CHƯƠNG 16
NGƯỜI CHẾT VẦ KẺ RA ĐI
Tác giả Orlando Figes
Trần Quang Nghĩa dịch
i Những Đứa Con Côi của Cách Mạng
‘Không, tôi không khỏe,’ Gorky viết cho nhà văn Pháp Romain Rolland khi ông đến Berlin – ‘tôi bị lao phổi trở lại, nhưng ở tuổi tôi nó không nguy hiểm lắm. Khó chịu đựng hơn nhiều là nỗi sầu thảm trong tâm hồn – tôi cảm thấy rất mệt mỏi: trong bảy năm qua ở Nga tôi đã chứng kiến và sống qua quá nhiều bi kịch – càng buồn hơn vì nó không phải gây ra bởi lô-gic của nhiệt tình và ý muốn mà bởi sự tính toán mù quáng và lạnh lùng của những kẻ cuồng tín và hèn nhát. . . Tôi còn tin tưởng nhiệt thành vào hạnh phúc tương lai của nhân loại nhưng tôi phát ốm và phiền lòng khi nhân dân phải trả giá cho những niềm hi vọng tươi đẹp của họ bằng những khổ đau ngày càng lớn.’ Chết chóc và vỡ mộng nằm lại khi Gorky ra đi khỏi nước Nga vào mùa thu 1921. Số người chết trong bốn năm qua nhiều đến nỗi thậm chí ông chẳng buồn gắn bó với những lý tưởng và hi vọng cách mạng hơn được nữa. Không có gì tương xứng với nỗi đau đến thế của nhân loại.
Không ai biết được toàn bộ giá sinh mạng của cách mạng. Dù tính toán kiểu nào thì cũng thật là thảm khốc. Chỉ đếm số người chết do nội chiến, khủng bố, đói kém và bệnh tật, đã lên đến khoảng 10 triệu người. Nhưng nếu kể thêm di dân (khoảng hai triệu người) và hậu quả về nhân khẩu của sinh suất giảm nhiều – không ai muốn trẻ con trong những năm khủng khiếp này – các nhà thống kê nói sẽ lên đến 10 triệu sinh mạng.* Tử suất cao nhất là trong nhóm đàn ông trưởng thành – chỉ tính riêng ở Petrograd có đến 65,000 goá phụ vào năm 1920 – chết quá bình thường đến nỗi nó không chừa bất kỳ ai. Không ai sống qua thời kỳ cách mạng mà không mất bạn bè và người thân. ‘Chúa ơi, chết nhiều biết bao!’ Sergei Semenov viết cho một người bạn cũ vào tháng giêng 1921. ‘Hầu hết là các ông già — Boborykin, Linev, Vengerov, Vorontsov . . . đã chết. Thậm chí Grigory Petrov đã biệt tích, không biết ông ta sống chết ra sao, chúng ta chỉ có thể nói rằng không có gì vui thú khi tiến lên chủ nghĩa xã hội. Điều làm chúng ta đau đớn nhất là là không biết bạn bè mình chôn cất ở đâu.’ Và ‘kỳ tich’ mà tử thần có thể giáng xuống một gia đình đơn lẻ được minh họa rõ ràng nhất trong nhà Tereshchenkov. Nikitin Tereshchenkov, một bác sĩ Hồng Quân, mất cả con gái và em gái trong trận dịch sốt phát ban vào năm 1919; con trai trưởng và em trai hi sinh cho Hồng Quân trên Mặt trận phía Nam cùng năm đó: còn em rể bị giết một cách bí mật. Vợ Nikitin thì sắp chết vì bệnh lao, trong khi chính ông cũng bị sốt phát ban. Bị Cheka địa phương tố cáo (như rất nhiều người khác thuộc giới trí thức nông thôn) là ‘kẻ thù của nhân dân’, họ mất nhà riêng ở Smolensk và đang cư ngụ, vào năm 1920, trên một nông trại nhỏ với hai người con trai còn sống sót – Volodya, 15 tuổi, và Misha, 13 tuổi.
* Không kể tuổi thọ những người sống sót sẽ bị giảm do thiếu dinh dưỡng và bệnh tật. Trẻ em sinh ra và trưởng thành trong những năm tháng này nhỏ con hơn hẳn những trẻ đồng lứa thời trước, và 5 phần trăm những bé sơ sinh đều bị giang mai (theo Sorokin, Sovremennoe).
Chết ở Nga trong thời gian này thì dễ nhưng chôn cất mới là điều khó. Dịch vụ tống táng đã được quốc hữu hóa, vì thế mỗi dịp an táng tốn rất nhiều thủ tục giấy tờ. Rồi lại có vấn đề khan hiếm gỗ đóng hòm. Một số người phải bó thi thể người thân trong đệm hoặc thuê hòm – có in mấy chữ ‘LÀM ƠN HOÀN LẠI’ – chỉ để mang ra đến mộ. Một vị giáo sư già có thân thể quá lớn so với hòm thuê nên phải nhồi nhét đến nỗi làm gãy vài chiếc xương. Rồi vì lý do nào đó mồ mả cũng khan hiếm – ai có thể tin vào điều này khi đây là nước Nga? – đến nỗi có khi phải đợi dài cả cổ đến vài tháng. Nhà xác chính ở Moscow có hàng trăm thi thể thối rữa trong nhà hầm đợi chôn cất. Người Bôn-se-vich cố làm giảm tình hình trầm trọng bằng cách vận động dịch vụ hoả táng miễn phí. Năm 1919 họ cam kết xây dựng một lò thiêu lớn nhất thế giới. Nhưng sự gắn bó của người Nga đối với các nghi lễ an táng Chính thống giáo đã giết chết sáng kiến này.
Cái chết xảy ra quá thường đến nỗi người ta đâm quen mắt. Cảnh một xác chết trên đường phố không còn gợi lên sự chú ý của người qua đường. Việc giết người xảy ra chỉ vì một động cơ vụn vặt nhất – ăn cắp một vài rúp, nhảy lên hàng đang xếp, hoặc đơn giản chỉ vì kẻ sát nhân thích thế. Bảy năm chiến tranh đã làm con người trở nên tàn nhẫn và chai đá trước nỗi đau của người khác. Vào năm 1921 Gorky hỏi một nhóm binh sĩ Hồng Quân giết người có áy náy không. ‘Không, không có gì phải áy náy. Hắn có súng, mình có súng, vì thế chúng tôi bằng nhau; có gì thiệt đâu, nếu chúng tôi giết nhau người còn lại sẽ có đất nhiều hơn.’ Một người lính, đã từng chiến đấu ở châu Âu trong Thế Chiến I, thậm chí bảo với Gorky rằng giết một người Nga dễ hơn giết một người nước ngoài. ‘Dân số ta quá nhiều, kinh tế ta thì nghèo nàn; vâng, nếu một ngôi làng bị đốt rụi, thì có hề hấn gì đâu? Không cháy bây giờ thì đúng kỳ thì nó cũng cháy thôi.’ Mạng sống đã trở nên rẻ mạt đến nỗi người ta không ngần ngại giết lẫn nhau, hoặc dửng dưng nhìn người khác giết hàng triệu người nhân danh mình. Một nông dân hỏi một nhóm khoa học công tác trong vùng Ural trong năm 1921: ‘Các ông là người có học, thế thì hãy cho tôi biết chuyện gì xảy ra với tôi. Một người Bashkir giết con bò của tôi, thế nên tôi giết y rồi lấy đi con bò khỏi nhà y. Thế thì hãy nói cho tôi biết: tôi có bị trừng phạt vì tội lấy bò hay không?’ Khi họ hỏi hắn bộ hắn không nghĩ là mình bị trừng phạt vì tội giết người hay sao, thì người nông dân trả lời tỉnh bơ: ‘Có gì đâu, mạng người bây giờ rẻ rề mà.’
Cũng có chuyện khác – kể về một người chồng đã giết vợ mình mà chẳng có nguyên cớ nào rõ ràng. ‘Tôi đã chịu đựng cô ta đủ rồi, phải đến lúc kết thúc thôi,’ đó là câu giải thích của tên sát nhân. Như thể mọi bạo lực của vài năm vừa qua đã lột phăng lớp sơn bóng của nền văn minh che đậy mối quan hệ của con người và phơi bày bản năng động vật nguyên thủy của y. Người ta bắt đầu thích mùi máu. Họ đâm ra quen với sở thích giết người.
Kẻ sát thủ lớn nhất trong những năm này – tính ra đã lấy đi tổng cộng 5 triệu người – là nạn đói 1921. Như tất cả nạn đói, nạn đói vùng Volga do một phần con người và một phần do trời sinh ra. Những điều kiện tự nhiên của vùng Volga khiến cho vùng này dễ bị tổn thương với sự mất mùa – và trong những năm gần đây đã xảy ra nhiều lần, 1891-1892, 1906 và 1911. Mùa hè hạn hán và sương giá nặng nề là những đặc điểm thường thấy của khí hậu thảo nguyên. Gió xoáy trong mùa xuân thổi bay lớp đất mặt và tàn phá hoa màu non xanh. Đây là những điều kiện tiên quyết của nạn đói vùng Volga năm 1921: thất mùa năm 1920 rồi tiếp theo một năm sương giá nặng và hạn hán mùa hè thiêu cháy biến thảo nguyên thành một đụn cát khổng lồ. Đến xuân rõ ràng là nông dân sẽ phải chịu thêm một năm mất mùa kế tiếp. Nhiều hạt giống đã bị chết bởi sương giá, trong khi những thân cây bắp mới nhô lên nom yếu ớt và chẳng bao lâu làm mồi cho châu chấu và chuột đồng. Cho dù tệ, những rạn nứt trong khuôn mẫu của thiên nhiên không đủ để gây ra thảm họa đói kém. Nông dân đã quen với nạn mất mùa và lúc nào cũng dự trữ đề phòng một số lượng lớn, thường giữ trong nhà kho công xã. Điều khiến cuộc khủng hoảng trở nên thảm họa là việc trưng thu thời nội chiến quá khốc hại. Để tránh thiệt hại người nông dân quay sang canh tác cầm chừng – họ chỉ trồng đủ thóc gạo để nuôi sống gia đình và gia súc và giữ lại chút thóc giống. Năm 1920 diện tích canh tác vùng Volga đã giảm một phần tư so với 1917. Vậy mà người Bôn-se-vich tiếp tục trưng thu nhiều hơn – không chỉ lượng dư thừa mà còn trữ lượng tiêu thụ và làm giống – vì thế khi thất thu xảy ra hậu quả thật là khủng khiếp đối với nông dân.
Vào mùa xuân 1921 một phần tư giới nông dân ở nước Nga Xô-Viết đang chết đói. Nạn đói không chỉ giảng xuống vùng Volga mà còn vùng Ural và châu thổ Kama, Don, Bashkiria, Kazakhstan, tây Siberia và nam Ukraine. Đói kém đi kèm với sốt phát ban và tiêu chảy đã giết hàng trăm ngàn người đã kiệt sức vì đói lã. Những vùng bị ảnh hưởng nhiều nhất là trên thảo nguyên Volga. Ở tỉnh Samara gần hai triệu người (tức ba phần tư dân số) được cho là chết vì đói vào mùa thu 1921: 700,000 trong số thật ra chết vào cuối cuộc khủng hoảng. Trong một làng điển hình, Bulgakova, với dân số 16,000 người vào tháng giêng 1921, đến tháng 11 1,000 đã chết, 2,200 đã bỏ làng và 6,500 đã bị liệt vì đói hoặc bệnh tật. Khắp vùng Volga những nông dân đói khát phải quay ra ăn cỏ, ăn lá cây, rong rêu, vỏ cây, rơm lợp nhà và bột làm từ quả đầu, mạt cưa, đất sét và phân ngựa. Họ tàn sát gia súc và săn bắt các loài gặm nhấm, mèo và chó. Bầu không khí chết chóc bao trùm khắp làng xã. Những bộ xương người, những đứa trẻ bụng ỏng, lặng lẽ nằm xuống để chết như những con chó. ‘Dân làng chỉ đơn giản là đầu hàng thần chết,’ một công nhân cứu trợ ghi chú ở Saratov. ‘Họ quá yếu để có sức phàn nàn.’ Người nào còn đủ sức đóng cửa nông trại tiêu điều, chất hành lý còm cõi lên xe ngựa, và chạy vù ra thị trấn tìm thức ăn. Tại thị trấn một vài ổ bánh mì đổi được một con ngựa. Nhiều người quá yếu phải chết gục dọc đường. Đám đông tụ về các nhà ga tàu hỏa trong hi vọng mong manh bắt được chuyến tàu đi đến những vùng khác – Moscow, vùng Don, Siberia, gần như mọi nơi, miễn là chỗ nào có thức ăn. Họ không biết rằng mọi chuyến tàu rời khu đói kém đều bị cấm theo lệnh của Moscow để hạn chế nạn dịch. Đây là khung cảnh ở nhà ga Simbirsk vào mùa hè 1921:
Tưởng tượng một khối đông nghẹt những đám đông rách rưới bẩn thỉu, đây đó lộ ra những cánh tay gầy gò, trần trụi, những gương mặt đã in dấu đóng của tử thần. Bao trùm lên tất cả là mùi tử khí nồng nặc. Không thể chen qua được. Phòng đợi, hành lang, mỗi phân đều chật cứng người, ngồi, nằm, co quắp trong mọi tư thế có thể tưởng tượng được. Nếu nhìn sát người ta có thể thấy những đống giẻ rách nhớp nhúa này bám đầy chấy rận. Những người bị sốt phát ban ngồi khom người và run rẩy vì cơn sốt, tay vẫn bồng con nhỏ. Những bé sơ sinh còn bú đã khản tiếng và không còn sức để khóc. Mỗi ngày hơn 20 người chết được mang đi, nhưng không thể mang đi hết. Đôi khi xác chết nằm đấy giữa người sống hơn năm ngày. . .
Một phụ nữ cố sức dỗ dành đứa con nhỏ nằm trong lòng mình. Đứa con khóc, đòi ăn. Người mẹ tiếp tục ru nó trong vòng tay. Rồi bổng bà đánh phét nó một cái. Đứa bé khóc thét lên. Tiếng khóc dường như làm bà nổi điên. Bà bắt đầu đánh con túi bụi, gương mặt nhăn nhúm vì giận dữ. Bà vung nắm đấm đánh như mưa lên mặt đứa bé, lên đầu nó và cuối cùng ném nó xuống sàn nhà và lấy chân đá. Những tiếng kêu khủng khiếp xôn xao quanh bà. Người ta bồng đứa bé lên, nguyền rủa người mẹ. Lúc này, sau cơn bùng nổ, bà đã bình tĩnh trở lại, hoàn toàn lãnh đạm với mọi chuyện xảy ra chung quanh. Mắt bà nhìn trân trân, hiến nhiên bà mù loà.
Cơn đói biến một số người thành kẻ ăn thịt người. Đây là hiện tượng xảy ra thường hơn các sử gia trước đây đã nghĩ. Trong vùng Bashkir và trên vùng thảo nguyên quanh Pugachev và Buzuluk, nơi cuộc khủng hoảng trầm trọng nhất, hàng ngàn trường hợp được báo cáo. Cũng dễ hiểu là hầu hết việc ăn thịt người không được báo cáo. Một người, bị kết tội ăn thịt vài đứa trẻ, chẳng hạn khai rằng: ‘Trong làng chúng tôi, ai cũng đều ăn thịt người nhưng họ giấu. Có vài hàng quán trong làng- và tất cả đều phục vụ thịt trẻ con.’ Hiện tượng này thực sự phất lên khi mùa đông đến, khoảng tháng 11 1921, lúc những đợt tuyết đầu tiên che phủ những món nằm trên mặt đất có thể thay thế thực phẩm và giờ đây không còn gì để ăn. Những người mẹ, không còn hi vọng kiếm được thức ăn cho con cái, bèn cắt tay chân xác chết và nấu chín. Người ta ăn thịt người thân của mình – thường là trẻ con, vì chúng là người chết đầu tiên và thịt thà chúng mềm mại hơn. Trong một số làng nông dân không chôn người chết mà cất giữ xác trong nhà kho. Họ thường năn nỉ các nhân viên cứu trợ đừng mang xác đi mà để họ ăn dần. Trong làng Ivanovka, gần Pugachev, một phụ nữ bị bắt gặp đang ăn thịt người chồng chết cùng với con mình và khi cảnh sát muốn mang phần thi thể còn lại đi bà ta la lên: ‘Không được mang ông ta đi, chúng tôi cần ông ta, ông ta là người của chúng tôi, không ai có quyền mang ông ta đi khỏi chúng tôi.’ Săn và giết người để ăn cũng là hiện tượng bình thường. Trong thị trấn Pugachev trẻ nhỏ ra ngoài ban đêm rất nguy hiểm vì nghe đồn có nhiều băng nhóm ăn thịt người và buôn bán người. Trong vùng Novouzensk có băng trẻ em chuyên giết người lớn ăn thịt, khiến nhân viên cứu trợ phải vũ trang. Thậm chí có trường hợp cha mẹ phải giết con cái để ăn.
Thật dễ để kết luận rằng những hành động như thế chỉ đơn giản là một dấu hiệu suy đồi về đạo đức hoặc tâm thần. Nhưng thường chính vì lòng trắc ẩn đã thúc đẩy người ta phải phạm tội này. Đau đớn nhìn con mình chết dần vì đói có thể xui cha mẹ làm bất cứ việc gì, và trong những tình huống cực kỳ như thế những chuẩn mực đúng sai dường như rất mờ mịt. Thật ra khi bị thẩm vấn kẻ ăn thịt người trông rất biết lý lẽ và thường đưa ra một bộ qui tắc đạo đức mới để hợp pháp hóa hành vi của mình. Nhiều người lập luận rằng ăn thịt người không thể là phạm tội vì lính hồn người ấy đã rời bỏ thân xác, còn lại ‘chỉ là thức ăn cho côn trùng dưới đất’. Hơn nữa, việc ăn riết rồi quen đến thèm thịt người xảy ra với bất kỳ giai cấp nào. Các bác sĩ đang chết đói cũng thường phải đành ăn nó sau khi đợi cứu trợ quá mỏi mòn trong vùng dịch, và họ cũng xác nhận rằng phần tệ nhất trong trải nghiệm là ‘sự thèm thuồng không thể chịu được’ món thịt người.
