MẶT TRỜI MỌC- Sự Suy Thoái và Sụp Đổ của Đế Chế Nhật Bản 1936-1945 (Phần 8)

PHẦN VIII

Một Trăm Triệu Người Cùng Chết Với Nhau

aa-2-1.png

Tác giả John Toland

Trần Quang Nghĩa dịch

31 . Tìm Kiếm Hòa Bình

 

                Quân Mỹ đổ bộ lên Okinawa xảy ra cùng lúc với cơn oằn oặi cuối cùng của Đệ Tam Đế chế. Trong khi Bá tước Folke Bernadotte liều mình trong những chuyến đi về Đức để dàn xếp cho hòa bình của châu Âu qua trùm Gestapo Hienrich Himmler, những người Thụy Điển khác đang nỗ lực kết thúc cuộc chiến Thái Bình Dương qua những kênh khác nhau, một số kênh giả hiệu.

                Widar Bagge, mục sư Thụy Điển ở Nhật, được Momoru Shigemitsu, ngoại trưởng trong nội các Koiso, tiếp cận đưa đề nghị là Thụy Điển can thiệp vì lợi ích của Nhật Bản với Hoa Kỳ. Việc này không đưa lại kết quả gì gặp sự chống đối của người kế nhiệm Shigemitsu, Shigenori Togo. Ông này tin rằng có thể tìm được một trung gian có nhiều ảnh hưởng hơn Thụy Điển.

                Một nỗ lực cá nhân cũng được một Bernadotte khác khởi xướng, Hoàng thân Carl, cháu của Hoàng đế Thụy Điển, và Eric Erickson, một nhà kinh doanh tàu bè có quan hệ làm ăn với Nhật. Cả hai thúc giục Thiếu tướng Makoto Onodera, tùy viên quân sự Nhật ở Stockholm, tìm kiếm hòa bình qua Thụy Điển. Về phần mình Hoàng thân Karl sẽ nhờ Hoàng đế gởi “một bức thư riêng thân hữu cho Thiên hoàng khuyến nghị nên xúc tiến thương thảo hòa bình ngay như có thể.”

                Hoàng thân Karl cũng báo cho Ngoại trưởng Thụy Điển Christian Gunther vể kế hoạch này. Gunther không bằng lòng chút nào, vì nó vượt qua kênh ngoại giao thông lệ. Gần đây Tướng Onodera nhận được một điện tín cự tuyệt kiên quyết từ Tokyo:

                CHÍNH SÁCH CỦA NHẬT BẢN LÀ CHIẾN ĐẤU ĐẾN CÙNG, NHƯNG CHÚNG TÔI ĐÃ NGHE THÔNG TIN LÀ CÓ AI ĐÓ                 ĐANG TIẾN HÀNH MỘT ĐỘNG THÁI HÒA BÌNH Ở BẮC ÂU. NGÀI PHẢI THEO DÕI VẤN ĐỀ VÀ BÁO CÁO KẾT QUẢ.

                Cũng có hai nỗ lực hòa bình có thực chất hơn đang được manh nha ở Thụy Sĩ. Cả hai đều liên quan đến Allen W. Dulles, một đại diện cục tình báo OSS trong vùng Đức, đông nam Âu châu và các phần lãnh thổ thuộc Pháp và Ý có trụ sở chỉ huy ở Berne. Vụ đầu tiên được khởi xướng bởi một người Đức, Tiến sĩ Fritz Hack, một nhân vật bí ẩn, có thể bước ra từ một tiểu thuyết gián điệp. Ông là một người bạn của Nhật Bản, cảm thấy rằng Nhật đã quá “khờ khạo” khi khởi phát chiến tranh. Ông vận động sự giúp đỡ của Trung tá Yoshiro Fujimura, tùy viên hải quân ở Berne, người đã sớm nhận ra rằng Nhật Bản không có cơ may để chiến thắng và bổn phận mình là giúp mang hòa bình dù có gặp rủi ro cho cá nhân. Họ được sự tham gia của hai người  Nhật khác – Shigeyoshi Tsuyama, đại diện tại Âu châu của Tuyến Vận tải Osaka, và Shintaro Ryu, thông tín viên Âu châu của báo Asahi Shimbun.

                Bốn người đồng mưu này kín đáo gặp nhau nhiều lần với các đại diện của Dulles và thuyết phục họ về uy tín chính trị của mình. Hơn nữa, họ có thể truy cập vào máy mật mã Loại 94 của Hải quân qua đó họ có thể liên lạc trực tiếp với bộ chỉ huy Hải quân ở Nhật Bản mà không phải đi qua các kênh ngoại giao. Vào ngày 3 tháng 5 Tiến sĩ Hack được văn phòng Dulles thông tin là được Bộ Ngoại giao Mỹ ủy quyền để bắt đầu thỏa thuận hòa bình trực tiếp với nhóm Fujimura.

                Những người kiến tạo hòa bình tự phong này kiên trì soạn những thông điệp gởi đến Bộ trưởng Hải quân Yonai

 và vị Tham mưu trưởng mới, Đô đốc Soemu Toyoda, thông báo với họ rằng nhóm Dulles đứng ra làm trung gian và mô tả ông ta như “một nhân vật chính trị dẫn đầu của Mỹ đã từ lâu hợp tác với Lippmann và Stettinius, và nhất là được sự tin cậy của Tổng thống.” Họ đã lầm lẫn Dulles với anh của ông ta, John Foster, nhưng phát biểu chính xác là Dulles đã

từng “cầm đầu việc đấu tranh chính trị Hoa Kỳ gần như khắp châu Âu với Hà Lan là căn cứ, và đặc biệt nổi bật là qua phần lớn những nỗ lực của họ mà nền hòa bình riêng lẻ được tạo dựng ở Bắc Ý vào đầu tháng 5.” Yêu cầu xin cho  chỉ thị ngay lập tức.

                Gần nửa đêm ngày 8/5, ngày Đức đầu hàng, Fujimura và Tsuyama thận trọng bước vào tòa công sứ tối tăm, và dưới ánh sáng của đèn pin, leo lên phòng mật mã ở tầng ba. Trước tiên Tsuyama đặt máy vào ngày giờ thích đáng, rồi bắt đầu đánh máy thông điệp bằng chữ Nhật đã la tinh hóa. Máy tự động chuyển thành mật mã.

                Trong tám ngày sau, sáu thông điệp bí mật nữa chuyển đi báo cáo việc Đức đầu hàng và các kế hoạch chuyển quân từ châu Âu đến vùng Viễn Đông của Anh và Mỹ, cùng với lời khuyến nghị tìm kiếm hòa bình trước khi đã quá muộn. Sau 13 ngày im lặng từ Bộ Tư lệnh  Hải quân, nhóm âm mưu gởi thêm một điện tín khác đến Yonai và Toyida khẩn cấp yêu cầu sớm trả lời thông điệp đầu tiên, vì Hoa Kỳ đang “thúc ép” họ phải phúc đáp. Hai ngày sau thư hồi đáp đến và được ký bởi trưởng Văn phòng Hải quân Sự vụ:

                               . . . ĐIỂM CHÍNH YẾU TRONG THỎA THUẬN CỦA ÔNG VỚI NGÀI DULLES ĐÃ ĐƯỢC HIỂU ĐẦY ĐỦ, NHƯNG CÒN   VÀI ĐIỂM CHO THẤY MƯU MÔ CỦA KẺ ĐỊCH, DO ĐÓ CHÚNG TÔI KHUYÊN ÔNG NÊN RẤT THẬN TRỌNG.

                               Nghi ngờ, nhóm Fujimura thấy thư trả lời là một hình thức tránh né. Đến lượt  họ yêu cầu chứng cứ cụ thể về “những động cơ của kẻ địch” và nhấn mạnh cục của Dulles là một cơ quan chính trị đáng tin cậy có liên hệ với Tổng thống.

NGÀI DULLES VÀ NHỮNG NGƯỜI KHÁC ĐANG TRÔNG ĐỢI MỘT PHÚC ĐÁP TRUNG THỰC TỪ NHẬT BẢN. CHO DÙ NẾU CHÚNG TA NHƯỢNG BỘ PHẦN LỚN VÀ NHÌN NHẬN ĐÓ LÀ MỘT MƯU KẾ CỦA ĐỊCH, BỘ NHƯ THẾ KHÔNG CÓ LỢI HƠN LÀ TRÁNH ĐƯỢC NỖI THỐNG KHỔ ĐAU BUỒN NHƯ NGƯỜI ĐỨC ĐÃ ĐÁNH MẤT TẤT CẢ MỌI THỨ? CÓ CÁCH NÀO ĐƯA RA NHỮNG ĐIỀU KIỆN TỐT HƠN CHO NHẬT BẢN HIỆN THỜI TỐT HƠN CÁCH NÀY  KHÔNG?

                Bộ Tư lệnh  Hải quân không trả lời. Họ cũng không màng đến việc tìm hiểu những yêu cầu tiếp theo cho hành động. Họ không phải không biết cả đống thông điệp từ Thụy Sĩ. Thật ra, chúng đã tạo ra một sự bất mãn dữ dội trong số các nhà cầm đầu hải quân. Ba người mạnh mẽ ủng hộ việc chấp nhận đề nghị của Dulles – trưởng phòng Hành quân, Trưởng phòng Hải quân Sự vụ, và Đô đốc Sokichi Takagi (người bày mưu ám sát Tojo lúc trước), tình nguyện bay đến Thụy Sĩ để mở ra các thỏa thuận. Nhưng Tham mưu trưởng Toyoda, cũng như toàn ban tham mưu còn lại của ông, kịch liệt chống đối. Đề nghị Dulles hoặc là “một quả bóng thăm dò tinh thần chiến đấu của Nhật hoặc là một âm mưu để hạ thấp sĩ khí chúng ta.”

                Việc Tokyo thiếu đáp ứng khiến Fujimura có hành động cực đoan. Ông tình nguyện bay về Nhật để đích thân giải thích tầm quan trọng của vị thế Dulles trong việc thiết lập mối tiếp xúc mức độ cao đáng tin cậy giữ hai địch thủ. Tuy nhiên, Dulles sợ rằng chuyến đi như thế có thể gây hại cho những thỏa thuận và đề nghị rằng người Nhật gởi một đại diện được ủy quyền đến Thụy Sĩ. Mỹ sẽ bảo đảm việc chuyên chở hàng không an toàn. Fujimura chuyển lời hứa này trực tiếp đến Yonai bằng những lời lẽ mạnh mẽ gần như là xúc phạm.

                Cuối cùng Yonai cũng buộc phải hành động. Ông mang đề nghị đến Ngoại trưởng. Với chút bối rối – Togo biết quá ít về Dulles – ông ta yêu cẩu Yonai cứu xét đề nghị toàn diện hơn, và vị đô đốc gởi một thông điệp đến Berne hình như là tán thành:

               . . . LUẬN ĐIỂM CỦA NGÀI HOÀN TOÀN ĐƯỢC HIỂU. VĂN KIỆN LIÊN QUAN ĐẾN VẤN ĐỀ ĐÃ ĐƯỢC CHUYỂN ĐẾN                 NGOẠI TRƯỞNG VÀ YÊU CẦU NGÀI ĐƯA RA NHỮNG BIỆN PHÁP THÍCH ĐÁNG ĐỂ HỢP TÁCH CHẶT CHẼ VỚI NGOẠI TRƯỞNG VÀ NHỮNG NHÂN VẬT KHÁC CÓ LIÊN QUAN TẠI NƠI CỦA NGÀI.

                Mặc dù lời lẽ mơ hồ, đây là những khích lệ đầu tiên mà nhóm âm mưu nhận được từ Tokyo, vì những thỏa thuận đang nằm trong tay của ngoại trưởng. Nhưng nhiệt tình của họ bắt đầu tắt lịm khi thời gian trôi qua mà không nhận được những chỉ thị đặc biệt nào từ Tokyo hay Yonai chỉ cách thức tiến hành. Sự lề mề tạo một hiệu ứng tương tự đối với người Mỹ. Càng ngày càng rõ ràng là hoặc những người mà họ đang làm việc ở Thụy Sĩ có ít ảnh hưởng hoặc là Tokyo không quan tâm theo đuổi những thỏa thuận qua nhóm Dulles. Tuy nhiên, sự im lặng của Togo là do một nguyên do khác. Sự dè dặt của Hải quân đã trở nên quá mạnh. Đô đốc Toyoda càng lúc càng tin là cái tên Fujimura đó (“vốn chỉ là một trung tá trong Hải quân,”) là nạn nhân của trò chơi hai mặt của người Mỹ. Hơn nữa, các nhà lãnh đạo Nhật đã xem xét mở ra một kênh thương thảo khác theo một chiều hướng hoàn toàn khác.

                Trong khi Nhật Bản phân vân tìm kiếm hòa bình, các thành phố của họ đang biến thành tro bụi. Chiến dịch của Lemay tàn phá các trung tâm công nghiệp ở nội địa đã đến đỉnh cao của sự hủy diệt. Nagoya đã là thành phố hoang tàn, và 342 dặm vuông của Tokyo đã hóa ra tro sau bốn trận không kích tàn khốc. Giờ đây mỗi làn gặp nhau bạn bè thường hỏi thăm đơn giản là, “Chưa cháy rụi chứ?” – ngoài ra không có gì khác quan trọng hơn. Vào ngày 23/5 lúc chiều, 562 B-29 quay trở lại gieo chết chóc cho khu vực dọc theo bờ tây của cảng Tokyo bao gồm những khu cư ngụ cũng như các cộng đồng kỹ nghệ. Các phi công được căn dặn phải tránh Hoàng cung, “vì Hoàng đế Nhật hiện giờ không phải là của nợ, và sau này có thể trở thành của cải.” Thêm 5 dặm vuông bị tàn phá đêm đó. 36 giờ sau 502 Siêu pháo đài bay trở lại đánh vào trung tâm Tokyo với 3,262 tấn bom cháy.

                Một lần nữa cơn bão lửa thiêu đốt thủ đô, và lúc hừng đông 16.8 dặm vuông của khu tài chính, thương mại và hành chính biến thành đống đổ nát, trong đó có nhà giam của Quân Lao Tokyo. Trong số 10,000 nạn nhân cháy thành than có 62 tù binh là phi hành đoàn Đồng minh. Ngọn lửa không kềm chế được lan đến Hoàng cung. Các mảnh vỡ cháy nhảy qua hào, khiến các bụi cây bắt lửa cháy lan đến vài tòa nhà, trong đó có Hoàng cung. 28 nhân viên nội thị chết, nhưng Thiên hoàng và Hoàng hậu bình yên trong hầm trú ẩn của họ. Họ hiện giờ cư ngụ trong obunko (thư phòng), một tòa nhà dài một tầng phía trước là một hàng cột bề thế cách Hoàng cung chừng nửa dặm trong vườn thượng uyển. Nó được nối với phần kế bên obunko bằng một đường hầm ngầm. Bên ngoài tường Hoàng cung, cung Hoàng hậu và Thái tử và những nhân vật hoàng tộc khác bị thiêu hủy hoàn toàn, cũng như nơi cư ngụ chính thức của Ngoại trưởng, Thủ tướng và Bộ Hải quân và các trụ sở Bộ Đại Đông Á.

                Hơn nửa thành phố bị phanh thây, một chốn hoang tàn, như Nagoya. Đài Phát thanh Tokyo giờ đây thường phổ biến bài hát ngắn lạc quan tếu, giờ đây nghe thật vô duyên hơn bao giờ:

                                Sao chúng ta phải sợ không kích?

                                Bảo vệ bầu trời rộng lớn này là lớp phòng thủ sắt.

                                Già trẻ giờ đây là thời điểm phải đứng lên;

                                Mang lấy vinh quang giữ gìn tổ quốc.

                                Cứ bay đến, hởi máy bay địch! Bay đến nhiều thêm!

                Trong các trận không kích đàn Ong bay vù vù trên đường chân trời Tokyo với vẻ xấc xược, vì pháo phòng không đã ngừng hoạt động, và làm điếc tai dân chúng với “tiếng bùm bùm sấm sét của chúng.” Lần này các quả bom lửa, rơi xuống “từng chùm trong tiếng rít kinh khiếp,” phóng hỏa ngôi nhà của gia đình Mishima. Nó cháy chầm chậm vì nhà chứa đầy sách. Thọc vào lớp tro tàn, bà Sumie Mishima tìm thấy “từng lớp đến từng lớp tro có màu sắc khác nhau. Sách Trung Quốc thời Thanh và Minh, với loại giấy nhung mềm mại và văn bản mỹ thuật in bằng gỗ, đã biến thành bột trắng như tuyết lấp lánh thuộc chất lượng tinh xảo nhất khó tưởng tượng được.  .  . Những quyển sách hiện đại cho ra tro thô sơ với những sắc thái xám bẩn.” Bà Mishima bỏ tro trắng vào một chiếc bình đã vỡ, và gia đình có được “thứ bột đánh răng vệ sinh nhất có thể tìm thấy.”

                Bốn đêm sau, Lemay quay sang Yokohama gần đó, là thành phố lớn thứ năm của quốc gia; sau khi 517 máy bay đã bỏ đi, 85 phần trăm khu vực đô thị chìm trong bão lửa. Với Tokyo-Yokohama thành bình địa, các B-29 tập kích vào Osaka và Kobe, và trong vòng hai tuần cả hai thành phố đã bị xóa sổ. Hơn 100 dặm vuông các thành phố chính đã bị san bằng. Giai đoạn I của Chương trình Khu vực Thành thị của Lemay hoàn thành. Hai triệu tòa nhà –  gần một phần ba công trình xây dựng – bị sụp đổ, và ít nhất 13 triệu dân lầm vào cảnh màn trời chiếu đất.

 

                Thậm chí trước khi Tokyo chịu trận bão lửa thảm khốc lần thứ hai, Thủ tướng Suzuki đã chỉ thị Thư ký Nội các Sakomizu tiến hành một khảo sát bí mật về tài nguyên của Nhật để xem liệu quốc gia có thể theo đuổi cuộc chiến được bao lâu. Một  bộ phận điều tra đặc biệt được thành lập bao gồm các chuyên gia quân và dân sự từ Ban Kế Hoạch Nội các, các bộ Ngoại giao, Tài chính và Quân nhu, và Lục, Hải quân.

                Kết quả nghiên cứu cho thấy tình hình nghiêm trọng hơn người ta vẫn tưởng. Mọi lãnh vực thuộc đời sống Nhật Bản, dân sự cũng như quân sự, bị ảnh hưởng bởi tình trạng thiếu thốn nguyên liệu thô cơ bản. Sản xuất thép không tới 100,000 tấn mỗi tháng, chỉ bằng hai phần ba đánh giá chính thức. Tương tự, sản lượng máy bay đã rớt xuống chỉ bằng một phần ba chỉ tiêu vì thiếu nhôm, bauxit, và sự khan hiếm than đã làm giảm mức sản xuất quân nhu xuống còn 50 phần trăm. Đóng tàu chỉ còn 1,000,000 tấn, và hệ thống vận tải toàn bộ đã bị tê liệt vì thiếu xăng dầu và nhân lực để chuyên chở hàng. Báo cáo của Sakomizu dự đoán rằng trong những tuần sắp tới sẽ không còn có lưu thông tàu hỏa giữa các thành phố, việc xây dựng tàu sắt sẽ ngưng lại và công nghiệp hóa học sẽ sụp đổ.

                Trong một nỗ lực tuyệt vọng để làm đầy lại lượng dầu đang sụt giảm, dầu máy bay thế phẩm được chế tạo từ  dầu thông, và vì dân số đối mặt với ám ảnh chết đói – lượng thu hoạch gạo thấp nhất kể từ năm 1905 – chính phủ soạn thảo một kế hoạch biến quả đầu (hạt dẻ, hạt sồi . . . ) thành lương thực. “Toàn thể dân chúng sẽ được động viên để chung tay. Học sinh và người tản cư sẽ tham gia để thu nhặt đủ chỉ tiêu tối đa là  năm triệu koku (giạ) quả đầu.” Khẩu phần lương thực chính thức mỗi ngày  – khi đạt được mục tiêu đó – sẽ xuống thấp dưới 1,500 calori, hai phần ba tiêu chuẩn tối thiểu của Nhật Bản. Những cư dân thành phố chịu thiệt thòi nhiều nhất, và hàng triệu người về miền quê mỗi chủ nhật để đổi chác kimono, nữ trang, đồ đạc, bất cứ thứ gì quí giá, lấy khoai lang, rau cải và trái cây.

                Báo cáo Sakamizu được trình bày trước “nội các cốt cán” vừa mới ra mắt,  được chính thức đặt tên là Hội đồng Tối cao Điều hành Chiến tranh nhưng thường được gọi vắn tắt là Sáu Ông Lớn, vì nó gồm Thủ tướng, Ngoại trưởng và bốn lãnh đạo quân đội. Những cảnh báo của báo cáo không thể bác bỏ được, và vào ngày 12/5, tại một buổi họp của Sáu Ông Lớn, Đô đốc Yonai đưa ra một đề nghị mà nếu một tuần sớm hơn có thể khiến ông bị tống cổ. Ông đề nghị là họ sẽ nhờ Nga làm trung gian giải quyết cuộc chiến. Togo, người tha thiết về việc thương thảo hòa bình hơn bất kỳ ai khác trong phòng họp, đốp chát lại rằng Yonai không hiểu rõ về Nga nếu ông cứ tưởng là họ có thực lòng giúp đỡ Nhật Bản. Tuy nhiên, Suzuki không thấy lý do nào bác bỏ việc ít ra cũng thử thăm dò người Xô viết xem sao.

                Chủ đề cấm kỵ về hòa bình cuối cùng được công khai, nhưng một thành viên quân đội đề nghị thận trọng chỉ thảo luận trong phạm vi gian phòng – e rằng tinh thần của binh sĩ có thể “bị lung lay một cách trầm trọng.” Trong không khí mưu tính này họ thẳng thắn bàn bạc về kênh trung gian tiềm năng của Thụy Sĩ, Thụy Điển, Trung Hoa hoặc Vatican và kết luận rằng những kênh này sẽ chắc chắn kết thúc bằng yêu sách đầu hàng vô điều kiện của Đồng minh. Tướng Yoshijiro Umezu, Tham mưu trưởng Lục quân, nhìn thấy ở Liên bang Xô viết với sức mạnh và uy tín một trung gian tốt nhất cho Nhật Bản. Tướng Korechika Anami, Bộ trưởng Chiến tranh, nhất trí; người Xô viết muốn thấy một Nhật Bản cường quốc bước ra từ chiến tranh làm một trái độn giữa phần sở hữu Á châu của họ với Hoa Kỳ.

                Ngài Togo bộc trực kết án họ là thiếu thực tế. “Vấn đề Nhật Bản chắc đã được thảo luận ở Hội nghị Yalta,” ông nói, “thành ra chắc chắn sẽ là vô ích nếu cố lôi kéo người Xô viết về phía ta bây giờ. Nếu xem xét những hành động quá khứ của Nga [gần đây ông đã nói với Sakomizu, “Liên bang Xô viết không đáng tin cậy”], tôi thiết nghĩ thậm chí sẽ rất khó khăn để giữ cho họ không tham chiến. Theo ý kiến tôi, tốt hơn hãy thương thảo trực tiếp với Hoa Kỳ về việc ngừng bắn.”

                Nhưng Suzuki, vẫn còn muốn chơi trò haragei, ủng hộ các vị tướng. “Stalin có vẻ giống Saigo [một người hùng samourai từ vùng Kyushu dàn xếp với bọn phản loạn một chuyển nhượng hòa bình thành phố Edo vào năm 1867], và tôi tin ông ta sẽ làm mọi cách để giúp đỡ chúng ta nếu chúng ta nhờ ông.” Togo, một người xuất thân từ Kyushu, không

thấy có gì giống gì giống nhau giữa Stalin và Saigo  nhưng rõ ràng là Lục quân chỉ muốn thương thảo qua Nga, ông đồng ý soan một bản ghi nhớ cho mục đích đó. Ông trình bày nó với Sáu Ông Lớn vào ngày 14/5:

                Cần nhắc rõ với Nga là họ có được chiến thắng với Đức là nhờ Nhật Bản, vì chúng ta duy trì tình trạng trung lập, và giờ hỗ trợ Nhật duy trì vị thế quốc tế của nó cũng tạo thuận lợi cho Nga, vì Hoa Kỳ có thể là kẻ thù của họ trong tương lai.

                Bản ghi nhớ cảnh báo rằng Nga, đã đạt được thắng lợi với người Đức, có thể đòi một giá “vượt sức tưởng tượng của chúng ta,” và Nhật Bản nên chuẩn bị nhường Cảng Arthur, Dairen, tuyến đường sắt ở Nam Mãn Châu và những phần phía bắc quần đảo Kurile.

                Togo hi vọng giới quân nhân sẽ chống đối vì viễn ảnh phải nộp quá nhiều lãnh thổ cho Nga, nhưng Sáu Ông Lớn nhất trí tán thành bản nháp ghi nhớ và chỉ thị cho ông xúc tiến cuộc thỏa thuận. Togo tính rằng con đường ngắn nhất đến Moscow sẽ đi qua nguyên thủ tướng và ngoại trưởng, Koki Hirota, vốn có những mối dây liên hệ với các nhà ngoại giao Xô viết. Togo nhờ ông ta thăm dò ngài đại sứ Xô viết, Yakov Malik, người đang lưu trú ở Gohra, một thị trấn nghỉ dưỡng ở vùng Hakone, cách Tokyo hai giờ lái xe.

                Hirota phải thuyết phục Malik đảo ngược quyết định mới đây của Xô viết không gia hạn Hiệp ước Trung lập của họ,* và yêu cầu giúp đỡ kết thúc chiến tranh. Vào ngày 25/5 thảm khốc trận oanh tạc bão lửa vào Tokyo làm hoãn lại chuyến bay của Hirota và chỉ đến ngày 3/6 ông cuối cùng mới đến được Gohra. Tối đó ông đi rảo quanh ngôi làng miền núi như một người nghỉ mát, và dừng lại, như thể ngẫu nhiên, trước Khách sạn Gohra, một tòa nhà kiểu Âu châu tiện nghi, để trao đổi với Malik.

  • Vào ngày 5/4/1945, chính phủ Xô viết đã thông báo rằng họ có thể không làm mới lại hiệp ước với Nhật Bản vì tình hình đã “thay đổi một cách căn cơ” kể từ khi nó được ký kết. Cuốn Lược Sử Liên Bang Xô Viết nhận định rằng hiệp ước “hết hạn vào ngày 4/5/1945.” Nó chỉ kết thúc vào ngày 13/4/1946, và theo các điều khoản của nó, phải báo trước một năm nếu hai bên không muốn làm mới lại nó. Không biết được những điều khoản bí mật của thỏa thuận Yalta, người Nhật an tâm về thời hạn ân huệ 12 tháng, trong thời gian đó họ có thể khiến người Nga ký lại một hiệp ước mới. Có lẽ các sử gia Xô viết lầm lẫn; có lẽ họ cố gắng che lấp sự kiện là khi Nga tuyên chiến với Nhật vào ngày 8/8/1945, họ đã vi phạm hiệp ước.

                 

                “Thật là may mắn khi Nhật và Liên bang Xô viết không đánh đấm nhau trong cuộc chiến này,” Hirota nói một cách vui vẻ, và chúc mừng Malik vì nước Nga đánh bại Hitler. Ông đoan chắc với Malik rằng nhân dân Nhật thành tâm muốn có những quan hệ thân hữu với cả Liên bang Xô viết lẫn Trung Hoa. Malik dè chừng – ông ta ám chỉ là có những người Nhật hiềm khích gay gắt với Liên bang Xô viết – nhưng ông ta mời Hirota ăn tối với mình tại khách sạn tối hôm sau.

                Trong bàn tiệc Hirota tập trung vào việc Nhật mong muốn gia hạn Hiệp ước Trung Lập. “Nhật Bản muốn đẩy mạnh mối quan hệ thân hữu với Liên bang Xô viết thậm chí trước khi nó chấm dứt. Đó là lý do tại sao chúng tôi hiện nay nỗ lực nghĩ ra cách để làm việc ấy.”

                Malik đáp lại là Nga không ngừng duy trì một chính sách hòa bình nhưng Nga không tin cậy Nhật là có cơ sở vì nhiều hành động hiếu chiến của quá khứ và tình cảm chống Xô viết ở Nhật Bản.   

                Hirota chỉ ra rằng hiện có “một số lượng tăng dần những người đang bắt đầu hiểu được thái độ của Liên bang Xô viết . . . Nhật Bản mong ước tìm được những cách thức duy trì hòa bình với Liên bang Xô viết trong một thời gian dài sắp tới.” Khi Malik hỏi liệu đây có phải chỉ là ý kiến cá nhân của Hirota, câu trả lời là: “Tôi muốn ngài hiểu rằng những gì tôi vừa nói phản ánh thái độ của Chính quyền cũng như của nhân dân.”

                Malik suy nghĩ về điều này một lúc, rồi nói mình muốn có một vài ngày suy nghĩ kỹ hơn trước khi đưa ra phúc đáp. Hirora rất kỳ vọng; ông đã từng thương thảo với người Nga trước đây và biết thận trọng là bản chất cố hữu của họ. Ông báo cáo với Togo rằng “không khí của buổi trao đổi rất thân tình, rằng phía Nga đáp ứng một cách thỏa mãn và buổi nói chuyện có vẻ đầy hi vọng.”

                Nhưng các hi vọng cho một thương thảo hòa bình đã sụp đổ ngay sáng hôm sau – đó là ngày 6/6 – tại một buổi họp khác của Sáu Ông Lớn khi Togo được trao tay một văn kiện do Tư lệnh Tối cao soạn thảo có tựa đề Chính Sách Nền

Tảng Sẽ Được Thực Thi Kể Từ Đây Trong Việc Tiến Hành Chiến Tranh. Nó yêu cầu một sự tái khẳng định đưa cuộc chiến đến kết quả cuối cùng. 

                Với một niềm tin sinh ra từ lòng trung thành bất diệt như niềm cảm hứng của chúng ta, chúng ta sẽ – nhờ vào lợi thế của địa thế  của chúng ta và sự đoàn kết của dân tộc chúng ta – theo đuổi cuộc chiến cho đến kết thúc đắng cay để giữ vững kokutai [quốc túy] của chúng ta, bảo vệ đế chế và thành tựu các mục tiêu chinh phục của chúng ta.

                Sau đó là một danh sách các bước phải được thực hiện, bao gồm những chuẩn bị toàn diện cho công cuộc phòng thủ nội địa cà tổ chức đội quân tình nguyện quốc gia. Togo đọc tiếp trong nỗi kinh ngạc. Không ai đã hỏi ý kiến ông về việc này. Nếu được chấp thuận, nó chắc chắn đưa nước Nhật đến chỗ hủy diệt. Mỉa mai thay, báo cáo bi thảm của Sakomizu có đính kèm, và những tiết mục trong đó được trích dẫn nguyên văn với mục đích làm tăng thêm trọng lượng cho vị thế của Tư lệnh Tối cao.

                Togo đau đớn đứng dậy – ông bị chứng thiếu máu ác tính đã năm năm rồi. “Đọc qua những mục này,” ông nói, vẫy quyển báo cáo Sakomizu. “Tôi không thấy lý do gì để tiếp tục cuộc chiến. Dù đối chiếu xa đến cỡ nào tôi không thấy có mối liên hệ gì giữa bản nháp đề nghị của các ông và bản báo cáo tình hình được đưa ra.” Ông chế giễu tất cả những luận cứ của Tư lệnh Tối cao, bao gồm luận cứ cho rằng chiến trường càng đến gần Nhật Bản, nó càng thuận lợi hơn. Và tính sao về tình trạng ý chí bị căng ra của dân chúng khi bị bức bách quá mức?

                Đến lúc này thì Đô đốc Toyoda mất hết bình tĩnh. “Cho dù nhân dân Nhật đã mệt mỏi vì chiến tranh, chúng ta cũng phải chiến đấu đến người cuối cùng!”

                Tướng Anami nổi quạu. “Nếu chúng ta không thể hoàn thành nhiệm vụ của mình là người cố vấn cho Hoàng thượng,” ông la lên, “chúng ta nên tạ tội bằng hành động hara-kiri!”

                Một giờ nữa trôi qua. Không được hậu thuẫn Togo không thể đình hoãn quyết định, và nghị quyết chiến đấu đến cùng được thông qua. Trên đường ra về, Togo chạm mặt với Đô đốc Yonai. “Hôm nay tôi hi vọng được ngài ủng hộ,” ông phàn nàn, “nhưng tôi không nhận được gì.”

                Hai ngày sau, ngày 8/6, một hội nghị hoàng triều được triệu tập để trình bày nghị quyết của Hội đồng Tối cao lên Thiên hoàng cho ngài phê chuẩn. Hội nghị được họp trong Bộ Hoàng cung Nội thị do Hoàng cung bị thiệt hại vì hỏa hoạn. Tham dự, ngoài Thiên hoàng, là Sáu Ông Lớn, Chủ tịch của Hội đồng Cơ mật Hiranuma, Bộ trưởng Quân nhu, Bộ trưởng Nông Lâm, và bốn thư ký trong đó có Sakomizu.

                Không chuẩn bị điều mình đang nghe, Thiên hoàng ngồi lặng im trên bục “gương mặt có vẻ nghiêm trọng.” Chỉ có Togo là biểu lộ những dè dặt nhưng ông đành câm nín rõ ràng vì quan tâm đến Hoàng thượng, và đến cuối buổi họp đầy tính khoa trương, ông thậm chí không đáp ứng với lời yêu cầu phát biểu ý kiến đúc kết về chính sách mới. “Vâng, vậy thì,” Thủ tướng nói, “Tôi kết luận là không có ai chống đối gì với kế hoạch.”

                Mười ba thành viên đứng dậy, cúi đầu chào Thiên hoàng và bước ra khỏi phòng. Khi Thiên hoàng bước ra khỏi phòng họp Hầu tước Kido thắc mắc khi thấy gương mặt lộ vẻ băn khoăn của ngài và hỏi tại sao. “Họ đã đưa ra quyết định này,” Hoàng thượng trả lời và trao cho Cơ mặt viện trưởng một bản sao về chính sách mới. Nghị quyết cũng khiến Kido ngạc nhiên không kém Togo, và nó làm xói mòn lòng tin của ông vào Suzuki. Giờ thì rõ ràng là ông không còn có thể nhờ cậy vào vị Thủ tướng già nữa, thậm chí có sự hậu thuẫn của Togo, để mang lại sáng kiến cho hòa bình. Là một cố vấn tin cẩn của Hoàng thượng, truyền thống yêu cầu Kido đứng bên trên chính trị. Trong quá khứ ông đã đi quanh giới hạn này một cách gián tiếp, nhưng giờ đây ông thấy mình phần nào phải có những hành động dấn thân.

                Vấn đề hình như không thể giải quyết được. Suốt buổi chiều đó và đến tận khuya ông ráng suy nghĩ một phương sách. Lý tưởng thì sáng kiến nên xuất phát từ Lục quân, nhưng sức mạnh của nó có thể cản trở những phong trào đòi hòa bình. Cách giải quyết là không thể tránh khỏi: Có một nguồn lực không ai có thể chống đối – Thiên hoàng. Kido quyết định đối mặt với Thiên hoàng một cách bộc trực. Ông cảm thấy rằng trong cơn khủng hoảng, cách tiếp cận không có tiền lệ này sẽ cần thiết để thuyết phục Hoàng thượng kết thúc chiến tranh bằng sự can thiệp cá nhân. Cuối cùng Cơ mật viện trưởng rơi êm vào giấc ngủ.

                Buổi sáng ông sắp xếp những lập luận của mình lên mặt giấy có tựa đề Thử Bàn về Phương Hướng Đương Đầu Tình Thế. Lúc 1:30 chiều ông đến yết kiến Thiên hoàng. “Dưới những tình huống này,” ông nói, “thần xét thấy không có giải pháp hòa bình nào là khả dĩ, nhưng thần sẽ, với sự cho phép độ lượng của Bệ hạ, hết sức gánh vác công việc. Sau đây là những ý kiến của thần.”

                Thiên hoàng nghiên cứu văn kiện. Bốn đoạn đầu, tóm tắt tình hình: những báo cáo về mức sản xuất chỉ ra rằng không chắc đến đến cuối năm còn có thể tiến hành chiến tranh; hơn nữa, tai họa gây ra do sự oanh kích, làm trầm trọng thêm bởi khan hiếm lương thực tăng lên, sẽ tạo ra sự bất ổn nghiêm trọng trên khắp đất nước.

  1. Theo trên, tôi tin rằng Nhật Bản phải quyết tâm tiến lên phía trước giành lại hòa bình bằng cách chấm dứt hận thù. Làm thế nào đạt được đến mục tiêu này? Đó là một câu hỏi cần nghiên cứu cẩn thận.
  2. Gần như chắc chắn, trong ánh sáng của những báo cáo, diễn văn và bài viết khác nhau được bên địch công khai trong cuộc công kích hòa bình của họ, rằng mục tiêu chính của địch là lật đổ cái gọi là gumbatsu, tức là giới quân phiệt.
  3. Mặc dù theo thông lệ ta thường bắt đầu những thỏa thuận bằng một đề nghị hòa bình từ giới quân sự, tiếp theo là những thỏa thuận về phần của chính quyền, điều này gần như là không thể trong giai đoạn hiện tại trong điều kiện hiện thời của Nhật Bản. Hơn nữa, nếu chúng ta đợi chờ một cơ hội thuận lợi hơn, có thể là quá muộn. Khi đó Nhật Bản sẽ chia sẻ số phận của Đức và yêu cầu tối thiểu của Nhật – an toàn cho Hoàng tộc và được giữ lại quốc túy – có thể không được chấp thuận.
  4. Những biện pháp phi thường, chưa từng có phải được tiến hành – và chúng thần làm thế với sự kính sợ và bức xúc – nhưng thần tin tưởng lộ trình duy nhất có thể là nhờ Hoàng thượng can thiệp vì lợi ích của nhân dân và khởi phát công cuộc chấm dứt hận thù theo cách sau đây:
  5. Bắt đầu cuộc thương thảo qua một quyền lực trung gian với một thông điệp cá nhân của Hoàng thượng. . .
  6. Thông điệp sẽ nhắc lại Chiếu chỉ về việc Tuyên Chiến [ngày 8/12/1941] và nhấn mạnh mong mỏi hòa bình khôn nguôi của Hoàng thượng và quyết định kết thúc chiến tranh của ngài – chịu đựng những gì không thể chịu đựng được trong quan điểm của những thiệt hại nặng nề mà chúng ta phải chịu đựng trong chiến tranh – với những điều khoản hợp lý. Những điều khoản hòa bình tối thiểu là:  Hòa bình danh dự (điều này có thể, không sao tránh được, là những điều khoản tối thiểu).                Nếu được bảo đảm Thái Bình Dương thực sự thái bình . . . Nhật Bản sẽ từ bỏ quyền chiếm đóng và                 quyền lãnh đạo tất cả vùng lãnh thổ chiếm đóng, sao cho các quốc gia và nhân dân trong đó sẽ  được      độc lập. Các lực lượng vũ trang Nhật Bản trong những vùng chiếm đóng phải rút đi một cách tự nguyện .  . . .
  1. Về phần hạn chế vũ trang, Nhật Bản phải chuẩn bị cho những yêu sách giải trừ nặng nề. Chúng ta phải bằng lòng với tình trạng vũ trang tối thiểu chỉ sử dụng cho phòng thủ quốc gia.

Đây là ý kiến cá nhân của thần, được thẳng thắn trình bày, và chỉ gồm những điểm cơ bản.

                Thiên hoàng trở nên “vô cùng thỏa mãn” về những gì ngài đọc, và Kido xin phép được thảo luận đề nghị với Thủ tướng và những nhà lãnh đạo khác; ông cần sự hậu thuẫn của những nhân vật cốt lõi trong Nội các trước khi Thiên hoàng có thể công khai tham dự. Hoàng thượng tán thành: “Hãy tiến hành ngay lập tức.”

                Kido, tuy nhiên, thấy khôn ngoan hơn là nên đợi thêm một vài ngày. Nghị viện Nhật đang mùa hội họp và toàn thể Nội các quá bận rộn đến chính trị. Vào sáng ngày 13/6, ngày cuối cùng của kỳ họp, Kido chận Suzuki trên đường đến trụ sở Nghị viện. Ông phác họa vắn tắt kế hoạch hòa bình của mình và được Suzuki hứa sẽ trở lại vấn đề ngay sau khi Nghị viện hoãn họp.

                Trong lúc này Kido trao đổi với Đô đốc Yonai. Ông là một trong bốn nhà lãnh đạo quân sự mà Cơ mật viện trưởng chắc chắn sẽ không kích bác kế hoạch hòa bình. Ông nhờ vị đô đốc đọc dùm bản đề nghị. Yonai phản ứng với sự thận trọng quen thuộc của mình. “Tất nhiên, một ý tưởng rất tốt,” ông nói với nhiệt tình kìm nén, “nhưng tôi tự hỏi không biết ngài Thủ tướng có cảm nghĩ thế nào về cuộc chiến?”

                Kido cũng vậy.

                Đối tượng của sự ức đoán của họ đang đứng lên từ chỗ ngồi  để nói chuyện với dân biểu và nghị sĩ. Suzuki còn tha thiết với hòa bình hơn vẻ bên ngoài lộ ra cho Kido thấy, và sắp sửa chứng tỏ điều ấy với công luận. Ông bắt đầu đề cập đến một bài phát biểu mà ông đã đọc ở San Francisco 27 năm trước khi ông chỉ huy hạm đội huấn luyện. Những thính giả của ông, đang sẵn lòng chiều theo lời tâm sự hồi ức của một lão già, bổng sốc lên vì luận điểm ông đang hướng đến.

                “Cốt lõi bài nói chuyện của tôi là: ‘Nhật Bản không thích chiến tranh. Nhật là một quốc gia yêu chuộng hòa bình nhất trên thế giới. Không có lý do tại sao Nhật và Mỹ lại gây chiến với nhau, nhưng nếu hai bên gây chiến, cuộc xung đột sẽ kéo dài và kết thúc trong thảm khốc. Thái Bình Dương, như cái tên của nó đã gợi ra, sẽ là Biển của Hòa bình mà không tàu vận tải chở binh sĩ nào được phép có mặt trên đó. Tuy nhiên, nếu một biến cố không may như thế xảy ra, cả hai sẽ bị thần linh trừng phạt.’” *

  • Suzuki đã nộp bài diễn văn của mình cho nội các hai ngày trước và được khuyên bỏ đi cụm từ “Biển của Hòa bình,” và nói đến việc trừng phạt; chỉ có một mình người Mỹ đáng bị thần linh trừng phạt. Nhưng Suzuki phớt lờ cả hai đề nghị này. Ông bảo con trai mình ngay trước phiên họp của quốc hội sẽ không có lý do đọc một bài diễn văn nếu lượt bỏ như thế; ông hi vọng Hoa Kỳ sẽ đón nhận những lời của ông như là một thăm dò hòa bình tinh tế.

 

                Một làn sóng phẫn nộ quét qua khán phòng. Từ “hòa bình” và khao khát đạt được nó đã từ lâu bị người đứng đầu chính quyền công khai tuyên bố cấm, và hiệu quả vẫn không giảm  khi lời hô hào cuối cùng của Suzuki rằng quốc gia phải chiến đấu đến cùng và rằng đầu hàng vô điều kiện nghĩa là hủy diệt giống nòi Nhật Bản. Khi ông quay khỏi bục nói không khí hận thù bùng phát trong những tiếng la ó, những cử chỉ hăm dọa, và tiếng hô “Đả đảo Nội các Suzuki!” Một thành viên quốc hội lách người tiến đến Thư ký Nội các Sakomizu. “Giờ tôi biết trong thâm tâm mình Thủ tướng muốn gì,” y nói như mếu. “Xin làm ơn tiếp tục!”

                Nếu Suzuki nghe rõ những lời chế nhạo, ông bất cần chúng khi ông lơ đãng vẫy tay với cử tọa. Vẹt đường qua đám đông đang chen lấn, ông đi đến Bộ Hoàng gia Nội thị để báo cáo theo nghi thức truyền thống cho Thiên hoàng. Rồi ông đi theo hành lang đến văn phòng của của Kido, tại đó ông đọc toàn bộ kế hoạch hòa bình của Cơ mật viện trưởng. Suzuki hứa sẽ làm mọi việc có thể để phát triển những mục tiêu của nó, nhưng như Yonai, ông hình như cũng có một chút dè dặt. “Tôi tự hỏi không biết Đô đốc Yonai nghĩ gì về tất cả những điều này?”

                “Yonai cũng nói như thế về ngài,” Kido bảo ông. Điều này khiến Suzuki thấy khôi hài, còn Kido thì bối rối. Làm sao ở vào một thời điểm nguy cấp như thế này trong cuộc chiến mà Thủ tướng và Bộ trưởng Hải quân không hiểu “bụng dạ của  nhau”?

                Cam kết của Suzuki hậu thuẫn Kido không làm thay đổi lập trường công khai của ông. Tại một cuộc họp báo vào sáng hôm sau ông nói như một nhà quân phiệt. “Nếu một trăm triệu người chúng ta chiến đấu kiên cường hi sinh cả mạng sống, tôi tin tưởng không phải là không có thể đạt được mục tiêu vĩ đại là gìn giữ quốc túy Nhật Bản.  . . Không có chiến binh nào của chúng ta hiểu được làm sao người Đức, với lực lượng quân đội lớn lao còn lại, không thể cầm cự cho đến cuối. Xét về số lượng vũ khí và trang bị, chúng ta không thể so sánh một cách thuận lợi với phe địch, nhưng lòng quyết tâm của chúng ta khi đứng trên chiến tuyến chỉ khác thường đối với chúng ta mà thôi. Với sức mạnh khủng khiếp này chúng ta phải chiến đấu đến phút cuối cùng, toàn thể dân tộc đoàn kết thành một khối.”

                Kido giờ triệu tập thành viên thứ ba của Nội các mà sự hậu thuẫn của họ là sống còn, Ngoại trưởng Togo. Cơ mật viện trưởng không cho ông xem bản đề nghị viết tay nhưng thổ lộ với ông là Thiên hoàng vô cùng lo âu vì nghị quyết trình bày lên cho ngài tại hội nghị hoàng triều mới đây. Togo chỉ ra rằng ông đã chống đối kế hoạch Lục quân có tính tự sát tại buổi họp Sáu Ông Lớn.

                “Tôi hiểu,” Kido nói. “Tôi có vài ý tưởng của riêng tôi về hòa bình và tôi cần ông giúp đỡ.” Ông chỉ ra rằng Thiên hoàng có thể phát biểu lời kêu gọi hòa bình trước công chúng.

                Togo sẵn sàng làm bất cứ chuyện gì có thể, và nói rằng mình vô cùng biết ơn “nếu Thiên hoàng đứng ra chỉ thị là chúng tôi nên hành động để chấm dứt chiến tranh không chậm trễ, bởi vì không có hậu thuẫn nào cho việc hoàn thành các mục tiêu của tôi lớn lao hơn những lời như thế từ Hoàng thượng.”

                Kido không có ý định dính líu đến ba tham mưu trưởng khác, nhưng vào một ngày không kềm chế được ông thấy mình tự kể với Bộ trưởng Chiến tranh Anami về bản đề nghị của mình. Nó xảy ra khi ông nghe Anami vô tình hỏi lúc rời văn phòng Cơ mật viện: “Tôi nghe nói ngài xin từ chức. Có thật không?”

                Có lẽ do sự kiện họ từng là ban rất thân của nhau – Anami là phụ tá quân sự của Thiên hoàng khi Kido làm thư ký trưởng của Cơ mật viện – xui khiến cho Kido lên tiếng, “Tôi không từ chức, nhưng nếu tôi nói cho ngài những gì trong đầu tôi ngài có thể yêu cầu tôi từ chức.”

                “Điều gì thế?” Anami muốn biết.

                Kido tiết lộ toàn bộ kế hoạch hòa bình và vai trò Thiên hoàng đóng trong đó. Bản năng ông còn tốt. Anami không chống đối; thật ra, ông ta “đồng ý trên nguyên tắc” đường hướng hành động của Cơ mật viện trưởng. Tuy nhiên, ông rất đắn đo về thời khắc hành động. Ông chỉ ra rằng sẽ thuận lợi hơn cho Nhật thương lượng hòa bình “sau khi Hoa Kỳ đã chịu nhiều tổn thất nặng nề trong Chiến dịch Đổ bộ lên Nội địa.”

                Rồi Kido không cho việc hàng ngàn máy bay đã được tập trung để ném vào trận đánh kẻ xâm lược là quan trọng. “Khi tất cả đều bị bắn rơi, ngài sẽ làm gì?” Vì Nhật Bản không có đủ sức mạnh để hủy diệt tới một phần ba lực lượng đổ bộ của Mỹ, do đó tốt hơn là điều đình trước khi cuộc xâm lăng xảy ra. Anamo nhìn nhận kết luận có tính chiến thuật của Kido là thông tin chính xác *– có trong hồ sơ bí mật riêng của ông – và mặc dù ông ta không ủng hộ kế hoạch của Kido, ông hứa không chống đối nó “quá dữ dội” trước Sáu Ông Lớn.

  • Các thông tin tuyệt mật thường được lén lút chuyển đến Kido và những người tranh đấu cho hòa bình bởi một nhóm đặc biệt gồm những phụ tá có ảnh hưởng ra sức biến đổi Sáu Ông Lớn thành một công cụ hòa bình. Nhóm gồm có Đại tá Sei Matsutani, thư ký thứ nhất của Suzuki; Toshikazu Kase, thư ký của Togo; Hầu tước Yasumasa Matsudaira, phụ tá và thư ký của Kido; và Đô đốc Takagi đáng gờm, đại diện Yonai. Bốn người này thường xuyên hội họp, thường thay đổi nơi họp để tránh bị theo dõi bởi hiến binh. Chỗ hẹn ưa thích của họ là một căn phòng kín đáo trong tòa nhà Quốc hội.    

                                     

Cơ hội bất ngờ thăm dò được Anami đúng là “cơ hội trời cho.” Giờ Kido cảm thấy mình đã có hậu thuẫn cần thiết để đương đầu với Hội động Tối cao. Vào ngày 22/6 Thiên hoàng, nghe lời thúc giục của Cơ mật viện trưởng, thình lình triệu tập Sáu Ông Lớn đến gian phòng sát bên obunko. Ngài đánh dấu tính không hình thức độc đáo của cơ hội này bằng cách phát biểu trước tiên. “Đây không phải là một mệnh lệnh của hoàng triều,” ngài đơn giản nói, “mà chỉ là một buổi thảo luận. Tại phiên họp cuối cùng của Hội đồng Tối cao chúng ta đã chấp nhận một chính sách mới và chuẩn bị phòng thủ đất nhà. Nhưng giờ trẫm nghĩ là cần thiết phải xem xét một bước đi hướng về hòa bình, một điều chưa từng có tiền lệ, và trẫm yêu cầu các khanh hành động ngay lập tức để thực hiện mong ước của trẫm.” Tướng Umezu và Đô đốc Toyoda, hai người chưa được Kido tham vấn, choáng váng cả người.

                Thiên hoàng hỏi liệu họ đã có xem xét những bước khởi đầu của việc thương thảo. Ngài đã hiểu câu trả lời – Togo đã thông báo riêng cho ngài. Suzuki cố gắng đứng lên và thừa nhận cách thức mà chính phủ đã suy nghĩ về việc thương thảo. Togo cho biết cặn kẻ về cuộc trao đổi giữa Hirota với malik.

                “Khi nào mới gởi một phái đoàn đi Liên bang Xô viết?” Ngài hỏi. “Có cớ may thành công không?”

                Togo ước tính phái đoàn sẽ đến Moscow trước giữa tháng 7. Tuy nhiên, ông cảnh báo là Nhật Bản chắc chắn buộc phải nhượng bộ nhiều với Stalin.

                Thiên hoàng quay sang hai đại diện Lục quân, nảy giờ vẫn ngồi im lặng. Anami giữ lời hứa với Kido: ông không chống đối với bất kỳ nỗ lực nào để cứu tình thế, nhưng chỉ biểu lộ nỗi e sợ là nếu Nhật quá lo lắng việc kết thúc chiến tranh quân địch có thể xem đó là dấu hiệu yếu đuối. Tham mưu trưởng Lục quân Umezu, trái lại, công khai bực bội: bất kỳ đề nghị hòa bình nào cũng sẽ gây ra tác động không thể tính toán được tại hậu phương và hải ngoại và nên được “xử lý cực kỳ thận trọng.”

                “Xử lý đề nghị cực kỳ thận trọng có phải ám chỉ là ta chỉ hành động sau khi đã giáng cho kẻ địch một đòn khác nữa hay không?” Thiên hoàng hỏi. Umezu nói không. “Thận trọng thì bao giờ cũng tốt, nhưng nếu chúng ta quá thận trọng chúng ta có thể lỡ mất cơ hội.”

                “Vâng, thế thì càng sớm càng tốt,” Umezu nhượng bộ.

                Đó là bước đi cụ thể đầu tiên tiến đến hòa bình.

                Vào ngày 24/6 Hirota, theo nhắc nhở của Togo, một lần nữa đến gặp Malik. Lần này Hirota bỏ hẳn ngôn ngữ ngoại giao và trực tiếp yêu cầu thay thế Hiệp ước Trung lập đang hấp hối. Tuy nhiên, Malik vẫn tiếp tục tránh né; không cần một hiệp ước khác, ông ta nói, vì hiệp ước trước đây vẫn còn hiệu lực.

                Thất vọng, Hirota đề nghị lấy cao su, thiếc, chì và tungsten đổi lấy dầu. “Nếu Quân đội Xô viết và Hải quân Nhật hợp nhất lực lượng,” ông nói, “chúng ta sẽ trở thành lực lượng hùng mạnh nhất trên thế giới!”

                Có thể thấy rõ là Malik không mấy ấn tượng, phần lớn lực lượng Hải quân Hoàng gia Nhật đã nằm yên dưới đáy biển. Ông ta trả lời là Nga không có đủ dầu cho nhu cầu của chính mình. Sỗ sàng ông ta hỏi liệu có cần thiết phải gặp nhau nữa không trừ khi Nhật đưa ra một “kế hoạch gì cụ thể.”

                Trong vòng không tới một tuần Hirota trở lại mang theo một kế hoạch viết tay: để đổi lấy một hiệp ước bất tương xâm mới và dầu, Nhật hứa sẽ trao trả độc lập cho Mãn Châu  và bãi bỏ những nhượng quyền đánh bắt cá trong vùng nước của Xô viết. Malik vẫn giữ vẻ thờ ơ; ông sẽ gặp lại Hirota khi nhận được phúc đáp từ Moscow. Rồi ông ta hỏi có phải Nhật Bản và Mỹ đang tiến hành thương thảo hòa bình ở Thụy Điển hay không.

                “Tất nhiên không,” Hirota kêu lên. Nhật Bản sẽ chắc chắn hỏi ý kiến của Liên bang Xô viết trước khi tham gia bất kỳ đàm phán nào.

                Câu trả lời khéo léo của Hirota gần sát với sự thật: Nhật bản đã bác bỏ hai lời đề nghị thương thảo ở Thụy Điển, và kênh Fujimura ở Berne cũng bị bãi bỏ. Nhưng một phiêu lưu mới cho hòa bình có uy tín đang hình thành ở Thụy Sĩ. Sau khi thất bại với nhóm Fujimura, nhóm Dulles lại nhận được sự môi giới của giám đốc Ngân hàng Thanh toán Quốc tế ở Thụy Sĩ thể theo nhờ cậy của hai chủ ngân hàng Nhật đó – Kojiro Kitamura và Kan Yoshimura với sự hậu thuẫn của Trung tướng Seigo Okamoto, tùy viên quân sự của họ. 

                               Trong khi những nỗ lực phân tán này tiếp tục, các nhà quân phiệt Nhật Bản hoàn tất những kế hoạch cuối cùng cho việc phòng thủ tự sát của nội địa – Chiến dịch Quyết chiến (KETSU-GO). Hơn 10,000 máy bay – hầu hết là những máy bay huấn luyện được chuyển đổi vội vàng – đã được tập kết. Hai phần ba số này sẽ được tung vào trận đánh Đảo Kyushu; phần còn lại được dành để đẩy lui bất kỳ cuộc đổ bộ nào gần Tokyo. Đối mặt với những bài học đẫm máu của Tarawa và Saipan, kế hoạch là đè bẹp người Mỹ trên những bãi biển với 53 sư đoàn bộ binh và 25 lữ đoàn – một tổng số 2,350,000 binh sĩ. Quân số này sẽ được yễm trợ bởi gần 4,000,000 nhân công dân sự Lục và Hải quân, một lực lượng đồn trú đặc biệt gồm 250,000 và 28,000,000 dân quân. Đạo quân siêu khủng cuối cùng này xuất phát từ luật nghĩa vụ quân sự tình nguyện cho các nam từ 15 đến 60 và nữ từ 17 đến 45 vừa được nhất trí thông qua trong phiên họp quốc hội cuối cùng. Phát ngôn viên quân sự, mà bằng chứng ấn tượng của y đã bảo đảm cho sự thông qua của đạo luật, sau đó đã trưng bày cho Suzuki và nội các của ông những vũ khí phòng vệ sẽ được những người tình nguyện sử dụng: súng trường nạp đạn và gậy tre được vuốt nhọn thành giáo chất đống với cung và tên như thời phong kiến.

 

3.

                Những nỗ lực thương thảo bước đầu của chính phủ Nhật Bản đang bị phớt lờ. Một tuần đã trôi qua mà Moscow vẫn chưa phúc đáp lời mời mọc của Hirota. Chính Thiên hoàng là người mất kiên nhẫn, và ngài cho gọi Thủ tướng Suzuki vào ngày 7/7. “Để lỡ cơ hội tìm ra những tính toán thực sự của Liên bang Xô viết là không thể chấp nhận được,” ngài nói. Bộ Nga không thể yêu cầu làm trung gian một cách trực tiếp sao? Tại sao không gởi đi một phái đoàn đặc biệt với một thông điệp cá nhân từ Thiên hoàng?

                Konoye là một sự lựa chọn hiển nhiên cho một sứ mạng như thế. Ông được triệu hồi về Tokyo vào ngày 12/7 từ ngôi nhà mùa hè ở Karuizawa. Ăn mặc như một thường dân trong bộ kaki đơn giản – đồng phục dân sự quốc gia – ông ngồi trong obunko lòng rộn lên những cảm xúc lẫn lộn chờ Thiên hoàng từ văn phòng ngầm bước lên. Vẻ mặt của Hoàng thượng không yên – ngài trông xanh mướt, uể oải và lôi thôi. Trái với nghi thức triều đình, hai người chỉ có một mình. Kido hi vọng không khí riêng tư này sẽ khuyến khích Konoye trả lời thẳng thắn những thắc mắc của Hoàng thượng. Ngài cựu thủ tướng nghĩ nên phải làm gì đối với cuộc chiến? “Nhân dân đã mệt mỏi vì chiến tranh,” Konoye đáp thẳng thắn. “tất cả họ đều muốn Hoàng thượng hạ mình hành động vì lợi ích của họ và làm điều gì đó để giúp họ thoát ra khỏi cảnh lầm than này. Còn có những người đổ lỗi cho Hoàng thượng. Cần phải chấm dứt chiến tranh càng sớm càng tốt.”

                Thiên hoàng bảo ông sửa soạn để đi Moscow. Mặc dù bản thân Konoye chống lại việc nhờ cậy vào Nga để dàn xếp hòa bình, nhưng ông vẫn muốn thực hiện bất kỳ bước đi nào để sửa chữa lại những lỗi lầm trước đây của mình. Ông đã khởi xuống việc ký Hiệp ước Ba bên, trong khi Thiên hoàng cảnh báo ông hành động đó rốt ráo có thể dẫn đến chiến tranh với Anh và Mỹ. “Vào thời gian đó,” Konoye tiếp tục, “Hoàng thượng đã độ lượng bảo thần sẽ phải chia sẻ những hậu quả với ngài, điều tốt cũng như việc xấu. Giờ nếu đó là lệnh của Hoàng thượng” – ông nghẹn lời vì xúc động – “thần sẵn sàng liều mình vì Hoàng thượng.”

                Ngay khi Konoye rời đi, Kido bước vào. Thiên hoàng quay sang Cơ mật viện trưởng và nói với vẻ mãn nguyện, “Lần này ông ấy có vẻ cương quyết.”

                               Trong khi Thiên hoàng thăm dò Konoye, Đại sứ Naotake Sato ở Moscow được thông báo về chuyến đi của hoàng thân:

                HOÀNG THƯỢNG VÔ CÙNG LO LẮNG MUỐN KẾT THÚC CHIẾN TRANH NGAY KHI CÓ THỂ, QUAN TÂM    SÂU SẮC ĐẾN VIỆC TIẾP TỤC LEO THANG HẬN THÙ SẼ CHỈ LÀM TRẦM TRỌNG THÊM NỖI LẦM THANH               CÙNG TỘT CỦA HÀNG TRIỆU ĐẾN HÀNG TRIỆU NGƯỜI VÔ TỘI TRONG ĐẤT NƯỚC CÓ CHIẾN TRANH. TUY   NHIÊN NẾU HOA KỲ VÀ VƯƠNG QUỐC ANH CỨ ÁP ĐẶT SỰ ĐẦU HÀNG VÔ ĐIỀU KIỆN, NHẬT BẢN BUỘC        PHẢI CHIẾN ĐẤU CHO ĐẾN KẾT THÚC ĐẮNG CAY VỚI TẤT CẢ SỨC MẠNH CỦA MÌNH ĐỂ BẢO TỒN DANH       DỰ VÀ BẢO VỆ TỒN VONG CỦA ĐẤT NƯỚC, DÙ CHO PHẢI VÔ VÀN HỐI TIẾC VÌ PHẢI ĐỔ MÁU NHIỀU                HƠN NỮA. DO ĐÓ CHÍNH PHỦ CHÚNG TA MONG MUỐN THƯƠNG THẢO ĐỂ SỚM NHANH CHÓNG PHỤC HỒI HÒA BÌNH, THỰC LÒNG CHÚNG TA HÀNH ĐỘNG VÌ MONG MUỐN LỢI LẠC CHO NHÂN LOẠI. VÌ MỤC          ĐÍCH NÀY HOÀNG THÂN KONOYE SẼ LÊN ĐƯỜNG ĐẾN MOSCOW VỚI MỘT THÔNG ĐIỆP CÁ NHÂN CỦA     THIÊN HOÀNG VÀ YÊU CẦU CHÍNH PHỦ XÔ VIẾT SẼ VUI LÒNG CUNG ỨNG PHƯƠNG TIỆN ĐI LẠI.

