MẶT TRỜI MỌC- Sự Suy Thoái và Sụp Đổ của Đế Chế Nhật Bản 1936-1945 (Phần 7)

PHẦN VII

Bên Kia Đoạn Kết Đắng Cay

aa-2-1.png

Tác giả John Toland

Trần Quang Nghĩa dịch

25 . “Cơ Hội Bằng Vàng của Chúng Ta”

 

1.

                Một cuộc chiến tương đối không được quảng bá đang tiếp diễn ở Trung Hoa và Miến Điện gây thất vọng và khổ sở cho cả mọi bên – có nhiều hơn là hai bên – cũng như hàng trăm triệu dân thường bị kẹt trong cơn hỗn loạn. Chiến đấu trên một lãnh thổ rộng lớn, đó là một cơn ác mộng ý thức hệ và địa lý.

                Người Anh đã bị đánh đuổi một cách nhục nhã ra khỏi Miến Điện vào đầu năm 1942 và những nỗ lực của họ quay trở về chỉ đạt được thành công giới hạn; những trận đánh phá của người Mỹ và Trung vào phần lãnh thổ do Nhật chiếm đóng cũng không mang lại nhiều kết quả. Nhưng vào cuối năm 1944 tham vọng vô độ đã đẩy người Nhật đến điểm thảm họa ở Miến Điện. Ước mơ của họ là lật đổ Ấn Độ, cái bệ lung lay của chủ nghĩa đế quốc Anh, với sự yễm trợ của Lục quân Quốc gia Ấn của Chandra Bose. Bàn đạp đầu tiên là Imphal, một thành phố chiến lược cách biên giới Miến Điện 50 dặm về phía tây. Nó không chỉ là cánh cổng đến Ấn Độ nhưng việc chiếm đóng nó sẽ có giá trị tuyên truyền vô bờ và một niềm cảm hứng cho mọi người chống chủ nghĩa đế quốc.

                Trong nhiều tháng giới lãnh đạo quân sự Nhật ở Miến Điện, cố nuốt trôi lệnh phải duy trì việc phòng thủ, đã yêu cầu được xâm chiếm Ấn Độ. Lời kêu gọi này, và lời kêu gọi của Chandra Bose, cuối cùng cũng được lưu ý tới: vào đầu năm 1944 bộ Tư lệnh Hoàng gia ra lệnh cho Quân đoàn 15 phong tỏa “những vùng sống còn ở đông bắc Ấn vùng lân cận Imphal.” Chỉ huy của nó, Trung tướng Renya Mutaguchi, coi việc đánh chiếm Imphal là bước đầu tiên trong một chuỗi những hành động thọc sâu vào Ấn Độ. Sở dĩ ông có quan điểm này là lấy cảm hứng từ một đối thủ, Đại tá Orde Charles Wingate, một nhân vật cứu tinh mà các binh sĩ của ông đã quấy nhiễu các chỉ huy Nhật ở Miến Điện bằng nhiều cú đâm thọc không chính thống phía sau chiến tuyến. Dù trước đây chống đối với các kế hoạch xâm chiếm Ấn Độ, Mutaguchi đã rất ấn tượng trước những trận đột kích của Wingate. Nếu một người Anh có thể đem binh lính qua vùng núi non, rừng rậm hiểm trở, thì ông ta cũng có thể, và với một lực lượng lớn hơn nhiều. Nhưng dẫn một nhóm du kích được huấn luyện đặc biệt vào những địa thế như thế là một chuyện; còn lãnh đạo một đạo quân lại là chuyện khác.

                Đại tá Tadashi Katakura, sĩ quan hành quân của Mutaguchi, đánh giá các trở ngại: có những con sông kinh khủng và núi non hiểm trở phải vượt qua; hơn nữa, Quân đoàn 15 chưa sẵn sàng một cách hợp lý để thực hiện một chiến dịch dài ngày, cam go với tình trạng thiếu thốn lương thực, quân nhu và vật liệu y tế. Katakura nhấn mạnh đầy sức thuyết phục những nỗi e dè của mình – ông vẫn không mất chút tính bộc trực nào kể từ khi bị bắn vào cổ trong Biến cố 2/26 vì chống đối phe nổi loạn – nhưng Mutaguchi không thể bị thuyết phục để thay đổi các kế hoạch.