Chỉ đến tháng 7 1921 chính quyền Xô-Viết mới nhìn nhận có nạn đói hoành hành. Như khủng hoảng năm 1891, báo chí thậm chí bị ngăn cấm sử dụng từ ‘nạn đói kém’. Nó tiếp tục đưa tin mọi việc đều ổn trong vùng quê sau khi đã áp dụng NEP. Chính sách cố tình phớt lờ này đặc biệt nổi cộm ở Ukraine: mặc dù vào thu 1921 nạn đói lan rộng ở đó, Moscow tiếp tục xuất đi một số lượng lớn thóc gạo đến vùng Volga cho đến mùa hè. Tất nhiên, đây chỉ là việc lấy gạo từ vùng đói này để cho một vùng khác đói hơn. Nhưng hành động đó cũng có thể, như Robert Conquest đã lập luận một cách thuyết phục cho nạn đói 1930-2, rằng Moscow nhắm đến việc trừng phạt nông dân Ukraine vì chống đối chế độ Bôn-se-vich.
Như trong năm 1891, việc tổ chức công tác cứu trợ giao lại cho các bộ phận quần chúng hoặc nước ngoài. Gorky là người cầm đầu. Vào ngày 13/7 ông phát đi lời kêu gọi ‘Gởi Tất Cả những Người Hảo Tâm’ xuất hiện sau đó trên báo chí Tây phương:
Thảm kịch đã đến đất nước của Tolstoy, Dostoevsky, Mendeleev, Pavlov, Mussorgsky, Glinka và những nhân vật được thế giới trân trọng. Nếu lý tưởng và tình cảm nhân đạo – mà lòng tin vào tầm quan trọng về mặt xã hội của nó đã bị lung lay vì cuộc chiến đáng nguyền rủa và sự nhẫn tâm của kẻ chiến thắng đối với người bại trận – nếu lòng tin vào sức mạnh sáng tạo của những lý tưởng và tình cảm này, tôi tin tưởng, phải và có thể được phục hồi, thì tai họa của nước Nga cho ta một cơ hội tuyệt vời để mình chứng sức sống của chủ nghĩa nhân đạo. Tôi kêu gọi tất cả những người Mỹ và Âu châu hảo tâm hãy nhanh chóng cứu giúp nhân dân Nga. Hãy gởi bánh mì và thuốc men. Maxim Gorky.
Cùng với một nhóm những nhân vật của quần chúng Gorky kêu gọi đến Lênin xin phép tổ chức một cơ quan tình nguyện để cứu trợ nạn đói. Ủy ban Cứu Trợ Công Cộng Toàn Nga, viết tắt là Pomgol, được thành lập vào ngày 21/7, là cơ quan quần chúng độc lập đầu tiên và cuối cùng được thành lập dưới chế độ Cộng Sản. Một phần do nhượng bộ với Gorky một phần do đây là phương tiện để tranh thủ viện trợ nước ngoài mà Lênin đồng y cho phép thành lập. 73 thành viên của Pomgol bao gồm những những nhân vật văn hóa hàng đầu (Gorky, Korolenko, Stanislavsky); những nhà chính trị cấp tiến (Kishkin, Prokopovich, Kuskova); một cựu bộ trưởng thời sa hoànge (N. N. Kutler); một nhà Dân túy kỳ cựu (Vera Figner); những nhà nông học nổi tiếng (Chayanov, Krondatev); các kỹ sư (P. I. Palchinsky); bác sĩ; và những người ngưỡng mộ Tolstoy. Thậm chí có một chỗ cho Alexandra Tolstaya, con gái của văn hào, người đã trải qua bốn năm vừa qua ra vào các nhà tù và trại tập trung Cheka. Pomgol nhắm làm sống lại tình thần công dân đã cứu đất nước trong nạn đói năm 1891: nó kêu gọi dân chúng trong và ngoài nước đóng góp cho chiến dịch cứu trợ. Hoàng thân Lvov, người đã tham gia vào những nỗ lực cứu trợ ba mươi năm trước, giờ đây cũng quyên góp tiền bạc và gởi thực phẩm qua tổ chức Paris Zemgor (thậm chí đang lưu vong ông vẫn tiếp tục công việc zemstvo). Để bảo đảm Pomgol không dính líu vào hoạt động chính trị người Bôn-se-vich cài vào tổ chức một ‘hạt nhân’ gồm 12 người Cộng sản tiếng tăm do Kamenev cầm đầu. Lênin quyết liệt không cho phép cuộc khủng hoảng làm dấy lên sự chống đối của dân chúng như vào năm 1891.
Đáp ứng lời kêu gọi của Gorky, Herbert Hoover (Tổng thống Mỹ) phái Cơ quan Cứu Trợ Hoa Kỳ (ARA) đến Nga. Hoover đã thành lập ARA để cùng cấp thực phẩm và thuốc men cho châu Âu thời hậu chiến. Hai điều kiện của Hoover là nó được quyền hoạt động độc lập, không có sự can thiệp của các viên chức Cộng sản, và tất cả công dân Hoa Kỳ phải được phóng thích khỏi nhà tù Xô-Viết. Lênin giận dữ – ‘Người ta phải trừng trị ông ấy, người ta phải tát vào mặt ông ta để cho cả thế giới nhìn thấy,’ ông bốc khói – nhưng mà như bất kỳ tên ăn xin nào ông không thể kén chọn. Ngay khi Pomgol tranh thủ được viện trợ Mỹ ông ra lệnh đóng cửa nó, dù có sự chống đối từ Kamenev và Gorky. Vào ngày 27/8 tất cả thành viên quần chúng – trừ Gorky và Korolenko – bị Cheka bắt giữ, bị kết tội đủ mọi loại ‘hoạt động phản cách mạng’ , và sau đó bị bắt buộc sống lưu vong ở nước ngoài hoặc quản thúc trong nước. Ngay cả Gorky cũng bị Lênin ra sức ép bảo đi nước ngoài vì lý do sức khỏe.
Vào mùa hè 1922, khi hoạt động cứu trợ lên cao điểm, ARA nuôi ăn 10 triệu người mỗi ngày. Nó cũng phân phát số lượng lớn thuốc men, quần áo, công cụ và hạt giống – những hạt giống khiến hai vụ mùa bội thu liên tiếp 1922 và 1923 cuối cùng đã phục hồi nước Nga khỏi nạn đói kém. Tổng trị giá của công tác cứu trợ của ARA là 60 triệu đô la.
Người Bôn-se-vich đưa tay nhận việc cứu trợ này với thái độ vô ơn đáng kinh ngạc: chưa bao giờ một quà tặng hào phóng như thế bị xoi mói một cách đáng hỗ thẹn như thế. Họ tố cáo ARA là do thám, là ra sức làm mất uy tín và lật đổ chế độ Xô-Viết,* và liên tục phiền nhiễu các hoạt động của họ, lục soát hàng cứu trợ, chận tàu hỏa, tịch thu hàng hóa, và thậm chí bắt giữ các nhân viên cứu trợ. Hai điều kiện mà Hoover đưa ra – không được can thiệp và phóng thích tất cả người Mỹ – do đó bị người Bôn-se-vich trắng trợn vi phạm. Dân Mỹ nổi giận khi người ta phát hiện ra rằng cùng lúc với việc nhận lương thực cứu trợ từ phương Tây, chính quyền Xô-Viết xuất khẩu hàng triệu tấn ngũ cốc của mình bán ra nước ngoài. Khi được hỏi, chính quyền Xô-Viết tuyên bố rằng mình cần xuất khẩu để mua trang bị công nghiệp và nông nghiệp từ nước ngoài. Xì căng đan này đã khiến ARA ở Nga không nhận được thêm tiền đóng góp ở Mỹ và ARA buộc phải tạm dừng hoạt động.
* Động lực của Hoover cũng không hoàn toàn rõ ràng. Thù địch gay gắt với chế độ Xô-Viết, thật ra ông có thể đã nhắm tới sử dụng việc cứu trợ như một đòn bẩy ngoại giao và ảnh hưởng chính trị ở Nga. Nhưng điều này không phủ định thiện chí nhân đạo về phần Hoover. Cũng không đáng cho người Bôn-se-vich phải công kích.
Đối với Gorky cách nhà nước Xô-Viết xử lý khủng hoảng lương thực vừa khó hiểu vừa đáng xấu hổ. Đó là nhân tố chính khiến ông quyết định rời khỏi nước Nga. Khi nạn đói kém đã qua cơn nguy cấp người Bôn-se-vich gởi lời cảm ơn chính thức ngắn ngủi đến nhân dân Mỹ. Nhưng Gorky rộng rãi hơn với lời cám ơn. Trong một bức thư bày tỏ nhiều lý tưởng sâu xa nhất của mình, Gorky viết cho Hoover ngày 30 tháng 7 1922:
Trong toàn bộ những nỗi đau nhân loại tôi không biết có nỗi đau nào thử thách tâm hồn con người hơn nỗi đau mà nhân dân Nga đang trải qua, và trong lịch sử của chủ nghĩa nhân đạo thực tiễn mà tôi biết không có thành tựu nào về mặt hào hiệp và qui mô có thể so sánh được với việc cứu trợ mà ngài đã thực hiện. Sự hỗ trợ của ngài sẽ đi vào lịch sử như một thành tựu lớn lao và độc nhất, xứng đáng với vinh quang vĩ đại nhất, sẽ lưu truyền lâu dài trong ký ức của hàng triệu nhân dân Nga mà ngài đã cứu khỏi chết đói.
Sự hào phóng của nhân dân Mỹ làm sống lại giấc mơ về tình huynh đệ giữa con người tại một thời buổi khi nhân loại đang cần khẩn thiết lòng từ thiện và trắc ẩn.
Một trong những di sản đáng buồn nhất của cách mạng là đám đông các trẻ mồ côi lang thang khắp các đường phố của mọi thành phố. Vào năm 1922 ước tính có tới 7 triệu trẻ sống chui rúc ở nhà ga, các nhà bỏ hoang, các công trường xây dựng, bãi rác, tầng hầm, cống rãnh và những khu ổ chuột khác. Những đứa trẻ chân trần, rách rưới, mà cha mẹ đã chết hoặc đã bỏ rơi chúng, là biểu tượng cho sự sụp đổ xã hội của nước Nga. Thậm chí gia đình cũng bị phá vỡ.
Những đứa con côi của cách mạng là một bức tranh biếm họa đầy ghê sợ về thời thơ ấu chúng đã đánh mất. Cuộc đấu tranh trên đường phố giành sự sống còn buộc chúng xử sự như người lớn. Chúng sử dụng biệt ngữ riêng, nhóm xã hội riêng và bộ qui tắc đạo đức riêng. Bọn trẻ mới 12 tuổi đã ‘lấy nhau’ và có con. Nhiều đứa tập tành nhậu nhẹt, hút heroin và chơi cocain. Xin ăn, bán rong, phạm pháp vặt vãnh và mãi dâm là những biện pháp nhờ đó chúng sống được. Tại nhà ga chúng bu đầy như ruồi, ngay lập tức xà xuống bất kỳ mẫu thức ăn nào được ném xuống từ toa tàu. Vài trẻ xin ăn tự hành hạ mình để tranh thủ sự thương xót của người hảo tâm. Có mối liên hệ mật thiết giữa chúng và thế giới tội phạm ngầm. Những băng đảng trẻ em ăn cắp các xạp hàng ở chợ, trấn lột khách đi đường, móc túi người qua lại và đột nhập vào các cửa hàng và nhà ở.
Hầu hết tất cả trẻ mồ côi đều hành nghề mãi dâm khi cần. Một cuộc khảo sát năm 1920 cho thấy 88 phần trăm các bé gái đã từng hành nghề mãi dâm trong một thời gian. Một số bé gái chỉ mới 7 tuổi. Họ thường được sự bảo kê của những tên ma cô hoặc bảo bọc và bóc lột của các má mì.
‘Có những đứa trẻ mới 12 tuổi đã phạm ba tội sát nhân,’ Gorky viết cho Lênin vào tháng 4 1920. Từng là một trẻ mồ côi, Gorky chính là một trong những chiến sĩ đấu tranh cho ‘tình trạng phạm pháp của trẻ vị thành niên’. Mùa hè đó ông lập ra một ủy ban đặc biệt để giải quyết vấn đề. Ủy ban thành lập những trung tâm cho trẻ mồ côi ăn ở và dạy chúng học chữ. Những sáng kiến tương tự được Liên đoàn Cứu Vớt Trẻ Em được thành lập năm 1919 bởi Kuskova và Korolenko với sự tán thành của Sovnarkom. Nhưng với chỉ nửa triệu chỗ cho 7 triệu trẻ em mồ côi trên đường phố, thật không thấm vào đâu. Người Bôn-se-vich quay ra dùng các biện pháp trừng phạt, đi ngược với các nguyên tắc đưa ra vào năm 1918 là ‘không toà án và nhà tù cho trẻ em’. Nhà tù và trại lao động chứa hàng ngàn trẻ em, nhiều đứa dưới 14 tuổi, tuổi chịu trách nhiệm hình sự. Một biện pháp khác nhằm giải quyết vấn đề là cho phép hãng xưởng thu dụng trẻ em vào các hình thức lao động cực nhọc. Thậm chí trong thời nội chiến khi hàng ngàn công nhân lớn tuổi bị đuổi việc, việc thuê mướn trẻ em càng tăng mạnh, một số công nhân chỉ mới 6 tuổi, nhất là ở những hãng xưởng nhỏ nơi hành động bóc lột trẻ em đã thành nếp. Mặc dù có không ngớt lời kêu gọi chỉ giới hạn ngày làm 6 tiếng đối với trẻ em, và 2 tiếng còn lại chủ nhân phải tạo điều kiện dạy học cho chúng, nhưng giới thẩm quyền chọn cách không can thiệp, tuyên bố rằng ‘cho các trẻ em có cơ hội làm việc tốt hơn là để chúng sống phi pháp trên đường phố’, kết quả là nhiều trẻ phải làm một ngày 12 đến 14 tiếng.
Trẻ em cũng là những binh sĩ tuyệt vời. Hồng Quân có nhiều thiếu niên trong hàng ngũ của mình. Đã trải qua cuộc sống bao quanh bởi bạo lực của chiến tranh và cách mạng, nhiều em ắt hẳn cho rằng giết người là việc làm bình thường. Những binh sĩ trẻ tuổi này được tiếng là sẵn sàng thi hành mọi mệnh lệnh được giao. Nhiều thiếu niên này thực ra được hưởng cuộc sống tốt trong quân ngũ – vốn đối xử với chúng như con cái mình, cho chúng ăn mặc và dạy dỗ – hơn là sống lang thang nơi đầu đường xó chợ.
* * *
Gorky đã vỡ mộng sâu sắc. Ông mô tả mình trong năm 1921 là ‘đang trong tâm trạng thù ghét nhân loại’. Ông không thể hòa giải chủ nghĩa xã hội dân chủ và nhân đạo của mình với những thực tế của nước Nga của Lênin. Ông không còn có thể mắt lấp tai ngơ trước những lỗi lầm của chế độ với hi vọng họ sẽ làm tốt hơn về sau: mọi nỗ lực của ông đều là số không. Nếu những lý tưởng của ông đã bị bỏ rơi ở nước Nga, ông không còn có thể làm gì ngoài việc bỏ rơi nước Nga.
Quyết định ra đi khỏi nước Nga của Gorky tiếp theo sau những xung đột lên cao với người Bôn-se-vich. Sự khủng bố bừa bãi trong bốn năm qua, việc hủy diệt giới trí thức, sự bức hại người Men-se-vich và SR, đập tan cuộc nổi dậy của Kronstadt, và thái độ chai đá của người Bôn-se-vich đối với nạn đói – tất cả những điều này đã biến Gorky thành một kẻ thù chua chát với chế độ mới. Mối thù địch của Gorky phần nhiều tập trung vào Zinoviev, ông trùm đảng ở Petrograd. Zinoviev không ưa Gorky, y nhìn ngôi nhà của ông như một ‘ổ phản cách mạng’, và đặt ông dưới sự giám sát thường xuyên: thư tín của Gorky được mở ra; nhà cửa của ông bị lục soát liên tục; và bạn thân bị đe doạ bắt bớ. Những bức thư phẫn nộ nhất của Gorky lên án Khủng Bố Đỏ tất cả đều gởi đến Zinoviev. Trong một bức thư ông tuyên bố việc bắt bớ liên tục của y đã khiến ‘nhân dân căm ghét không chỉ Quyền Lực Xô-Viết mà còn – đặc biệt – chính bản thân y’. Chẳng bao lâu sẽ rõ ràng là đứng đằng sau Zinoviev là chính Lênin. Nhà lãnh tụ Bôn-se-vich thấy bị xúc phạm vì những lời tố cáo của Gorkỳ. Trong một bức thư đe doạ vào tháng 7 1919 ông tuyên bố rằng ‘tâm trí’ của nhà văn đã bị ‘những trí thức tư sản bất mãn ‘ bu quanh ông làm cho ‘bịnh hoạn’. ‘Tôi không muốn dí lời khuyên của tôi cho anh,’ Lênin hăm dọa, ‘nhưng tôi không thể không nói cho anh biết rằng: hãy thay đổi triệt để tình cảnh của mình, môi trường của mình, nơi ở của mình, nghề nghiệp của mình – nếu không cuộc sống có thể làm anh ghê tởm mãi mãi.