                Sato hiểu rõ người Nga đủ để ngờ vực là không có điều gì tốt đẹp sẽ đến trong chuyến vận động này; tại một thời điểm ông đã trải qua gần 9 năm ở St. Peterburg và đã là đại sứ ở Moscow ngày từ đầu năm 1942. Có cách nào, ông lập luận, người Xô viết sẽ có lợi từ việc kết thúc nhanh chóng trận chiến Thái Bình Dương? Molotov đã cho thấy không mấy hứng thú với những cuộc trao đổi Hirota-Malik. Thì giờ đây tại sao ông ta lại hứng thú? Sự đánh giá của ông được khẳng định khi ông điện cho Điện Kremlin và xin hẹn gặp Ủy viên Ngoại giao. Molotov chuẩn bị lên đường dự hội nghị với Đồng minh ở Đức, và hiện rất bận rộn. Phó Ủy viên Alexander Lozovsky có thể thay thế được không?

                Lozovsky (tên thật là A. S. Dridso) cũng bất hợp tác như Malik với Hirota. Y lịch sự né tranh mọi nỗ lực của Sato muốn được tán thành nhanh chóng chuyến thăm viếng của Konoye. Nhiều nhất Lozovsky có thể nói là lời phúc đáp sẽ mất ít nhất vài ngày.

                Sato đánh điện cho Togo, với lời nhận xét cay đắng là nếu Konoye đến đây chỉ nêu ra “những điều trừu tượng vội vàng, thiếu sự cụ thể,” thì tốt hơn ông ta nên ở lại nhà, và ngày hôm sau gởi thêm một khuyến cáo khó nuốt trôi:

                . . . MỘT HIỆP ƯỚC HÒA BÌNH BẰNG THƯƠNG THẢO LÀ ĐIỀU GÌ ĐÓ KHÔNG THỂ ĐƯỢC LIÊN BANG XÔ   VIẾT ỦNG HỘ. XÉT CHO CÙNG, NẾU XỨ SỞ CHÚNG TA THỰC SỰ MUỐN KẾT THÚC CHIẾN TRANH, CHÚNG      TA KHÔNG CÓ CÁCH NÀO KHÁC TRỪ RA CHẤP NHẬN ĐẦU HÀNG VÔ ĐIỀU KIỆN HOẶC ĐIỀU GÌ ĐÓ XẤP XỈ    NHƯ THẾ.

                Vấn đề Nhật đầu hàng cũng đang được nhóm Per Jacobson và Allen Dulles đang theo đuổi ở Đức. Luận điểm của việc đầu hàng đối với Jacobson là vẫn duy trì vị thế của Thiên hoàng – cái cốt lõi của mọi sự thỏa thuận, ông nói. Cá nhân Dulles cho rằng vị thế của Thiên hoàng phải phụ thuộc vào cách thức ngài xử sự. Ngài có thể tách ra khỏi nhóm quân phiệt, và nếu sau đó ngài ra khỏi với một bước đi hòa bình, chẳng hạn rút hết quân đội Nhật ra khỏi vùng lãnh thổ chiếm đóng về nước, một điều gì đó có thể thực thi được. Cách này sẽ khiến cho công luận Mỹ có thể phân biệt được giữa hoàng gia và phe quân phiệt. Nhưng Dulles còn phải hỏi ý kiến của cấp trên. Rồi ông gọi điện thoại đến Postdam, một thành phố ngay phía tây của Berlin, nơi Tổng thống Truman và các cố vấn đã vừa đến để gặp gỡ Churchill và Stalin trong phiên hội nghị cuối cùng của cuộc chiến.

       

32  “Đó Không Hề Là Quyết Định Mà Anh Phải Lo Lắng”

  

1.

                Vào sáng ngày 15/7, Augusta, tuần dương hạm trước đây đã mang Roosevelt đến dự cuộc họp lịch sử với Churchill bên ngoài Newfoundland để công bố Hiến chương Đại Tây Dương, giờ đang neo đậu tại Antwerp với vị Tổng thống mới của Hoa Kỳ, Harry S. Truman. Qua giờ trưa một chút ông lên chuyên cơ tổng thống, Bò Thiêng, bay đến Potsdam, dự cuộc họp có mật danh “Terminal” (Mức Cuối).

                Chiến tranh đã cưỡng ép thế đồng minh không mấy thoải mái giữa chủ nghĩa tư bản với Chủ nghĩa Cộng Sản và sự ló dạng của hòa bình đã phơi bày những mối xung khắc ngấm ngầm giữa Đông và Tây. Mối liên minh gắn kết tại Yalta đang tan rã. Stalin đã không giữ lời hứa sẽ tôn trọng Tuyên Bố về Âu châu Giải phóng bằng cách rắp tâm cộng sản hóa mọi lãnh thổ mà Hồng Quân giải phóng ở Đông Âu. Chính ông ta nghi ngờ phương Tây âm mưu sau lưng mình: chứng cứ về những dàn xếp “chông-Xô viết mà nhóm Dulles vừa mới kết thúc gần đây ở Bắc Ý.

                Không có nghi ngờ gì về cách thức tân Tổng thống dự tính sẽ vận dụng với người Nga. Molotov đã cảm thấy lúng túng trước sự thẳng thắng của Tổng thống. “Hoa Kỳ sẵn sàng thực thi một cách trung thành tất cả những thỏa hiệp đã đạt được tại Yalta và chỉ yêu cầu chính quyền Xô viết cũng làm tương tự,” ông đã nói với Ngài Ủy viên Đối Ngoại tại cuộc họp đầu tiên của họ tại Washington. “Nhưng tôi muốn được hiểu rõ là việc này chỉ có thể dựa trên cơ sở đồng thuận xem xét chứ không trên cơ sở đường một chiều.”

                “Chưa hề có ai nói với tôi như thế bao giờ!” Molotov giận dữ kêu lên.

                “Hãy thực thi các thỏa thuận của ngài, thì ngài sẽ không bị ai nói như thế,” Truman đáp lại.

                Mục tiêu của Truman đối với “Terminal” là rõ ràng. Ông chỉ muốn thiết lập những nguyên tắc chính trị và kinh tế cho việc chiếm đóng Đức quốc, thi hành Tuyên Bố về Âu châu Giải phóng (đặc biệt vấn đề liên quan đến Ba Lan) và giải quyết vấn đề tái thiết. Tất cả những việc này đều có trên chương trình nghị sự của toàn bộ các buổi làm việc. Nhưng việc kết thúc cuộc chiến ở châu Á cũng cần được chú tâm ngang bằng mặc dù không chính thức. Đối với Truman, vấn đề “khẩn cấp nhất” này ở Potsdam không thể được giải quyết trên bàn hội nghị chính thức mà yêu cầu một cuộc gặp riêng với Stalin. Theo đề nghị của Marshal và MacArthur ông phải nói bóng gió với người Xô viết về việc tham gia cuộc chiến chống Nhật càng sớm càng tốt. Ông phải tiến hành việc này thậm chí có mật tin cho biết là bom nguyên tử sẽ sớm được thử ở New Mexico.

                Ông đã mang theo mình bản tuyên bố nháp kêu gọi Nhật đầu hàng. Nó được cổ vũ bởi một chính khách đã từng nỗ lực ngăn ngừa cuộc chiến xảy ra, Joseph Grew. Khiếp đảm vì các báo cáo về những trận oanh tạc dự dội xuống Tokyo, ông đã đến gặp Truman vào 29/5 (ông là Quyền Bộ trưởng Ngoại giao trong khi Stettinius tham dự hội nghị Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc với lời yêu cầu Tổng thống đưa ra lời tuyên bố với người Nhật là việc đầu hàng vô điều kiện không có nghĩa là kết thúc hệ thống quân chủ. Nếu không có sự bảo đảm đó, ông nói, chưa chắc là người Nhật chịu đầu hàng. Ông được ủng hộ bởi các chuyên gia về Viễn Đông trong Bộ Ngoai giao, như Eugene Dooman, Joseph Ballantine và Giáo sư George Blakeslee.

                “Tôi đã suy nghĩ về vấn đề này,” Truman trả lời, “và đối với tôi hình như đó là một ý tưởng ổn thỏa.”

Ông muốn Đại sứ Grew tư vấn với các Tham mưu Trưởng Liên quân và các Bộ trưởng Chiến tranh và Hải quân trước khi đưa ra quyết định cuối cùng.

                Stimson và Forrestal “thích ý tưởng này,” và Marshall cũng vậy, nhưng Tổng Tham mưu sợ rằng lời tuyên bố công khai “vào thời điểm này là quá sớm.” Stimson nghĩ rằng lời lẽ trong tuyên bố còn tùy thuộc vào thử nghiệm quả bom có thành công hay không. Bộ trưởng Chiến tranh đã không ngừng lo âu về việc sử dụng quả bom. Ông dẫn đầu một nhóm dân sự tiếng tăm được biết dưới tên Ủy ban Lâm thời trong đó có ba nhà khoa học lừng danh, được lập ra nhằm cố vấn cho Tổng thống về những vấn nạn quân sự và khoa học phát khởi qua việc phóng thích năng lượng nguyên tử. Ông đưa ra kết luận của mình cho Ủy ban, sẽ nhóm họp hai ngày tới với Tướng Marshal và Ban Khoa học cố vấn gồm bốn người. “Thưa Quí vị,” ông nói, “trách nhiệm của chúng ta là giới thiệu một hành động có thể làm xoay chuyển tiến trình của văn minh. Trong tay mình chúng ta trông chờ sớm sẽ có được một loại vũ khí có sức phá hủy hoàn toàn chưa hề được biết đến. Yếu tố quyết định của hôm nay là chiến tranh. Nghĩa vụ của chúng ta là mang cuộc chiến này đến một kết thúc mau chóng và thắng lợi. Chúng ta có thể nói rằng vũ khí mới này của mình đã trao vào tay chúng ta một quyền lực bao trùm. Cho nên nghĩa vụ của chúng ta là sử dụng quyền lực này bằng sự khôn ngoan nhất có thể vận dụng. Đối với chúng ta giờ này vấn đề quan trọng bậc nhất là làm thế nào việc sử dụng vũ khí mới này sẽ xuất hiện trong viễn cảnh của lịch sử.”

                Một thành viên trong Ban Khoa học, Tiến sĩ J. Robert Oppenheimer, nhà vật lý chịu trách nhiệm thiết kế và thử nghiệm quả bom, ước lượng rằng chỉ một quả bom nổ sẽ chắc chắn cướp đi sinh mạng của 20,000 người. Con số này gây khiến đảm Stimson. Mục tiêu, ông nói xen vào, sẽ là sự phá hủy về quân sự, chứ không phải sinh mạng của thường dân. Chẳng hạn, Kyoto, một trong những thành phố nằm trong danh sách mục tiêu, không nên bị thả bom; nó là một trung tâm văn hóa với những đền thờ được tôn kính. Kiến thức của ông về cố đô này đến một cách ngẫu nhiên; gần đây con trai của một người bạn ông, một sinh viên về Đông phương học, đã kể cho ông rất nhiều về những nét duyên dáng của Kyoto.

                Đối với tâm trí của Tướng Marshal thì không có vấn đề gì, quả bom nên được sử dụng để nhanh chóng kết thúc cuộc chiến và cứu lấy sinh mạng của người Mỹ, nhưng ông không muốn dùng uy tín của bộ phận mình để gây áp lực cho ủy ban. Ông nói rằng ông hi vọng quả bom sẽ không phải thả xuống; vì việc này sẽ tiết lộ quá sớm cho người Xô viết thứ vũ khí mới mà người Mỹ sở hữu được và làm giảm đi hiệu quả răn đe trong thời hậu chiến.

                Khi họ tạm ngừng họp để ăn trưa Tiến sĩ Arthurt Holly Compton, một nhà khoa học cố vấn khác, quay trái sang Stimson và hỏi liệu có thể sắp xếp một vụ minh họa phi quân sự để gây áp lực với người Nhật. Khả năng của giải pháp được đem ra bàn cãi trên bàn ăn. Nếu thông báo trước một nơi cô lập trên đất Nhật để quả bom được ném xuống, phi cơ chở bom có thể bi bắn hạ. Hơn nữa, nếu bom không nổ thì sao? Biết bao nhiêu việc có thể sai sót. Còn nếu việc thử nghiệm được tiến hành trên một vùng đất trung lập, các nhà lãnh đạo Nhật có thể cho đó là trò dàn dựng. Kết luận là quả bom nên được sử dụng càng sớm càng tốt “vào một mục tiêu nhằm minh chứng cho sức tàn phá khủng khiếp của nó” – mà không cảnh báo trước.

                Ba nhà khoa học trong Ủy ban Lâm thời – Vannevar Bush, James B. Conant và Karl Compton – nhất trí nhưng một số nhà khoa học khác trong nhóm chế tạo bom bàng hoàng vì đề đạt của họ. Họ được cầm đầu bởi Tiến sĩ james Franck, một người Đức tị nạn và nhà vật lý đoạt giải Nobel. Ông và bảy nhà khoa học tiếng tăm khác gởi một báo cáo đến ủy ban:

. . . . . .   Nếu Hoa Kỳ là quốc gia đầu tiên phóng thích một phương thức tàn phá bừa bãi mới cho nhân loại, Hoa Kỹ sẽ phải đánh mất sự ủng hộ rộng khắp trên toàn thế giới, làm tăng nguy cơ chạy đua vũ trang, ngăn trở cho

khả năng tiến tới sự thỏa thuận quốc tế về công cuộc kiểm soát tương lai của loại vũ khí này.

                Những điều kiện thuận lợi nhiều hơn nữa cho sự thành tựu cuối cùng của một thỏa thuận như thế có thể được tạo ra nếu các quả bom nguyên tử trước tiên phải được phô diễn trước thế giới qua một vụ nổ có tính minh chứng trên một vùng không dân cư được chọn lựa một cách thích đáng.

                 Sau những ngày cuối tuần dài suy xét tại Phòng Thí nghiệm Khoa học Los Alamos ở New Mexico, Arthur Compton, Oppenheimer và hai thành viên khác của Ban Khoa học – Ernest Lawrence và Enrico Fermi – thảo ra bức thư hồi đáp của họ cho Báo cáo Franck. “Cõi lòng chúng tôi nặng chĩu,” Compton nhớ lại, “khi vào ngày 16/6 chúng tôi nộp báo cáo này cho Ủy ban Lâm Thời.”

. . . . . .   Những ai tán thành giải pháp minh chứng thuần túy kỹ thuật sẽ muốn loại trừ việc sử dụng các vũ khí nguyên tử và sợ rằng nếu chúng ta dùng vũ khí ngay bây giờ những đàm phán tương lai sẽ gặp trở ngại. Những người khác nhấn mạnh đến cơ hội cứu vớt sinh mạng người Mỹ bằng việc sử dụng quân sự ngay lập tức và tin tưởng rằng việc sử dụng như thế sẽ cải thiện những triển vọng quốc tế, theo chiều hướng chúng liên quan đến việc ngăn ngừa chiến tranh hơn là việc loại bỏ vũ khí đặc biệt này.

                Chúng tôi thấy mình đi gần hơn với những quan điểm thứ hai: chúng tôi không thấy giải pháp nào khác hơn có thể chấp nhận được là chỉ đạo việc sử dụng với mục đích quân sự *.

                 Tại Washington, Stimson và Phụ tá Bộ trưởng Chiến tranh, John J. McCloy. Đang chuẩn bị một cuộc họp quyết định với Ban Tham mưu Liên quân và Tổng thống để quyết định hoặc phong tỏa và oanh tạc Nhật Bản cho đến khi họ khuất phục hoặc đổ bộ trên các đảo chính. McCloy chống đối cả hai giải pháp. Hàng tuần liền ông và Grew đã thảo luận riêng về tương lai của Nhật Bản và đi đến kết luận nên cho nó cơ hội đầu hàng trong danh dự. McCloy hứa sẽ dùng ảnh hưởng của mình lên Stimson và giờ đây cho biết, “Chúng ta nên đi khám lại cái đầu mình đi nếu chúng ta không cân nhắc một giải pháp chính trị.” Nước Mỹ thống lĩnh không phận và hải phận và, ngoài ra, còn sở hữu bom nguyên tử. Nhật Bản nên được cho phép duy trì Nhật Hoàng trên cơ sở hiến pháp và cũng có quyền sử dụng nhưng không có quyền kiểm soát những nguyên liệu sống còn.

                Tổng thống, McCloy tiếp tục nói, nên gởi đến Nhật Hoàng, hoặc chính phủ Suzuki, một thông điệp cá nhân phác họa đề nghị này, với lời đe dọa nếu đề nghị này không được chấp nhận Hoa Kỳ sẽ không có phương cách nào khác trừ phi sử dụng một vũ khí mới, bom nguyên tử, xuống Nhật bản. Một biện pháp như thể chắc chắn sẽ đưa đến sự kết thúc cuộc chiến mà không chịu thêm thương vong nào nữa, và nếu không, Hoa Kỳ sẽ ở trong tư thế hợp đạo lý hơn nếu phải sử dụng quả bom. Khi McCloy giải thích rõ ràng hình thức lẫn nội dung của đề nghị, Stimson hoàn toàn đồng ý cho rằng đó là một cách thức ngoại giao sắc sảo cần tiến hành và ông sẽ ủng hộ nó trong cuộc họp. Vào chiều chủ nhật, tuy nhiên, ông điện cho McCloy, “Jack,“ ông nói, “ngày mai tôi không thể dự họp được.” Ông bị một cơn đau nửa đầu mãn tính hành hạ. “Tôi sẽ sắp xếp với Nhà Trắng để cử anh đi thay thế tôi.”

                Ngay trước 3 giờ30 thứ hai, 18/6, , McCloy đến phòng họp ở Nhà Trắng , tham mưu trưởng của Tổng thống, Đô Đốc Leahy, đã có mặt ở đó cùng với hai trong số các Tham mưu Trưởng Liên quân – King và Marshal– nhưng Arnold được Trung Tướng Ira C. Eaker đại diện. Sau đó Stimson, trông có vẻ hốc hác và đau đớn, bước vào. Ông đã cố lết ra khỏi giường.

  •  Trong một bài nói chuyện tại Đại học Notre Dame vào ngày 6/2/1967, Tiến sĩ Edward Teller tỏ ra hối tiếc về quyết định này: “Lẽ ra chúng ta có thể cho nổ quả bom trên bầu trời Tokyo ở một cao độ an toàn và vừa đủ để rung lắc các cửa sổ mà thôi. Lẽ ra chúng ta có thể thị uy theo một cách thức tuyệt vời là tài năng kỹ thuật của con người có thể chấm dứt một cuộc chiến thảm khốc nhất.”    

               

Truman kêu gọi mọi người góp ý, bắt đầu với Marshall. Tham mưu Trưởng Quân đội nhấn mạnh là không có lựa chọn nào khác ngoài việc xâm chiếm các đảo chính. Cuộc đổ bộ khởi đầu lên đảo Kyushu vào 1/11, sẽ tập trung 766,700 quân. Tổn thất sẽ rất nặng nề, nhưng một mình không lực, ông nói, đơn giản là không đủ để chinh phục Nhận Bản. Nói thay Không Lực, Eaker khẳng định lời nhận định này; binh chủng không quân đã không thể khuất phục quân Đức. Đô Đốc King cũng ủng hộ Marshall.

                Trước sự thất vọng của McCloy, Stimson gật đầu tán thành. Tuy nhiên, ông cũng đề nghị là một số giải pháp khác cần được xem xét. “Tôi tin chắc rằng có một tầng lớp dưới đông đảo ở Nhật Bản không tán thành cuộc chiến hiện nay nhưng ý kiến và ảnh hưởng đầy đủ của họ vẫn chưa được cảm nhận. . . Tôi cảm thấy cần làm một điều gì đó để khích động họ và phát huy bất kỳ ảnh hưởng nào họ có thể có trước khi việc giải quyết vấn đề của họ trở nên cần thiết.” Nhưng ông không nói gì về thông điệp gởi đến Nhật Hoàng mà ông đã ngõ ý với McCloy là mình sẽ đề nghị.

                Truman quay sang Leahy. Đô đốc, cộc lốc như bao giờ, cực lực phản đối công thức Casablanca của Roosevelt. “Tôi không đồng ý với ai cho rằng trừ khi chúng ta đạt được việc đầu hàng vô điều kiện chúng ta là kẻ thất trận. Tôi không sợ bất kỳ mối đe dọa nào từ Nhật Bản trong tương lai trước mắt, cho dù chúng ta không thành công trong việc cưỡng bách họ đầu hàng vô điều kiện. Điều tôi sợ là việc chúng ta khăng khăng đòi họ đầu hàng vô điều kiện chỉ sẽ khiến họ thêm tuyệt vọng và do đó gia tăng số thương vong của chúng ta. Tôi không nghĩ điều này cần thiết chút nào.”

                Truman không tin là công luận sẽ sẵn sàng chấp nhận nới lỏng yêu sách đầu hàng vô điều kiện. Về phần chiến dịch Kyushu – và ở đây McCloy nghĩ là ông có vẻ phần nào miễn cưỡng – ông nói rằng ông “hoàn toàn tin chắc là các Tham mưu Trưởng Liên quân nên tiến hành.” Nhưng họ không được xâm chiếm đảo chính Honshu mà không tham vấn ông. Ông cũng không muốn những vấn đề phát triển đến một mức độ mà “ông không có một giải pháp nào khác” trừ việc tán thành cuộc xâm chiếm.

                Trong tình trạng như thế, cuộc họp hiển nhiên là đã kết thúc và những người tham dự, trong một tâm trạng đè nén, rục rịch đứng lên. Nhưng Tổng thống đã bảo họ nán lại. “Không ai được rời phòng này mà không cho một ý kiến rõ ràng. McCloy, nảy giờ anh không nói gì cả. Quan điểm của anh thế nào?”

                McCloy nhìn sang Stimson dò hỏi. Stimson gật đầu. McCloy nhắc lại những gì mình đã trình bày với Bộ trưởng Chiến tranh, kể cả câu “Chúng ta nên đi khám lại cái đầu mình đi nếu chúng ta không cân nhắc một giải pháp chính trị.” Đô đốc King trố mắt nhìn ông, nhưng Truman rất ấn tượng. “Tốt, đây chính là điều tôi muốn được xem xét,” ông nói. “Trình bày rõ thông điệp mà anh muốn chúng ta nên gởi đi.”

                McCloy đọc lại thông điệp mà mình soạn gởi Nhật Hoàng hứa hẹn chế độ quân chủ và kết thúc là lời đe dọa sử dụng bom nguyên tử. Hai từ cuối cùng làm mọi người giật nảy mình. McCloy “cảm nhận được các thính giả của mình ớn lạnh cả xương sống. Mọi người trong phòng đều hay biết về quả bom, nhưng đó là một bí mật hiếm khi được đề cập đến trừ ở chốn riêng tư.

                Truman nói rằng việc sử dụng bom nguyên tử là một “khả năng tốt,” như thể chủ đề chưa từng được mang ra thảo luận tại một buổi họp chính thức mà ông tham dự. Ông bảo mọi người nán lại; đó là lúc mà vấn đề được đặt lên bàn làm việc. Cuộc nói chuyện tập trung vào tính thực tiễn của chính quả bom và liệu người Nhật có nên được báo trước khi sử dụng nó. Mặc dù phần lớn thảo luận liên quan đến tính không thể dự đoán được của quả bom – “Làm sao chúng ta biết được nó có nổ không? . . . “Đó sẽ là một thảm bại nếu nó không hoạt động“ – mọi người hình như đều nhìn nhận là nó sẽ được thả xuống nếu cần thiết. Dù không có phát biểu chính thức nào, quyết định sử dụng quả bom, về cơ bản, đã được khẳng định. Truman bảo McCloy “hãy suy nghĩ thêm vể thông điệp nhưng đừng đề cập về quả bom vào lúc này.”

                Tình táo hẳng sau phút cuối cùng của buổi họp, Stimson rời phòng họp với quyết tâm hẳn lên khi thấy rằng Nhật Bản được trao cho cơ hội hiện thực để đầu hàng. Với sự giúp đỡ của Grew và Forrestal ông bắt đầu sắp xếp tất cả những lý lẽ ủng hộ việc cảnh báo Nhật Bản trước khi bom được sử dụng. Đồng thời McCloy, Dooman và Ballantine bắt đầu soạn thảo văn bản về lời tuyên bố với nhân dân Nhật Bản về các điều khoản đầu hàng, được đồng ban hành bởi Mỹ, Anh và Trung Hoa. Đoạn 12 chứa đựng một ngoại lệ duy nhất đối với việc đầu hàng vô điều kiện và là ngoại lệ sống còn nhất đối với nhân dân Nhật bản – khả năng duy trì sự tại vị của Nhật Hoàng.

                Các lực lượng chiếm đóng của Đồng minh sẽ rút lui khỏi Nhật Bản ngay sau khi những mục tiêu này đã được hoàn thành và đã được thiết lập ở đó thể theo nguyện vọng được thể hiện một cách tự do của nhân dân Nhật Bản một chính phủ có trách nhiệm và hiếu hòa. Điều này có thể bao gồm một nền quân chủ hợp hiến dưới triều đại hiện thời nếu những quốc gia yêu chuộng hòa bình có thể được thuyết phục về lòng quyết tâm thành khẩn của một chính phủ muốn theo đuổi những chính sách hòa bình làm vô hiệu hóa được chủ nghĩa quân phiệt gây hấn trong tương lai ở Nhật Bản.

                               Vào sáng thứ hai, ngày 2/7, Truman nói chung tán thành bảng tuyên bố, nhưng James F. Byrnes, tân Ngoại trưởng, cật vấn về đoan 12. Cordell Hull cũng vậy. Nó nghe có vẻ “quá đáng như một sự nhân nhượng,” ông ta khuyên Byrnes. “Nhật Hoàng và thành phần lãnh đạo phải bị tước đoạt mọi đặc quyền và đứng ngang hàng trước pháp luật như mọi người khác.” Công luận cũng theo quan điểm này. Trong cuộc thăm dò gần đây của viện Gallup một phần ba đồng ý hành hình Nhật Hoàng Hirohito và 37 phần trăm muốn đưa ra xét xử, bỏ tù chung thân hoặc hành hình. Chỉ 7 phần trăm tin rằng nên để yên ông ta hoặc sử dụng như một vị vua bù nhìn.

                Trên đường đến Potsdam trên tàu Augusta, Tổng thống và Byrnes đưa ra quyết định cuối cùng là loại bỏ câu gây tranh cãi. Đồng thời Truman tự mình xem xét lại quyết định có nên sử dụng bom hay không. Giữa các lãnh đạo của phe Đồng minh, trong đó có Churchill, đều có sự đồng thuận về việc thả bom một khi đã sẵn sàng. Theo một nghĩa nào đó quyết định của Truman là không thể tránh khỏi. “Theo ý kiến của tôi,” Tướng Leslie Groves, người giám sát Dự án Manhattan, sau này có viết, “quyết định của ông ta là một quyết định phi-can thiệp-về cơ bản, một quyết định không làm xáo trộn những kế hoạch đang tồn tại.” Dù sao thì phải có người bấm nút và người đó là Tổng thống, và Truman giờ đây phải nhận lấy trách nhiệm trong vòng bí mật.

Sau hết, nó đơn thuần là một vũ khí quân sự, ông lập luận, và nó phải được sử dụng. *

                *Trả lời một câu hỏi do tác giả đặt ra trong cuộc phỏng vấn vào năm 1958 là liệu có phải quyết định chỉ đến sau một cuộc truy vấn lương tâm gay go hay không, Tổng thống Truman trả lời, “Không có đâu, tôi chỉ làm” – ông búng ngón tay- “như vầy! “Một năm sau, vào ngày 28/4/1959, ông nói tại một buổi sêmina ở Đại học Georgia, “Bom nguyên tử không phải là ‘một quyết định lớn lao’. Nó đã được sử dụng trong cuộc chiến, và để cho các bạn thêm thông tin, có nhiều người bị giết bởi bom lửa tại Tokyo hơn bị giết do bom nguyên tử gây ra. Nó đơn giản chỉ là một vũ khí dữ dội khác trong kho vũ khí của công chính. Việc ném hai quả bom đã kết thúc cuộc chiến, cứu vớt hàng triệu sinh mạng. Nó cũng giống như pháo binh ở phía chúng ta. Napoleon nói rằng chiến thắng luôn đứng về phía pháo binh. Nó thuần túy là một quyết định quân sự để kết thúc cuộc chiến.”

                Vào cuối buổi sêmina, một sinh viên lần nữa hỏi vặn ông. “Đó không hề là một quyết định mà anh phải lo lắng,” Tổng thống trả đũa lại. “Nó chỉ là bên nào có khẩu pháo lớn hơn thì chiến thắng trong cuộc chiến và đó là vì điều ấy mà nó được sử dụng. Không có gì khác hơn là một hỏa lực.”

 

2

                Địa điểm hiện thời của cuộc họp là một thị trấn hấp dẫn bao quanh bởi những rừng cây tại vùng ven Potsdam. Gần như hoàn toàn không bị ảnh hưởng bởi chiến tranh, Babelsberg đã từng là một nơi nghỉ dưỡng mùa hè và sân thể thao của những người trong ngành điện ảnh Đức. Nó khiến cho Thiếu tướng John   

Deane, trưởng Phái đoàn Quân sự Mỹ tại Moscow, nhớ đến một thành phố ma. Vào chủ nhật, 15/7, Truman được sắp xếp ở trong một ngôi nhà quét vôi ba tầng, từng là nhà của một nhà sản xuất phim ảnh giờ đang có mặt  trong tiểu đoàn khổ sai Nga. Tọa lạc trên bờ hồ Griebnitz, “Nhà Trắng Nhỏ”, như nó được gọi, được bao bọc bởi những lùm cây và một ngôi vườn duyên dáng, cũng như ngôi nhà, có vẻ đang trong tình trạng bị bỏ phế. Churchill được bố trí chỗ ở gần đó trong chốn tráng lệ đã tàn lụi. Stalin ở cách đó một dặm.

                Cuộc họp, được ấn định bắt đầu vào thứ hai, 16/7, được dời lại qua ngày hôm sau vì Stalin lên một cơn đau tim nhẹ. Câu hỏi về quả bom vẫn còn đó – liệu nó có nổ không? – được trả lời vào chiều thứ hai vào lúc 7 giờ 30 qua một bức điện từ Washington gởi đến Stimson:

                ĐƯỢC GIẢI PHẪU VÀO SÁNG NAY, VIỆC CHẨN ĐOÁN VẪN CHƯA HOÀN TẤT NHƯNG KẾT QUẢ HÌNH NHƯ THỎA ĐÁNG VÀ VƯỢT QUÁ SỰ MONG ĐỢI. BÁO CHÍ ĐỊA PHƯƠNG ĐƯỢC LOAN TIN VÌ MỐI QUAN TÂM VƯƠN XA. TIẾN SĨ GROVES HÀI LÒNG. ÔNG TRỞ VỀ (Washington). NGÀY MAI SẼ ĐƯA TIN TIẾP CHO ANH.

                Quả bom nguyên tử đã nổ thành công tại Alamogordo, New Mexico. Groves và tùy viên của ông, Chuẩn tướng Thomas Farrel, đã quan sát vụ nổ từ khoảng cách mười ngàn ya (hơn 900 mét). Khiếp sợ trước vụ nổ khủng khiếp Farrel kêu lên: “Chiến tranh qua rồi!” “Vâng, nó qua rồi!” Groves nói, ngay sau khi chúng ta bỏ một hay hai quả bom lên nước Nhật!”

                Stimson đánh điện đáp lại: TÔI XIN GỞI LỜI CHÚC MỪNG ĐẾN TIẾN SĨ VÀ CHUYÊN VIÊN CỦA MÌNH. Thời điểm không thể nào tốt hơn đối với Tổng thống. Trưa hôm sau Tổng Tư Lệnh Stalin (ông vừa được phong chức mới) đến Nhà Trắng Nhỏ với Molotov và thông dịch viên của ông, Pavlov.

                Stalin tán gẫu một cách hòa nhã một vài phút với Truman và Byrnes, rồi đề cập đến chủ đề hàng đầu trong tâm trí của Tổng thống: cuộc chiến Thái Bình Dương. Ông ta bật mí rằng người Nhật yêu cầu ông làm trung gian hòa bình nhưng ông vẫn chưa có câu trả lời xác định, vì họ chưa sẵn sàng chấp nhận đầu hàng vô điều kiện. Cả Truman và Byrnes đều biết về mọi chi tiết của vụ đề nghị của Nhật Bản-thông điệp bay qua lại giữa Togo và Sato đã bị chặn lại và giải mã-nhưng họ giả vờ như mới được nghe lần đầu. Dù không được nhắc tới, Stalin thông báo rằng Hồng quân sẽ sẵn sàng sẽ tấn công vào đầu tháng tám. Trở ngại duy nhất là giải quyết những vấn đề linh tinh với Tưởng Giới Thạch, như việc chuyển nhượng Dairen.

                Dairen nên được duy trì như một cảng mở, Truman nói. Nếu chúng tôi kiểm soát được nó, Stalin trả lời trấn an, nó sẽ như thế. Vào giờ ăn trưa Stalin tỏ ra cởi mở. Ông khen rượu vang ngon. Đó là một lời bình phẩm đẹp lòng: khi người bồi bàn giật chiếc khăn khỏi chai rượu, một nhãn hiệu California xuất hiện.

                Phiên họp đầy đủ đầu tiên khai mạc vào 10:05 tại Cung điện Cecilienhof, nơi cư ngụ một thời của Thái Tử Wilheim và gần đây được sử dụng làm bệnh viện quân đội. Được trang bị xinh đẹp, dinh cơ bằng đá nâu hai tầng thênh thang trên hồ khiến Tướng Deane nhớ đến một động sản ở Newport hoặc Grosse Pointe.

                Các thành viên dự họp an tọa quanh một chiếc bàn gỗ xồi bề thế trong sảnh tiếp khách của cung điện được trang trí bằng cờ của ba quốc gia. Theo đề nghị của Stalin, Truman (thông dịch viên của Churchill nghĩ ông trông như một “vị chủ tịch lễ phép nhưng cương quyết của một Chủ tịch Hội đồng Quản trị”) ngồi vào ghế chủ tịch. Những thảo luận đầu tiên tập trung vào những vấn đề hậu chiến của Âu châu. Sau đó tại nơi ở của mình Churchill giãi bày với Lord Moran, “Stalin rất cởi mở nhưng ông ta mở miệng rộng quá.” Ông nhận xét là vị Tổng Tư Lệnh đã đổi ra hút xì gà, có lẽ sau khi qua một cơn đau tim. “Ông ta nói ông ta thích hút xì gà hơn là thuốc điếu. Nếu ông bị chụp hình khi hút xì gà với tôi mọi người sẽ cho rằng chính là do ảnh hưởng của tôi. Tôi đã nói như thế với ông ta.” Moran hỏi vị Thủ tướng ông có nghĩ là Truman có thực tài không. “Tôi cho rằng ông ta có thực tài. Với mọi khía cạnh nào thì ông ta cũng là người vô cùng cương quyết. Ông ta không đến xỉa gì đến mặt đất mềm mại, ông ta dựng cả bàn chân vững chắc lên đó.” Để minh họa ông dậm cả hai bàn chân trần mạnh mẽ lên sàn nhà.

                Một vài giờ sau Stimson lại nhận thêm một bản báo cáo từ Ủy ban Lâm thời

BÁC SĨ ĐÃ VỪA TRỞ VỀ RẤT PHẤN KHỞI VÀ TIN TƯỞNG VÌ THẰNG NHỎ CŨNG TO KHỎE NHƯ ANH LỚN NÓ. ÁNH SÁNG TỪ MẮT NÓ CÓ THỂ NHÌN RÕ TỪ ĐÂY TỚI HIGHHOLD [Nhà của Stimson trên Long Island] VÀ TÔI CÓ THỂ NGHE TIẾNG HÉT CỦA NÓ TỪ ĐÂY ĐẾN NÔNG TRẠI CỦA TÔI.

Viên sĩ quan giải mã bức mật điện ngộ nghĩnh này tưởng rằng vị tướng Stimson 77 tuổi vừa lên chức bố và thắc mắc không biết cuộc họp có đình hoãn một ngày để ăn mừng hay không. “Thằng nhỏ” tất nhiên là quả bom plutonium vừa mới nổ tại New Mexico và “anh lớn của nó” chính là quả bom uranium chưa được thử và sẽ thả xuống nước Nhật.

                Thành công ở Alamogordo làm hàng chục các khoa học gia đã chế tạo ra nó thêm rầu rĩ. Tiến sĩ Leo Szilard (như Tiến sĩ Franck, một người tị nạn Đức Quốc Xã) gởi một thư thỉnh cầu đến Ủy ban Lâm thời do chính ông soan thảo và được 57 nhà khoa học Chicago ký tên vào. Nó khẩn khoản xin cảnh báo trước một cách thích hợp cho nhân dân Nhật và tạo cơ hội cho họ đầu hàng. *

                Tại buổi ăn trưa vào thứ tư, Truman đánh tiếng với Churchill về vấn đề báo tin cho người Nga biết về quả bom. Churchill đề nghị nếu Truman “quyết định phải báo,” ông nên giải thích là ông đang chờ việc thử nghiệm có thành công không. Rồi thì thế nào ông cũng phải trả lời câu hỏi, Tại sao ngài không báo với tôi trước? Churchill cũng góp lời khuyên khác. Cụm từ “đầu hàng vô điều kiện” làm ông bối rối; nó có thể dẫn đến sự tổn thất to lớn sinh mạng người Mỹ. Bộ không thể diễn tả nó dưới một hình thức khác để các Đồng minh đạt được “tất cả những tất yếu cho hòa bình và an ninh, mà vẫn để lại cho giới quân sự Nhật một ít danh dự và cho đất nước Nhật một đảm bảo sống còn, sau khi họ đã tuân thủ tất cả những biện pháp an toàn cho người chiếm đóng.”

                “Tôi không nghĩ bọn Nhật còn lại danh dự gì đâu sau trận Trân Châu Cảng,” Truman bẽ lại. “Nói cho cùng họ có điều gì đó mà họ sẵn sàng đối mặt với cái chết không tránh khỏi với một số lượng rất lớn, và điều này có thể không quá quan trọng đối với chúng ta cũng như đối với họ.”

                Chiều đó Truman gặp Stalin. Tổng thống không đề cập đến quả bom, nhưng Stalin có một mật tin để tiết lộ mà Trumann đã biết. Vị Generalissimo trao cho ông thông điệp mật yêu cầu Ông hoàng Konoye được đón tiếp với tư cách đặc sứ hòa bình.  Stalin tự hỏi liệu ông ta có nên phớt lờ nó hay không; Liên bang Xô viết “rốt cuộc” cũng sẽ tuyên chiến với Nhật Bản.    

            * Szilard còn đi xa hơn khi trong bản nháp ban đầu của thỉnh nguyện thư, kêu gọi cấm triệt việc sử dụng bom nguyên tử: “Một khi chúng được giới thiệu như là một công cụ của chiến tranh thật khó không bị cám dỗ trong việc sử dụng chúng. . . Do đó một quốc gia đã đặt ra tiền lệ sử dụng sức mạnh được giải phóng mới mẻ này của tự nhiên vì mục đích hủy diệt này phải chịu trách nhiệm là đã mở cánh cửa đến một kỷ nguyên tàn phá với mức độ không thể tưởng tượng được.”

                Một ít đồng nghiệp của ông ký chứng thực bản nháp này trên cơ sở là nếu quả bom không được sử dụng họ sẽ bị kết tội vì cho phép chiến tranh tiếp diễn và sự tàn sát cứ nối tiếp. Những người khác không hoàn toàn đồng ý với Szilard và thảo ra thỉnh nguyện thư của riêng mình. Một bản như thế kết luận: “Tóm lại, chúng ta có phải để cho máu của dân Mỹ tiếp tục đổ xuống khi chúng ta sở hữu một phương tiện đi đến chiến thắng nhanh chóng không? Không! Nếu chúng ta có thể cứu vớt thậm chí một nhóm nhỏ mạng sống người Mỹ, thì cũng phải sử dụng vũ khí này-ngay bây giờ!”

                   Một cách ngây thơ Truman bảo ông ta cứ làm những gì ông cho là tốt nhất. Stalin đề nghị ông ta sẽ “ru ngủ” người Nhật: thế nào nếu ông ta bảo với chính phủ Nhật là thông điệp đó quá mơ hồ về chuyến thăm của Konoye nên ông ta không thể đưa ra câu trả lời cụ thể?

                Và thế là tùy viên của Molotov ở Moscow, Alexander Lozovsky, sau khi bắt Đại sứ Sato đợi cả năm ngày, cuối cùng gởi cho y một mật điện: Đề nghị của Nhật Hoàng quá mơ hồ và sứ mệnh của Ông Hoàng Konoye không rõ ràng nên chính phủ của ông cảm thấy không thể trả lời dứt khoát cho bất kỳ câu hỏi nào. Sato gởi tiếp báo cáo về Tokyo với lời khẩn cầu được chấp nhận hòa bình trên bất kỳ điều kiện nào miễn là Nhật Hoàng còn tại vị trên ngai vàng:

                TÔI BIẾT RẰNG SẼ LÀ MỘT TRỌNG TỘI KHI DÁM ĐƯA RA NHỮNG PHÁT BIỂU NHƯ THẾ, DÙ BIẾT CHÚNG TRÁI VỚI NHỮNG QUAN ĐIỂM CỦA CHÍNH PHỦ. TUY NHIÊN, LÝ DO TÔI DÁM LÀM VẬY LÀ VÌ TÔI TIN TƯỞNG RẰNG CHÍNH SÁCH DUY NHẤT ĐỂ QUỐC GIA CHÚNG TA SỐNG CÒN PHẢI TRÙNG KHỚP VỚI NHỮNG Ý TƯỞNG NÀY.

                Nhưng các cấp trên của ông ở nhà vẫn chưa sẵn sàng đi xa đến thế, và nếu có, thì trước tiên người Mỹ phải đưa ra những đảm bảo liên quan đến Nhật Hoàng.

                Tại Thụy Sĩ, tuy nhiên, Per Jacobsson tỏ ra cương quyết hơn bao giờ để mở lại kênh thương thuyết. Cuối cùng ông đã khắc phục thành công  sự miễn cưỡng của Tướng Okamoto để tin cậy vào những lời hứa hẹn nào của người Mỹ không phải trên văn tự – bằng lối ngụy biện: người Mỹ đã đi ngược với những lời hứa trên giấy tờ sau Thế chiến I; giờ đây họ đang khước từ việc hứa hẹn trên giấy vì họ dự tính sẽ giữ lời. Điều này gợi nhớ đến lô-gic của Đông phương và Tướng Okamoto đồng ý điện về Tokyo một “đề nghị mạnh mẽ” nhằm chấm dứt chiến tranh.

                Như một kết quả của hành động tích cực của Okamoto Allem Dulles bay đến Potsdam để bước đầu báo cáo với Stimson về việc thương lượng của người Nhật. Dulles không mong một đáp ứng tức thì, và cũng không nhận được nó. Ông ta hài lòng, dù sao đi nữa, là khả năng rất thực về cuộc thương thảo qua Okamoto đã được  đến “những khu vực quyền hành của Hoa Kỳ một cách đúng lúc và tôi nghĩ, một cách hiệu quả.” Nhưng các nhà lãnh đạo Mỹ, giờ đang thủ đắc vũ khí tối thượng, đã cương quyết chỉ chấp nhận không gì ngoài việc đầu hàng vô điều kiện, và không còn khả năng xem xét những thỏa thuận thậm chí như những người Nhật có đầu óc hiếu hòa nhất quan sát chúng.

                Vào ngày 21/7 Stimson đọc lớn cho Truman và Byrnes một báo cáo chi tiết từ những nhân chứng mô tả cảnh tượng đáng sợ ở Alamogordo. Cả hai đều “vô cùng hài lòng” và Truman thì “phấn khích cùng tột.” Sáng hôm sau Stimson mang báo cáo đến cho Churchill, và ông ta vô cùng hớn hở. Thủ tướng cúi người về phía trước. “Stimson, thuốc súng là loại gì đó?” ông vừa hỏi vừa vung vẩy điếu xì gà. “Tầm thường. Loại điện gì? Vô nghĩa. Quả bom nguyên tử này là Chúa Phục sinh trong cơn thịnh nộ.” Bổng ông nhớ lại điều gì đó vui thích. “Giờ thì tôi biết điều gì xảy ra với Truman ngày hôm qua. Vậy mà lúc đó tôi đã không hiểu ra. Khi ông ta trở lại

buổi họp sau khi nghe báo cáo này ông ta là một con người đổi khác. Ông dạy người Nga thế này thế kia và gần như là làm chủ toàn phiên họp.” Sự phấn khích của ông vượt quá niềm vui thành tựu khoa học. Vậy là không còn cần phải mở cuộc xâm chiếm Nhật Bản. “Giờ toàn bộ bức tranh đầy ác mộng đã tan biến,” sau này ông viết. “Thay vào đó là cảnh tượng-đẹp và sáng-của sự kết thúc toàn bộ cuộc chiến trong một hoặc hai cú sốc dữ dội. . . Hơn nữa, chúng ta không cần đến người Nga.”

                Đối với Churchill và Truman, quyết định thả bom đã được đưa ra. Nhưng ba nhà quân sự Mỹ vẫn tiếp tục thảo luận các biện pháp. Vượt qua sự dè dặt có tính đạo lý, Đô đốc Leahy ngờ rằng các nhà khoa học và những người trong chương trình muốn sử dụng quả bom “vì số tiền quá lớn đã được tiêu tốn cho dự án.” Tướng Arnold cam đoan là chỉ cần bỏ bom qui ước cũng đủ kết thúc cuộc chiến, ngay cả khi Marshall khăng khăng là sử dụng quả bom hoặc tiến hành cuộc xâm chiếm tốn kém. Tướng Dwighjt Eisenhower cũng chống đối quyết liệt kết luận của Marshall. Ông bảo riêng với Stimson là Nhật Bản đã thua trận. Bỏ quả bom đó là hoàn toàn không cần thiết.” Hơn nữa, người Mỹ cần tránh khiêu khích sự kết án của thế giới bằng cách sử dụng một vũ khí mà, theo ý kiến ông, “không còn là biện pháp bắt buộc để cứu sinh mạng lính Mỹ.”

                Vào tối ngày 23/7, Churchill là chủ của buổi chiêu đãi. Nhiều vụ nâng cốc uống mừng và diễn văn bị Ban nhạc Không lực Hoàng gia lấn át. Tinh quái, Churchill thì thào với Leahy là đây cách ông trả đũa khi bị “làm buồn chán đến phát khóc” bởi thứ âm nhạc cổ diển tại buổi chiêu đãi của Truman và Stalin.

                Tổng thống nói ông hi vọng mình đã công tâm tại cuộc hội nghị và sẽ nỗ lực để được như thế trong tương lai. Ngay lập tức Stalin đứng dậy. “Trung thực là trang sức của bậc nam nhi,” ông nói và dài dòng chúc tụng Truman. King dựa người qua Mora và thì thầm, “Nhìn Tổng thống kìa. Tất cả việc này đều mới mẻ với ông ta, nhưng ông ta có thể đảm đương được. Ông là người Mỹ điển hình hơn cả Roosevelt, và ông ta sẽ làm tốt công việc, không chỉ cho Hoa Kỳ mà còn cho toàn thế giới.”

                TIệc uống mừng càng lúc càng dạt dào. Churchill xưng tụng nhà lãnh đạo Xô viết là Stalin Vĩ đại, và bù lại Stalin làm cử tọa giật mình với câu “Hẹn gặp gỡ lần tới tại Tokyo!” Sau bữa tráng miệng Stalin bắt đầu đi vòng quanh bàn tiệc lớn thu thập thủ bút trên tờ thực đơn của ông ta.

                Xét về giao tế buổi tiệc chiêu đãi là một thành công hoàn toàn, nhưng sáng hôm sau lại sống lại những mối hoài nghi về sự thống nhất tiếp tục của Ba Ông Lớn. Field-Marshal Brooke, giờ đã là Lord Alanbrooke, ghi chú mấy dòng u ám trong nhật ký của mình: “Một sự kiện nổi bật rõ ràng hơn hết là không có gì được dàn xếp!” Ba Ông Lớn không còn kéo lại gần nhau bằng mối ràng buộc của một lý tưởng chung.

                Truman bắt đầu buổi sáng với các tin tức cho biết quả bom sẽ sẵn sàng vào khoảng 4-5 tháng tám, chắc chắn không trễ hơn 10/8. Trước buổi ăn trưa ông nhận được báo cáo cuối cùng của các Tham mưu Trưởng Phối hợp, yêu cầu Nga tham gia cuộc chiến càng sớm càng tốt để mau chóng dẫn đến việc đầu hàng sớm nhất của Nhật Bản. Kết luận này phản ánh thái độ bảo thủ của họ về thứ vũ khí chưa được thử nghiệm. Ngoại trưởng Byrnes, tuy nhiên, không hề nghi ngại. Như Churchill, ông cho rằng quả bom là một phương thức để kết thúc cuộc chiến. Nó khiến sự tham gia của Nga, vốn chắc chắn sẽ gây thêm rắc rối cho những dàn xếp hậu chiến, là không cần thiết. Vào buổi ăn trưa ông thuyết phục được Truman đồng ý là khi loan báo cho Stalin biết về quả bom, ông sẽ loan báo một cách bất chợt như không hề có chủ đích. Nếu khác đi thì vị Tổng Tư Lệnh có thể nhận ra nội dung đầy đủ của nó và chuyển quân vào Mãn châu chống lại quân Nhật trước thời hạn ông ta đã hứa – “đầu tháng tám.” *

                Sau khi phiên họp chiều đó tạm dừng, Truman kéo Stalin ra một bên và nói ra một cách thản nhiên, không sử dụng từ “hạt nhân” hay “nguyên tử”, rằng người Mỹ có “một vũ khí mới có sức tàn phá bất thường.”

Và cũng thản nhiên không kém Stalin đáp lại là ông rất vui khi nghe được tin này và hi vọng người Mỹ sẽ “sử dụng nó hiệu quả để chống lại bọn Nhật.” * 

                * Trong vòng hai giờ các Tham mưu Trưởng Phối hợp sẽ nghe Tướng Alexei E. Antonov, Tham mưu Trưởng Hồng Quân, thông báo rằng “Quân đội Xô viết giờ đang tập trung ở vùng Viễn Đông và sẽ sẵn sàng bắt đầu chiến dịch chống quân Nhật vào nửa cuối tháng tám. Tuy nhiên, thời điểm thực sự còn tùy thuộc vào kết quả cuộc hội đàm với các đại biểu Trung Quốc hiện thời vẫn chưa kết thúc.”                    

 

            Churchill, người chia sẻ với ý kiến của Byrnes muốn tách Nga ra khỏi Á châu, rụt rè tiến đến Truman. “Việc đó thế nào?” ông hỏi một cách bí ẩn.

            “Ông ta không hỏi gì cả.”

            Trong vòng 24 giờ lệnh vận hành thả quả bom nguyên tử đầu tiên đang trên đường đến Tướng Carl A. Spaatz, tư lệnh mới của Không lực Chiến lược:

            Nhóm Hổn hợp 509, Không lực thứ 20 sẽ giao quả bom đặc biệt đầu tiên ngay khi thời tiết cho phép bom được thả xuống bằng mắt sau ngày 3 tháng 8 năm 1945 vào một trong các mục tiêu: Hiroshima, Kokura, Niigata và Nagasaki. Để mang theo nhân viên khoa học và quân sự từ Bộ Chiến tranh nhằm quan sát và ghi chép về những hiệu quả của vụ nổ bom, phải có thêm phi cơ đồng hành cùng máy bay chở bom. Các phi cơ quan sát sẽ duy trì vị trí cách điểm va chạm của quả bom vài dặm.  .  .

                Một ngày sau đó tuần dương hạm trọng tải nặng Indianapolis bỏ neo cách bờ biển đảo Tinian trong Marianas một ngàn mét. Nhiều tàu nhỏ bu quanh con tàu chiến, và các sĩ quan cao cấp thuộc mọi ban ngành leo lên boong tàu dể theo dõi việc bốc dỡ một hàng hóa tối mật, một ống kim loại khoảng 18 in-xơ đường kính và cao 2 bộ – trái tim của quả bom nguyên tử đầu tiên. Nó cân nặng vài trăm cân và chứa U-235, một chất dẫn suất của uranium, bọc bằng chì. Tình huống trọng đại bị làm hỏng do một tính toán sai lầm nhỏ nhặt. Dây kéo tời dùng hạ thấp ống kim loại xuống chiếc tàu đổ bộ ngắn hơn 6 bộ, khiến các binh sĩ cười chế nhạo các thủy thủ. Nhưng rồi cuối cùng công việc tế nhị cũng hoàn tất và U-235 đến bờ biển bình yên. Trách nhiệm nghiêm trọng của Indianapolis đã xong. **

                       Vào 25/7 đảng Lao động thách thức cương vị lãnh đạo của Churchill tại cuộc đầu phiếu lần đầu tiên kề từ lúc chiến tranh bắt đầu. Churchill bay về nhà, và mặc dù vẫn còn tin tưởng đảng Bảo thủ của mình sẽ chiếm đa số có thực trong cuộc bầu cử, ông mang theo bên mình một linh cảm không tốt. “Tôi mơ thấy mình đã chết,” ông bảo với Moran. “Tôi ngồi-giấc mơ thật sống động-thi thể của tôi nằm trên bàn bên dưới tấm khăn trải bàn màu trắng trong căn phòng trống không của mình. Tôi nhận ra bàn chân trái của mình ló ra từ dưới tấm khăn trải bàn. Trông như thật.” Sau đó ông thêm, “Có lẽ đây là lúc kết thúc.” Ông lên giường ngủ vẫn còn tin tưởng vào chiến thắng nhưng tỉnh giấc “với một cú đâm đau nhói.” Thình lình ông bổng tin chắc là mình sẽ bị đánh bại và nghĩ: “Quyền hành dể tạo hình cho tương lai không còn nằm trong tay tôi nữa. Kiến thức và trải nghiệm mà tôi đã thu thập được, uy tín và thiện chí mà tôi đã gặt hái được trong nhiều xứ sở, tất cả rồi sẽ biến mất.

            Quả bom đang ở Tinian, các lệnh sử dụng đảo này đều bị cắt đứt. Giờ tất cả việc còn lại là gởi đi cảnh báo cuối cùng cho Nhật Bản, Tuyên bố Potsdam ***. Vào ngày Churchill thất cử, Tổng thống Truman cho Phòng Tin tức Chiến tranh ở Washington phát đi thông điệp công khai đến Nhật Bản. Nó đe dọa “sự tàn phá khủng khiếp đất nước Nhật Bản” trừ khi Nhật chịu đầu hàng vô điều kiện, nhưng không đề cập đến quả bom

                * Vào năm 1946  Alexander Werth, thông tín viên chiến tranh ở Liên bang Xô viết cho Sunday Times ở London, hỏi Molotov không biết người Nga có được thông báo về quả bom tại hội nghị Potsdam hay không. Molotov giật mình, suy nghĩ một lúc rồi đáp: “Đó là một đề tài tế nhị, và cậu trả lời cho câu hỏi của anh là cả Có và Không. Chúng tôi được báo về một ‘siêu bom’, về một quả bom mà ‘cái tương tự như thế chưa hề được nhìn thấy’; nhưng từ nguyên tử không được dùng đến’”.

                ** Không đầy bốn ngày sau đó tàu Indianapolis bị bắn trúng ba ngư lôi phóng ra từ tàu ngầm I-58 do Trung úy  Mochitsura Hashimoto chỉ huy. Nó chìm sau 12 phút. Không có phao cứu sinh và ít bè cứu sinh. Thật khó tin, tàu Indianapolis không được nghe thấy gần như đến bốn ngày và kết quả chỉ có 316 trong số thủy thủ đoàn 1,196 được cứu sống. Đó là thảm họa trên biển gây tranh cãi nhất trong lịch sử hải quân Hoa Kỳ.

           nguyên tử; cũng không hề chứa đoạn văn về sự duy trì Nhật Hoàng. Nó giới hạn nền quân chủ Nhật Bản nằm trên bốn đảo chính, nhưng có hứa hẹn là nhân dân Nhật sẽ không “bị nô lệ như một chủng tộc hoặc bị tàn phá như một quốc gia” và sẽ được phép sử dụng tài nguyên. Hơn nữa, lực lượng chiếm đóng sẽ rút đi ngay lập tức ngay khi trật tự mới được thiết lập và có bằng chứng thuyết phục là các khả năng gây chiến của Nhật Bản đều bị hủy diệt.

                Trung Hoa và Anh đã tán thành tuyên bố, nhưng đến đêm người Nga mới được nhận được bảng tuyên bố. Có thể hiểu được họ ngạc nhiên và bực tức. Ngay lập tức Molotov gọi điện yêu cầu việc phát đi bảng tuyên bố hoãn lại một ít ngày. Quá trễ, Byrnes trả lời rất tiếc, nó đã được phát ra. Ông vội vàng nói thêm, “Tôi nghĩ rằng việc tham vấn với Liên bang Xô viết về tài liệu ấy là không thích hợp vì chính phủ của ngài không lâm chiến với Nhật Bản.

                Các máy thu của Nhật bắt được sóng phát thanh của lời tuyên bố vào buổi sáng 27/7, giờ Tokyo. Phản ứng đầu tiên của Togo là “hiển nhiên đó không phải là lệnh đầu hàng vô điều kiện.” Có lẽ Đồng minh giờ đã biết được bản thân Nhật Hoàng là mong muốn hòa bình nên họ mới dịu giọng như vậy. Tất nhiên, cũng có một số điều mơ hồ hiển nhiên là cần phải bước vào thương thảo với Đồng minh để làm rõ và “duyệt xét lại – thậm chí dù là điều nhỏ nhặt-những điểm bất lợi trong bảng tuyên bố.” Ông ta báo cáo ngay lập tức lên Nhật Hoàng thúc giục tối hậu thư “nên được xử lý với sự thận trọng cao nhất, ở quốc nội cũng như quốc ngoại. Ông đặc biệt lo lắng điều gì có thể xảy ra nếu Nhật Bản cho người ta biết là mình dự định bác bỏ nó. Trong những báo cáo tiếp theo gởi đến Sáu Ông Lớn và sau đó đến toàn bộ Nội các, Togo đề nghị toàn bộ tiến trình như đã phác họa cho Nhật Hoàng. Đô đốc Toyoda phản pháo là họ nên ban hành ngay lập tức một tuyên bố là “chính phủ coi bảng tuyên bố như là một điều vô lý và sẽ không cứu xét nó.”

                Thủ tướng Suzuki ủng hộ Togo, nhưng mọi người đồng ý là bảng tuyên bố phải được loan tin trên báo chí. Phe quân sự muốn chính thức bác bỏ nó khi bảng tuyên bố xuất hiện trên mặt báo, nhưng Suzuki đề nghị là họ cứ phớt lờ tối hậu thư. Một thỏa hiệp cuối cùng đạt được: họ sẽ cho phép báo chí in một phiên bản đã được kiểm duyệt, không có lời bình luận hoặc chỉ trích.

                Vào buổi sáng, tuy nhiên, một vài tờ báo không đếm xỉa gì đến những chỉ thị và cho đăng bài chính luận, khiến Bộ Ngoại giao bực dọc. Báo Mainichi chạy tít lớn CHUYỆN NỰC CƯỜI và báo Ashahi Shimbun tuyên bố: “Vì bảng tuyên bố chung của Mỹ, Anh và Trùng Khánh không có gì to tát, nó chỉ làm quyết tâm của chính quyền dâng cao để tiến hành cuộc chiến về phía trước không lay chuyển cho đến thắng lợi cuối cùng!’

                Togo cho rằng phe quân sự phải chịu trách nhiệm-các chủ biên tập tự mình không bao giờ có đủ can đảm thách thức chính quyền – và họ phản pháo lời kết tội của ông bằng cách nhấn mạnh lại là bảng tuyên bố nên bị bác bỏ một cách chính thức. Một lần nữa thỏa thuận lại đạt được: Thủ tướng sẽ đọc một phát biểu xem thường các điều khoản của Đồng minh nhưng không bác bỏ chúng. Đúng bốn giờ Suzuki nói với cánh báo chí, “Tuyên bố Potsdam, theo ý kiến tôi chỉ là sự xào nấu lại Tuyên bố Cairo, và do đó chính phủ không coi tuyên bố có tầm quan trọng lớn lao. Chúng ta phải mokusatsu nó.” Từ đó có nghĩa đen là “thủ tiêu” nhưng khi sau đó Suzuki kể lại cho con trai mình, ông sử dụng nó thay cụm từ tiếng Anh “Miễn bàn.” Mà trong tiếng Nhật không

có từ tương đương. Tuy nhiên người Mỹ hiểu theo nghĩa của tự điển là: “phớt lờ” và “xử sự với sự khinh bỉ im lặng.” Ngày 30/7 New York Times chạy tít trên trang đầu: NHẬT BẢN CHÍNH THỨC BÁC BỎ TỐI HẬU THƯ ĐẦU HÀNG VÔ ĐIỀU KIỆN CỦA ĐỒNG MINH.

            ***  Bộ Ngoại giao phân biệt rõ giữa Potsdam Proclamation (tài liệu 26/7 yêu sách Nhật Bản đầu hàng vô điều kiện) với                 Potsdam Declaration (tuyên bố chính sách của Đồng minh liên quan đến Âu châu), mặc dù cả hai thường được gọi  chung là                “declaration” (tuyên bố).

