Brazil: Từ tự do hóa có giới hạn tới chế độ dân chủ đầy sức sống

soliders-brazil-dictatorship

Giới quân sự đã cầm quyền ở Brazil từ năm 1964 đến năm 1985; suốt nửa thời gian đó, phe đối lập kiên nhẫn theo những quy tắc của chế độ trong một quá trình chuyển hóa chậm sang chế độ dân chủ. Kinh nghiệm của Brazil với quá trình dân chủ hóa rất đáng học tập, vì phong trào này cung cấp bài học về những quyết định mang tính chiến lược do cả các nhà độc tài và dân chủ thực hiện, có thể dẫn tới quá trình chuyển hóa một cách hòa bình – và làm thế nào để vượt qua được, dù lâu dài, những hạn chế, do những thỏa hiệp về cả thiết chế lẫn thực hành, áp đặt lên nền quản trị dân chủ.

Chế độ dân chủ và chế độ độc tài

Brazil đã thành lập được hệ thống chính trị có tính cạnh tranh từ cuối thế kỷ XIX, nhưng trong những thập kỉ nằm dưới chế độ chính trị đầu sỏ, đa số người Brazil không có quyền công dân thực sự. Ngay cả sau Thế chiến II, khi hệ thống chính trị mở cửa cho sự tham gia và cạnh tranh chính trị rộng lớn hơn, các giai cấp thấp hơn ở thành thị vẫn bị kiểm soát gắt gao, còn người lao động ở nông thôn thì không được phép thành lập tổ chức công đoàn, và người mù chữ thì không có quyền bầu cử. Cuối những năm 1950, mặc dù đất nước phát triển thịnh vượng với những khoản đầu tư vào cơ sở hạ tầng, nền công nghiệp thay thế cho nhập khẩu và công cuộc xây dựng thủ đô mới ở Brasilia, nhưng hệ thống chính trị bắt đầu rạn nứt. Sự yếu kém của các thiết chế – thể hiện bằng hệ thống đảng phái chính trị quá manh mún và quốc hội (trong tác phẩm này Congress được dịch là quốc hội, còn Parliament thì dịch là nghị viện – ND) thiếu hiệu quả – làm được rất ít việc nhằm xoa dịu những nỗi sợ hãi của giới tinh hoa đang lo ngại trước phong trào vận động của các liên đoàn nông dân, sự thăng tiến trong các cuộc bầu cử của đảng lao động theo đường lối dân túy, và diễn ngôn thiên tả của vị tổng thống.

Tháng 4 năm 1964, đúng cao điểm của Chiến tranh Lạnh, quân đội Brazil – với nỗi lo sợ trên lý thuyết về những cuộc nổi dậy của những người theo cộng sản và nội chiến – đã phản ứng lại cơn bão chính trị với sự cộng hưởng của nạn lạm phát và cạn kiệt dự trữ ngoại tệ, những đòi hỏi về cải cách ruộng đất, sự bất lực quá rõ ràng của các nhà lãnh đạo dân sự và tình trạng bất ổn trong giới lao động và sinh viên đang gia tăng – bằng một cuộc đảo chính và lập ra chế độ độc tài quân sự. Các nhà cầm quyền quân sự lúc đó đã ổn định nền kinh tế, củng cố chính quyền và mở rộng vai trò của mình đối với nền kinh tế, xoá sổ các đảng chính trị hiện có và chuyển sang đàn áp dữ dội, đình chỉ điều khoản habeas corpus – tức quyền được phóng thích nếu bị bắt giam trái pháp luật và không bị giam giữ trong thời gian dài khi chưa có văn bản khởi tố chính thức – và áp đặt chế độ kiểm duyệt báo chí và tình trạng đặc biệt. Tương tự như các chế độ quân sự khác ở Mỹ Latinh trong giai đoạn này, kẻ thù – cả có thật lẫn tưởng tượng – của chế độ ở Brazil bị giam giữ một cách tùy tiện, bị tra tấn, bị lưu đày, và thậm chí bị giết. Tuy nhiên, ngay cả những lúc đàn áp khốc liệt nhất, nó vẫn chưa tàn bạo bằng các lân bang. Tòa án quân sự thường đưa ra những bản án “vô tội”, chỉ có khoảng 500 chính trị gia bị tước quyền chính trị, trong đó có quyền giữ chức vụ (trong khi ở Uruguay là 15.000 người) – và chính phủ phải chịu trách nhiệm về cái chết của “chỉ có” 333 người, một tỷ lệ bình quân trên đầu người thấp hơn 50 lần so với Chile và thấp hơn 100 lần so với Argentina.