Cái chết của hai nhà thơ lớn nhất của Nga,, Alexander Blok và Nikolai Gumilev, là giọt nước làm tràn ly đối với Gorky. Blok đã bị ngã quị vào năm 1920 sau một cơn sốt phong thấp, hậu quả của những năm nội chiến phải sinh sống thiếu thốn trong một căn hộ không được sưởi ấm. Nhưng nỗi ưu phiền thực sự của Blok là nỗi tuyệt vọng và sự vỡ mộng với thành quả của cách mạng. Thoạt đầu ông đã chào đón bạo lực hủy diệt như là địa ngục cho thế giới cũ thối rữa của châu Âu từ đó một thế giới mới tinh khiết hơn của người châu Á – người Scythia – sẽ xuất hiện. Bài thơ anh hùng ca của ông ‘Mười Hai’, được viết vào năm 1918, đã mô tả 12 Hồng Vệ binh dạn dày song hành với bước đi của Cách Mạng qua bão tuyết mịt mù hủy diệt thế giới cũ và tạo ra thế giới mới. Đi đầu họ, mang lá Hồng Kỳ, quanh đầu vấn vòng hoa hồng trắng, và bước đi thanh thoát phía trên mặt tuyết, là Jesus Christ. Blok sau đó thổ lộ rằng trong khi viết bài thơ đầy xúc cảm này: ‘Tôi cứ nghe thấy – tôi muốn nói là nghe thực sự bằng đôi tai mình tiếng ồn ào quanh tôi, một tiếng ồn tạo bởi nhiều âm thanh (chắc chắn là âm thanh của thế giới cũ đang vỡ vụn).’ Trong một thời gian Blok tiếp tục tin tưởng vào sứ mạng cứu tinh của người Bôn-se-vich. Nhưng khoảng năm 1921 thì ông đâm ra vỡ mộng. Suốt ba năm ông không làm bài thơ nào. Gorky, một người bạn thân, so sánh ông với một ‘đứa trẻ lạc loài’. Blok quấy rầy ông với những câu hỏi về cái chết và nói rằng mình đã từ bỏ mọi ‘niềm tin vào sự minh triết của nhân loại’. Kornei Chaikovsky nhớ có lần đi dự cùng Blok một buổi đọc thơ vào tháng 5 1921: ‘Tôi đang ngồi dưới sân khấu với ông. Trên sân khấu một “nhà hùng biện nào đó” đang hí hửng chứng minh với thính giả rằng với vai trò là một thi sĩ Blok đã chết. . . Blok nghiêng người sang tôi và nói, “Hắn nói đúng đấy, mình đã chết.”‘ Khi Chukovsky hỏi ông tại sao không viết thơ nữa, Blok bảo: ‘Mọi âm thanh trong tôi đã tắt lịm. Bộ anh không nghe thấy không còn có âm thanh nào hết sao?’ Cùng tháng đó Blok nằm liệt trên giường. Bác sĩ khuyên ông cần ra nước ngoài dưỡng bệnh. Vào ngày 28 tháng 5 Gorky viết cho Lunacharsky xin cho ông. ‘Blok là nhà thơ Nga tài năng nhất còn sống. Nếu ông ngăn cấm ông ta ra nước ngoài trước khi ông ta chết, thì ông và các đồng chí của ông phải chịu trách nhiệm.’ Trong vài tuần Gorky tiếp tục khẩn khoản xin nhập cảnh cho ông. Lunacharsky viết xin Ủy ban Trung ương chấp thuận vào ngày 2/7. Nhưng không ai làm gì. Rồi, cuối cùng, vào ngày 10/8, giấy nhập cảnh đến. Đã muộn một ngày: đêm hôm trước nhà thơ đã qua đời.
Nếu Blok đã chết vì tuyệt vọng và trong sự thờ ơ, thì cái chết của Gumilev, chỉ hai tuần sau, thảng thốt hơn nhiều. Ông bị Cheka Petrograd bắt, giam một vài ngày, và rồi bị bắn không cần xét xử. Gumilev bị kết tội có chân trong một âm mưu bảo hoàng – một lời viện dẫn gần như chắc chắn là sai lầm, mặc dù ông có cảm tình với phe bảo hoàng. Một nhóm các nhà trí thức họp mặt tại lễ an táng Blok làm một đơn thỉnh nguyện xin ân xá ông. Viện Khoa học bảo đảm ông sẽ được mang ra tòa xét xử. Họ nhờ Gorky can thiệp và ông vội vã đến Moscow để gặp Lenin. Nhưng lúc ông quay về Petrograd mang theo lệnh thả, thì Gumilev đã bị xử bắn rồi. Gorky quá oan ức đến nỗi ho ra máu. Zamyatin nói rằng mình chưa từng thấy ông ‘quá phẫn uất như vào đêm nghe tin Gulimev bị bắn’.
Gumilev là nhà thơ lớn đầu tiên của Nga bị người Bôn-se-vich hành hình. Cái chết của ông và Blok, đối với Gorky cũng như đối với giới trí thức nói chung, là biểu tượng cho cái chết của cách mạng. Hàng trăm người – ‘tất cả những gì còn lại của giới văn học Petersburg’ như lời của Zamyatin – có mặt tại lễ an táng Blok. Nina Berberova, lúc đó chỉ là một cô gái trẻ, nhớ lại khi nhìn thấy thông báo về cái chết của Blok ‘một cảm xúc không đến lần thứ hai trong đời bỗng bấu xiết lấy cô, và thình lình cô chợt nhận ra mình là một đứa trẻ mồ côi. . . Đoạn kết đang đến gần. Chúng tôi bỗng hóa lạc loài.’ Anna Akhmatova, người vợ đầu của Gulimev, cũng khóc thương tương tự, không chỉ cho một nhà thơ mà còn cho những lý tưởng của một thời đại, tại đám tang của Blok:
Trong chiếc hòm bạc chúng tôi mang ông đi
Alexander, con thiên nga tinh khiết của chúng ta
Mặt trời bỗng tắt lịm trong ta trong nỗi giày vò
Hai tháng sau, vì lý do sức khỏe, Gorky rời nước Nga dường như mãi mãi.
ii Cuộc Đấu Tranh Cuối Cùng của Lênin
Những dấu hiệu đầu tiên Lênin không khỏe trở nên rõ ràng vào năm 1921 khi ông bắt đầu phàn nàn thường nhức đầu và kiệt sức. Các bác sĩ không thể chẩn đoán ra bệnh – nó có thể là hậu quả của sự suy sụp tinh thần cũng như thế chất. Trong bốn năm qua Lênin đã làm việc gần như luôn cật lực 16 giờ mỗi ngày. Thời kỳ ông nghỉ ngơi duy nhất là vào mùa hè 1917, khi ông chạy trốn chính quyền Kerensky, và trong những tuần hồi sức sau vụ Kaplan mưu sát hụt vào tháng 8 1918. Khủng hoảng 1920 – 1 đã tàn phá sức khỏe của Lênin. Những triệu chứng thể chất của những con điên tiết của ông, như Krupskaya đã có lần mô tả, chứng mất ngủ và nóng nảy, nhức đầu và ủ rũ, trở lại hành hạ ông trong những lần đấu tranh với nhóm Công nhân Chống đối và vụ nổi dậy lan tràn ở vùng quê. Rồi cuộc nổi dậy Kronstadt, công nhân và nông dân, người Men-se-vich, SR và giới giáo sĩ. Vào mùa hè 1921, một lần nữa Lênin vượt qua thắng lợi; nhưng các dấu hiệu kiệt quệ về trí lực ai cũng bắt đầu nhận rõ. Ông thỉnh thoảng có lúc quên bẵng, nói chuyện khó khăn và di chuyển mất định hướng. Một số bác sĩ cho đó là nguyên nhân của chứng ngộ độc chì gây bởi hai viên đạn của Kaplan, vẫn còn ghim trong cánh tay và cổ Lênin (viên đạn trong cổ đã được giải phẫu lấy ra vào mùa xuân 1922). Nhưng những bác sĩ khác thì nghi ngờ là do chứng liệt. Những nghi ngờ này được khẳng định vào ngày 25/5/1922, khi Lênin bị một tai biến đầu tiên khá nặng, khiến bên phải của ông gần như tê liệt và không nói được một thời gian. Lênin giờ nhận ra rằng, theo lời của cô em gái, Maria Uliannova, người chăm sóc ông cho đến khi ông mất, ‘tất cả đã kết thúc đối với ông’. Ông xin Stalin phát cho ông thuốc độc để có thể tự tử khi cần. ‘Anh ấy không muốn sống và không thể sống nữa,’ Krupskaya nói với Stalin. Bà đã định đưa cho ông xya-nua nhưng không có can đảm, vì thế hai người quyết định hỏi Stalin vì ông ta là ‘một con người sắt thép không có tình cảm’. Stalin không chịu giúp Lênin chết; và Bộ Chính trị cũng bầu chống chuyện ấy. Trong lúc này, mạng sống của Lênin còn hữu dụng với Stalin.
Trong mùa hè 1922, khi ông dưỡng bệnh ở ngôi nhà vùng quê Gorki, Lênin xem xét việc ai sẽ kế vị mình. Đây ắt hẳn là một công việc đau đớn đối với ông bởi vì, như mọi tên độc tài, ông khư khư ôm lấy quyền lực và cho rằng không ai đủ tài cán để kế vị mình. Tất cả những di cảo cuối cùng của Lênin đều minh chứng là ông tán thành một ban lãnh đạo tập thể sẽ kế vị ông. Ông đặc biệt sợ cuộc đấu đá giữa Trotsky và Stalin, mà ông biết sẽ chia rẽ đảng khi ông lui vào hậu trường, và nhắm tới việc ngăn chặn điều này bằng cách cân bằng quyền lực giữa hai người.
Trong mắt ông cả hai đều có tài năng. Trotsky là nhà hùng biện và quản trị xuất sắc: ông ta là người có công lớn nhất trong nội chiến. Nhưng tình tự cao và hống hách của ông – chưa nói quá khứ Men-se-vich và dáng dấp trí thức Do Thái của ông – khiến ông khó gần gũi trong đảng. Trotsky không phải là một ‘đồng chí’ tự nhiên. Mặc dù là một thành viên Bộ Chính trị, Trotsky không giữ chức vụ nào trong đảng. Ông hiếm khi đi dự các buổi họp đảng. Cảm nghĩ của Lênin về Trotsky được Maria Uliannova đúc kết: ‘Anh ấy không có cảm tình với Trotsky – ông ta có quá nhiều tính cách khiến làm việc tập thể với ông ta thật là khó khăn. Nhưng ông ta hoạt động năng nổ và là người tài năng, và đối với V. I. thì đó mới là cốt lõi, vì thế anh ấy vẫn cố giữ ông ta bên cạnh. Còn việc đó có đáng không thì lại là một chuyện khác.’
Stalin, ngược lai, dường như rất thích hợp với yêu cầu của lối lãnh đạo tập thể. Trong cuộc nội chiến ông đã tự đảm đương nhiều công việc phức tạp mà không ai muốn nhận – ông là Ủy viên các Dân tộc, Ủy viên Rabkrin, một thành viên trong Hội đồng Quân sự Cách mạng, trong Bộ Chính trị và Văn phòng Tổ chức Đảng, và Chủ tịch Ban Bí thư – và kết quả là chẳng bao lâu ông nổi tiếng vì tính xuề xòa và cần cù. Tất cả lãnh đạo đảng đều lầm lẫn đánh giá thấp quyền lực tiềm năng của Stalin, và tham vọng vận dụng nó của ông, như là kết quả của việc ra sức nâng đỡ bọn tay sai nhờ việc giữ những chức vụ thuận lợi, như Văn phòng Tổ chức Đảng (Orgburo). Lênin cũng có lỗi như những người khác. Là một người kém vị tha, ông lại dung thứ một cách quá đáng cho nhiều tội của Stalin, kể cả việc y tỏ ra thô lỗ với chính ông, vì tin rằng ông cần Stalin để duy trì sự đoàn kết trong đảng. Vì lý do đó mà, theo sự thúc giục của chính Stalin, và tất nhiên được sự hậu thuẫn của Kamenev, ông đồng ý cho y giữ chức Tổng Bí thư đầu tiên của đảng vào tháng 4 1922. Đó hóa ra một sự bổ nhiệm có tính cốt lõi – một sự bổ nhiệm cho phép Stalin nắm hết quyền lực trong tay. Lúc mà Lênin nhận ra điều này, và ra sức đẩy Stalin ra khỏi chức vụ, thì đã muộn.
Chìa khóa dẫn Stalin đến quyền lực tối cao là việc y kiếm soát được bộ máy đảng ở tỉnh lỵ. Là Chủ tịch ban Bí thư, và thành viên duy nhất của Bộ Chính trị trong Văn phòng Tổ chức Đảng, y có thể thăng chức đàn em mình và cách chức đối thủ.
Chỉ riêng năm 1922 hơn 10,000 viên chức tỉnh được Orgburo và Bạn Bí thư bổ nhiệm, hầu hết là do Stalin đích thân giới thiệu. Họ sẽ là những người hậu thuẫn nồng cốt của ông trong cuộc đấu đá quyền lực với Trotsky trong 1922-3. Phần đông họ, như chính Stalin, xuất thân từ gia thế khiêm tốn và không qua học vấn nhiều. Nghi ngờ giới trí thức như Trotsky, họ thích đặt sự tin cậy của mình vào sự sáng suốt của Stalin hơn, với lời kêu gọi giản dị cho sự đoàn kết vô sản và kỷ luật Bôn-se-vich, khi đề cập đến ý thức hệ.
Lênin đã đồng hành cùng Stalin đi theo chính sách bổ nhiệm từ Moscow như là liều thuốc chữa nạn thành lập phe phái chống đối ở tỉnh lẻ (nhóm Công nhân Chống đối, chẳng hạn, vẫn còn mạnh ở Ukraine và Samara tận 1923). Là Chủ tịch Ban Bí thư, Stalin bỏ ra nhiều thời gian để nhổ tận gốc những kẻ gây rối tiềm năng từ bộ máy đảng ở tỉnh. Ông nhận những báo cáo hàng tháng từ Cheka (đổi tên lại GPU vào năm 1922) về những hoạt động của các lãnh đạo tỉnh. Boris Bazhanov, thư ký riêng của Stalin, nhớ thói quen bước tới lui trong văn phòng rộng ở Kremlin, phì phà ống điếu, và thỉnh thoảng phán ra những mệnh lệnh ngắn gọn cách chức Bí thư Đảng này và phái người kia đến thay thế. Có rất ít lãnh đạo đảng, kế cả các thành viên Bộ Chính trị, mà Stalin không đặt người giám sát vào cuối năm 1922. Dưới vỏ bọc là làm theo ủy quyền của Lênin, Stalin nhờ đó có thể thu nhặt thông tin về tất cả đối thủ của mình, kể cả những bí mật về đời tư của họ, nhờ đó ông có thể khai thác để bảo đảm sự trung thành của họ đối với mình.
Trong khi Lênin đang dưỡng bệnh sau tai biến nước Nga được cai trị bởi tam đầu chế – Stalin, Kamenev và Zinoviev – xuất hiện thành một khối chống Trotsky trong mùa hè 1922. Bộ ba gặp nhau trước những buổi họp đảng để thống nhất chiến lược và chỉ thị cho các bộ hạ cách thức bỏ phiếu. Kamenev từ lâu đã quí mến Stalin: họ từng sống bên nhau lưu vong ở Siberia; và chính Stalin đã đứng ra bênh vực ông khi Lênin định hất cẳng ông ra khỏi đảng khi ông không tán thành cú đảo chính Tháng Mười. Kamenev có tham vọng cầm đầu đảng và điều này khiến ông về phe Stalin chống Trotsky, mà ông xem là mối đe doạ lớn hơn. Vì Kamenev là anh rể của Trotsky, điều này có nghĩa là phe phái được coi trọng hơn gia đình. Về phần Zinoviev, ông ta cũng không ưa gì Stalin. Nhưng mối căm thù của ông đối với Trotsky sâu sắc hơn nên ông phải tạm về phe với Quỷ Dữ để đánh bại kẻ thù. Cả hai người đều nghĩ là mình đang lợi dụng Stalin, mà họ xem là xoàng xĩnh, để chiếm lấy quyền lãnh đạo. Nhưng Stalin đang lợi dụng họ, và một khi mà Trotsky bị đánh bại, y sẽ quay ra triệt hạ họ.
Vào tháng 9 Lênin đã phục hồi và trở lại làm việc. Ông giờ đây ý thức rõ về tham vọng của Stalin và trong một nỗ lực tạo đối trọng cho quyền lực lên cao của y, ông đề nghị bổ nhiệm Trotsky làm phó cho ông ở Sovnarkom (Hội đồng Nội các). Những bộ hạ của Trotsky luôn lập luận rằng chức vụ này khẳng định xếp của mình sẽ là người kế vị Lênin. Nhưng thật ra nhiều người cho rằng đây chỉ là chức vụ nhỏ – quyền hành tập trung vào cơ quan đảng nhiều hơn là vào chính quyền – và vì thế Stalin rất vui lòng mà bầu thuận quyết định của Lênin ở Bộ Chính trị. Thật ra chính Trotsky đã viết trên phiếu bầu của minh: ‘Từ chối vô điều kiện’. Ông tuyên bố rằng việc chống đối của mình dựa trên cơ sở ông đã chỉ trích chức vụ đó trên nguyên tắc khi nó được giới thiệu vào tháng 5 vừa qua. Sau này ông cũng tuyên bố rằng ông đã từ chối chức vụ lý do ông là người Do Thái và rằng việc này có thể đổ dầu vào ngọn lửa tuyên truyền của kẻ thù chế độ. Nhưng việc ông không nhận ắt hẳn là vì ông cho rằng nó không xứng đáng vì chỉ là ‘phó chủ tịch’.