                Vậy là việc sử dụng bom nguyên tử là không thể tránh khỏi, nhưng đối với người Mỹ vẫn còn một câu hỏi bỏ ngỏ: “Liệu người Nga có tuyên chiến trước khi quả bom mang đến sự đầu hàng nhanh chóng của Nhật không? Chỉ vài ngày trước, Tướng Antonov đã hoãn lại cuộc tiến công cho đến “nửa cuối tháng tám.” Giờ đây, sau khi tuyên bố đã phát đi, Molotov thúc giục một bức thư chính thức mời Nga tham gia vào cuộc chiến. Truman chần chừ 48 giờ nhưng cuối cùng, vào ngày cuối cùng của tháng bảy, gởi cho Stalin bản phác thảo lời mời mơ hồ nói rằng “Sẽ là thích đáng nếu Liên bang Xô viết cho thấy mong muốn tham vấn và hợp tác với các siêu cường khác đang lâm chiến với Nhật Bản với một quan điểm liên kết hành động vì lợi ích của cộng đồng thế giới là duy trì hòa bình và an ninh.”

                Trong một ghi chú che đậy, nhằm nỗ lực chuyển gánh nặng sáng kiến về phía người Nga Truman nói rằng ông sẽ gởi một bản sao chính thức, có chữ ký sau khi Stalin đã đi đến thỏa thuận với Tưởng Giới Thạch. “Nếu ngài quyết định sử dụng nó, thế thì tốt. Tuy nhiên, nếu ngài quyết định đưa ra một phát biểu biện minh cho hành động của mình trên một cơ sở khác hoặc vì bất kỳ một lý do nào khác tốt hơn là đừng sử dụng bức thư này, đối với tôi điều đó cũng không sao. Tôi để ngài tự suy xét.”

                “Terminal” đã xong. Truman, Atlee và Stalin bề ngoài biểu lộ sự hài lòng của mình, nhưng bên dưới là bầu không khí thờ ơ và bất mãn. Truman, ngờ vực các động cơ của người Nga, trong lòng quyết tâm không cho phép họ “có vai trò gì trong việc kiểm soát Nhật Bản” hoặc tiết lộ bất cứ điều gì về quả bom cho đến khi đạt được một thỏa thuận nào đó về quyền kiểm soát và thanh sát. “Mẹ không bao giờ biết có ai ngoan cố như bọn Nga đâu,” ông viết cho mẹ mình. “Con hi vọng sẽ không dự một cuộc họp nào khác với họ nữa-nhưng, tất nhiên, con phải dự thôi.”

                Leahy tự hào trước cách thức Truman đương đầu với Stalin, đặc biệt trong việc từ khước “bị thúc ép vào những thỏa thuận bồi thường sẽ lặp lại lịch sử của Thế Chiến I,” nhưng việc Xô viết tiếp tục chống đối về những đề nghị quan trọng đến hòa bình tương lai của Âu châu đã khiến đô đốc “nghi ngại nghiêm trọng là bất kỳ hiệp ước hòa bình nào mà chính quyền chúng ta chấp nhận được khó có thể thương lượng.” Byrnes cũng tỏ ra bất mãn. NHững nhượng bộ mà Stalin thắng được là do người Nga tiến hành thực hiện việc mặc cả về phần họ và vào lúc này Byrnes “không mấy tin cậy lời cam kết của họ.”

                “Terminal” đã trao cơ hội duy nhất cho những người chiến thắng trong cuộc chiến mang đến trật tự và công lý mới trong một thế giới sâu xé bởi xung đột kéo dài một thập kỷ. Tuy nhiên, thay vào đó, nó tạo ra những xung đột mới trong thời hậu chiến.

 

3

                Tại Moscow, Đại sứ Sato một lần nữa cố gắng thuyết phục Tokyo là Liên bang Xô viết không có ý định can thiệp vì lợi ích của Nhật Bản:

                . . . TÔI TIN TƯỞNG RẰNG STALIN CẢM THẤY TUYỆT ĐỐI KHÔNG CẦN THIẾT PHẢI THỎA THUẬN TỰ NGUYỆN VỚI NHẬT BẢN. VỀ ĐIỂM NÀY TÔI THẤY CÓ SỰ BẤT CẬP NGHIÊM TRỌNG GIỮA QUAN ĐIỂM CỦA NGÀI VÀ HIỆN TÌNH.

                Nhưng các nhà lãnh đạo Nhật không thể đối diện với sự thật. Họ hình như bị tê liệt khi bám vào niềm tin mơ mộng là Liên bang Xô viết đến hổ trợ Nhật Bản. Thậm chí Kido người vốn có đầu óc thực tiễn trông chờ câu phúc đáp thuận lợi một khi Molotov và Stalin về đến Moscow. Togo tiếp tục thúc ép Sato:

                . . . TÔI YÊU CẦU PHẢI NỖ LỰC NHIỀU HƠN NỮA NHẰM LÀM CHO LIÊN BANG XÔ VIẾT NHIỆT TÌNH VỚI PHÁI BỘ ĐẶC BIỆT . . . VÌ ĐÁNH MẤT MỘT NGÀY ĐỐI VỚI VẤN ĐỀ HIỆN NAY CÓ THỂ LÀM CHÚNG TA PHẢI HỐI TIẾC TRONG MỘT NGÀN NĂM, TÔI YÊU CẦU ÔNG NGAY LẬP TỨC NÓI CHUYỆN VỚI MOLOTOV.

                Trong khi người Nhật hi vọng trông chờ Nga giải quyết vấn đề của họ, quả bom nguyên tử đầu tiên đả sẵn sàng được giao, chỉ đợi thời tiết tốt, và những quả bom khác đang trên đường đi. Thay vì thăm dò hòa bình với một nước Nhật đang tuyệt vọng tìm kiếm nó, các nhà lãnh đạo Mỹ quyết tâm chấm dứt chiến tranh ngay tức khắc – và trả thù cho nổi ô nhục Trân Châu Cảng cũng như cho vô số tội ác dã man họ đã phạm phải trên khắp Thái Bình Dương – với một vũ khí đã nặng nề thêm vì tranh cãi.

                Quả bom được lắp ráp trong một lều bom có máy điều hòa nhiệt độ trên Tinian vào ngày đầu tháng tám. Nó dài 10 bộ (khoảng 3 mét) và có đường kính 28 in-xờ (khoảng 71 cm), ngoại trừ kích thước, nó trông giống một quả bom thường.

                Những người có nhiệm vụ bỏ nó, Nhóm 509, đã được huấn luyện trong vòng bí mật mà chỉ có chỉ huy của họ, Đại tá Paul W. Tibbets Jr, biết sứ mạng của họ là gì. Khu vực của họ có hàng rào kẻm gai bao quanh và được bảo vệ bằng súng máy. Một vị tướng cũng phải cần có giấy phép mới vào được.

                Với tất cả biện pháp an ninh nghiêm nhặt, Nhóm 509 hình như không có việc gì để làm. Thỉnh thoảng họ bay đi thành đoàn ba máy bay để ném một quả bom đơn lẻ trên lãnh thổ kẻ thù. Họ bị các đơn vị khác trên đảo cười nhạo. Một người châm biếm nặc danh viết về họ:

                                                Vào không trung sự bí mật bay lên,

                                                Họ đi đến đâu, không ai hay biết.

                                                Ngày mai họ lại trở về,

                                                Nhưng chúng ta không hề biết họ đã ở đâu.

                                                Đừng hỏi tôi về kết quả hoặc điều gì như thế,

                                                Trừ khi bạn muốn gặp rắc rối.

                                                Nhưng theo lời của một người hiểu chuyện,

                                                Nhóm 509 đang đánh thắng cuộc chiến.

                Vào buổi sáng ngày 5/8, thời tiết được dự báo là thuận lợi cho việc cất cánh sau nửa đêm. Đêm hôm trước Đại úy William Parsons, một chuyên gia quân nhu có trách nhiệm nạp bom, đã chứng kiến bốn máy bay B-29 rơi liên tiếp khi cất cánh. Ông bảo với Tướng Thomas Farrel, chỉ huy dự án bí mật, rằng nếu phi cơ chở bom không cất cánh an toàn, một vụ nổ nguyên tử có thể bùng phát phá hủy toàn bộ đảo.

                “Chúng ta sẽ phải cầu nguyện cho chuyện ấy đừng xảy ra.”

                “Này, nếu tôi đứng ra lắp ráp quả bom ở giai đoạn cuối sau khi bay ra khỏi đảo, thì việc đó sẽ không xảy ra.” Farrel hỏi trước đây ông ta có bao giờ lắp ráp một quả bom trong những điều kiện như thế này chưa. “Chưa, nhưng tôi có nguyên một ngày để thử mà.”

                “Thế thì hãy thử coi.”

                Vào  buổi chiều tối quả bom, được viết nguệch ngoạc trên đó những thông điệp gởi Nhật Hoàng, được

lăn khỏi khu nhà có điều hòa không khí vào ánh nắng chói chang và chuyển đến khoang đựng bom của chiếc B-29 có tên mẹ của Đại tá Tibbets là Enola Gay. Lúc hoàng hôn Parsons leo vào thân máy bay ngột ngạt. Ngồi xổm cạnh quả bom, ông thực tập thao tác lắp ráp cuối cùng giờ này qua giờ khác.

                “Trời đất ơi,” Farrel kêu lên khi thấy bàn tay của Farrel đầy máu, “để tôi mượn cho anh một cặp bao tay da lợn. Chúng mỏng lắm.”

                “Thôi không cần. Tôi muốn cảm nhận sự tiếp xúc.”

                Vào 7:17 tối Farrel đánh điện cho Groves: CHUYÊN GIA [Parsons] SẼ NẠP BOM SAU KHI CẤT CÁNH. . . Vừa sau 10 P.M. sáu phi hành đoàn được triệu tập đến lều họp Quonset để nghe dặn dò. Họ tỉnh táo nhìm Tibbets bước lên bục. “Đêm nay là đêm mà tất cả chúng ta đã chờ đợi,” ông nói. “Những tháng dài huấn luyện giờ đang được thử nghiệm. Chúng ta sẽ sớm biết mình thành công hay thất bại. Nhờ những nỗ lực của chúng ta có thể đêm nay sẽ làm nên lịch sử.” Họ phải thả quả bom chứa sức tàn phá tương đương với 20,000 tấn TNT (Phi hành đoàn Enola Gay đã được thông báo ba ngày trước vật mà họ chở theo.) “Vì quả bom này rất mạnh, chúng ta phải sử dụng những chiến thuật khác những chiến thuật khi ta dùng những quả bom thông thường.” Ông giải thích rằng ba phi cơ khí tượng sẽ cất cánh trước tiên và bay qua ba thành phố được chọn lựa để có thể thay đổi mục tiêu ở phút cuối cùng. Một giờ sau Enola Gay, theo sau bởi hai máy bay hộ tống với các trang bị nhiếp ảnh và khoa học, sẽ bay đi. Cả ba sẽ gặp nhau lại trên bầu trời Iwo Jima một vái phút sau bình minh.

                Tại buổi chỉ dẫn cuối cùng vào nửa đêm mỗi người được phát một cặp kính bảo hộ của người thợ hàn giúp che chở cặp mắt của mình khỏi ánh sáng mãnh liệt lóe lên từ vụ nổ. Phi hành đoàn cúi đầu trong im lặng sợ sệt uống từng lời của Tuyên úy William Downey, một người theo đạo Tin Lành 27 tuổi to con: “. . . Chúng con cầu nguyện Người cho chiến tranh sớm chấm dứt, và chúng con sẽ tìm lại được hòa bình trên mặt đất. Cầu mong Ngài sẽ che chở cho những người bay đêm nay được an lành, và đem họ trở về bình yên với chúng tôi. . . “

                Đoàn người lần lượt bước trang trọng vào sảnh ăn tập thể để dùng bữa tối trước khi bay. Sau khi ba máy bay thời tiết cất cánh vào lúc 1:37 A.M., một đám đông những người đưa tiễn và nhiếp ảnh gia tề tựu chung quanh chiếc Enola Gay, và ánh đèn flash thi nhau lóe chớp, khiến một số người e sợ các du kích Nhật trong vùng đồi núi có thể điện về Tokyo về một sự kiện phi thường đang sắp xảy ra.

                Enola Gay và hai chiếc phi cơ hộ tống chạy đến đường băng. Từ tháp kiểm soát phía Bắc William Laurence, biên tập viên khoa học của tờ New York Times và là phóng viên duy nhất viết bài cho sự kiện này, chăm chú theo dõi, bên cạnh Tướng Farrel, khi Enola Gay chầm chậm ầm ầm lăn bánh xuống đường băng. Nó tăng tốc đến 180 dặm một giờ, nhưng vì trọng tải nặng, nó hình như cứ bám riết mặt đất. Những người chứng kiến, nhớ lại vụ bốn Siêu pháo đài đã rớt đêm hôm trước, rướn người như muốn tiếp sức nâng máy bay lên không.

                Tibbets đang chúc mũi xuống để tăng tốc nhưng cơ phó của ông, Đại úy Robert A. Lewis, nghĩ nó đang “ngốn đường băng hơi nhiều một chút,” và bắt đầu lấy lại áp suất cho bánh xe. Cuối cùng, khi chỉ còn cách đầu mút đường băng vài mét, chiếc phi cơ to sầm vọt lên trong bóng đêm.

                Tại tháp kiểm soát, Tướng Farrel quay sang một sĩ quan Hải quân. “Tôi chưa hề chứng kiến một máy bay chạy lấy đà nhiều như thế,” ông nói. “Tôi tưởng là Tibbets không cất cánh lên được rồi chứ.”

                Lúc đó là đúng 2:45 A.M., ngày 6/8. Đây sẽ là một ngày để nhớ.

12345

 

2 Hiroshima

1.

                Ngay khi Enola Gay leo đến độ cao 4,000 bộ (khoảng 1200 m) Đại úy Parsons hạ thấp người chui vào khoang chứa bom và trong khi phụ tá của ông, Thiếu úy Morris Jeppson, dùng đèn pin chiếu sáng quả bom, ông thận trọng gài ngòi nổ qua đuôi bom. Đã qua nửa giờ trước khi Parsons nói, “Okay, vậy là được rồi.”

                Jeppson gỡ bỏ chốt màu xanh lá ra khỏi bom, thay thế nó bằng một chốt đỏ. Mạch điện đã đóng kín; quả bom sẵn sàng được bỏ xuống. Trong khoang phía sau Tibbets cố ngủ-ông đã thức trọn 24 giờ-nhưng không thể nào nhắm mắt được, và sau 15 phút ông lại bắt đầu bò trở lại qua một ống thông hẹp dài 30 bộ (khoảng 9 mét) dẫn đến phòng trước. Xạ thủ đuôi máy bay, George R. Caron, giữ ông lại. “Này, Đại tá,” anh hỏi, “có phải hôm nay chúng ta tách nguyên tử ra không?”

                “Cậu nói gần đúng đó, Bob.”

                Tibbets đổi phiên với cơ phó của mình. Lewis rời buồng lái để ăn chút gì đó và đưa mắt nhìn những ánh đèn nhỏ màu xanh lá trên một chiếc hộp đen. Ông hỏi Parsons chúng có nghĩa “quái gì thế”. Chúng báo cho biết là quả bom ngon lành; đèn đỏ nghĩa là có trục trặc.

                Tibbets ngắm nhìn Núi Suribachi, loang lỗ vì bị oanh kích, chầm chậm hiện ra khỏi mặt biển trong ánh sáng của buổi bình minh. Ông đẩy cần gạt về phía trước và chiếc Enola Gay bắt đầu lên cao. Lúc đó là 4:52 A.M. Trong vài phút máy bay đã lên đến 9,000 bộ (khoảng 2700 mét), tại đó nó được hai phi cơ hộ tống đi theo. Phía dưới trên đảo Iwo Jima-căn cứ dự phòng khẩn cấp-Thiếu tá William Uanna, trưởng an ninh của Tibbets đang đợi. Tibbets gọi ông ta qua điện đài: “Bud, chúng tôi đang tiến đến mục tiêu.”

                Tibbets nhấc bộ đàm và bảo mọi người ở yên vị trí cho đến khi vụ oanh tạc kết thúc. Một khi Nhật ở trong tầm mắt, ông nói, những cuộc trao đổi của họ sẽ được thu băng. “Để dành cho lịch sử, vì vậy các cậu khéo giữ mồm giữ miệng. Chúng ta chở theo quả bom nguyên tử đầu tiên.”

                Hầu hết phi hành đoàn từ trước đến nay chưa hề nghe từ “nguyên tử”. Nội âm thanh của nó nghe đã ớn lạnh.

                Mục tiêu chính yếu là Hiroshima nằm ở bờ biển đông nam của Honshu, đảo chính của Nhật Bản. Từ đây, thành phố lớn thứ tám của đế chế, 120,000 dân đã được sơ tán về vùng quê, nhưng còn 245,000 người ở lại. Thành phố gần như không bị chiến tranh tàn phá. Như dân chúng ở Dresden * trước họ, các công dân Hiroshima cảm thấy là thành phố của họ sẽ an toàn vì ở đó có tổng hành dinh của Quân đoàn thứ 2 và là quân cảng quan trọng. Các lý do mà họ hi vọng mình không bị oanh tạc đi từ ngây thơ đến hợm hĩnh: họ an toàn vì họ có nhiều bà con ở Hoa Kỳ; thành phố của họ, như Kyoto, quá đẹp đến nổi người Mỹ muốn chiếm nó làm nơi cư trú sau chiến tranh; mẹ của Tổng thống Truman sống gần đó. Họ không mảy may chú ý đến 700,000 tờ truyền đơn thả xuống từ trên trời cách đây hai ngày, cảnh báo họ là thành phố của mình cùng với những thành phố khác sẽ bị xóa sổ trừ khi Nhật chịu đầu hàng ngay lập tức. Lúc 7:09 A.M. (một giờ sớm hơn giờ Tinian), còi báo động vang lên trong một phút. Đó là cảnh báo có không kích lần thứ ba kể từ nửa đêm và ít ai đến hầm trú ẩn. Còi báo động hú lên là do Straight Flush, một chiếc máy bay khí tượng có vẽ hình một tên lính Nhật bị dội xuống bồn cầu. Chiếc này bay cùng phi trình với Tibbets nếu điều kiện thời tiết tại Hiroshima khá thuận lợi. Nếu không, Tibbets sẽ bay đến Kokura hoặc Nagasaki.

            *  Thành phố của Đức gồm nhiều dân tị nạn Đức đến nương náu ở trung tâm. Vào tháng 2 năm 1945 không quân Anh Mỹ đã ném bom xuống nội thành trong ba đợt oanh tạc, phá hủy hầu như hoàn toàn trung tâm thành phố, với số thương vong     hàng trăm dân thường, phần lớn đàn bà và trẻ em, trong khi các khu công nghiệp và quân sự ở ngoại thành gần như nguyên vẹn.

 

                Từ xa Hiroshima trông như bao phủ bởi một màn sương u ám nhưng khi Straight Flush bay đến địa điểm ném bom, người cắt bom kiêm quan sát viên, Thiếu úy Kenneth Wey, có thể trông thấy Hiroshima rõ ràng qua kính nhắm bom. Nó bằng phẳng và gồm sáu đảo dài mảnh nằm trong vùng châu thổ của sông Ota. Từ 32,000 bộ (hơn 9750 mét) thành phố nom như những ngón tay của một bàn tay biến dạng. Trên mũi phía nam các bến tàu nhô ra mặt biển Inland xinh đẹp. Chính vùng châu thổ cũng được những ngọn núi nhỏ bao bọc.

                Vào lúc 7:25 Straight Flush quay trở về căn cứ của nó, Tinian, dưới hỏa lực rải rác của súng phòng không cách quá xa mục tiêu. Viên cơ trưởng, Thiếu tá Claude Eatherly, ra lệnh cho điện báo viên gởi đi thông điệp sau đây: “Mây thấp, 1 đến 3/10ths. Lượng mây giữa, 1 đến 3/ths. Thông báo: Bom ưu tiên.”

                Enola Gay đã vừa đạt đến độ cao oanh tạc gần 32,000 bộ, và cơ phó Lewis ghi chú trong sổ phi trình ông đang viết theo lời yêu cầu của thông tín viên William Laurence của báo New York Times: “Này, các bạn ơi, không còn lâu đâu.”

                Tibbets được thông báo về bức thông điệp của Eatherly và quay sang viên hoa tiêu của mình, Đại úy Theodore Van Kirk: “Là Hiroshima.” Lúc 7:50 (đồng hồ của họ chỉ 8:50) chiếc phi cơ to lớn đến đảo Shikoku. Qua khỏi đó là Honshu-và Hiroshima. Phi hành đoàn vội vã cột dây bộ áo bảo vệ của mình. Ra đa và máy IFF (Máy nhận diện bạn hay thù) bật tắt. Tàu đang bay ở chế độ tự động. Parsons báo lên phía trên cho biết đèn xanh lá vẫn cháy, rồi bò về phía trước đến phòng lái nơi ông nhìn qua vai của Tibbets xuyên qua một lỗ mở lớn giữa đám mây. Một thành phố đang phơi mình bên dưới. “Anh có đồng ý đó là mục tiêu hay không?” Tibbets hỏi.

                “Vậng,” Parsons gật đầu trả lời.

                Lúc đó là 8:09 A.M.”Chúng ta sắp tống bom đi rồi,” Tibbets thông qua bộ đàm. “Mang kính bảo hộ vào và đặt chúng lên trán. Khi bắt đầu đếm ngược, kéo kính xuống che mắt và để đó cho đến khi lóe sáng đã tắt.”

                Lewis viết thêm một hàng nữa vào sổ phi trình, ghi chép duy nhất trong chuyến bay sứ mệnh: “Sẽ có một lần tạm nghỉ ngắn trong khi chúng ta ném bom mục tiêu.”

                Máy bay công cụ, The Great Artiste, hạ thấp xuống 1,000 ya (chừng 914 mét). Máy bay hộ tống khác, Number 91, bắt đầu bay vòng để đánh dấu thời gian và vị trí cho các bức ảnh.

                Người cắt bom của Eunola Gay, Thiếu tá Thomas Ferebee, đang nhoài người về phía trước, con mắt  trái ép sát vào ống nhắm bom Norden, bộ râu mép của ông xòe ra hai bên. Lúc 8:13:30 Tibbets nói, “Phiên anh đó.” Ống nhắm bom của Ferebee yêu cầu chỉnh lại đường bay tự động khi Siêu Pháo đài hướng về tây 31,600 bộ phía trên Hiroshima với tốc độ mặt đất xấp xỉ 285 dặm một giờ. Mây bay rải rác và Ferebee có thể phân biệt rõ ràng cảnh tượng đã quá quen thuộc nhờ các bức không ảnh chụp mục tiêu-bảy phụ lưu của sông Ota tạo thành sáu đảo. Tiêu điểm, chính giữa Cầu Aioi, đang bò từ từ đến dấu chữ thập trong ống nhắm.

                “Bắt được rồi,” ông nói. Trong 45 giây ông gởi tín hiệu truyền tin thả bom qua bộ đàm. Phi hành đoàn kéo kính bảo bộ xuống-tất cả trừ hai hoa tiêu và Ferebee, người không thể mang kính bảo hộ mà nhìn qua ống nhắm.

                Lúc 8:15:17 các cánh cửa của khoang bom tự động bật mở. Việc ném bom được canh giờ bằng điện qua ống nhắm bom dựa vào thông tin Ferebee nhập vào. Ngón tay ông chực sẵn nút bật tắt sẵn sàng ấn nếu bom không được thả ra. Tiếng ra-điô bổng ngừng bặt và ông nhìn thấy quả bom thon dài rơi, đuôi xuống trước, rồi quay ngược lên và chúc mũi xuống Hiroshima. Máy bay đã trút bỏ được 9000 cân nên nhẹ hẳn và bay vọt lên trên. Tibbets quay vòng sang phải thật gắt cho đến khi lấy được 150 độ, rồi chúc mũi xuống để tăng tốc.

                Các cánh cửa khoang bom của The Great Artiste mở rộng ra và ba túi trang bị bắn ra. Gần như lập tức mổi túi bung ra một chiếc dù, treo lơ lững phía dưới là một ống hình trụ giống như một bình cứu hỏa – đó là những máy phát gởi về các dữ liệu.

                Tibbets ra lệnh mọi người “hãy bảo đảm đã đeo kính bảo hộ.” Bom được ấn định sẽ nổ trong 43 giây, và đến giây thứ 35 ông kéo kính bảo hộ mình xuống mắt.

                Hiroshima quang đãng cũng như bầu trời trên kia khi dân chúng tiếp tục với những công việc thường nhật. Những người nhìn thấy ba chiếc dù đang rơi tưởng là máy bay đã bị bắn và phi hành đoàn đang cố thoát ra hoặc tưởng rằng thêm truyền đơn được rải xuống. Một người đàn ông, nhớ mình đã thấy những tờ truyền đơn vừa qua lấp lánh trong nắng như thế nào khi rơi xuống, nên nghĩ, người Mỹ đã gởi đến chúng ta thêm những thứ xinh đẹp đây.

                Cách Cầu Aioi vài trăm ya về phía bắc (mục tiêu của Ferebee), Binh nhì Shigeru Shimoyama, một tân binh mới nhập ngũ, nhìn lên qua cặp kính dày cộm một trong những chiếc dù đang bay giạt. Cậu đứng bên ngoài doanh trại, một cấu trúc lớn bằng gỗ trước đây là nhà kho. Cậu đến Hiroshima được bốn ngày mà đã “thấy chán gần chết.” Cậu mong được trở lại Tokyo làm nghề đóng sách vỡ học sinh. Ngay lập tức một ánh sáng ửng hồng lóe lên trong bầu trời như một bóng đèn flash vũ trụ.

                Tất cả đồng hồ ở Hiroshima đều dừng lại mãi mãi ở 8:15.

                Quả bom nổ cách mặt đất 660 ya (khoảng 600 mét) thành một quả cầu lửa gần 110 ya (100 mét) đường kính. Những ai đứng trực tiếp bên dưới đều không nghe thấy gì, sau đó họ cũng không thể nhất trí cái lóe sáng pika (sét) có màu gì-xanh lam, hồng, đo đỏ, nâu sậm, vàng hoặc tím.

                Hơi nóng phát ra từ quả cầu lửa kéo dài chỉ một phần của giây nhưng nóng quá khủng khiếp (gần như 300,000 độ) đến nổi làm tan chảy bề mặt đá granit trong vòng 1000 ya kể từ tâm chấn hay điểm zero trên mặt đất- điểm trực tiếp bên dưới quả cầu lửa. Mái ngói mềm ra và đổi màu từ đen đến xanh ô liu hay nâu. Khắp trung tâm của thành phố nhiều bóng đen được in trên tường. Trên Cầu Yorozuyo mười người vĩnh viễn để lại phác họa của mình trên đường ray và bề mặt đường trán nhựa.

                Một lúc sau đến một chấn động không có ở trần gian xóa sổ tất cả trừ một số ít ngôi nhà chống động đất kiên cố trong vòng hai dặm. Ferebee gần như trúng đích, chỉ cách điểm rơi ấn định hơn 300 ya một chút (khoảng 270 mét).  

                Binh nhì Shimoyama cách điểm zero 550 ya về phía bắc. Cậu không trực tiếp phơi nhiễm với lóe sáng pika nếu không thì đã tiêu tùng rồi, nhưng luồng hơi nóng ném cậu bay vào nhà kho rộng, đẩy cậu vào cây đà của mái nhà đang sụp đổ ở đó năm chiếc đinh dài trong lưng câu giữ cậu treo lơ lững cách mặt đất vài bộ. Kính cận cậu vẫn còn nguyên vẹn.

                Năm trăm ya xa hơn về hướng bắc Đại úy Hideo Sematoo, một đại đội trưởng, vừa mới chạy lên văn phòng của mình và giờ đang tháo chiếc dây giày bốt. Tòa nhà đổ sập trên người ông và bốc cháy. Ông nhớ về bảy năm chiến đấu của mình ở Mãn châu, Trung Quốc, Singapore, Malaysia và Tân Guinea. Chết cháy khổ hơn chết trận xiết bao! “Tenno Heika banzai! (Nhật Hoàng Vạn Tuế)” ông hô to. Khi lửa cháy đến bên ông, đống đổ nát bên trên ông bổng trượt đi và ông chui ra ngoài. Nôn ói, ông nhìn lên bầu trời vàng kỳ quái. Mặt đất bằng phẳng cho đến hút tầm mắt. Mọi thứ đều biến mất-Lâu đài Hiroshima sừng sững và tổng hành dinh Quân đoàn thứ hai. Theo bản năng ông loạng choạng và lết bò về hướng nhánh chính của sông Ota. Ở đó, chen chúc dọc theo bờ sông, là hàng trăm bệnh nhân thất thần và các y tá từ Bệnh viện Quân đội. Tóc họ đều cháy sạch, da họ cháy đen xạm. Ông cảm thấy ớn lạnh.

                Cách tâm chấn 1000 ya ở bên kia, bà Yasuko Nukushina bị mắc kẹt giữa đống đổ nát của quán rượu gia đình. Ý nghĩ đầu tiên của bà là cô con gái bốn tuổi, Ikuko, đang chơi đâu đó bên ngoài. Không hiểu sao bà nghe thấy tiếng kêu của con bé bên cạnh bà: “Con sợ lắm, mẹ ơi.” Bà bảo con gái mình bị chôn và sẽ chết ở đó. Nghe thấy mình nói như thế khiến bà cào bới một cách tuyệt vọng đống đổ nát. Là một người đàn bà mảnh khảnh, chỉ cao khoảng bốn bộ 6 in-xơ, nhưng trong cơn cuống cuồng bà chui ra được sân. Chung quanh là cảnh tan hoang, Bà phần nào cảm thấy mình có trách nhiệm, quả bom “của bà” cũng tàn phá khu lân cận. Dân chúng qua lại vô cảm và lặng lẽ như người mộng du trong bộ quần áo tả tơi, ngún khói. Đó như một đám rước của vong hồn, gợi nhớ cảnh địa ngục của Phật giáo. Bà ngơ ngác như bị thôi miên cho đến khi có người chạm vào người bà. Nắm lấy tay Ikuko, bà gia nhập vào đám rước. Trong cơn hoảng loạn của mình bà có ảo giác là hàng ngàn máy bay đang vần vũ trên bầu trời và thi nhau ném bom không ngừng nghỉ. 

                Một ngàn bốn trăm ya cách điểm zero về phía đông tại tu viện Cơ đốc giáo duy nhất trong thành phố, Cha Bề trên Hugo Lasalle, một người Đức, nghe tiếng phi cơ bay trên đầu. Ông ra đến cửa sổ. Bầu trời không mây bổng lóe sáng vàng-và trần nhà rơi xuống. Bị thương và chảy máu, Cha Lasalle lần mò ra đến đường phố. Trời tối sầm. Toàn bộ thành phố bao phủ bởi một màn bụi. Với một tu sĩ Đức khác ông bắt đầu lục lọi qua đống gạch vụn để tìm kiếm các cư dân của tu viện.

                Sáu đoạn phố về phía nam, Michiko Yamaoka 15 tuổi vừa ra khỏi nhà để đi làm tại văn phòng điện thoại. Cô nhớ “một ánh chớp đèn flash,” rồi một giọng nói nghe xa xăm gọi “Michiko!” Mẹ của cô. “Con đây,” cô trả lời nhưng không biết mình ở đâu. Cô không nhìn thấy được – chắc cô đã bị mù! Cô nghe tiếng mẹ la lên “Con gái tôi bị chôn dưới này!” Một tiếng nói khác, tiếng một người đàn ông, khuyên người mẹ hãy tránh hỏa hoạn đang quét xuống đường phố. Michiko van xin mẹ hãy tự cứu mình và nghe thấy tiếng bước chân chạy mất hút vào im lặng. Cô sắp sửa phải chết. Rồi một tia cột ánh sáng rọi vào khi khối bê tông được đẩy sang một bên bởi các chiến sĩ. Mẹ cô người đầy máu, một tay bị lệch vì một thanh gỗ đè. Bà ra lệnh Michiko chạy thoát. Chính bà thì ở lại để cứu hai người thân dưới đống đổ nát của nhà họ.

                Michiko di chuyển qua một thế giới của ác mộng-qua các thi thể cháy đen-một bé đang khóc bị kẹt cứng dưới những khung sắt cong queo của một tòa nhà bê tông cốt sát sụp đổ. Cô thấy ai đó quen mặt và kêu lên.

                “Chị là ai?” cô gái khác hỏi.

                “Michiko.”

                Người bạn nhìn chằm chằm vào cô. “Mũi và chân mày bạn đâu mất rồi!”

                Michiko rờ mặt mình. Mặt cô bị sưng phồng đến nổi mũi cô như đã biến mất.

                Trong cùng khu vực, 350 thiếu nữ từ Trường Nữ Thương Mại đang làm việc trên một miếng đất trống trải, dọn sạch để làm khu tản cư. Họ mặc mompei và áo vét xanh da trời nhưng không đội nón, và người nào mà tò mò quay nhìn pika-gần 300 cô cả thảy- chết ngay lập tức. Chỉ riêng có Miyoko Matsubara 12 tuổi theo bản năng dấu mặt vào trong cánh tay. Cô tỉnh lại trong nổi hoang vu không thể tưởng tượng được-không người, không nhà cửa-chỉ có những đổ nát vô hạn. Chiếc mompei của cô đâu rồi? Tất cả thứ cô mặc quanh eo là một dây nịt trắng và nó đang bắt lửa. (Người nào mặc y phục đen phơi nhiễm trước pika sẽ bị phỏng nhiệt đầu tiên nhưng cái lóe sáng tàn khốc lại phản chiếu vô hại với chất liệu trắng.) Cô liền lấy bàn tay phải phủi tắt ngọn lửa nhưng bổng khiếp đảm khi thấy từng lớp da, da của cô, bóc ra lủng lẳng.

                Bà Tomita đã hạ sinh một bé gái sáng hôm đó. Cùng với chồng, Torao, bà đang trầm trồ đứa con gái mới sinh, Hiroko, khi một lóa sáng khủng khiếp lấp đầy cửa sổ. Bà Tomita nhớ nghe một tiếng rít trước khi bất tỉnh. Bà tỉnh dậy thấy mình nằm trên sàn nhà. Chồng bà đã đi rồi. Bé sơ sinh trong y phục đỏ nằm phía trên một máy khâu-vẫn còn sống nhưng im tiếng một cách không tự nhiên. Bà Tomita quấn băng thật chặt quanh cái bụng căng phòng của bà-cô mụ đã dặn bà chứ có đi nhiều-và bước ra ngoài đường phố cùng với đứa con mới sinh. Torao thì đào bới điên cuồng trong đống đổ nát để tìm hai đứa con khác của họ. Anh tìm được đứa con gái lớn vẫn còn sống, nhưng đứa em trai thì bị chôn vùi tuyệt vọng đâu đó trong đống gạch. Có tiếng ai đó hét lên báo động nhiều phi cơ đang bay tới khiến gia đình tìm chỗ ẩn nấp trong một con rãnh thoát nước hôi hám.

                Không tới 1 dặm phía nam điểm zero tòa nhà chính của Đại học Hiroshima đứng nguyên vẹn giữa cảnh hoang tàn. Kim chiếc đồng hồ lớn đối diện với khuôn viên đại học, đã ngừng vào lúc 8:15. Nhưng quả bom, vốn đã làm ngừng nhiều đồng hồ treo cũng như đồng hồ tay khác vào thời khắc đó, không làm gì được với nó; vài ngày trước đây nó đã ngừng tại thời khắc thảm họa đó như một lời tiên tri.

                Hai y tá sinh viên, đang nằm dưỡng bệnh trong khu bệnh xá bằng gỗ của Bệnh viện Chữ Thập Đỏ nằm bên kia đường, không nghe cũng không thấy quả bom. Cảm nhận đầu tiên của họ là phổi mình như sụp xuống. Kyoko Sato bò ra khỏi tòa nhà sụp đổ, và chui vào một nơi đầy bụi bặm. Một tiếng gọi tắt nghẹn, “Sato-san!” dẫn cô đến gần bạn của mình, và được bạn lôi ra từ đám xà bần vụn vỡ. Hai người cùng dìu nhau cố băng qua đường để báo cáo với bệnh viện nhưng không thể chen qua được dòng người đen kịt câm lặng đang di chuyển ra khỏi thành phố, nữa trần truồng và đẫm máu nhưng không hoảng loạn, thậm chí không khóc. Cái điều không tưởng của nó thật quá khủng khiếp.

                Bác sĩ Fumio Shigeto, trưởng khoa nội của bệnh viện, không bao giờ đến được phòng khám vào buổi sáng đó. Trên đường đến bệnh viện, ông đang đợi xe điện ở cuối một hàng người dài quẹo quanh góc đường của ga tàu hỏa Hiroshima, cách tâm chấn 2,000 ya về phía đông. Tia chớp lóe hình như biến một nhóm thiếu nữ đứng ở đầu hàng thành màu trắng, gần như vô hình. Một quả bom lửa! Khi ông buông mình xuống vệ đường, che mắt và tai, một miếng sắt nặng đập vào lưng ông. Những cuộn khói che lấp mặt trời. Trong bóng tối ông sờ soạng như thằng mù để cố đến chổ ẩn nấp trước khi đợt tấn công tiếp thep ập đến. Sợ hơi độc, ông lấy khăn tay che miệng.

                Một làn gió từ hướng đông thổi qua dần dần làm rõ khu vực như thể trời đang bình minh, bày ra một cảnh tượng khó tin: những tòa nhà phía trước nhà ga sụp đổ, nằm bẹp xuống, các thi thể gần như trần truồng và âm ỉ cháy nằm la liệt khắp mặt đất. Trong số những  người đứng chờ ở trạm xe điện chỉ có mình ông, người đứng cuối hàng, là không bị thương, vì được che chở bởi khúc quanh của nhà ga. Bác sĩ Shigeto bắt đầu đi đến bệnh viện nhưng bị một bức tường lửa đang tiến tới chận lại. Ông quay lại và chạy tìm một khoảng trống-về phía sân tập của quân đội sau nhà ga. Ông trông thấy rất nhiều người sống sót đi loanh quanh, kêu khóc một cách điên cuồng, và để giảm đau đớn gây ra do các vết bỏng họ giơ cánh tay với các lớp da bong tróc từng mảnh lòng thòng.

                Một cô y tá tiến đến ông; ông chắc hẳn là một bác sĩ vì ông mang một túi đen và có một ria mép cắt xén gọn gàng. Cô ta nhờ ông giúp một bác sĩ khác và vợ đang nằm trên mặt đất. Ý nghĩ đầu tiên của ông là : Sẽ ra sao nếu đám đông các người tuyệt vọng này khám phá ra mình là bác sĩ? Ông không thể giúp đỡ tất cả họ. “Làm ơn chữa trị vợ tôi trước,” người bác sĩ bị thương nói, mình mẫy đấm đìa máu. Shigeto chích long não cho người đàn bà để chống sốc, tiếp theo tiêm một mũi thuốc cầm máu. Ông sắp xếp lại băng quấn mà cô y tá đã bó rồi quay sang người bị thương khác, chữa trị họ cho đến khi ông hết sạch cả thuốc và trang bị y tế. Ông không thể làm gì nữa. ông chạy như bay về phía các ngọn đồi.

 

2

Phi hành đoàn của Enola Gay nhìn thấy một điểm sáng màu tím đỏ nhiều dặm bên dưới họ lập tức nở rộng thành một quả cầu lửa tím. Quả cầu này nổ thành một khối hỗn loạn của lửa và mây tỏa ra các vòng khói sương mù. Một cột khói trắng nhô ra từ các đám mây tím, dâng lên nhanh chóng đến độ cao 10,000 bộ (khoảng 3,014 mét), ở đó nó nở ra thành một cây nấm khổng lồ sôi sục một cách dữ dội khi nó tiếp tục lên cao gần 50,000 bộ (khoảng 15200 m).

                Một làn sóng chấn động rung lắc Enola Gay. Tibbets tưởng bị hỏa lực phòng không bắn bèn la lên “Súng phòng không!” Parsons hét lên đấy là chấn động và thêm, “Chúng ta ra khỏi tầm bắn rồi.” Cơ phó Lewis quay đầu nhìn chớp lóe cho dù ông đã gỡ bỏ cặp kính bảo vệ màu đen vài giây trước khi vụ nổ xảy ra để nhìn vào bảng điều khiển. Còn Ferebee quá mê mẩn trước quỹ đạo dài của quả bom đến nổi quên cả kéo cặp kính xuống. Nó như một chớp lóe của đèn flash máy ảnh đập vào mặt. Tibbets tháo nhanh cặp kính, lướt qua bảng điều khiển rồi nghiêng tàu quay trở lại về hướng Hiroshima để quan sát kết quả.

                “Trời đất quỹ thần ơi, cái gì đây!” Trung sĩ Caron, pháo thủ đuôi, la lớn trong bộ đàm.

                “Trời ơi,” Lewis nói, “chúng ta đã làm cái gì thế này?” Ông ghi vội mấy từ “Ôi trời” trong sổ phi trình.

Hiroshima trông như bị “xé toạc”, và khiến ông cảm thấy như thể họ là “Buck Rogers các chiến binh thế kỷ 25.”

                Hoa tiêu, Van Kirk, thoạt đầu choáng váng, sau đó tràn ngập niềm tự hào và cuối cùng thì khoan khoái vì tất cả đã qua. Lời hoan hô vang lên trong bộ đàm; nó có nghĩa là cuộc chiến đã kết thúc. Rồi phi hành đoàn bắt đầu nghĩ đến những người trên mặt đất.

                Tibbets ra lệnh điện đài viên gởi một thông điệp trong vùng an toàn rằng mục tiêu chủ yếu đã bị đánh bom bằng mắt trần với kết quả tốt. Parsons gởi một bức điện khác, bức này bằng mật mã:

                KẾT QUẢ RÕ RÀNG, THÀNH CÔNG TRONG MỌI MẶT, HIỆU QUẢ CÓ THỂ THẤY ĐƯỢC LỚN HƠN TRINITY [cuộc thử nghiệm ở Alamogordo]. ĐIỀU KIỆN BÌNH THƯỜNG TRONG PHI CƠ THEO SAU CHUYẾN GIAO HÀNG, TIẾN VỀ KHU GIÁO HOÀNG [Tinian]. . .       

                Cách đó một vài dặm các nhà khoa học trong chiếc The Great Artiste ngồi dán mình với thiết bị ghi lại vụ nổ. Trong phi cơ nhiếp ảnh Tiến sĩ Bernard Waldman, một nhà vật lý từ Notre Dame, đang ngồi trong ghế chuyên viên cắt bom, vận hành một máy quay phim tốc độ cao mà ông đã mang đến từ Mỹ. Không có thời gian để thử nghiệm trong không trung. Ông đã đếm đến 40 sau khi quả bom được ném xuống và bật máy quay. Khi máy bay lượn đi Thiếu úy Russell Gackenbach, hoa tiêu, cũng bấm được một chuỗi ảnh với máy ảnh bỏ túi của mình.

                Trên mặt đất, hai dặm rưỡi cách tâm chấn về hướng nam, nhiếp ảnh gia tin tức trước đây Gonichi Kimura đang làm việc bên ngoài chuồng ngựa cho Quân đội khi anh nhìn thấy một chớp lóe dữ dội về bên trái của mình và đồng thời cảm thấy một luồng hơi nóng như sắt nung. Thoạt đầu anh nghĩ lò chứa của Công ty Ga Hiroshima đã phát nổ, nhưng ngay sau đó anh nhận ra lò ga vẫn còn đứng đó, theo bản năng anh cảm thấy là một quả bom đặc biệt nào đó đã được ném xuống và quyết định chụp ảnh ngay sau khi anh có thể lấy được máy ảnh, mà anh cất trong nhà kho gần đấy. Ngay lúc anh bò qua đống đổ nát của chuồng ngựa, cột khói trắng nhỏ từ quả bom đã biến thành màu hồng và phần trên bắt đầu nở rộng, khiến nó trông như một cái nấm khổng lồ, và nó cứ to lớn khủng khiếp lên mãi.

                Tại nhà kho Kimura tìm tất cả các cửa sổ đã bể nát vì luồng hơi nóng, và trên nền nhà có nhiểu mảnh kính vỡ nơi anh cất máy ảnh đến nổi thậm chí anh không thể bước vào trong, nhưng cuối cùng anh cũng vói được và mở ngăn tủ ra. Cây cối bên ngoài nhà kho cản đường, vì thế anh quay lại chuồng ngựa để chụp những bức ảnh đầu tiên của mình về đám mây nguyên tử-“đúng ra, một cảnh tượng ghê khiếp”- Các đám cháy bùng phát trong phần phía tây của thành phố đang lan rộng nhanh chóng, và anh chụp hết cả cuộn phim từ máy nhà của một xưởng máy. * Kimura thoát khỏi quả bom không bị thương tật, nhưng anh không bao giờ gặp lại vợ mình-anh đã để chị ở nhà sau bữa ăn sáng đó.

                Những ai gần tâm chấn không hề nghe tiếng bom nổ. Ở càng xa, âm thanh càng dễ nhận biết, rồi vỡ tan. Cách ba dặm nó nghe như tiếng rùng rùng của tiếng sấm không thuộc thế giới này; cách bốn dặm nó là tiếng rền rĩ xa xăm rồi trở thành tiếng bùm chói tai. Gần hải cảng Kure, cách 12 dặm về hướng đông nam, Tadahiko Kitayama nghĩ rằng bãi rác quân nhu gần đó đã phát nổ, và vài dặm ở bờ biển, những người cứu hộ đang cố nâng chiếc tàu ngầm bốn-người Koryu, bị mắc cạn trong bãi bùn đáy biển, nghe một tiếng nổ vang như sấm điếc cả tai. Mấy phút sau đó họ nhận thấy một chiếc B-29 bay từ hướng Hiroshima.

                Trong 15 phút không khí bên trên Hiroshima bị khuấy động bởi những sức mạnh vũ trụ. Rồi những giọt mưa to hạt bắt đầu lao thẳng xuống. Cột mây dâng cao đã mang hơi nước đủ cao để hơi nước đông lại, và nhiễm bụi phóng xạ, rơi thành những giọt lớn. “Cơn mưa đen,” kỳ lạ và gần như siêu nhiên, gây khiếp đảm cho những người sống sót. Có phải đó là loại dầu độc sẽ dính cứng vào da thịt và giết chết họ từ từ? Nó trút xuống những người gần như trần truồng, để lại những vệt xám trên thân thể họ, ghi khắc trong tâm khảm nhiều người một nhận thức về mối thảm họa không tưởng tượng được đã đến thăm viếng Hiroshima. Bà Tomita cố che chở đứa con hai giờ tuổi của mình, nhưng bé Hiroko bị nhiễm nặng bụi phóng xạ. Bé vẫn không thốt ra một âm thanh nào sau vụ nổ. **

                Cơn mưa chết chóc, đã thay đổi thành cơn mưa bụi vàng vọt, mù sương, lan ra về hướng tây bắc. Gần như không cơn mưa nào rơi xuống vùng phía đông nơi đám cháy càng lúc càng dữ dội, và Bác sĩ Yoshimasa Matsuzaka, chuyên khoa da liễu và đứng đầu bộ phận dân phòng thành phố, đang nỗ lực lập lại trật tự cho cơn hỗn loạn. Phớt lờ thương tích của mình, ông mặc vào đồng phục dân phòng mà vợ ông đã lục lọi được từ đống đổ nát trong phòng làm việc của ông, dựa mình vào con trai, ông bước về phía trạm cảnh sát Khu Đông giơ cao lá cờ Mặt Trời Mọc trên đầu cây gậy dài. Cảnh tượng của đám diễu hành nhỏ đầy quyết tâm mang đến sự cấp cứu ban đầu-Bà Matsuzaka và ba cô y tá theo sau-làm dân chúng an tâm. Nhóm dựng lên một trạm cấp cứu trước cơ quan cảnh sát-cách tâm chấn 1,200 ya-và những người bị thương, bị bỏng bắt đầu xếp thành từng hàng phía trước trạm.

                Từ ngôi nhà bị tàn phá của mình cách đó không tới nửa dặm cảnh sát trưởng, Shiroku Tanabe, cố gắng một cách tuyệt vọng để đến được trạm cấp cứu. Nhưng ông bị ngăn trở khi có đến hàng ngàn người tị nạn (họ trông “như thể vừa bò ra từ một vũng máu”) lũ lượt kéo nhau ra khỏi điểm zero. Lúc mà Tanabe đến được trạm cấp cứu, nó đã bốc hỏa. ông điều động và tổ chức một đội xách nước đi đến một hồ nước gần đó. Mặc dù phân nửa trạm đang bốc cháy, Bác sĩ Matsuzaka và đội cấp cứu gan lỳ vẫn tiếp tục chữa trị cho người bị thương và thúc giục họ tìm chỗ trú bên ngoài thành phố.rất tuyệt.   

                *  Kimura tự tráng phim ở nhà. Chúng hơi quá sáng nhưng sử dụng được, và một tấm được in lại trong phần hình ảnh của sách này. Phim của Waldman bị hư khi nó được xử lý trong phòng tối trang bị hiện đại ở Tinian. Thiết bị phải giữ ở nhiệt độ 200 C nhưng do máy lạnh hư, phim gặp nhiệt độ nóng nên bị tróc lớp nhũ tương. Các bức ảnh trong máy ảnh nhỏ của Trung úy             

                * * Kỳ diệu thay toàn bộ gia đình, trừ đứa con trai không bao giờ được tìm thấy, sống sót với ít dấu hiệu bệnh tật. Hiroko được đặt tên hiệu là “Pikato” (chớp lóe nhỏ), và lớn lên thành một thiếu nữ khỏe mạnh và duyên dáng-một vộ địch quần vợt tại địa phương. Gia đình Tomita xây dựng lại trên đống đổ nát của ngôi nhà cũ.                                           

                Khắp thị trấn, những mảnh vỡ vụn dễ cháy bắt lửa từ những lò than chứa đầy than nóng (các bà nội trợ đang chuẩn bị bữa ăn sáng). Hàng ngàn đám lửa nhỏ này bốc xoáy lên cuồng nộ bởi một cơn lốc xoáy bị hút về  dù phân nửa trạm đang bốc cháy, Bác sĩ Matsuzaka và đội cấp cứu gan lỳ vẫn tiếp tục chữa trị cho người bị thương và thúc giục họ tìm chỗ trú bên ngoài thành phố.

                Khắp thị trấn, những mảnh vỡ vụn dễ cháy bắt lửa từ những lò than chứa đầy than nóng (các bà nội trợ phía tâm chấn với một sức mạnh làm bật rễ cả những cây cổ thụ. Từng luồng hơi lửa nóng-chúng dường đã xuất phát từ những đèn hàn khổng lồ-xé toạc không thương tiếc những mái tôn như thể chúng là giấy bìa, phá nát những ngôi nhà và làm cong vẹo những cây cầu sắt. Cột điện thoại cháy nổ.

                Gần địa điểm Lâu đài Hiroshima bốn người đàn ông chập choạng bước qua đường phố đang cháy mang chân dung to lớn của Nhật Hoàng; họ đã cứu được nó từ địa ngục của trung tâm liên lạc Quân đoàn 2 và đang cố gắng mang nó an toàn ra khỏi thành phố. Khi nhìn bức ảnh, những hàng dài người tị nạn mất hồn bổng bật lên tiếng kêu “Chân dung Hoàng thượng!” Những người bị bỏng hay chảy máu cúi chào thật thấp. Những ai không thể đứng lên chấp tay cầu nguyện. Khi tấm hình lắc lư qua Công viên Asano Sentei đến một con thuyền chờ sẵn, đang neo đậu trên sông, những cành thông cao ngất ngưởng cháy thành những ngọn đuốc. Những quân nhân bị thương trên bờ sông, đang đợi để được giải cứu, đứng nghiêm và chào khi con thuyền hướng về phía thượng nguồn đến chốn an toàn qua cơn mưa những tàn lửa.

                Chỉ huy của họ, Tướng Fujii, bị thiêu cháy tại doanh trại gần lâu đài ngay trong phút đầu tiên nhưng Binh nhì  Shigeru Shimoyama, người ở gần điểm zero hơn vẫn còn sống thậm chí sau khi bị các cây đinh trên thanh đà ở mái đâm xuyên qua người. Một cách đau đớn anh kéo người ra khỏi các cây đinh, và dùng đầu như cây rầm, tông liên tiếp vào mái nhà, mặt đầm đìa máu, cho đến khi thoát ra được. Các đám lốc bụi dày làm anh ngạt thở, anh biết là có một sức mạnh vô song nào đó đã quét qua thành phố như bàn tay của một gã khổng lồ đầy căm thù. Tại bờ sông anh trông thấy hàng chục người bị thương nhảy điên cuồng xuống nước. Họ nghĩ họ đang làm gì vậy? Mặt nước đã bao phủ bởi một lớp váng màu đỏ son. Có phải máu không? Shimoyama cứ lẩm bẩm với chính mình là hãy giữ bình tỉnh. Anh không lạ gì những tai họa;  anh gần như bị giết chết trong trận động đất năm ’23, cuộc đột kích Doolittle và trận oanh tạc Tokyo bằng bom lửa vào 13/4. Anh bước đến bờ sông ngược chiều gió; như vậy đám lửa sẽ ở đằng sau anh.

                Ngay trên đường đi anh bắt gặp một con ngựa đang đứng một mình. Nó màu hồng; luồng hơi nóng đã lột da nó. Nó nhìn anh van nài và bước theo anh ngập ngừng. Cảnh tượng đầy xót xa làm mê muội Shimoyama, và anh phải lấy hết sức để rướn tới (anh còn nằm mơ về con ngựa hồng nhiều năm sau đó. Nửa tá quân nhân khác cũng lầm lũi đi theo bờ sông về hướng bắc với cùng một mục đích, nhưng nom như mỗi người đều cô độc, chỉ bận tâm lo cho sự sống còn của riêng mình. Những dân thường, một số gần như trần truồng, cố dấn bước theo họ, nhưng khi tiếng rùng rùng của ngọn lửa phía sau càng kêu lớn hơn, các quân nhân bước nhanh hơn, bỏ lại người khác phía sau.

                Một vài dặm về phía thượng nguồn Shimoyama lội qua sông nơi mực nước chỉ ngang cổ. Khi anh tiến gần đến ngoại ô nơi sức tàn phá của quả bom chưa đến, anh bị ám ảnh bởi một ý nghĩ-đó là một quả bom nguyên tử. Anh phải về nhà và nhìn con gái lần cuối cùng trước khi anh chết vì phóng xạ. Vào năm 1943 ông anh rễ của anh đã tin cho anh biết là người Nhật đang chế tạo một quả bom nguyên tử và trong một vài ngày qua, kỳ lạ thay, trong doanh trại của anh binh sĩ bàn tán râm ran về một quả bom như thế đến nổi khi có ai nổi cáu một người sẽ bảo, “Cậu ta như một quả bom nguyên tử.” Anh đi qua hàng chục nữ sinh trung học, bị bỏng nặng, nằm ườn ra trên vệ đường. Từ mặt, chân và tay họ từng dải da dài lủng lẳng như ruy băng. Họ dang tay ra van xin nước. Nhưng anh có thể làm gì được? Phía trước con đường, dân làng đang đắp những lát dưa leo lên vết phỏng của những người sống sót khác và mang những người bị thương nặng nhất đến trạm cứu cấp trong các xe đẩy rau quả.

                Các báo cáo manh mún đầu tiên đến được Tokyo chỉ cho biết là Hiroshima đã gánh chịu một thảm họa không tiền khoáng hậu. Tổng Hành Dinh Đế Chế không thể gọi về trung tâm liên lạc Quân đoàn 2 để biết thêm chi tiết.

                Hầu tước Kido ngay lập tức thông báo cho Nhật Hoàng biết là Hiroshima đã bị tàn phá bằng một vũ khí bí mật nào đó. “Trong tình huống này chúng ta phải chấp nhận điều không thể tránh khỏi,” Nhật Hoàng nói. Ông không thể che dấu nổi phiền muộn của mình. “Dù có điều gì xảy ra với tôi, chúng ta phải kết thúc cuộc chiến này ngay khi có thể. Thảm kịch này không nên được lặp lại.” Nhưng cả hai đều đồng ý là thời điểm tâm lý vẫn chưa đến đối với Nhật Hoàng để có thể tự mình hành động.

                Trong ánh sáng chết dần của hoàng hôn đám cháy bắt đầu giảm dần và từ xa Hiroshima trông có vẽ thanh bình, như một doanh trại khổng lồ của một đoàn quân lặng lẽ đóng trên đồng bằng. Và tận trên cao, các vì sao bắt đầu lấp lánh trên nền trời đang đen sẫm. Dòng chảy ra khỏi thành phố đã đảo chiều khi những đoàn người cứu trợ đầu tiên lác đác từ bên ngoài đổ về.

                Bác sĩ Shigeto của Bệnh viện Chữ Thập Đỏ, người đã chạy khỏi trận tàn sát khủng khiếp, đã trở lại. Đi từ trạm cứu cấp này đến trạm cứu cấp khác, ông đều được cho biết là nước uống có hại cho người bị phỏng. Ngược lại, ông thông báo, nước tống chất độc từ những vết bỏng ra khỏi cơ thể. Ông cho dựng bảng thông báo: BẠN CÓ THỂ CHO UỐNG NƯỚC. BÁC SĨ SHIGETO, PHÓ GIÁM ĐỐC, B.V. CHỮ THẬP ĐỎ.

                Khi ông đi sâu hơn vào trong thành phố bị tàn phá, ông thấy mình bị các đống gạch đổ ún khói cản đường. Mặc dù hình như không có lối đi qua, ông kinh ngạc khi trông thấy một xe tải lớn chạy bằng than ầm ầm tiến đến, ra khỏi màn khói, trên xe chen chúc những người. Ông nhận ra bác tài, một người nấu rượu sake ở ngoại ô của ông. Ông ta đã đương đầu với địa ngục để mang thức ăn khẩn cấp và rượu sake cho khách hàng của mình, nhưng thấy những cửa hiệu của họ đều bị cháy rụi. Shigeto định vượt qua xe tải. “Không có ai ở trong đó đâu!” người tài xế la lên. “Không một con thú. Bác sĩ vào đó làm gì?” Shigeto đành phải để người ta kéo mình lên xe tải.

                Bác sĩ phải mượn một chiếc xe đạp để vượt dặm đường cuối cùng về nhà. Ông bất ngờ gặp một phụ nữ, mang trên vai một em bé, lang thang trên con đường tối tăm. Khi nhìn thấy ông bà òa khóc không dứt. đó chính là vợ ông, và trong ký ức của mình, bà đã thắp một nén nhang trên bàn thờ Phật của gia đình.

                Bên ngoài thành phố, các trạm cấp cứu đành bất lực khi nhìn hàng trăm người chết mỗi giờ. Shizuko 7 tuổi đang hấp hối mà không ai nghe em khóc hoặc phàn nàn. Em liên tiếp xin nước, và mẹ em tiếp nước cho em không nghe lời khuyên của người săn sóc. Tại sao không cho em thoải mái khi ra đi? “Cha [anh là một thủy thủ đang ở đâu đó trên một hòn đảo Thái Bình Dương] đang xa nhà ở nơi nguy hiểm,” Shizuko nói như thể đang nhìn thấy cha trước mặt. “Mẹ ráng sống nghe mẹ. Nếu mẹ con ta đều chết, cha sẽ cô độc lắm.” Em nhắc lại tên các bạn bè và người thân. Khi nhắc đến ông bà nội em thêm, “ông bà thương con lắm.” Em khóc “Cha ơi, cha ơi!” và qua đời.

              *  Giáo sư Shogo Nagaoka, người quản lí đầu tiên của đài Tưởng Niệm Hòa Bình ở Hiroshima, kết luận là ít nhất 200,000 người chết do tác động của quả bom. Con số này được chứng thực bởi Bác sĩ Naomi Shohno và K. Sakuma sau một cuộc nghiên cứu sâu rộng.

                Có 22 trong số nạn nhân là tù binh chiến tranh người Mỹ, và trong đó có một số phụ nữ. Sự kiện này được tiết lộ với một tờ báo Nhật vào tháng 7 năm 1970 bởi Hiroshi Yanagida, một chuẩn úy quân cảnh, có nhiệm vụ canh gác những người Mỹ. Có 23 tù binh tất cả. người thứ 23, một quân nhân trẻ, được lôi ra từ đống gạch vụn vẫn còn sống, nhưng bị đám đông những người Nhật sống sót nổi giận giết chết.

                Ngày hôm đó có lẽ 100,000 sinh mạng đã tiêu vong ở Hiroshima, và một số bằng đó chết dần vì phỏng, thương tích và một chứng bệnh của thời đại nguyên tử, nhiễm độc phóng xạ.*

 

3

                Lúc 2:58 P.M., giờ địa phương, Enola Gay đáp xuống North Field ở Tinian. Vài trăm sĩ quan và quan khách ào tới bao quanh chiếc phi cơ khi phi hành đoàn xuất hiện. Tướng Spaatz sải chân và gắn huy chương D.S.C cho Tibbets, bối rối thọc ống píp vào ống tay áo khoác để đứng nghiêm. Phi hành đoàn được săn hỏi tại câu lạc bộ sĩ quan, một ngôi nhà máy tôn, bên ly nước lemonade pha rượu bourbon. Một sĩ quan tình báo hỏi hoa tiêu Van Kirk thời điểm chính xác của viêc thả bom. Anh trả lời, “Lúc 091517K”- mười bảy giây hơn qui định.

                “Tại sao lại trễ vậy?”

                Mọi người cười lớn. Tướng Farrel rời buổi hỏi đáp để gởi báo cáo đầy đủ đầu tiên của mình (một bản tin trước đây đã được truyền đi dựa trên những báo cáo ban đầu được điện từ Enola Gay) đến Tướng Groves.

                . . . CHỚP LÓE KHÔNG QUÁ CHÓI LÓA NHƯ TRINITY DO ÁNH SÁNG MẶT TRỜI. TRƯỚC TIÊN LÀ MỘT QUẢ CẦU LỬA TRONG VÀI GIÂY ĐỔI THÀNH ĐÁM MÂY TÍM VÀ LỬA SÔI SỤC VÀ QUAY TÍT LÊN TRÊN. CHỚP LÓE ĐƯỢC QUAN SÁT NGAY KHI PHI CƠ QUAY ĐẦU VỀ. TẤT CẢ ĐỀU ĐỒNG Ý ÁNH SÁNG RỰC RỠ MÃNH LIỆT. . .