                Vào ngày 8/3, 1944, ba sư đoàn yễm trợ của Nhật và một sư đoàn của Quân đội Quốc gia Ấn Độ của Bose – 155,000 binh lính tất cả – vượt Sông Chindwin và lao qua vùng núi chia cách hai xứ sở. Trên đất Ấn những binh sĩ của Bose cúi xuống hôn lên mảnh đất quê hương của họ. Vừa hô “Jai Hind! Jai Hind!,” vừa tiến lên về hướng Kohima, một thành phố cách Imphal 80 dặm về phía bắc, chắn ngang con đường tiếp tế của Anh. Tại đó họ sẽ quay về nam và hành quân đến Imphal, theo sau là Sư đoàn 31 sau khi nó đã khuất phục Kohima. Hai sư đoàn Nhật khác hướng thẳng đến Imphal.

                Vị chỉ huy tài giỏi nhất trên bộ trong miền Viễn Đông, Trung tướng William J. Slim của Quân đoàn 14 Anh-Ấn, cho rằng Mutaguchi sẽ đánh chiếm Imphal – với có lẽ một lữ đoàn đánh nghi binh vào Kohima – và chờ đợi nghênh chiến trong một “tâm trạng hơi tự mãn.” Kế hoạch của ông là để cho người Nhật tiến đến ven Đồng bằng Imphal và khi họ “lao vào tấn công những vị trí đã chuẩn bị của chúng ta,” ta sẽ phản công với toàn bộ lực lượng và tiêu diệt họ.

                “Lòng tôi nặng trĩu,” ông viết sau đó, khi ông hay tin quân địch tung đến hai sư đoàn hùng mạnh tấn công Kohima. Việc này không chỉ đặt một thành phố đồn lũy quan trọng vào tình thế nguy khốn mà còn đe dọa căn cứ tiếp tế duy nhất của quân đội ông và ga tiếp tế ở Dimapur, cách khoảng 30 dặm về phía tây bắc. Ông ra lệnh tiếp viện ngay lập tức. “Khi tôi nỗ lực khắc phục những lỗi lầm của mình và gởi tiếp viện bằng tàu hỏa và máy bay tôi biết rằng tất cả phụ thuộc vào sức chống trả ngoan cường của binh lính đang đương đầu với mũi tấn công đầu tiên. Nếu họ có thể giữ vững cho đến khi tiếp viện đến, tất cả sẽ ổn; nếu không chúng tôi sẽ đến gần thảm họa.” điều Slim sợ hơn hết là quân Nhật sẽ bỏ qua Kohima và tiến quân bằng xe hỏa. Một tuyến cứu cấp được xây dựng trên Sống đất Kohima để phong tỏa con đường đến Dimapur. Nhân sự được vét sạch từ các lực lượng hành chính địa phương; 500 bệnh nhân đang dưỡng bệnh được trang bị vũ khí và bố trí ra tuyến.

                Nhưng tư lệnh Sư đoàn 31, Trung tướng Kotoku Sato, chỉ huy các lực lượng của mình ở Kohima, tại đó các lực lượng phòng thủ kháng cự quá kiên cường – họ bị đẩy lùi vào một ngọn đồi duy nhất – đến nỗi chỉ có một mình binh lính của Quân đội Quốc gia Ấn quay nam hướng về Imphal. Trên các sườn đồi dốc phía nam và tây của thành phố đó, hai sư đoàn Nhật khác đã dựng lên một hệ thống đáng sợ những bun-ke bằng gỗ và đất, sẵn sàng phát động trận tấn công phối hợp của họ.

                Vào ngày 18/4 chỉ huy của lực lượng Ấn báo cáo một tin không thể tin được là con đường dẫn đến Imphal chỉ được phòng thủ sơ sài, các đơn vị tiền phương của nó chỉ cách thành phố “một khoảng cách ném đá.” Chiến thắng đã gần kề; Bose đã chuẩn bị sẵn những bao giấy bạc mới để lưu hành. Nhưng giấc mơ của ông bị tan vỡ khi Sato, nay bổng tìm thấy ở Kohima nhiều hơn những gì ông đã mặc cả, từ chối đi theo Bose đến Imphal. Thay vào đó ông tùy tiện ra lệnh cho binh lính chuẩn bị trở về Miến Điện. Ông được phép miệng là có thể rút lui nếu không được tiếp tế thêm lương thực và đạn dược vào giữa tháng 4.

                Bose nổi giận – không có Sato yễm trợ cho mũi tấn công, quân Ấn không thể nào xông vào đánh chiếm Imphal. Ông chắc chắn đó là một âm mưu của Quân đoàn 15 và lên án người Nhật đã cố tình tước đoạt của người Ấn thắng lợi đầu tiên  có ý nghĩa trên xứ sở mình. Mutaguchi cũng nổi giận với Sato (và tước bỏ quyền chỉ huy của ông ta), nhưng không có cách giải thích nào làm Bose hài lòng.