Điều này không có nghĩa là Lênin chia sẻ quan điểm xem hoạt động của Sovnarkom là không thể hiện quyền lực. Cũng không có nghĩa là ông giao chức vụ này cho Trotsky, theo lời của em gái Lênin, chỉ như ‘một cử chỉ ngoại giao’ để đền bù cho việc ‘Iliich về phe của Stalin.’ Đúng ra Lênin đã luôn đặt hoạt động của Sovnarkom có tầm quan trọng cao hơn hoạt động của đảng. Sovnarkom là đứa con cưng của Lênin. Đó là nơi ông tập trung mọi năng lực của mình, thậm chí đến mức ông trở nên mù tịt về hoạt động đảng. ‘Tôi thú thật là mình không biết về qui mô bổ nhiệm và phân công của Orgburo,’ ông thú nhận với Stalin vào tháng 10 1921. Đây là bi kịch của Lênin. Trong những tháng cuối cùng hoạt động chính trị tích cực, khi ông nắm lấy vấn đề quyền lực gia tăng của các bộ phận đảng lãnh đạo, ông càng lúc càng hướng về Sovnarkom như một phương tiện phân chia quyền lực giữa đảng và nhà nước. Vậy mà Sovnarkom, như một vị trí quyền lực của cá nhân Lênin, chắc chắn suy giảm khi ông ngã bệnh và rút lui khỏi chính trường. Thậm chí với Trotsky đứng thay ông ở ghế chủ tịch, gần như chắc chắn quá muộn để dừng lại sự chuyển dời quyền lực đến các cơ quan đảng trong tay Stalin, và ắt hẳn Trotsky cũng đã biết điều này.
Nghi ngờ của Lênin đối với Stalin càng sâu sắc khi, vào tháng 10, Stalin đề nghị trục xuất Trotsky khỏi Bộ Chính trị để trừng phạt việc ông xấc xược từ chối chức vụ ở Sovnarkom. Đối với Lênin, vấn đề trở nên rõ ràng, khi ông tìm hiểu các hoạt động của tam đầu chế, là nó đang hoạt động như một bè lũ cai trị và rắp tâm hất cẳng ông khỏi quyền lực. Điều này được khẳng định khi Lênin phát hiện ra rằng, ngay sau khi ông phải ra về sớm trong các buổi họp của Bộ Chính trị vì lý do sức khỏe, bộ tam đầu chế vẫn ở lại và thông qua những nghị quyết mà ông chỉ biết vào ngày hôm sau. Vào ngày 8/12 Lênin ra lệnh các buổi họp của Bộ Chính trị sẽ không kéo dài quá ba giờ và những vấn đề chưa kịp giải quyết sẽ hoãn lại vào hôm sau. Cũng vào lúc đó, như sau này Trotsky cho biết, Lênin có tiếp cận ông và mời ông tham gia với mình vào ‘khối chống quan liêu’ tức một liên minh chống lại Stalin và cơ sở quyền lực của y ở Orgburo. Lời tuyên bố của Trotsky cũng đáng tin. Sau cùng, việc này xảy ra trước khi có Di Chúc của Lênin, vốn tập trung chủ yếu vào vấn đề của Stalin và việc y nắm lấy bộ máy quan liêu của đảng. Trotsky đã từng phê phán tính quan liêu của đảng, đặc biệt là Rabkrin và Orgburo. Và chúng ta biết rằng Lênin chia sẻ lập trường chống đối Stalin của ông về cả hai việc ngoại thương và vấn đề đối với Georgia. Tóm lại, hình như đến giữa tháng 12 Lênin và Trotsky đang hợp tác nhau chống Stalin. Và rồi bất ngờ, vào đêm 15/12, Lênin bị một cơn tai biến lần thứ hai.
Stalin ngay lập tức nắm quyền điều hành các bác sĩ và, lấy cớ giúp ông mau chống bình phục, xin lệnh của Ủy ban Trung ương cho ông quyền giữ Lênin ‘khỏi dính líu’ đến chính trị bằng cách giới hạn khách viếng và thư từ. ‘Không bạn bè và những người chung quanh’, một lệnh tiếp theo từ Bộ Chính trị vào ngày 24/12, ‘được phép kể với Vladimir Ilich bất kỳ tin tức chính trị nào, việc này có thể buộc ông phải suy tính và bị kích động.’ Giam mình trên chiếc xe lăn, và chỉ được phép đọc chép mỗi ngày 5 đến 10 phút, Lênin trở thành một tù nhân của Staline. Hai thư ký chính của ông, Nadezhda Alliluyeva (vợ của Stalin) và Lydia Fotieva, báo cáo với Stalin mọi điều ông nói. Lênin hiển nhiên không biết điều này, như những sự kiện sau này sẽ phơi bày. Trong lúc đó, Stalin tự nhận mình là chuyên gia về thuốc men, ra lệnh đem đến cho y những giáo trình y khoa. Y biết chắc là Lênin sẽ sớm chết và càng lúc càng tỏ ra xem thường ông. ‘Lenin tiêu rồi,’ ông nói với bọn tay sai của mình vào tháng 12. Những lời của Stalin đến tai Lênin qua Maria Uliannova. ‘Tôi chưa chết mà,’ anh bà nhắc bà, ‘nhưng chúng đã muốn chôn tôi rồi.’ Về cuối tháng 12 Lênin trở nên quá bực tức vì không hoạt động gì được đến nỗi một lần nữa ông xin thuốc độc để có thể kết liễu cuộc đời. Theo Fotieva, Stalin từ chối cung cấp độc dược. Nhưng ắt hẳn y sẽ sớm hối tiếc việc đó, vì trong những khoảng khắc ngắn ngủi được phép làm việc Lênin đọc cho viết một loạt những ghi chép cho Đại hội Đảng sắp đến trong đó ông lên án quyền lực lên cao của Stalin và yêu cầu loại ông ta ra.
Những ghi chép rời rạc này, sau đó được biết dưới tên Di Chúc của Lênin, được đọc viết trong những khoảng thời gian ngắn – một số qua điện thoại đến một người tốc ký ngồi ở phòng bên với một cặp ống nghe – giữa 23/12 và 4/1. Lênin ra lệnh giữ chúng bí mật nghiêm nhặt nhất, cho chúng vào bao thư niêm phong chỉ có ông và Krupskaya được phép mở. Nhưng các thư ký chính của ông cũng là tay trong của Stalin và họ giao các ghi chép cho Stalin.
Những ghi chép cuối cùng của Lênin liên quan đến ba vấn đề chính – trong mỗi vấn đề đều có bàn tay thủ phạm là Stalin. Thứ nhất là vấn đề Georgia, một trong các nước cộng hòa miền biên giới. Mặc dù là người gốc Geogia, chính sách của Stalin là hạn chế quyền tự trị của các nước cộng hòa, thể hiện tham vọng muốn giữ lại đế chế kiểu sa hoàng, với quyền hành tập trung vào Đại Nga. Trong khi ý Lênin nhắm tới việc làm hòa dịu những bất bình có tính lịch sử có thể thông cảm được của những nước phi Nga đối với nước Nga bằng cách trao cho họ vị thế của những cộng hòa ‘có chủ quyền’ (cho những nhóm sắc tộc lớn) hoặc ”tự trị’ cho những nhóm sắc tộc nhỏ hơn’ với những quyền tự do văn hóa rộng rãi. Trong những ghi chép của mình cho Đại hội Đảng vào ngày 30-1 tháng 12 ông so sánh Stalin với một nhà xô-vanh Nga lỗi thời, một ‘tên nhãi ranh và một kẻ độc tài, chỉ biết hù doạ và nô dịch những quốc gia nhỏ, như Georgia, trong khi đối với những nhà cai trị Nga điều cần thiết là một ‘sự thận trọng sâu xa, sự nhạy cảm, và sẵn sàng hòa giải’ với những khát vọng dân tộc chính đáng của họ. Lênin thậm chí tuyên bố rằng trong một liên bang xã hội chủ nghĩa các quyền lợi của các ‘dân tộc bị áp bức’, như Georgia, nên lớn hơn quyền lợi của những ‘dân tộc áp bức’ (tức nước Nga) để đền bù những bất bình đẳng khi đem ra vận dụng chúng trong thực tiễn. Vào ngày 8/1, trong lá thư cuối cùng của đời mình, Lênin hứa với nhóm chống đối người Georgia mình sẽ theo sát chính nghĩa của họ ‘với tất cả tấm lòng tôi’.
Quan tâm thứ hai của Lênin trong Di Chúc là kiểm soát những quyền lực đang lớn mạnh của các cơ quan cầm đầu của đảng giờ đang nằm dưới quyền sinh sát của Stalin. Hai năm trước, khi quyền lực của mình lên tối cao, Lênin đã lên án những đề nghị của nhóm Tập trung Dân chủ đòi hỏi dân chủ và công khai hơn trong hoạt động của đảng; nhưng giờ với kẻ độc tài Stalin Lênin lại đưa ra những kế hoạch tương tự. Ông đề nghị dân chủ hóa Ủy ban Trung ương bằng cách bổ sung 50 đến 100 thành viên mới tuyển từ các công nhân và nông dân bình thường trong các cơ quan cấp dưới của đảng. Để làm Bộ Chính trị có trách nhiệm nhiều hơn ông cũng đề nghị rằng Ủy ban Trung ương nên có quyền dự tất cả các buổi họp của Bộ Chính trị để thanh tra các văn kiện của nó. Hơn nữa Ủy ban Kiểm tra Trung ương, hợp với Rabkrin và sắp xếp hợp lý hóa với 300 hoặc 400 các công nhân giác ngộ, nên được trao quyền kiểm tra những quyền hành của Bộ Chính trị. Những đề nghị này đã trở thành những nỗ lực quá muộn màng nhằm bắt cầu qua hố ngăn cách giữa các ông trùm đảng và hàng ngũ đảng viên, để khiến lãnh đạo dân chủ hơn, công khai hơn và hiệu quả hơn, mà đảng không mất đi quyền nắm vững toàn bộ đối với xã hội.
Biện pháp cuối cùng trong các ghi chép của Lênin – và đến lúc này là bùng nổ nhất – là vấn đề kế vị. Trong ghi chép của mình vào ngày 24/12 Lênin nói lên lo lắng của mình về sự rạn nứt giữa Trotsky và Stalin – chính một phần vì lý do này mà ông đã đề nghị mở rộng qui mô của Ủy ban Trung ương – và, như thể nhấn mạnh việc tán thành một ban lãnh đạo tập thể hơn, ông chỉ ra những khuyết điểm của các lãnh đạo đảng. Kamenev và Zinoviev có khuyết điểm vi chống lại ông trong tháng 10. Bukharin là ‘người được toàn đảng quí, nhưng những quan điểm quá lý thuyết của ông chỉ có thể được xếp loại là người Mác-xit dự bị’. Về phần Trotsky, ‘xét mặt cá nhân có lẽ là người có năng lực nhất trong Ủy ban Trung ương, nhưng đã biểu lộ một sự tự tin quá đáng và quá bận tâm đến khía cạnh thuần túy quản trị của công việc’. Nhưng chính Stalin là người mà Lênin dành những chi trích gay gắt nhất. Đã trở thành Tổng Bí thư, ông đã ‘tích lũy quyền lực vô hạn trong tay mình, và tôi không chắc liệu ông ta có luôn biết cách sử dụng quyền lực này một cách thận trọng hay không’. Vào ngày 4/1 Lênin bổ sung ghi chép sau:
Stalin quá thô lỗ và khuyết điểm này hoàn toàn có thể thông cảm được giữa chúng ta và trong những giải quyết giữa những người Cộng sản với nhau, nhưng trở nên không thể thông cảm được trong vai trò Tổng Bí thư. Vì lý do này, tôi đề nghị các đồng chí hãy nghĩ ra cách loại Stalin ra khỏi chức vụ này và thay thế bằng người nào đó có một ưu điểm hơn Đồng chí Stalin, cụ thể bao dung hơn, trung thành hơn, lịch sự hơn và quan tâm đến đồng chí mình, ít thất thường hơn. . .
Lênin xác định rõ là Stalin phải ra đi.
Quyết tâm của Lênin càng được củng cố vào đầu tháng ba, khi ông biết tin về một sự kiện đã xảy ra vài tuần trước giữa Stalin và Krupskaya những đã được giữ kín không cho ông biết. Vào ngày 21/12 Lênin đã đọc cho Krupskaya viết một bức thư cho Trotsky khen ngợi ông về những chiến thuật thắng lợi trong trận đấu tranh chống Stalin về vấn đề độc quyền ngoại thương. Các tay trong của Stalin báo cho y về bức thư, mà y chụp lấy như là chứng cứ về ‘khối’ của Lênin cùng với Trotsky chống lại y. Sáng hôm sau y điện thoại cho Krupskaya và, theo như bà kể, y ‘tới tấp lăng mạ bà’, đã kích bà đã vi phạm qui luật của đảng về sức khỏe của Lênin (mặc dù các bác sĩ cho phép bà chép), và hăm dọa sẽ gọi Ủy ban Kiểm tra Trung ương điều tra hành động của bà. Khi Krupskaya đặt điện thoại xuống, mặt bà tái xanh, bật khóc nức nở và lăn đùng ra sàn nhà. Triều đại khủng bốt của Stalin đã bắt đầu. Khi cuối cùng Lênin hay biết việc này, vào ngày 5/3, ông đọc viết một bức thư cho Stalin yêu cầu y nên xin lỗi những lời lẽ cộc cằn của mình nếu không ‘mối quan hệ giữa chúng ta sẽ cắt đứt’. Stalin, lúc này đã ỷ thế, khó có thể che đậy sự khinh thị đối với Lênin đang hấp hối trong thư trả lời khiếm nhã của mình.* Krupskaya, y nhắc nhở ông, ‘không chỉ là vợ anh mà còn là đồng chí Đảng của tôi’. Trong cuộc trao đổi của họ y không có cộc cằn và toàn bộ sự kiện ‘không gì khác hơn là một sự hiểu lầm ngu ngốc. . . Tuy nhiên, nếu anh cho rằng để duy trì mối quan hệ tôi nên “rút lại” những lời đã nói, tôi có thể rút lại, mặc dù tôi không thể hiểu tất cả những việc này là thế nào, hoặc tôi có lỗi gì, hoặc, chính xác, anh muốn gì ở tôi.’
Sự kiện này tác hại nhiều đến sức khỏe của Lênin, khiến qua một đêm ông xuống sức thấy rõ. Một bác sĩ trong nhóm mô tả tình trạng của ông vào ngày 6/3: ‘Vladimir Ilich nằm đó mà ánh mắt thất thần, một biểu lộ khiếp sợ in trên gương mặt ông, đôi mắt ông buồn bã với cái nhìn như cật vấn, nước mắt chảy dài trên má. Vladimir Ilich trở nên kích động, cố sức nói, nhưng không nói nên lời. Chỉ nghe những tiếng: “Trời ơi, trời ơi. Bệnh cũ đã tái phát”‘. Ba ngày sau Lênin bị một cơn tai biến nặng thứ ba. Nó lấy đi khả năng nói của ông và do đó không làm việc được nữa. Cho đến khi chết, mười tháng sau, ông chỉ có thể thốt ra những vần đơn giản: ‘vot-vot’ (‘đây-dây’) và ‘sezi-sezi (‘đại hội-đại hội’)
Vào tháng 5 ông được chuyển về Gorki, nơi một nhóm bác sĩ túc trực bên ông. Vào những ngày trời đẹp ông ngồi ngoài vườn. Krupskaya đọc sách cho ông – Gorki và Tolstoy làm ông thấy thoải mái nhất – và nỗ lực một cách vô ích tập ông nói. Vào tháng 9, với sự trợ giúp của một cây gậy và một đôi giày đặc biệt, ông có thể bước đi lần nữa. Đôi khi ông đẩy chiếc xe lăn của mình tới lui. Ông bắt đầu đọc báo được gởi từ Moscow tới và, với sự hỗ trợ của Krupskaya, tập viết một ít bằng bàn tay trái. Bukharin đến thăm ông vào mùa thu, và sau này ông bảo với Boris Nikolaevsky, thấy Lênin lo lắng về việc ai sẽ kế vị mình và về những đề mục ông không thể viết. Nhưng không có chuyện ông sẽ trở lại với chính trị. Con người chính trị Lênin đã chết.
* * *
Loại Lênin ra khỏi đường đi chính là điều Stalin cần. Qua những tai mắt của mình Stalin đã biết về bức thư bí mật Lênin gởi cho Đại hội Đảng Lần 12. Nếu y muốn sống sót, y phải ngăn không cho lá thư đó được đọc trước đại hội. Vào ngày 9/3 Stalin dùng quyền lực của mình là Tổng Bí thư đình hoãn Đại hội từ giữa tháng 3 cho đến giữa tháng 4. Trotsky,mặc dù là người hưởng lợi nhiều nhất nếu Stalin rơi đài tại Đại hội, vẫn sẵn sàng đồng ý việc đình hoãn. Ông thậm chí trấn an Kamenev rằng, trong khi ông đồng ý với Lênin về ‘chất’ (tức vấn đề Geogia và cái tổ đảng), ông vẫn ‘chủ trương giữ nguyên hiện trạng và chống lại việc loại Stalin miễn là có sự thay đổi triệt để về chính sách. Trotsky kết luận với hi vọng rằng: ‘Không nên tiếp tục những mưu mô mà cần hợp tác tử tế.’ Hệ lụy của ‘việc thỏa hiệp tệ hại’ này – đúng điều mà Lênin đã cảnh báo ông không nên làm – là Đại hội Đảng chứng kiến khúc khải hoàn của Stalin hơn là thảm bại cuối cùng của y. Những ghi chép của Lênin về vấn đề dân tộc và cải tổ đảng được phân phát cho các đại biểu, được thảo luận, và rồi được ban lãnh đạo cho qua. Trong bất kỳ trường hợp nào, chắc chắn hầu hết các đại biểu đều chia sẻ quan điểm của Stalin là tại một thời điểm khi sự đoàn kết trong đảng là cần thiết hơn hết thì việc thảo luận dân chủ không cần phải mất thì giờ. Những xúi giục làm im tiếng Trotsky và tất cả những lời phê phán Bộ Chính trị, chính là nhân tố quyết định khiến Stalin nắm lấy cơ hội gia tăng quyền lực. Những ghi chép của Lênin về việc kế vị, kể cả yêu cầu loại bỏ Stalin, đều không được đọc trước Đại hội và vẫn bị bỏ qua cho đến 1956. *
* Nó chỉ được in ra cho đến 1989.