TOÀN BỘ THÀNH PHỐ TRỪ HAI ĐẦU XA NHẤT CỦA KHU BẾN TÀU BỊ CHE PHỦ BẰNG MỘT LỚP BỤI XÁM ĐEN KẾT NỐI VỚI CỘT MÂY. NÓ CUỒN CUỘN DỮ DỘI VỚI NHỮNG TIA LỬA NHÌN THẤY ĐƯỢC TRONG BỤI. ĐƯỜNG KÍNH ƯỚC TÍNH CỦA LỚP BỤI NÀY ÍT NHẤT LÀ BA DẶM. MỘT QUAN SÁT VIÊN NÓI RẰNG NÓ TRÔNG GIỐNG NHƯ THỂ TOÀN THỊ TRẤN BỊ XÉ TOẠC VỚI NHỮNG CỘT BỤI VỌT CAO KHỎI THUNG LŨNG TIẾN GẦN ĐẾN THỊ TRẤN. DO BỤI NÊN VIỆC QUAN SÁT BẰNG MẮT SỰ THIỆT HẠI VỀ CẤU TRÚC KHÔNG THỂ THỰC HIỆN ĐƯỢC.

THẨM PHÁN [Parsons] VÀ NHỮNG QUAN SÁT VIÊN KHÁC CẢM THẤY RẰNG CÚ ĐÁNH NÀY THẬT KHỦNG KHIẾP VÀ ĐÁNG SỢ THẬM CHÍ KHI SO SÁNH VỚI TR [Trinity]. HIỆU QUẢ CỦA NÓ CÓ THỂ ĐƯỢC NGƯỜI NHẬT CHO LÀ GÂY RA BỞI THIÊN THẠCH.    

                Tại Wasington, Groves đã nhận thông điệp sơ khởi ngay trước nửa đêm, 5 tháng tám. Vì giờ sớm nên ông không đánh thức Tướng Marshall; ông đến ngủ tại phòng làm việc để sẵn sàng khi có những báo cáo chi tiết gởi đến. Nó đến lúc 4:15 A.M., và ba giờ rưỡi sau đó Tham mưu Trưởng Marshall truyền đi tin tức qua điện thoại mật mã đến Stimson ở nhà ông ở Long Island. Bộ trưởng Chiến tranh đồng ý rằng phát biểu đã chuẩn bị sẵn của Truman liên quan đến quả bom nên được phát đi cho báo chí ngay sáng hôm đó.

                Nó thông báo rằng một quả bom có tính cách mạng đã được thả xuống Hiroshima, được mô tả như là một căn cứ quân sự quan trọng. “Đó là một quả bom nguyên tử. Nó chế ngự năng lực cơ bản của vũ trụ. Sức mạnh từ đó mặt trời lấy được năng lượng đã được phóng thích chống lại những người mang chiến tranh đến  vùng Viễn Đông.” Hoa Kỳ sẵn sàng xóa sổ tất cả xưởng máy, bến tàu, hệ thống giao thông của Nhật Bản. “Chỉ tránh cho nhân dân Nhật Bản khỏi bị hủy diệt toàn bộ theo như tối hậu thư ngày 26/7 tại Potsdam đã tuyên bố. Các lãnh đạo chính quyền đã bác bỏ tối hậu thư đó. Nếu giờ đây họ không chấp nhận điều kiện của chúng tôi, họ có thể mong đợi một trận mưa hủy diệt đến từ tầng trời, điều mà mặt đất này chưa hề được biết tới.”

                Truman lên tàu Augusta trên đường về nhà từ Potsdam. Đại úy lục quân Franklin Graham chen vào bữa trưa của Tổng thống trong phòng ăn tập thể để trao cho ông một tin điện ngắn từ Stimson báo rằng “quả bom lớn” đã được thả xuống Hiroshima, tất nhiên rất thành công. Truman nhìn lên. “Đại úy Graham,” ông nhận xét, “đây là sự kiện vĩ đại nhất trong lịch sử,” và rơi vào im lặng. Trong vòng vài phút một thông điệp khác đã đến. Nó trích báo cáo từ Parsons cho hay các kết quả là “rất rõ ràng, thành công về mọi mặt.”

                Truman đã giữ lại tin điện đầu tiên bên mình. Giờ ông đột ngột xô ghế đứng dậy và sảy bước đến Byrnes ở một bàn gần đó. “Giờ là lúc về nhà!” ông nói một cách bí ẩn. Ông nhặt chiếc nĩa và gõ leng keng vào chiếc ly. Gian phòng bổng im lặng và ông bảo với các thủy thủ về thứ vũ khí mới. Tổng thống bỏ đi đến phòng ăn tập thể của sĩ quan, tiếng hoan hô của những thủy thủ theo sau ông qua hành lang. “Hãy an tọa, quí vị,” ông bảo với các sĩ quan đang ngơ ngác. “Chúng ta vừa mới thả xuống đất Nhật một quả bom có sức nổ hơn 20,000 tấn TNT. Đó là một thành tựu vang dội. Chúng ta đã thắng trận!”

                               Tại quê nhà ông ở Tokyo, Bộ trưởng Nội các Sakomizu đang nằm trên giường nửa tỉnh nửa thức khi Cục Tin tức Domei điện thoại báo tin về lời tuyên bố của Truman. Những từ “bom nguyên tử” làm ông choàng tỉnh, Ông bàng hoàng, nhưng cùng lúc đó nhận ra rằng đây là “thời cơ bằng vàng” để kết thúc cuộc chiến. Không quốc gia nào có thể tự bảo vệ tránh khỏi bom nguyên tử. Sẽ không cần thiết khi đổ lỗi cho phe quân sự đã để thua trận. Ông nhấc điện thoại gọi Thủ tướng.

789101112

 

3. . . và Nagasaki

 

1

                Ở Hiroshima những hiệu quả bí ẩn của phóng xạ dần được biết đến vào bình minh ngày 7/8. Shogo Nagaoka, nguyên nhà địa chất tại đại học, đang cố vươt qua đống đổ nát để đến khuôn viên đại học. Vừa mới nhập ngũ, ông đã trốn khỏi đơn vị vì lo lắng cho số phận của đại học và đã đi bộ hàng giờ liền. Ông khó có thể đo lường hết sự tàn phá vô cùng tận. Tại Đền Gokoku gần tâm chấn ông sụp xuống kiệt sức dưới chân một thạch đăng. Ông cảm thấy đau nhói-đó là phóng xạ-và bật đứng dậy. Rồi ông nhận ra một hình bóng đen kỳ lạ in trên thạch đăng và một phần bề mặt của nó bị tan chảy. Một nhận thức đột ngột và đáng sợ bừng lên trong trí ông: một quả bom nguyên tử. Nhật Bản phải đầu hàng ngay lập tức.

                Tại hàng chục trạm cấp cứu các bác sĩ đều hoang mang. Các triệu chứng của các bệnh nhân rất quái lạ đến nổi nó được ngờ là chất ga độc hăng hắc đã được sử dụng để gieo rắc bệnh lỵ thuộc khuẩn hình que. Một số nạn nhân chỉ bị cháy sém một bên mặt; kỳ thay, một số người có bóng đen của mũi hoặc tai in lên má. Như Nagaoka, Bác sĩ Shigeto của Bệnh viện Chữ Thập Đỏ đã nghe nói về năng lượng nguyên tử và đoán rằng nạn nhân bị thương vì phóng xạ nguyên sinh. Ông kiểm tra các bức tường của bệnh viện bằng máy đo tia X đơn giản. Tuy nhiên, số chỉ thị quá thấp nên ông kết luận ở đó vẫn an toàn.

                Những hậu quả thật khó dự đoán. Binh nhỉ Shimoyama, một trong những người ở gần tâm chấn nhất, đã cận thị trước vụ pika. Giờ đây khi anh nhìn qua kính cận mọi thứ trở nên mờ nhòe. Có phải anh sắp bị mù không? Khi anh cuối cùng gỡ cặp kính ra anh phát hiện là mình đã lấy lại thị giác hoàn hảo. Nhưng tóc anh đã rụng hết và anh đang mắc cùng một chứng bệnh đã giáng xuống hàng ngàn người khác. Trước tiên họ cảm thấy buồn nôn và ói mửa; tiếp theo bị tiêu chảy và sốt. Những phản ứng khác thì thất thường. Một số bệnh nhân mình mẫy đầy những đốm sáng-đỏ, xanh lá-vàng, đen và tím-nhưng vẫn sống; những người khác thân thể của họ không dấu vết thương tích gì thì lại chết đột ngột. Một người trốn thoát với một bàn tay bị phỏng nhẹ và phớt lờ nó cho đến khi anh bắt đầu nôn ra máu. Anh nhúng bàn tay bị thương vào nước và “một thứ gì đó kỳ lạ và hơi xanh thoát ra từ đó, giống như khói.”

                Nổi khiếp sợ về điều không biết, được nhân lên với cảm giác mơ hồ về tội lỗi và hỗ thẹn, túm lấy họ: họ sống vì họ đã phớt lờ lời cầu xin được giúp đỡ của người thân và người hàng xóm và để mặc họ mắc kẹt dưới đống đổ nát đang bốc cháy. Những tiếng kêu thảm thiết của những nạn nhân đã chết sẽ ám ảnh họ mãi. Cha mẹ đã để lạc mất con cái tự nhận lỗi về mình, và con cái lạc mất cha mẹ cảm thấy mình bị trừng phạt vì tội không ngoan. Thảm kịch và nhẫn tâm đã làm lung lay cấu trúc phức tạp và sâu sắc của đời sống gia đình Nhật Bản.

                Tại Tokyo Quân đội vốn cuồng tín không chịu nhận trách nhiệm đầu hàng khiến họ nghi ngờ liệu việc một thành phố lớn bị hủy diệt hoàn toàn có quan trọng gì không. Họ không thấy giá trị trong đề nghị của Ngoại trưởng Togo cho rằng Nhật nên chấp nhận Tuyên bố Potsdam thậm chí khi ông chỉ ra bằng lý luận rằng quả bom “làm thay đổi sâu sắc cán cân quân sự và mang đến cho giới quân sự những cơ sở đầy đủ để kết thúc cuộc chiến.”

                “Một biện pháp như thế là không cần thiết,” Bộ trưởng chiến tranh Anami phản pháo. “Hơn nữa, chúng ta chưa biết liệu đó có phải là bom nguyên tử hay không.” Họ chỉ nghe có Truman nói. Biết đâu đó là trò lừa bịp. Tiến sĩ Yoshio Nishina, nhà khoa học hạt nhân hàng đầu của quốc gia, nên được gởi đến tận nơi để điều tra Hiroshima. 

                Khi Tiến sĩ Nishina và Trung Tướng Seizo Arisue, cục trưởng Tình báo, chuẩn bị lên máy bay ở Căn cứ Không quân Tachikawa, tiếng còi báo động không kích bắt đầu cất tiếng hú báo tử của nó. Arisue ra lệnh cho Tiến sĩ Nishina nán lại đợi cho đến khi tiếng còi báo an nổi lên, còn ông và vài người phụ tá cất cánh ngay lập tức. Máy bay của họ bay đến Hiroshima vừa trước hoàng hôn. Vị tướng đã từng chứng kiến nhiều thành phố hoang tàn vì bom lửa-thường có vôi gạch đổ nát âm ỉ cháy, khói bốc ra từ các căn bếp thoát hiểm nhưng vẫn còn có dấu hiệu của hoạt động con người-nhưng bên dưới ông bây giờ chỉ là một sa mạc không người trải dài. Không khói, không lửa, không gì cả. Không thấy cả một đường phố nào.

                Viên phi công quay lại và nói lớn, “Thưa ngài, dưới kia chính là Hiroshima. Chúng ta làm gì bây giờ?”

                “Đáp xuống!”

                Chiếc phi cơ đáp xuống một vạt cỏ gần hải cảng. Khi Arisue bước xuống ông nhận thấy đám cỏ, một  màu đất sét kỳ lạ, nằm rạp xuống hướng về Biển Inland: như thể nó được ủi bằng một bàn ủi khổng lồ nóng cháy. Đoàn người được được một trung tá tiếp đón với cái chào trang trọng. Má bên trái của ông bị bỏng nặng, còn má bên phải vẫn lành lặn. Một thuyền máy đưa Arisue đến Bộ Chỉ huy Vận tải Thủy. Tại bến tàu ông được tiếp đón bởi Trung tướng Hideo Baba, một người bạn từ Học viện Quân sự, báo cáo cho ông tình trạng thiếu điện, thiếu nước ở Hiroshima. Hai vị tướng ngồi ngoài trời cạnh một chiếc bàn gỗ dài chiếu sáng bằng các ngọn nến. Baba, với giọng nói nghẹn ngào, kể lại chuyện con gái ông đã ra đi như thế nào trên đường đến trường. “Không phải chỉ có con gái tôi, nhưng hàng ngàn đứa trẻ vô tội khác cũng bị tàn sát. Quả bom mới này là ma quỹ, quá tàn bạo và khủng khiếp để sử dụng.” Ông lấy hai bàn tay che lấy mặt.

                Arisue ôm choàng lấy bạn mình. “Hãy nhớ chúng ta là quân nhân,” ông cuối cùng nói. Baba xin lỗi vì quá yếu mềm. Ông bảo với Arisue đang lan tràn một tin đồn là người Mỹ sắp sửa ném một quả bom mới khác lên Tokyo.”*

                Dân chúng lũ lượt trở lại thành phố càng lúc càng đông. Các nhóm công tác bắt đầu thu dọn các thi thể và hỏa thiêu với bất cứ thứ gỗ gì họ có thể tìm được. Mùi xú uế bốc lên tanh tưởi, phần nào giống cá mòi nướng, nhưng một số công nhân dần dần quen và thích ngửi cái mùi đó; nó thực sự kích thích họ ăn ngon miệng hơn.

                Máy bay của Tiến sĩ Nishina đến Hiroshima chiều ngày hôm sau. Ông giám sát thành phố và ngay lập tức kết luận chỉ cần một quả bom nguyên tử là có thể gây ra sự tàn phá như thế. Ông báo cho Tướng Arisue đó là một quả bom loại uranium giống như quả bom mà ông đang thử triển khai. Ông có nên tiếp tục công việc chế tạo bom không?

                Arisue không trả lời.

                Sự tàn phá Hiroshima khiến cho hi vọng không thực tế của Nhật Bản về một nền hòa bình được thỏa

            *  Nổi sợ hãi Tokyo sẽ trở thành mục tiêu cho quả bom thứ hai được khẳng định vào tối hôm sau bởi một phi công chiến đấu Mỹ bị bắn rơi gần Osaka và bị bắt. Trung úy Marcus McDildo không biết tí gì về năng lượng nguyên tử cho đến khi viên sĩ quan tra hỏi, một vị tướng, thọc mạnh lưỡi kiếm vào môi anh và đe dọa lấy đầu anh. McDildo đành khuất phục. Với giọng lè nhè của người Florida anh mô tả bắng cách nào nguyên tử được tách làm phần dương và phần âm, sau đó được ngăn cách bằng một lớp chắn bằng chì cho vào một cái hộp dài 36 bộ và rộng 24 bộ. Khi hộp được thả xuống từ một máy bay, miếng chắn chì chảy ra và phần dương và âm hợp nhất lại, phát ra một vụ nổ khủng khiếp có thể hủy diệt cả một thành phố. Khiếp sợ, người tra hỏi muốn biết mục tiêu sắp tới ở đâu. McDildo suy nghĩ nhanh chóng. “Tôi tin là Kyoto và Tokyo. Tokyo được dự tính bị bỏ bom vài ngày tới.”       

thuận qua sự hỗ trợ tốt bụng của Liên bang Xô viết càng khẩn thiết hơn bao giờ hết. Togo đánh điện cho Đại sứ Sato ở Moscow:

                TÌNH HÌNH ĐÃ TRỞ NÊN CẤP THIẾT ĐẾN NỔI CHÚNG TA PHẢI CÓ ĐƯỢC SỰ MINH BẠCH VỀ THÁI ĐỘ        CỦA XÔ VIẾT SỚM NHƯ CÓ THỂ. LÀM ƠN NỖ LỰC HƠN NỮA ĐỂ CÓ ĐƯỢC CÂU TRẢ LỜI NGAY LẬP TỨC.

                Vào buổi chiều ngày 8/8 đại sứ yêu cầu được diện kiến ngay lập tức với Molotov, người đã tránh mặt  ông vài tuần nay. Ông được hẹn gặp vào lúc 8 giờ tối hôm đó nhưng vài phút sau ông được yêu cầu mà không giải thích lý do là sẽ gặp sớm hơn vào lúc 5 giờ chiều. Sato cố hết sức giữ bình tĩnh khi bước vào điện Kremlin đầy ngóc ngách một vài phút trước lúc 5 giờ. Ông được đưa vào phòng làm việc của Molotov, nhưng trước khi ông có thể cất tiếng chào hỏi vị Ủy viên Ngoại giao bằng tiếng Nga như thói quen của ông, Molotov đã cắt ngang với một cái vẫy tay. “Tôi mang theo đây, nhân danh Liên bang Xô viết, một thông báo gởi đến chính phủ Nhật Bản mà tôi muốn truyền đạt với ngài.”

                Linh tính cho Sato biết rằng đây là lời tuyên chiến. Mặc dù ông đã đang chờ đợi nó, nhưng khi nó đến ông như bị đấm vào mặt. Molotov rời khỏi ghế và đến ngồi xuống tại đầu một chiếc bàn dài. Sato được mời ngồi xuống chiếc ghế ở đầu kia. Với tất cả sự diễn cảm Molotov bắt đầu đọc một văn kiện:

            “Sau khi Đức Quốc Xã bị đánh bại và đầu hàng, Nhật Bản vẫn còn là một siêu cường muốn tiếp tục chiến tranh.

                “Yêu sách của ba siêu cường, Hoa Kỳ, Vương quốc Anh và Trung Quốc, công bố vào ngày 26/7 về một việc đầu hàng vô điều kiện của các lực lượng quân sự Nhật Bản đã bị Nhật bác bỏ. Do đó lời đề nghị của Chính phủ Nhật gởi đến Liên bang Xô viết làm trung gian ở Viễn Đông đã không còn cơ sở.

                “Xét vì sự từ chối đầu hàng của Nhật Bản, Đồng minh tiếp cận với Chính phủ Xô viết với lời đề nghị tham gia cuộc chiến chống sự xâm kích của Nhật để nhanh chóng kết thúc chiến tranh, giảm bớt thương vong và góp phần vào việc tái lập nhanh chóng hòa bình.

                “Trung thành với nghĩa vụ của một Đồng minh, chính phủ Xô viết đã chấp nhận lời đề nghị của Đồng minh và đã tham dự vào tuyên bố của lực lượng Đồng minh ngày 26/7.

                “Chính phủ Xô viết xét thấy rằng chính sách này là phương cách duy nhất có khả năng đem lại hòa bình gần hơn, để giải thoát nhân dân khỏi bị hi sinh và đau khổ hơn nữa và đem đến cho nhân dân Nhật Bản cơ hội tránh được nguy cơ bị hủy diệt mà Đức đã chịu đựng khi từ chối đầu hàng vô điều kiện.

                “Vì những điều trên, chính phủ Xô viết tuyên bố rằng bắt đầu từ ngày mai, tức là từ ngày 9/8, Liên bang Xô viết xem như đang trong tình trạng chiến tranh với Nhật Bản.”                   

   Kềm chế cơn xúc động, Đại sứ Sato lễ phép diễn tả sự hối tiếc việc Liên bang Xộ viết vi phạm hiệp ước bất tương xâm gần một năm trước khi hết hạn. Giờ đây, ông xin một ân huệ được điện thông tin về chính phủ. Molotov dẹp bỏ bộ mặt lạnh lùng: Sato có thể đánh đi bất cứ bức điện nào và bằng mật mã. Ông nói bản thân mình lấy làm hối tiếc về điều đã xảy ra. “Tôi hoàn toàn hài lòng với các hoạt động của ngài với tư cách một đại sứ Nhật Bản mấy năm vừa qua và vui sướng vì hai chúng ta có thể duy trì mối quan hệ tốt đẹp giữa hai chính phủ chúng ta cho đến tận hôm nay mặc dù vô vàn khó khăn đối mặt chúng ta.”

                “Tôi biết ơn vì thiện chí và lòng hiếu khách của chính phủ của ngài,” Sato trả lời bằng thứ tiếng Nga ngập ngừng, “khiến tôi có thể nán lại Moscow trong thời buổi khó khăn này. Thật đáng buồn khi chúng ta phải chia tay như những kẻ thù. Nhưng biết làm sao được. Dù sao, thì chúng ta hãy bắt tay nhau để chia tay. Đây có thể là cái bắt tay cuối cùng.”

                Họ bắt tay nhau, nhưng gần như ngay lập tức dây điện thoại tại tòa đại sứ Nhật bị cắt đứt và mọi thiết bị ra-điô đều bị tịch thu. Sato viết một bức điện bằng tiếng Nhật thường không phải mật mã và gởi đến phòng điện tín.

2

                Vụ ném bom Hiroshima không nghi ngờ gì nữa đã thúc giục người Nga đẩy nhanh thời khóa để bước vào cuộc chiến, nhưng hàng tháng rồi 1,600,000 quân dưới sự chỉ huy của Nguyên soái A. M. Vasilievsky đã tập kết dọc theo biên giới Mãn Châu. Họ đối diện với Quân đoàn Quảng Đông, với quân số phân nửa, đã bị tước đoạt hết xe bọc sắt và súng chống tăng, và hiệu năng trung bình của họ không tới 30 phần trăm đơn vị tiền tuyến trước chiến tranh.

                Hai giờ sau khi Molotov đọc tuyên bố tuyên chiến với Sato, hai quân đoàn Xô viết vượt biên vào Mãn Châu từ hướng Tây. Cùng lúc đó một quân đoàn khác, đóng ở Vladivostok, xâm chiếm từ hướng đông. Dù gặp những con đường lầy lội và những dòng suối nước tràn bờ do những cơn mưa xối xả suốt ngày, nhưng ba cánh quân Nga hùng hậu vẫn ồ ạt tiến vào Tsitsihar, Taonan và thủ phủ Harbin.

                Ngay sau cuộc họp với Sato, Molotov thông tin cho Đại sứ Averell Harriman cuộc chiến với Nhật sẽ bắt đầu vào nửa đêm. Liên bang Xô viết đã quyết định giữ đúng cam kết đúng lúc để bước vào trận chiến Thái Bình Dương ba tháng sau khi đánh bại Đức Quốc Xã.

                Sau đó vào buổi tối Harriman và George Kennam nhận thấy Stalin đang trong một tâm trạng hào hứng. Ông thông báo rằng những đơn vị Xô viết đầu tiên đã tiến sâu 10 đến 12 cây số vào Mãn Châu. “Ai có thể nghĩ rằng tình hình diễn tiến quá nhanh vào lúc này!” ông hớn hở.

                Harriman hỏi ông quả bom nguyên tử liệu sẽ có tác động gì với người Nhật? Stalin tin tưởng rằng kẻ thù sẽ tìm kiếm bất kỳ nguyên cớ gì để thành lập một chính phủ mới nhằm dàn xếp một cuộc đầu hàng. Harriman nhắc ông may mắn như thế nào khi người Xô viết đứng về phe sản xuất được quả bom, khiến Stalin bắt đầu niềm nỡ thảo luận về năng lượng nguyên tử. Ông ta hình như không mảy may băn khoăn khi các đồng minh đã ghi được một thành tựu khoa học lớn lao. Không ai biết rằng ngày hôm trước ông đã triệu tập năm nhà khoa học hạt nhân hàng đầu của Nga đến điện Kremlin và ra lệnh cho họ phát triển quả bom của chính họ ngay như có thể với bất cứ giá nào; ông ta đã cử Lavrenti P. Beria, Tổng Ủy viên An ninh Nhà nước và là người gieo khiếp đảm nhiều nhất ở Liên bang Xô viết, vào vai trò điều hành tổng quát của dự án.

                Có thể hiểu được tại sao người Mỹ nói chung coi quả bom nguyên tử chủ yếu như một sự giải thoát khỏi bốn năm chiến tranh đắt giá. Tuy nhiên, một số ít nhìn xa hơn sự hân hoan thông thường. Đô đốc Leahy cho rằng nó là một vũ khí phi nhân được sử dụng cho một dân tộc đã bị đánh bại và sẵn sàng đầu hàng, và rằng người Mỹ “đã công nhận một chuẩn mực đạo đức ngang với bọn man rợ của Thời kỳ Tối tăm.”

                Stimson cũng giữ nguyên thái độ băn khoăn nghiêm trọng. Chiều đó ông đã đưa cho Tổng thống xem bức ảnh minh họa sinh động “sự hủy diệt toàn bộ” của Hiroshima. Ông nói rằng họ phải đem hết sức mình để thuyết phục Nhật Bản đầu hàng càng nhanh càng tốt và thành công tùy thuộc phần lớn vào cách thức chúng ta tiếp cận người Nhật. “Khi bạn trừng phạt con chó của mình,” ông nói, “bạn không tẩy chai nó suốt ngày sau khi đã trừng phạt xong; nếu bạn muốn giữ được cảm tình của nó, hãy để trừng phạt làm công việc của nó. Với Nhật Bản cũng vậy. Về bản chất họ là một dân tộc hiếu khách và chúng ta phải nương theo điều kiện đó với họ . . . “

                Nhưng Truman chưa sẵn sàng vượt quá Tuyên bố Potsdam. Không phải ông không xúc động trước bức ảnh của Hiroshima, và nhìn nhận “trách nhiệm khủng khiếp mà sự hủy diệt đó đã đặt lên chúng ta ở đây và chính ông.” Cùng lúc đó, một quả bom thứ hai sẽ phải được sử dụng lúc này. Không có buổi họp cấp cao nào được triệu tập để thảo luận về sự cần thiết của một quả bom thứ hai, không ai thử xác định liệu quả bom thứ nhất hoặc việc Nga bước vào cuộc xung đột đã đẩy nhanh ý định đầu hàng của Nhật Bản. Nếu có sự ân hận về đạo lý nào mà các nhân vật có ảnh hưởng, trừ Stimson, cảm nhận được thì chúng không được diễn đạt đến  Tổng thống, còn ông thì không cảm nhận gì cả. Ộng sẵn sàng ném hai quả bom, ba-và nhiều hơn nữa, nếu việc đó cứu vớt sinh mạng người Mỹ.       

                Tại Guam, 32 bản sao mật lệnh cho việc oanh kích lần hai được in rô-nê-ô. Quyết định về cách thức và thời điểm sử dụng quả bom tiếp theo giờ nằm trong tay các Tham mưu Trưởng Liên quân. Thời điểm cất cánh ấn định là sáng sớm hôm sau, 9/8. Có 2 mục tiêu lựa chọn, cả hai đều ở trên đảo Kyushu: chính là Xưởng Vũ khí và Thành phố Kokura,” và thứ hai, “Vùng thành thị Nagasaki.”

                Trên Saipan gần đó, 16 triệu tờ rơi được thiết kế để thuyết phục người Nhật đầu hàng đã được Phòng Thông tin Chiến tranh in ra. Lượt tuyên truyền đầu tiên không mấy hiệu quả. Những cụm từ cổ và lỗi thời được sử dụng, những hình vẽ cho thấy đàn ông Nhật mặc đồ kimono với vạt trái úp lên vạt phải như các bà, và chụp ảnh các chiếc đũa được đặt mỗi chiếc ở hai bên đĩa như dao và nĩa của người Âu; các từ Nhật thì thường lạc điệu một cách khôi hài: “tự do ngôn luận” trở thành “tự do từ ngữ,” và “tự do mong cầu” trở thành “khỏi cần ước muốn.” Nhưng những lỗi này đã được đính chính, và từ đầu năm các tờ rơi của người Mỹ đã gây một tác động đối với dân chúng. Đặc biệt, tờ hiện thời sẽ gây một hiệu quả rõ nét lên tinh thần dân chúng:

GỞI NHÂN DÂN NHẬT BẢN

                Hoa kỳ yêu cầu bạn lập tức chú ý đến nội dung những gì chúng tôi nói trong tờ rơi này.

                Chúng tôi đang sở hữu những quả bom nguyên tử có sức hủy diệt nhất từng được con người chế tạo. Chỉ một trong các quả bom nguyên tử mới được triển khai của chúng tôi thực sự có sức công phá bằng 2,000 máy bay B-29 khổng lồ của chúng tôi trong một đợt oanh tạc. Sự kiện đáng sợ này đáng cho các bạn suy nghĩ và chúng tôi long trọng bảo đảm với các bạn rằng điều này là một sự thật không lay chuyển.

                Chúng tôi vừa mới bắt đầu sử dụng vũ khí này chống lại xứ sở các bạn. Nếu bạn còn có bất kỳ ngờ vực nào, hãy tìm hiểu những gì xảy ra với Hiroshima khi chỉ có một quả bom rơi xuống thành phố đó.

                Trước khi sử dụng quả bom này để phá hủy mọi khí tài quân sự mà họ dùng để kéo dài cuộc chiến vô ích này, chúng tôi yêu cầu các bạn giờ đây hãy thỉnh cầu đến Nhật Hoàng hãy kết thúc chiến tranh. Tổng thống của chúng tôi đã vạch ra cho các bạn 13 điều khoản của một cuộc đầu hàng danh dự. Chúng tôi kêu gọi bạn chấp nhận những điều khoản này và bắt đầu ra sức xây dựng một nước Nhật mới, tươi đẹp hơn và yêu chuộng hòa bình.

                Giở đây chúng tôi sẽ tiến hành các bước tiến nhằm dập tắt sức kháng cự quân sự. Nói cách khác, chúng tôi sẽ cương quyết sử dụng quả bom này và tất cả các siêu vũ khí khác của chúng tôi nhằm nhanh chóng và cưỡng bách kết thúc cuộc chiến.

                Hãy di tản khỏi thành phố ngay bây giờ!    

                            Thậm chí trước khi các tập sách được phân phối, các tờ báo ở Nhật cành báo rằng các bom “loại mới” đã được sử dụng tại Hiroshima mà ta “không nên coi thường.” Kẻ thù, tờ The Nippon Times nói, giờ đang lộ diện là kẻ “chủ tâm giết hại và làm bị thương càng nhiều dân chúng vô tội càng tốt nhằm thỏa mãn ý muốn kết thúc chiến tranh nhanh chóng.” Một bài xã luận có đầu đề “Một Vi Phạm Đạo Đức Chống Lại Nhân Loại” tiết lộ rằng quả bom mới sở hữu “sức mạnh chưa từng có. Không những phần lớn thành phố bị quét sạch, mà một tỷ lệ to lớn cư dân đã bị giết hoặc bị thương.”

                               Vào chiều ngày 8/8 Thiếu tá Charles Sweeney, người đã lái chiếc The Great Artiste qua Hiroshima, được

loan tin là người sẽ thả quả bom thứ hai, sử dụng một phi cơ khác. Không giống như quả bom dùng tại Hiroshima, đây là đầu đạn plutonium cầu, dài 10 bộ tám in-xơ và 5 bộ đường kính, biệt danh “Ông Mập” theo tên của Churchill. Đại tá Tibbets bảo Sweeney và phi hành đoàn của ông là “Ông Mập” sẽ làm cho quả bom đầu tiên bị lỗi thời. Ông chúc họ may mắn.

                Trong sứ mạng của mình Sweeney sẽ dùng Bock’s Car, trong khi hoa tiêu chính qui của nó, Đại úy Bock, lãnh nhiệm vụ lái máy bay công cụ.* Còn The Great Artiste được bố trí không chính thức cho một vai trò kép: ba nhà khoa học trẻ tuổi-Luis Alvarez, Philip Morrisori và Robert Serber-đính kèm lời kêu gọi cá nhân của mình, mà ba người cùng ký, vào một cái hộp nhỏ sẽ được thả dù xuống phía trên mục tiêu để thu thập dữ liệu. Bao thư gởi cho Giáo sư Ryokichi Sagane, một nhà khoa học hạt nhân Nhật Bản mà ba người đã từng quen biết khi làm việc chung với nhau vào thập niên 1930 tại Phòng Thí nghiệm Phóng xạ Đại học California.

Gởi Giáo sư R. Sagane,

Từ: Ba đồng nghiệp khoa học trẻ trước đây của ông trong thời gian ông dừng chân tại Hoa Kỳ

                Chúng tôi gởi đến ông bức thư có tính cá nhân này để thúc giục ông sử dụng ảnh hưởng của mình với tư cách một nhà vật lý hạt nhân tiếng tăm để thuyết phục Bộ Tổng Tham mưu Nhật Bản về hậu quả khủng khiếp mà nhân dân các ông có thể gánh chịu nếu các ông tiếp tục cuộc chiến này.

                Vài năm trở lại đây ông đã biết rằng một quả bom nguyên tử có thể được chế tạo nếu một quốc gia chịu bỏ ra chi phí khổng lồ để chuẩn bị những nguyên liệu cần thiết. Giờ ông đã thấy là chúng tôi đã xây dựng các nhà máy sản xuất, chắc ông không còn nghi ngờ gì khi tất cả sản lượng của những nhà mày này, làm việc 24 giờ mỗi ngày, sẽ được cho nổ trên đất nước của ông.

                Chỉ trong vòng ba tuần, chúng tôi đã cho nổ thử một quả trên sa mạc Mỹ, một quả khác tại Hiroshima, và khai hỏa quả thứ ba sáng nay.

                Chúng tôi khẩn nài ông xác nhận sự thật này cho các nhà lãnh đạo của ông, và làm hết sức mình nhằm chấm dứt sự tàn phá và hao tổn sinh mạng mà hậu quả là sự hủy diệt toàn phần tất cả các thành phố của ông nếu tiếp tục. Là một nhà khoa học, chúng tôi lấy làm tiếc về mục đích mà một khám phá đẹp đẽ đã được sử dụng đến, nhưng chúng tôi có thể bảo đảm với ông rằng trừ khi Nhật Bản đầu hàng ngay lập tức, cơn mưa bom nguyên tử sẽ gia tăng gấp nhiều lần cơn thịnh nộ.

Lúc 3:49 A.M. Bock’s Car ầm ầm chạy xuống đường băng dài. Không giống quả bom đầu tiên, “Ông Mập” không thể lắp ráp trong khi bay và phải gắn ngòi nổ sẵn khi cất cánh. Đường chạy lấy đà của chiếc B.29 tưởng như vô tận nhưng rồi cuối cùng mũi nó cũng chúc lên, và chầm chậm bay đi về hướng bắc trong bóng đêm, theo sát là chiếc The Great Artiste và máy bay chụp ảnh.

                Ngay từ đầu hình như sứ mạng đã gặp rủi ro. Sweeney phát hiện bộ lọc nhiên liệu cho 600 ga-lông dầu trong thùng chứa ở khoang bom không chịu hoạt động. Với nhiên liệu dự trữ không sử dụng được, phạm vi hoạt động của Bock’s Car bị hạn chế một cách nguy hiểm, nhưng Sweeney vẫn quyết định dấn tới.Lúc 8:09                      

            * Việc đổi máy bay vào phút chót làm bối rối các nhà viết sử. Do lầm lẫn các thông cáo chính thức cho biết rằng chiếc The Great Artiste đã bỏ bom và thông tin này đã được hầu hết các bài tường thuật khác trích lại, kể cả vài bài do nhân chứng viết. Sai sót được phát hiện vào năm 1946 khi có kế hoạch cho The Great Artiste về hưu, vì vai trò lịch sử của nó, và nhờ thế người ta mới biết số sê-ri của máy bay chở bom là số khác.  

            Giáo sư Sagane chỉ đọc được lá thư sau chiến tranh. Nếu ông nhận được ngay ông có thể thuyết phục một nhóm các khoa học gia tên tuổi gia nhập với ông trong việc phản kháng, nhưng bức thư cố tình không được giao cho ông. Ngày sau khi quả bom được ném xuống một sinh viên cũ của ông, một sĩ quan hải quân, xúc động báo tin cho ông biết là một bức thư do một vài người Mỹ gởi đến ông đã được giao cho Hải quân. Tuy nhiên một sĩ quan Lục quân đã chỉ thị Giáo sư Sagane đừng đếm xỉa gì đến tin đồn ông có thể nghe là Hải quân đã tìm được một bức thư “nói về quả bom nguyên tử” vì không có bức thư như thế.         

A.M. giờ Tokyo, trước thời hạn ấn định 1 phút, một hòn đảo nhỏ xuất hiện phía trước qua một khoảng trống giữa các đám mây. Đó là Yakushima, tận bờ biển phía nam của đảo Kyushu, nơi Bock’s Car được dự trù họp với các máy bay hộ tống của mình.

                Ba phút sau một chiếc B-29 khác lù lù hiện ra giữa đám mây. Đó là chiếc The Great Artiste. Hai phi cơ bay vòng vòng trong 45 phút nhưng không thấy chiếc máy bay chụp ảnh xuất hiện. “Kệ nó đi,” Sweeney bảo cơ phó. “Chúng ta không thể đợi lâu hơn được.” Ông lắc cánh và bay về hướng mục tiêu chính. Kokura, một hải cảng trên bờ biển đông bắc của Kyushu, được báo cáo là có tầm nhìn rõ. Nhưng thành phố bổng thình lình trở nên mờ mịt phần nào vì khói và sương mù, và người cắt bom Kermit Beahan, người được phân công dò tìm mục tiêu bằng mắt, không thể nào tìm được điểm nhắm. Anh gọi lại Sweeney, “Chúng ta phải di chuyển đến vị trí khác thôi.”

                “Hoa tiêu nói với phi hành đoàn,” Sweeney thông báo. “Không bỏ. Lặp lại, không bỏ.” Ông nghiêng cánh thật gắt và hướng đến vị trí khác thử lần thứ hai. Đại úy Beahan nheo mắt trong lỗ nhắm đệm cao su của ông nhắm bom hiệu Nordon MK 15. Tất cả gì anh nhìn thấy chỉ là làn khói dầy đặc. “Tôi không tìm được điểm nhắm,” anh nói.

                “Không bỏ,” Sweeney bảo anh. “Lặp lại, không bỏ.”

                Họ bay vào từ hướng đông. Ở đây, cũng vậy, Kokura vẫn bị che khuất. Viên kỹ sư phi hành thông báo là nhiên liệu “đang tới hạn” chỉ vừa đủ để bay về Iwo Jima. Sweeney báo đã nghe rõ, và quay sang người điều khiển vũ khí-sĩ quan đang trông coi “Ông Mập”, Chỉ huy Frederic Ashworth-và nói, “Chúng ta sẽ đi đến mục tiêu thứ hai, nếu anh đồng ý.” Viên sĩ quan Hải quân gật đầu. “Hướng về Nagasaki,” Sweeney ra lệnh cho phi hành đoàn và quay tàu về hướng tây nam. Máy bay thời tiết báo cáo là trên bầu trời Nagasaki chỉ có 2 phần 10 mây.               

                Nagasaki, một thành phố 200,000 dân, trải rộng qua những ngọn đồi dốc, như San Francisco. Vịnh đối diện với Biển Đông Trung Hoa. Nó nổi tiếng từ xưa là một cảng ngoạn mục, đặc biệt giờ đây, mới chớm thu mà nhiều vòm lá đã phủ một màu nâu đỏ vàng rực rỡ. Trung tâm thành phố nằm đối diện với vịnh, vốn được tạo thành bởi con sông Urakami chảy vào từ hướng bắc. Qua vài thế kỷ, Nagasaki đã mở rộng từ hạt nhân này ra đến vài thung lũng, bao gồm thung lũng do con sông tạo hình giờ đây đã trở thành một phức hợp kỹ nghệ thu hút 90 phần trăm lực lượng lao động của thành phố.

                Vào năm 1571 người Bồ Đào Nha đã giúp xây dựng nó từ một làng đánh cá thành một cảng ngoại thương chính của Nhật, cửa ngõ đưa vào thuốc lá, vũ khí và đạo Cơ đốc. Tín ngưỡng mới lan tràn đến độ chính quyền thi hành những biện pháp tàn nhẫn để dập tắt. Tất cả giáo sĩ hoặc bị giết hoặc bị trục xuất khỏi xứ, nhưng vào thế kỷ mười bảy 37,000 giáo dân của họ nổi dậy chống lại sự ngược đãi tôn giáo. Họ tập họp quanh một lâu đài gần Nagasaki, và với sự hỗ trợ của súng đạn từ vài con tàu Hà Lan, họ cầm cự được với binh lính của chính quyền trong ba tháng trước khi bị tàn sát không còn một mống.

                Tuy nhiên, tín ngưỡng của họ vẫn sống sót, và Nagasaki trở thành thành phố được Âu hóa nhiều nhất, và theo đạo Cơ đốc nhiều nhất ở Nhật Bản, một sự pha trộn hài hòa hai nền văn hóa Đông và Tây với nhiều nhà thờ và trường Cơ đốc, hàng trăm ngôi nhà kiểu Tây phương, và điểm hấp dẫn du khách như Lâu đài Glover, ngôi nhà huyền thoại của Madame Butterfly nhìn xuống cảng.

                Shigeyoshi Morimoto đang trên đường về nhà ở Nagasaki, vẫn còn chưa hết bàng hoàng. Chỉ ba ngày trước ông đã thoát chết một cách mầu nhiệm ở Hiroshima, tại đó ông đã làm việc nhiều tháng qua chế tạo những con diều phòng không cho Quân đội. Ông đang trong tiệm mua cọ vẽ cách điểm zero chưa đến 900 ya

thì quả bom phát nổ, và những vật liệu đổ nát của cửa tiệm ọp ẹp đã che chở ông khỏi pika. Ông đã chạy khỏi thành phố cùng với ba cộng sự, trên một chiếc xe than hướng về Nagasaki để tìm sự an toàn. Suốt đêm họ bàn tán không ngớt về “quả bom.” Có phải dân Nhật đã bị trừng phạt bởi một sức mạnh siêu nhiên vì tội tấn công Trân Châu Cảng? Vào lúc mà con tàu hỏa vận tải hành lý đang đổ dốc xuống trạm cuối tại Nagasaki, Morimoto có một dự cảm không lay chuyển là quả bom sẽ theo mình đến tận nhà. Ông phải cảnh báo cho bà vợ. Ngay khi ông tiến gần đến cửa tiệm của ông, ngay trung tâm thành phố, thì gần như là 11 A.M.

                Xui xẻo vẫn tiếp tục theo bám Bock’s Car. Khi nó đến gần mục tiêu thời tiết bổng trở nên tồi tệ. Mây che phủ Nagasaki đến mức 9 phần 10. Sweeney bảo Chỉ huy Ashworth với mực nhiên liệu giảm bớt họ chỉ có thể bay đến một vị trí và đề nghị bỏ “Ông Mập” bằng ra-đa. Ashworth do dự; anh chắc phải bỏ bom xuống biển nếu anh không thể tìm được mục tiêu bằng mắt. Như vậy thì phí quá, anh nghĩ, và quyết định khôngvâng lời. “Tiến lên và bỏ bom bằng ra-đa,” anh bảo Sweenney, “nếu anh không thể bỏ bằng mắt.”

                Điểm bỏ bom, được chọn nhằm gây ra tàn phá tối đa cho thành phố, ở trên một cao điểm gần cửa hàng diều của Morimoto. Vụ nổ sẽ xóa sạch trung tâm thị trấn, vùng cảng và đến tận các nhà máy ở Thung lũng Urakami. Nagasaki xuất hiện trên tầm ra-đa vào lúc 11 A.M. Nhân viên cắt bom Beahan la lên với Sweeney, “Tôi thấy nó rồi. Tôi thấy thành phố rồi.” vậy là cuối cùng anh có thể bỏ bom bằng mắt. Qua một khe hở trong mây anh có thể thấy bờ bao của một vận động trường trên bờ sông Urakami. Nó gần như cách tâm chấn đã chọn hai dặm về phía tây  bắc nhưng như vậy cũng được. Anh canh dấu chữ thập trong ống nhắm vào vận động trường, và vài giây sau đó, lúc 11:01 A.M., phi cơ lắc lư bay hướng lên.

                “Các quả bom đã bỏ,” Beahan báo cáo qua bộ đàm, rồi tự đính chính, “Bom đã bỏ.”

                Morimoto, thợ làm diều, hổn hển kể cho vợ nghe quả bom bỏ xuống Hiroshima khủng khiếp đến thế nào và rằng ông sợ rằng Nagasaki cũng là mục tiêu tiếp theo. Ông bắt đầu mô tả cái pika. “Trước tiên là một lóe chớp xanh rất to-“ Một chớp lóe xanh lóa mắt cắt ngang lời nói của ông. Ông mở tung cái cửa sập trên nền nhà và xô vợ và con trai vào trong hầm trú ẩn. Khi ông kéo cửa sập nặng nề xuống mặt đất bổng chấn động khủng khiếp, như một trận động đất.

                Nếu không được mây che bên trên, cửa hiệu của Morimoto, trực tiếp bên dưới điểm rơi dự tính ban đầu, sẽ bị xóa sạch nhưng quả bom nổ cách vận động trường và con sông vài trăm ya về hướng đông bắc, gần như chính xác giữa Nhà máy Thép và Vũ khí Mitsubishi và Nhà máy Ngư lôi Mitsubishi.

                Hajime Iwanaga, sẽ lên 14 tuổi vào ngày hôm sau, đang tắm trong dòng sông Uragami gần Nhà máy Ngư lôi. Em trông thấy một vật thể đen (đó là hộp công cụ) bỏ rơi từ một máy bay và bung thành chiếc dù. Em gọi lớn “Máy bay bạn!” với một người bạn thân và hớn hở hụp xuống nước khi pika lóe sáng. Vài giây sau đó em trồi lên vào một thế giới chói lòa. Một cái gì đó ấm nóng bám chặt vào vai trái của em. Màu nó vàng vọt. Ngạc nhiên, em lấy tay rờ và thấy da mình lột ra. Em bơi nhanh đến bờ khi bầu trời tối đen đầy điểm gỡ, và chạy đến lấy quần áo khi hai quả cầu màu xanh lá đậm, có kích thước cỡ quả bóng chày, bay thẳng đến em. Một quả trúng áo sơ mi, làm nó bắt lửa, và tan rã. Khi em chạy vội lên bờ em nghe tiếng thằng bạn dưới sông hét lên thảm thiết, “Mẹ ơi!” Những giọt mưa nặng hạt rơi lộp đôp lên mình em một lúc.

                Taeko Fukabori, lớn hơn một tuổi, đang giúp bơm nước ra khỏi một hang động thiên nhiên lớn dùng làm nơi trú ẩn công cộng cho những vụ oanh kích. Em bị ném văng vào bùn và nhớ đã từng nghe kể chuyện người ta bị chôn sống ra sao trong một vụ oanh tạc hồi tuần trước tại xưởng tàu. Khiếp đảm, em mò mẫm về phía lối ra. Bên ngoài (hang động không tới 200 ya cách điểm zero) em thấy mình đang đứng giữa địa ngục. Thi thể các công nhân tại lối vào cháy thành than đến nổi em không nhận ra phía nào là lưng phía nào là ngực.

Một người không tóc và thân thể cháy đen-không thể biết là đàn ông hay phụ nữ- bước qua, hình như quên hết sự đời, chỉ có một sợi dây lưng quần quanh hông và đang cháy.

                Taeko chạy lên con dốc phía đông của thung lũng để về nhà với mẹ. Một anh lính ngăn em lại, bảo rằng hướng đó không qua được. Em đi theo anh ta vượt qua đường ray xe lửa đến con sông, không biết rằng má phải và vai phải của em đã bị bỏng. Linh tính thình lình báo cho em biết là gia đình em trên đồi vẫn bình yên.

                Phía xa trên đồi, kế cận với nhà tù thành phố và cách tâm chấn chưa tới 275 ya, Kazuko Tokai 12 tuổi đã bò vào trong hầm trú ẩn nhỏ, chưa hoàn tất của gia đình để nghỉ ngơi. Lớp đất dày 2 bộ (khoảng 60 cm) bên trên em đã cứu em thoát chết khỏi pika. Em cảm thấy một cảm giác không thể mô tả được trên cơ thể và nghe một âm thanh răng rắc như tiếng chiên xèo. Em bò ra ngoài, vào bóng tối. Bối rối-em nghĩ đã là đêm-và không thể cảm nhận hay ngửi thấy cái gì cả, em bắt đầu đi mà không biết mình đi đâu.

                Khi màn bụi đã lắng xuống, Kazuko thấy mình đứng trước một bức tường sụp đổ-đó là những gì còn sót lại của Nhà tù Urakami. Em quay trở lại để về nhà. Ngôi nhà đã biến mất. Kazuko kéo mẹ ra khỏi đống ngói đổ, và hai người tìm thấy ông Tokai trong đống đổ nát. Da ông lột khỏi bàn tay như một cái bao tay khi họ kéo ông ra.

                Gần đỉnh dốc trong một viện điều dưỡng người bệnh lao có 70 giường-cách điểm zero 1,500 ya- Bác sĩ Tatsuichiro Akizuki đang lụi một cây kim dài vào sườn một bệnh nhân nam thì ông nghe một tiếng ồn kỳ lạ, như có một máy bay to sầm đang gầm thét lao xuống đầu họ. Nó sắp sửa đụng vào bệnh viện. “Nằm xuống đất!” ông hét lên. Ông rút kim tiêm và phóng xuống sàn phòng. Một chớp trắng lóe sáng và nhữngmảnh vụn rơi lả tả lên đầu ông. Ông cố gắng đứng dậy, không hề hấn gì. Không khí dày đặc bụi đến từ vôi tường vỡ vụn làm cho ngạt thở.

                Ông sợ rằng các bệnh nhân ở tầng 2 và 3 đều đã chết, và ông đi về hướng cầu thang cùng với một y tá. Các bệnh nhân đang đi xuống, sợ hãi nhưng chỉ bị thương sơ sài. Qua cửa sổ ông nhìn thấy khói vàng ở Thung lũng Urakami. Nhà thờ đang bốc cháy; trường trung học dạy nghề cũng vậy. Bầu trời đỏ và vàng âm u. Ông bị kéo đi ra ngoài đến khu vườn. Lá cà và cây khoai tây đang âm ỉ cháy. Chắc là quả bom giống như ở Hiroshima. Hiệu trưởng của Cao đẳng Y khoa Nagasaki đã chứng kiến sự đổ nát trong thành phố đó, và mới ngày hôm qua, đã sôi nổi mô tả sự kiện đó tại buổi họp nhà trường.

                Ở đáy thung lũng Hachiro Kosana đã đi vào nhà kho của xưởng ngư lôi để lấy nguyên liệu kim loại khi anh cảm thấy có điều gì đó kỳ lạ. Anh quay lại và trông thấy cửa sổ sáng lóa với nhiều màu sắc-chắc có thùng ga nào đó phát nổ. Anh phóng người xuống sàn khi trần nhà sập xuống. Không để ý đến vết cắt trên đầu, chân và đùi, anh loạng choạng về phía phòng y tế của xưởng, nhưng nó đã không còn. Trong bóng tối lờ mờ người ta đi loang quanh một cách bất lực. Trong thâm tâm anh biết mình phải thoát khỏi nơi này và về nhà. Yếu vì mất khá nhiều máu, ông buộc xà cạp quanh đùi để cầm máu, và sợ thi thể của mình không được người thân tìm thấy và chôn cất tử tế, khiến ông dấn bước về hướng nam đến Nhà Máy Thép và Vũ Khí Mitsubishi. Chẳng bao lâu đôi chân không còn nghe lời ông được nữa và ông phải tiếp tục đi tiếp bằng tay và đầu gối.

                Tại xưởng thép, trải dài gần một dặm xuống tận ga xe lửa, Etsuko Obata 16 tuổi đã bắt đầu một công việc mới vào sáng hôm đó là giũa các chi tiết máy trên tầng 2. Cơn chấn động khiến cô bất tỉnh, khi tỉnh dậy, cô thấy mình lơ lững trong đống đổ nát cách nền nhà sáu bộ (khoảng 1.8 mét). Cô được khiêng vào xe tải hướng về Bệnh viện Đại học trên con dốc phía đông, nhưng những đám lửa bắt buộc “xe cứu thương” phải quay về hướng nam, về hướng nhà ga. Đại lộ này cũng trở nên tắt nghẽn vì lửa lan tràn, và các bệnh nhân được yêu cầu xuống xe và đi bộ. Etsuko gượng đau xuống xe. Mặt trời trông lớn và đỏ, cháy đỏ. Cô cố gắng bò bên dưới xe tải để trú ẩn nhưng không thể được. Thật khó hiểu, cơn mưa nặng hạt bổng đổ xuống, rít lên trong đám lửa và mặt đất nóng bỏng.

                Trên trời, phi hành đoàn trong hai chiếc B.29 trông thấy một quả cầu lửa khổng lồ dâng cao lên như thể từ lòng đất, ợ ra những vòng khói trắng cuồn cuộn.” Thông tín viên William Laurence trong chiếc The Great Artiste nhìn thấy một cột bốc lửa bắn lên cao hai dặm vào bầu trời. Ông bắt đầu ghi chép hí hoái một cách điên cuồng khi cột lửa trở thành “một sinh vật sống, một chủng loài mới, sinh ra ngay trước những con mắt không dám tin.” Một cây nấm khổng lồ dâng lên cuồn cuộn ở trên cùng, thậm chí còn như đang sống hơn cả cột lửa sừng sững. Nó sủi bọt và sôi sục trong cơn thịnh nộ màu trắng như một ngàn suối nước nóng. Trong tíc tắc nó tách khỏi cuống và một cây nấm nhỏ hơn thế chỗ. Nó như, Laurence nghĩ, một con quái vật bị chặt đầu lại mọc ra một cái đầu mới.

                Trong chiếc Bock’s Car tay súng phía sau la lớn vào máy bộ đàm đến Sweeney, “Thiếu tá, ra khỏi chỗ khỉ gió này đi!”

                Khi Sweeney quay máy bay đi khỏi cảnh tượng kinh khiếp, Cơ phó Albury gọi cho người cắt bom, “Này, Bea, mầy vừa giết 100,000 ngàn tên Nhật đó.”

                Beahan không trả lời.

                Họ bắt đầu bớt căng thẳng. Trong khi cởi bỏ bộ áo chống đạn vướng víu họ chúc mừng lẫn nhau, và điện báo viên gởi về Tinian báo cáo đầu tiên của Sweeney:

                BỎ BOM NAGASAKI 090158Z BẰNG MẮT KHÔNG CÓ CHIẾN ĐẤU CƠ TẤN KÍCH VÀ KHÔNG HỎA LỰC PHÒNG KHÔNG. CÁC KẾT QUẢ “THÀNH CÔNG VỀ MẶT KỸ THUẬT” NHƯNG CÁC YẾU TỐ KHÁC LIÊN QUAN KHIẾN CẦN PHẢI THẢO LUẬN TRƯỚC KHI TIẾN HÀNH BƯỚC TIẾP THEO. CÁC HIỆU QUẢ NHÌN THẤY ĐƯỢC GẦN BẰNG VỚI HIROSHIMA. TRỤC TRẶC TRONG MÁY BAY SAU KHI NÉM BOM KHIẾN CHÚNG TÔI PHẢI TIẾN ĐẾN OKINAWA. NHIÊN LIỆU CHỈ ĐỦ ĐẾN OKINAWA.

                Các nạn nhân của Nagasaki không phải đều là người Nhật. Một đội lao động của tù binh Đồng minh tại Nhà Máy Thép và Vũ khí bị luồng hơi nóng táp đến và một số người chết. Một trại tù binh chiến tranh cách đó một dặm bị hư hại nặng và không ai rõ có bao nhiêu người thiệt mạng. Thậm chí cách đó 40 dặm tại Trại Senryu, Bác sĩ Julien M. Goodman, một bác sĩ giải phẫu bị bắt tại Bataan, cảm nhận sự chấn động. Có tiếng rùng rùng nghiêm trọng, tiếp theo là một luồng hơi nóng. Mặt đất rung chuyển. Trong những giây phút sau đó có một chấn động khác, và một thầy thuốc người Úc, Bác sĩ John Higgin, nhận xét, “Đây chắc là khởi đầu của màn pháo hạm bắn chặn hùng hậu.” Các làn sóng chấn động và rung lắc tiếp tục gần năm phút. Hiện tượng khó hiểu này làm náo loạn cả trại tù binh. Các tù binh được gọi tập trung vào sảnh ăn và được thông báo

không gởi thêm các chi tiết sản phẩm nào đến các hầm mỏ than.

                Một thủy phi cơ Nhật đang hướng thẳng về Nagasaki qua các đám mây ở độ cao 10,000 bộ (khoảng 3,000 m). Trước đó 10 phút một thông báo đã đến căn cứ hải không quân ở Sasebo về một “trận dội bom dữ dội” gần Nagasaki, và viên hoa tiêu, một học viên sĩ quan 20 tuổi, đã cất cánh mà không xin phép để điều tra. Học viên Nobukazu Komatsu đã nghe tuyên bố của Truman về Hiroshima qua làn sóng ngắn. Có lẽ đây cũng là           một quả bom nguyên tử.

                Máy bay ra khỏi đám mây và chạm trán với một cột khói đen khổng lồ. Ở chóp cột, “như đầu của một con quái vật,” là một quả cầu khổng lồ đang phình ra, đổi màu như trong kính vạn hoa. Bay lại gần hơn, Komatsu nhận ra rằng các màu sắc là một ảo giác gây bởi tia nắng mặt trời. Anh bắt đầu lượn quanh đám mây; mọi vật ở bên dưới đều bị che phủ. Anh hét to với hai người đồng hành, “Hãy trốn vào trong mây!”

                Chẳng khác nào lò nướng. Komatsu mở cửa sổ phòng lái và duỗi bàn tay có mang bao tay ra-cảm giác như thọc tay vào lò hơi. Anh giật lùi tay lại, đóng sập cửa, và thấy bao tay mình phủ đầy “thứ bụi dinh dính.” Một người bạn bổng la lên. Thượng sĩ Umeda đang nôn mửa. Bóng tối và hơi nóng gia tăng. Người thứ ba, Học viên sĩ quan Tomimura, mở cửa cho thoáng. Một luồng hơi nóng áp vào mặt anh. Anh thét lên và đóng cửa sổ ngay trước khi chiếc thủy phi cơ vọt vào ánh sáng mặt trời lần nữa. Mặt mày của họ phủ đầy chất bụi dính xám xịt.

                Đầu anh đau nhói, và cố nén cơn buồn nôn, Komatsu bay vòng vòng hạ thấp xuống. Bên dưới, Nagasaki là một đám lửa và mây đen cuồn cuộn. Anh giảm động cơ nhằm hạ thấp hơn để chụp ảnh nhưng hơi nóng bắt buộc anh phải quay về phía vịnh. Ở đó anh sẽ đáp vào cảng và tiếp tục đi bộ thám sát thành phố. *

 

3

                Báo cáo của Đại sứ Sato gởi đến Tokyo cho biết Liên bang Xô viết đã tuyên chiến không hề được phát đi, lời hứa của Molotov là lời hứa cuội. Chính người Nga, vài giờ sau đó, đã phát thanh tin ấy. Nó được truyền đi từ phòng phát thanh của Bộ Ngoại giao trước bình minh sáng hôm đó, trong khi chiếc Bock’s Car vẫn còn cách Nagasaki hàng trăm dặm. Hi vọng mong manh cuối cùng của Togo về cuộc đàm phán với Liên bang Xô viết đã bị đập tan, dù ông đã thúc đẩy hết sức, dù tin chắc là nó vô vọng. Nhật Bản đã bị đâm sau lưng mà không được báo trước-ông phẫn nộ như Cordell Hull vào ngày Trân Châu Cảng. Ông tự mình mang tin đến Thủ tướng Suzuki, trách móc ông vì thất bại không thể triệu tập một cuộc họp khẩn cấp của Sáu Ông Lớn ngày hôm qua. Cơn giận của Togo là không cần thiết. Lần này Suzuki không tranh luận hoặc chơi chữ; phản ứng của ông thật đơn giản và thẳng thừng. “Chúng ta hãy kết thúc chiến tranh,” ông nói. Nhưng trước tiên ông muốn bảo đảm là Nhật Hoàng tán thành một vụ đầu hàng tức thì. Tại obunko ông nhận thấy Nhật Hoàng đồng ý chấp nhận bất kỳ điều khoản nào miễn dẫn đến hòa bình.

                Với bảo đảm này Suzuki ra lệnh triệu tập một cuộc họp khẩn cấp gồm Sáu Ông Lớn. Lúc đó là 11 A.M., một phút trước khi “Ông Mập” rơi xuống Nagasaki. “Theo tình hình hiện nay,” Suzuki bắt đầu, “tôi đã kết luận rằng lựa chọn duy nhất của chúng ta là chấp nhận Tuyên bố Potsdam và kết thúc chiến tranh. Tôi muốn nghe ý kiến của các ông.”

                Không ai nói gì.

                “Tại sao mọi người đều im lặng như thế?” Đô đốc Yonai hỏi. “Chúng ta sẽ không đi đến đâu nếu không phát biểu thẳng thắn.”

                Ba nhân vật quân sự khác bất mãn với ý muốn thảo luận về việc đầu hàng của Yonai, lúc này việc Nga xâm chiếm Mãn Châu làm họ bàng hoàng còn hơn vụ bỏ bom ở Hiroshima. **   

                Một sĩ quan bước vào phòng với báo cáo là quả bom nguyên tử thứ hai đã được ném xuống. Tin tức sôi sục này, cùng với tin từ Mãn Châu, đã khiến nổi bất mãn bấy lâu kìm nén của Anami, Umezu và Toyoda phơi bày. Từ thâm tâm họ hiểu rằng đầu hàng là không thể tránh khỏi nhưng vẫn quyết liệt từ chối việc công nhận Tuyên bố Potsdam cho dù nếu Nhật Hoàng được cho phép tại vị. Hơn nữa, họ nhất quyết đòi là các tội phạm chiến tranh phải để chính người Nhật xét xử, đòi Quân đội phải bị giải giới bởi các viên chức Nhật, và lực lực lượng chiếm đóng phải bị hạn chế.

                * Umeda chết vì bệnh bạch cầu hai năm sau; Tomimura cũng chết vì bạch cầu vào năm 1964; Komatsu còn mắc bịnh thiếu máu.                   