Một điều hết sức quan trọng là, như chính Fernando Henrique Cardoso nhấn mạnh, chế độ quân sự Brazil cố giữ tấm màn che của tính hợp pháp, nên thường xuyên tổ chức các cuộc bầu cử vào cơ quan lập pháp và các cuộc bầu cử ở địa phương, và cho phép các thiết chế đại diện (trong đó có quốc hội và đảng đối lập ủng hộ chính phủ) hoạt động. Mặc dù chế độ đã hủy bỏ các cuộc bầu cử thống đốc bang và thị trưởng thủ đô các bang, thao túng luật bầu cử, và tước bỏ những quyền hiến định quan trọng của các đại biểu dân cử, cuối cùng, các cuộc bầu cử mang tính cạnh tranh đã mở ra con đường dân chủ hóa đặc thù của Brazil.

Chuyển hóa chính trị

Quá trình chuyển hóa của Brazil sang chế độ dân chủ diễn ra từng bước một, từ trên xuống, và có thái độ khoan dung trước sự vận động của các đảng phái và xã hội dân sự bị cấm đoán. Sự chia rẽ giữa các sĩ quan quân sự “theo đường lối cứng rắn” (những người tin rằng Brazil nhất định phải cần chính quyền quân sự thì mới phát huy được tiềm năng của nó) và “những người theo đường lối mềm dẻo” (những người coi chính quyền quân sự chỉ là lâm thời và tình thế, và sợ sẽ mất sự ủng hộ của dân chúng nếu không kiềm chế quyền lực mang tính đàn áp của những người cứng rắn) đã mở cửa cho tự do hóa về chính trị. Đầu năm 1974, tổng thống mới, theo đường lối mềm dẻo, tướng Ernesto Geisel, đưa ra tín hiệu nói rằng ông sẽ “nới lỏng” chính quyền quân sự, giảm bớt kiểm duyệt báo chí và cho phép thể hiện tư tưởng và tiến hành các cuộc bầu cử một cách tự do hơn. Tăng trưởng kinh tế với mức hai con số trong suốt bảy năm liền, xã hội và chính trị ổn định, phe đối lập mất tinh thần đến mức đã tính chuyện giải tán vào năm 1972, khiến Geisel tin tưởng rằng chế độ của mình có thể giành chiến thắng trong cuộc bầu cử mang tính cạnh tranh.