Thật khó để giải thích thái độ của Trotsky. Tại một thời điểm quyết định đấu tranh quyền lực, trong khi ông có thể đã thắng lợi lớn, ông lại tự tạo ra sự thảm bại của mình. Trong số 40 thành viên Ủy ban Trung ương mới, do Đại hội bầu ra, ông chỉ có ba người hậu thuẫn. Có lẽ, cảm nhận được sự cô lập đang lớn dần của mình, nhất là sau khi Lênin bị đột quỵ, Trotsky quyết định rằng hi vọng duy nhất của mình nằm trong việc ra sức xoa dịu tam đầu chế. Hồi ký của ông chứa đầy xác tín cho rằng mình bị ba lãnh đạo âm mưu phế truất. Chắc chắn sẽ là mối nguy khó lường nếu ông chọn giải pháp thách thức họ, Trotsky sẽ ắt hẳn bị kết tội ‘lập bè kết phái’ – và sau năm 1921 đây sẽ là án tử về chính trị. Nhưng cũng có một vài sự thật trong ý kiến cho rằng Trotsky thiếu dũng khí chiến đấu. Trong cá tính ông có điểm yếu, xuất phát từ tính tự cao tự đại là sợ thất bại. Một trong những người bạn cũ của ông kể về chuyện đánh cờ của ông thuở ông ở New York. Trotsky đã thách anh bạn này chơi cờ, nghĩ mình là tay cờ cao. Nhưng hóa ra ông gặp một tay cao cờ hơn và bị thua ván đó. Ông đâm ra bực tức và không chịu chơi tiếp. Việc này nói lên một đặc tính điển hình của Trotsky: khi gặp một đối thủ hơn tầm mình, ông chọn cách rút lui và một mình xịu mặt hơn là chịu mất mặt nếu đối đầu.
Nhưng sự thật không phải vậy, vì sau đó ông đã dám đương đầu. Vào ngày 8/10 ông gởi một bức thư ngỏ đến Ủy ban Trung ương trong đó ông lên án nó đã dập tắt mọi biểu hiện dân chủ trong đảng:
Sự tham gia của quần chúng đảng viên vào tổ chức đảng đang càng ngày trở nên ngoài lề. Trong năm qua một tâm lý đặc biệt sùng bái bí thư đã hình thành, đặc điểm chính của nó là tin tưởng rằng bí thư đảng có năng lực quyết định mọi vấn đề, thậm chí không cần hiểu biết những sự kiện cơ bản. . . Có một giai tầng rộng rãi các đảng viên công nhân, cả trong chính quyền lẫn bộ máy đảng, hoàn toàn không dám đóng góp ý kiến cá nhân về việc xây dựng đảng, ít nhất là bày tỏ công khai, như thể chấp nhận đã có bí thư đúc sẵn những chính sách của đảng. Bên dưới giai tầng những người câm lặng này là quần chúng đảng viên đông đảo, đối với họ mọi quyết định đến từ trên xuống đều dưới hình thức triệu tập hay mệnh lệnh.
* Nội dung của Di Chúc được phổ biến cho các đại biểu Đại hội Đảng Lần 13 vào năm 1924. Stalin tự nguyện từ chức nhưng không được chấp thuận theo đề nghị của Zinoviev là ‘việc gì đã qua cứ để cho qua’. Cuộc xung đột với Lênin được xem như là xích mích cá nhân, ám chỉ rằng do Lênin đã bệnh tình quá nặng nên không được tỉnh trí. Không có những ghi chép cuối cùng nào được in ra đầy đủ ở Nga trong khi Stalin còn sống, mặc dù từng đoạn ngắn được in ra trên báo đảng trong thập niên 1920. Tuy nhiên Trotsky và đồng bọn của mình công bố nội dung của chúng ở phương Tây (theo Volkogonov, Stalin, chương II).
Hậu thuẫn cho Trotsky đến từ cái gọi là ‘Nhóm 46′ — Antonov-Ovseenko, Piatakov và Preobrazhensky là những người nổi tiếng nhất – cũng viết thư phản kháng với Ủy ban Trung ương. Không khí e sợ trong đảng, họ tuyên bố, lên cao đến nỗi thậm chí các đồng chí kỳ cựu trong đảng cũng e sợ khi nói chuyện với nhau’.
Có thể dự đoán được, giới lãnh đạo đảng lên án Trotsky là đã cổ vũ cho một nền tảng nguy hiểm có thể đưa đến tình trạng phe phái bất hợp pháp trong nội bộ đảng. Không thèm trả lời cho những phê phán chính trị của ông, Bộ Chính trị tiến hành cuộc tấn công cá nhân sát ván Trotsky vào ngày 19/10. Trotsky xấc xược, coi mình đứng trên hoạt động hàng ngày của đảng, và hành động theo châm ngôn ‘Mọi người vì mình, mình chẳng vì aì’. Bốn ngày sau Trotsky gửi một bài bác bỏ đầy thách thức việc kết án ông là kết bè lập phái đến Phiên Toàn thể của Ủy ban Trung ương. Vào ngày 26/10 ông xuất hiện ở Phiên Toàn thể.
Cho đến gần đây người ta còn nghĩ Trotsky không đến dự buổi họp quan trọng này. Deutscher và Broue, hai nhà viết tiểu sử chủ chốt của ông, đều cho rằng ông vắng mặt vì bị cúm. Nhưng đúng là ông có dự, và đã bảo vệ dữ dội đến nỗi Bazhanov, thư ký của Stalin, người phụ trách ghi chép bài phát biểu của Trotsky, giấu nhẹm những ghi chép đó trong đống tài liệu cá nhân của y. Chúng được tìm thấy ở đó vào năm 1990. Bài phát biểu của Trotsky là lời bác bỏ quyết liệt những ám chỉ về chủ nghĩa Bonaparte đã được dựng đứng để chống lại ông. Chính tại điểm này mà ông nêu ra vấn đề nguồn gốc Do Thái của mình. Để chứng tỏ mình không có tham vọng Trotsky kể hai trường hợp mình đã từ chối lời mời của Lênin vào chức vụ cao – một lần vào tháng 10 1917 (Dân Uỷ Nội vụ) và một lần vào tháng 9 1922 (Phó Chủ tịch Sovnarkom) – với lý do bổ nhiệm một người Do Thái như thế là không khôn ngoan khi phong trào bài Do Thái đang rộng khắp.
Lời kêu gọi tình cảm của Trotsky không gây nhiều ấn tượng cho các đại biểu – phần lớn là theo phe Stalin. Với 102 phiếu chống 2, Phiên Toàn thể thông qua một phán quyết khiển trách Trotsky về tội bè phái. Kamenev và Zinoviev tạo áp lực trục xuất Trotsky ra khỏi đảng; nhưng Stalin, luôn sẵn sàng chứng tỏ mình là người ôn hòa, cho rằng như vậy là không khôn ngoan và kiến nghị đó bị bác bỏ. Stalin không có gì phải vội vã. Trotsky đã không còn là một lực lượng chủ yếu và việc trục xuất ông khỏi đảng – cuối cùng đến vào năm 1927 – có thể xếp hàng chờ. Người duy nhất có thể ngăn cản Stalin giờ đã bị loại bỏ. *
* Bổ sung từ Britanica:
Sau khi bị khai trừ khỏi Đảng Trotsky sống lưu vong từ năm 1928, di chuyển từ nước này đến nước khác và cuối cùng định cư ở Mexico vào năm 1936. Ông tiếp tục viết và phê phán Stalin.
Tháng 5 1940 Trotsky sống sót sau một vụ mưu sát khi những tên mang súng máy xả súng vào nhà ông. Ba tháng sau ông bị ám sát bằng chiếc rìu lẻo núi bởi Ramon Mercader, một người cộng sản Tây Ban Nha và nghi là đặc vụ của Stalin. Ông hấp hối qua ngày hôm sau thì qua đời. Chính quyền Xô-Viết bác bỏ mọi trách nhiệm về vụ sát hại này.
* * *
Công luận không được biết tin Lênin đang hấp hối. Cho đến phút cuối báo chí tiếp tục loan tin ông đang hồi phục từ cơn bạo bệnh – một chứng bệnh mà người thường hẳn đã chết. Với việc vẽ ra việc phục hồi thần kỳ này chế độ nhắm làm sống lại việc sùng bái Lênin. Từ ‘Lêninnit’ lần đầu tiên được sử dụng vào năm 1923: tam đầu chế muốn trình diện mình là người bảo vệ đích thực chống Trotsky, ‘kẻ chống-Leninnit’. Cũng năm đó bắt đầu cho xuất bản lần đầu tiên tuyển tập của ông, thánh kinh của giáo phái chính thống này, và việc thành lập Viện Lênin (chính thức mở vào 1924), đầy đủ với một thư khố, một thư viện và một bảo tàng. Có cả một lô nhà viết tiểu sử mà mục đích chính là bịa ra những huyền thoại và giai thoại về Lênin – Lenin một nông dân nghèo, hoặc một công nhân, Lênin một con người yêu động vật và các bé thiếu nhi, Lênin là công nhân lao động không mệt mỏi vì hạnh phúc của nhân dân – khiến giúp chế độ được quần chúng yêu mến hơn. Cũng từ thời điểm này mà các chân dung khổng lồ của Lênin bắt đầu xuất hiện trên mặt tiền các trụ sở chính quyền. Khi Lênin con người bằng xương bằng thịt chết, thì Lênin Chúa Trời được sinh ra. Cuộc đời riêng tư của ông bị quốc hữu hóa. Nó trở thành một định chế thiêng liêng để thánh hóa chế độ Stalin.
Lênin mất vào ngày 21/1/1924. Lúc 4 giờ chiều ông bị một cơn tai biến nặng, rơi vào hôn mê sâu và đến gần 7 giờ tối thì mất. Ngoài người nhà và các bác sĩ chăm sóc, người duy nhất chứng kiến cái chết của ông là Bukharin. Vào năm 1937, khi cầu xin cho mạng sống của mình, ông đã tuyên bố rằng Lênin đã chết trong vòng tay mình.
Thông báo được Kalinin đọc vào ngày hôm sau trước các đại biểu của Đại hội Xô-Viết Lần 11, lúc đó đang nhóm họp. Có những tiếng thét lớn và những tiếng bật khóc nức nở trong đại sảnh. Có lẽ vì quá bất ngờ nên đám đông biểu lộ những buồn đau thật sự: nhà hát và hàng quán được lệnh đóng cửa trong một tuần; các chân dung Lênin phủ vải đỏ và ruy băng đen, được treo trong nhiều cửa sổ; các nông dân lũ lượt đến nhà nghỉ miền quê của ông ở Gorki để viếng tang; hàng ngàn người dự tang lễ chịu đựng cái lạnh thấu xương khi xếp hàng trên đường phố Moscow từ Nhà Ga Paveletsky đến Đại sảnh Columns, nơi đặt thi thể Lênin để nhân dân đến viếng. Trong ba ngày tiếp theo nửa triệu người xếp hàng vài giờ để lần lượt đi ngang qua linh cữu. Hàng ngàn vòng hoa và lời tiếc thương gởi đến từ trường học và nhà máy, doanh trại và tàu chiến, thị trấn và làng mạc trên khắp nước Nga. Sau đó, trong những tháng tiếp sau lễ tang, người ta vội vã dựng tượng đài và tượng chân dung của Lênin, đặt lại tên đường và học viện theo tên ông. Petrograd được gọi lại là Leningrad. Nhiều nhà báo Tây phương cho rằng ‘nỗi thương tiếc trên khắp nước’ là một ‘lá phiếu bầu tín nhiệm sau khi mất’ cho chế độ. Những người khác nhìn thấy điều này như sự buông xả ra nỗi sầu não tập thể sau quá nhiều năm chịu đựng đau khổ. Người ta khóc nức nở một cách điên cuồng, hàng trăm người té xỉu, theo một cách thách thức sự lý giải hợp lý. Có lẽ nó chứng tỏ sự tôn thờ Lênin đã phát huy tác dụng đến mức tuy họ có thể căm ghét chế độ nhân dân vẫn yêu kính ‘Lênin từ tâm’, cũng giống như thuở trước người ta khinh bỉ những boyar nhưng vẫn yêu kính ‘Từ phụ Sa Hoàng’.
Lễ tang Lênin được cử hành vào chủ nhật sau trong nhiệt độ vùng cực âm 35 độ. Stalin dẫn đầu đoàn khách danh dự khuân chiếc quan tài mở nắp từ Đại Sảnh Column đến Quảng trường Đỏ, tại đó nó được đặt trên một bệ gỗ. Ban nhạc Nhà hát Bolshoi chơi bài Hành khúc Tang lễ, tiếp theo là bài hát cách mạng cũ, ‘Anh Nằm Xuống’ rồi bài Quốc Tế Ca. Sau đó, trong sáu giờ, từng hàng người này đến hàng khác, ước tính đến nửa triệu người, lần lượt đi qua linh cữu trong sự lặng lẽ u sầu. Đúng 4 giờ chiều, khi chiếc hòm được hạ thấp xuống hầm, tiếng còi tàu và còi hụ nhà máy, tiếng đại bác và súng thường, vang lên khắp nước Nga, như để làm nền cho tiếng kêu khóc bật ra trên khắp nước Nga. Trên đài chỉ có một thông điệp duy nhất: ‘Các đồng chí, hãy đứng lên, Ilich đang được đưa xuống mồ.’ Rồi sau đó chỉ là sự im lặng và mọi thứ đều dừng lại – tàu hỏa, tàu thủy, nhà máy – cho đến khi đài phát phát lên lần nữa : ‘Lenin đã mất – nhưng Lênin còn sống mãi!’
Trong di chúc Lênin bày tỏ mong ước được nằm cạnh mộ phần mẹ mình ở Petrograd. Đó cũng là ước nguyện của gia đình. Nhưng Stalin muốn ướp thi thể ông. Nếu y muốn sự sùng bái Lênin còn sống mãi, nếu y muốn chứng tỏ ‘chủ nghĩa Lênin vẫn sống’, thế thì phải có thi thể để trưng bày’, như di hài các thánh, thiêng liêng bất hoại. Y áp đặt kế hoạch của mình cho Bộ Chính trị duyệt cho dù có sự chống đối của Trotsky, Bukharin và Kamenev. Ý tưởng về vụ ướp xác có lẽ lấy cảm hứng từ việc phát hiện ra lãng mộ của Tutankhamun vào năm 1922. Trên báo Izvestiia đám tang của Lênin được so sánh với đám tang của ‘những người thành lập nên các nhà nước vĩ đại thời cổ đại’. Nhưng ắt hẳn cũng do việc lý giải kiểu Byzantine các nghi thức Chính thống giáo của Nga. Trotsky, người tỏ ra khiếp đảm trước kế hoạch của Stalin, so sánh nó với lối sùng bái tôn giáo thời Trung Cổ. ‘Trước đây đã có di hài của Sergius ở Radonezh và Serafim ở Sarov; giờ họ muốn thay thế những di hài này bằng di hài của Vladimir Ilich.’ Thoạt đầu họ muốn gìn giữ thi thể của Lênin bằng cách đông lạnh. Nhưng chẳng bao lâu nó bắt đầu phân hủy. Một nhóm khoa học gia chuyên môn (được biết dưới tên Ủy ban Bất tử hóa) được bổ nhiệm vào ngày 26/2, năm tuần sau khi Lênin mất, có nhiệm vụ tim ra chất thuốc ướp xác. Sau khi quần quật ngày đêm trong vài tuần, các nhà khoa học cuối cùng tìm ra một công thức được biết là có chứa glycerin, cồn và những chất hóa học khác (thành phần hóa học chính xác của nó còn trong vòng bí mật). Thi hài đã ướp của Lênin được đặt trong hầm mộ bằng gỗ sau đó được dời lên lăng bằng đá cẩm thạch còn tồn tại đến ngày nay – kế bên tường Kremlin ở Quảng trường Đỏ. Nó lần đầu tiên mở cửa cho dân chúng thăm viếng vào tháng 8 1924.
Bộ não của Lênin được lấy ra khỏi thi hài và chuyển đến Viện Lenin. Tại đó nó được nghiên cứu bởi một nhóm các khoa học gia, được giao nhiệm vụ khám phá ‘chất liệu tạo nên thiên tài ông’. Họ phải chứng tỏ rằng bộ não của Lênin biểu hiện một ‘thời kỳ tiến hóa cao hơn của nhân loại’. Nó được tách ra hơn 30,000 lát mỏng, mỗi lát chứa trong những miếng thủy tinh được lưu giữ trong những điều kiện điều tiết cẩn thận, để các thế hệ tương lai các nhà khoa học có thể nghiên cứu chúng và biết đâu sẽ phát hiện ra những bí ẩn cốt lõi nào chăng. Những bộ não của các ‘thiên tài không ai tranh cãi’ khác — Kirov, Kalinin, Gorky, Mayakovsky, Eisenstein và chính ngài Stalin – được bổ sung sau đó vào bộ sưu tập thần kinh này. Đó là hoạt động khởi đầu của Viện Não Bộ, vẫn còn ở Moscow ngày nay. Năm 1994 họ loan báo kết quả khám nghiệm tử thi lần cuối cùng của Lênin: bộ não ông hoàn toàn bình thường. Điều này chứng tỏ những bộ óc bình thường đôi khi có thể tạo ra những kỳ công phi thường.