                ** Sau chiến tranh Đô đốc Toyoda nói, “Tôi tin rằng sự tham gia của Nga vào cuộc chiến chống lại Nhật Bản hơn là những quả bom nguyên tử đã đẩy nhanh việc đầu hàng.” Lịch sử chính thức của Anh, Cuộc Chiến Chống Nhật, cũng ủng hộ quan điểm này: “. . . vì nó cho các thành viên của Hội đồng Tối cao thấy rõ là hi vọng cuối cùng về một nền hòa bình được thương lượng đã tiêu tan và không có lựa chọn nào khác trừ ra sớm muộn gì cũng phải chấp nhận những điều kiện của Đồng minh.”   

 

                Togo nỗ lực một cách nôn nóng cố thuyết phục họ nhận thức được thực tế của tình hình. Với Nhật Bản đang trên bờ sụp đổ, Đồng minh không nghi ngờ gì sẽ bác bỏ những điều khoản như thế và mọi nỗ lực tìm kiếm hòa bình sẽ lâm nguy. Giới quân sự có thể đưa ra cơ may nào chiến thắng không? Bộ trưởng chiến tranh Anami không thể, nhưng ông còn muốn Nhật Bản đánh thêm một trận lớn nữa-trên đất liền. Ông có thể nào ngăn kẻ thù không đổ bộ được chăng? Togo gặn hỏi.

                “Nếu may mắn chúng ta có thể đẩy lùi bọn xâm lăng trước khi chúng đổ bộ,” Umezu trả lời. “Với bất cứ giá nào, tôi có thể nói một cách đầy tin tưởng là chúng ta có thể đánh tan một bộ phận lớn của lực lượng xâm lăng. Tức là, chúng ta có thể giáng những tổn thất vô cùng nặng nề xuống kẻ thù.”

                Togo hỏi dồn: Điều đó có tạo ra khác biệt gì? Kẻ thù chỉ cần phát động một cuộc tấn công thứ hai, thứ ba nếu cần. Không có gì phải làm khác hơn là thương thảo cho hòa bình với tối thiểu yêu sách. Sau ba giờ vấn đề vẫn chưa giải quyết được. Suzuki đình hoãn cuộc họp và thông báo kết quả bế tắc cho Hầu tước Kido. “Chỉ có một cách giải quyết duy nhất,” ông bảo Cơ Mật Viện. “Chúng ta phải hỏi Nhật Hoàng cho ngài quyết định.”

                Đó là một đề nghị táo bạo; dù Nhật Hoàng có  quyền lực, nhưng vai trò của ông không bao trùm việc quyết sách. Nhưng Kido cũng nhận thức được rằng chỉ có một hành động phi thường của Ngôi Vương mới có thể cứu vãn Nhật Bản. Không chần chừ Cơ Mật Viện giải thích tình hình cho Nhật Hoàng. Nhà Vua cũng thấy được sự cần thiết phải thách thức truyền thống.

                Cuộc họp Nội Các chiều hôm đó cũng không thể làm gì hơn Sáu Ông Lớn vào buổi sáng đó. Giới quân sự một lần nữa xếp hàng chống phe dân sự-tất cả trừ Yonai, người luôn khẳng định không lợi lộc gì để tiếp tục chiến tranh. “Do đó chúng ta đừng nên sợ bẽ mặt và đầu hàng nhanh như có thể, và bắt đầu xem xét ngay lập tức cách tốt nhất để bảo vệ đất nước.”

                Những lời lẽ này của ông làm điên tiết các sĩ quan thân hữu của ông. Anami không thể kềm chế cơn nóng giận. “Việc chúng ta sẽ giáng cho kẻ thù những tổn thất nghiêm trọng khi chúng xâm lăng Nhật Bản là điều chắc chắn,” ông nói, “và không phải là không thể lật ngược tình thế và chuyển bại thành thắng.” Hơn nữa, các đơn vị Quân đội trên chiến trường sẽ không chịu bị giải giới. “Những chiến sĩ chúng ta nhất định không buông vũ khí. Họ biết  rằng họ được lệnh không đầu hàng. Thực sự không có lựa chọn nào cho chúng ta khác hơn là tiếp tục chiến đấu.”

                Bốn bộ trưởng dân sự-Canh nông, Thương mại, Vận tải và Quân nhu- thì nghĩ khác. Nhân dân đang sức cùng lực kiệt; mùa màng năm nay thất bát nhất so với nhiều năm qua; đất nước không còn sức để chiến đấu.

                Anami nôn nóng ngắt lời: “Ai cũng biết chuyện đó, nhưng chúng ta phải chiến đấu đến cùng dù cho bất lợi đến mức nào đi nữa.”

                Tại cửa sông Urakami các thùng chứa ga gần trạm xe lửa vọt lên không như những quả cầu lửa quái đản, rồi đâm sầm xuống đất rồi bắn lên lần nữa. Các thùng dầu bay vọt lên còn cao hơn. Ngay phía bắc, những người sống sót choáng váng tìm đường ra khỏi điểm zero. Một người đàn ông trần truồng, bộ mặt ngơ ngác, đang bồng một thằng bé ruột đổ lòng thòng ra khỏi màng bụng. Một con mèo, lông nó cháy xoắn lại, đang liếm bộ ruột đổ ra từ một con ngựa.

                Midori Nishida là một cô gái chạy giấy ở Nhà máy Thép và Vũ khí có mái tóc bốc lửa vì pika. Cô tìm cách tẩu thoát băng qua cầu xe lửa Ohashi ngay phía trên vận động trường, không biết là mình đang đi về phía trung tâm của trận tàn phá. Các thanh tà vẹt đã cháy tiêu và cô xê dịch từ từ để băng qua, cố giữ thăng bằng trên đường ray méo mó. Con sông bên dưới ngập ngụa xác chết. Cái mông của một phụ nữ gần bờ sông phình to như quả bóng. Gần đó một con bò đen-trắng bao phủ bởi các đốm thịt sống màu hồng đang điềm nhiên uống nước.

                Tại một chỗ Midori suýt té và cô cầu cứu một cô gái đi chiều ngược lại. Đó là một cô bạn học, nhưng thân thể bị cháy xém của Midori làm người bạn sợ hãi; cô ta bật khóc và không chịu đụng vào người Midori. Bất mãn Midori bỏ đi về bờ đông. Cô đi ngang qua một người đàn ông trần truồng cháy thành than đang đứng như một pho tượng tay chân giang rộng ra. Y đã chết. Đằng trước cô trông thấy những kiện than. Khi đến gần cô mới nhận ra đó là những thi thể người. Gương mặt của họ to và tròn như được bơm căng bằng hơi. Không có tòa nhà nào, chỉ có những đống gạch vụn cháy âm ỉ. Gần tâm chấn cô bắt gặp một bạn học khác, một chàng trai. Anh chỉ nhận ra cô khi cô lên tiếng. “Cậu đúng là Nishida đấy chứ?” Anh hỏi.

                Quanh họ là những tiếng kêu rên rỉ xin được giúp đỡ. Midori cảm thấy như bị một lực kéo không cưỡng lại được về phía đó, kinh hoảng cô bỏ chạy về hướng con sông. Với người bạn đồng hành mới cô chọn đi về  hướng nam dọc theo bờ sông cho đến khi họ tìm được một chỗ đủ cạn để vượt qua sông. Họ đi ngang một bà mẹ và cô con gái đang ngồi trên một gối đệm cháy sém. Cô gái nghiêng người về phía trước, đã chết, đầu cô gục xuống nước. Người mẹ nhìn cô trân trối như ngây dại. Tại sao bà ta không kéo con gái ra khỏi nước? Midori tự hỏi và tiếp tục đi về nam qua Nhà máy Thép và Vũ khí, không biết là đế giày của mình đã cháy thủng.

                Khi hoàng hôn chập choạng che mờ cảnh tượng khủng khiếp của Nagasaki, hàng ngàn người sống sót không thể rời vùng bị tàn phá vì bị thương hoặc bất tỉnh. Bé Kazuko Tokai, mà hầm trú ẩn bằng đất mỏng manh của em cách điểm zero khoảng 275 ya đã cứu cô khỏi bị thương, nằm túm tụm cùng với mẹ và cha trong hầm trú ẩn công cộng trống không gần đống đổ nát của ngôi nhà họ. Ngay trước khi các vì sao xuất hiện, cha của Kazuko qua đời. Tiếng kêu của mẹ em trở nên khản đặc và không nghe rõ. “Đừng chết!” Kazuko van xin mẹ trong bóng tối. Không có tiếng mẹ trả lời, Kazuko cũng không sao lay mẹ tỉnh. Bà cũng đã chết. Cô con gái đợi. Em không nghe một âm thanh nào từ bất cứ đâu trong cõi hư vô mênh mông. Mình là người còn sống duy nhất, em nghĩ. *

  •                 Người Mỹ cho số nạn nhân thiệt mạng là 35,000; công bố chính thức của Nagasaki là 74,800.

13141516

 

35 “Chịu đựng những điều không thể chịu đựng nỗi”

 

1

                Tại Tokyo chiều đó Nội các tiếp tục cuộc tranh cãi bế tắc. Là phát ngôn viên của phe quân phiệt, Anami hình như quyết liệt như bao giờ, nhưng Sakomizu ngờ rằng Bộ trưởng Chiến tranh đang chơi trò phĩnh phờ. Nếu ông thực sự có ý định như lời mình nói, tất cả việc ông phải làm là từ chức và Nội các sẽ bị giải tán – bất kỳ ai tiếp quản sau đó sẽ phải phục tùng phe quân phiệt. Ngay trước mười một giờ Thủ tướng Suzuki, người đã thận trọng tránh liên can vào cuộc tranh cãi, đình hoãn cuộc họp. Rõ ràng là chính Nội các cũng không đi đến một quyết định. Giờ lối thoát cuối cùng là phải kêu gọi đến Nhật hoàng.

                       Vài phút sau đó trong văn phòng riêng Thủ tướng chỉ đạo Sakomizu sắp xếp một buổi họp có nhà vua chủ tọa ngay lập tức. Việc đầu tiên là cần phải có con dấu thủ bút của các Tư lệnh Lục quân và Hải quân. Nhờ tiên liệu trước nên Sakomizu đã thuyết phục Đô đốc và Tướng Umezu đóng sẵn con dấu của mình lên một đơn thỉnh cầu họp khẩn với Nhật hoàng – ông đã bảo họ, hoàn toàn hợp lý, để nó có thể triệu tập bất cứ lúc nào. Hai người nghĩ rằng một cuộc họp với Nhật hoàng chỉ được tiến hành khi một quyết định nhất trí đã đạt được. Sakomizu không hỏi Umezu lẫn Toyoda xem họ có khẳng định việc tán thành của mình không vì ông biết rằng họ sẽ không đồng ý. Ông cũng không thông báo cho xếp của mình là ông đã có được dấu đóng của họ cho những tình huống tạm thời.

                Trong vòng một giờ những người được mời họp bối rối – họ đã được triệu tập vội vàng mà không được giải thích đầy đủ – bắt đầu lần lượt đến obunko [phòng hành chính của Hoàng cung]. Họ bước ra khỏi ô tô trong ánh trăng sáng và được hộ tống bởi một nội thị xuống một cầu thang dốc, có trải chiếu đến một đường hầm dài dẫn đến khu nhà phụ tiếp giáp với obunko, một tổ hợp ngầm của hoàng cung. Được xây dựng trong sườn đồi, nó gồm nửa tá phòng, rộng nhất là phòng họp, ngột ngạt và nóng bức. Phòng trống trải, trông u ám với trần nhà chống đỡ bằng khung đà thép, và các bức tường ốp gỗ đen.

                Ngoài Sáu Ông Lớn – cùng với bốn thư ký, kể cả Sakomizu có mặt mọi nơi mọi lúc – Hoàng thân luống tuổi Hiranuma, Trưởng Cơ mật Viện, cũng được triệu tập. Trong tiền sảnh cơn thịnh nộ và bối rối của họ đổ ập xuống Sakomizu. Toyoda, Umezu và hai thư ký quân sự vây chặt lấy ông, những thanh kiếm kêu lanh lảnh đầy hăm dọa, và kết tội ông lấy con dấu của họ với duyên cớ không thành thật.

                Viên Thư ký Nội các không thể xoa dịu họ thậm chí khi buộc phải nói dối: “Chúng ta sẽ không ra một quyết định nào trong buổi họp này.” Ông chỉ thoát được nhóm người khích động khi những thành viên được mời vào ghế trong phòng họp tại hai bàn dài song song. Tại đầu các bàn trên một bục là một bàn nhỏ hơn nhiều phủ bằng khăn thêu kim tuyến chỉ vàng, phía sau là một chiếc ghế và một tấm bình phong sáu cánh mạ vàng.

                Đúng 10 phút trước nửa đêm Nhật hoàng bước vào. Ông nom có vẻ mệt mỏi và ưu tư. Ông buông mình nặng nề lên chiếc ghế trên bục. Các thành viên dự họp cúi đầu và ngồi xuống, tránh nhìn thẳng vào nhà vua. Một vài bậc lão thành húng hắng ho, càng làm không khí thêm nặng nề. Theo yêu cầu của Suzuki, Sakomizu đọc Tuyên bố Potsdam. Những lời xúc xiểm nghẹn ứ trong cổ họng ông.

                Suzuki duyệt lại vắn tắt những tranh luận gần đây trong Hội đồng Tối cao và Nội các, và sau đó mời từng thành viên của Sáu Ông Lớn lần lượt phát biểu. Dù không khí oi bức, Ngoại trưởng Togo vẫn điềm tĩnh. Ông ôn tồn tuyên bố rằng Tuyên bố Potsadm nên được chấp nhận ngay lập tức miễn là kokutai, quốc túy, có thể được duy trì. Đô đốc Yonai cũng nhẫn nhục như thế. “Tôi đồng ý với Ngoại trưởng Togo,” ông nói điềm đạm.

                Sự nhất trí của họ làm Bộ trưởng Chiến tranh Anami nổi cáu, người đứng kế tiếp trong thang bậc. “Tôi chống đối ý kiến của Ngoại trưởng!” ông la lên. Quân đội không chấp nhận đầu hàng trừ khi phe Đồng minh cho phép Nhật Bản tự giải giới quân đội của mình, xét xử những tội phạm chiến tranh và hạn chế lực lượng chiếm đóng. “Nếu không, chúng ta sẽ tiếp tục chiến đấu với lòng can trường và tìm lẽ sống trong cái chết.” Hai má ông lấp lánh nước mắt và tiếng nói ông trở nên the thé như thể van xin được đánh một trận quyết định cuối cùng trên đất mẹ. “Tôi hoàn toàn tin tưởng có thể giáng cho kẻ thù những tổn thất to lớn, và cho dù chúng ta có thể thất bại trong trận chiến, một trăm triệu nhân dân ta vẫn sẵn sàng hi sinh cho danh dự, vinh danh chiến công của nòi giống Nhật Bản trong lịch sử muôn đời!”

                Umezu đầu cạo trọc đứng dậy. Không thể nghĩ bàn đến việc, ông tuyên bố chắc nịch, đầu hàng vô điều kiện sau khi có biết bao chiến sĩ can trường đã ngã xuống cho Nhật hoàng.

                Đô đốc Toyoda đáng lẽ là người nên nói tiếp theo nhưng Suzuki, hình như lầm lẫn hoặc cố ý, mời Hoàng thân Hiranuma cho ý kiến. Anami và Umezu nhìn ông ta nghi ngờ – ông có thể nổi tiếng là người quốc gia cực đoan, nhưng như hầu hết những jushin [chính khách lão thành], ông chắc hẳn là một “Badoglio” [một tướng lãnh Ý, sau khi tổ chức hạ bệ Mussolini, lên làm Thủ tướng và tiến hành thương thảo đình chiến với Đồng minh: ND] – khi ông đặt một chuỗi các câu hỏi trúng đích và kết thúc bằng câu hỏi mà ông yêu cầu phe quân sự trả lời thẳng thắn: Họ có thể tiếp tục cuộc chiến hay không?                              

                Umezu trấn an ông rằng những cuộc oanh kích nguyên tử sắp tới có thể bị chận đứng bằng các biện pháp phòng không. “Chúng ta đã bảo tồn lực lượng của mình cho những chiến dịch trong tương lai,” ông nói, “và chúng ta trông chờ một cuộc phản công đúng lúc.”

                Nhưng Hiranuma, con người chuộng lý lẽ, tỏ vẻ không mấy ấn tượng. Ông ít nhiều đồng ý với Togo, nhưng ông nói rằng họ nên thương thảo với Đồng minh về các yêu sách của Quân đội. Ông quay về phía Nhật hoàng. “Tuân theo di huấn của các Đấng Tiên Vương, Hoàng thượng cũng có trách nhiệm ngăn ngừa sự bất ổn của quốc gia. Thần mạn phép hỏi quyết định của Bệ hạ về vấn đề này.” Ông già khó chịu ngồi xuống.

                Khi cuối cùng cất lời Toyoda cố nhấn mạnh lại vị trí của phe quân phiệt, nhưng kết luận của ông hơi mơ hồ. “Chúng ta không thể nói rằng thắng lợi cuối cùng là điều chắc chắn, nhưng đồng thời chúng ta không tin rằng chúng ta sẽ bị thảm bại hoàn toàn.”

                Trong hơn hai giờ những luận điểm cũ lại được lặp lại từng lời một. Khi Toyoda kết thúc, Suzuki lần nữa đứng dậy, chậm rãi và cân nhắc. Sakumizu có cảm tưởng như là cuối cùng thì ông cũng tiết lộ ra một điều gì đó đã đè nén bấy lâu. Tuy nhiên, những lời ông nói gây sửng sốt nhiều hơn cho người đang lắng nghe. “Chúng ta đã tranh cãi vấn đề này nhiều giờ liền mà không đi đến kết luận nào hết. Tình hình thật là nghiêm trọng nhưng không có giây phút nào đã tiêu pha một cách vô ích. Chúng ta chưa từng có tiền lệ – và tôi thấy thật khó để trình bày – nhưng với lòng tôn kính cao cả giờ đây thần cầu xin Hoàng thượng ban bố ý muốn của mình.”

                Ông quay về phía nhà vua. Ông xin Nhật hoàng quyết định xem Nhật Bản có nên chấp nhận Tuyên bố Potsdam ngay lập tức hay yêu cầu những điều kiện mà Quân đội muốn. Bất ngờ, ông bước ra khỏi ghế và tiến về phía Nhật hoàng. Mọi người há hốc kinh ngạc.

                “Ngài Thủ tướng!” Anami kêu lên, nhưng Suzuki hình như không nghe thấy, vẫn tiếp tục tiến đến chân bục nơi Nhật hoàng đang ngự, đôi vai to rộng của ông chùn xuống vì tuổi tác. Ông dừng lại và cúi chào rất thấp. Với cái gật đầu cảm thông nhà vua mời Suzuki ngồi xuống. Ông già không nghe được lời phán bèn lấy bàn tay úp lên vành tai trái để nghe cho rõ. Nhật hoàng ra dấu cho ông trở về chỗ ngồi.

                Ngay khi Suzuki đã an tọa Nhật hoàng đứng lên. Giọng nói của ông, bình thường không biểu cảm, nhưng lúc này nghe có vẻ hơi căng thẳng. “Trẫm đã suy nghĩ rất nghiêm túc về tình hình trong nước và ngoài nước hiện nay và đã đi đến kết luận là tiếp tục chiến tranh sẽ mang đến sự hủy diệt cho đất nước, kéo dài nạn đổ máu và gieo rắc tai ương cho thế giới.” Các thành viên cúi đầu lắng nghe. “Trẫm không thể đành lòng thấy nhân dân vô tội chịu đau khổ nhiều hơn nữa. Kết thúc chiến tranh là cách duy nhất để phục hồi hòa bình thế giới và cứu vớt quốc gia khỏi cảnh khốn cùng đeo đẳng.” Ông ngưng nói.

                Sakomizu ngước nhìn nhà vua, đang chăm chăm nhìn lên trần nhà một cách suy tư vừa lau cặp kính với ngón tay cái mang găng trắng. Viên Thư ký Nội các thấy đôi mắt mình nhòa lệ. Những người dự họp không còn ngồi cứng nhắc trên ghế mà chồm người về phía trước – một vài cánh tay vươn ra, phủ phục trên bàn, khóc nức nở không giấu giếm. Giờ Nhật hoàng đã lấy lại vẻ điềm tỉnh. Ông tiếp tục nói nhưng giọng nói bổng nghẹn lại vì xúc động, khiến ông lại phải ngừng nói. Sakomizu muốn khóc òa lên, “Chúng thần giờ đây đã hiểu ước muốn của bệ hạ. Xin bệ hạ làm ơn đừng hạ cố nói thêm một lời nào nữa.”

                “Trẫm đau đớn,” Nhật hoàng nói tiếp, “khi nghĩ đến những người đã tận tụy trung thành với trẫm, những binh sĩ và thủy thủ đã hi sinh hay bị thương trong những trận đánh ở nơi chốn xa xôi, những gia đình đã đánh mất tất cả của cải – và cả mạng sống của họ – trong những trận oanh kích trên xứ sở. Không cần phải nói ra cũng biết trẫm không thể chịu được cảnh những chiến binh gan dạ và trung kiên của Nhật Bản giờ đây bị tước vũ khí. Cũng không thể nào chịu được cảnh những người khác đã tận tụy phục vụ trẫm giờ đây bị đem ra trừng phạt như những kẻ gây chiến. Dù sao thì đã đến lúc chúng ta phải chịu đựng những gì không thể chịu đựng được. Khi hồi tưởng những cảm xúc mà Nội Tổ Minh Trị của trẫm tại thời điểm Tam Cường Can Thiệp [là Nga, Đức và Pháp vào 1895] đã trải qua, trẫm đành nuốt nước mắt của mình mà chấp nhận tuyên bố của Đồng minh dựa trên cơ sở mà ngài Ngoại trưởng đã vạch ra.”

                Ông đã kết thúc. Suzuki đứng lên tính trả lời nhưng rồi chỉ gật đầu. Chầm chậm, như phải mang một gánh nặng quá sức, ông bước ra khỏi phòng.

                “Quyết định của Hoàng thượng,” Suzuki nói, “giờ đây phải được coi là quyết định nhất trí của cuộc họp này.” Tất nhiên, nó không phải là một quyết định theo nghĩa Tây phương, mà đơn giản chỉ là thể hiện nguyện vọng của ông. Nhưng đối với một thần dân Nhật Bản – và 11 người trong phòng họp – thì nguyện vọng của nhà vua có giá trị ngang với một mệnh lệnh. Biên bản của cuộc họp được ghi lại, và những thành viên, vẫn còn xúc động trước nổi phiền muộn của Nhật hoàng, lần lượt ký tên vào biên bản, tán thành Tuyên bố Potsdam với điều khoản là phe Đồng minh công nhận vị thế luật định của Nhật hoàng.

                Tất cả trừ Hoàng thân Hiranuma. Như thường lệ còn một chi tiết làm ông thắc mắc: ông chống đối cách nói qui định là “vị thế của Nhật hoàng là vị thế được Thượng đế định đoạt.” Ông quyết liệt thay thế chính xác bằng nhóm từ trong Hiến pháp – “quyền lực tối cao của Nhật hoàng.”

                Hiranuma thêm chữ ký của mình vào lúc 2:30. Cuộc họp trọng đại đã qua và phe quân phiệt đã chấp thuận điều đưa đến một cuộc đầu hàng vô điều kiện. Nhưng khi vắng mặt Nhật hoàng, tâm trạng thất vọng và thấy mình bị phản bội hướng trực tiếp đến Suzuki. “Ngài không giữ lời, thưa Thủ tướng!” Trung tướng Masao Yoshizumi, người đóng vai thư ký cuộc họp. “Giờ ngài mãn nguyện chưa?”

                Anami bước chen vào giữa họ.  

                Còn một nghi thức nữa – sự tán thành của toàn thể Nội các. Nó được triệu tập ngay lập tức tại tư gia của Suzuki, tại đó các bộ trưởng cũng soạn thảo những văn bản giống hệt nhau gởi cho mỗi Đồng minh chấp nhận Tuyên bố Potsdam “với điều kiện là tuyên bố nói trên không bao gồm bất kỳ yêu sách nào gây phương hại đến đặc quyền của Nhật hoàng trong vai trò một Đấng Trị vì Tối cao.”

                Đó là một buổi tối thật dài. Suzuki bước lên lầu vào phòng ngủ. Sakomizu vẫn nán lại, và buông mình xuống ghế nệm và ngủ ngay lập tức. Những người khác lầm lũi về nhà qua những con phố tối tăm, vắng ngắt của Tokyo. Mọi người chỉ trừ Togo. Đuối sức vì cơn bệnh thiếu máu ác tính, ông chắc hẳn là người kiệt quệ nhất. Ánh sáng bắt đầu ló dạng yếu ớt từ phương đông khi ô tô của ông ngừng trước Bộ Ngoại giao tạm thời, nơi ông muốn ghi chép lại từng lời của

Nhật hoàng làm cháy bỏng tâm trí ông. Ông đọc cho viên thư ký không chính thức chép lại, đó là con rễ ông Fumihiko Togo, người mà mặc dù có mối ràng buộc gia đình, vẫn luôn nể sợ ông già. Anh hiếm khi thấy ông biểu lộ cảm xúc nào, nhưng khi Togo kể lại những gì nhà vua đã tuyên bố anh thấy mắt ông đẫm lệ.

                               Ngày 10/8 nóng bức bừng lên ở Tokyo. Tại Bộ Tư lệnh Lục quân ở Ichigaya Heights hơn 50 sĩ quan của Bộ Chiến tranh đợi trong hầm trú ẩn chờ đón Tướng Anami. Việc triệu tập khẩn cấp quá nhiều sĩ quan cao cấp gây sự thắc mắc đầy xao động. Liệu có phải Bộ trưởng Chiến tranh sẽ tuyên bố sự xáp nhập của Lục quân và Hải quân? Có dính líu gì đến bom nguyên tử chăng hay ông sẽ báo cáo về nội dung buổi họp đêm qua với nhà vua?

                Lúc 9:30 Anami, đi kèm hai bên là các sĩ quan cao cấp, sảy bước qua hành lang dài nối Bộ Tư lệnh và boong-ke. Khi ông bước lên một bục nhỏ, tay phải cầm cán roi ngựa, cử tọa chen chúc bao quanh ông. Từ tốn ông nói cuộc họp đêm qua đã quyết định chấp nhận Tuyên bố Potsdam.

                Không tin, một vài người hô to “Không!” Anami giơ tay lên ra hiệu yên lặng. “Tôi không biết có thể đưa ra lời bào chữa nào,” ông nói, “nhưng vì đây là nguyện vọng của Hoàng thượng là chúng ta phải chấp nhận Tuyên bố Potsdam nên không thể làm gì được.” Ông bảo họ về yêu cầu tối thiểu của Quân đội và rất tiếc là không thể làm chúng được chấp nhận. Tuy nhiên, ông hứa sẽ thử thêm một lần nữa, và ông nhờ cậy mọi người giúp giữ gìn trật tự trong quân ngũ dù cho bất cứ điều gì có thể xảy ra. “Những cảm xúc cá nhân của các bạn và những binh lính dưới quyền bạn phải được xem nhẹ.”

                Một thiếu tá bước tới. “Còn nghĩa vụ của quân nhân phải bảo vệ tổ quốc thì sao?”

                Thường ngày là người ôn hòa, nhưng lần này Anami vung roi về phía viên thiếu tá. “Nếu ai bất tuân lệnh của Anami này, thì y phải chém gục Anami trước đã!”

                Trung tá Masao Inaba của Văn phòng Quân vụ tiến đến vị tướng với một kế hoạch giữ yên Quân đội. “Không cần biết chúng ta có kết thúc cuộc chiến hay không,” anh ta nói, “chúng ta phải phát quân lệnh tiếp tục chiến đấu, đặc biệt với binh đoàn Xô viết đang tiến vào Mãn Châu.“

                “Vậy hãy viết đi,” Anami nói.

                Vẫn còn việc cho Nội các quyết định là cần cho công luận biết tin đến đâu. Phe quân phiệt không muốn tiết lộ quyết định của Nhật hoàng  vì sợ rằng việc ấy sẽ làm sói mòn tinh thần chiến đấu của binh lính và gây ra hỗn loạn. Sau cùng một thỏa thuận được thông qua là chỉ đưa ra một phát biểu lập lờ nhằm chuẩn bị cho dân chúng tinh thần đầu hàng. Thông báo được giao cho Kainan Shimomura, Trưởng phòng Thông tin, và nhân viên của ông soạn ra. Nó khoa trương những thắng lợi, tố cáo quả bom mới là tàn bạo và dã man và cảnh báo là kẻ thù chuẩn bị xâm chiếm nội địa. Chỉ có đoạn thông báo cuối cùng là chỉ cho dân chúng thấy mình sắp sửa đối mặt với một tình thế chưa từng có.

                Thật ra, chúng ta phải công nhận là hiện giờ chúng ta đang bị bao vây bởi một tình thế ngặt nghèo nhất. Khi chính phủ đang dồn mọi nỗ lực để bảo vệ tổ quốc, bảo tồn quốc thể, và giữ gìn danh dự quốc gia, thì nhân dân chúng ta hãy nhân cơ hội này đứng dậy, vượt qua mọi khó khăn để bảo vệ quốc hồn quốc túy của đế chế mình.

                Trái lại, trong chỉ thị của Inaba gởi đến sĩ quan và binh sĩ không có lời nào ám chỉ đến việc đầu hàng, mà chỉ kêu gọi tiếp tục cuộc chiến thiêng liêng đến phút cuối cùng.

                Chúng ta kiên quyết chiến đấu, cho dù chúng ta phải ngậm cỏ, ăn đất và nằm sương. Chúng ta đều tin rằng trong cái chết có sự sống. Đây là tinh thần của Nanko, mong muốn tái sinh bảy lần để phục vụ tổ quốc, hoặc tinh thần bất khuất của Tokimune, không chịu bị đàn áp mà quyết tâm đập tan lũ Mông Cổ.

                Ngay sau khi Inaba gởi thông điệp đến Bộ Chiến tranh để được phê chuẩn, hai trung tá bối rối – một người là nhân viên báo chí, người kia là Masahiko Takeshita, em vợ của Anami – xông vào văn phòng của Inaba  cho tin là Nội các chuẩn bị phát đi thông báo cho công chúng ám chỉ việc đầu hàng. Vì việc này sẽ tạo ra lộn xộn trong binh sĩ, họ phải phát đi lời kêu gọi của Inaba ngay lập tức. Inaba lật úp giỏ rác và thu hồi một tờ giấy nhăn nhúm, bản thảo gốc của lời phát biểu của ông. Vì nó đứng tên Anami ông ta chần chừ phát đi mà chưa có sự đồng ý của Bộ trưởng Chiến tranh. Nhưng hai trung tá thuyết phục ông là không còn thời gian nữa, và bản chỉ thị lập tức được sao lại và gởi đến tất cả trạm phát thanh địa phương và tòa soạn báo ngay lập tức.

                Hai phát biểu xung đột nhau, được phát đi gần như đồng thời, làm bối rối các nhà biên tập và các trạm phát thanh, khiến cho Ngoại trưởng Togo bắt buộc phải hành động gấp rút. Chỉ thị của Anami chắc chắn sẽ gieo rắc mối nghi ngờ cho Đồng minh là Nhật Bản cương quyết tiếp tục hành động thù địch. Những thông báo chính thức với Đồng minh về mong muốn đầu hàng của Nhật Bản được tiến hành một cách chậm chạp qua các kênh ngoại giao và một vài giờ chậm trễ có thể đưa đến một quả bom nguyên tử thứ ba. Tại sao không phát đi thông cáo chính thức ngay lập tức qua kênh tin tức? Có nhiều khả năng một sĩ quan kiểm duyệt nào đó, nếu y nhận ra nội dung của thông điệp, có thể dấu nhẹm nó. Để đề phòng tình trạng này người ta quyết định phát đi đề nghị của Nhật bằng tiếng Anh dưới dạng mã Morse. Lúc mà những nhân viên kiểm duyệt dịch ra thông điệp, hi vọng việc đó đã quá trễ.

                Saiji Hasegawa, chủ bút tin tức quốc tế của tờ Domei, đồng ý nhận lấy nhiệm vụ nguy hiểm là tiếp âm bản thông điệp. Ông cho truyền tin vào lúc 8 P.M. trước tiên đến Hoa Kỳ, rồi đến Âu châu. Ông căng thẳng ngồi đợi, cầu mong cho nội dung của bản thông điệp sẽ không bị giám sát.

                Hầu như ngay lúc đó, các đường phố của Tokyo nhốn nháo vì một loạt các vụ nổ lưu đạn. Những người chống đối trong quân đội, bao gồm Đại tá Inaba, hi vọng tạo ra lộn xộn dẫn đến việc cần thiết phải ban bố lệnh thiết quân luật trên khắp thành phố. Với Tokyo nằm dưới quyền kiểm soát quân sự, Nhật hoàng có thể bị ảnh hưởng và đổi ý để tiếp tục cuộc chiến. Nhưng thành phố, đã quá quen với việc oanh kích, chẳng đếm xỉa gì đến các vụ nổ lẻ tẻ.

                Ở Nagasaki, các tờ bướm dập dìu rơi xuống thành phố bị san bằng, cảnh báo muộn màng các công dân hãy di tản.

 

2

                Tại đầu kia của trái đất là buổi sáng 10/8. Lúc 7:33 A.M. thông điệp bằng mã Morse do

Hasegawa gởi đi – do ý Trời các nhân viên kiểm duyệt của Quân đội Nhật Bản không buồn kiểm

tra – được các máy truyền tin Hoa Kỳ bắt được. Tổng thống Truman triệu tập Leahy, Byrnes, Sumson và Forrester đến văn phòng của mình và đọc cho họ nghe thông điệp. Vì đây là một nguồn không chính thức, ông hỏi từng người nó có thể coi là việc chấp nhận Tuyên bố Potsdam hay không. Nếu quả đúng, họ có nên để Nhật hoàng tiếp tục trị vì hay không? Trong nhiều tuần qua một số nhân vật có ảnh hưởng, bao gồm Harry Hopkins, Archibald MacLeish và Dean Acheson, đã cổ vũ bãi bỏ chế độ quân chủ.

                Nhưng ba trong số bốn cố vấn của ông trong phòng chống đối ý kiến cực đoan ấy. Đối với Stimson đang ốm, việc duy trì Nhật hoàng là một vấn đề thực tiễn. Ông chỉ ra rằng Đồng minh cần sự trợ giúp của Hirohito để hiệu quả hóa việc đầu hàng của những quân đoàn Nhật đóng phân tán khắp nơi. Việc sử dụng Nhật hoàng theo cách này phải được thực hiện để tránh xảy ra nhiều Iwo Jima và Okinawa trên khắp Trung Hoa và New Netherlands.” Leahy không “có ấn tượng gì về Hirohito nhỏ thó” nhưng cũng ủng hộ ý kiến của Stimson.

                Byrnes, tuy nhiên, chống lại sự thối lui “khỏi yêu sách của chúng ta về đầu hàng vô điều kiện. Yêu sách này được trình bày với Nhật trước khi sử dụng bom nguyên tử và trước khi Liên bang Xô viết lâm chiến. Nếu bất kỳ điều kiện nào phải được chấp nhận, tôi muốn Hoa Kỳ chứ không là Nhật Bản là người nêu ra điều kiện ấy.” Forrester phản bác rằng có thể được trấn an “bằng một phát biểu khẳng định về phía chúng ta trong đó chúng ta sẽ xem xét để ngôn từ của việc đầu hàng phải phù hợp hoàn toàn với chủ định và quan điểm của chúng ta.”

                Việc Nhật Bản chấp nhận đầu hàng làm gia tăng mối quan ngại của Stimson về việc tổn thất sinh mạng có thể tiếp tục xảy ra. Ông đề nghị họ kêu gọi ngừng ném bom – những phi cơ từ hàng không mẫu hạm và các máy bay B-29 từ quần đảo Mariannas vẫn còn tàn phá những thành phố Nhật, ở Mỹ không khí âu lo ngại tăng dần về việc sử dụng bom nguyên tử. “Chúng ta phải nhớ,” Forrestal nói thêm, “rằng quốc gia này sẽ phải chịu đựng mũi dùi thù nghịch của người dân Nhật.”

                Truman vẫn không đưa ra ý kiến. Ông quyết định chờ đợi cho đến khi việc đầu hàng chính thức nhận được qua kênh ngoại giao, nhưng ông ra lệnh cho Byrnes bắt đầu soạn thảo thư phúc đáp ngay lập tức. Vị Ngoại trưởng cân nhắc từng chữ, biết rằng mình nói thay cho Nga, Trung Hoa và Anh cũng như cho đất nước mình. Ngay trước buổi trưa ông được thông báo là Đại sứ quán Thụy sĩ đã vừa nhận được lời chấp nhận chính thức đầu hàng của Nhật Bản. Ngay sau khi nhận được thông điệp này, ông đích thân mang nó cùng với bản phúc đáp nháp cho Nhật đến Nhà Trắng. Truman cho triệu tập một cuộc họp Nội các khẩn cấp và vào lúc 2 P.M. ông đọc thư phúc đáp của Byrnes. Stimson hài lòng vì giọng điệu hòa giải của nó (“. . . đó là một phát biểu khá khôn ngoan và cẩn trọng và có cơ may được chấp nhận hơn là một phát biểu thẳng thắn”). Nó tuyên bố rằng từ thời điểm đầu hàng, quyền trị vì của Nhật hoàng và chính phủ Nhật Bản sẽ được đặt dưới quyền của Tư lệnh Tối cao của các Lực lượng Đồng minh và rằng hình thức tối hậu của chính quyền Nhật Bản sẽ được thiết lập dựa trên ý chí được thể hiện một cách tự do của nhân dân Nhật Bản. Mọi người đồng ý rằng điều này sẽ trấn an người Nhật về vị thế tương lai của Nhật hoàng của họ mà không gây phương hại đến nguyên tắc cơ bản của việc đầu hàng vô điều kiện.

                Tuy nhiên, việc đầu tiên là thông điệp gởi Tokyo phải được sự chấp thuận của các phe Đồng minh và các bản sao được điện đến các đại sứ quán của Mỹ ở London, Moscow và Nam Kinh với lời yêu cầu được phúc đáp nhanh chóng.

               

                Càng nhớ lại những sự kiện xảy ra trong 36 tiếng đồng hồ qua Tướng Anami càng cảm thấy bực tức với Suzuki và Togo. Khi lái xe đến văn phòng của mình vào sáng ngày 11/8, sau buổi tập bắn cung trong vườn nhà, ông càu nhàu về Thủ tướng với viên thư ký của mình, Đại tá Saburo Hayashi. Sự xuất hiện của nửa tá sĩ quan bất mãn trong văn phòng của ông – kể cả ông em rễ của mình, Đại tá Takeshita – gợi ra những phàn nàn rõ ràng hơn nữa: buổi họp đã được tổ chức quá vội vã đến nổi chỉ một mình Togo được chuẫn bị trước để trình bày lời đề nghị với Nhật hoàng; và tại sao Hoàng thân Hiranuma lại có mặt trong buổi họp? Anami có cảm tưởng rằng buổi họp đã được dàn dựng để tán thành việc đầu hàng.

                Những lời tố giác này được diễn tả một cách mơ hồ nhưng chúng cổ vũ cho những người bất đồng tiến hành một hành động bạo loạn, và một tá bọn họ tụ họp bí mật trong Bộ Chiến tranh để lên kế hoạch hành động. Takeshita, vốn là một sĩ quan cao cấp, cảnh báo họ là những gì họ sắp làm có thể mang án tử. Trước tiên, ông đề nghị họ phải cô lập Nhật hoàng khỏi bọn chủ bại. Sau đó họ sẽ tranh thủ Anami khuyên bảo Nhật hoàng tiếp tục cuộc chiến. Một Trận Đánh Quyết Định một mất một còn trên nội địa có thể giáng cho người Mỹ những tổn thất khủng khiếp để có thể dàn xếp được một nền hòa bình trong danh dự. Nếu không được, họ có thể tiến hành chiến tranh du kích trong rừng núi.

                Những người âm mưu nhiệt liệt tán thành kế hoạch này. Họ sẽ sử dụng binh lính đóng tại Tokyo để bao vây Hoàng cung. Họ sẽ cắt đường giao thông và chiếm các đài phát thanh, báo chí và các tòa nhà chính phủ chủ chốt. Sau đó họ sẽ bắt trọn bọn chủ bại như Suzuki, Togo và Kido.

                Takeshita tin rằng cuối cùng Anami sẽ gia nhập với họ, và sau đó là Umezu. Tiếp theo hai chỉ huy tại chỗ, Trung tướng Takeshi Mori của Quân khu Konoye và Đại Tướng Shizuichi Tanaka của Quân khu miền Đông, sẽ phải theo hợp tác. Với Tham mưu trưởng Quân đội và Bộ trưởng Chiến tranh ủng hộ cuộc đảo chánh, họ không thể nào thất bại – như nhóm nhỏ các sĩ quan đã từng chiếm đóng Tokyo ngắn ngủi vào năm 1936. Về bản chất, đây là một chiến dịch quân sự. Họ sẽ hành động theo đúng luật dưới quyền các chỉ huy cao nhất vì lợi ích của quốc gia.                       

                Khái niệm về tính hợp pháp là sự lý giải lệch lạc lời dạy của Giáo sư Kiyoshi Hiraizumi, người có tầm ảnh hưởng không tính hết đối với tập thể sĩ quan. Vào năm 1926, ở tuổi 31, ông trở thành phụ tá giáo sư tại Đại học Hoàng gia Tokyo. Chuyên môn của ông là lịch sử Nhật Bản, mục đích chính của ông là bảo tồn tinh thần của các lãnh tụ thời Minh Trị. Khi chủ nghĩa Cộng sản bắt đầu quét qua các trường đại học ông đáp trả bằng cách thành lập trường phái Xanh lá-Xanh lá của ông. Cốt lõi của học thuyết ông là mỗi quốc gia có truyền thống riêng, lịch sử riêng và đạo lý riêng và những quốc gia khác nên tôn trọng những khác biệt này. Ông dạy rằng xã hội Nhật Bản dựa vào lòng trung đối với đất nước, Nhật hoàng và hiếu kính đối với cha mẹ, và trường phái Xanh lá-Xanh lá tiến hóa thành trường phái quốc gia cực đoan với Thần đạo là xương cốt, Khổng học là da thịt và tinh thần võ sĩ đạo là máu huyết.

                Hiraizumi là một người nhỏ con điềm đạm, mảnh mai có dáng dấp của người theo nghiệp giáo sư lịch sử, nhưng trong buổi giảng đầu tiên của ông tại Học viện Quân sự ông tạo một sự thu hút kịch tính khi sảy bước lên bục giảng với một thanh kiếm. Ông đặt nó bên cạnh và nói ôn hòa, không hề dùng ngôn ngữ tay hay mặt để diễn tả. Nhưng ông vẫn kích động mọi sĩ quan trẻ trong đám cử tọa và mỗi lượt cử tọa tiếp theo sau đó với lòng nhiệt thành bùng cháy. Những gì họ nghe về Vương Đạo và xứ sở họ đã hun đúc tinh thần hi sinh quên mình cho Nhật hoàng và đất nước sâu xa đến nổi những lời dạy của ông ở trên môi những phi công lên đường cho sứ mạng kamikaze [vào cuối cuộc chiến các phi công Nhật dùng chiến thuật đánh bom cảm tử, biến phi cơ của mình là một khối bom và liều mình lái đâm xuống các tàu Mỹ và nổ tung: ND].

                Các sĩ quan cao cấp lúc nào cũng coi mình là đệ tử của ông. Trong thời gian làm thủ tướng, Tojo thường xin ông những lời khuyên còn Anami vẫn một mực kính trọng ông. Takeshita và đồng bọn đã theo trường phái Xanh la-Xanh lá và tin tưởng rằng họ đang thực hiện những gì Hiraizumi đã rao giảng. Việc đầu hàng vô điều kiện không phải là đã hủy hoại quốc túy quốc hồn hay sao? Như vậy, việc thách thức quyết định hòa bình của Nhật Bản là một hành động hoàn toàn thích đáng, vì đó là một phán quyết lạc hướng và sai lầm. Đúng ra, lòng trung quân đích thực có khi là phải tạm thời bất tuân mệnh lệnh Nhật hoàng.

 

3

                Trừ một ngoại lệ các phe Đồng minh đều lập tức chấp nhận phúc đáp đề nghị của Byrness gởi cho Nhật. Riêng chính quyền Xô viết “hoài nghi” về việc xin đầu hàng của Nhật Bản: Molotov cho rằng nó không vô điều kiện cũng không cụ thể. Do đó, Hồng Quân tiếp tục tiến vào Mãn Châu.

                Harriman, tuy nhiên, thúc ép được hồi đáp nhanh chóng và Molotov ưng thuận – với một điều khoản: “Chính quyền Xô viết cũng nhận định rằng, trong trường hợp có một phúc đáp khẳng định từ Chính quyền Nhật Bản, các Lực lượng Đồng minh nên nhất trí về việc chọn lựa một ứng viên hoặc nhiều ứng viên đại diện Tư lệnh Tối cao Đồng minh để Nhật hoàng và Chính quyền Nhật Bản qui phục.”

                Harriman “quyết giữ nguyên biệt lệ cứng rắn” về qui định này; chính phủ của ông sẽ không bao giờ đồng ý điều đó. Thậm chí ông không hiểu chính xác điều đó có nghĩa là gì. Molotov giải thích rằng Tư lệnh Tối cao ở Viễn Đông nên bao gồm hai dân tộc, một tướng Mỹ và một tướng Nga.

                Phản ứng của Harriman là rõ ràng và sắc bén. Hoa Kỳ đã mang gánh nặng chủ yếu của cuộc chiến Thái Bình Dương trong bốn năm ròng rã và nhờ đó giữ chân quân Nhật khỏi tấn kích sau lưng người Nga. Người Xô viết chỉ mới lâm chiến có hai ngày. Do đó thật vô lý khi Tư lệnh tối cao không phải ai khác hơn là người Mỹ. Molotov trả lời nóng nảy nhưng Harriman vẫn một mực cứng rắn; ông sẽ gởi lời đề nghị về Wasington nhưng ông biết rằng điều đó là không chấp nhận được.

                Harriman trở lại văn phòng vẫn còn giận dữ. Ông được mời đến nghe điện thoại. Đó là M. Pavlov, thư ký của Molotov, cho biết Ủy viên Đối ngoại đã liên lạc với Stalin và nói rằng đã có sự hiểu lầm: họ chỉ có ý định “tư vấn” chứ không nhất thiết phải được “tán thành.” Harriman một lần nữa cảnh báo rằng cụm từ “nhiều ứng viên” sẽ không bao giờ được chấp nhận tại Washington. Một ít phút sau Pavlov gọi lại lần nữa và cho biết Stalin đồng ý xóa bỏ những từ khó chịu ấy và sẽ khẳng định điều ấy bằng văn bản.

                Với hòa bình gần kề, Forrestal và Stimson một lần nữa cố thuyết phục Tổng thống Truman cho dừng các cuộc không và hải chiến chống lại Nhật Bản như một cử chỉ nhân đạo. Truman không nghe. Ông nói sức ép nên được duy trì để người Nhật thối chí không đòi hỏi nhượng bộ nhiều hơn. Ông hứa sẽ hoãn việc ném bom nguyên tử trừ khi phúc đáp của Nhật không thỏa đáng. Hai quả bom nguyên tử đã sẵn sàng ở Tinian, và theo dự định sẽ được bỏ vào ngày 13 và 16 tháng 8. Tướng Spaatz nhận thức rằng Tokyo tan hoang là một mục tiêu quá tồi cho một vụ oanh kích quy ước, và ông còn hồ hởi muốn bỏ một quả bom nguyên tử lên thủ đô.

                Trong khi thư phúc đáp của Byrnes được chính thức gởi qua đường Thụy Sĩ, nó cũng được phát thanh đến miền Đông bằng sóng ngắn từ San Francisco với mục đích tuyên truyền cho dân chúng Nhật. Người đàn ông đã lén lút truyền tin lời phúc đáp của Nhật về Tuyên bố Potsdam, Saiji Hasegawa ở Domei, được một trạm giám sát thông báo về trả lời của Đồng minh ngay sau nửa đêm ngày 11/8. Anh nhắn tin cho Bộ Ngoại giao và sau đó gọi điện thoại cho người bạn thân Sakomizu. Viên Thư ký Nội các ngái ngủ lo lắng muốn biết nội dung thông điệp. “Chúng tôi chưa nhận được toàn văn,” Hasegawa trả lời, “nhưng hình như không thỏa đáng lắm.”

                Trong hơn hai giờ Sakomizu sốt ruột chờ đợi cho đến khi nhận được toàn văn thông điệp bằng tiếng Anh:

                Liên quan tới thông điệp của Chính quyền Nhật bản chấp nhận những điều khoản về tuyên bố Potsdam

 nhưng chứa lời phát biểu, “với sự thông hiểu là tuyên bố nói trên không bao gồm bất kỳ yêu sách nào gây phương hại đến uy quyền của Nhật hoàng trong vai trò một Đấng Trị vì Tối cao,” lập trường chúng tôi như sau:

               Từ thời điểm đầu hàng, quyền hành trị vì xứ sở của Nhật hoàng và Chính quyền Nhật Bản sẽ bị lệ thuộc vào Tư lệnh Tối cao của các lực lượng Đồng minh, người sẽ tiến hành các bước thích hợp để thực thi các điều khoản đầu hàng.

                Nhật hoàng được yêu cầu ủy quyền và bảo đảm sự ký nhận của Chính quyền Nhật Bản và các bộ Tổng Tư lệnh Hoàng gia Nhật Bản về những điều khoản đầu hàng cần thiết để thực thi những điều khoản của Tuyên bố Potsdam và sẽ ban hành lệnh cho tất cả đơn vị lục, không, hải quân và cho tất cả lực lượng dưới quyền của họ đóng bất cứ nơi đâu để ngừng hẳn mọi hoạt động gây hấn và giao nộp vũ khí, cũng như ban hành những lệnh khác theo yêu cầu của Tư lệnh Tối cao nhằm bảo đảm các điều khoản đầu hàng được thực hiện.

                Ngay lập tức sau khi đầu hàng Chính quyền Nhật Bản sẽ chuyên chở các tù binh chiến tranh và các tù dân sự đến nơi an toàn, như được chỉ dẫn, để các phương tiện vận chuyển Đồng minh có thể nhanh chóng tiếp nhận họ.

                Hình thức tối hậu của Chính quyền Nhật Bản, theo Tuyên bố Potsdam, sẽ được thiết lập bởi nguyện vọng được thể hiện tự do của nhân dân Nhật Bản.

                Các lực lượng vũ trang của Đồng minh sẽ ở lại Nhật cho đến khi các mục đích trình bày trong Tuyên bố Potsdam được hoàn thành.

                Nó không tiêu cực như Hasegawa đã nghĩ. Đồng minh không bác bỏ thẳng thừng yêu sách giữ lại Nhật hoàng của người Nhật, nhưng số phận cuối cùng của ông không được nêu ra và điều này sẽ tạo cho phe chủ chiến cái cớ để bác bỏ toàn bộ đề nghị.

                Sakomizu hướng về nhà của Suzuki. Ngài Thủ tướng già lắng nghe lời đề xuất mới và cách lập luận, rồi nghiêm trọng nói, “Trong bất kỳ tình huống nào, chúng ta cũng phải kết thúc chiến tranh.”

                Tại obunko, Kido giải thích cho Nhật hoàng những vấn đề mà thông điệp đặt ra. “Điều đó chả can hệ gì,” Nhà vua nói. “Nếu thần dân không muốn một nhà vua, thì việc đó là vô ích. Trẫm nghĩ để cho thần dân quyết định là hoàn toàn đúng đắn.” Sự thanh thản của Hoàng thượng như “một cú đấm vào đầu” đối với Kido. Những gì làm Cơ mật Viện bận tâm quá nhiều đã bốc hơi dưới sự tin tưởng tuyệt đối của Nhật hoàng vào thần dân của ngài.

                Những mối lo sợ của Sakomizu về phản ứng của phe chủ chiến đã được minh chứng. Các Tham mưu Trưởng Hải và Lục quân nhìn thấy trong phúc đáp của Byrnes đầy đủ cớ để tiếp tục cuộc chiến và là người đầu tiên – thậm chí trước cả Togo – đi đến Nhật hoàng để phản đối.

                Hoàng thượng chỉ ra những kết luận của họ còn quá sớm; chưa có phúc đáp chính thức nào của Đồng minh gởi đến. “Chúng ta sẽ chắc chắn nghiên cứu nó sau khi nó đến tay chúng ta,” ngài nói, khuyên can họ. “Chắc chắn chúng ta có thể tìm hiểu về những điểm nào còn nghi ngờ.”

                Nhưng chính ngài đã đi đến một kết luận. Ngài khuyên Togo, người đến obunko hai giờ sau đó, rằng đề nghị của Đồng minh là thỏa đáng và nên được chấp nhận. Phản ứng của ngài được Suzuki cũng như Togo hoan nghênh, nhưng việc chấp nhận cuối cùng các điều khoản Đồng minh còn lâu mới làm họ an tâm. Lời phát biểu liên quan đến Nhật hoàng làm bối rối

những người bảo thủ như Hoàng thân Hiranuma, mà những lo âu của ông về quốc túy đã dẫn ông tới nhà của Suzuki. Trước tiên ông kịch liệt bác bỏ lời phát biểu “quyền hành trị vì xứ sở của Nhật hoàng và Chính quyền Nhật Bản sẽ bị lệ thuộc vào Tư lệnh Tối cao của các lực lượng Đồng minh.” Từ “lệ thuộc vào” ông dịch ra là nô lệ. Ông cũng phản đối đoạn tuyên bố là hình thức tối hậu của chính quyền phải được thiết lập bởi nhân dân. Điều này là không thể chịu được. Nhật hoàng là thần thánh và không thể lệ thuộc vào nguyện vọng của dân chúng.   

                Chiều đó toàn thể Nội các gặp nhau để thảo luận về phúc đáp của Byrnes. Togo không thấy lý do gì để không chấp nhận nó. Đoạn 2 cho phép vị thế của Nhật hoàng còn nguyên vẹn về nguyên tắc nhưng đoạn 5 cho phép nhân dân Nhật được quyền chọn lựa hình thức chính quyền theo ý họ. “Không thể cho rằng,” ông lập luận, “đại đa số thần dân trung thành lại không muốn duy trì truyền thống quân chủ của chúng ta.” Hơn nữa, nếu họ yêu cầu xét lại ngôn từ hoàn toàn có khả năng bọn người trong số Đồng minh chống đối với vương quyền có thể yêu sách bãi bỏ chế độ quân chủ.

                Nhưng Tướng Anami (vài phút trước đây đã bị một nhóm bất đồng bao vây tại văn phòng của ông yêu cầu ông bác bỏ đề xuất của Đồng minh: “Nếu ngài không làm được điều đó, ngài nên tự xử hara-kiri đi!” [một nghi thức mổ bụng tự sát của võ sĩ đạo Nhật: ND]) vẫn cứng rắn và sự chống đối của ông được ủng hộ bởi hai viên chức khác dưới ảnh hưởng của Hoàng thân, là các Bộ trưởng Nội vụ và Tư pháp. Cũng có những người khác về phe với Togo, nhưng chỉ một mình Đô đốc Yonai nói ra. Sau hơn một giờ tranh cãi không có kết quả Suzuki – mà nảy giờ giữ im lặng, có lẽ ngán ngại đương đầu sự chống đối dữ dội như thế – cuối cùng cất tiếng, “Nếu chúng ta bị bắt buộc phải giải giới, chúng ta không còn cách nào khác là tiếp tục chiến đấu.”

                Ngài Togo trực tính, ngờ vực sự dao động của Suzuki, cố kềm cơn nóng giận. Ông phải tìm cách nào đó để hoãn lại việc ra quyết định. “Trong khi mà thư phúc đáp chính thức của Đồng minh vẫn chưa đến,” ông nói (như nhà vua đã nói trước ông), “chúng ta nên tiếp tục thảo luận sau khi nhận được nó.” Không ai chống đối. Togo theo Suzuki vào phòng riêng của ông, mắng mỏ ông. Thật không đúng lúc chút nào khi đưa ra vấn đề giải giới! ông la lên. “Trừ khi chúng ta cam chịu cắt đứt những đàm phán hòa bình, không có giải pháp nào khác hơn là chấp nhận phúc đáp của họ như đã nêu,” ông nói. Bộ ngài Thủ tướng không biết rằng Nhật hoàng mong muốn chiến tranh kết thúc và vấn đề hiện thời liên quan đến sự tồn vong của vương triều? “Nếu ngài khăng khăng với thái độ này, có thể tôi phải tự mình báo cáo lên Hoàng thượng!”

                Togo trở về văn phòng của mình nhiều phiền muộn hơn là nóng giận. Ông bảo Matsumoto là có thể mình phải từ chức. Viên Thứ trưởng van xin ông đừng hành động vội vàng. “Mặc dù một phúc đáp chính thức của Đồng minh có thể đến bất cứ lúc nào,” ông đề nghị, “tại sao chúng ta không giả định là nó không đến cho đến sáng mai. * Tối nay, cứ đi về nhà và nghỉ ngơi.” Lơ đãng lắng nghe, Togo gật đầu đồng ý và chán nản bước ra xe. Ông phải thông báo cho Marquis Kido về “sự phản bội” của Suzuki.

                Cơ mật Viện điện thoại cho Suzuki và yêu cầu ông ta có mặt. Ông được thông báo là Thủ tướng bận không đến được nhưng sẽ báo cho Bộ Hoàng triều Nội Vụ (Imperial Hosehold Ministry) ngay khi ông ta xong việc. Một rồi hai giờ trôi qua, và Kido càng lúc càng lo lắng. Cuối cùng, vào lúc 9:30 P. M., Suzuki đến, cằn nhằn về “bọn Hiramura” đang tụ tập coi mình là những vệ binh của kokutai.

                “Tôi không có ý coi thường lập luận của những người ưu tư cho việc bảo vệ quốc túy,” Kido nói, “nhưng trên căn bản của một cứu xét thận trọng, Bộ Ngoại giao bảo đảm với chúng ta rằng không có gì có thể bác bỏ được trong đoạn văn gây thắc mắc. . . Nếu chúng ta bác bỏ Tuyên bố Potsdam và tiếp tục chiến tranh, một triệu người Nhật vô tội sẽ chết vì bị oanh kích và đói khát.” Tư thế tự vệ của Suzuki chùn xuống, và Kido tiếp tục, “Nếu chúng ta đem lại hòa bình ngay by giờ, bốn hoặc năm người trong chúng ta có thể bị ám sát nhưng điều đó là xứng đáng. Không dao động hoặc chần chừ, chúng ta hãy tiến hành thủ tục công nhận Tuyên bố Potsdam!”

                “Hãy làm ngay thôi!” Suzuki đột nhiên la lên.

                Trong cuộc họp Nội các Tướng Anami rõ ràng có thái độ chống đối việc công nhận đề nghị của Đồng minh nhưng ở chốn riêng tư ông không khỏi hoang mang. Làm sao ông có thể đi ngược với nguyện vọng của Hoàng thượng? Như bọn chủ chiến đã bao vây ông chiều đó, ông tin rằng lối thoát danh dự cho Nhật Bản là tiếp tục chiến tranh, nhưng phải có sự cho phép của Nhật hoàng. Có lẽ ông có thể thuyết phục Hoàng thân Mikasa giúp mình làm Hoàng thượng đổi ý. Cùng với thư ký, Đại tá Hayashi, ông lái xe đến hầm trú ẩn nơi đã thành nơi cư ngụ của hoàng thân sau khi dinh cơ của ông bị phá hủy.

                Anami bất mãn vì sự đón tiếp thù nghịch của Mikasa. Ông biết trong Hoàng gia vừa có cuộc họp ngay chiều đó nhưng không biết rằng Mikasa, cũng như tất cả những hoàng thân khác cùng huyết thống, đã cam kết ủng hộ quyết định của Nhật hoàng. Vội vã Anami nói thêm là mình lo lắng việc ngăn chận các sĩ quan trẻ cứng đầu chống đối việc đầu hàng.

                “Từ Biến cố Mãn Châu Quân đội đôi khi có những hành động không phù hợp với nguyện vọng của Hoàng thượng,” ông hoàng nói. “Điều sai lầm nhất là ông còn muốn tiếp tục cuộc chiến khi tình hình đã đến nước này.” Tiu nghỉu, Anami bỏ đi, để lại Mikasa tự hỏi sao một sĩ quan có trách nhiệm như vậy lại có thể phớt lờ chỉ thị của Hoàng thượng. Tư tưởng này có làn tràn trong các Bộ Tư Lệnh Quân đội hay không?

                Anami không thể ngủ được. Rất lâu sau nửa đêm ông gọi dậy viên thư ký và phái anh đến người đồng minh trung thành nhất của mình, Tham mưu Trưởng Quân đội, với lời đề nghị là Tướng Umezu nhờ Thống chế Shunroku Hata can thiệp với Nhật hoàng vì uy tín của các tướng lãnh trong quân đội. “Xin ông tha thứ cho tôi,” Umezu bảo Hayashi khi ông bước tới lui trong phòng, “nhưng bây giờ thì tôi đồng ý công nhận Tuyên bố Potsdam.”

                Cho dù Umezu đã quay một góc 180 độ, Anami vẫn thử một cách khác để lung lạc nhà vua. Vào sáng sớm – đó là ngày 13/8 – ông đường đột xen vào ngay buổi điểm tâm của Trưởng Cơ mật Viện, nói trắng ra là “xồng xộc” bước vào phòng. Kido chưa từng thấy ông quá quẫn trí như vậy. Những lời nói tuôn ra từ miệng ông. Các điều khoản của Đồng minh sẽ hủy hoại linh hồn Nhật Bản. Phải tiến hành một Trận Quyết Chiến cuối cùng. “Bộ ngài không thể yêu cầu Hoàng thượng thêm một lần nữa xét lại việc công nhận tuyên bố hay sao?”         