Phe đối lập gặp tình thế khó xử quen thuộc: Tẩy chay cuộc bầu cử, có thể không đưa tới kết quả là chuyển giao quyền lực vô điều kiện, hay là sử dụng không gian được chế độ dành cho để tổ chức, tuyên truyền quan điểm và huy động lực lượng ủng hộ cho mở cửa dân chủ. Họ đã chọn phương án sau. Trước những cáo buộc nói rằng họ đã đã cung cấp cho chế độ độc tài tính chính danh, Cardoso và những người khác đã lập luận một cách thuyết phục rằng tham gia trong hệ thống – và trên thực tế là vận dụng hệ thống một cách có lợi – là con đường chắc chắn nhất dẫn tới thay đổi dân chủ. Thực tế đã chứng minh cách làm đó là đúng. Phe đối lập giành ngay được 16 trong số 22 ghế của thượng viện được bầu vào năm 1974, số ghế của phe đối lập trong hạ viện tăng từ 28% lên 44%, và họ nắm quyền kiểm soát thêm 5 cơ quan lập pháp bang. Kết quả này là thất bại cay đắng đối với chính phủ; Cardoso nhấn mạnh rằng đấy không phải là kết quả của lòng khát khao dân chủ của người dân nói chung, mà thực ra là kết quả của chiến dịch vận động hữu hiệu của phe đối lập về những vấn đề kinh tế thiết yếu – đặc biệt là sức mua so với tiền lương của người lao động bị giảm sút ngay trong giai đoạn bùng nổ kinh tế. Về lâu dài, những cuộc bầu cử mang tính cạnh tranh củng cố khả năng của phe đối lập trong việc huy động cử tri và gây áp lực buộc chính phủ tiếp tục đường lối cởi mở về mặt chính trị. Kiên trì với logic do Cardoso đưa ra – quá trình chuyển đổi sẽ không xảy ra bằng cách tấn công trực diện vào pháo đài của chế độ mà bằng cuộc bao vây cho đến khi những người bên trong sẵn sàng thương lượng – phe đối lập giữ vững đường lối này ngay cả khi chế độ tìm cách sửa đi sửa lại luật lệ nhằm lèo lái tiến trình chính trị theo hướng có lợi cho mình trong các cuộc bầu cử hội đồng thành phố (1976), quốc hội (1978), và cuối cùng, là cuộc bầu cử thống đốc (1982). Phe đối lập cũng hiểu rằng quá trình thay đổi cơ cấu và thời gian đứng về phía họ. Quá trình phát triển kinh tế và công nghiệp hóa đã đưa hàng triệu người Brazil vào các thành phố, tạo ra một tầng lớp trung lưu mạnh, có khả năng tiêu thụ các loại hàng hóa lâu bền, từ tủ lạnh đến ô tô, và mở rộng qui mô giai cấp công nhânlên gần 30% dân số cả nước.

Xã hội dân sự sôi động cũng xuất hiện trong không gian được tạo ra bởi sự cởi mở về chính trị. Nhóm tinh hoa có ảnh hưởng là những người đầu tiên thể hiện sự bất mãn với chế độ độc tài. Các chức sắc của Giáo hội Công giáo La Mã lên án mạnh mẽ việc đàn áp, họ ghi chép tài liệu về những vụ giết người và bạo hành do nhà nước hậu thuẫn trong các vùng nông thôn, họ tìm chỗ cho công nhân đình công nương náu, họ ủng hộ dân chủ và thúc đẩy các nhóm ở cơ sở, qua đó thúc đẩy sự tham gia của quần chúng. Cái chết vào tháng 10 năm 1975 của nhà báo nổi tiếng, gốc Do Thái, Vladimir Herzog trong trại tạm giam của đơn vị tình báo của quân đoàn II ở Sao Paulo đã làm cho Hiệp hội luật sư Brazil, vốn dễ bảo, đưa ra tuyên bố buộc tội chính phủ tra tấn, và buổi lễ chung của người Công giáo và người Do Thái giáo, cầu nguyện cho Herzog, do Hồng y Evaristo Arns dũng cảm tổ chức trong nhà thờ Sao Paulo đã biến thành cuộc biểu tình quần chúng chống lại chế độ quân sự, lần đầu tiên được tổ chức ở nước này. Năm 1974, một nhóm các doanh nhân nổi tiếng cũng can đảm tiến hành chiến dịch chống chính sách quản lý tập trung, và vài năm sau đó đã tìm ra mối liên kết trực tiếp giữa tình trạng nhà nước can thiệp quá mức với các luật lệ tùy tiện, và kêu gọi xây dựng chế độ dân chủ như là giải pháp duy nhất khi nhà nước kiểm soát xã hội, chứ không còn giải pháp nào khác.