LỜI BẠT
‘Tôi không tin là trong thế kỷ 20 lại có chuyện một “dân tộc bị phản bội”,’ Gorky viết cho Romain Rolland vào năm 1922. ‘Ý tưởng về một “dân tộc bị phản bội” chỉ là một truyền thuyết. Thậm chí ở Phi châu chỉ có những dân tộc chưa được tổ chức và do đó không có năng lực chính trị.’ Quan điểm của Gorky về Cách mạng Nga bác bỏ việc nhân dân đã bị cách mạng phản bội. Bi kịch cách mạng của họ nằm trong di sản của tình trạng lạc hậu văn hóa của họ hơn là điều xấu ác do vài người Bôn-se-vich ‘xa lạ’ gây ra. Họ không phải là nạn nhân của cách mạng mà là nhân vật chính trong bi kịch của nó. Đây có thể là bài học đau đớn mà nhân dân Nga phải học vào cuối thế kỷ 20. 70 năm dưới áp bức của chủ nghĩa Cộng sản tưởng đã cho họ cái quyền được xem mình là nạn nhân. Nhưng triển vọng của Nga như là một quốc gia dân chủ phụ thuộc một phần lớn vào mức độ người Nga dám đương đầu với lịch sử gần đây của mình; và điều này kéo theo việc công nhận rằng, tuy nhân dân bị áp bức nhiều, hệ thống Xô-Viết vẫn đã trưởng thành trên đất Nga. Đó chính là sự yếu kém của văn hóa dân chủ Nga khiến chủ nghĩa Bôn-se-vich mới có thể bắt rễ được. Đây là đi sản của lịch sử Nga, của nhiều thế kỷ nông nô và nền cai trị chuyên chế, đã khiến nhân dân bất lực và thụ động. ‘Và nhân dân vẫn giữ im lặng’ là một tục ngữ Nga – và nó mô tả nhiều lịch sử Nga. Chắc chắn, đó là một bi kịch của nhân dân và đó là bi kịch mà họ tiếp tay làm ra. Nhân dân Nga bị mắc kẹt bởi tính độc tài trong lịch sử của họ.
‘Chúng ta là nô lệ vì chúng ta không thể tự giải phóng mình,’ Hên???. có lần đã viết. Nếu có bài học có thể rút ra từ Cách Mạng Nga đó là nhân dân đã không thể tự giải phóng mình. Họ thất bại không thể trở nên chủ nhân chính trị của mình, để giải phóng mình khỏi bọn hoàng đế và trở thành công dân. Bài diễn văn của Kerensky năm 1917, trong đó ông tuyên bố nhân dân Nga có lẽ không hơn ‘những nô lệ nổi loạn’, hẳn đã ám ảnh cách mạng trong những năm kế tiếp. Bởi vì trong khi nhân dân có thể phá hủy chế độ cũ, họ không thể xây dựng một chế độ mới của riêng mình. Không có các tổ chức dân chủ nào được thành lập trước Tháng Mười 1917 có thể sống sót hơn một vài năm dưới chế độ cai trị của Bôn-se-vich, ít nhất không dưới hình thức dân chủ của họ. Vào năm 1921, nếu không sớm hơn, cách mạng đã đi đúng một vòng tròn, và một nền chuyên chính mới đã được áp đặt lên nước Nga mà về nhiều phương diện không khác chế độ cũ.
Để giải thích sự thất bại này của chế độ dân chủ ta phải đi ngược trở về lịch sử nước Nga. Hàng thế kỷ nông nô và ách cai trị chuyên chế đã ngăn cản người dân thường có được ý thức về quyền công dân. Ta có thể vạch một đường thẳng từ văn hóa nông nô đến chế độ độc tài của người Bôn-se-vich. Quan niệm trừu tượng về ‘quốc gia chính trị’, về một cấu trúc hiến pháp của quyền dân sự, vốn đã làm nền tảng cho Cách Mạng Pháp, vẫn còn hoàn toàn xa lạ với giới nông dân Nga, bị giam hãm trong thế giới thôn làng cô lập. Khái niệm phổ biến của quyền lực ở Nga tiếp tục được thể hiện theo hạn mức của sự thống trị cưỡng bách và quyền hành tua như tôn giáo rút ra từ những truyền thống thời nông nô chứ không theo hạn mức của một nhà nước pháp quyền hiện đại có nhiệm vụ phân phối quyền lợi và nghĩa vụ giữa các công dân. Quyền lực thường nhật mà người nông dân biết – quyền lực của giới quí tộc và cảnh sát – là tùy tiện và dữ dằn. Để bảo vệ mình khỏi sự độc tài này y trông cậy không phải trên lời kêu gọi quyền luật định mà trên sự lẫn tránh dính vào bộ máy hành chính. Quyền lực cho người nông dân có nghĩa là tự trị – có nghĩa là không dính dáng với nhà nước – mà bản thân nó gần như đưa tới một tình trạng cưỡng chế mới. Văn hóa Nga là nền văn hóa trong đó quyền lực được quan niệm không bởi hạn mức của luật pháp mà bằng cưỡng chế và bá quyền. Nó là vấn đề của chủ và tớ, của bên nào thắng thế và khống chế bên kia.
Hậu quả có thể đã khác. Trong những thập niên cuối cùng của chế độ cũ một lãnh vực quần chúng đang ló dạng mà, nếu cho đủ thời gian và tự do phát triển, có thể đã biến đổi nước Nga thành một xã hội hợp hiến hiện đại. Các định chế của xã hội dân sự này – các tổ chức quần chúng, báo chí, đảng chính trị – tất cả đều lớn mạnh với tốc độ chóng mặt. Các quan niệm Tây phương về quyền công dân, về luật pháp và tài sản riêng, đều bắt đầu bắt rễ. Thậm chí những người nông dân cũng được tác động đến, như những câu chuyện về nỗ lực cải cách của Semenov đã minh chứng. Chắc chắn, văn hóa chính trị mới còn mỏng manh và chỉ hạn chế chủ yếu đến những tầng lớp cấp tiến thành thị nhỏ; và, như những sự kiện của năm 1905 chứng tỏ, nó luôn luôn chắc chắn bị dập tắt bởi bạo lực đẫm máu ‘trả thù bọn nông nô’. Nhưng có đủ dấu hiệu cho thấy sự tiến hóa xã hội hiện đại để gợi ý rằng vấn đề quyền lực nước Nga đã có thể được giải quyết theo cách thức hoà binhy. Mọi việc tùy thuộc vào thiện chí muốn cải cách của chế độ sa hoàng. Nhưng khó khăn là ở chỗ đó. Hai vị Sa Hoàng cuối cùng rất thù ghét bởi ý tưởng về một trật tự hợp hiến hiện đại. Khi nước Nga tiến đến thế kỷ 20, họ lại nhắm đưa nó về thế kỉ 17,cai trị nước Nga bằng triều đình và nỗ lực quay ngược ảnh hưởng hiện đại hoá của bộ máy hành chính. Những đặc quyền cổ xưa về tài sản của giới quí tộc được triều đình càng ngày càng bảo vệ chống lại trào lưu của trật tự xã hội hiện đại dựa vào quyền sở hữu tài sản, mà Stolypin đã cố gắng đưa vào. Kết quả là một cuộc cách mạng nông dân dữ dội là không sao tránh khỏi. Các quyền tự do dân sự và quyền nghị viện lấy được từ Sa Hoàng vào tháng 10 1905 lần lượt bị vương triều lấy lại một khi mà mối nguy cơ cách mạng đã qua, với kết quả là cách giải quyết hợp hiến về vấn đề quyền lực hóa ra thực sự vô phương. Lần lần lựa lựa, chế độ sa hoàng cố chấp khước từ nhượng bộ những cải cách đã biến điều đáng ra chỉ là một vấn đề chính trị thành một khủng hoảng cách mạng: những người cấp tiến tử tế như Hoàng thân Lvov bị buộc phải về phe cách mạng vì chính sách ngu muội của chế độ đã phong tỏa những sáng kiến của những bộ phận quần chúng yêu nước như các zemstvo; những công nhân hiếu học như Kanatchikov, bị tước đoạt quyền bảo vệ những lợi ích giai cấp qua những đảng và nghiệp đoàn hợp pháp, phải đành chịu vào hoạt động cách mạng bí mật; và những người phi-Nga vốn đã mong ước nhiều quyền hơn cho nền văn hóa dân tộc của họ đã bị chính sách Nga hoá của sa hoàng xúi giục yêu sách đọc lập dân tộc khỏi nước Nga. Sự sụp đổ của chế độ sa hoàng là điều không thể tránh khỏi; nhưng là do sự ngu ngốc của họ.
Thế Chiến I là một phép thử khổng lồ cho nhà nước hiện đại, và như nhà nước lớn duy nhất ở châu Âu chưa hiện đại hoá trước chiến tranh nó là một phép thử mà nước Nga sa hoàng hầu như chắc chắn thất bại. Thiết chế quân sự thường do các quí tộc triều đình thao túng nên các vị tướng có khả năng như Brusilov khó nắm được quyền hành; phức hợp quân sự-kinh tế quá tham nhũng và quan liêu để có thể tạo ra một nền kinh tế chiến tranh có tính cạnh tranh; trong khi chế độ sa hoàng quá đố kỵ với quyền lực của mình nên không muốn cho phép loại sáng kiến chiến tranh quần chúng mà từ đó các cường quốc khác đã rút ra được nhiều sức mạnh. Nhưng bất cập bao trùm của chế độ là việc nó hoàn toàn thất bại tập kết lòng yêu nước của binh sĩ nông dân, mà phần đông cảm thấy không có nghĩa vụ chiến đấu cho nước Nga vượt quá phạm vi quê nhà và nói gì cho Sa Hoàng. Đây là chứng cứ tối hậu của thất bại của chế độ trong việc xây dựng một nhà nước hiện đại: nông dân bình thường không cảm thấy mình phải lệ thuộc vào các luật lệ của nó. Chế độ sa hoàng trả giá cho điều này bằng sự sụp đổ của nó – như, theo cách của họ, những lãnh đạo dân chủ của năm 1917 đã trả. Họ cũng đã giao vận số của mình cho chiến dịch quân sự khi tin tưởng ngây thơ rằng’quần chúng yêu nước’ cuối cùng có thể được kêu gọi để thực thi nghĩa vụ đối với quốc gia giờ đây khi nó đã tự do. Nhưng niềm tin của họ vào ‘quốc gia dân chủ’ hóa ra cũng ảo tưởng; và cuộc công kích mùa hè, cũng như tất cả trận đánh trước đây, đều nhấn mạnh đến sự kiện là có hai nước Nga, nước Nga đặc quyền của những sĩ quan và nước Nga nông dân của những người bị động viên, được đặt để đánh với nhau trong nội chiến.
1917 là năm tan vỡ những lý tưởng đất nhầm chỗ. Những nhà cấp tiến như Lvov đặt mọi niềm tin của mình vào luật pháp. Họ tin tưởng rằng mọi vấn đề của nước Nga có thể giải quyết được một cách hòa bình bằng những phương thức nghị viện. Đây là hi vọng chống lại mọi hi vọng – tham chi đối với một người lạc quan như Lvov. Trải nghiệm ngắn ngủi của nước Nga về hoạt động nghị viện giữa 1906 và 1914 không giúp ích nhiều cho việc thuyết phục quần chúng rằng một nghị viện quốc gia có thể giúp được họ. Họ có khuynh hướng đặt sự tin cậy của mình vào các tổ chức giai cấp địa phương của mình hơn, như Xô-Viết, như các người SR tìm ra khi dân chúng không chịu tập kết để bảo vệ Hội đồng Lập hiến sau tháng giêng 1918. Giai đoạn lập hiến của cách mạng đã thực sự chơi xong played out vào năm 1914: các đảng trong Duma cấp tiến đã không thể thỏa mãn những yêu sách cải cách xã hội của công nhân và nông dân; cơ sở bầu cử của họ giảm sút ở giai đoạn cuối; và những đảng cánh tả vốn dựa trên sự bác bỏ hung hăng một liên minh Duma với giới tư sản nhận được hậu thuẫn ngày càng tăng sau 1912. Như vị bộ trưởng phản động nhưng có tầm nhìn Durnovo đã cảnh báo Sa Hoàng vào năm 1914, nhượng bộ quyền lực cho Duma, với cái giá là thảm bại trong cuộc chiến, gần như chắc chắn kết thúc bằng một cuộc cách mạng xã hội dữ dội vì vì quần chúng khinh bỉ giới tư sản cấp tiến và không chia sẻ tin tưởng của họ vào cải cách chính trị. Sự phân cực xã hội của cuộc chiến khiến lời tiên đoán này thậm chí còn cấp bách hơn. Đối với Okhrana vào cuối 1916 rõ ràng là dự án Duma cấp tiến là dư thừa, và rằng hai sự lựa chọ duy nhất là áp bức hoặc cách mạng xã hội. Và vậy mà, dù mọi chứng cứ, các lãnh đạo cấp tiến của năm 1917 và các nhà xã hội chủ nghĩa dân chủ cưỡng ép họ nắm quyền lực tiếp tục tin tưởng rằng một thiết chế hiến pháp có thể được áp đặt lên nước Nga, và kỳ vọng một cách viển vông là nó sẽ vững chắc và tạo nên một cấu trúc bền vững để giải quyết những vấn đề của đất nước ngày giữa cuộc chiến toàn diện và một xã hội đang sụp đổ. Làm sao mà các nhà chính trị có thể ngây thơ như thế được.
Lênin có thể đúng khi gọi đây là ‘ảo tưởng hiến pháp’ của người cấp tiến. Đó là đặt một niềm tin gần như là thần bí – một niềm tin được giữ chặt như một thứ tín ngưỡng bởi Hoàng thân Lvov – vào các lý tưởng dân chủ Tây phương hoàn toàn không thích hợp cho nước Nga cách mạng. Và những nỗ lực cấp tiến để áp đặt kỷ luật nhà nước lên nước Nga của năm 1917, để làm nó khớp với mô thức của công 1789, chỉ làm tăng tốc sự sụp đổ của mọi quyền hành, khi quần chúng, để phản ứng lại, tiến hành những cuộc cách mạng tại địa phương của mình: nỗ lực tiến hành tấn công quân sự dẫn đến sự tan rã của quân đội; nỗ lực điều chỉnh những mối quan hệ tài sản qua luật pháp nhà nước chỉ khiến gia tăng sự cướp bóc ruộng đất của nông dân. Cuộc cách mạng xã hội này chống lại một nhà nước không ngừng được xem là ‘tư sản’ là lời kêu gọi chính của quyền lực Xô-Viết, ít ra là trong giai đoạn đầu trước khi người Bôn-se-vich chiếm lấy các Xô-Viết địa phương. Đó là quyền tự trị trực tiếp của công nhân trong nhà máy, của binh lính trong doanh trại, và cua nông dân trong làng xã; và đó là quyền lực mà đến lượt nó ban cho họ quyền khống chế các ông chủ và kẻ thù giai cấp trước đây của họ.
Chỉ một nền dân chủ chứa những yếu tố của cuộc cách mạng xã hội này mới có triển vọng nắm giữ quyền lực trong những điều kiện của 1917. Các lãnh đạo Xô-Viết, vì những định kiến giáo điều của họ về sự cần thiết cua mot ‘cuộc cách mạng tư sản’, đã bỏ qua một cơ hội độc nhất để thiết lập một hệ thống sao cho nắm giữ quyền hành qua các Xô-Viết; và có lẽ một cơ hội để tránh được nội chiến toàn diện bằng cách kết hợp quyền lực của Xô-Viết với quyền lực của các bộ phận quần chúng khác như zemstvo và các duma thành phố, dưới Quốc hội Lập hiến. Hình thức giải quyết này chấp nhận được với những người Bôn-se-vich ôn hòa như Kamenev, đối với người Men-se-vich cánh tả như Martov và đôi với bất kỳ người SR cánh tả nào. Không nghi ngờ gì nữa, đây sẽ là cách giải quyết tạm thời: Lênin lẫn Kerensky sẽ không chấp nhận; và chắc chắn sẽ gặp kháng cự vũ trang từ bên cánh Hữu. Một hình thức nội chiến nào đó là không thể tránh khỏi. Nhưng thiết chế dân chủ như thế – một thiết chế thỏa mãn những yêu cầu xã hội của quần chúng – có lẽ là sự lựa chọn duy nhất có cơ may lam giảm thiểu qui mô của cuộc nội chiến đó. Chỉ mình nó có thể ngăn cản người Bôn-se-vich.