             Thông điệp từ Washington, đi qua Berne, đến Bộ Ngoại giao một vài phút sau đó, vào lúc 6:40 P.M., nhưng trưởng Bộ phận Điện đài, nghe theo lời dặn của Matsumoto, ghi lùi lại vào 7:40 A. M., ngày 13/8, và giữ nó trong giỏ.  

                               “Tôi không thể làm việc đó,” Kido đáp lại. Ông tranh cãi với lời buộc tội của Anami là để quyền chọn lựa chính thể vào tay nhân dân là dấu chấm hết cho quốc túy. Ông còn đi xa hơn. “Giả sử Nhật hoàng thay đổi                quyết định, hủy bỏ đề xuất hòa bình, và ban lệnh tiến hành một Trận Quyết Chiến cuối cùng.” Các lực lượng Đồng minh chắc chắn sẽ coi Hoàng thượng như một thằng điên hoặc xuẩn ngốc. “Ta không thể chịu đựng được một lời sỉ nhục như thế đối với người.”

                Anami cố giữ bình tĩnh. “Tôi hiểu tâm trạng của ngài,” ông nói. “Trong địa vị của ngài, ngài phải bảo vệ Hoàng thượng.”

                “Quân đội rất hùng mạnh,” Kido nói với sự đồng cảm, “và ngài sẽ gặp khó khăn để kiểm soát được họ.”

                Anami cố nở một nụ cười. “Ngài không biết không khí hiện nay trong Bộ Chiến tranh ra sao đâu.” Họ bắt tay nhau.

                Lúc 9 A. M. Sáu Ông Lớn tiếp tục thảo luận việc mà ngày hôm trước Nội các không giải quyết được. Phiên họp vẫn bế tắc khi một cú điện thoại từ obunko cắt ngang việc tranh cãi. Nhật hoàng đã được thông báo về chuyến viếng thăm Kido đầy xúc động của Anami và giờ đây người muốn gặp hai Tham mưu Trưởng, Umezu và Toyoda.

                Các cuộc đàm phán đang tiến hành để kết thúc chiến tranh, Nhật hoàng bảo họ, và trong cung cách gián tiếp của mình gợi ý là ông muốn ít đổ máu như có thể cho đến khi một quyết định được đưa ra. Ông hỏi các chiến dịch không quân sẽ được chi đạo như thế nào trong lúc đàm phán. Umezu trả lời là họ chỉ khai hỏa khi bị oanh kích. Nhật hoàng gật đầu tán thành.

                Hai sĩ quan cúi chào và trở lại cuộc họp Sáu Ông Lớn. Nếu Nhật hoàng đã triệu tập họ cho mục đích kép là cứu vớt sinh mạng và gây ảnh hưởng tới cuộc tranh luận, thì nó không có hiệu quả tức thời gì tới sự toan tính của Sáu Ông Lớn. Tuy nhiên, chiều hôm đó tại buổi họp Nội

các đa số thành viên giờ đây tán thành sự chấp nhận các yêu sách của Đồng minh; hơn nữa, lãnh tụ phe chống đối, Tướng Anami, ở chốn riêng tư cố tình cho người khác thấy, theo một cung cách quanh co điển hình Nhật Bản, là mình không còn quyết liệt như biểu lộ bên ngoài.

                Ông đẩy ghế ra khỏi bàn họp và ra hiệu cho Sakomizu theo mình vào phòng kế bên, tại đó ông điện cho trưởng Phòng Quân vụ, Tướng Masao Yoshizumi nóng nảy. “Tôi đang họp Nội các,” Anami nói, “và mọi người trong các bộ đều ngã theo quan điểm của anh. Vì thế tất cả người của anh ở đâu yên đấy cho đến khi tôi trở lại.” Sakomizu kinh ngạc. Tình hình ngược lại mới đúng. Anami nháy mắt. “Tôi đang đứng bên Thư ký Nội các,” Anami tiếp tục, “và nếu anh muốn anh có thể nói chuyện với ông ta trực tiếp về tình hình của buổi họp.” Sakamizu chợt hiểu ra. Anami đang chơi trò phĩnh phờ để làm yên bọn bất phục tùng ở các Bộ Tham mưu Quân đội.

                Nhưng những lời của Anami, vốn có chủ ý ngăn ngừa bọn chống đối, lại có tác dụng ngược lại. Cuộc họp Nội các bị gián đoạn bất ngờ lúc 3:45 P. M. Một nhân viên mang vào một bản sao của một thông cáo Quân đội sẽ được báo chí và các trạm phát thanh loan đi trong vòng 15 phút nữa: “Quân đội, sau khi nhận được lệnh trên vừa mới ban ra, đã mở lại hoạt động tấn kích chống Hoa Kỳ, Vương quốc Anh, Liên bang Xô viết và Trung Hoa.”

                “Tôi không biết gì hết về chuyện này!” Anami kêu lên. Ông lập tức điện cho Umezu, đã rời họp sớm hơn để trở về Bộ Tham mưu Quân đội. Tham mưu Trưởng nổi giận không kém Anami. Lệnh trên cần phải được chuẩn y bởi Bộ trưởng Chiến tranh và Bộ Tổng Tham mưu và ông lẫn Anami không ai đưa ra cả. Chắc hẳn nó được các tùy viên của họ chuẩn y mặc dù Bộ trưởng Chiến tranh đã gọi điện chi dẫn đặc biệt cho Tướng Yoshizumi không được làm gì cả. Umezu ra lệnh hủy bỏ thông cáo và nó được chận đứng vài phút trước khi được phát thanh.

                Cuộc họp tiếp tục nhưng Anami tạm thời không còn hứng thú với tiến trình. Thậm chí khi hai Bộ trưởng dân sự – Bộ Nội vụ và Tư pháp – vốn cũng chống đối việc đầu hàng ngay lập tức, một mình quay ra khăng khăng yêu cầu những điều khoản thỏa đáng hơn, Bộ trưởng Chiến tranh hình như bối rối và thả hồn vào mơ tưởng.

                “Phúc đáp của Byrnes,” Togo nhấn mạnh, “không nghi ngờ gì nữa biểu thị mẫu số chung nhỏ nhất của các điều khoản của vài nước Đồng minh, và việc cấp bách là chúng ta phải chấp nhận chúng như được minh định, nếu chúng ta muốn mang lại hòa bình để tái thiết nước Nhật và vì lợi ích của nhân loại.”

                Một trò lý sự về ngôn từ lại nổ ra. Nổi nóng, Suzuki chen vào. “Có phải các lãnh đạo quân sự có chủ tâm muốn ngăn trở nỗ lực của chúng ta nhằm chấm dứt chiến tranh bằng trò làu bàu cố ý lời phúc đáp của Byrnes hay không? Tại sao chúng ta không lý giải nó một cách thích hợp?” Họ phải ra một quyết định cuối cùng. Một số bộ trưởng thoái thác không phát biểu ý kiến của họ và bây giờ ông muốn mỗi người đều phải nói ra rõ ràng. Ông chỉ Bộ trưởng Tư pháp. Ông ta, tất nhiên, đồng ý với Anami và Toyoda, cũng như Bộ trưởng Nội vụ. Một vài người miễn cưỡng có lập trường tích cực – như chính Suzuki từng như vậy – nhưng ông cật vấn họ ráo riết cho đến khi tất cả trừ một người tán thành đầu hàng. Giờ thì Suzuki cũng phải tự mình tuyên bố.

                “Tôi đã quyết định,” ông nói, “kết thúc chiến tranh tại thời điểm nguy kịch này thỏa theo mong ước của Nhật hoàng. Sau khi khảo sát phúc đáp của Đồng minh, tôi nhận thấy có vài điểm hình như không chấp nhận được nhưng khi xem xét kỹ tôi khám phá ra rằng Hoa Kỳ không có ác ý với chúng ta khi bày ra những điều kiện này, và tôi cảm thấy họ không có ý định thay đổi vị thế của Nhật hoàng. Tôi tin tưởng mình phải kết thúc chiến tranh như Hoàng thượng mong muốn, vì thế tôi sẽ báo cáo đầy đủ với nhà vua những gì chúng ta quyết định ở đây, và hỏi sự quyết định của người.”

                Không có thắc mắc quyết định là gì. Nhưng Anami, mà địa vị của ông khiến ông có trách nhiệm cá nhân về hậu quả của chiến tranh, bị xâu xé bởi các quan điểm trung thành xung đột nhau và không thể chấp nhận điều không thể tránh khỏi. Sau khi Nội các bãi họp ông theo Suzuki vào văn phòng, tại đó một bác sĩ hải quân đang đợi gặp Thủ tướng. “Sao ông không làm ơn cho tôi thêm hai ngày trước khi mở một phiên họp khác với nhà vua?” Anami hỏi.

                “Tôi rất tiếc,” Suzuki trả lời. “Đây là cơ hội bằng vàng và chúng ta phải nắm lấy ngay lập tức.” Sau khi Anami bỏ đi, Thủ tướng quay sang viên bác sĩ. “Nếu chúng ta đình hoãn,” ông nói, “người Nga có thể chiếm Hokkaido cũng như Mãn Châu, Triều Tiên và Sakhalin. Điều đó sẽ giáng xuống đất nước này một đòn chí tử. Giờ đây chúng ta phải hành động trong khi các cuộc đám phán chủ yếu là với Hoa Kỳ.”

                “Nhưng Tướng Anami có thể tự tử.”

                “Tôi biết,” Suzuki nói. “Tôi rất tiếc.”

                               Lãnh tụ vụ âm mưu vừa nổi lên không phải là em rễ của Anami, Đại tá Takeshita, mà là một sĩ quan cấp dưới, Thiếu tá Kenji Hatanaka. Hatanaka bề ngoài có vẻ là một phản đề của một người cách mạng. Anh trầm lặng, cần cù và nhún nhường, nhưng lòng tận tụy không lay chuyển cho kokutai và sự căm ghét thỏa hiệp tạo cho anh một uy quyền không thể tranh giành. Sự ủng hộ của Anami vẫn là chìa khóa của thành công, vì mọi cấp bậc chỉ huy đều tin tưởng ông, và tối hôm đó nhóm âm mưu đã được mời đến gặp ông tại tư gia. Hai lần trước đây, Hatanaka đã sắp xếp việc trung gian để móc nối Anami vào nhóm âm mưu. Trước hết anh nghĩ anh phải thuyết phục Takeshita can thiệp với ông anh vợ, nhưng ngài đại tá nhất quyết không chịu lạm dụng mối liên hệ thân thiết của mình. Anh quay sang nhờ Giáo sư Hiraizumi, người mà học thuyết của ông về danh dự quốc gia đã thấm nhuần các Bộ Tư lệnh Quân đội, nói dùm với Bộ trưởng Chiến tranh, mặc dù Hiraizumi đã viết cho ông này một bức thư yêu cầu ông và những kẻ nổi loạn “ngưng các hành động liều lĩnh theo ý mình”, thay vào đó chịu sự chỉ đạo của Anami. Hatanaka, luôn là người lạc quan, hi vọng rằng giáo sư có thể khuyên Anami tham gia vào âm mưu nhưng, thật ra, Hiraizumi chuẩn bị thúc ép ông này vâng lệnh Nhật hoàng một cách tuyệt đối. Hatanaka đích thân hộ tống Hiraizumi đến phòng chờ của Bộ Chiến tranh, nhưng giáo sư không hề được gặp ông. Sau một thời gian dài chờ đợi ông được thông báo là Anami đang bận họp tại Hoàng cung và không thể trở về ngay.

                Lúc 8 P. M. – đêm tháng 8 còn yên tĩnh và ngột ngạt – vòng người âm mưu chen vào ngôi nhà gỗ trệt khiêm nhượng của Anami, giờ được sử dụng làm nơi cư trú chính thức sau các trận oanh kích. Hatanaka trước tiên muốn tách vị tướng ra khỏi đám người cổ vũ việc đầu hàng và loan tin đồn là bọn chủ bại đang lên kế hoạch ám sát ông. Anami, thích thú, mĩm cười hồn hậu. Kế hoạch đảo chính hình như cũng không gây ấn tượng đối với ông: Kido, Suzuki, Togo và Yonai phải bị bắt giam, thiết quân luật được ban bố và Hoàng cung bị cô lập. Để hoàn thành được điều này, bốn vị tướng – Anami, Umezu, Tanaka và Mori – phải chịu hợp tác. Anami phớt lờ bản chất phản bội của kế hoạch nhưng chê trách cách làm việc của bọn âm mưu. Chẳng hạn, họ làm thế nào xử lý vấn đề liên lạc?

                Takeshita vẫn kiên quyết. “Chúng ta phải thực hiện kế hoạch!” y la lên. Ngoài ra, phải làm trước khi cuộc họp với nhà vua chính thức chấp nhận thư phúc đáp của Byrnes. Thái độ vô thưởng vô phạt của Anami làm cho bọn âm mưu không chắc chắn về chủ định của ông. Đại tá Okikatsu thối chí, nhưng Takeshita không chịu bỏ cuộc.

                Để không gây ác cảm với nhóm, Anami hứa sẽ dùng ảnh hưởng của mình “việc đầu tiên trong buổi sáng” với Umezu – người mà ông biết đã cương quyết ủng hộ Nhật hoàng. Nhưng các sĩ quan trẻ muốn ông hành động ngay lập tức. Lần này Anami trì hoãn bằng cách đồng ý gặp một người trong số họ, Đại tá Arao, vào lúc nửa đêm khi đó, ông ám chi, mình có thể đưa ra cho nhóm nhận định đầy đủ hơn. Khi tiễn họ ra cổng, ông dặn dò. “Hãy cẩn thận! Các anh có thể bị theo dõi. Các anh nên trở về lẻ tẻ thay vì đi chung một lần”

                Takeshita đợi cùng ông anh vợ cho đến khi những người khác đã ra về. Anami có thực sẽ tham gia với họ không? Viên đại tá đánh bạo hỏi, với tư cách người trong nhà. “Người ta không thể nói ra những suy nghĩ thực sự của mình trước một đám đông như thế,” viên tướng trả lời. Ông không nói gì thêm, nhưng Takeshita ra về với một niềm lạc quan mới sống lại.

                Các Tham mưu Trưởng Lục và Hải quân – Umezu và Toyoda – đã không cảm thấy sức ép trực tiếp từ bọn âm mưu nhưng không thể đè nén được nôn nao trỗi dậy về việc chấp nhận đầu hàng vô điều kiện. Họ gọi Ngoại trưởng Togo đang dự tiệc xin được gặp riêng trong phòng họp ngầm của nơi cư trú chính thức của Thủ tướng. Nhưng Togo khăng khăng không muốn xét lại bất kỳ qui định vào phút cuối cùng nào. Ông ta lặp lại nhiều lần, “Không thể được!” Bên ngoài có tiếng huyên náo và Sakomizu, người đã sắp xếp cuộc họp, xin phép dẫn vào Đô đốc Onishi, người tổ chức đội kamikaze. Ông tiến đến Đô đốc Toyoda và bằng một giọng nói tắc nghẹn tiết lộ rằng mình vừa khẩn cầu Hoàng thân Takamatsu van xin Hoàng thượng cho tiếp tục chiến tranh. Nhưng dĩ nhiên ông không thành công gì hơn Anami khi xin Hoàng thân Mikasa. Hơn nữa Takamatsu còn nói, “Quân nhân các ông đã đánh mất lòng tin cậy của Hoàng thượng!” Cặp mắt Onishi rướm lệ. “Chúng ta phải đệ trình một kế hoạch đem lại thắng lợi cho Hoàng thượng và yêu cầu người xem xét lại quyết định. Chúng ta phải liều mình thực hiện kế hoạch và biến nó thành hiện thực. Nếu chúng ta sẵn sàng hi sinh 20 triệu sinh mạng Nhật Bản trong một nỗ lực “công kích vô song”, thắng lợi sẽ vào tay chúng ta!” Lời kêu gọi hùng hồn của ông không gây phản ứng nào và ông quay sangTogo một cách tuyệt vọng.

                “Nếu thực sự chúng ta có bất cứ cơ may chiến thắng nào không ai trong lúc này sẽ nghĩ đến việc chấp nhận Tuyên bố Potsdam,” Ngoại trưởng nói. “Nhưng đánh thắng một trận không phải là đánh thắng một cuộc chiến.”

                Còi hụ báo động vang lên. Togo nhờ cớ này cho hoãn lại cuộc họp. Khi ông lái xe về nhà qua các đường phố tối tăm ông nghiền ngẫm về những lời Onishi nói phải hi sinh 25 triệu sinh mạng. Quyết định cuối cùng phải đưa ra vào ngày hôm sau. “Chúng ta có thể chịu đựng bất cứ điều gì,” sau này ông viết, “nếu nó hứa hẹn một sự trở về; cung và giáo tre mà các người lính đang bập bẹ kể về chúng không hứa hẹn điều gì hết.”

 

36 Cuộc nổi loạn cung đình

1

Khi bầu trời phía đông Tokyo bắt đầu rựng sáng vào ngày 14/8 một chiếc B-29 đơn độc, tận trên cao, bay về phía trung tâm thành phố phụt ra một chuỗi những viên đạn pháo. Lần lượt từng viên một nổ tung, phóng ra những đám mây các tờ bướm bay phấp phới. Văn bản đã được Phòng Tin Tức Chiến sự ở Washington nhanh chóng soạn thảo, dịch sang tiếng Nhật và gởi về Saipan.

GỞI NHÂN DÂN NHẬT BẢN

                Những phi cơ Mỹ này không bỏ bom xuống các bạn hôm nay. Thay vào đó chúng bỏ những tờ rơi vì Chính quyền Nhật Bản đã chịu đầu hàng, và mỗi người Nhật có quyền biết những điều khoản mà Nhật chấp nhận và lời phúc đáp do Hoa Kỳ soan thảo, nhân danh nhân dân mình, người Anh, người Trung Hoa và người Nga. Chính quyền của bạn có cơ hội kết thúc chiến tranh ngay lập tức.

                Thư chấp nhận có điều kiện của Nhật về Tuyên bố Potsdam được trích dẫn cũng như phúc đáp của Byrnes.

                Marquis Kido nhặt một tờ bướm rơi xuống sân Hoàng cung và mang đến obunko. Ông bảo với Nhật hoàng nếu chúng rơi vào tay các binh sĩ không biết gì về việc đàm phán, chúng có thể gây ra binh biến. Hoàng thượng nên triệu tập ngay một cuộc họp để người có thể thông báo cho các thành viên hội đồng về quyết định kết thúc chiến tranh ngay lập tức.

                Nhật hoàng liếc qua tờ bướm và chi thị cho Cơ mật Viện đi tìm Suzuki ngay. May thay ngài Thủ tướng đang đứng ở phòng chờ. Trong trường hợp này, Suzuki nói, sẽ mất nhiều thời gian lấy chữ ký của hai Tham mưu Trưởng; thay vào đó, ông sẽ phải yêu cầu Nhật hoàng thực hiện một biện pháp chưa có tiền lệ là triệu tập một cuộc họp dựa vào quyền hành của riêng người. Kido nhìn thấy sự cần thiết phải sử dụng biện pháp khẩn cấp này. Hơn nữa, ông quyết định rằng một biện pháp chưa có tiền lệ khác phải cần đến: ông sẽ tháp tùng Suzuki khi ông gặp Hoàng thượng. Trước đây chưa bao giờ Cơ mật Viện có mặt tại cuộc tiếp kiến riêng giữa Thủ tướng và Nhật hoàng. Hoàng thượng không chi đồng ý mở cuộc họp vào lúc 10:30 A. M. mà còn đi xa hơn. Nếu có sự bế tắc ông sẽ “ra lệnh” cho Nội các chấp nhận các điều khoản của thư phúc đáp của Byrnes.

                Sáng hôm đó một lần nữa Anami bị thúc ép phải đứng về phe của bọn âm mưu. Tại cuộc gặp lúc nửa đêm với Đại tá Arao ông đã tìm lời thoái thác đến một mức độ mà thư ký của ông, Đại tá Hayashi, người đã khuyên ông nên thẳng thắn với Arao, nói cộc lốc: “Theo cách ngài vừa nói tôi không biết ngài có ủng hộ kế hoạch của họ hay không.” Giờ đây, chỉ còn vài giờ là đến cuộc đảo chính, bọn nổi loạn tràn vào Bộ Tư lệnh Quân đội để yêu cầu Anami hỗ trợ họ ngay lập tức. Một lần nữa Anami không thể đành lòng nói một tiếng không với họ, ông bỏ họ lại trong văn phòng lấy cớ là ông phải tìm gặp Tham mưu Trưởng Quân đội.

                Umezu không ở trong tình trạng trù trừ như thế. Ông bảo với Anami việc dàn quân trong khu Hoàng cung là hành động phạm thượng. Trên đường về văn phòng Anami lại bị nhóm âm mưu chặn lại. Ông không còn cách nào tránh né vấn đề. “Sau khi thảo luận với Tham mưu Trưởng,” ông nói, “tôi đã quyết định không ủng hộ hành động của các anh.” Ông từ chối bàn cãi thêm nữa và sảy bước ra khỏi tòa nhà, nơi một ô tô đang đợi đưa ông đến phòng họp ngầm của  Thủ tướng để họp Nội các.

                Chỉ vừa mới bắt đầu thì có thông báo là họ phải di chuyển toàn bộ đến phòng phụ kế bên obunko để tiến hành cuộc họp khẩn cấp với Nhật hoàng, buổi họp đầy đủ đầu tiên với nhà vua kể từ lần gặp lịch sử ngày 1/12/1941. Họ không có đủ thời gian để thay y phục đàng hoàng; Bộ trưởng Quân dụng, chẳng hạn, phải mượn một cà vạt từ nhân viên Hoàng cung và nhờ Bộ trưởng Phúc lợi thắt dùm. Lần thứ hai trong 5 ngày phe quân phiệt đã được điều động vào một thế đối đầu mà họ không chuẩn bị, và Suzuki chịu hết mũi dùi của nỗi bất mãn của họ.

                Khi họ lần lượt bước vào phòng họp ngầm chật hẹp họ thấy bàn đã được dời đi và thay bằng hai dãy ghế dài mới đủ chổ cho số người tham dự tăng lên. Họ bồn chồn đợi trong căn phòng bít bùng và ngột ngạt. Khoảng 10:50 Nhật hoàng, vận quân phục và mang găng tay trắng, bước vào với Tướng Hasunuma, trưởng tùy viên quân sự của ông.

                Suzuki xin lỗi nhà vua vì sự thể là nội các của ông ta không nhất trí tán thành việc chấp nhận thư của Byrnes. Ông nêu ra ba người bất đồng chính – Toyoda, Umezu và Anami – và yêu cầu họ giải bày trực tiếp với Hoàng thượng. Umezu đòi tiếp tục chiến tranh. Nếu đầu hàng nghĩa là kết liễu của quốc túy, thế thì toàn đất nước nên hi sinh trong một trận chiến cuối cùng. Những lời lẽ của ông được Đô đốc Toyoda lặp lại. Còn Anami, với cảm xúc làm cho nghẹn lời, muốn tiếp tục đánh trừ khi Đồng minh hứa một cách xác định bảo tồn sự an toàn của Nhật hoàng. Vẫn còn có cớ may chiến thắng, và nếu không, ít nhất cuộc chiến cũng có thể kết thúc trong những điều kiện thỏa đáng hơn.

                Nhật hoàng đợi nhưng không có ai khác đứng dậy. Cuối cùng ngài gật đầu. “Nếu không còn ý kiến nào,” ông nói, “trẫm sẽ nói ra ý trẫm. Trẫm muốn tất cả các khanh đều nhất trí với kết luận của trẫm. Trẫm đã lắng nghe cẩn thận mọi cuộc tranh cãi chống đối sự chấp nhận của Nhật Bản về phúc đáp của Đồng minh, nhưng quan điểm của trẫm vẫn không thay đổi. Trẫm đã khảo sát những điều kiện nội bộ cũng như quốc tế và đã đi đến kết luận là chúng ta không thể tiếp tục cuộc chiến lâu hơn nữa.” Bàn tay đeo găng của ông gạt những giọt lệ đọng trên má. Cảnh tượng ấy làm mềm lòng một số thành viên, không kềm chế được tiếng nức nở. “Trẫm đã xem xét phúc đáp của Đồng minh và kết luận rằng nó có quan tâm đến lập trường nêu trong thư chúng ta gởi họ cách đây vài ngày. Trẫm thấy nó hoàn toàn có thể chấp nhận được. Một số hình như thắc mắc đến các động lực của Đồng minh liên quan đến quyền lực tối cao của Nhật hoàng, nhưng trẫm đồng ý với Ngoại trưởng. Trẫm không tin là thư phúc đáp viết ra để phá vỡ kokutai của chúng ta. Trẫm nhận thức đầy đủ nỗi khổ nhục mà các sĩ quan và binh lính trung

kiên phải chịu đựng khi phải nộp vũ khí cho kẻ thù và chứng kiến đất nước mình bị chiếm đóng, và có thể bị kết án là tội phạm chiến tranh.” Giọng nói của ông vỡ ra và ông ngừng lại một phút. “Đã có quá nhiều người chết trận và gia đình họ còn phải chịu nhiều đau khổ. . . Trẫm nghĩ đến những thần dân này với lòng thương cảm.” Một lần nữa ông đưa tay lên má. “tất cả những cảm xúc này quá nặng nề để chịu đựng, nhưng trẫm không thể để mặc thần dân của mình chịu đau khổ nhiều hơn nữa. Trẫm muốn cứu vớt dân chúng dù cho phải hi sinh mạng sống mình. Nếu chiến tranh tiếp tục toàn bộ quốc gia chúng ta sẽ bị tàn phá, thêm hàng trăm ngàn người nữa sẽ chết. Trẩn không thể chịu đựng được điều này, và quyết định trẫm đưa ra bây giờ như một quyết định mà Hoàng đế Minh Trị đã từng làm vào thời kỳ Can Thiệp Ba Bên* khi Hoàng Đế phải chịu đựng điều không thể chịu đựng được. Giờ đây trẫm phải làm như vậy và tất cả chúng ta phải cùng nhau đoàn kết để xây dựng một Nhật Bản thành một xứ sở hòa bình.” Ông ngừng nói lần nữa. Hai trong số các bộ trưởng đã ngất xỉu trên nền phòng.

                “Nguyện vọng của trẫm là tất cả các ông, những bộ trưởng của trẫm, phải nghe theo mong mỏi của trẫm là chấp nhận thư phúc đáp Đồng minh ngay lập tức. Nhân dân không nắm vững tình hình và sẽ ngạc nhiên khi nghe quyết định bất ngờ của trẫm. Trẫm sẵn sàng làm bất cứ điều gì. Nếu vì lợi ích của nhân dân trẫm muốn đọc một lời hiệu triệu. Trẫm sẽ đi đến bất cứ đâu để thuyết phục các sĩ quan và binh sĩ buông bỏ vũ khí. Trẫm mong muốn Nội các ngay bây giờ hãy thảo ra một chỉ dụ nhằm kết thúc chiến tranh.”

                Trong nỗi buồn đau và phiền muộn các thành viên ôm chầm lấy nhau. Suzuki cố gắng đứng dậy, một lần nữa xin lổi bước đến bệ và cúi đầu. Nhật hoàng đứng lên và mệt mỏi bước ra cửa.

                Ngay trước khi Umezu rời Bộ Tư lệnh Quân đội để dự họp, hai trong số các người âm mưu đã xông vào văn phòng và nhiếc móc ông. Trong một cố gắng hóa giải ông bảo họ là mình vẫn chưa “tuyệt đối” chống lại việc binh biến. Họ bắt đầu lao dọc theo hành lang về phía văn phòng của Takeshita. “Umezu đi theo chúng ta!” một người trong bọn la lên. Anami phải được thông báo chuyển biến này ngay lập tức và Takeshita lái xe đến văn phòng Thủ tướng. Với nỗi kinh ngạc ông phát hiện ra rằng buổi họp Nội các đã giám đoạn để họp khẩn với Nhật hoàng. Tại Hòang cung ông bắt buộc phải đứng chờ ở Bộ Hoàng triều Nội vu rồi, sau một khoảng thời gian tưởng như vô tận, ông được thông báo là mọi người đã trở lại phòng ngầm của Thủ tướng để tiếp tục họp. Tại phủ Thủ tướng ông lại phải đợi một lần nữa. Nội các đang ăn trưa.

                Khi bữa ăn đã qua, Tướng Anami tiến về phòng nam theo sau là thư ký của ông. Bộ trưởng chiến tranh khích động một cách khác thường. “Chúng ta vừa nhận được tin,” ông kêu lên với Đại tá Hayashi, “là hạm đội Hoa Kỳ đang ở ngoài Vịnh Tokyo! Anh nghĩ sao nếu chúng ta tấn công họ  bằng mọi thứ ta có?” Hayashi lại bực mình với sự dao động liên tục của Bộ trưởng Chiến tranh Anami. Như thể ông chưa hề tham dự cuộc họp với Nhật hoàng. “Chả ích gì,” ông nói. “Thứ nhất hạm đội Hoa Kỳ đóng ngoài Vịnh Tokyo chỉ là một tin đồn. Thứ hai, Nhật hoàng vừa mới yêu cầu kết thúc chiến tranh.”

  •              Biến cố ba nước Nga, Đức, và Pháp vào ngày 23/4/1895 can thiệp vào Hiệp ước Shimonoseki mà Nhật ký với nhà Thanh nhằm kết thúc chiến tranh Hoa-Nhật lần thứ nhất. Theo đó, trước sức ép của ba cường quốc, Minh Trị bắt buộc phải chấp nhận rút quân ra khỏi bán đảo Liêu Đông: ND]

 

                Một con người vô cùng quyết đoán, Anami bị xâu xé tâm trí bởi năng lực nhìn thấy những giá trị của những sự kiện từ mọi phía. Ông quyết định trở lại Bộ Tư lệnh Quân đội một vài phút trước khi Nội các nhóm họp trở lại, và đối mặt với bọn âm mưu. Khi ông đi qua phòng chờ ông chạm đầu với người em rễ đang chờ. “Tướng Umezu đã đổi ý rồi!” Takeshita vọt miệng nói.

                Gương mặt Anemi sáng bừng lên. “Đúng thế chứ?” ông hỏi với vẻ quan tâm dồn dập. Rồi, nhớ là mọi việc đã xong, ông nói thêm một cách thất vọng, “Nhưng mọi việc đã được quyết định rồi.”

                Đại tá khẩn khoản xin ông dùng ảnh hưởng của mình tại cuộc họp Nội các, nhưng Anami lắc đầu. “Thế thì ít nhất anh nên từ chức khỏi Nội các,” Takeshita khăng khăng. Nếu làm thế, chính phủ Suzuki sẽ bị giải tán và không thể kết thúc chiến tranh.

                “Lấy giấy mực cho anh,” Anami nói với nhiệt huyết đã trở lại. “Anh sẽ viết đơn từ chức.” Nhưng một lần nữa ông lại đổi ý – hòa bình là không thể tránh khỏi dù ông có rời Nội các hay không. “Và nếu anh từ chức,” ông nói thêm, “anh sẽ không bao giờ gặp lại Hoàng thượng nữa.”

                Anami thấy là văn phòng của mình ở Ichigaya Heights đã bị ít nhất 15 người âm mưu chiếm đóng. “Một hội đồng dưới sự hiện diện của Nhật hoàng đã vừa mới họp xong,” ông nói, “và nhà vua đã cuối cùng quyết định chấm dứt chiến tranh.” Lời xin lỗi của ông vì không thỏa mãn sự kỳ vọng của họ được đón nhận bằng sự im lặng hoang mang. “Toàn thể quân đội phải hành động dựa theo quyết định này,” ông nói. “Nhật Bản sẽ đối mặt với những giờ phút khó khăn, nhưng dù cuộc sống có trở nên nhọc nhằn thế nào, tôi cũng yêu cầu các anh ráng hết sức để bảo tồn quốc túy.”

                Một trung tá, Masatada Ida thách thức ông. Tại sao ông lại đổi ý?

                Tướng Anami nhắm mắt, nhớ lại trải nghiệm đau đớn vào buổi sáng đó tại phòng phụ cạnh obunko. “Tôi không thể chống đối quyết định một khi do chính Hoàng thượng đưa ra.” Ông bảo họ rằng nhà vua, với đôi mắt đẫm lệ, đã quay sang ông và nói, “Anami, trẫm hiểu điều này đặc biệt khó khăn cho ông, nhưng ông phải ráng chịu đựng nó!” Ông nhìn chằm chăm vào những gương mặt cay đắng bao quanh ông nhưng lần này ông sẽ không mềm lòng. “Quyết định đã ra và phải được tuân phục,” ông nói một cách đường hoàng và kiên quyết. “Ai cảm thấy bất mãn sẽ phải lấy đầu tôi trước đã!”

                Rõ ràng, không thể nói gì thêm. Thiếu tá Hatanaka suy sụp. Những dòng nước mắt lăn dài trên má anh và anh khóc nức nở. Anami xúc động, nhưng ông quay đi và rời phòng không nói một lời. Những người khác bước theo ông từng người một, đầu gục xuống.

                Anami trở lại cuộc họp Nội các, lúc này không khí lắng dịu hơn lúc nào hết. Suzuki trách móc các bộ trưởng vì đã buộc Nhật hoàng phải hai lần đưa ra quyết định cho hòa bình; đó là một điều sỉ nhục đối với Hoàng thượng. Những lời phũ phàng của ông không ai dám cãi lại. Cúi đầu trước nguyện vọng của Nhật hoàng, 15 bộ trưởng lần lượt ký tên vào tuyên bố chấp nhận Tuyên bố Potsdam vô điều kiện.

                Một vấn đề chủ yếu còn để ngõ: Quyết định được trình bày với quốc dân làm sao đây? Trưởng Phòng Thông tin Kainan Shimomura đề nghị là Nhật hoàng đọc chỉ dụ trên đài. Cách này có vẻ gớm ghiếc, nhưng những lời tuyên bố đầu hàng nếu không do chính miệng người đọc sẽ ít ai tin. Nội các đồng thanh nhất trí, với một điều kiện: Yêu cầu Nhật hoàng nói trực tiếp với thần dân qua sóng phát thanh là quá tự tiện. Chi cần thu băng trước.

               

2

                Tin đồn mà Anami đã nghe về hạm đội Mỹ đang ở ngoài Vịnh Tokyo lan truyền khắp Bộ Tư lệnh Quân đội. Quân thù đang chuẩn bị đổ bộ; các lính dù sắp sửa được thả xuống mọi phi trường quan trọng. Các sĩ quan hoảng kinh lôi các văn kiện, tài liệu ra sân và đốt những tài liệu đã được phân loại. Một đại tá từ Okinawa, vung vẩy thanh kiếm, xông vào phòng biên dịch tin phát và báo chí viết bằng tiếng Anh. Y kết tội những người phiên dịch là loan truyền chủ nghĩa chủ bại. Chém gió thanh kiếm trước măt họ, y quát lên, “Tụi mày đáng tội chết vì đã đánh lừa chúng tao!” nhưng rồi y bật khóc và đột ngột chạy ra khỏi phòng, đóng sầm cánh cửa.

                Tướng Takeshi Mori, tư lệnh của Quân khu Konoye, bảo vệ Hoàng cung, trút cơn giận của mình lên trưởng phòng Tình báo. Ông xồng xộc vào văn phòng của Tướng Seizo Arisue quát lên, “Hãy tự xử đi! Tao sẽ hara-kiri sau khi thấy mầy chết!” Arisue nhắc ông nhớ nhiệm vụ của ông là bảo vệ Nhật hoàng. “Đó là chuyện của tao. Tao sẽ bảo vệ Hoàng thượng. Rồi tao sẽ giết mày!” Run rẩy, Arisue bỏ đi qua văn phòng của Trưởng Phòng Hành quân, Tướng Shuichi Miyazaki, người cũng bị Mori đe dọa. “Ông ta điên rồi,” Arisue nói.

                Kỹ luật đang tan rã trên mọi mức độ. Các hạ sĩ quan quân cảnh đóng ở tòa nhà đã đào ngũ, đem theo quần áo và lương thực; các sĩ quan cấp dưới sỉ nhục cấp trên của mình; một số sĩ quan cao cấp giam mình trong phòng uống sake và rượu tây. Sự chia rẽ có một hiệu quả tích cực: nó giúp đoàn kết các nhà lãnh đạo quân đội, Anami, Umezu, Hata và Sugiyama tất cả đều quyết tâm với lời tuyên bố chắc nịch như một cương lĩnh: “Quân đội sẽ hành động phù hợp với quyết định của nhà vua đến phút cuối cùng.” Tất cả những chỉ huy phân khu đều được chỉ thị trình diện tại Phòng Họp I, nơi Bộ trưởng Chiến tranh Anami sẽ nói chuyện với họ.

                Lúc 3:30 P. M. Anami bước lên bục nhỏ. “Nhật hoàng đã quyết định kết thúc chiến tranh,” ông nói với cử tọa đang đứng nghe. “Do đó, chúng ta phải tuân thủ nguyện vọng của người một cách thích đáng. Hoàng thượng tin tưởng rằng quốc túy sẽ được bảo toàn và người đã biểu lộ sự tin tưởng của mình trước các tướng lãnh chiến trường. Những khó khăn nằm ở phía trước chúng ta, nhưng các sĩ quan phải đối diện với sự kiện là cái chết không miễn trừ các bạn khỏi nhiệm vụ của mình. Bạn phải tiếp tục sống, thậm chí nếu điều đó có nghĩa phải gậm cỏ và ngủ trên gai và đá.”

                Lời huấn thị của Anami dập tắt mọi âm mưu binh biến có thể có giữa các sĩ quan cao cấp. Chỉ có Thiếu tá Hatanaka không lay chuyển và một vài đồng chí ngoan cố mới tiếp tục quyết tâm hành động. Hơn nữa, họ còn cơ hội chiếm Hoàng cung; hai thiếu tá thuộc bộ phận của Tướng Mori – một người là con rễ của Tojo Hidemasa Koga – còn theo đuổi lý tưởng của họ. Tuy nhiên, có một mục tiêu mới thuộc hàng ưu tiên cao nhất. Đó là họ phải chặn lại việc thu thanh lời hiệu triệu của Nhật hoàng được thực hiện trước khi được giao cho đài NHK (Đài Phát Thanh Nhật Bản) phát ra.

                Suốt buổi chiều Hatanaka đạp xe quanh Tokyo trong cái nóng hừng hực, cố gắng đem lại sức sống cho âm mưu. Nỗi ám ảnh của anh đưa anh tới tầng 6 của Trụ sở Bảo hiểm Dai Ichi, nơi Tướng Shizuichi Tanaka, tư lệnh Quân khu miền Đông, đang ở với đoàn tùy tùng. Không chờ thông báo, ông sảy bước vào phòng riêng của vị tướng. Tanaka ra lệnh cho anh ra ngoài. Cơn giận của vị tướng làm anh tiu nghỉu. Anh chào thật nhanh, quay người bước ra.

                Nhưng quyết tâm của anh vẫn không bốc hơi, và anh lại đạp xe trở về Ichigaya Heights để chiêu mộ lại những người đã từ bỏ vụ âm mưu. Trước tiên anh đến gặp Đại tá Ida; giải pháp, Ida đã quyết định, sau khi nghe huấn thị của Anami, là cho các sĩ quan chỉ huy tại Bộ Tư lệnh Quân đội tự tử tập thể để tạ lỗi với Nhật hoàng và quốc gia – nhưng ít người muốn tham gia với anh.

                Hatanaka xin Ida theo anh lên mái nhà, tại đó họ có thể nói chuyện tự do. Anh có “một điều quan trọng” để tiết lộ: anh đã lên kế hoạch chiếm Hoàng cung ngay đêm đó. “Gần như tất cả các chỉ huy đại đội và tiểu đoàn thuộc Quân khu Konoye đều đã đồng ý tham gia,” anh nói một cách thuyết phục.

                “Không có kết quả gì đâu,” Ida trả lời. “Nhật hoàng đã ra quyết định. Còn tư lệnh của Quân khu Konoye thì sao?”

                “Tôi không chắc về Mori,” Hatanaka thừa nhận, “nhưng dù sao chúng ta phải ép ông ta vào.” Ida nghi ngờ là có thể khuất phục Tướng Mori. “Tôi biết, nhưng điều đó không ngăn cản tôi. Chính Hoàng thượng cũng không chắc chắn liệu chấp nhận Tuyên bố Potsdam có duy trì được quốc túy hay không. Làm sao ta có thể tuân lệnh Hoàng thượng khi chúng ta có 50 phần trăm không chắc chắn về hậu quả của nó?” Bất kỳ người Nhật nào có lòng hoài nghi như thế, anh lý giải, mà không đứng lên trong giờ phút sinh tử nhất của lịch sử, sẽ để lại một vết nhơ cho danh dự quốc gia. “Đó là lý do tại sao tôi phải kiểm nghiệm điều này bằng hành động ngay bây giờ. Nếu cuộc binh biến thất bại, nó sẽ chứng tỏ quyết định của Nhật hoàng là đúng đắn. Nếu nó thành công, thế thì chứng tỏ tôi đúng. Tôi phải làm điều gì đó. Tôi không thể chi ngồi đợi.”

                Ida không thể đồng ý với lập luận này, nhưng ông khâm phục Hatanaka dám liều mình vì lý tưởng. “Nếu anh nghiêm túc về vấn đề này, thì cứ tiến hành,” ông nói, “tôi không thể ngăn chặn anh.”

                Nhưng Hatanaka muốn nhiều hơn là sự tán thành. “Tôi sẽ rất cảm kích nếu được ông trợ giúp.” Ida nói mình phải suy nghĩ lại, nhưng ông không có ý định đổi ý.

                Trên cầu thang Hatanaka chạm mặt Đại tá Masao Inaba, người đã viết lời kêu gọi không phép đến binh sĩ hãy tiếp tục chiến đấu. Ngay cả Inaba không thèm giả vờ sẽ xét lại việc ủng hộ âm mưu mới. Ông nói thẳng, “Nội các đã ký tuyên bố đầu hàng và Nhật hoàng sẽ phát biểu ngay ngày mai. Vô ích rồi. Bỏ cuộc đi.”

                Chính xác Nhật hoàng sẽ nói gì trong chỉ dụ được phát thanh vẫn còn được Nội các thảo luận. Anami không thể chịu được câu từ “tình hình chiến sự đang ngày càng bất lợi cho chúng ta.” Làm sao ông có thể tán thành một phát biểu như thế? Nó sẽ dán nhãn hiệu cho những bản tin của Bộ Tư lệnh Hoàng gia là thứ dối trá. Ngoài ra, họ vẫn chưa thua trận.

                Yonai phản pháo ông ta bằng những tổn thất thảm họa tại Miến Điện và Okinawa, và để tránh một cuộc tranh cãi dài dòng khác, Sakamizu đề nghị một cách khéo léo một câu từ mới đọc là “tình hình chiến sự đã phát triển không nhất thiết theo chiều hướng thuận lợi cho Nhật Bản.”

                Trong lúc tạm nghỉ Anami quay về nơi ở gần tòa nhà nghị viện để thay đổi y phục chuẩn bị cho lễ ký văn kiện đầu hàng. Khi ông chuẩn bị rời ngôi nhà nhỏ, Thống chế Shunroku Hata và cựu Thủ tướng Tojo xuất hiện. Hiển nhiên là sau khi đầu hàng họ sẽ bị xử là những tội phạm chiến tranh, và Tojo muốn mọi người xác nhận là họ đã chiến đấu một cuộc chiến tranh vệ quốc. Hata có một yêu cầu khác: ông muốn từ bỏ cấp bậc Thống chế.

                Khi Nội các tán thành đoạn văn cuối cùng của chỉ dụ, hai viên chức tại Bộ Hoàng triều Nội vụ đang viết bản sao bằng bút lông; một sẽ là văn kiện chính thức, bản kia sẽ được nhà vua sử dụng khi thu âm. Hoàng thượng được trao văn bản đã hoàn tất và ngài yêu cầu sửa vài điểm nhỏ. Phải mất vài giờ để sao lại văn bản mới, vì chi dụ chứa vào khoảng tám trăm từ. Thay vào đó nhân viên sao chép viết những từ được sửa đổi vào các mảnh giấy nhỏ rồi dán che các từ gốc. Sau đó có điện thoại từ Thủ tướng gọi đến – một thay đổi nữa, do Anami yêu cầu. Tiếp theo một bản sao được phát hiện viết thiếu một mệnh đề.

                Cuối cùng, vào lúc 8:30 P. M., Nhật hoàng, dưới sự hiện diện của Thủ tướng Suzuki, ký tên vào văn kiện chắp vá và đóng ấn vào. Nhưng việc đầu hàng chính thức với Đồng minh chưa có thể truyền đi nếu toàn thể Nội các chưa ký tên hết. Phải mất gần một giờ rưỡi để thu thập hết chữ ký. Vào khoảng 11 P. M. người cuối cùng, Bộ trưởng Giao thông, đến phòng họp Thủ tướng và ký tên. Việc đầu hàng đã chính thức hóa. Một người thư ký điện thoại cho Bộ Ngoại giao và những điện báo tương tự bằng tiếng Anh được gởi đến các đại diện ngoại giao của Nhật ở Thụy Sĩ và Thụy Điển. Các bộ trưởng tại các xứ này được chỉ thị truyền thông điệp sau đây đến Hoa Kỳ, Vương quốc Anh, Liên bang Xô viết và Trung Hoa.

                Tham chiếu thư của Chính quyền Nhật Bản gởi ngày 10/8 liên quan đến việc chấp nhận các điều khoản của tuyên bố Potsdam và thư phúc đáp của Chính quyền các nước Hoa Kỳ, Vương quốc Anh, Liên bang Xô viết và, Trung Hoa do Ngoại trưởng Mỹ Byrnes ký ngày 11/8, Chính quyền Nhật Bản hân hạnh trao đổi với Chính quyền của bốn cường quốc như sau:

  1. Nhật hoàng đã ban hành chỉ dụ liên quan đến việc chấp nhận các điều khoản của tuyên bố Potsdam.
  2. Nhật hoàng sẵn sàng ủy quyền và bảo đảm chữ ký của chính phủ ông và Bộ Tổng Tư Lệnh Hoàng gia về những hạng mục cần thiết để thực thi các điều khoản của tuyên bố Potsdam. Nhà vua cũng sẵn sàng ban lệnh cho tất cả các đơn vị hải, lục, không quân của Nhật Bản và tất cả các lực lượng dưới quyền họ đóng bất cứ nơi đâu phải ngừng ngay các hành động quân sự, giao nộp vũ khí và ban hành những quân lệnh khác theo yêu cầu của Tư lệnh Tối cao của Lực lượng Đồng minh nhằm thi hành những điều khỏan đã nêu trên.

 

                Các bộ trưởng trong Nội các ngồi chết lặng quanh bàn họp. Không còn có quyết định nào khác để Suzuki phải đứng dậy và ra khỏi phòng. Anami, trong quân phục nghiêm chỉnh, đứng dậy và tiến gần đến kẻ cựu thù già cỗi của mình, Togo. Ông vươn vai và nói bằng một giọng điệu nghiêm trang, “Tôi đã thấy bản thảo về quá trình trao đổi của Ngoại trưởng liên qua đến việc chiếm đóng và giải giới, và tôi tỏ lòng biết ơn vô hạn. Nếu tôi biết trước vấn đề được dàn xếp theo cách đó, tôi sẽ không cần phải tốn công ăn nói quá nóng nảy như thế tại buổi họp.”

                Togo nghĩ rằng đây là lời đáp lễ phép quá đáng và trả lời hơi cứng nhắc rằng mình vẫn luôn luôn đồng tình đến các điều kiện đầu hàng do phe quân sự đề nghị.

                Anami khóa kiếm vào thắt lưng, cắp chiếc mũ dưới cánh tay ông bước vào phòng riêng của Suzuki. Ông chào ngài Thủ tướng. “Kể từ lúc bắt đầu đàm phán hòa bình, tôi đã gây cho ông nhiều rắc rối và tôi xin tỏ lòng hối tiếc. Những gì tôi làm chỉ vì kokutai của chúng ta có thể được bảo toàn – tất cả chỉ là vậy. Tôi hi vọng ngài thông cảm điều này và tôi thành thật xin lỗi.”

                “Tôi cũng biết rõ việc đó,” Suzuki nói và tiến đến Anami, đang nhấp nháy cặp mắt ứa lệ. Ông nắm lấy bàn tay vị tướng. “Nhưng này ông bạn, hãy yên tâm vì Hoàng gia sẽ luôn luôn được hòa bình phù hộ, bởi vì Hoàng thượng luôn cầu nguyện cho hòa bình tại những lễ hội mùa xuân thu theo tục lệ tiên vương.”

 

3

                Trong Hoàng triều Nội vụ một nhóm bốn người từ NHK đã đợi từ giữa trưa để thu âm tuyên cáo của Nhật hoàng về việc đầu hàng. Daitaro Arakawa, giám đốc kỹ thuật tại NHK, đã lắp đặt trang thiết bị trong các phòng liền kề trên tầng hai. Chỉ có một lần trước đây giọng nói của nhà vua được thu âm; vào ngày 2/12/1928, qua một sự cố âm thanh, các mi-crô của NHK tình cờ thu được giọng nói của Nhật hoàng cách 50 thước khi ngài đọc một chỉ dụ cho Quân đội.

                Lúc 11:30 P. M. Nhật hoàng được hộ tống đến chiếc mi-crô đứng trước hai bình phong lá vàng. Nội thị Yasuhide Toda, mà giọng nói khá giống giọng của Nhật hoàng, nói thử một vài lời vào mi-crô để các kỹ sư có thể điều chinh âm lượng cho Hoàng thượng.

                “Tôi sẽ nói lớn cỡ nào?” Nhà vua hỏi.

                Trưởng phòng Tin tức Shimomura nói rằng giọng nói bình thường của ông là đủ lớn. Nhưng Hoàng thượng bất giác hạ thấp giọng xuống khi ông nói những từ trong ngôn ngữ vua chúa:

GỞI CÁC THẦN DÂN TRUNG THÀNH VÀ TẬN TỤY

                “Sau khi suy nghĩ thấu đáo những trào lưu của thế giới và những điều kiện thực tế có được trong Đế chế chúng ta hôm nay, Trẫm đã quyết định thực hiện sự ổn định hiện tình bằng cách vận dụng một biện pháp phi thường.

                “Trẫm đã ban lệnh cho Chính quyền của Trẫm truyền đạt tới Chính quyền của Hoa Kỳ, Vương quốc Anh, Trung Hoa và Liên bang Xô viết rằng Đế chế của Trẫm chấp nhận các điều khoản của Tuyên bố Chung.

                “Nỗ lực vì sự thịnh vượng và hạnh phúc chung cho mọi quốc gia, cũng như cho sự bình an và lợi lạc cho thần dân của Trẫm, là nghĩa vụ cao cả mà các đấng Tiên vương của Trẫm đã gởi gấm, và Trẫm giữ mãi trong lòng. Thật ra, trẫm tuyên chiến với Mỹ và Anh chỉ vì lòng khát khao chân thành muốn bảo đảm sự vẹn toàn của Nhật Bản và sự vững mạnh của Đông Á, không phải vì muốn xâm phạm quyền tự chủ của các quốc gia khác hay để rắp tâm bành trướng lãnh thổ. Nhưng giờ đây chiến tranh đã kéo dài gần bốn năm. Mặc dù mọi người đã làm hết sức mình – tinh thành chiến đấu can trường của binh sĩ, lòng kiên định và cần cù của các công bộc của Trẫm và tinh thần phục vụ tận tụy của 100 triệu thần dân của trẫm – tình hình chiến sự đã phát triển không nhất thiết theo chiều hướng thuận lợi cho Nhật Bản, trong khi trào lưu của thế giới tất cả đều quay ra chống lại lợi ích của Nhật Bản. Hơn nữa, kẻ thù đã bắt đầu sử dụng một loại bom kiểu mới, tàn bạo, mà sức tàn phá của nó thực sự không tính hết được, cướp đi sinh mạng của nhiều người vô tội. Nếu trẫm tiếp tục chiến đấu, hậu quả không chỉ là sự sụp đổ và xóa sạch toàn diện của quốc gia Nhật Bản, mà còn dẫn đến sự tận diệt hoàn toàn của văn minh nhân loại. Nếu làm thế, làm thế nào trẫm cứu vớt được hàng triệu thần dân của trẫm; hoặc chuộc lỗi trước anh linh của các Tiên vương? Đó là lý do tại sao trẫm đã ban lệnh chấp nhận các điều khoản của Tuyên bố chung của các Cường quốc.

                “Trẫm không thể làm gì hơn là bày tỏ sự ân hận sâu xa nhất tới các quốc gia đồng minh ở Đông Á, đã kiên trì hợp tác với Đế chế vì mục tiêu giải phóng Đông Á. Nghĩ đến các sĩ quan và thường dân này cũng như những người khác đã ngã xuống trên chiến trường, những người đã hi sinh khi làm nhiệm vụ, hoặc những người ra đi bất ngờ cùng với gia đình tang tóc của họ, làm tấm lòng trẫm đau nhói ngày đêm. Đem lại phúc lợi cho những người bị thương tật và nạn nhân chiến tranh, và của những ai đã mất gia đình và kế sinh nhai, là những mục tiêu của mối  quan tâm sâu xa nhất của trẫm. Những nhọc nhằn và khổ đau mà quốc gia trẫm phải chịu đựng từ đây về sau sẽ chắc chắn là rất nặng nề. Trẫm ý thức sâu sắc cảm nhận sâu xa nhất trong lòng tất cả các khanh, những thần dân của trẫm. Tuy nhiên, thuận theo mệnh lệnh của thời đại và định mệnh mà trẫm đã cương quyết mở ra con đường đến nền hòa bình trọng đại cho tất cả các thế hệ sắp tới bằng cách chịu đựng những gì không thể chịu đựng được và chịu đau khổ những gì không thể đau khổ hơn được.

                “Đã có thể bảo vệ và duy trì cấu trúc của Vương triều, trẫm luôn luôn ở bên các khanh, thần dân trung thành và tận tụy của trẫm, tin cậy vào lòng chân thành và tính liêm chính của các khanh. Hãy nghiêm khắc cảnh giác trước những bùng nổ cảm xúc có thể sinh ra những phức tạp không cần thiết, hoặc bất kỳ mối bất hòa và xung đột giữa huynh đệ có thể tạo ra sự hỗn loạn, khiến các khanh hành động sai lạc làm mất lòng tin của thế giới. Toàn thể đất nước hãy tiếp tục như một gia đình từ thế hệ này đến thế hệ khác, luôn luôn giữ niềm tin sắt đá về sự trường tồn của mảnh đất thiêng liêng, và không quên gánh nặng nhiệm vụ, và con đường dài phía trước. Hãy đoàn kết toàn bộ sức mạnh của các khanh hiến dâng cho sự nghiệp tái thiết tương lai. Hãy trau dồi lòng chính trực; nuôi dưỡng sự cao quý của tinh thần; và làm việc với quyết tâm sao cho các khanh có thể thăng hoa cái vinh quang vốn có của Vương triều và bắt nhịp với sự tiến bộ của thế giới.”

                               Hoàng thượng quay lại và hỏi, “Nói có được không?” Một kỹ sư trong căn phòng khác lúng túng trả lời là anh rất tiếc nhưng có một số từ không nghe rõ. Nhật hoàng, tỏ ra quan tâm nhiều với tiến trình thu âm, biết rằng minh đã nói vấp vài chỗ và bảo rằng ngài muốn thu lại lần nữa. Lần này giọng ngài quá cao và bỏ sót một chữ. “Ta muốn thu lần nữa,” ông nói sốt sắng, nhưng nhân viên cho rằng điều đó sẽ “quá sức” với người.

                Người ta quyết định là bản thu thứ hai là bản chính thức, và bản đầu tiên chỉ sử dụng khi khẩn cấp. Hai bộ cặp đĩa 10-inxơ mỗi bộ được cẩn thận đặt trong một hộp bìa cứng riêng lẻ, sau đó được cho vào một bao vải ai đó tìm thấy trong phòng. Giờ đây vấn đề là: Đâu sẽ là nơi an toàn nhất để cất giữ chúng? Trạm phát thanh rất dễ bị tấn công nếu tin đồn về một vụ binh biến là có thật; Hoàng triều Nội vụ có thể an toàn hơn. Thế là các đĩa thu được khóa trong một tủ nhỏ trên tầng hai.

                Những để phòng này đã được chọn lựa thật đúng. Khu Hoàng cung sắp sửa bị cô lập với thế giới bên ngoài bởi quân nổi dậy, và đã có đại tướng bị ám sát. Bị cự tuyệt ở Bộ Tư lệnh Quân đội, Hatanaka đã đi đến Đại tá Toyojiro Haga, tư lệnh Trung đoàn Thứ hai của Quân khu Konoye, và khi thề rằng Tướng Anami, Umezu, Tanaka và Mori đã theo phe âm mưu, anh đã thu phục được sự ủng hộ miễn cưỡng của ông. Rồi Hatanaka lại đạp xe trở về Ichigaya Heights, tại đó anh đánh thức Đại tá Ida – trong tuần qua nhiều sĩ quan đã ngủ lại Bộ Tư lệnh Quân đội. Một lần nữa Hatanaka thổi phồng quá đáng lực lượng ủng hộ anh: “các tư lệnh trung đoàn của Quân khu Konoye đều đồng ý tham gia với chúng tôi! Người duy nhất còn lại cần thuyết phục là tư lệnh quân khu.” Anh không tin là Mori sẽ nghe lời anh (vị tướng đã từng thầy dạy của anh tại Cao đẳng Chiến tranh và vẫn còn coi anh là “sinh viên”), nhưng Ida, là một trung tá, có thể được lưu ý. Hatanaka thề rằng nếu Mori từ chối tham gia, anh sẽ bỏ cuộc.

                Ida vẫn còn tán thành mục đích của cuộc nổi loạn, và anh tự thuyết phục mình là anh sẽ đi cùng với Hatanaka. Nếu Tướng Mori có thể bằng lòng gia nhập, anh tự trấn an mình, điều đó “sẽ giúp chứng tỏ chúng ta hành động đúng đắn.” Hơn nữa, nếu có rắc rối, Ida sẽ tiện tay ngăn cản.

                Hai người đạp xe theo các đường phố tối tăm đến doanh trại của Quân khu Konoye, tọa lạc ở bên ngoài khu Hoàng cung chỉ cách obunko vài trăm mét. Một lốp xe xẹp khiến họ mãi đến 11 P. M. mới đến được văn phòng Mori và vị tướng vừa mới đi thanh sát chung quanh. Thậm chí khi Mori quay lại họ cũng bị bắt buộc chờ đợi trong phòng trước; Mori đang tiếp em rễ, Trung tá Michinori Shiraishi. Một lúc sau nửa đêm Hatanaka nôn nóng đứng dậy. “Đừng để ý đến khách viếng của ông ta,” anh nói. “Hãy đi vào và gặp Mori.” Ida theo anh đến văn phòng Mori. Ngay cửa Hatanaka dừng lại. “Anh đi vào một mình đi,” anh nói. Trong lúc đó anh sẽ tranh thủ lại sự trợ giúp của Đại tá Takeshita với ông anh vợ của ông ta. Anh làm Ida cáu tiết đến nổi suýt quay về Bộ Tư lệnh Quân khu. Nhưng rồi Ida cũng gõ cửa và bước vào.

                Tướng Mori (một con người nghiêm nghị, uyên bác có biệt danh “sư thầy”) đã quát tháo hai vị tướng chiều hôm đó tại Bộ Tư lệnh Quân khu vì góp phần để thua trong cuộc chiến. Ông tiếp Ida niềm nỡ, và không hỏi tại sao anh đến, bắt đầu độc thoại về triết lý cuộc sống và tôn giáo. Qua nửa giờ trước khi Ida có cơ hội mở lời. Bình thường, ông nói, một người Nhật trung kiên phải tuân thủ bất kỳ mệnh lệnh của Nhật hoàng, sự tuân phục đó là đức hạnh. Nhưng ngày nay bổn phận của một thần dân trung quân là khuyên Hoàng thượng xét lại quyết định của mình. “Tuân thủ mù quáng Nhật hoàng không phải là lòng trung thành thực sự.” Mori lắng nghe ra chìu bối rối, nhưng hứng thú hẳn lên. Ida thúc ép ông. “Nếu ngài tuyệt đối tin rằng phe Đồng minh bảo đảm duy trì quốc túy, thì hãy tuân lệnh Nhật hoàng, nhưng nếu ngài không chắc chắn, không lẽ ngài không nên khuyên răn Hoàng thượng?” Nhưng điều đó sẽ quá trễ trừ khi ta tóm được bản thu âm mà Nhật hoàng đã nói. Anh thúc giục Mori điều động Quân đoàn Konoye ngay lập tức.

                “Tôi không chắc cái nào là đúng,” Mori nói một cách e dè. “Tôi phải đi đến Đền Minh Trị để tẩy trừ mọi ý nghĩa ô nhiễm. Sau đó tôi sẽ nói ai đúng – anh hoặc tôi.” Đại tá Kazua Mizutani, tham mưu trưởng của vị tướng, bước vào. “Anh đến đúng lúc lắm,” Mori nói và quay sang Ida, đang mướt cả mồ hôi vì căng thẳng. “Hỏi ý kiến anh ta đi.”

                Mizutani đề nghị hai người trao đổi trong văn phòng của anh trong khi vị tướng thay y phục để viếng đền thờ. Trong hành lang họ gặp Thiếu tá Hatanaka – nhờ tài thuyết phục của anh mà Đại tá Takeshita đã đồng ý gặp Anami thêm một lần nữa – và vài người âm mưu khác.

                Ida nói rằng anh và Tướng Mori chuẩn bi đi viếng Đền Minh Trị, nhưng trước tiên anh phải gặp Đại tá Mizutani một lát.

                “Thật là uổng phí thời gian!” Hatanaka tức tối kêu lên.

                Không mất bao lâu đâu; Ida ra lệnh cho Hatanaka chờ trong văn phòng của Mori.

                Nhưng Hatanaka không có tâm trạng chờ đợi. Sự mất kiên nhẫn đã đưa anh đến mức khinh suất. Thật ra, anh sẵn sàng chém gục Mori nếu ông ta khước từ họ. Anh sảy bước vào văn phòng Mori, theo sau bởi vài cảm tình viên kích động khác. Phớt lờ nghi thức quân đội, Hatanaka đường đột yêu cầu – đúng ra gằn giọng kêu gọi – vị tướng tham gia với họ. Nhưng Mori không hấp tấp; ông muốn chi quyết định sau khi thăm viếng đền thờ.