Khi không gian chính trị đã mở ra, các nhóm tôn giáo ở cơ sở, các hiệp hội địa phương và phong trào phụ nữ đầy sức mạnh gây áp lực đòi những quyền lợi cụ thể, cũng như đòi nhiều tự do chính trị hơn. Cuối những năm 1970, Luiz Inacio (Lula) da Silva dẫn đầu phong trào công đoàn mới, tỏ ra nghi ngờ sự can thiệp nhà nước và có sức mạnh nhờ liên kết với giai cấp công nhân chứ không phải từ nhà nước; phong trào này đã huy động hàng nghìn người ở các trung tâm công nghiệp của Sao Paulo đình công đòi tăng lương và đòi quyền thương lượng tập thể. Cuộc vận động về xã hội dân sự trong giới tinh hoa, trên các đường phố, trong nhà máy, và các cuộc bầu cử đã tăng cường khả năng thương lượng của phe đối lập chính trị. Đối mặt với một quân đội chưa từng thất bại trong chiến tranh hay trong các cuộc trưng cầu dân ý và đồng ý thương lượng để rút khỏi vị trí cầm quyền, làn sóng dân chủ không thể đảo ngược đã khiến phe đối lập dân chủ có thêm sức mạnh.

Quá trình chuyển hóa tăng tốc cùng với các cuộc bầu cử thống đốc bang năm 1982. Trong khi tìm cách đảo ngược chất lượng các cuộc tổng tuyển cử, mà những cuộc bầu cử từ năm 1974 đã cho thấy – bằng cách chia rẽ phe đối lập – từ năm 1979, chế độ đã cho phép thành lập các đảng phái mới. Phe đối lập chia thành năm đảng, từ Đảng Lao Động của Lula (Partido dos Trabalhadores hay PT) bên cánh tả đến đảng ôn hòa thiên hữu, chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn (tự giải tán vào năm 1981, sau khi chính phủ áp đặt thêm một quy định cấm các đảng liên minh với nhau trong bầu cử), nhưng quyết định của phe đối lập tham gia tranh cử, trước sự thao túng trắng trợn các luật lệ bầu cử một lần nữa đã mang lại kết quả. Với tỉ lệ lạm phát hơn 200% và nền kinh tế rơi vào suy thoái trầm trọng, do phải trả những món nợ nước ngoài quá lớn, các đảng đối lập giành được chức thống đốc 10 bang có mức độ công nghiệp hóa cao nhất và phát triển nhất ở Brazil, tức là những bang chiếm ba phần năm cử tri cả nước và ba phần tư GDP, trong đó có Sao Paulo, Minas Gerais và Rio de Janeiro. Sau đó, phe đối lập chiếm đa số không đáng kể ở hạ viện đã buộc chính phủ phải đàm phán những dự luật gây nhiều tranh cãi, và thậm chí cả các thống đốc thuộc đảng của chế độ cũng dần phải chịu trách nhiệm trước cử tri của mình hơn là với chính phủ quân sự.

Ngay cả sau những thất bại trong bầu cử như thế, quân đội, tin rằng những cử ứng cử viên của chế độ sẽ giữ thế thượng phong trong Đại Cử tri Đoàn gồm hàng ngàn thị trưởng và nghị sĩ hội đồng ủng hộ nhà nước, tiếp tục theo đuổi đường lối giao quyền lực cho tổng thống dân sự vào năm 1985. Năm 1984, với mục tiêu thông qua tu chính hiến pháp nhằm buộc phải tiến hành bầu cử tổng thống trực tiếp, phe đối lập đã huy động chiến dịch Bầu cử Trực tiếp Ngay Bây giờ, lôi kéo được hàng triệu người biểu tình vừa đi vừa hô “Bầu cử Trực tiếp Ngay Bây giờ” trong các cuộc biểu tình đông người trên đường phố luân phiên diễn ra ở trung tâm các bang trên khắp Brazil, khởi đầu từ Sao Paulo vào tháng 1 năm đó. Quân đội không can thiệp. Mặc dù phe đối lập suýt thất bại, suýt nữa thì không giành được đa số là hai phần ba nghị sĩ, đủ để thay đổi hiến pháp, phe này vẫn quyết cạnh tranh trong cuộc bầu cử gián tiếp. Đảng của chính quyền quân sự đề cử ứng cử viên tổng thống gây nhiều tranh cãi, khiến tầng lớp chính trị đổi ý hàng loạt, giúp ứng cử viên đối lập Tancredo Neves (thống đốc ôn hòa của bang quan trọng là Minas Gerais và là chính trị gia có năng lực, tạo được sự đồng thuận,) giành chiến thắng trong cuộc bầu cử.