Chủ nghĩa Bôn-se-vich là một chủ nghĩa rất Nga. Tin tưởng vào hành dòn hiệu chiến, tính cố chấp, trai với giáo điều của Hegel và Marx, cho rằng một cuộc cách mạng có thể ‘nhảy qua’ những ngẫu nhiên của lịch sử, đặt nó vững chắc theo truyền thống cứu tinh của Nga. Lời kêu gọi Tất Cả Quyền Lực về Tay các Xô Viết, mà trong những tháng đầu tiên dưới sự cai trị của người Bôn-se-vich kéo theo sự tự trị trực tiếp của giới nông dân, binh sĩ và công nhân, hợp pháp hóa những khuynh hướng vô chính phủ của quần chúng Nga, và định chế hoá một pugachevshchina mới, một cuộc nổi dậy chống nhà nước và nền văn minh mà Gorky, cũng như Pushkin 100 năm trước, nhìn với nỗi khiếp đảm xem nó là một biểu hiện của tình man rợ Nga. Khủng bố Bôn-se-vich đi lên từ vực thẳm. Nó bắt đầu như một phần của cách mạng xã hội, một phương tiện cho tầng lớp thấp đòi nợ máu các ông chủ và kẻ thù giai cấp trước đây của họ. Như Denikin đã ghi nhận, tồn tại gần như một mối căm thù vô hạn những ý tưởng và những con người cao hơn đám đông, bắt cứ thứ gì mạng dấu vết dù là nhỏ nhất của sự dư thừa, và cảm nghĩ này thể hiện sự đố kỵ và căm thù các tầng lớp thấp tích chứa không phải ba năm chiến tranh vừa qua mà cũng của những thế kỷ đã qua. Người Bôn-se-vich cổ vũ (nhưng không tạo ra) mối căm thù những người giàu này thông qua khẩu hiệu ‘Cướp bóc kẻ cướp bóc!’ Họ sử dụng nó để tiêu diệt hệ thống xã hội cũ, để đóng viên các tầng lớp thấp chống lại Bạch Vệ và bọn đế quốc và để xây dựng chính thể chuyên chính dựa vào khủng bố của họ. Đến lượt nó cung cấp cho họ nguồn hậu thuẫn tình cảm mạnh mẽ trong số những con người bị chà đạp và chai đá vì chiến tranh, ha hệ vi hành hạ được bọn giàu có của chế độ cũ mà không cần biết nó có mang lại điều gì tốt đẹp hơn cho số phận của mình.
Như một hình thức của qui luật tuyệt đối chế độ Bôn-se-vich có tính Nga rõ rệt. Nó là tấm gương soi của nhà nước sa hoàng. Lênin (sau đó là Stalin) chiếm vị thế của Sa Hoàn Thần Thánh; các ủy viên và tay sai Cheka của ông đóng vai trò của các thống đốc tỉnh, oprichniki, và các người cầm quyền; trong khi những đồng chí trong đảng có cùng đặc quyền và quyền hành như tầng lớp quí tộc thượng lưu dưới chế độ cũ. Nhưng có một sự khác biệt căn bản giữa hai hệ thống: trong khi tầng lớp ưu tú của chế độ sa hoàng về mặt xã hội xa lạ với thường dân, còn tầng lớp ưu tú Xô-Viết phần lớn xuất thân từ người Nga bình thường nói và ăn mặc và hành động như mọi người khác. Điều này cho hệ thống Xô-Viết một lợi thế quyết định đối với Bạch Vệ trong nội chiến: nó có thể bám vào những biểu tượng xúc cảm của Cách Mạng, trên hết là ngọn Hồng Kỳ, và như vậy biến họ là những chiến sĩ của chính nghĩa nhân dân. Và chính việc nhân dân khước từ bịn Bạch Vệ đã quyết định cục diện của nội chiến.
Trong năm năm đầu của chế độ Xô-Viết hơn một triệu dân thường gia nhập đảng Bôn-se-vich. Phần đông là con nông dân, những người trẻ có học như Oskin và Kanatchikov, đã bỏ làng ra thành phố làm việc tròng nhà máy hoặc gia nhập quân ngũ trước 1917. Một số họ trở về làng quê và được người Bôn-se-vich tuyển mộ vào những bộ máy hành chính nông thôn đang bắt đầu ló diện. Sự trung thành của họ đối với chủ nghĩa Bôn-se-vich được liên kết mặt thiết khi họ đồng nhất mình với người vô sản, chứ không còn nguồn gốc nông dân nữa. Họ nhìn ở chủ nghĩa Bôn-se-vich là một lực lượng tiến bộ, nhằm đưa nước Nga bắt kịp với các cường quốc Tây phương.
Đây là hạt nhân của việc Stalin thúc đẩy cưỡng bách sự công nghiệp hóa trong Kế hoạch Ngủ Niên Lần 1 (1928-32). Như chính miệng Stalin đã phát biểu trong bài diễn văn 1931, trong suốt lịch sử của mình nước Nga đã bị đánh bại vì nó lạc hậu, nó đã bị đánh bại bởi Mông Cổ, bởi các chúa đất phong kiến Thụy Điển, bởi các liên minh Ba Lan- Lithuania, bởi các nước tư bản Anh – Pháp, bởi Nhật Bản và để quốc Đức: ‘Chúng ta đi sau các nước tiên tiến từ 50 đến 100 năm. Chúng ta phải vượt qua khoảng cách này trong 10 năm. Chúng ta phải làm việc này hoặc họ sẽ đè bẹp chúng ta.’
* * *
‘Nước Nga đã thay đổi hoàn toàn trong những năm qua,’ Hoàng thân Lvov viết cho Bakhmetev vào tháng 11 1923.
Nó đã trở thành một nước Nga hoàn toàn đổi mới. Nhân dân và quyền lực, như thường lệ, là hai chuyện khác. Nhưng nhiều hơn bao giờ trước đây Nga thuộc về nhân dân. . . Chắc chắn là, chính quyền không ưa gì nhân dân và tình cảm dân tộc của họ, đại diện như nó là vì những mục tiêu quốc tế, nó lừa mị nhân dân và biến họ thành nô lệ, những dù sao nó còn nhận được sự hậu thuẫn của nhân dân bị áp bức và nô dịch này. Họ vẫn còn bảo vệ chế độ nếu nó bị xâm phạm. Nhưng điều đó không có nghĩa họ hạnh phúc với nó. Nhưng cũng với lúc cảm thấy mình bị áp bức họ cũng nhìn thấy những người thuộc tầng lớp họ được bước vào bộ máy, và điều này khiến họ cảm thấy rằng chế độ chính là ‘của mình’.
Việc Hoàng thân công nhận chế độ Xô-Viết là sự trở mặt phi thường đối với một người mà chỉ mới năm năm trước còn tin cậy bảo với Tổng thống Mỹ rằng nhân dân Nga sẽ tập kết sau lưng Bạch Vệ. Đầu óc ông đã thay đổi khi Bạch Vệ bị đánh bại – một thảm bại mà, như giờ ông nhìn nhận, đã xảy ra do sự lựa chọn của nhân dân – và do việc thì hành NEP, mà theo quan điểm ông đã thỏa mãn những yêu cầu các nông dân đâng yêu. Vấn đề ruộng đất’, Lvov viết cho Bakhmetev, & vẫn chưa được giải quyết, nó còn đưa đến những xung đột đổ máu, nhưng trong tâm trí của những nông dân bình thường nó đã được giải quyết một lần cho tất cả – đất đai bây giờ là thuộc nông dân.’
Đối với Hoàng thân đang sống lưu vong ở Paris, cách mạng đã đi trọn một vòng. Năm 1923 ông nhận được một lá thư từ Poopvka ở Nga vào với ông rằng các nông dân đã chia ruộng đất tài sản Lvov . Cũng những người nông dân mà bốn mươi năm trước đây đã giúp chàng Hoàng thân trẻ tuổi và anh em chàng phục hồi nông trại đang sa sút giờ đã lấy đi chính gia sản này.
Một đêm thứ sáu vào tháng ba 1925 Lvov trở về từ zParis thấy mình rất mệt mỏi. Ông lên giường nằm – và mất vì lên cơn tim khi đang ngủ. Lễ an táng được cử hành tại một nhà thờ Chính thống giáo Nga trên đường Daru ở Paris. Toàn thể cộng đồng di dân đều đưa tiễn, và báo chí đăng nhiều lời cáo phó cho ‘người công bộc tận tụy của nhân dân’.
Chủ nghĩa dân tộc Đại Nga cho Brusilov những gì NEP đã làm cho Hoàng thân Lvov: nó hòa giải ông, dù mối thù địch của ông đối với Chủ nghĩa Cộng sản, với chế độ Bôn-se-vich. Đối với Brusilov sự sụp đổ của đế chế Nga hơn là sự sụp đổ của quân chủ mới thực sự là thảm kịch thực sự cua 1917; và giờ đây khi mà Đế chế đã được tái thiết, chỉ có mất Ba Lan, vùng đất Baltic và Phần Lan, ông có thể về hưu và an tâm là tinh thần dân tộc Nga cũng sẽ được phục hưng. ‘Chủ nghĩa Bôn-se-vich rồi cũng có ngày tiêu vong,’ vị tướng thích tiên đoán, ‘và tất cả gì còn lại sẽ là nhân dân Nga và những người con ở lại Nga để dẫn dắt họ đi vào con đường đúng đắn.’ Đây là cơ bản của Chủ nghĩa Bôn-se-vich Dân tộc – rằng những người yêu nước như ông có thể định hướng lại cho cách mạng đi về hướng những cứu cánh dân tộc nếu có đủ số người như họ gia nhập chế độ Đỏ để biến nó thành Trắng từ bên trong.
Sau những chiến dịch chống Ba Lan và Wrangel, vị tướng già được phân công tác tại Bộ Nông Nghiệp, nơi ông có nhiệm vụ tăng đàn ngựa giống cho kỵ binh. Đây là công việc bạc bẽo – phần đông những người được gọi là’chuyên gia quân sự’ phe Đỏ dường như cho rằng có thể gầy dựng Kỵ binh từ những con ngựa thồ của nông dân – và ông lấy làm nhẹ nhõm khi chẳng bao lâu được chuyển về làm Trường Thanh tra Kỵ binh, nơi chuyên môn của ông khi làm Vệ binh ưu tú thời sa hoàng được sử dụng đắc lực hơn. Trong nửa năm cuối 1921 sức khỏe của ông bắt đầu giảm sút thấy rõ: cái chân bị thương đã chuyển sang bệnh gút; ban đêm ông không ngủ được vì chứng ho mãn tính; và đồng lương khiêm tốn không đủ giữ cho căn hộ nhỏ của mình ấm áp. Ba năm sau đó ông liền tiếp xin được về hưu
During the latter half of 1921 – ông đã 70 tuổi vào năm 1923 – nhưng các ông chủ Xô-Viết’ không chấp thuận. Chỉ đến năm 1924, khi Budenny sốt sắng thanh lọc kỵ binh khỏi ‘các bộ xương Bạch Vệ’ của nó, mà ông cười cùng được phóng thích.
Để tính dưỡng sức khỏe mùa xuân sau ông và bà xã lui về thị trấn Karlsbad thuộc Séc, nơi có trại nghỉ dưỡng nổi tiếng. Ngủi hùng chiến tranh của năm 1916 được người Séc tiếp đón; Tổng thống Masaryk, một người bạn cũ, chiêu đãi ông trong Lâu đài Prague và quan trọng hơn, cấp cho ông tiền trợ cấp giúp ông sống được trong thời buổi hậu chiến ở châu Âu. Brusilov cảm thấy ‘cực kỳ thú vị khi lại được ở giữa những con người Âu châu văn minh sau từng ấy năm nội chiến đã làm đắng cay nhưng mối quan hệ cá nhân. Đúng ra sự thù dịch duy nhất ông gặp là từ cộng đồng di dân Nga không tha thứ cho ông vì đã theo địch. Có chính điều này cuối cùng đã thuyết phục ông quay về Nga. Mùa hè đó ông và vợ trở lại Moscow. Khi Nadezhda sau này giải thích, ‘ông ấy muốn nằm xuống đất Nga’.
Brusilov ra đi yên lành trong giấc ngủ vào ngày 17/3/1926. Tang lễ được cử hành trọng thể tương xứng với một người hùng dân tộc. Các phái đoàn Hồng Quân xếp hàng dài trên đường phố Moscow, các ban nhạc chơi hành khúc tang lễ, và dàn hợp xướng nhà thờ cất tiếng khi linh cữu ông được mang trên vai sáu người lính đến Tu viện Novodechie, , nơi ông được nằm yên nghỉ trong nghĩa trang. Hàng trăm cựu binh từ Thế Chiến I đến Moscow để dự tang lễ khiến nhà thờ chính không đủ cho chứa khách viếng tang. Ba ông xếp Hồng Quân Voroshilov, Egorov và Budenny, mỗi người đọc một điếu văn ca tụng Brusilov, mặc dù họ không chịu cúi đầu trước các giáo sĩ hoặc thậm dự cầu nguyện. Thật là một lễ tang kỳ lạ, trong đó các biểu tượng Xô-Viết lẫn lộn với các tượng thánh và thập giá, phù hợp với tang lễ của một con người phức tạp. Nadezhda nghĩ rằng toàn bộ sự kiện mang tính biểu tượng: ‘nước Nga mới đang chôn cất nước Nga cũ’.
Dmitry Oskin là một đứa con trai của nước Nga mới. Anh gia nhập hàng ngũ của Brusilov trong Thế Chiến I như một bình nhì bình thường; vậy ma khi vị tướng qua đời chàng nông dân này đã là một nhân vật cao cấp trong quân đội Xô-Viết. Sau khi chỉ huy Quân đoàn Lao động Số 2 vào năm 1920 Ókin được giao chỉ huy Quân đoàn Dự bị Cộng Hòa Xô-Viết, một chức vụ quan trọng dưới tay ông có gần nửa triệu người.
Anh là biểu tượng sáng chói cho một Tư lệnh Hồng Quân đi lên từ hàng ngũ nông dân và công nhân gia nhập Hồng Quân trong nội chiến. Đây là người lính mang túi dếch của mình cây gậy của vị tướng. Những năm cuối cùng của Oskin lu mờ. Trong thập niên 1920 sau đó anh trở thành một quan chức quân sự ở Moscow. Ông chết vào năm 1934, có thể là nạn nhân trong vụ khủng bố của Stalin, ở tuổi 42.
Đó chắc chắn là số phận của Kanatchikov. Như Oskin, anh là đứa con trai của nước Nga mới mà công lao của anh đối với đảng trong nội chiến đưa anh không ngừng thăng tiến trên đường binh nghiệp và chính trị. Năm 1921, ở tuổi 42, ông được bổ nhiệm làm hiệu trưởng Đại học Cộng sản ở Petrograd, một chức vụ đầy uy tín mà ông giữ trong ba năm sau đó. Năm 1924 ông trở thành người đứng đầu Văn phòng Báo chí của Ủy ban Trung ương; và năm sau đảm nhiệm Trưởng Phòng Nghiên cứu Lịch sử. Không tệ cho một người chỉ mới học bốn năm ở trường. Kanatchikov trở thành một trong những chuyên gia hàng đầu của đảng trong chiến dịch chống bọn Trotsky: Lịch sử của sự Lệch Lạc (1924) của ông trở thành chuẩn mực công kích Trotsky; và suốt những năm 1920 ông cho ra đời hàng loạt những tác phẩm chặt chém tương tự. Nhưng hoạt động này không cứu sống được ông thoát khỏi đội hành quyết của Stalin trong cuộc đấu đá của y với những người Bôn-se-vich kỳ cựu. Năm 1926 Kanatchikov về phe ‘chống đối cánh tả’ của Zinoviev và Kamenev, chỉ trích những chính sách của Stalin và Bukharin trên cơ sở (và điều này có ý nghĩa với Kanatchikov) rằng chúng quá nhân nhượng đối với giới nông dân. Vì sự ‘lệch lạc’ này ông bị trừng phạt phải công tác ở Prague với tư cách thông tin viên cho TASS. Hai năm sau ông được phép trở về Nga sau khi viết một bức thư kể khổ gởi cho Ủy ban Trung ương trong đó ông thú nhận là mình mắc phải những ‘lỗi lầm chính trị’. Sự hậu thuẫn nồng nhiệt của ông cho chủ trương tập thể hóa – cái kết luận hợp lý cho việc ông chối bỏ nước Nga nông dân lạc hậu – khiến ông tạm thời được xem là cải tạo tốt. Năm 1929 ông được bổ nhiệm làm trưởng biên tập tờ báo Văn chương vừa mới thành lập, tuần san của Hiệp hội Nhà văn Xô-Viết. Trong vài năm sau đó ông viết một loạt các tập san đảng hậu thuẫn Stalin, nhờ đó ông được thưởng một căn hộ lớn hơn, tất cả những bổng lộc thường lệ và được tăng lương đều. Nhưng ở nước Nga của Stalin mọi đảng viên đều bị ám ảnh bởi quá khứ của mình nên từ cuối năm 1935, khi Stalin tiến hành việc xóa sổ bọn Zinoviev, ngôi sao Kanatchikov một lần nữa rơi đài. Ông bị bắt vào năm 1936 và bị kết án 8 năm khổ sai ở Gulag. Như rất nhiều nạn nhân của vụ Đại Thanh Trừng, ông khẩn khoản xin Stalin can thiệp và khoan hồng ông mà không biết rằng chính Stalin là người ra lệnh bắt. Kanatchikov phục vụ nửa án tù thì mất vào năm 1940.
Cuộc sống lưu vong đối với Gorky là một cực hình. Trong khi không sống được ở Nga, ông cũng không hợp với lối sống nước ngoài. Ông nhớ nước Nga nhưng chán ngấy nó để trở về. Từ Berlin, Gorky lang bạt qua các thị trấn nghỉ dưỡng của Đức và Czechoslovakia trước khi dừng chân ở Sorrento thuộc Ý. ‘Không, tôi không thể về Nga,’ ông viết cho Rolland vào năm 1924. ‘Tôi thấy mình như người vô tổ quốc. Ở Nga tôi sẽ là kẻ thù của mọi thứ và mọi người, giống như đập đầu vào bức tường gạch.’