                Sự chấn chừ của ông là không thể tha thứ được. Đại úy Shigetano Uehara, thuộc Học viện Hàng không, tiến đến bên ông với một thanh kiếm đã tuốt ra khỏi vỏ. Đại tá Shiraishi lao tối che chắn cho ông anh vợ, Tướng Mori. Uehara chém anh gục xuống, gần như đứt đầu. Hành động tấn công bốc đồng của Uehara làm nổ tung những cảm xúc thất vọng đè nén bấy lâu nay. Hatanaka giơ khẩu súng chỉa vào Mori và bóp cò. Vị tướng ngã sụp xuống trong vũng máu chảy ra từ thi thể của Shiraishi và tắt thở.

                Ida và Mizutani nghe tiếng súng và tiếng chân người sột soạt. Họ chạy vào hành lang. Ở đó Hatanaka, mặt không còn chút máu, khẩu súng còn ở trong tay. Lập tức Ida đoán được diều gì đã xảy ra. “Bakayaro!” anh la lên. Tại sao Hatanaka không thể đợi được; Mori có thể đã tham gia với họ sau khi ông đi thăm Đền Minh Trị.

                “Tôi làm như vậy vì không còn thời gian,” Hatanaka lẩm bẩm. “Tôi rất tiếc.” Anh cúi đầu nhưng vẫn không mất quyết tâm. Anh xin Ida kêu gọi Tướng Tanaka lần nữa. Mori chết rồi, quân khu giờ đặt dưới quyền ông ta.

                Ida miễn cưỡng đi theo Hatanaka đến Quân khu Konoye để ngăn ngừa bạo lực, nhưng bây giờ điều tồi tệ nhất đã xảy ra anh đã trở thành một đồng lõa sát nhân, bắt buộc đi theo con đường mà anh đã phản kháng. Mori chết rồi, sự chống đối mạnh mẽ cú binh biến bên trong Quân khu Konoye đã bị loại trừ và binh sĩ sẽ nhanh chóng chiếm lấy Hoàng cung. Đồng hành cùng với Đại tá Mizutani cũng điên cuồng không kém, Ida phóng xe đến Trụ sở Dai Ichi, bộ tư lệnh của Quân khu Miền đông. Mizutani vội vã bước vào văn phòng bên trong của Tanaka trong khi Ida, giấu kín việc ám sát Mori, yêu cầu tham mưu trưởng của Tanaka, Thiếu tướng Tatsuhiko Takashima, hợp tác với phe nổi loạn. Phản ứng của Takashima gần như là bối rối – giống như “nhảy từ lửa vào nước lạnh” – và niềm tin của Ida vào thắng lợi bốc hơi.

                Điện thoại reo. Đó là Thiếu tá Koga, con rễ của Tojo, thông báo rằng Quân khu Konoye vừa mới nổi loạn và không chịu đầu hàng. Quân khu Miền đông phải nối gót theo họ. Tướng Takashima đi vào phòng riêng của Tanaka, để lại Ida mải mê tranh cãi với một trong các sĩ quan tham mưu. Nhưng viên sĩ quan tham mưu vẫn khăng khăng là không có khả năng nhỏ nhất để Tướng Tanaka chống lại Nhật hoàng. Sự tin chắc của anh khiến Ida trở về với thực tại. Tỉnh ra anh nói, “Tôi sẽ cố hết sức để rút binh lính trước rạng đông.”

                Một quân lệnh vừa được ban hành đến các tư lệnh trung đoàn của Quân khu Konoye – nó mang dấu ấn của Tướng Mori nhưng do Hatanaka đóng vào. Chỉ thị, thực ra được thảo ra bởi Thiếu tá Koga, ra lệnh cho binh sĩ tiến chiếm Hoàng cung, để “bảo vệ” Nhật hoàng và kokutai; một đại đội được phái tới Trụ sở NHK để kiểm soát việc phát thanh. Toán quân tổng cộng hơn một ngàn người bao vây khu Hoàng cung. Như trong cuộc binh biến 2/26 không binh sĩ nào biết minh đang tạo phản. Bề ngoài trông như là một sự tăng viện khẩn cấp cho những trạm gác thường trực. Trong vài phút tất cả cổng lớn đều đóng chặt và Nhật hoàng bị cô lập với bên ngoài.

                Không ai, dù thuộc cấp bậc nào, được phép rời Hoàng cung mà không có phép của Hatanaka. Bên trong Hoàng triều Nội vụ, Nhật hoàng đã kết thúc việc thu âm, và trưởng phòng Shimomura và nhân viên NHK lái xe ra về. Khi xe họ đến Cổng Sakashita, chỉ cách chưa đến 100 mét, binh sĩ với súng lưỡi lê chận họ lại. Một người ló đầu vào chiếc xe đầu tiên. Anh ta đã được đánh động phải tìm Trưởng phòng Thông tin. Thư ký của Shimomura nhận ra họ là ai và toàn bộ nhóm người được binh sĩ hộ tống đến một nhà bảo vệ nhỏ bằng gỗ để được thẩm vấn. Một người trong nhóm tiết lộ rằng đĩa thu âm đã được trao lại cho một người nội thị cất giữ. Một toán lính được phái đến Bộ Hoàng triều Nội vụ để lục soát.

                Trên tầng thứ tư của bộ này Kido bị kéo ra khỏi võng bởi Nội thị Yasuhide Toda. Trưởng Cơ mật Viện đã phải choàng tĩnh vì một loạt tiếng ồn – còi báo động không kích, tiếng bom nổ từ xa, thông báo từ loa phóng thanh trong sảnh về số thương vong, và gần đây nhất là tiếng chân bước nghiến trên sỏi.

                Toda thông báo là với ông là các binh sĩ làm loạn đang ở trong tòa nhà tìm kiếm Kido và đĩa thu âm, và rằng chính obunko cũng bị bao vây. Cơ mật Viện trưởng vẫn bình tĩnh. “Tôi đã chờ đợi một việc như thế,” ông nói. “Quân đội là shoganai yatsu [bọn ngu xuẩn khốn kiếp].” Vì nhân dạng của Kido ít được người ngoài Hoàng cung biết đến, Toda đề nghị ông di chuyển đến khu trực đêm của ngự y, tại đó ông có thể đóng giả là một bác sĩ.  Ngay khi vươn vai nằm dài trên giường của bác sĩ là Kido bắt đầu suy nghĩ mông lung nếu chẳng may bị giết trong khi hóa trang như thế này chẳng phải là nhục nhã lắm ư. Ông liền quay lại văn phòng, tại đó ông vội vàng thu thập tất cả văn kiện tối mật, xé chúng ra từng mảnh rồi dội xuống cầu tiêu.

                Ông bị chặn lại vì một lời khẩn khoản khác phải tìm chỗ trú ẩn. Nội thị Yoshihiro Tokugawa nài nỉ ông trốn chung với Bộ trưởng Hoàng triều Nội vụ trong một nhà kho ở dưới hầm. Tiếng giày bốt khua của binh sĩ vang vọng theo hành lang và Kido để mặc cho người dẫn mình xuống một cầu thang tối.

                Nội thi Toda, đã nghĩ là mình đã để Kido an toàn trong phòng trực bác sĩ, giờ đây đang cố gắng tìm đường đến obunka để báo động nhân viên triều đình; mọi đường dây điện thoại đều bị cắt đứt. Anh sợ rằng con đường tắt đến obunka, một đường hầm nhỏ, có thể bị canh gác, và khi anh bắt đầu một lộ trình ngoằn ngoèo, nửa tá binh sĩ xuất hiện từ bóng tối. Toda giải thích mình là nội thị, nhưng viên chi huy dửng dưng. Ấn mũi súng lục vào ngực anh, y nói, “Trở lại; con đường đã bị phong tỏa.”

                Toda trở lại Hoàng triều Nội vụ. Ở lối vào anh đụng phải Tokugawa, và họ cùng nhau trở lại phía obunko, lần này theo đường hầm. Như đoán trước, bên đầu kia có bọn lính gác án ngữ, nhưng không có người chỉ huy. Họ đánh liều nói rằng mình là những nội thị đang làm nhiệm vụ, và được phép đi qua. Tại obunko họ kêu dậy các cung nữ nhưng dặn họ không được đánh thức hoàng gia. Tokugawa, một người thấp bé, cố kéo tấm màn sắt che cửa sổ, nhưng chúng quá rỉ sét đến nỗi phải cần vài cận vệ lực lưỡng mới làm xong công việc. Khi anh và Toda trở lại khu Hoàng triều Nội vụ một thiếu úy hô họ dừng lại, nhưng họ bỏ chạy và thoát được.

                Lối vào chính khu Nội vụ giờ được canh gác bởi một đội súng máy và họ đi vào từng người một bằng lối cửa hông. Trên tầng hai Toda bị một toán lính làm loạn mang lưỡi lê tóm lấy. Họ đang hộ tống một tù binh bị trói, một nhân viên NHK.

                “Anh là ai?” một người lính hỏi.

                “Tôi là nội thị trong cung,” Toda đáp lại.

                Tên lính quay sang tù binh. “Có phải anh giao đĩa thu cho người nội thị này không?”

                “Không, người kia cao hơn và có mũi to.”

                Người mà anh ta khai ra cho chúng chính là Tokugawa, thật ra nhỏ con hơn. Không lâu sau khi trở vào lại khu Nội vụ, Tokugawa đã bị người thiếu úy tóm được gần obunko. Y ra lệnh cho binh sĩ mang người nội thị đến nhà bảo vệ.

                Nhưng Tokugawa, mà tổ tiên của anh đã từng cai trị Nhật Bản trong hơn 250 năm, ương ngạnh không chịu đi. “Nếu anh có vấn đề gì với tôi,” anh nói, “tôi sẽ giải quyết tại đây.” Sự cãi cọ giữa hai người làm hai viên sĩ quan nổi loạn khác chú ý. “Hạ nó đi!” một người quát lên. “Giết tôi thì có lợi gì,” Tokugawa nói một cách khẳng khái.

                “Tao không thèm làm bẩn thanh gươm lên người mầy,” viên thiếu úy cười khinh bỉ, nhưng rõ ràng là y ấn tượng trước sự gan lì của Tokugawa và cố gắng bào chữa cho cuộc binh biến. Y nói cần thiết phải chiếm Hoàng cung vì các cố vấn của Hoàng thượng đã làm ngài lạc lối.“ Tokugawa chi nhìn y chằm chằm. Nổi quạu, viên trung úy hét lên, “Bộ mầy không có tinh thần Nhật Bản hay sao?”

                “Tôi là nội thị,” Tokugawa kiêu hãnh nói. “Các anh không phải là những người bảo vệ tổ quốc. Để bảo vệ một quốc gia, mọi người phải đoàn kết.”

                Một tên bạt tay Tokugawa quá mạnh đến nỗi cặp kính anh cong queo và lủng lẳng trên một vành tai. Tokugawa gọi đến một cảnh sát Hoàng cung (lực lượng cảnh sát nhỏ đã tỏ ra bất lực khi chống lại nhóm người nổi loạn). “Hãy liên lạc với các sĩ quan phụ tá!” Viên thiếu úy tóm lấy viên cảnh sát, nhưng Tokugawa, hành động như thể mình chỉ huy, ngăn y lại với câu nói “Anh ta đang làm nhiệm vụ” một cách căm phẫn. Viên cảnh sát được buông ra. Một sĩ quan phản loạn khác từ tốn hỏi Tokugawa đường đến văn phòng Cơ mật Viện.

                Tokugawa chỉ dẫn rồi nói thêm, “tôi không tin là anh tìm được ông ta ở đó.” Rồi anh quay lại và sảy bước đi. Không ai cố ngăn lại. Anh đi vào văn phòng các tùy viên quân sự của Nhật hoàng.

                “Chúng như những thằng điên,” Đô đốc Toshihisa Nakamura, tùy viên hải quân của Nhật hoàng cảnh báo. “Hãy cẩn thận.” Ông muốn biết Kido thực sự đang ở đâu.

                “Tôi không tiết lộ với ai ông ta đang ở đâu,” Tokugawa nói. Anh không thể tin tưởng bất kỳ sĩ quan cao cấp nào chỉ biết giam mình trong một văn phòng trong tình hình khẩn trương thế này. “Cứ an tâm ông ta vẩn bình yên.”

                Thiếu tá Hatanaka đã thành công cô lập được Nhật hoàng, nhưng đĩa thu âm của ngài vẫn chưa được tìm thấy. Hơn nữa, Đại tá Ida, mà anh đã phái đi làm một nhiệm vụ sinh tử, đã trở lại với báo cáo đảo lộn; không có sự hỗ trợ nào từ bên ngoài. “Quân khu miền Đông không theo ta,” ông nói. Thật ra, chính Ida không còn nghĩ là cuộc binh biến có thể thành công. “Một khi những người trong Quân khu Konoye khám phá ra tư lệnh của họ đã bị giết, họ sẽ từ chối tham gia. Nếu anh cố thúc ép cho được, sẽ sinh ra hỗn loạn. Không có giải pháp nào khác: rút tất cả binh sĩ trước rạng đông.” Hatanaka cố cản ngăn, nhưng Ida giơ tay lên. “Hãy đối diện với sự thật; cuộc binh biến đã thất bại, nhưng nếu anh rút tất cả binh sĩ ra ngoài nhanh chóng người ta sẽ không biết chuyện gì xảy ra.” Mọi sự sẽ qua đi như “một giấc mộng đêm hè.”

                Gương mặt Hatanaka bệu đi. “Mình biết rồi,” anh nói.

                “Tôi sẽ đi báo cáo chuyện gì xảy ra với Bộ Chiến tranh,” Ida tiếp tục. Hatanaka có hứa sẽ rút hết binh lính về không? Hatanaka gật đầu. Nhưng cách lập luận của Ida tiêu tan tác dụng khi Ida bỏ đi, và tinh thần nổi loạn của Hatanaka vẫn lóe sáng như bao giờ. Anh trở lại chốt kiểm soát của cuộc nổi dậy, doanh trại Konoye, nơi Đại tá Haga, tư lệnh của Trung đoàn 2, đang càng lúc càng nôn nóng vì sự vắng mặt quá lâu của Mori. Hatanaka cố gắng tránh né các câu hỏi của vị đại tá nhưng Thiếu tá Koga không còn giữ im lặng được nữa. Y khai với cấp trên là Mori đã chết và thúc giục ông nắm quyền chỉ huy quân đoàn.

                Mori chết ra sao? Đại tá Haga cật vấn. Hatanaka lẫn Koga đều khai là không biết. Dù bối rối, Đại tá Haga vẫn muốn tiếp tục hợp tác miễn cưỡng với phe bất đồng nếu không có một điện thoại ngay lúc đó từ Bộ Tư lệnh Quân khu miền Đông. Tham mưu trưởng Tanaka, Tướng Takashima, muốn biết chính xác việc gì xảy ra trong khu Hoàng cung. Haga không thể trả lời một cách cụ thể nên trao ống nghe cho Hatanaka.

                “Đây là Thiếu tá Hatanaka, thưa ngài,” anh nói với giọng run run. “Làm ơn thông cảm cho nhiệt huyết của chúng tôi.”

                May mắn là Takeshima đã liên lạc được tay đầu sỏ. Ông nhớ Hatanaka từ Học viện Chiến tranh là một người lý tưởng ngây thơ, sáng láng, và quyết định “khuyên răng anh từ tốn và nói lý lẽ với anh hơn là ra lệnh hay khiển trách.” Ông nói ông hiểu cảm xúc của những kẻ bất đồng chính kiến, nhưng Nhật hoàng đã ra lệnh và Quân khu miền Đông” sẵn sàng tuân thủ. “Đừng sử dụng bạo lực khi giờ đây không có viễn cảnh thành công. Điều đó chỉ gây thêm những hi sinh vô ích. . . Ở Nhật Bản tuân lệnh Nhật hoàng là một hành động thực tiễn và hợp đạo lý.” Ông dừng lại. “Anh có nhận thức được chưa?”

                Mọi việc mà Ida vừa tiên liệu đang trở thành sự thật. Giọng nói của Hatanaka nghẹn ngào. “Tôi biết rất rõ, thưa ngài. Tôi sẽ suy nghĩ lại. Tôi chỉ có một yêu cầu. Làm ơn cho tôi mười phút nói chuyện trên đài trước khi Hoàng thượng lên sóng.” Anh muốn tuyên bố với dân chúng tại sao các sĩ quan trẻ nổi dậy.

                Takashima nói rằng việc đó là “không thể giải quyết được,” và nhiều sinh mạng như có thể nên được cứu vớt. “Chúng ta đã đi đến thời điểm khi hậu quả cuối cùng không thể thay đổi. Hatanaka, anh có hiểu cho tôi không?” Không có câu trả lời. Rồi Takeshima nghe một tiếng nức nở yếu ớt.

                Dù chỉ nghe một bên nói chuyện cũng khẳng định được mối nghi ngờ của Haga. Ông nổi xung với Hatanaka và Koga vì đã yêu sách sự ủng hộ của Quân khu miền Đông, và ông ra lệnh họ kết thúc cuộc binh biến ngay lập tức hoặc họ phải giết chết ông.

                Như trước đây khi bắt buộc phải đối mặt, Hatanaka miệng thì nhượng bộ nhưng trong bụng không bỏ cuộc. Anh đã sẵn sàng để theo đuổi một chiến thuật mới. Anh sẽ ngăn cản buổi phát thanh của Nhật hoàng tại trụ sở NHK, mà binh lính anh đang chiếm đóng, và thay vào đó chính mình sẽ tuyên bố với quốc dân đồng bào.

                Đại tá Takeshita tìm gặp Bộ trưởng Chiến tranh Anami tại nơi cư ngụ khiêm nhường của ông gần Trụ sở Diet. Ông vừa sợ thằng em rễ có thể lấy mạng ông vừa sợ phải thực hiện lời hứa giúp đỡ bọn bất đồng. Anami đang ngồi ở bàn viết trong phòng khách viết di chúc. Ở một bên là một tấm chiếu ngủ đang trải ra. Vắt qua nó là một chiếc mùng lưới. Vị tướng vội vàng gấp văn bản và nói với giọng gắt gỏng, “Cậu muốn gì đó?”

                Takeshita có thể nhận thấy là ông anh vợ mình đang chuẩn bị tự tử. Thật không đúng lúc để nói về vụ nổi dậy, vì thế ông nói chuyện bâng quơ với Anami một lúc về rượu sake. Cuối cùng vị tướng bất chợt nói, “Tôi đang chuẩn bị tự tử tối nay.”

                “Anh tự tử là phải phép,” Takeshita trả lời, “nhưng không phải tối nay, phải không?”

                Anami hình như nhẹ nhõm. “Tôi nghĩ là cậu sẽ khuyên tôi từ bỏ việc đó. Tôi mừng là cậu tán thành.” Ông đưa cho Takeshita di chúc, đề ngày 14/8. “Ngày 14 là ngày giỗ của thân phụ tôi và ngày 21 là ngày con trai tôi hi sinh trong chiến đấu. Tôi phân vân không biết chọn ngày nào, nhưng ngày 21 là quá trễ. Tôi không sao chịu đựng khi phải nghe tuyên cáo của Nhật hoàng vào ngày mai.”   

                Họ nói chuyện về các vấn đề cá nhân cho đến hai giờ sáng, khi một loạt súng theo hướng của khu Hoàng cung nhắc cho Takeshita nhớ về lời hứa của mình với Hatanaka. Ông tóm tắt kế hoạch nổi loạn mới nhất. Nhưng Anami quá bận tâm với cái chết của mình – đối với ông, cuộc binh biến là một thất bại được báo trước. Trong một nỗ lực khác nhằm hoãn lại ông anh vợ, Takeshita hỏi liệu ông có thể tiến hành nghi thức mổ bụng khi có quá nhiều rượu sake trong bụng hay không.

                “Anh đứng bậc 5 trong kiếm đạo, nên chắc chắn không thất bại,” ông nói một cách tin tưởng. “Sake làm mình chảy máu nhiều hơn.  Nhờ đó anh chết chắc. Nếu có gì trục trặc, anh muốn cậu phụ giúp anh.” Ông cỡi áo để mình trần đến lưng và quấn chặt một băng vải trắng quanh bụng. Nhưng việc chuẩn bị nghi thức bị gián đoạn vì Đại tá Ida đến để báo tin về Hatanaka cho Bộ trưởng Chiến tranh. Nhưng anh không nói gì, vì không muốn làm rộn một người sắp sửa quyên sinh.

                “Vào đi,” Anami. “tôi sẵn sàng chết đây.” Ida có tán thành không?

                “Tôi thấy việc đó cũng phải,” Ida bảo Bộ trưởng Chiến tranh, và thêm là không chỉ chính anh cũng chủ trương việc tự tử tập thể, nhưng tấm gương của Anami sẽ kết thúc mọi sự rối rắm trong Quân đội và triệt tiêu bất cứ âm mưu nào. Ida cúi chào thật thấp và cố kềm hãm nước mắt. “Tôi sẽ sớm theo bước chân ngài,” anh nói.

                Anami vói tay vỗ má Ida. “Mình tôi là đủ rồi; cậu không được chết!” ông nói và choàng tay ôm lấy anh. “Đừng chết,” Anami nói trong tiếng thều thào. “Tôi trông cậy vào cậu vì tương lại nước Nhật. Cậu có hiểu không?”

                “Vâng, thưa ngài, tôi hiểu rồi.” Nhưng Ida vẫn còn muốn tự xử mình.

                “Hãy uống ly rượu vĩnh biệt,” Anami đề nghị, chợt vui vẻ hẳn lên. Khi ba người nhấp sake một lần nữa họ bị gián đoạn, lần này bởi Đại tá Hayashi xuất hiện với bộ áo khoác của vị tướng vắt qua cánh tay. Ông nói một cách cộc cằn, “Tướng quân, ngài được yêu cầu khẩn cấp tại Bộ. Chúng ta nên đi ngay.”

                Bực dọc, Anami quay lại và nói, “Cậu làm ồn quá. Đi ra!”

                Ba người tiếp tục uống rượu. Anami giao Ida hai cuộn giấy. Một được ký “Bộ trưởng Chiến tranh Korechika Anami” và đọc thấy:

                                Tin tưởng vào sự trường cữu của Mảnh Đất Thiêng Liêng của chúng ta

                                Bằng cái chết thần xin tạ tội với Nhật hoàng

                                Vì tội ác tày trời

 

Cuộn kia là một waka, một bài thơ 31 từ:

                                Đã hưởng ân sũng lớn lao của Nhật hoàng,

                                Thần còn không có đến nửa lời từ tại

                                trong giờ phút lâm chung

                        

                “Tướng quân, trời sắp sáng rồi,” Takeshita nhắc nhở ông.

                “Tôi sẽ đi ngay đây,” Anami nói. “Vĩnh biệt.”

                Ngay sau khi Đại tá Ida cúi chào bước ra khỏi phòng, Anami một lần nữa nhờ Takeshita ban cho ông phát ân huệ nếu ông tự tử không thành công. Ông đặt quân phục của mình ngay ngắn trong một góc phòng, ôm choàng người em rễ và đưa ra yêu cầu sau chót – là quân phục của ông được đặt lên thi thể ông.

                Vẫn còn gặp một gián đoạn thêm nữa, khoảng bốn giờ. Trung tướng Sanji Okido, chỉ huy lực lượng quân cảnh, đến gặp Bộ trưởng Chiến tranh. Anami bảo Takeshita giải quyết công việc. Ông dời khỏi chiếc chiếu đến hành lang và ngồi xếp bằng hướng về Hoàng cung. Theo nghi thức seppuku, nếu ông vấy máu của mình lên chiếc chiếu việc đó có nghĩa là ông tự xét mình vô tội. Ông khoan thai ấn dao găm sâu vào bụng mình, rồi rạch hai lần – sang phải và thẳng lên. Động tác này gọi là kappuku, gây đau đớn cực kỳ mà ít người dám tự mình thi hành. Ông ngồi thẳng khi máu chảy thành vũng trên nền phòng và thấm vào hai cuộn giấy ở bên cạnh. Ông nghe có tiếng người tiến gần, và gọi to, “Ai đó?”

                Đó là Hayashi. Anami rên rỉ và thư ký của ông vội vã chạy trở lại phòng tiếp tân để tìm Takeshita. “Bảo chị tôi là ông ấy đã hara-kiri,” Takeshita nói. Trong hành lang ông tìm thấy vị tướng ngồi hơi cúi người ra phía trước, con dao găm rỉ máu vẫn còn trong bàn tay phải; bàn tay trái đang dò tĩnh mạch cảnh. Thình lình ông đâm lưỡi dao vào cổ họng mình. Lạ thay, không có giọt máu nào chảy ra khỏi vết thương và Takeshita nói, “Em giúp anh được không?”

                “Không cần đâu,” Anami càu nhàu. “Đi đi.”

                Takeshita rút lui, nhưng tiếng rên rỉ của vị tướng khiến ông quay lại. “Anh có đau lắm không?” ông hỏi. Anami đã bất tĩnh. Takeshita nhặt con dao và chém vào ót của vị tướng. Ông đắp bộ quân phục, nặng nề với những huy chương, qua tấm thân người chết.

 

4

Trời đã sáng, thêm một ngày oi bức khác, 15/8. Binh sĩ vẫn còn chiếm đóng khu Hoàng cung; các quân lệnh ban đầu vẫn chưa được hủy bỏ.

                Vào lúc 6:15 Nội thị Toda một lần nữa cố gắng tìm đường vào obunko, nhưng lần này anh không thành công. Một sĩ quan trẻ đã ra lệnh không cho phép ai vào, dù bất kỳ ai. Toda viện cớ mình phải hộ tống Nhật hoàng đến nơi an toàn, vì báo động không kích vẫn còn hiệu lực, nhưng vô ích. Cuối cùng anh được phép đi qua nhờ lệnh của một sĩ quan lớn tuổi lập luận rằng vì phe nổi loạn có thể phải ồ ạt xâm chiếm obunko để tìm cho ra đĩa thu vẫn còn chưa biết ở đâu, như vậy có gì khác biệt nếu chỉ có một người đi vào đó?

                Bên trong, Toda thông báo cho Tổng quản Hisanori Fujita rằng bọn nổi loạn có thể ùa vào bất kỳ lúc nào và chắc chắn sẽ có chiến đấu tay đôi. Họ phải đánh thức Nhật hoàng. Lúc 6:40 ngài xuất hiện trong bộ đồ ngủ. Các sự kiện của tối hôm trước làm ngài ưu phiền. “Bộ họ chưa hiểu rõ chủ ý thực sự của mình?” Mắt ngài rướm lệ. “Tập hợp tất cả sĩ quan và binh sĩ Quân khu Konoye để trẫm đích thân nói chuyện với họ.”

                Một nội thị có tính tình ôn hòa được phái đi qua vòng vây để tiếp xúc với đám quân lính. Anh chưa đi quá 50 mét thì đã gặp một sĩ quan già ngăn anh lại hỏi, “Anh có phải là nội thị không?”

                Đó là Tướng Tanaka. Một người có văn hóa và kỹ luật nghiêm khắc, ông đã đi học ở Oxford và đã có lần, như Tojo, chỉ huy lực lượng quân cảnh trong Quân đội Quảng đông. Ông đã đích thân đến để giữ gìn trật tự, ông đã bắt một trong những người cầm đầu của nhóm âm mưu và đã ra lệnh cho Đại tá Haga rút hết binh lính về doanh trại.

                “Đừng sợ,” ông nói với viên nội thị. Ông cúi chào và trình ra một thẻ bài; Mitsui cũng đưa ra thẻ bài của mình. Hai người chào nhau lần nữa. “Tôi xin lỗi là đã gây ra quá nhiều phiền toái,” viên tướng nói. “Trong vòng một giờ mọi thứ sẽ trong vòng kiểm soát. Xin đừng lo lắng. tất cả binh lính sẽ rút lui.”* Viên nội thị chạy một mạch trở về obunko.

                               Thiếu tá Hatanaka đích thân kiểm soát Trụ sở NHK trong hai giờ. Anh chỉa súng ra lệnh cho Morio Tateno, người chuẩn bị phát thanh tin tức buổi sáng sớm, giao cho anh micrô để anh có thể nói chuyện với quốc gia. Tateno bịa ra vài cớ: không kích đang đến gần khiến không thể phát tin nếu không có phép của Quân khu miền Đông; ngoài ra, phải mất thời gian thông báo với các đài địa phương chờ tiếp sóng của NHK.

                Tateno bước vào phòng kiểm soát và nhờ gọi tới văn phòng của Tanaka. Viên kỹ sư hiểu mưu mẹo của anh. Anh ta bắt đầu nói vào một ống điện thoại đã chết vì dây nối đã bị phe nổi loạn cắt đứt. Anh giả vờ mình không liên lạc được. Hatanaka đợi, nhẫn nhục, nhưng một tên trung úy của anh, nổi dóa vì sự chậm trễ, quật súng lục vào viên kỹ sư và đe dọa nổ súng nếu anh không nhanh lên. Hatanaka can thiệp. “Tôi phải chuyển tải cảm nghĩ của tôi với quần chúng,” anh bảo Tateno. Giọng anh nghe như van nài hơn là ra lệnh. Anh xòe ra một xấp giấy trên đó ngoằn ngoèo những chữ viết bằng bút chì. Tateno đọc những từ mở đầu. “Đơn vị của chúng tôi đang bảo vệ Hoàng cung. . . “

                Tateno bảo họ hãy kiên nhẫn. “Chúng tôi đang ráng hết sức để liên lạc với Quân khu miền Đông.” Trò câu giờ bị cắt ngang bởi tiếng chuông điện thoại reo trong phòng điện thoại. Viên kỹ sư lắng nghe một lúc và nhìn Tateno ái ngại. Đó là Quân khu miền Đông và họ muốn nói chuyện với “nhân viên của phòng phát thanh.”

                Hatanaka cầm lấy ống nghe và chăm chú lắng nghe. Anh đã đi ngược với lời hứa sẽ bỏ cuộc và bây giờ lại đối mặt với một mệnh lệnh trực tiếp phải ngừng hành động. Nhưng anh vẫn cố xin cơ hội để được giải thích với công chúng, nhưng Tateno có thể thấy ngay là yêu cầu của anh bị từ chối. Thất vọng, Hatanaka đặt ống nói xuống giá. Mọi việc đã chấm hết.

                Lúc 7:21 A. M.Tateno phát đi một thông báo đặc biệt cho quốc gia: “Vào buổi trưa hôm nay Nhật hoàng sẽ phát đi chỉ dụ của ngài. Tất cả chúng ta hãy cung kính lắng nghe tiếng nói của Nhật hoàng. Điện năng sẽ được cung cấp đến những nơi bị cắt vào buổi sáng. Dân chúng sẽ được cho phép đến các máy ra-điô trong các nhà máy, ga xe lửa và văn phòng chính phủ. Buổi phát thanh sẽ bắt đầu vào trưa hôm nay.” Vòng tròn đã hoàn thành, Tateno nghĩ. Cũng qua mi-crô này vào buổi sáng ngày 8/12/1941 anh đã đọc thông báo đầu tiên là chiến tranh đã bắt đầu.

             Vào chiều tối ngày 24/8, vận bộ quân phục, Tanaka tự tử bằng súng lục tại bàn viết. Trước đó ông đã tâm sự với Tướng Takashima rằng vụ nổi loạn không liên can nhiều đến quyết định tự tử của ông. Chủ yếu là vì ông cảm thấy mình có trách nhiệm trong vụ đốt cháy Hoàng cung và những tổn thấy sinh mạng trong vụ oanh kích bom lửa ở Tokyo. Ông phải chịu tội trước Nhật hoàng. Ông nói rằng không ai khác trong Quân khu miền Đông phải tự tử. “Tôi chịu trách nhiệm cho mọi người.”

                                Sự chống đối việc đầu hàng có tổ chức đã kết thúc, nhưng nhiều cá nhân và nhóm cứng đầu vẫn sẵn sàng liều mạng để ngăn cản nó. Các nhân viên Hoàng cung vẫn còn e sợ sẽ có một âm mưu khác nhằm phá hủy đĩa thu của Nhật hoàng. Việc mang đĩa từ tủ trên tầng hai, đi qua khu khu Nội vụ đến sân cũng là việc liều lĩnh. Một bộ, có đóng dấu BẢN SAO, được đặt trong một hộp sơn mài vuông mang huy hiệu hoàng gia, được một nhân viên tên Motohiko Kakei mang đi một cách kênh kiệu qua các hành lang rối rắm tối tăm. Bộ đĩa khác, đóng dấu BẢN GỐC, được đặt trong túi thức ăn của một nội thị và vắt qua vai. Cả hai người đưa tin đều đến mặt đất an toàn. Rồi Kakei bọc hộp sơn mài trong vuông vải truyền thống và khởi hành đến phòng phát thanh của NHK trên một chiếc limousine của Hoàng cung. Còn túi thức ăn được giao cho một viên chức khác, mang đi trên xe cảnh sát thành phố. Bản sao được mang không gặp sự cố gì đến phòng thu phát phụ ở tầng hầm NHK. Bản gốc được mang đến văn phòng của giám đốc NHK, tại đó nó được cất trong một ngăn tủ khóa kỹ.

                Với sự can thiệp của quân cảnh vừa được phái đến, kết quả của cú điện thoại trao đổi giữa Hatanaka với Quân khu miền Đông, tất cả bọn phiến loạn đều rời Trụ sở NHK không có chống cự. Hatanaka không trở về Bộ Tư lệnh Quân đội. Ý nghĩ của anh là chứng minh tấm lòng trung thực của mình và đưa các hành động bạo lực của mình đến một kết thúc thích đáng. Cùng một bạn đồng hành đã gắn bó với anh từ lúc khởi đầu, Trung tá Jiro Shiizaki, anh như bị hút về phía quảng trường mênh mông phía trước Hoàng cung. Ở đây, trong một cử chỉ vô vọng cuối cùng, họ phân phát truyền đơn kêu gọi dân chúng ngăn cản việc đầu hàng. Lúc 11:20 A.M. Hatanaka rút khẩu súng lục đã giết chết Tướng Mori và bắn một phát vào thái dương mình. Còn Shiizaki đâm một con dao găm vào bụng, sau đó đặt mũi súng lục vào đầu mình và bóp cò.

                Trong túi áo của Hatanaka người ta tìm được một bài thơ:

                                Tôi không có gì phải hối tiếc

                                Giờ thì đám mây đen đã bay đi

                                Khỏi triều đại của Nhật hoàng                        

                                  Buổi phát thanh, thậm chí không có sự hiện diện của Hoàng thượng, cũng tiến hành theo nghi thức. Phòng thu phát 8 đông đúc những nhân viên NHK cũng như các viên chức chứng kiến từ Nội các, Phòng Thông tin, Hoàng triều Nội vụ và Quân đội. Gần như cùng lúc Hatanaki tự tử, giám đốc NHK lấy bộ đĩa đánh dấu BẢN GỐC ra khỏi tủ. Có người đề nghị hãy nghe thử trước, nhưng liệu như vậy có tỏ ra bất kính đối với Nhật hoàng không? Mọi người nhất trí tốt hơn nên nghe thử trước để tránh rủi ro xảy ra.

                Bên trong phòng thu phát Chokugen Wada, phát thanh viên nổi tiếng nhất của Nhật, ngồi tái mặt và căng thẳng sau chiếc mi-crô, nhìn kim phút của chiếc đồng hồ quay vòng để nhập vào kim giờ chỉ đúng 12 giờ. Đúng giờ trưa, anh nói, “Tiếp theo đây là buổi phát thanh có tầm quan trọng đặc biệt nhất. Mời tất cả thính giả đứng dậy. Giờ đây Nhật hoàng sẽ đọc chỉ dụ gởi đến thần dân Nhật Bản. Chúng tôi vinh hạnh được phát đi lời nói của người.”

                Sau khi giai điệu đầy tôn nghiêm của bản quốc ca, “Kimigayo”, chấm dứt, có một khoảng ngừng rồi sau đó là một giọng nói ít người từng nghe được: Gởi Thần Dân Trung Thành và Tận Tụy của Trẫm:        Sau khi suy nghĩ thấu đáo những trào lưu của thế giới và những điều kiện thực tế có được trong Đế chế chúng ta hôm nay, Trẫm đã quyết định thực hiện sự ổn định hiện tình bằng cách vận dụng một biện pháp phi thường . . . “

   

37 Tiếng Nói của Chim Hạc

 

1

                Toàn thể đất nước lắng nghe chăm chú, kính sợ trước giọng nói cao vút, gần như là một tiếng nói không thực. Ngôn ngữ triều đình kỳ lạ, cộng với kỹ thuật thu tồi, chỉ cho phép một số ít thần dân của nhà vua hiểu được chính xác những gì ngài nói. Chỉ biết được đó là việc đầu hàng hoặc một thảm họa gì đó đã xảy ra.

                “Hãy trau dồi lòng chính trực; nuôi dưỡng sự cao quý của tinh thần; và làm việc với quyết tâm sao cho các khanh có thể thăng hoa cái vinh quang vốn có của Vương triều và bắt nhịp với sự tiến bộ của thế giới.”

                Im lặng bao trùm. Các thính giả, nảy giờ đứng yên hoặc quì gối lặng lẽ, gương mặt méo mó, không còn có thể kìm hãm được cảm xúc của mình. Hàng triệu người bật khóc, có lẽ số người khóc cùng một lúc nhiều nhất trong bất cứ thời điểm nào trong lịch sử thế giới. Vậy mà bên dưới nỗi nhẫn nhục và buồn rầu là một cảm giác nhẹ nhõm không thể chối cãi được. Gánh nặng khủng khiếp của những năm chiến tranh, chết chóc và tàn phá ít nhất đã trôi qua.

                Tại obunko Nhật hoàng chú tâm theo dõi những lời mình nói qua chiếc thu thanh RCA thời trước chiến tranh. Tại Hoàng triều Nội vụ, Kido phản ứng với những cảm xúc lẫn lộn, trong lòng thấy mãn nguyên vì những gì mình nỗ lực thực hiện quá kiên trì cuối cùng cũng được dền đáp.

                Trong một hội trường xám xịt tại Bộ Tư lệnh Quân đội hàng trăm sĩ quan, trong đó có Tướng Umezu – rực rỡ trong bộ lễ phục, mang găng tay trắng, huy chương và thanh kiếm – còn đứng nghiêm, những dòng nước mắt lăn dài trên má. Nhưng đối với vài sĩ quan cuộc chiến vẫn chưa kết thúc. Không xa Tokyo tại Căn cứ Không quân Atsugi, Đại úy Hải quân Yasuna Kozono, chỉ huy Đội Bay 302, trèo lên một bục gần đường băng để nói chuyện với các phi công. Lệnh đầu hàng, anh nói, có nghĩa là kết liễu quốc túy, và tuân lệnh là phản bội. Hãy đi theo tôi và tiêu diệt kẻ thù, anh hét lên. Nhiều phi công, bừng máu nóng vì lời kêu gọi của anh, hô đáp lại, “Banzai [Vạn tuế]!” Và tại Căn cứ Không quân Oita ở đông bắc Kyushu, Đô đốc Matome Ugaki, tham

mưu trưởng trước đây của Yamamoto*, bây giờ là tư lệnh của tất cả đơn vị kamikaze hải quân – ông không bao giờ quên hình ảnh vị chỉ huy lao xuống định mệnh của mình – và gần đây đã viết cho Đại úy Watanabe: “Tôi phải đền đáp điều đó.” Những lời của Nhật hoàng chỉ làm tăng thêm niềm tủi nhục của ông. Bây giờ hơn lúc nào hết nghĩa vụ của ông là đi theo tất cả những chiến sĩ trong Biệt đội Tấn công mà ông đã phái đi đến chỗ chết.

  •              Đô đốc tài ba của Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Người ta nhớ nhiều tới ông vì thành tích tấn công hạm đội Hoa Kỳ ở Trân Châu Cảng. Ông bị bắn hạ khi đi phi cơ trên chuyến thị sát để nâng cao sĩ khí cho quân đội.

 

                Tiếng nói của chim hạc [chim hạc là biểu tượng của Nhật hoàng hay Ngôi vua giống như vương miện đối với các vị vua Âu châu] đã tới được các binh sĩ ở cách xa hàng ngàn dặm từ đất mẹ, đến tận Harbin, Mãn Châu. Tomomi Yamato, một sĩ quan tham mưu, thất chí khi khám phá ra rằng tiếng nói của một người cao hơn phàm nhân đã dao động và do dự. Làm sao mà anh đã có thể cúi lạy quá nhiều lần về hướng của Hoàng cung? Nhưng bị tràn ngập bởi những tiếng nức nở chung quanh, anh không thể kềm chế tiếng khóc của chính mình. Theo thói quen anh quay về phía huy hiệu vương quyền ở phía trên khung cửa của trụ sở bộ tư lệnh và chào lần cuối cùng như một quân nhân Nhật Bản. Rồi ông thay thường phục để tránh bị bắt bởi các lính Xô viết đang tiến gần.

                Trên Okinawa, Đại úy Tsuneo Shimura, chỉ huy đại đội đã giữ Sườn Maeda quá kiên cường, vẫn còn chiến đấu như một du kích. Anh ta cố tìm cách lấy cắp một xe Mỹ để chạy thoát về hướng Bắc khi bầu trời trên đầu thình lình rực sáng bởi những hỏa châu. Đẹp quá, như pháo hoa, và anh suy nghĩ một chập chắc đó là trận phản công của Nhật mà anh mong đợi. Nhưng thám báo quay lại với báo cáo cho biết người Mỹ đang ăn mừng chiến thắng. Họ uống bia và bắn loạn xa lên trời. Thảm họa mới nào lại đổ xuống đầu người Nhật nữa đây?

                Chỉ lời nói, thậm chí lời nói của Nhật hoàng, cũng không thể mang lại sự kết thúc nhanh chóng cho những cảm xúc mà chiến tranh đã khơi dậy trong hơn bốn năm. Ở Fukuakoa, trên đảo Kyushu, non 16 nhân viên phi hành B-29 được chở đến một ngọn đồi gần lò hỏa táng tại đó bốn đồng đội của họ đã bị trảm thủ bốn ngày trước. Lính Mỹ bị buộc phải cỡi quần áo và rồi bị dẫn từng người một vào rừng và hành hình.

                Chưa có phúc đáp từ Mỹ về việc Nhật Bản xin đầu hàng, nhưng các đơn vị Hải quân được lệnh ngừng khai hỏa trước nửa đêm. Tuy nhiên, Lục quân thì miễn cưỡng tiến hành khi chưa có phúc đáp chính thức từ Washington. Tại buổi họp Nội các Suzuki cuối cùng chiều hôm đó người ta được biết rằng phải mất 12 ngày thông báo mới tới được các binh lính ở Tân Guinea và Phi Luật Tân. Đồng minh phải được tham vấn về vấn đề liên lạc.

                Suzuki nói rằng mình lấy làm xấu hổ khi “gây rối cho Hoàng thượng hai lần về quyết định trọng đại của ngài. Tuy nhiên, điều cần thiết là lập nội các mới sớm như có thể. Gần đến ba giờ Suzuki trình đơn từ chức đến Nhật hoàng. Lần cuối cùng Kido, thể theo mệnh lệnh của Nhật hoàng, được yêu cầu chọn ra một thủ tướng mới. Sau khi tham vấn với jushin [giới chính khách lão thành] ông đã quyết định Hoàng thân Higashikuni là người xứng đáng nhất. Tuy nhiên hoàng thân đã khước từ lời đề nghị đó; chính trị đã làm cha ông kiệt quệ về tài chính. Hơn nữa, ông là con người có tính độc lập cực kỳ. Khi còn là một thiếu úy tại Cao đẳng Chiến tranh ông đã từ chối lời mời dự buổi chiêu đãi do Hoàng đế Minh trị mời; ông cãi nhau với thế tử (sau này là Nhật hoàng Taisho); và một thống chế phải thuyết phục ông không từ bỏ địa vị là thành viên của hoàng gia. Một vài năm sau đó ông cưới con gái của Hoàng đế Minh trị, Công chúa Toshiko, nhưng ông còn khao khát, hơn bất cứ thứ gì khác, làm một thường dân.

                Nhưng hôm nay Nhật hoàng ưng thuận sự chọn lựa của Kido – với vai trò là một thành viên của hoàng gia, dượng của ngài đứng ở trên chính trị và miễn nhiễm với sự công kích.

                “Như tôi đã nói với ngài đêm qua,” Hoàng thân Higashikuni báo với phái viên của Kido, “tôi không có bất cứ ý định nào chấp nhận chức thủ tướng. Nhưng trong trường hợp này và với tình hình quá hiểm nghèo như vậy, tôi hứa sẽ suy nghĩ kỹ lại.”

                Tại Căn cứ Không quân Oita trên Kyushu, Đô đốc Ugaki sẵn sàng cho sứ mạng kamikaze cuối cùng theo mệnh lệnh của ông. Trong nhật ký của mình ông kêu gọi báo thù:

                Có nhiều nguyên nhân đưa nước Nhật đến tình cảnh này. Tôi phải nhận lãnh trách nhiệm. Tuy nhiên, để có cái nhìn rộng mở hơn, nguyên nhân chính là sự khác biệt về sức mạnh giữa hai quốc gia [Nhật và Mỹ]. Tôi hi vọng không chỉ binh sĩ mà cả dân chúng Nhật Bản sẽ vượt qua gian khổ, khuấy động tinh thần Yamato và làm hết sức mình để xây dựng quốc gia sao cho Nhật Bản có thể trả được thù này trong tương lai. Phần tôi, tôi đã quyết định phục đất nước mình mãi mãi theo tinh thần của Masashige Kusunoki.

                Ugaki đến sân bay trong bộ quân phục đã lột hết huy hiệu, mang ống nhòm và một thanh gươm võ sĩ đạo ngắn mà Yamamoto trao tặng. Theo kế hoạch là chỉ có ba máy bay tập kích nhưng 11 chiếc oanh tạc cơ nhỏ tham gia. Ugaki leo lên một bục nhỏ và hỏi các phi công đang tụ họp có ai “muốn hi sinh với tôi?” Mọi cánh tay đều giơ lên. Ông leo vào buồng lái phía sau viên phi công của phi cơ dẫn đường. Chuẩn úy Akiyoshi Endo, người mà ông thế chỗ, phản đối, “Ngài đã chiếm vị trí của tôi!”

                “Tôi đã cách chức cậu,” Ugaki mỉm cười nói. Không nao núng, Endo leo lên và cố chen vào ngồi cạnh Đô đốc. Ugaki vui vẻ xích qua nhường chỗ.

                Bốn oanh tạc cơ phải quay về vị trục trặc máy nhưng nhóm còn lại tiếp tục bay về hướng Okinawa. Lúc 7:24 P. M. Endo gọi điện đài báo về lời chào vĩnh biệt đầy xúc động của Ugaki:

                               Một mình tôi lãnh trách nhiệm khi thất bại trong việc bảo vệ đất nước và đánh bại kẻ thù ngạo mạn. Những nỗ lực hào hùng của tất cả các sĩ quan và binh sĩ dưới lệnh tôi trong sáu tháng qua đã được vinh dự đề cao.

                Tôi đang trên đường đi tấn kích Okinawa, nơi đồng đôi tôi đã ngã xuống như những đóa hoa anh đào. Tại đó tôi sẽ đâm xuống và hủy diệt kẻ thù hợm hĩnh trong tinh thần đích thực của bushido, với niềm tin và nhận thức sắt đá vào sự trường tồn của Vương triều Nhật Bản.

                Tôi tin tưởng rằng các thành viên trong mọi đơn vị dưới quyền tôi sẽ hiểu được những động lực của tôi, sẽ vượt qua mọi thống khổ ở tương lai và sẽ nỗ lực tái thiết tổ quốc vĩ đại của chúng ta, để nó sẽ sống mãi.

                Vạn tuế Đức Hoàng đế!

                Vài phút sau Endo báo cho biết là phi cơ đang lao xuống một mục tiêu*

             Đây là báo cáo cuối cùng của bảy phi cơ. Kỳ lạ thay không có báo cáo nào từ phía Mỹ về vụ oanh kích kamikaze vào ngày đó.

                               Thi thể của Anami và hai người cầm đầu nhóm nổi loạn, Hatanaka và Shiizaki, được mang đến một tòa nhà kế cận Bộ Tư lệnh Quân đội để làm lễ tưởng niệm. Hàng trăm người viếng tang lần lượt đi qua để vinh danh họ, đặc biệt Anami, người đã cống hiến trọn đời mình cho an nguy của quốc gia.

                Chiều tối hôm đó Đại tá Ida, đồng minh bất đắc dĩ của Hatanaka, đến viếng để bày tỏ lòng kính trọng. Ông đã viết di chúc và nói lời vĩnh biệt với vợ mình. Trong văn phòng kế bên ông nằm xuống để chuẩn bị tinh thần cho cái chết. Khi tất cả đều im lặng ông đứng dậy và đi xuống hành lang tối tăm đến văn phòng của Anami. Ở đây là nơi thích hợp để tự tử. Tại cửa một thiếu tá tên Sakai chào ông.

                “Cậu làm gì ở đây, Sakai?”

                “Còn ngài thì sao?”

                “Đừng để tâm,” Ida nói với anh. “Cứ để tôi một mình.”

                Sakai nói mình được lệnh “để mắt đến” vị đại tá. “Nếu ngài muốn chết, ngài phải giết tôi trước đã.”

                Ida bực mình. “Chẳng nhẽ cậu không hiểu được cảm xúc của một võ sĩ đạo hay sao?” Nhưng Sakai vẫn khăng khăng và cuộc tranh cãi giữa họ làm tiêu tan quyết tâm của Ida. Khi người ta trễ hẹn với hara-kiri, ông rầu rĩ nghĩ, nó sẽ bỏ đi mãi mãi.

                Họ trở lại văn phòng của Ida, tại đó họ nằm vài trên hai chiếc võng kề bên và hàn huyên hàng giờ. Đến sáng Ida bị đánh thức với một yêu cầu khủng khiếp. Vợ ông và cha của bà (tên ông già là Ida và ông đã nhận chàng rễ làm con nuôi) đã đến để nhận xác chồng. Ida lúng túng cố giải thích những gì đã xảy ra, nhưng trên gương mặt của người vợ xuất hiện một cái nhìn soi mói như thể bà hỏi: “Tại sao anh còn sống? 

                Trong một khu vực khác ở Tokyo người sáng lập đoàn kamikaze, Đô đốc Takijiro Onishi, nằm bị thương chí tử do ông tự xử tại nhà riêng. Ông cho gọi người cộng sự và bạn thân, Yoshio Kodama, mà đêm trước ông đã mượn thanh kiếm. Kodama tìm thấy Onishi vẫn còn bất tĩnh, mặc dù ông đã rạch bụng và chém vào ngực và cổ mình. Ông nắm lấy bàn tay Kodama. “Những gì tôi muốn nói với cậu được viết trong di chúc của tôi đặt ở trên mặt bàn. Cũng có một lá thư cho vợ tôi; bà ấy đang ở dưới quê.” Ông mỉm cười yếu ớt. “Tôi tưởng kiếm của cậu bén hơn. Nó không đi ngọt lắm.”

                Vũ khí vẫn còn nằm trên sàn phòng, và Kodama nhặt lên. “Thưa ngài,” ông thì thầm, “Tôi sẽ đi theo ngài.”

                “Bakayaro! [Đồ ngu!]” Onishi quát lên lớn giọng một cách đáng kinh ngạc. “Chết bây giờ thì cậu được gì nào? Thay vào đó – Có một bức thư khác trên bàn viết. Hãy đem nó đến Căn cứ Không quân Atsugi ngay lập tức và giữ yên bọn cứng đầu dưới đó. Như vậy cậu phục vụ cho Nhật Bản tốt hơn là chết tại đây.” Trán ông mướt đẫm mồ hôi và ông hổn hển tìm lời. “Nhiều tên theo chủ nghĩa quốc gia sẽ nổi dậy. Hãy ngăn họ lại!”

                Kodama tìm thấy bức thư trên bàn viết. Trong đó người đàn ông mà chỉ một ít ngày  trước đã van xin Đô đốc Toyada và Ngoại trưởng Togo hi sinh thêm 20 triệu người nữa trong một trận quyết đấu cuối cùng để bảo vệ tổ quốc giờ đây xin lỗi cho sự thất bại không mang về thắng lợi. Ông mong muốn thanh niên Nhật Bản sẽ tìm thấy một tấm gương trong cái chết của mình. “Khinh suất chỉ làm lợi cho kẻ thù. Các bạn hãy tuân thủ tinh thần trong quyết định của Nhật hoàng với lòng kiên trì tột bực. Đừng quên tự hào một cách đích thực mình là người Nhật Bản. Bạn là kho báu của quốc gia. Với tất cả nhiệt huyết của Biệt đội Tấn kích, hãy nỗ lực vì phúc lợi của nước Nhật và vì hòa bình trên khắp thế giới.”

                Bên cạnh lá thư là một haku, bài thơ cuối cùng của Onishi:

                                                Tươi tỉnh,

                                                Tôi như một vầng trăng sáng trong

                                               Sau cơn bão

                Kodama quay trở lại với đô đốc đang nôn ra máu, và xin Onishi ráng sống cho đến khi anh đem vợ ông đến – phải mất khoảng năm giờ. Onishi mỉm cười yếu ớt. “Có điều gì ngu xuẩn hơn một chiến binh tự tử mà lại muốn kéo dài sự sống chỉ để chờ vợ đến?” Ông nắm lấy bàn tay Kodama. “Sayonara [Tạm biệt].”

 

2

                Biết tin là đích thân Nhật hoàng chọn mình vào chức thủ tướng khiến Hoàng thân Higashikuni gần như không thể từ chối. “Tôi không thể chỉ nghĩ về lợi ích của mình trong tình thế ngặt nghèo này,” ông đành bảo với Kido vào sáng ngày 16/8, “và nếu tôi còn có thể đóng góp gì cho đất nước tôi sẽ vui lòng nhận nhiệm vụ.” Tuy nhiên, trước khi quyết định, ông muốn biết hiện tình như thế nào.

                Kido báo tin cho ông biết là Tướng MacArthur yêu cầu một sĩ quan liên lạc đại diện cho chính phủ Nhật Bản được phái đến Manila ngay lập tức. “Vì thế việc cấp thiết là phải thành lập chính phủ sớm như có thể. Hiện giờ chúng ta không có phương tiện đối phó với người Mỹ, và Đồng minh có thể nghi ngờ bất cứ sự chậm trễ nào và khiến tình hình chúng ta thêm khó khăn.” Binh biến xảy ra đêm hôm trước khiến cho việc tìm một người mà Đồng minh tin tưởng là cần thiết. “Nếu ngài không nhận lấy chức vụ, ngài sẽ làm cho Hoàng thượng ưu phền.”

                Higashikuni đắn đo: dẫn đầu một quốc gia bại trận là một nhiệm vụ nặng nề, nhưng ông biết là có thể kiểm soát những hành động gây rối của phe bất đồng trong quân đội qua những đồng nghiệp của ông đang phục vụ – ông giữ chức đại tướng – và một khi tương lai Nhật Bản được ổn định, mình có thể từ chức. “Tôi sẽ tuân theo lệnh của Hoàng thượng để thành lập nội các,” ông nói.

                Trước trưa thư chấp nhận việc Nhật Bản xin đầu hàng đã đến từ Washington và các Bộ Tư lệnh Hoàng gia ra lệnh cho tất cả đơn vị Quân đội và Hải quân ngừng ngay những hành động thù địch. Ngoài ra, Nhật hoàng chỉ thị cho ba thành viên hoàng gia tuần du các bộ tư lệnh đóng ở nước ngoài để trấn an binh sĩ rằng Nhật hoàng đã quyết định đầu hàng theo nguyện vọng của chính mình. Ông Hoàng Tsunenori Takeda, một trung tá, sẽ đến các lực lượng ở Triều Tiên và

Mãn Châu; Ông Hoàng Yasuhiko Asaka, một đại tá, đến Quân đoàn Viễn chinh Trung Hoa và Hạm đội Vùng Trung Hoa; và Ông Hoàng Haruhito Kanin, con trai của nguyên Tham mưu trưởng Quân đội, đi Thượng Hải, Quảng Đông, Saigon, Singapore, Đông Dương và Nam Kinh. Ba người rời Phi trường Haneda trên các máy bay vận tải quân đội Ki-57 Mitsubishi hai động cơ màu trắng giống nhau.              

                Những hành động nổi loạn lộ liễu vẫn còn gây rối ren trong xứ. Những phi công của Căn cứ Không quân Atsugi thả hàng ngàn tờ bướm trên vùng Tokyo lên án jushin và chính quyền Suzuki đã cố vấn sai lầm cho Nhật hoàng. Người cầm đầu của họ, Đại úy Kozono, vẫn cứng rắn cho dù đương đầu với một đô đốc. Y kết tội Nhật hoàng hẳn là điên mới xin đầu hàng; chiến tranh phải tiếp tục. Nhưng vụ nổi loạn sụp đổ. Đêm đó anh chàng Kozono khốn khổ bắt đầu nói sảng về Amaterasu, Thái dương Thần nữ, và phải bị câu thúc. Bị chích một mũi móc phin, anh bị nhét vào một túi da chật chội và đưa đến một bệnh viện hải quân.

                Tinh thần phản kháng cũng thấm vào Căn cứ Không quân Oita, kể từ khi Đô đốc Ugaki đã cất cánh trong một sứ mạng kamikaze. Người thay thế Ugaki, Đô đốc Ryunosuke Kusaka, người từng tham chiến ở Trân Châu Cảng và Midway, triệu tập tất cả sĩ quan cao cấp; một nhóm sĩ quan trẻ hơn chen lấn vào trong phòng dù không được mời và gây sự. Kusaka nói mình biết trong số họ có những người, vì lòng ái quốc, cho rằng chiến tranh nên tiếp tục – nhưng “khi nào mắt tôi còn đen [tức khi nào ông ta còn sống] tôi sẽ không tha thứ cho bất cứ hành động gây rối nào.” Những ai cố tình nổi loạn trước tiên phải “chém tôi ra từng mảnh.” Ông nhắm nghiền mắt, chờ đợi cái chết. Dường như sự im lặng kéo dài đến vô tận. Rồi Kusaka bổng nghe tiếng nức nở và mở mắt ra.

                “Lời ngài nói đã làm chúng tôi tỉnh ngộ,” một sĩ quan trẻ nhìn nhận. Anh và một vài người khác hứa sẽ kiểm soát binh sĩ của họ. Kusaka nhìn quanh phòng. “Còn các sĩ quan lớn hơn thì sao? Có ai không đồng ý tôi không?” Không ai mở miệng. “Nếu có ai đổi ý, hãy đến gặp tôi bất cứ lúc nào. Nhà tôi ban đêm không có bảo vệ. Trời nóng bức nên tôi ngủ trần [không được bảo vệ].”               

                Thủ tướng mới tỉnh giấc giữa đêm lòng nặng chĩu với trách nhiệm mình không mong muốn. Ông Hoàng Higashikuni nhớ lại một sự kiện từ lâu đã quên cách đây 25 năm tại Pháp. Ông đã bảo với một bà thầy bói già coi chỉ tay mình là một họa sĩ, nhưng bà ngẩng lên và nói, “Cậu nói dối. Cậu sẽ trở thành một thủ tướng của Nhật Bản.” Ông cười lớn và thú thật mình là một ông hoàng và sĩ quan. “Ở Nhật, các thành viên hoàng tộc và sĩ quan quân đội theo qui định là không được làm chính trị. Vì thế làm sao tôi trở thành thủ tướng được?”

                “Nhật sẽ xảy ra cách mạng hoặc một biến động lớn nào đó và cậu sẽ trở thành thủ tướng.”

                Lúc 11 giờ sáng hôm sau, 17/8, ông trình cho Nhật hoàng danh sách các bộ trưởng trong Nội các. Chỉ có Yonai là ở lại chức vụ. Togo đã từ chối ở lại chức ngoại trưởng và được thay thế bằng người tiền nhiệm, Mamoru Shigemitsu. Ông hoàng Konoye sẽ là bộ trưởng không giữ bộ nào. Nhật hoàng đều vừa ý với tất cả sự bổ nhiệm.

                Nhiệm vụ đầu tiên của chính phủ mới là gởi một phái đoàn đến Manila để dàn xếp với MacArthur về viêc đầu hàng của các binh sĩ mới trên chiến trường. Người được chọn dẫn đầu là Trung tướng Torashito Kawabe, tùy viên của Umezu. Vì còn lo sợ các phi công phản loạn có thể chặn đứng phái đoàn, nên sự đề phòng cẩn mật được bố trí. Chỉ vừa mới rạng đông ngày 19/8 mười sáu thành viên đến Phi trường Haneda, tại đó họ đáp vài máy bay nhỏ. Sau một ít phút bay qua Vịnh Tokyo họ đáp xuống Phi trường Kisarazu. Tại đây hai oanh tạc cơ Mitsubishi hình điếu xì gà, xơ xác vì chiến tranh – loại mà phe Đồng minh gọi là “Bettys”-  đang chờ đợi. Theo chỉ dẫn của MacArthur máy bay được sơn trắng và có đánh dấu chữ thập lớn màu xanh lá.

                Chỉ sau khi phái đoàn lên tàu các phi công mới được mở lệnh đã niêm phong, cho biết nơi đến là Ie Shima, một đảo nhỏ nơi Ernie Pyle [một phóng viên chiến trường gan dạ, đã chết vì đạn kẻ thù khi chụp ảnh trong trận đánh Okinawa: ND] đã chết. Các Bettys ù ù bay về hướng nam. Qua Kyushu phái đoàn lo lắng khi nhìn thấy một đội hình máy bay đang tiến thẳng về phía họ. Máy bay có dấu hiệu của Mỹ và các hành khách thở phào nhẹ nhõm khi hai oanh tạc cơ và một tá chiến đấu cơ bay quanh họ bảo vệ. Các máy bay Nhật điện đàm gởi mật khẩu; “Bataan,” và được trả lời an tâm, “Chúng tôi là chó giữ nhà của Bataan. Hãy bay theo chúng tôi.” Trong một giờ rưỡi họ tiếp tục bay qua Biển Nam Trung Hoa cho đến khi đỉnh Shima nhô lên trước mắt. Oanh tạc cơ đầu tiên đáp êm ái trên đường băng, nhưng hoa tiêu của máy bay thứ hai quên hạ thấp cánh tà. Máy bay chạy đáp gọn trên đường băng nhưng bật nẩy trên lớp san hô. Nó chạy lắc lư đến vị trí đậu. Ngay khi phái đoàn xuất hiện, hàng trăm binh lính Mỹ và thủy quân vây quanh họ, thi nhau chụp ảnh.