Xây dựng chế độ dân chủ: Vai trò của Fernando Henrique Cardoso

Công cuộc chuyển hóa sang dân chủ của Brazil tiếp tục sau khi quân đội trao quyền lực cho vị tổng thống dân sự vào năm 1985 và nhân dân Brazil phải đối mặt với những thách thức đầy khó khăn trong việc xây dựng chế độ dân chủ. Thách thức đầu tiên là thiết lập quyền kiểm soát của các quan chức dân sự đối với quân đội mà không gây ra phản ứng ngược từ phía quân đội.

Quân đội muốn không bị truy tố vì những vi phạm nhân quyền (sau khi chính phủ Argentina đưa các sĩ quan cao cấp nhất ra tòa, tất cả các quân nhân Mỹ Latin đều sợ như thế), duy trì quyền kiểm soát các vấn đề quân sự (thăng chức, ngân sách và mua sắm vũ khí), và tiếp tục đóng vai trò hiến định trong việc “bảo đảm trật tự nội bộ”. Mặc dù không có sĩ quan quân đội nào bị truy tố, dần dần chính phủ dân sự đã mở kho lưu trữ về những vụ đàn áp của quân đội và bồi thường cho gia đình 265 nạn nhân đã chết hoặc mất tích dưới thời các chính phủ quân sự. Các chính phủ dân sự cũng kiềm chế tham vọng về an ninh quốc gia của quân đội trong vùng Amazon, hạn chế những bình luận về ​​chính trị của các sĩ quan đang tại ngũ, ngừng mua chiến đấu cơ phản lực và ngưng chương trình làm giàu hạt nhân của nước này. Đáng chú ý nhất là, vào cuối nhiệm kỳ tổng thống đầu tiên, trong những bước đi cực kì thông minh được trình bày trong bài phỏng vấn, Cardoso dứt khoát giảm bớt quyền lực của các sĩ quan quân đội trong nội các bằng cách xóa bỏ hẳn ba Bộ khác nhau, và cử một quan chức dân sự lãnh đạo Bộ Quốc phòng mới.

Các nhà lãnh đạo dân chủ cũng phải cân bằng những đòi hỏi về tái phân phối kinh tế và công lý với nhu cầu phải thiết lập quyền sở hữu và làm dịu bớt nỗi sợ hãi của giới tinh hoa kinh tế. Cải cách ruộng đất và quyền sở hữu là các vấn đề về rất nóng, vì giới tinh hoa trong lĩnh vực nông nghiệp và chủ trang trại gia súc thường đáp trả những vụ tịch thu đất đai được tiến hành bởi Phong trào Những người không có Đất (Movimento dos Trabalhadores Rurais Sem Terra) bằng bạo lực rất tàn nhẫn. Cuối cùng, các các vấn đề tái phân phối và quyền đã được giải quyết ở Quốc hội, cơ quan này (đóng vai trò Hội đồng lập hiến) đưa ra dự thảo, tranh cãi, và cuối cùng, đã ban hành hiến pháp dân chủ mới vào năm 1988. Cánh hữu đã xoay chuyển được tình thế về đòi hỏi cải cách ruộng đất trong quốc hội, nhưng các quyền khác đã được đưa vào hiến pháp – trong đó có quyền lao động, quyền của người bản địa, và quyền phổ quát của tất cả các công dân được chăm sóc sức khỏe – đã trở thành cam kết vĩnh viễn của chế độ dân chủ Brazil. Cuối cùng, năm 1989, tổng thống đã được bầu theo lối phổ thông đầu phiếu.

