguồn tin gần đây của Việt Nam cho biết họ là tân binh, và mới nhập ngũ vào tháng 6 năm 1978. Xem n. 71.
  4. Các bản đồ mà PLA sử dụng có tỷ lệ 1_100.000, được in năm 1965 dựa trên ấn bản năm 1938 của Pháp, cung cấp rất ít thông tin chi tiết. Kết quả là, lực lượng PLA thường bị lạc trong cuộc hành quân của họ trên vùng đồi núi của Bắc Việt Nam.
  5. Zhou Deli, Personal Recollections, pp. 294–95.
  1. Theo các nguồn tin của Trung Quốc, các đơn vị xe tăng của PLA chịu nhiều tổn thất nhất trong 4 ngày tác chiến đầu tiên, chiếm 87% tổng thiệt hại chiến đấu, nhưng hầu hết đều có thể sửa chữa được. Vào cuối cuộc chiến, chỉ có 44 xe tăng và phương tiện vũ trang bị phá hủy hoàn toàn, trích dẫn từ ZZB.
  2. Zhou Deli, Personal Recollections, pp. 287–88.
  3. Một vấn đề lớn, như cựu Tham mưu trưởng Quân khu Quảng Châu chỉ ra, đó là một số sĩ quan cấp dưới hiểu biết về địa hình, đọc bản đồ rất kém và chỉ có thể dựa vào chỉ thị của cấp trên. Đã dẫn. p. 289.
  4. Đã dẫn. p. 298.
  1. Xu Guangyi, Dangdai Zhongguo jundui de houqin gongzuo (Contemporary China’s Armed Forces Logistics) (Beijing: Social Science Press, 1990), p. 178; Zhang Zhen, Memoirs, p. 172.
  2. Chen Zuhua and Liu Changli, “Summary of the symposium on control of communication,” Zhongguo junshi kexue (China Military Science), Vol. 15, No. 1 (2002), pp. 145–48.
  3. Quân đội PLA phải tự mua sắm hàng ngày tại các chợ địa phương.
  4. Zhou Deli, Personal Recollections, pp. 300–301.
  5. Ví dụ, Edward C. O’Dowd and John F. Corbett, Jr., “The 1979 Chinese campaign in Vietnam: lessons learned,” in Laurie Burkitt et al., The Lessons of History, pp. 353–371, nghiên cứu các bài học kinh nghiệm của PLA chỉ dựa trên hai nguồn: một là bản tóm tắt về vai trò của các sinh viên trường bộ binh Quân khu Quảng Châu trong cuộc chiến và hai là bản phân tích ngắn gọn về chiến dịch năm 1979 của các nhà nghiên cứu Quân đội. Học viện Khoa học.
    1. The Military History Department of Military Science Academy, Zhongguo renmin jiefangjun de qishi nian (The 70 Years of the People’s Liberation Army of China) (Beijing: Military Science Press, 1997), p. 613.
    2. David Shambaugh, “China’s military in transition: politics, professionalism, procurement and power projection,” The China Quarterly, No. 146 (June 1996), p. 279.
    3. Li Nan, “The PLA’s evolving warfighting doctrine, strategy and tactics, 1985–1995: a Chinese perspective,” and Paul H. B. Godwin, “From continent to periphery: PLA doctrine, strategy and capabilities towards 2000,” The China Quarterly, No. 146 (June 1996), pp. 443–487.
    4. Liu Guoyu, Zhongguo renmin jiefangjun zhanshi jiaocheng (Textbook of PLA Fighting History) (Beijing: Military Science Press, 2000), p. 235.
    5. Zhang Zhizhi, “Air Force troops,” pp. 355–56.
    6. These studies are Elleman’s Modern Chinese Warfare, Scobell’s China’s Use of Force, Ryan, Finkelstein and McDevitt’s Chinese Warfighting, Mark Burles and Abram Shulsky’s Patterns in China’s Use of Force: Evidence from History and Doctrinal Writings (Santa Monica, CA: RAND, 2000), and Allen Whiting, “China’s use of Force, 1950–95, and Taiwan,” International Security, No. 26 (Autumn 2001), pp. 103–130.

Bình luận về bài viết này