Mặc dù ông luôn luôn chống đối với chính sách độc tài Bôn-se-vich, ông cũng tìm cách biện minh nó như là phương thuốc chữa cần thiết cho bản năng vô chính phủ của giới nông dân. Trong Gorky là cả một sự nghịch lý. Việc ông hợp lý hóa chế độ Xô-Viết càng thêm nổi bật sau khi Lênin qua đời, điều khiến ông rất tiếc nuối. Gorky vừa yêu vừa hận Lênin, và mối quan hệ của họ giờ không thể cứu vãn được. ‘Vâng, bạn thân mến,’ Gorky viết cho Roland, ‘cái chết của Lênin là một cú đấm nặng nề giáng xuống tôi. Tôi yêu quí ông ấy. Tôi yêu quí ông ấy với lòng phẫn nộ.’ Nina Berberova, người hiểu ông rõ trong những năm ở Berlin và Marienbad, sau này viết rằng cái chết của Lênin đã làm ông ‘đầm đìa nước mắt’ và ông không ngừng khóc suốt những tuần sau đó khi ông viết Hồi ký tán tụng ông. ‘ Gorky tràn ngập niềm ân hận,’ Berberova nhớ lại. Ông ‘đánh giá lại thái độ của ông đối với Cách Mạng Tháng Mười và những năm đầu của chủ nghĩa Bôn-se-vich, đối với vai trò của Lênin, và ông ta đúng còn Gorky thì sai . . . Hoàn toàn thành thật ông tin rằng cái chết của Lênin đã khiến ông mồ côi với toàn thể nước Nga.’ Hồi ký về Lênin của Gorky là bước đầu tiên ông hoà giải với những người kế vị Lênin ở điện Kremlin. Năm 1926, khi Dzerzhinsky chết, ông thậm chí còn ca tụng nhà lãnh dao Cheka (‘một con người tài năng với trái tim nhạy cảm và một ý thức mạnh mẽ về công lý’). Vậy mà ông vẫn chưa sẵn sàng để trở về Nga. Ắt hẳn ông sợ mình sẽ tìm thấy điều gì đó ở đó. Vì nước Nga trong tâm trí ông lúc nào cũng hồng hào hơn nước Nga của thực tại. Ắt hẳn, những gắn bó trọn đời với những nguyên tắc của tự do cá nhân và phẩm giá con người vẫn còn đủ sức giữ ông ở lại, đặc biệt là một nghệ sĩ sáng tạo mà năng lực sáng tác còn phụ thuộc vào những thứ tự do và tiện ích chỉ có thể có ở trời Tây. Tác phẩm của ông nở rộ ở châu Âu, với The Artamonov Business, tiếp theo là hai tập đầu tiên trong bộ Cuộc Đời của Klim Samgin, hai tiểu thuyết didactic lớn của ông, được viết giữa 1925 và 1928. Trong khi đó, ở Nga chế độ Xô-Viết đã lên danh sách các tác phẩm ‘phản cách mạng’ – bao gồm Plato, Kant, Ruskin, Nietzsche và Tolstoy — phải loại bỏ từ mọi thư viện. Gorky thịnh nộ với chính sách kiểm duyệt này và bắt đầu viết một bức thư cho chính quyền từ bỏ quyền công dân Xô-Viết của mình. Nhưng rồi trong cơn giận ông đã xé bỏ bức thư: tuy khinh bỉ ‘ma cà rồng tinh thần’ của chế độ Xô-Viết, ông cũng không đành cắt đứt mối dây liên hệ với nó.
Cuối cùng, như với Brusilov, chính chủ nghĩa dân tộc Nga xa xưa tốt đẹp đã thuyết phục Gorky trở về nhà. Có một điều, ông không thể chịu được bọn di dân Nga – và họ cũng không chịu được ông. ‘Đối với người Nga chúng tôi,’ một người lưu vong ở Paris viết vào năm 1922. ‘Gorky là một trong những kẻ phải chịu trách nhiệm về đạo đức và chính trị cho những nỗi thống khổ lớn lao mà chế độ Bôn-se-vich đã mang lại cho xứ sở chúng tôi. Năm tháng sẽ qua đi, nhưng y sẽ không bao giờ bị quên lãng’. Di dân càng chống Xô-Viết, Gorky càng phản ứng bằng cách về phe với chế độ Xô-Viết. Hơn nữa, sự hưng thịnh của chủ nghĩa Phát xít ngay trong đất Ý ông chọn cư ngụ khiến Gorky bác bỏ mọi lý tưởng trước đây của mình – những lý tưởng tạo nên cơ sở cho việc ông chống đối người Bôn-se-vich, cho việc ông ca ngợi châu Âu là lực lượng lịch sử của tiến bộ đạo đức và văn minh. Ông càng vỡ mộng với châu Âu Phát xít ông càng nghiêng về phía ca tụng nước Nga Xô-Viết là một hệ thống ưu việt hơn về mặt đạo đức.
Gorky trở lại Nga vào năm 1928. Sau năm chuyến đi nghỉ hè ông định cư ở đó mãi mãi từ năm 1932. Chế độ Xô-Viết chào đón sự trở về của ông như một thắng lợi tuyên truyền lớn lao chống phương Tây. Vinh dự tới tấp trút xuống đứa con hoang: nào Huấn chương Lênin; nào ngôi nhà của Riabuhinsky ở Moscow; một bộ phim ba tập được thực hiện về cuộc đời ông; đường Tverskaia ở Moscow được đối tên Gorky; và thành phố sinh quán Nizhnyi Novgorod được đặt tên lại là Gorkii. Tất cả những vinh dự này là nhằm mua sự hậu thuẫn chính trị của Gorky. Chế độ Xô-Viết mà Gorki chọn để trở về bị chia rẽ sâu sắc giữa những người hậu thuẫn Stalin và những người Hữu khuynh, như Bukharin, Rykov và Tomsky, chống đối những chính sách cực đoan của Stalin về tập thể hóa và công nghiệp hóa. Thoạt đầu, Gorky chiếm một vị trí chính giữa, và rồi vị trí này khiến ông là một đích nhắm cho cả hai bên. Một mặt Gorky thấy những chính sách của Stalin là cách duy nhất để nước Nga thoát khỏi quá khứ nông dân lạc hậu. Nhưng mặt khác ông không thích Stalin với tư cách một con người (trong khi ông là bạn thân với Bukharin và Rykov) và chống đối những chính sách của y về văn học.
Viktor Serge, người từng gặp Gorky vào năm 1930, sau đó nhớ lại ông như một nhân vật trong một bi kịch, người từng có lần là phát ngôn nhân chuyên phê phán chế độ Xô-Viết, giờ đây đã tự cho phép mình phần nào im tiếng:
Chuyện gì xảy ra trong ông? Chúng tôi biết rằng ông còn càu nhàu, rằng ông không thoải mái, rằng sự khe khắt là một khía cạnh của nỗi phiền muộn và chống đối. Chúng tôi bảo nhau: ‘Có ngày ông ấy sẽ bùng nổ cho coi!’ Và đúng là ông đã bùng nổ, không lâu trước khi mất, cuối cùng cũng đoạn tuyệt với Stalin. Nhưng tất cả những người hợp tác với ông trong tòa soạn Novaia zhizri của năm 1917 đang biến mất vào tù và ông không nói gì. Văn học đang chết dần và ông không nói gì. . .
Nhưng sự thật thì phức tạp hơn nhiều – và trong chuyện này là bi kịch cuối cùng của Gorky. Không lâu sau khi ông về sống ở Nga vào năm 1932 ông nghĩ rằng có lẽ mình đã sai khi ở lại Nga. Ông thấy mình càng ngày càng tỏ ra chống đối chế độ Stalin – nhưng cùng lúc ông không thể thoát ra khỏi đó. Ông đã trở thành một định chế Xô-Viết, ở đâu ông tới dân chúng cũng hoan hô ông, và mặc dù cảm thấy mình là tù nhân của điều này, ông sẽ không và không thể trốn chạy lần nữa.
Trong những năm cuối cùng này ở nước Nga Xô-Viết Gorky đã trở thành cái gai trong mắt của Stalin. Ông chống đối việc sùng bái Stalin và, sau nhiều lần thoái thác, cuối cùng lấy hết can đảm để từ chối lời ủy thác viết chân dung tiểu sử của Stalin như ông đã từng làm cho Lênin. Đọc giữa hai hàng chữ trong những bài viết công khai của Gorky người ta có thể phát hiện ra sự phê phán đối với chế độ Stalin – những bài tiểu luận chống chủ nghĩa Phát xít của ông chẳng hạn, là lời kết án đối với mọi hình thức độc tài toàn trị nào, ở châu Âu cũng như ở Liên bang Xô Viết.- trong khi người ta không thể bỏ qua sự miệt thị của ông đối với Stalin trong những bài viết riêng tư còn để lại. Sau khi Gorky mất, một sổ tay lớn bìa bọc da được tìm thấy trong số đồ cá nhân của ông trong đó ông so sánh Stalin với một ‘con bọ chét quái đản’ mà sức mạnh ‘tuyên truyền và thôi miên của nỗi khiếp sợ đã phóng to nó lên một kích cỡ không tưởng’. Có chứng cứ cho thấy vào năm 1934 Gorky có dính líu đến một âm mưu chống Stalin với hai người cánh Hữu, Rykov và Bukharin, cùng với Yagoda, trùm NKVD, và Kirov, ông trùm đảng ở Leningrad, người bị ám sát vào năm 1934. Điều này có liên quan đến vụ sát hại con trai Maxim của Gorky, gần như chắc chắn theo lệnh của Stalin, vì Maxim hoạt động như người đưa tin giữa cha mình và Kirov. Nó cũng có thể liên can đến vụ giết hại Kirov – cũng gần như chắc chắn theo lệnh của Stalin – và có thể đến vụ ám sát chính Gorky.
Những tình tiết về cái chết của Gorky vẫn còn là điều bí mật. Sức khỏe ông bị suy giảm nhiều năm rồi. Cùng với chứng bệnh phổi cũ còn có thêm danh sách những bệnh khác, kể cả bệnh tim và cúm mãn tính. Năm 1936 là năm ông chạy đua để viết cho xong thiên anh hùng ca vĩ đại Cuộc đời của Klim Samgin trước khi chết. ‘Kết thúc tiểu thuyết, kết thúc vai chính, kết thúc tác giả,’ Gorky thổ lộ vào tháng 6. Sau đó không lâu, vào ngày 17, ông lên cơn sốt, bắt đầu khạc ra máu và ngày hôm sau thì mất. Những người ở bên ông những ngày cuối khai rằng Gorky chết một cách bình thường. Nhưng hai năm sau, trong một phiên tòa dàn dựng vào tháng ba 1938, hai bác sĩ của Gorky được tuyên là có tội giết người bằng cách cho thuốc không đúng loại và liều theo lệnh của Yagoda như là một phần trong âm mưu chống quyền lực Xô-Viết trong đó Bukharin và Rykov được cho là đầu sỏ. Nhưng cũng có thể Stalin chỉ sử dụng cái chết binh thường của nhà văn làm cái cớ để tiêu diệt các kẻ thù của mình. Nhưng việc Gorky liên quan đến phe chống đối cũng chắc chắn là nguyên do khiến Stalin muốn mưu sát ông. Rõ ràng là cái chết của ông xảy ra vào thời điểm thuận lợi cho Stalin – đúng hai tháng trước phiên tòa dàn dựng xử Zinoviev và Kamenev mà Gorrky dự định sẽ phơi bày như một sự bịa đặt – và chúng ta đều biết điều gì tên đồ tể trong điện Kremlin sẽ làm khi có ai cản đường y. Nhiều năm sau người ta tuyên bố rằng các bác sĩ có liên quan đến vụ giải phẫu pháp y Gorky đã tìm thấy những vết tích độc dược trong thi thể ông. Ekaterina, người vợ góa của Trotsky, hoàn toàn tin chắc là chồng bà đã bị đầu độc khi được hỏi về nguyên nhân cái chết của chồng mình vào năm 1963; và nhiều người Nga giờ đây đồng y với bà. Sự thật chắc hẳn không bao giờ được biết.
Gorky được an táng với đầy đủ nghi thức danh dự, với Stalin dẫn đầu lễ đưa tang. Đoàn người tuần hành qua Quảng trường Đỏ và tro cốt của nhà văn được cất giữ trong một ngăn trong bức tường điện Kremlin bên dưới lăng Lênin. Như vậy Gorky đã trở thành một định chế Stalinit.
* * *
Cách mạng Nga tiến hành một thực nghiệm đại qui mô trong công cuộc thiết kế xã hội – có lẽ là một thực nghiệm hoành tráng nhất trong lịch sử nhân loại. Người ta có thể cho rằng đó là một thực nghiệm mà loài người sẽ phải thực hiện vào một lúc nào đó trong quá trình tiến hóa của mình, một đoạn kết hợp lý sau những nỗ lực lịch sử của nhân loại vươn tới công bình và xã hội đại đồng. Sinh ra từ Thế Chiến I, khi mà châu Âu bị đưa tới bờ vực của sự tự hủy diệt, nó cũng là một cuộc thực nghiệm mà nhiều người tin là cần kíp vào lúc đó. Vào năm 1918 hầu hết các đảng xã hội chủ nghĩa Âu châu đều đồng quan điểm cho rằng chủ nghĩa tư bản và xung đột giữa các đế quốc chính là nguyên nhân nền tảng của chiến tranh và để ngăn cản một cuộc chiến tranh khác trong tương lai chúng phải bị quét sạch. Tóm lại, dường như đối với họ, thế giới cũ đã tận số, và chỉ có chủ nghĩa xã hội, theo lời của Quốc tế Cộng sản, mới có thể ‘làm mới thế giới trở lại’.
Cuộc thực nghiệm đã đi sai hướng một cách khủng khiếp, không phải chính vì ác tâm của các lãnh tụ của nó, vốn phần đông đều ấp ủ những lý tưởng cao đẹp nhất lúc ban đầu, mà bởi vì lý tưởng của chúng tự thân là không tưởng. Một số người có thể nói rằng nó thất bại bởi vì Nga trong năm 1917 không đủ phát triển để đi đến chủ nghĩa xã hội, nhất là không có sự hậu thuẫn của các xã hội công nghiệp phát triển hơn. Do đó, theo quan điểm của họ, chính tình trạng lạc hậu và cô lập về mặt quốc tế của Nga đã đưa đến con đường chủ nghĩa Stalin thay vì tính lô-gic của chính hệ thống. Không nghi ngờ gì, điều này có phần đúng. Không có người Bôn-se-vich nào vào năm 1917 đã kỳ vọng nước Nga Xô-Viết có thể đứng riêng một mình – và thậm chí ít kỳ vọng nó sẽ sống còn nếu đi một mình. Việc họ chiếm quyền vào tháng 10 được dự kiến sẽ là tia lửa báo hiệu cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa sẽ nổ ra trên toàn châu Âu và có thể trên toàn cõi thuộc địa của thế giới. Khi cuộc cách mạng này không xảy ra, họ buộc lòng phải chấp nhận một chiến lược phòng thủ, tức đặt công nghiệp hóa lên trên mọi thứ khác. Và bởi vì những mô hình Xô-Viết khác nhau được thực nghiệm trong thời gian qua thường dẫn đến cùng một kết cục thảm hại – mặc dù chúng đã được vận dụng trong những hình thức cục bộ khác nhau và trong những thực địa khác nhau như ở Trung Quốc, đông-nam Á, đông Âu, Sahara Phi châu và Cuba – người ta chỉ có thể kết luận rằng vấn đề nền tảng của nó là ở các nguyên tắc nhiều hơn là sự kiện ngẫu nhiên.
Một nhà nước, dù rộng lớn cỡ nào, không thể biến nhân dân thành những con người bình đẳng hoặc tốt đẹp hơn. Tất cả điều nó có thể làm là đối xử với công dân của mình công bình, và ra sức bảo đảm rằng những hoạt động tự do của họ được định hướng đến điều tốt đẹp phổ quát. Sau một thế kỷ bị khống chế bởi chủ nghĩa toàn trị kép là chủ nghĩa Cộng sản và Phát xít, ta chỉ có thể hi vọng rằng bài học này đã được học. Khi buớc vào thế kỷ 21 chúng ta phải ra sức củng cố nền dân chủ của mình, vừa là một suối nguồn của tự do vừa là suối nguồn của công bình xã hội, không khéo rằng những bọn bất mãn và vỡ mộng sẽ lật đổ nó nó một lần nữa. Không có gì chắc chắn khi vội vàng kết luận những xã hội dân sự ra đời từ khối Xô-Viết trước đây sẽ tìm cách bắt chước mô hình dân chủ Tây phương. Đây không phải là lúc để các khu vực cấp tiến-dân chủ phương Tây hí hửng ăn mừng sự sụp đổ của Liên bang Xô-Viết.. Những người Cộng sản cải cách (và không cải cách) có thể làm tốt trong các kỳ bầu cử và thậm chí có thể được bầu để nắm lại quyền lực – chừng nào mà quần chúng bình thường còn thờ ơ với hệ thống chính trị và cảm thấy bản thân mình còn ở bên ngoài những lợi ích mà chủ nghĩa tư bản đang lộ diện đem lại. Có lẽ điều đáng lo lắng hơn, chủ nghĩa dân tộc độc đoán (chuyên quyền như Nga: ND) đã bắt đầu lấp đầy khoảng trống mà sự sụp đổ của chủ nghĩa Cộng sản để lại, và theo một cách thức đã sáng tạo lại nó, không chỉ theo nghĩa là những người theo chủ nghĩa dân tộc ngày nay phần lớn là những người Cộng sản cải cách, mà cũng theo nghĩa là những ngôn từ dữ dội của họ với lời kêu gọi kỷ luật và trật tự, lời lên án đầy phẫn nộ những bất công do sự phát triển của chủ nghĩa tư bản gây ra, và sự chối bỏ phương Tây sặc mùi bài ngoại, bản thân cũng chính là rập khuôn theo truyền thống Bôn-se-vich.
Bóng ma của năm 1917 vẫn chưa nằm xuống yên nghỉ.
HẾT