Trong suốt những năm chuyển tiếp, Fernando Henrique Cardoso là lãnh đạo trí tuệ của phe đối lập và một trong những người phê phán chế độ quân sự thẳng thắn nhất và có ảnh hưởng nhất. Với lập trường đứng giữa phía cực đoan và phía ôn hòa, Cardoso đã giúp ngăn ngừa tình trạng phân hóa nội bộ trong phe đối lập. Ông hỗ trợ tổ chức các cuộc đình công và đòi đưa Lula ra khỏi nhà tù, nhưng đồng thời cũng kiềm chế phe đối lập, không để xảy ra tình trạng nóng vội. Ông ngưỡng mộ mô hình Tây Ban Nha. Cardoso là nhân vật nổi bật trong chiến dịch đòi Bầu cử Trực tiếp Ngay Bây giờ (ông thay mặt phe đối lập trình bày bài phát biểu quan trọng tại thượng viện, ủng hộ tu chính hiến pháp). Cardoso tin rằng bất chấp những trở ngại, vẫn có đầy đủ cơ hội đánh bại ứng cử viên của chính phủ, vì vậy mà ông thuyết phục phe đối lập không rút lui và động viên Ulysses Guimaraes, nhà lãnh đạo chủ chốt của phe đối lập, đồng ý giúp điều phối chiến dịch của Tancredo Neves. Cardoso cũng đóng vai trò quan trọng trong quá trình soạn thảo bản hiến pháp dân chủ vào năm 1988 – ông là đại diện của Ủy ban Luật lệ Nội bộ và Ủy ban Hệ thống hóa. Năm 1993, với tư cách bộ trưởng tài chính, ông đã cộng tác với một nhóm các nhà kinh tế học trong quá trình soạn thảo Kế hoạch Thực tiễn (Real Plan) nhằm kiềm chế lạm phát và sau đó sử dụng tài năng thuyết phục của mình để làm cho kế hoạch này được phê chuẩn, triển khai và chấp nhận ngay tại thời điểm, theo như lời ông nói, khi Quốc hội còn yếu. Năm 1994, thể hiện lòng biết ơn vì đã khắc phục được nạn lạm pháp, nhân dân đã bầu Cardoso lên làm tổng thống. Những cuộc cải cách do chính phủ của ông tiến hành đã đặt nền móng cho sự ổn định kinh tế và chế độ dân chủ.

Xét chung cuộc, công cuộc chuyển hóa của Brazil sang nền quản trị dân chủ thực sự đã diễn ra một cách khó khăn hơn so với những nước khác, ví dụ như, Argentina, việc quân đội nước này thua (chiến tranh Falkland, kéo dài mười tuần giữa Argentina và Anh Quốc, năm 1982, Argentina thua – ND) đã làm dân chúng mất tín nhiệm đối với lực lượng vũ trang. Nhưng cơ cấu xã hội phức tạp của Brazil, mức độ đô thị hóa cao và văn hóa chính trị được hình thành bởi lịch sử bầu cử của đất nước đã tạo áp lực làm cho quá trình dân chủ hóa từng bước một, thông qua tiền trình bầu cử trở nên hoàn toàn khả thi. Phe đối lập dân chủ chấp nhận luật lệ và nhịp độ do chế độ đưa ra và đã có vô số thỏa hiệp trên suốt lộ trình. Chúng ta không thể biết chắc rằng, những thỏa hiệp này có làm cho quá trình chuyển tiếp kéo dài quá mức cần thiết, như một số người khẳng định vào thời điểm đó hay không. Nhưng tại thời điểm này nhìn lại, rõ ràng là những thỏa hiệp đó không vĩnh viễn kìm hãm chế độ dân chủ. Quân đội hiển nhiên đã nằm dưới quyền quản trị dân sự, các quy định về an sinh xã hội đã được mở rộng đáng kể, đã đạt được tăng trưởng kinh tế công bằng hơn, và hiện nay Brazil có chế độ dân chủ đầy sức sống, sáng tạo và đã bám rễ rất vững chắc.