                Mười sáu người Nhật di chuyển lên một máy bay Mỹ, một chiếc C-54 bốn động cơ, trên đó họ được phát những hộp cơm trưa. Hai người lính Mỹ chuyền các cốc nước cam vắt. Katsuo Otazaki, đại diện cao cấp của Bộ Ngoại giao, ra lệnh cho thư ký của ông bằng dấu tay “boa” những người Mỹ mỗi người 10 đô.

                Các chiếc C-54 đến Phi trường Nichols trước hoàng hôn một chút. Tướng Kawabe dẫn nhóm người bước xuống cầu thang và tiến đến người Mỹ gần nhất, Đại tá Sidney Mashbir, trưởng nhóm phiên dịch của MacArthur. Khi Mashbir nâng tay chào, ông nhìn thấy Okazari tiến đến với cánh tay đưa ra – họ đã quen nhau từ trước chiến tranh. Mashbir vung nắm tay phải với ngón cái đưa lên như một cách chào thân thiết mà ông đã tập luyện cử chỉ ấy 20 lần trước gương, để tránh một nhiệm vụ khó chịu là bắt tay với kẻ thù. Viên đại tá sau đó hộ tống phái đoàn đến Thiếu tướng Charles Willoughby, đứng đầu Phòng Tình báo của MacArthur. Hàng ngàn binh sĩ, nhân viên và nhà báo bao vây, và máy ảnh bấm lia lịa vào Okazaki “như súng máy xả vào những con vật kỳ lạ.”

                Willoughby ngồi cùng xe với Kawabe và trên đường đến Manila ông hỏi niềm nở Kawabe thích trao đổi với nhau bằng ngôn ngữ nào. Kawabe đề nghị tiếng Đức – tình cờ đó cũng là tiếng mẹ đẻ của Willoughby. Mối quan hệ của họ nhanh chóng thân thiết, và đối với Kawabe thật bất ngờ.

                Những nhóm người tò mò tụ tập dọc theo các đường phố hẹp dẫn đến Đại lộ Dewey. Các binh sĩ Mỹ hô vang “Banzai!” một cách vui tính, nhưng các người Phi thì tỏ ra thù nghịch. Họ hét lên “Baka!”[Đồ đần!] Họ ném đá dội vào ô tô trong khi người Nhật chỉ biết nhìn thẳng về phía trước.

                Ngay khi họ vừa mới đặt chân đến Căn hộ Rosario một ngôi nhà hai tầng gần Khách sạn Manila, họ được phục vụ bữa ăn chiều với món gà tây, mà họ nhớ mãi hương vị nhiều năm sau đó. Sau đó họ được đưa đến Tòa Thị Chính, tại đó họ được dẫn đến một bàn họp rộng lớn, ngồi đối diện với các viên chức Mỹ. Kawabe ngồi đối diện với tham mưu trưởng của MacArthur, Sutherland. Ông này đọc to Quân Lệnh Số Một, trong đó nó liệt kê những lực lượng vũ trang Nhật đóng rải rác phải đầu hàng. Những Binh sĩ ở Trung Quốc, Đài Loan và bắc Đông Dương sẽ đầu hàng Tưởng Giới Thạch, trong khi binh sĩ ở Mãn Châu, nam Sakhalin và Bắc Triều Tiên sẽ đầu hàng với Nga. Tất cả các lực lượng khác do Anh và Mỹ xử lý. Lễ đầu hàng chính thức sẽ diễn ra trên một tàu chiến Mỹ trong Vịnh Tokyo vào đầu tháng chín. Phái đoàn Nhật được lệnh phải tiết lộ nơi đóng quân và tàu chiến, các vị trí của phi trường, tàu ngầm và căn cứ kaiten, kho quân nhu và bãi mìn.

                Sáng hôm sau cuộc họp tiếp tục. Sutherland trao cho Kawabe một bản phác thảo Văn kiện Đầu hàng để Nhật hoàng ban hành. Kawabe để rơi nó trên bàn, rồi cầm lên một cách rón rén như thể, dưới quan sát của một sĩ quan hải quân Mỹ, nó là một chất độc. Ông dúi nó cho một phụ tá, Thiếu úy Sadao Otake, một sinh viên tốt nghiệp Đại học New York, ở đó anh được gọi là Roy, và bảo “Yakuse!” (Dịch đi!).

                Những từ đầu tiên – “Tôi, Hoàng đế Nhật Bản” – khiến Otake tái mặt. Nhật hoàng không hề dùng watakushi tức ‘Tôi” nhưng chữ chỉ dành cho ông là Chin tức Trẫm. Kawabe lắng nghe bản dịch với hai tay khoanh lại và đôi mắt nhắm nghiền như thể đang đau khổ, và khi từ owari (kết thúc) được thốt ra, ông vỗ tay xuống bàn và nói, “Shimai!” (Hết!).

                Mashbir, một chuyên gia về Nhật Bản, nhận thức được những từ ô trọc viết cho Nhật hoàng gây xúc phạm với người Nhật như thế nào – có thể thấy ngay là ho đang “ngồi chết lặng trong ghế.” Tại Rasario, trong lúc phái đoàn đang soạn hành lý cho chuyến trở về Nhật, ông và Wiloughby cố gắng trấn an Kawabe và Okazaki. “Tôi tin là,” Mashbir nói bằng tiếng Nhật, “Tư lệnh Tối cao không có chủ ý hạ thấp hay coi thường Hoàng đế của ngài trong mắt của nhân dân ông.” Ông bảo với họ đừng để tâm đến cách dùng chữ của tuyên bố – ông sẽ trao đổi cá nhân việc này với Tướng MacArthur. Ông khuyên họ tự sửa lại “theo đúng thể thức bình thường của một chỉ dụ nhà vua và kết thúc trong cung cách quen thuộc và chuẩn mực.” Mashbir giải thích với Wiloughby những gì ông hứa với người Nhật. Vị tướng không thể hiểu tại sao người Nhật quá bực dọc như thế.

                “Thưa Tướng Wiloughby,“ Okazaki nói bằng tiếng Anh, “đó là điều vô cùng hệ trọng. Tôi không thể giải thích cho ngài biết nó hệ trọng đến mức độ nào!”

                Tướng Sutherland cho rằng Mashbir hành xử thích đáng khi cho phép người Nhật sửa lại

văn kiện nhưng muốn ông ta phải giải thích với MacArthur. Viên tổng tư lệnh choàng vai đại tá và nói, “Mashbir, ông xử lý thật đúng đắn. Đúng vậy, tôi không có ý định coi thường ông ta [Nhật hoàng] trong mắt của nhân dân ông ta.” Qua Hirohito có thể duy trì một chính phủ trật tự một cách tốt nhất. Ông tự hỏi không biết Nhật hoàng có hạ cố đến thăm mình ở Tokyo hay không. “Nếu ông ta đến thăm, thì đó là lần đầu tiên một hoàng đế Nhật Bản đến thăm một người nào, có phải thế không?” 

                “Đúng vậy, thưa ngài, và tôi tin chắc là ông ta sẽ làm điều ấy.”

                Tai Ie Shima phái đoàn phát hiện là một chiếc Mitsubishi không thể cất cánh về Nhật. Otake nói đùa chắc trong phái đoàn có ai đó phá hoại. Kawabe, Okazaki và sáu người khác đáp chiếc oanh tạc cơ khác trên chuyến bay dài về nhà. Okazaki bắt đầu đọc bản ghi nhớ cho một viên chức trẻ viết, người sau này sẽ trở thành đại sứ tại Phi Luật Tân. Còn Tướng Kawabe chỉ ngồi trầm ngâm, còn ngạc nhiên về sự kính trọng mà người Mỹ dành cho họ. “Nếu nhân loại luôn đối xử với nhau trong công bằng và nhân đạo thực sự,” ông sau đó viết lại, “những nỗi khủng khiếp của chiến tranh có thể tránh được, và cho dù rủi ro chiến tranh bùng nổ, kẻ thắng cũng không trở nên xấc xược và những đau khổ của kẻ bại sẽ được thuyên giảm rất nhiều. Một quốc gia có văn hóa thực sự vĩ đại là điều tất yếu đầu tiên.”

                Trong bóng tối tiếp sau hoàng hôn, không khí buốt giá rít qua những lỗ đạn trên buồng lái. Hành khách bắt đầu uống rượu uýt ki để giữ ấm và sau đó chìm vào giấc ngủ. Khoảng 11 giờ họ bị đánh thức bởi viên phi công. Một bồn nhiên liệu đã rò rĩ và họ phải đáp xuống vùng đất gần nhất. Nếu không làm được, chiếc oanh tạc cơ sẽ đáp xuống biển và chỉ nổi được một lát. Họ phải mặc áo phao vào.

                Mối bận tâm lấn áp của họ là các văn kiện – người Mỹ có thể lý giải việc để mất tài liệu là một quỉ kế để đình hoãn việc đầu hàng. Văn kiện giao cho Okazaki, một vận động viên từng đại diện Nhật Bản tham dự Thế vận hội 1924 tại Paris.

                Động cơ bắt đầu tắt ngấm và máy bay xuống thấp. Qua cửa sổ Takeuchi trông thấy mặt biển bên dưới lấp lánh trong ánh trăng. Ông cố buộc chặt áo cứu sinh nhưng các ngón tay đều tê cóng. Mọi người trừ Okazaki im lặng chống hai tay vào thành ghế phía trước và cúi đầu thấp. Còn Okazaki thì khư khư ôm chặt các tài liệu quí báu bằng cả hai tay. Chiếc oanh tạc cơ nảy lên mặt biển, nước bắn tung tóe qua cửa sổ. Nó lướt như một mảnh đá dẹt cho đến chạm phải vật gì đó và dừng lại đột ngột.

                Những can dầu rơi tòm lên người Takeuchi và anh nghe có tiếng ai nói, “Chúng ta vẫn ổn.” Anh thấy có gì dinh dính chảy trên mặt. Anh tưởng là máu, nhưng thật ra là dầu. Viên phi công đẩy cửa hông ra. Những đợt sóng ban đầu đập vào thân máy bay, và Takeuchi hi vọng mình có thể thoát được trước khi họ chìm lĩm. Rồi anh nhận ra rằng, thật là phi lý, viên phi công đang đứng trong nước chỉ ngập tới đầu gối.

                Okazaki, choáng váng vì một cú đụng đầu, loạng choạng ra khỏi máy bay và bước nặng nhọc lên bờ. Phía trước, trong ánh trăng, là Núi Phú sĩ.

3

                Hoa Kỳ gặp rắc rối với đồng minh của mình nhiều hơn với Nhật Bản. Stalin muốn được chia phần lớn hơn chiến lợi phẩm của chiến tranh. Trong bức điện gởi đến Truman ông đề nghị người Nhật trên quần đảo Kuriles, vốn đã được “thưởng” cho người Xô viết tại Hội nghị Yalta, cũng như người Nhật thuộc phần nửa trên của đảo Hokkaido, đảo nhà tận phía bắc Nhật bản, phải đầu hàng tư lệnh Viễn Đông của Nga.

                . . . ĐỀ NGHỊ SAU CÓ Ý NGHĨA ĐẶC BIỆT VỚI CÔNG LUẬN NGA, VÌ NHƯ TA BIẾT, NGƯỜI NHẬT TRONG NHỮNG NĂM 1919-1921 ĐÃ CHO BINH SĨ CHIẾM ĐÓNG TOÀN VÙNG VIỄN ĐÔNG CỦA XÔ VIẾT. CÔNG LUẬN NGA SẼ BẤT BÌNH NẾU BINH LÍNH NGA KHÔNG ĐƯỢC CHIẾM ĐÓNG PHẦN ĐẤT NÀO TRÊN LÃNH THỔ NHẬT BẢN.

                TÔI MONG MỎI SÂU XA RẰNG CÁC ĐỀ NGHỊ KHIÊM NHƯỢNG CỦA TÔI NHƯ NÓI TRÊN SẼ KHÔNG GẶP SỰ CHỐNG ĐỐI NÀO.

                Bực mình, Truman trả lời rằng trong khi ông có thể đồng ý với đề nghị Kurile, ông muốn được hiểu là người Mỹ muốn lập một căn cứ không quân trên một trong các đảo Kurile. Về Hokkaido, tuy nhiên, ông quyết liệt không nhượng bộ; những sắp xếp hiện giờ cho việc đầu hàng của Nhật Bản trên tất cả bốn đảo chính đều không thay đổi.

                Đáp lại, Stalin tỏ ra phẫn nộ. Hai ngày sau, vào 22/8, ông trả lời là ông “không mong đợi một phúc đáp như thế” liên quan đến đảo Hokkaido, và trong Yalta không có đề cập gì về một căn cứ quân sự thường trực của Mỹ tại quần đảo Kurile.

                . . . NHỮNG YÊU SÁCH NHƯ THẾ THƯỜNG ĐƯỢC ĐẶT RA CHO MỘT NHÀ NƯỚC BỊ CHINH PHỤC HOẶC MỘT NHÀ NƯỚC ĐỒNG MINH KHÔNG Ở TRONG TƯ THẾ TỰ MÌNH BẢO VỆ ĐƯỢC MỘT VÀI PHẦN NÀO ĐÓ THUỘC LÃNH THỔ CỦA MÌNH VÀ, THEO QUAN ĐIỂM NÀY, SẼ SẴN SÀNG CHẤP NHẬN CHO ĐỒNG MINH CỦA NÓ LẬP CĂN CỨ THÍCH HỢP. TÔI KHÔNG TIN RẰNG LIÊN BANG XÔ VIẾT THUỘC LOẠI NHÀ NƯỚC NHƯ THẾ . . . VÌ THÔNG ĐIỆP CỦA NGÀI KHÔNG NÊU RÕ ĐỘNG LỰC NÀO CHO MỘT YÊU SÁCH VỀ MỘT CĂN CỨ THƯỜNG TRỰC NHƯ THẾ NÊN TÔI PHẢI NÓI THẲNG THẮN LÀ TÔI CŨNG NHƯ CÁC ĐỒNG CHÍ KHÔNG AI HIỄU RÕ LÝ DO NÀO KHIẾN MỘT YÊU SÁCH NHƯ THỂ CÓ THỂ ĐẶT RA CHO LIÊN BANG XÔ VIẾT.

                Mới đầu Truman định để yên không trả lời thông điệp mang tính phản kháng ngấm ngầm, nhưng rồi ông xét lại và kết thúc việc tranh cãi bằng cách giải thích là Hoa Kỳ chỉ muốn đặt căn cứ tạm thời tại quần đảo Kurile để sử dụng khẩn cấp trong thời gian chiếm đóng Nhật.

                Vấn đề Trung Quốc, tuy nhiên, không được giải quyết dễ dàng như thế. Bốn ngày trước khi Nhật Bản chấp nhận Tuyên bố Potsdam, Chu Tấn, tướng chỉ huy các lực lượng Cộng sản, loan báo sai sự thật rằng Nhật Bản đã đầu hàng vô điều kiện và ra lệnh cho các đơn vị Hồng quân chiếm đóng bất kỳ thị trấn và thành phố nào họ có được. Tưởng Giới Thạch tố cáo rằng đây là “một hành động phi pháp và đường đột” và ra lệnh Chu Tấn dừng lại phong trào dành độc lập chống Nhật. Nhân đó đài phát thanh  Cộng sản chụp mũ Tưởng là tên phát xít. “Chúng tôi muốn thông báo với ba đồng minh hùng mạnh, nhân dân Trung Hoa và thế giới là Tư lệnh Tối cao Nam Kinh không thể đại diện cho nhân dân Trung Hoa và quân đội Trung Hoa thực sự chống Nhật. Nhân dân Trung Hoa yêu cầu các binh sĩ chống Nhật trong nước Trung Hoa giải phóng dưới quyền của Tư lệnh Trưởng Chu Tấn có quyền phái những đại diện của họ trực tiếp tham gia trong việc chấp nhận Nhật Bản đầu hàng phe Đồng minh.”

                Các kế hoạch của Trung Hoa đỏ cho việc thống trị thời hậu chiến bị các đồng chí cùng ý thức hệ của họ ở Moscow phá bĩnh. Vào ngày trước hôm Nhật Bản đầu hàng, Molotov ký các hòa ước với Trung Hoa Dân Quốc. Đó là một sự sỉ nhục làm rạn nứt quan hệ Xô viết-Trung Hoa Đỏ trong nhiều thập kỷ.

                Trong lúc đó Nga đang có chủ định thiết lập quyền lực của mình trên lục địa Á châu. Hồng quân đã chiếm đóng phần lớn Mãn Châu mà không gặp sức kháng cự nào từ Quân đoàn Quảng đông yếu ớt. Mỗi thành phố chiếm đóng đều bị cướp bóc. Hàng tấn lúa mì, bột mì, gạo, cao lương và đâu nành được chở về Liên bang Xô viết cùng với máy móc, hàng hóa, giấy, máy in, công cụ nhiếp ảnh và điện. Ghế, bàn, điện thoại, bàn đánh máy được cướp sạch từ các văn phòng. Từng đoàn xe tải chở các đồ đạc gãy gọng và vô số thùng kính vỡ hướng về tây như thế đồ phế thải cũng là của báu đối với người Xô viết.

                Các tù binh Nhật bị lột trần mọi đồ quí giá, kể cả răng vàng. Nạn hãm hiếp, cướp bóc và giết người xảy ra thường xuyên, nhưng những hành vi tàn bạo này không kích động bởi thù hận hoặc báo thù. Những kẻ chinh phục, như Attila chỉ huy đoàn Hung Nô thuở trước, đang tận hưởng chiến lợi phẩm của mình.

 

4

                Tinh thần kháng lệnh đầu hàng cuồng tín chưa chết theo Hatanaka và Ugaki. Chiều tối ngày 22/8, mười thanh niên quấn khăn trắng quanh trán, tự gọi mình là Sonjo Gigun (Nhóm Công chính Duy trì Vương trị và Đánh đuổi Ngoại bang) chiếm Đồi Atago trong tầm mắt của sứ quán Mỹ. Với súng lục và lựu đạn họ đe dọa vòng vây cảnh sát được phái tới để giải tán họ. Trong cơn mưa trút nước họ nối vòng tay và hát vang quốc ca. Ba lần họ hô vang “Tenno Heika banzai!” Và rồi một tiếng thét đồng loạt vang lên khi năm quả lựu đạn gần như nổ tung đồng thời. Tất cả đều chết tan xác. Người cầm đầu của họ để lại một thư tuyệt mạng: “Cơn mưa ve sầu rơi vô vọng trên những ngọn đồi và dòng sông bại trận.” Một ít ngày sau những người vợ của ba kẻ nổi loạn leo lên đỉnh Đồi Atago và cũng tự tử. Hai người chết. Trong làn sóng tự hủy diệt, mười một sĩ quan liên lạc thuộc một môn phái Phật giáo tự tử ngay trước Hoàng cung, và 14 sinh viên tiến hành hara-kiri tại quảng trường Yoyogi.

                Những kẻ nổi loạn khác tiếp tục những cuộc tấn công lẻ tẻ vào các trung tâm truyền thông. Trạm NHK ở Kawaguchi bị chiếm đóng ngắn ngủi bởi một thiếu tá và 66 binh sĩ từ một trường truyền tin ; khoảng 40 dân , trong đó có 10 phụ nữ, chiếm trạm phát thanh ở Matsui và sau đó tấn công bưu điện, một trạm năng lượng, tòa báo địa phương và văn phòng hành chính quận.

                Khi nghe thông báo các lực lượng Mỹ sẽ nhanh chóng chiếm đóng đất nước một không khí lo sợ và bất an lan tràn. Nhiều tin đồn thất thiệt khiến dân chúng hoảng kinh: Lính Trung Quốc đang đổ bộ ở Osaka; hàng ngàn binh sĩ Mỹ đang cướp bóc và hãm hiếp ở Yokohama. Tài sản quí báu của các cô gái và gia đình được chuyển về miền quê hoặc trong núi. Các tờ báo chạy những cột chỉ dẫn cách thức giao tiếp với binh sĩ Mỹ. Các bà được dặn dò: “Đừng ra ngoài ban đêm. Giữ đồng hồ và những vật quí giá khác tại nhà. Khi gặp nguy cơ bị hiếp dâm, hãy thể hiện thái độ trang nghiêm nhất. Đừng nhượng bộ. La lên cầu cứu.” Họ được nhắc nhở tránh “những hành động khêu gợi” như hút thuốc hoặc không mang vớ. Một số nhà máy phát những viên thuốc độc cho các nữ công nhân.

                Vừa sau rạng đông ngày 28/8, 45 chiếc C-47 tiến gần Núi Phú Sĩ chở theo bộ phận tiền tiêu của Mỹ, do Đại tá Charles Tench chỉ huy. Tại Căn cứ Không quân Atsugi chiếc phi cơ dẫn đầu đáp xuống và dừng lại và người chinh phục đầu tiên từng bước xuống đất Nhật xuất hiện trong nhân dạng của Đại tá Tench. Từ bờ cầu thang máy bay một nhóm người Nhật la hét tiến đến ông, trong phút chốc ông nghĩ mình sắp bị chém gục bởi bọn cuồng tín. Rồi ông nhận thấy một tiệc tiếp đón nhỏ bày gần phi cơ. Một viên sĩ quan thấp bé tiến ra phía trước và thông báo mình là Trung tướng Seizo Arisue. * Khi hai người bước về phía căn lều trong khu vực tiếp đón, các nhà quay phim Nhật và phóng viên Mỹ ghi lại hầu như từng mỗi bước đi. Trong lều Đại tá Tench tái mặt khi Arisue trao cho ông ly rượu punch pha nước cam. Để chứng tỏ nó không độc viên tướng nốc hết một ly trước khi Tench do dự nhắp môi.

                Trong vòng 48 tiếng Atsugi được chiếm đóng bởi Sư đoàn Nhảy dù 11, mà các phi cơ vận tải bốn động cở của nó đáp xuống mỗi hai phút trong nhiều giờ liền. Ngay sau khi căn cứ không quân vừa được thắt chặt an ninh một chiếc C-54 khác xuất hiện từ đằng xa. Đó là Bataan, chở theo Tướng MacArthur. Ông đang thảo luận số phận của Nhật Bản với Thư ký Quân sự của mình, Chuẩn tướng Bonner Fellers, người đến thăm nước Nhật nhiều lần. “Việc rất đơn giản,” MacArthur nói. “Ta sẽ sử dụng công cụ của chính phủ Nhật để triển khai việc chiếm đóng.” Trong số nhiều việc, có việc ông chuẩn bị cho phụ nữ Nhật quyền bầu cử.

                “Đàn ông Nhật không thích điều này đâu.”

                “Tôi bất cần. Tôi muốn làm mất uy tín quân đội. Phụ nữ không muốn chiến tranh.”

                Chiếc vận tải cơ đáp xuống vào lúc 2:19 P.M. MacArthur, người đầu tiên bước xuống máy bay, dừng lại ở đầu cầu thang và Fellers nghe ông lẩm bẩm, “Đây là sự đền đáp.” Ông đốt điều xì gà và bước xuống cầu thang.

                Một đoàn ô tô xập xệ đang đợi để đưa nhóm MacArthur về tổng hành dinh tạm thời ở Yokohama. Đi đầu đòan xe là một xe chữa cháy màu đỏ. Nó lao về phía trước với một tiếng nổ máy làm giật mình, và đoàn mô tô hộ tống rền rĩ vượt đoạn đường 15 dặm đến Yokohoma. Toàn chiều dài con đường được gần 30,000 binh sĩ Nhật xếp hàng hai bên đứng cảnh giới, lưng quay về phía MacArthur.

                Người Mỹ được xếp chỗ ở tại Khách sạn New Grand, một công trình xa hoa vừa được xây dựng sau vụ động đất 1923. Tại buổi chiêu đãi chiều Whitney cảnh báo xếp của mình thịt bò có thể tẩm thuốc độc, nhưng MacArthur cười lớn và phớt lờ đi bằng câu “Không ai sống mãi mãi.” Tối đó ông bảo nhân viên của mình đang tề tựu trong phòng mình, “Các cậu, đây là cuộc phiêu lưu lớn nhất trong lịch sử quân sự. Chúng ta đang ngồi đây trên đất kẻ thù với chỉ một nhóm binh lính, nhìn xuống cổ họng của 19 sư đoàn trang bị vũ khí đầy đủ và 70 triệu tên cuồng tín. Chỉ cần một cử động sai lầm là vụ Alamo* sẽ giống như một buổi picnic học sinh vào chủ nhật!”

 

5

                Lễ đầu hàng chính thức được tổ chức trên chiến hạm Missouri ở Vịnh Tokyo vào ngày 2/9, chỉ ba ngày sau khi MacArthur đến. Truman đặc biệt bằng lòng với sự lựa chọn này. Missouri, một trong bốn chiến hạm lớn nhất trên thế giới, đã được đặt tên theo tiểu bang quê hương ông và được con gái ông làm lễ rửa tội.

                Sáng sớm Chỉ huy Horace Bird, sĩ quan hỏa lực của Missouri, đón bình minh với sự bất mãn. Trời lạnh và xám xịt. Vào khoảng 7:30 một tàu khu trục cặp vào, và các thông tín viên từ khắp nơi trên thế giới leo lên boong con tàu chiến. Mỗi người đều được bố trí vị trí, chỉ duy nhất người Nhật vẫn ở tại chỗ. Người Nga tỏ ra quá ồn ào, họ chạy rong khắp tàu “như những người hoang dã.”

                Các tàu khu trục cặp sát Missouri, chở đến các vị tướng lãnh và đô đốc của Đồng minh. Lúc 8:05 Nimitz được hướng dẫn lên tàu, lát sau là MacArthur. Mọi người đang phấn khích cho nên việc hai tướng lãnh cao cấp đến không ai để ý. Chỉ huy Bird phải chạy vọt lên trước họ và hô to, “Thưa quí vị, Tướng MacArthur và Đô đốc Nimitz đến” nhưng người ta cũng phớt lờ ông. Tuyệt vọng, ông hét lên, “Nghiêm, chào!” Ngay lập tức, các tướng và đô đốc đang tề tựu mới đứng nghiêm. Trong cái im lặng sau đó, người ta có thể nghe tiếng sóng vỗ vào mạn tàu.

                Giờ thì tàu khu trục Lansdowne xuất hiện với 11 thành viên của phái đoàn Nhật. Trước đó đã có cuộc tranh cãi xem ai sẽ dẫn đầu phái đoàn. Nếu Thủ tướng Higashikuni, một người trong Hoàng tộc, đảm trách một nhiệm vụ bẽ mặt như thế thì quá tội cho ông, và Hoàng thân Konoye, người đã liều mình hai năm cho hòa bình, không thể chường mặt đối diện với nổi ô nhục của thời khắc lịch sử. Trách nhiệm nặng nề nằm trên vai của ngoại trưởng mới, Shigemitsu, xem nó như “một nghĩa vụ đau đớn nhưng lợi ích,” và lấy làm vinh dự được Nhật hoàng tin cậy giáo phó. Tham mưu trưởng Quân đội Umezu cũng có mặt ở đó dưới sự ép buộc; phải cần đến sự kêu gọi từ chính cá nhân Nhật hoàng. Tham mưu trưởng Hải quân Toyoda ra lệnh cho sĩ quan tác chiến, Đô đốc Tomioka, thế chỗ của mình. “Cậu đã để  thua trận,” ông nói, “nên cậu phải đi”; Tomioka đồng ý nhưng đã quyết định tiến hành hara-kiri sau buổi lễ.

             Trận đánh trong đó 1800 quân Mexico tàn sát tất cả 260 người Texas đang cố thủ trong đồn trong cuộc chiến giữa Mexico và người Mỹ vào năm 1836.

                Các thành viên Nhật Bản không mấy chắc chắn sử dụng nghi thức nào khi bước lên boong tàu. Họ phải chào tay theo kiểu quân đội, cúi đầu chào, bắt tay hay mỉm cười? Cố vấn của họ, Đại tá Mashbir, đã bảo quân nhân thì chào tay, còn dân sự thì chỉ cần giở mũ và cúi đầu. “Và tôi đề nghị là tất cả các ông hãy khoác một bộ mặt lãnh đạm.”

                Mashbir bước vào lối đi giữa các hàng ghế trên tàu Missouri đúng vào lúc 8:35, theo sau là một viên chức Nhật đội mũ lụa cao, áo đuôi tôm và khăn choàng cổ. Ông ta nhọc nhằn rướn người bước tới, lẩm bẩm sau mỗi bước đi. Đó là ngài Ngoại Trưởng Shigemitsu, mà chân trái của ông đã bị thổi bay do quả bom của một kẻ sát nhân ở Thượng Hải nhiều năm về trước. Chân mới nhân tạo của ông khiến ông đau nhói sau mỗi bước đi. Bird, nhìn từ trên cao, chờ đợi vị tướng gương mặt dữ tợn đi đằng sau người đàn ông đội nón lụa để bắt tay – đó là Umezu, người xem Shigemitsu như một tên chủ bại đáng ghét và không thèm chú ý đến nổi khổ nhọc của ông ta. Chính Bird bước xuống định giúp một tay. Shigemitsu lắc đầu nhưng rồi cho phép người Mỹ nâng đỡ mình một lúc.

                Shigemitsu chẫm rãi lê bước qua sàn tàu một cách đau đớn để đến bậc thang dẫn đến khu vực hành lễ khiến ông trở thành tâm điểm của sự chú ý. Một thông tín viên Mỹ nhận xét rằng cử tọa nhìn ông ta “với một sự thỏa mãn man rợ.” Shigemitsu ngăn không cho Bird đỡ mình thêm nữa và vụng về bước lên bậc thang, gương mặt lạnh như tiền.

                Khi người Nhật đã an vị, mọi người đứng yên cho ngài tuyên úy của tàu đọc lời cầu nguyện. Họ vẫn đứng yên trong lúc bài quốc ca Mỹ được phát qua loa phóng thanh. Trong thời gian tạm dừng bực dọc kéo dài tiếp sau đó, Toshikazu Kase (trước đây là thư ký của Matsuoka và bây giờ là thư ký của tân Ngoại Trưởng), phát hiện ra một vài hình Mặt trời Mọc nhỏ xíu được vẽ trên vách ngăn gần đó, rõ ràng để chỉ số máy bay hoặc tàu ngầm của Nhật bị phá hủy. Khi nhẫm đếm, cổ họng anh nghẹn lại. Đứng cạnh ông Đô đốc Tomioka không ngừng thắc mắc và nổi giận, thắc mắc tại sao người Mỹ không tỏ vẻ gì khinh bỉ đối với người Nhật, nổi giận vì sự có mặt của phái đoàn Xô viết; họ một phần là người Á châu, vậy mà họ phớt lờ lời cầu xin của Nhật hành động như một người môi giới hòa bình và rồi đâm sau lưng họ ở Mãn Châu.

                Tướng MacArthur xuất hiện, bước đi nhanh nhẹn cùng với Nimitz và Halsey băng qua boong tàu đến chiếc bàn phủ đầy tài liệu.

                “Chúng ta tụ họp nhau nơi đây,” MacArthur nói, “đại diện của các cường quốc lâm chiến chủ yếu, để hoàn tất một thỏa thuận trọng đại qua đó hòa bình có thể được phục hồi. Những lập trường, liên quan đến những lý tưởng và ý thức hệ khác biệt đã được giải quyết trên chiến trường của thế giới và do đó không có gì còn phải bàn cãi hoặc tranh luận. Chúng ta, là đại diện cho đa số dân tộc trên trái đất, cũng không ở đây để gặp nhau trong tinh thần ngờ vực nhau, ác ý hoặc hận thù. Nhưng mà là cho chúng ta, kẻ thắng cũng như người bại, vươn lên một phẫm cách cao hơn mang lợi lợi ích cho những mục tiêu cao cả mà chúng ta chuẩn bị phục vụ, toàn thể dân tộc chúng ta không phân biệt cam kết hoàn thành một cách trung thành với lòng thông hiểu mà chúng ta chính thức thừa nhận tại đây.”

                Tomioka ấn tượng khi những lời nói của MacArthur vắng mặt những lời hiềm khích hoặc trừng phạt. Tướng Yatsuji Nagai, người đã đồng hành cùng Matsuoka đến Berlin và Moscow, không thể rời mắt khỏi MacArthur. Sao ông ta trông trẻ trung và rắn chắc thật khác xa với Umezu! Có phải tác động của tâm lý bại trận đã làm Umezu trông già trước tuổi? Đại tá Ichiji Sugita, người đã làm thông dịch viên trong một lễ đầu hàng trước đây tại Phi Luật Tân, nhìn chằm chằm vào một sĩ quan Đồng minh khác, Tướng Percival. Mắt họ gặp nhau và giữ yên một lúc, cả hai rõ ràng đã nhớ lại cảnh tượng đau lòng tại nhà máy Ford ở Singapore.

                “Hi vọng lớn lao nhất của tôi,” MacArthur nói tiếp, “- thật ra cũng là hi vọng của toàn nhân loại – là từ cơ hội trọng đại này một thế giới tốt đẹp hơn sẽ hiện ra từ xương máu và giết chóc của quá khứ, một thế giới được xây dựng trên lòng tin và sự thông hiểu, một thế giới dâng hiến cho phẫm giá của con người và sự hoàn thành mơ ước khao khát nhất cho tự do, lòng bao dung và sự công bằng.”

                Như thể được ra hiệu các đám mây bổng dạt ra và từ xa đỉnh của ngọn Phú Sĩ lấp lánh trong ánh mặt trời. MacArthur chỉ một chiếc ghế ở phía đối diện của bàn. Shigemitsu lê chân tới và ngồi xuống. Ông lóng ngóng một cách vụng về với mũ, bao tay và gậy, cho ta cảm tưởng như ông muốn câu giờ. Halsey muốn tát ông và quát,”Ký mau, thằng khốn! Ký!” Tuy nhiên, MacArthur biết là Shigemitsu bối rối, và quay sang tham mưu trưởng của ông, nói rõ ràng, “Sutherland, chỉ cho ông ấy ký ở đâu.” Shigemitsu ký tên. Tiếp theo Umezu tiến về phía trước, và không buồn ngồi xuống, nguệch ngoạc chữ ký của mình. Dùng một bút khác, MacArthur bây giờ mới ký bên dưới chữ Tư lệnh Tối cao các Lực lượng Đồng minh. Rồi tới lượt Nimitz và các tướng đồng minh khác theo thứ tự các nước của mình: Tướng Hsu Yung-chang của Trung Quốc, Đô đốc Sir Bruce Fraser của Vương quốc Anh Trung tướng K. Derevyanko của Liên bang Xô viết, Tướng Sir Thomas Blamey của Úc, Đại tá L. Moore Gosgrove của Canada, Tướng Jacques Leclerc của Pháp, Đô đốc C. E. L. Helfrich của Hà Lan và Phó-Thống chế Sir L. M. Isitt của New Zealand.

                Sau khi lễ ký kết đã xong, một lần nữa MacArthur nói với cử tọa. “Chúng ta hãy cầu nguyện,” ông nói, “cho hòa bình được lập lại trên mặt đất và Thượng đế sẽ gìn giữ nó mãi mãi. Những thủ tục này giờ đây xin khép lại.” Ông bước về phía Halsey và choàng tay qua vai ông. Bird đứng gần đấy và tin rằng mình nghe MacArthur nói, “Bill, mấy phi cơ đó làm cái quái gì vậy?” Như để trả lời từ xa tiếng ầm ầm vọng đến. Hàng ngàn chiếc B.29 lướt qua Missouri trong cuộc biểu dương chào mừng.

                MacArthur rời khu làm lễ và tiến đến một mi-crô khác để truyền thông điệp cho người Mỹ. “Hôm nay tiếng súng đã im bặt,” ông nói. “Một thảm kịch khủng khiếp đã kết thúc. Một thắng lợi vẻ vang đã đạt được. Bầu trời không còn là cơn mưa của nỗi chết chóc, biển chỉ nâng đỡ những tàu buôn, con người khắp nơi đứng thẳng trong ánh mặt trời. Toàn thế giới đều yên bình. Sứ mạng thiêng liêng đã được hoàn thành.

                “Một thời đại mới đang đến với chúng ta. Ngay cả bài học của thắng lợi cũng mang đến cùng với nó mối quan ngại sâu xa, cho an ninh tương lai chúng ta và cả cho sự sống còn của nền văn minh . . . Các đồng minh quân sự, các cán cân quyền lực, hội quốc liên tất cả đều thất bại, chỉ còn lại con đường duy nhất là sử dụng lò thử thách của chiến tranh . . .

                “Sự hủy diệt hoàn toàn của chiến tranh giờ đây xóa bỏ giải pháp lựa chọn này. Chúng ta đã có cơ hội cuối cùng của mình. Nếu chúng ta không nghĩ ra một hệ thống vĩ đại hơn và hợp lý hơn, trận Armageddon sẽ đứng trước cửa chúng ta . . .”

                Những lời của MacArthur trong một ý nghĩa rất thực chính là một cam kết rằng Hoa Kỳ sẽ đối xử với kẻ thù bại trận với sự thông hiểu và trắc ẩn. Và trên khắp đất nước Nhật Bản, dân chúng bắt đầu gượng dậy từ những thống khổ của một số phận gần như không thể chịu đựng được. “Nếu chúng ta cho phép nỗi đau khổ và sự nhục nhã nuôi dưỡng bên trong chúng ta những tư tưởng đen tối của sự báo thù tương lai,” Tờ Nippon Times [Nhật Bản Thời Báo] khuyên răn độc giả của mình bằng những lời lẽ có mục đích gây hứng khởi và hóa ra như một lời tiên tri, “tinh thần của chúng ta sẽ bi sa đọa và biến thái thành ra một kiểu hèn hạ bệnh hoạn.  . . Nhưng nếu chúng ta biến nỗi đau khổ này và sự nhục nhã này thành một động lực để tự vấn và tu dưỡng, tiến tới nỗ lực tái thiết vĩ đại, thì không có gì ngăn cản được chúng ta trong việc xây dựng, từ đống tro tàn của thảm bại, một Nhật Bản mới tráng lệ trút bỏ hết mọi rác rưới của quá khứ giờ đã qua, một Nhật Bản mới sẽ minh chứng cho niềm tự hào của chúng ta bằng cách giành được sự kính trọng của thế giới.”

 

Lời Bạt

 

1

                Sáu ngày sau lễ ký kết trên tàu Missouri, MacArthur đến Tokyo. Buổi trưa, vào ngày 8/9 ông sảy bước đến sân thượng sứ quán Mỹ, tại đó một vệ binh danh dự từ Sư đoàn Kỵ binh THứ nhất đang buộc lá cờ lịch sử vào cột cờ. “Tướng Eichelberger,” ông nói oang oang, “hãy trải rộng lá cờ của đất nước chúng ta và để nó tung bay trong ánh mặt trời Tokyo với niềm vinh quang trọn vẹn như một biểu tượng của niềm hi vọng cho những người bị áp bức và như một người báo tin chiến thắng cho lẽ phải.” Trong tiếng kèn lá quốc kỳ, đã từng tung bay bên trên Điện Capitol ở Washington trong ngày Trân Châu Cảng, đang từ từ lên cao trên cột.

                Nếu thực tế về việc MacArthur Người Chinh Phục đến Tokyo được tô đậm thêm bởi lá cờ Mỹ tung bay ngang tàng trong tầm nhìn của Hoàng cung hơi khó hiểu đối với dân chúng Nhật trong tất cả ẩn ý của nó, thì sự thảm bại là không thể chịu được đối với phe quân sự, người có trách nhiệm cho sự bất lực trong việc ngăn chận quân thù. Hơn nữa, nhiều người trong bọn họ đang chờ ra tòa, và trong vòng ba ngày MacArthur ban lệnh bắt giữ 40 tội phạm chiến tranh đầu tiên.

                Có một cái tên trong danh sách được mọi người đều nhận ra – Hideki Tojo*. Gần như ngay lập tức, ngôi nhà khiêm nhượng của Tojo ở Setagaya bị các phóng viên và nhiếp ảnh viên bao vây. Họ chen lấn trước bức tường đá trước nhà. Giam mình trong phòng, Tojo ngồi viết tại bàn viết rộng. Căn phòng được chế ngự bởi một bức chân dung nguyên người của vị cựu thủ tướng trong bộ quân phục trang trọng. Trên một bức tường khác là một tấm da hổ được một người hâm mộ từ Malasya tặng.

                Bên ngoài đám đông tiếp tục tăng lên trong khi các phóng viên xô đẩy nhau vào khu vườn, và đến giữ trưa sự chen lấn đã trở nên tràn ngập đến nỗi Tojo bảo vợ ra khỏi nhà ngay lập tức với người hầu; các con họ đã di tản đến Kyushu. Bà Tojo đi một cách miễn cưỡng. “Ông hãy bảo trọng,” bà nói, sợ rằng ông có thể tự tử. “Xin ông hãy bảo trọng,” bà nhắc lại và cúi chào. Ông chỉ đáp lại bằng một tiếng càu nhàu.               

             Một đại tướng của Lục quân Đế quốc Nhật Bản và là thủ tướng thứ 27 của Nhật Bản trong suốt phần lớn thời gian của Chiến tranh thế giới thứ hai, từ 18 tháng 10 năm 1941 đến 22 tháng 7 năm 1944. Ông là một trong những nhà tư tưởng theo chủ nghĩa dân tộc và là người ủng hộ chiến tranh với Trung Quốc và các quốc gia khác.

                Bà rời nhà bằng cửa sau với người hầu. Họ đi vòng qua bức tường và hướng ra đường về phía lối vào nhà xe. Phía trước là một đám đông người và ô tô. Bà đi vào vườn của ngôi nhà đối diện bên kia đường. Đó là nhà của một bác sĩ tên Suzuki, người hồi sớm đã đánh dấu trên ngực của Tojo bằng than để chỉ vị trí của trái tim ông. Qua bức tường bà có thể thấy các lính Mỹ – đó là các quân cảnh – đã bao vây ngôi nhà bà. Một viên sĩ quan hô to, “Bảo tên da vàng chết tiệt đó chúng tao đã chờ đủ lâu rồi. Mang nó ra!” Thình lình bà nghe một tiếng súng nghẹt tiếng và các binh sĩ xông vào nhà. Từ bên kia đường bà nhận ra âm thanh của tiếng gỗ vỡ ra. Lúc đó là 4:17 chiều.

                Thiếu tá Paul Kraus và đội vây bắt, theo sau là George Jones, một phóng viên của tờ New York Times, xông vào căn phòng. Tojo, áo khoác ngoài đã cỡi ra, đứng lảo đảo cạnh một chiếc ghế trống. Máu ướt đẫm áo sơ mi của ông. Tay phải ông còn cầm khẩu súng Colt 32, giờ đang chỉa vào kẻ xâm nhập.

                “Đừng bắn!” Kraus la lên.

                Tojo không có dấu hiệu gì đã nghe, nhưng khẩu súng đã rơi lóc cóc trên sàn phòng và ông ngã khuỵu vào ghế. Ông ra dấu cho một cảnh sát Nhật đi theo người Mỹ vào văn phòng hỏi xin uống nước. Ông uống vài ngụm hết sạch ly nước và xin thêm.

                Trong ngôi vườn bên kia đường bà Tojo quỳ xuống, lẩm bẩm đọc kinh Phật. Bà tưởng tượng ra nổi thống khổ của chồng và cố chuẩn bị cho cảnh người Mỹ sẽ mang thi thể chồng mình ra. Thay vào đó một xe cứu thương xuất hiện và một bác sĩ Nhật chạy vội vã vào nhà.

                Lúc 4:29 môi Tojo cử động. Hai thông dịch viên người Nhật, đi theo báo chí, bắt đầu ghi lại lời ông nói. “Tôi xin lỗi vì lâu quá mà chưa chết,” ông thều thào. Gương mặt ông nhăn nhó vì đau đớn nhưng những người Mỹ nhìn xuống ông không tỏ vẻ gì thương hại. “Cuộc chiến Đông-Á Vĩ đại được minh chứng và chính đáng,” ông nói. “Tôi xin lỗi các quốc gia và tất cả chủng tộc các lực lượng Á đông Vĩ đại. Tôi không muốn bị xử trước tòa án của kẻ chiến thắng. Tôi đợi sự phán xét công bình của lịch sử.” Giọng nói ông càng lớn hơn nhưng có khi không rõ. “Tôi muốn tự tử nhưng thất bại.” Viên đạn của ông đi vào chính xác tại vị trí Bác sĩ Suzuki đã đánh dấu, nhưng đã bắn trượt trái tim.

                Khi các nhân viên y tế mang ông vào đi văng, Tojo thì thào, “Tôi không bắn vào đầu, vì tôi muốn dân chúng nhận ra mặt tôi và biết tôi đã chết.” Ông được đưa tới Bệnh viện Di tản 48 ở Yokohama, và đến chiều tối Tướng Eichelberger đến bên giường ông. Tojo mở mắt và cố cúi đầu chào. “Tôi sắp chết,” ông nói, “tôi rất tiếc đã gây nhiều rắc rối cho Tướng quân.”

                “Ông nói rắc rối đêm nay hay rắc rối những năm qua?”

                “Đêm nay. Tôi muốn tặng Tướng quân thanh kiếm mới của tôi.”

                Tojo còn sống để ra tòa như một tội phạm chiến tranh chủ chốt*; nhưng buổi sáng hôm sau Thống chế Sugiyama nhắm mục tiêu của mình chính xác hơn. Ông bắn trúng ngay tim tại văn phòng mình. Khi bà vợ hay tin về cái chết của chồng, bà theo gương của vợ Tướng Maresuke Nogi, người đã lãnh đạo toàn quân trong Chiến tranh Nga-Nhật và sau đó tự tử để xin lỗi cho cái chết của binh sĩ mình. Bà quì trước bàn thờ Phật trong căn phòng của mình, uống một thìa cyanide rồi ngã trên mũi dao găm.

             Gần cuối các phiên tòa tẻ nhạt, tiến hành tại Bộ Tư lệnh Quân đội ở Ichigaya Heights, Tojo và Yoshio Kodama nhìn hai máy bay Mỹ từ sân tập của Nhà tù Sugamo. “Này Kodama,” vị tướng nói, “phiên tòa chỉ có ý nghĩa khi không còn chiến tranh. Như anh thấy trên kia, họ đang thao luyện để đánh người Nga. Sau khi phiên tòa kết thúc giữa Mỹ và Nga sẽ xảy ra bất hòa. Nếu xảy ra một cuộc chiến khác, tội ác chiến tranh như ở đây thực là vô nghĩa.”

Vào ngày 12/11/1948, Tojo bị xử tội chết. Trong tù ông đã trở thành một con người đổi khác. Tôn giáo giờ là mối quan tâm hàng đầu của ông và ông nhận được biệt danh là Sa di. Một vài giờ trước khi bị hành hình ông bảo Bác sĩ Shinsho Hanayama, một nhà sư tuyên úy trong tù, rằng ông sẽ vô cùng biết ơn nếu: thân xác ông sớm trở thành cát đất của Nhật Bản, cái chết của ông không chỉ là lời xin lỗi đến dân Nhật mà là một bước tiến đến hòa bình và sự tái thiết nước Nhật. Ông nói đã đến lúc phải chết, vì giờ ông chỉ còn vài cái răng, mắt ông đã mờ và trí nhớ đã lụt. Và chết thì tốt hơn là sống những ngày tháng còn lại trong tù, làm nạn nhân cho những dục vọng phàm trần. Cuối cùng, thật vui mừng khi biết sau khi chết mình sẽ tái sinh vào cõi A Di Đà.”

                Trong di ngôn của mình Tojo kêu gọi người Mỹ đừng tha hóa những cảm xúc của người Nhật hoặc tiêm nhiễm họ bằng chủ nghĩa Cộng sản. Nhật đã là thành trì ở Á châu chống lại chủ nghĩa Cộng sản, và giờ đây Mãn Châu đang trở thành căn cứ cộng sản hóa lục địa. Người Mỹ cũng đã chia cắt Triều Tiên, mà ông tiên đoán sẽ đưa tới rắc rối lớn trong tương lai.

                Ông xin lỗi những hành vi tàn bạo mà binh lính Nhật đã gây ra và thúc giục binh sĩ Mỹ hãy tỏ ra khoan hồng và trắc ẩn với dân chúng Nhật, vốn đã chịu nhiều đau khổ vì những trận không kích bừa bãi và hai quả bom nguyên tử. Ông tiên đoán rằng một thế chiến thứ ba sắp xảy ra vì quyền lợi xung đột giữa Hoa Kỳ và Liên bang Xô viết, và vì chiến trường sẽ là Nhật, Trung Quốc và Triều Tiên, nên trách nhiệm của người Mỹ là phải bảo vệ cho nước Nhật không tự lực được.

                Di ngôn khép lại với hai bài thơ:

                                                Cho dù giờ tôi phải cất bước

                                                Tôi sẽ trở lại mảnh đất này

                                                Vì đến giờ còn chưa trả được

                                                Cho đất nước món nợ đã vay

 

                                                Giờ vĩnh biệt đã đến rồi

                                                Dưới rong rêu tôi nằm đợi

                                                Đến khi hương hoa trở lại lần nữa

                                                Trên những hòn đảo của Yamato [tức Nhật Bản]  

 

                Ông bước lên 13 bậc thang đến giá treo cổ một cách đường hoàng. Ngay sau nửa đêm ngày 22/12, cửa sập bật xuống.                                                     

                Phiên tòa được xử bởi kẻ chiến thắng là sự nguyền rủa đối với các nhà lãnh đạo Nhật Bản, nhưng nó đặc biệt ghê tỡm đối với giới quý tộc như Hoàng thân Konoye. Ông cũng thích tự xử hơn là chịu đựng nỗi nhục. Ông bảo với người bạn một cách bông lơn, “Tôi là thằng lười biếng và tôi có thể thấy cuộc sống trong tù dễ chịu và thảnh thơi” – trong 30 năm ông thậm chí chưa hề mang theo ví tiền hay vắt một cái khăn ướt khi tắm – “nhưng tôi không thể chịu được nỗi sỉ nhục khi bị gọi là tội phạm chiến tranh.”

                Vào đêm trước khi Konoye phải rời nhà để đến Nhà tù Sugamo con trai nhỏ của ông, Michitaka, lục lọi phòng cha mình để tìm vũ khí hoặc độc dược. Mặc dù không tìm được gì, anh vẫn còn lo lắng, vì trước khi đi ngủ, anh trở lại phòng cha. Họ trò chuyện một lúc về sự kiện Trung Quốc, việc đàm phán với Mỹ và trách nhiệm nặng nề mà Konoye cảm thấy đối với Nhật hoàng và nhân dân. Michitaka nghĩ cha mình sẽ ghi lại những cảm nghĩ cá nhân này. Konoye đã viết một lúc bằng bút chì rồi trao cho con bản thảo. “Viết không được thích hợp lắm,” ông nói, “nhưng nó thể hiện đúng những gì ta cảm thấy ngay lúc này.”

                     Michitaka linh cảm đây là khoảnh khắc cuối cùng họ ở bên nhau. “Đã từ lâu con chỉ gây ra cho ba những rắc rối và không hề là người con có hiếu. Con xin lỗi.”

                Konoye cự tuyệt lời xin lỗi. “’Hiếu thảo’ nghĩa là gì?” ông hỏi và quay mặt đi. Họ ngồi trong im lặng. cuối cùng Michitaka nói, “Đã khuya rồi. Ba đi ngủ đi.” Anh do dự. “Ngày mai ba đi chứ?”

                Konoye không trả lời, nhưng Michitaka tiếp tục nhìn ông một cách van nài. Konoye quay nhìn lại như thể muốn nói, đứa con trai nghĩ, “Tại sao con còn hỏi ta một câu hỏi như thế? Ta đang có cảm tưởng rằng con hiểu ra mọi việc.” Michitaka chưa hề thấy gương mặt cha biểu lộ một nét kỳ lạ và gớm ghiếc như vậy, và lần đầu tiên anh nhận thức được ý định quyên sinh của ông.

                “Nếu ba cần gì ban đêm, cứ gọi con.” Michitaka nói. “Con ở ngay phòng bên.”

                Ngay trước rạng đông Michitaka cố gắng chợp mắt nhưng liền tỉnh dậy vì tiếng kêu bấn loạn của mẹ anh. Anh cố gắng nhỏm dậy nhưng tê liệt một lát. Anh vẫn ngồi đó, mắt nhắm nghiền, thân thể run rẩy. Cuối cùng anh đứng dậy và bước vào phòng cha. Konoye nằm dài, gương mặt bình yên và quang đảng, như thể đang nằm ngủ. Không có dấu hiệu đau khổ trên nét mặt cao quí của ông. Ông đã chết. Một chai thuốc màu nâu, đã rỗng, nằm cạnh gối.

                Người Mỹ xem nhà lãnh đạo trên danh nghĩa của nước Nhật, Nhật hoàng, cùng với Tojo, là người chịu trách nhiệm nhiều nhất về cuộc chiến. Giờ đây ông còn bị lăng mạ bởi một số tờ báo Nhật tự do, cho ông là kẻ phóng đảng và hiếu chiến. Có những cuộc biễu tình bên ngoài tổng hành dinh của MacArthur yêu cầu truất phế ông. Nhưng Tư lệnh Tối cao phớt lờ những điều này và những yêu cầu tương tự từ người Nga và một bộ phận báo chí Mỹ và Úc. Mang Nhật hoàng ra tòa sẽ làm bùng phát cuộc chiến tranh du kích trên toàn nước Nhật và làm sống lại chính quyền quân phiệt.

                MacArthur càng quyết tâm đối xử Nhật hoàng với lòng tôn trọng – đi ngược lại lời khuyên của các bộ tham mưu của ông, vốn muốn cưỡng bách triệu ông đến trình diện ở tổng hành dinh Đồng minh để thị uy. “Làm như thế,” vị tướng nói, “sẽ gây phẫn nộ trong dân chúng Nhật và khiến Nhật hoàng trở thành một thánh tử đạo trong mắt họ. Không, tôi sẽ đợi và lúc nào đó Nhật hoàng sẽ tình nguyện đến gặp tôi. Trong trường hợp này, sự nhẫn nại của phương Đông hơn là sự hấp tấp của phương Tây sẽ phục vụ mục đích chúng ta tốt nhất.”

                Trực giác của MacArthur đã đúng. Hai tuần sau khi Tojo toan tính tự tử, đích thân Nhật hoàng yêu cầu được diện kiến. Mặc áo đuôi tôm, quần dài kẻ sọc, mang giày có nút và đội mũ chóp, ông đi xe đến sứ quán Mỹ với Tổng quản Fujita. Ông bước xuống chiếc limousine cũ và được tiếp đón và chào tay bởi Tướng Fellers. Khi Fellers hạ cánh tay xuống, Nhật hoàng nắm lấy. Một thông dịch viên trẻ giải thích là Nhật hoàng hân hạnh được gặp vị tướng.

                “Tôi lấy làm vinh dự được gặp ngài,” Fellers đáp lại. “Mời ngày vào gặp Tướng MacArthur.” Nhật hoàng rụt rè cho Fellers hộ tống vào sứ quán và lên bậc thang rộng đến văn phòng MacArthur trên tầng hai.

                Để Nhật hoàng thoải mái MacArthur nhắc lại mình đã được giới thiệu với Thái thượng hoàng, Hoàng đế Taisho, sau cuộc chiến tranh Nga-Nhật, rồi tế nhị cho ra ngoài những người khác trừ người thông dịch viên. Họ ngồi xuống trước một lò sưởi đang cháy không biết là phu nhân của vị tướng và đứa con trai trẻ, Arthur, đang nhìn trộm họ sau bức màn nhung. Vị tướng chìa điều xì gà Mỹ mời, và nhà vua đón lấy với lời cảm ơn, bàn tay run run khi MacArthur châm lửa.

                Lời khuyên cuối cùng của Kido đến Nhật hoàng trước khi ngài đi đến sứ quán là không được nhận lấy trách nhiệm đã gây chiến, nhưng bây giờ ngài lại làm đúng điều ấy. “Tôi đến ngài, Tướng MacArthur, để nhận lãnh sự phán xét của các cường quốc mà ngài đại diện như là người chịu trách nhiệm duy nhất cho mọi quyết định quân sự và chính trị được đưa ra và những hành động gây ra bởi nhân dân tôi trong việc tiến hành chiến tranh.”

                MacArthur xúc động, như sau đó ông kể lại tình huống này, “đến tận xương tủy. Ông ta là một Nhật hoàng theo huyết thống, nhưng ngay lúc đó tôi hiểu rằng mình đang đối diện với Đệ nhất Quý ông của nước Nhật theo đúng nghĩa.”   

 

2

                Thế chiến II đã qua, nhưng nó đã để lại sau nó nhiều vấn đề hơn là nó đã giải quyết. Á châu, trong sự vùng dậy rông khắp, đang cỡi bỏ xiềng xích của sự đô hộ phương Tây. Chiến tranh biến đổi từ mối xung đột toàn cầu thành những cuộc tranh đấu giải phóng dân tộc manh mún.

                Mỉa mai thay, một trong những mục tiêu được Nhật Bản khao khát nhất đang được hoàn thành. Á châu cuối cùng đã tự giải phóng khỏi người da trắng. Anh đã mất Miến Điện và đang bị đẩy khỏi Ấn Độ. Trong vùng Đông Ấn của Hà Lan Achmed Sukarno và Mohammed Hatti, đã ủng hộ người Nhật trong cuộc chiến, đang nổi lên một phong trào giành độc lập đang thắng thế.

                Ở Trung Quốc cuộc chiến tranh giành quyền lực đã nổ ra giữa những người Cộng sản và và phe Quốc dân Đảng do phương Tây yễm trợ. Với tài sản bị tiêu hủy và mất cả vốn liếng, kỹ nghệ của Trung Hoa Dân quốc bị ách tắc. Giá cả tăng vọt gấp 2000 lần so với hồi năm 1937; trên thị trường hối đoái ngoại quốc tiền tệ Trung Quốc đã rớt giá 70% trong vòng một tháng sau khi Nhật đầu hàng. Tình trạng lạm phát đặc biệt quét sạch giai cấp trung lưu của Trung Hoa và khiến giới trí thức bị vỡ mộng. Bị bao vây bởi những khó khăn như thế, những người Quốc Gia không thế đáp ứng được yêu cầu của nhân dân, và không giống như những người Cộng sản, họ không muốn phân chia đất đai. Vì dân nghèo không còn gì có thể tệ hơn, hi vọng cuối cùng của Trung Hoa là Mao.

                Cải cách ruộng đất cũng là nền tảng của chính quyền mới ở Đông Dương. Trong chiến tranh Việt Minh (Phong trào Độc lập), do Hồ Chí Minh, một người Cộng sản, lãnh đạo, đã chiến đấu với người Pháp và Nhật với tình cảm và sự hỗ trợ của Vương quốc Anh và Hoa Kỳ, xuất hiện như là một phong trào quốc gia lấn áp trong xứ. Hòa bình mang lại sự thoái vị của một hoàng đế tay chơi, Bảo Đại, và Việt Minh tuyên cáo một quốc gia mới, Cộng hòa Dân chủ Việt Nam, với Tuyên ngôn Độc lập vay mượn từ Mỹ. Nhưng Hoa Kỳ, vốn đã cam kết sự độc lập cho Đông Dương trong chiến tranh, đã thay đổi chính sách của nó. Vào ngày 24/8/1945, Tổng thống Truman thông báo với Tướng de Gaule là ông ta tán thành việc trả lại Đông Dương cho Pháp. Trong kỳ tổng tuyển cử đầu tiên của cộng hòa, vào tháng 1 năm 1946, Việt Minh chiếm đa số trong quốc hội mới, nhưng binh lính Pháp trong xứ, với lực lượng tăng viện từ Pháp được chở bằng phương tiện vận tải của Mỷ, tiến chiếm Saigon, và Bảo Đại cuối cùng được phục hồi làm vua. Các chính phủ bù nhìn cũng được dựng lên ở Cambodia và Lào, và tất cả những chính phủ này được Hoa Kỳ công nhận.

                Sự ủng hộ của người Mỹ vào chính sách thực dân của Pháp chỉ ra rằng các nhà lãnh đạo của nó dự định đi theo chính sách Đông Suez cổ lổ của người Anh – quyền tự quyết cho các  quốc gia Âu châu nhưng không cho Á châu – cho rằng người Á châu không biết được điều gì là tốt nhất cho họ và cho an ninh thế giới. Mỹ còn không biết rằng mình đã tiêu tốn xương máu và của cải giúp chiến thắng hai cuộc chiến khác hẳn nhau: một cuộc chiến chống Phát xít ở Âu châu, và cuộc chiến khác chống những khát vọng của Á châu. Và tiến trình của lịch sử thế giới sẽ được xác định không sao tránh được trong hai, ba, có thể bốn thập kỷ sau.

                Vài tháng sau chiến tranh một tiều phu già, gương mặt hằn những nếp nhăn của năm tháng, dừng lại trước Trụ sở Dai Ichi, tổng hành dinh mới của MacArthur. Cắp trên lưng ông là một bó củi khô ngất ngưởng. Trước tiên ông lão cúi đầu thật thấp trước cờ hiệu của MacArthur, rồi ông quay về phía Hoàng cung bên kia quảng trường và cũng cúi chào thật thấp như thế. Những người Mỹ gần đó nhìn cảnh tượng đó với vẻ vui thích khó hiểu như thế ông là một nghịch lý sống của phương Đông bí ẩn. Nhưng người Nhật chứng kiến cảnh đó thì có thể hiểu được. Ông lão đang nhìn nhận mà không dè dặt quyền lực thế tục của vị shogun [tướng quân] thời nay trong khi vẫn tôn kính những gì vĩnh cữu bên kia đại lộ. 

17.png

1819


 

Bình luận về bài viết này