Tiểu sử Fernando Henrique Cardoso, Tổng thống Brasil (1995-2003)

Fernando_Henrique_Cardoso_(1999)

Fernando Henrique Cardoso khởi nghiệp là một nhà nghiên cứu xã hội học; luận án và tác phẩm đầu tiên của ông viết về chủng tộc ở Brazil. Chẳng bao lâu sau ông đã thể hiện được tài năng về chính trị và hành chính của mình trong quá trình quản lí Trường Đại học Sao Paulo. Bị chế độ quân sự bãi chức, Cardoso đành sống lưu vong ở Chile và cùng viết chung với người khác một tác phẩm dấu ấn về sự phụ thuộc và phát triển. Ông đã từ chối những vị trí hấp dẫn trong giới hàn lâm quốc tế để trở về Brazil vào năm 1968. Với sự giúp đỡ của Quỹ Ford, ông cùng với những người khác đứng ra thành lập CEBRAP (Centro Brasileiro de Analise e Planejamento – Trung tâm Phân tích và Kế hoạch hóa Brazil) – một trung tâm nghiên cứu khoa học xã hội độc lập. Ỏ đó, Cardoso đã hướng dẫn công trình nghiên cứu về vùng đô thị Sao Paulo, tập trung vào phân phối thu nhập và các chủ đề khác với hàm ý thách thức chế độ quân sự về chính sách. Cardoso tham gia chính trường bầu cử trong cuộc bầu cử quốc hội tương đối tự do vào năm 1978, sau đó là nghị sĩ đối lập có vai trò ngày càng quan trọng trong quốc hội và là đồng sáng lập của Đảng Dân chủ Xã hội Brazil.

Với tư cách một nhà lãnh đạo phe đối lập trong quá trình chuyển hóa từng bước của Brazil, Cardoso thiết lập cầu nối giữa các đối thủ của chế độ quân sự và tiếp đó là giữa các chính phủ dân chủ nối tiếp nhau của đất nước này. Ông là đại diện của các Ủy ban của quốc hội soạn thảo ra bản hiến pháp năm 1988 của Brazil. Trong vai trò bộ trưởng tài chính, bắt đầu từ năm 1993, ông đã cộng tác với một nhóm các nhà kinh tế học để lập ra Kế hoạch Thực tiễn nhằm kiềm chế lạm phát và giành được sự ủng hộ của dân chúng bằng cách trình bày cách tiếp cận mới đối với các vấn đề kinh tế với nhiều thành phần công chúng. Sự thành công của Kế hoạch Thực tiễn là nguồn trợ giúp đắc lực, giúp ông thắng cử trong cuộc bầu cử tổng thống năm 1994. Tiếp đó, Cardoso sử dụng kĩ năng cá nhân và kĩ năng xây dựng quan hệ của mình để tạo lập liên minh cầm quyền. Ông cũng dựa vào mối quan hệ họ hàng với rất đông người thuộc thành phần quân đội trong gia đình mình để tìm hiểu các tập tục của giới sĩ quan Brazil và giành được sự ủng hộ của họ đối với nhiều cuộc cải cách quan trọng – trong đó có việc thành lập Bộ Quốc phòng với tư cách pháp nhân dân sự. Ông làm tổng thống hai nhiệm kỳ, ông giám sát cải cách kinh tế nhằm mở cửa thị trường và nền ngoại giao quốc tế năng động, và sau đó lãnh đạo quá trình chuyển giao êm thấm sang cho Luiz Inacio (Lula) da Silva, một người cánh tả và đã lãnh đạo phong trào lao động suốt nhiều năm liền. Luiz Inacio (Lula) da Silva, được bầu làm tổng thống năm 2002, đã tiếp tục duy trì và mở rộng nhiều chính sách kinh tế và xã hội của Cardoso.


Trích : Chuyển hóa dân chủ: đối thoại với các nhà lãnh đạo thế giới

Sergio Bitar và Abraham F. Lowenthal

Dịch: Phạm Nguyên Trường

Trả lời

Điền thông tin vào ô dưới đây hoặc nhấn vào một biểu tượng để đăng nhập:

WordPress.com Logo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản WordPress.com Đăng xuất /  Thay đổi )

Facebook photo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Facebook Đăng xuất /  Thay đổi )

Connecting to %s