                Người Nhật ở Imphal đã sẵn sàng tấn công, và yêu cầu Bose đọc một bài phát biểu truyền thanh vào ngày sinh nhật Thiên hoàng, dâng tặng ngài Imphal làm món quà sinh nhật. Bose nổi giận. Ông cực lực chống đối bất kỳ việc đánh chiếm Ấn Độ nào mà không được lãnh đạo bởi Quân đội Quốc gia Ấn. Ông lập luận rằng sự xuất hiện của binh lính Ấn sẽ làm bùng lên những cuộc nổi dậy trên khắp quốc gia, trong khi những người xâm lăng Nhật sẽ chỉ khiến hàng ngàn người Ấn ngả về phía người Anh.

                Việc tranh cãi cho Tướng Slim một thuận lợi kép: nó chia rẽ quân địch và thêm thời gian cho lực lượng tiếp tế đến được Imphal bằng xe hỏa và máy bay. Người Nhật đang hội tụ vào thành phố bằng sáu con đường, nhưng lực lượng phòng thủ, với sự yễm trợ không lực mạnh mẽ, giữ vững tất cả cứ điểm. Trận đánh tiêu hao tiếp tục bất phân thất bại hết tuần này đến tuần khác. Cả hai chỉ huy sư đoàn Nhật đều buộc phải tin rằng sẽ không thể áp đảo Imphal, và thậm chí một người còn bắt đầu rút quân dù chưa có lệnh.

                Phó Tổng tham mưu trưởng Lục quân Hikosaburo Hata – được Đại tá Sugita và các sĩ quan tham mưu khác tháp tùng – đến tiền tuyến để thị sát; họ trở về Tokyo với những kết luận nản lòng cho Tojo: “Có ít chắc chắn là chiến dịch Imphal sẽ thành công.”

                Tojo quay sang Hata, lên án ông ta chủ bại. Thủ tướng đã trông cậy vào sự thành công của chiến dịch U để lái sự chú ý của công luận ra khỏi sự thất trận thảm thương tại Quần đảo Marshall ở Thái Bình Dương. Ông quá sốc vì thất vọng đến nỗi những lời mỉa mai của ông hướng đến cả Hoàng thân Mikasa, em của Thiên hoàng, đang ngồi ngay trước mặt Hata, và một cơn ớn lạnh tràn ngập gian phòng. Hata vẫn im lặng. “Nếu tôi là Hata,” Đại tá Tanemura viết trong nhật ký của mình, “tôi đã lột quân hàm và đánh ông ta một trận.”

                Vào ngày 5/6 Mutaguchi gặp cấp trên của mình, Tướng Masakazu Kawabe, tư lệnh Quân đoàn Khu vực Miến Điện. Mutaguchi đã bắt buộc phải cách chức cả ba chỉ huy sư đoàn của mình – một điều chưa từng nghe nói trong quân sử Nhật Bản (một người vì bất tài, một người vì bệnh tật, và người thứ ba vì bất tuân thượng lệnh) và đầu lưỡi ông thì muốn tuyên bố thời điểm đã đến để hoãn lại Chiến dịch U. Nhưng ông không thể nói ra. “Tôi hi vọng.” Mutaguchi sau đó nhớ lại, “là Tướng Kawabe cũng nhận thức trong im lặng những gì trong lòng tôi.”

                Kawabe không mẫn cảm như thế. “Số phận của Chandra Bose là của tôi và cũng như của ông ấy,” ông viết trong hồi ký của mình. “Do đó tôi phải phụ giúp Mutaguchi bằng bất cứ cách nào trong quyền hạn của mình. Tôi không ngừng tự nói với mình như thế.”

                Ngày tiếp sau buổi họp này người Anh chiếm lại Kohima, sau 64 ngày đánh nhau ác liệt nhất trong cuộc chiến. Một lực lượng Nhật và Ấn còn bám giữ con đường đến Imphal, nhưng trong vòng hai tuần người Anh đã đập tan và bắt đầu bắt tay giúp đỡ những đồng đội cùng quẫn của mình.

                Những khó khăn của Mutaguchi càng trầm trọng hơn khi mùa mưa đến. Những trận mưa dai dẳng đổ xuống như trút, xóa sạch những con đường mòn trong rừng đi về Miến Điện. Chỉ có một trong số ba sư đoàn của ông mang đủ đồ tiếp tế lương thực; các sư đoàn khác phải sống sót bằng cỏ, khoai tây, ốc sên, cắc ké, rắn, cóc nhái – bất cứ thứ gì bỏ vào miệng được, kể cả khỉ.

                Mutaguchi còn không thể mở miệng xin Kawabe cho phép rút quân nhưng gợi ý gần như vậy. “Nếu chiến dịch phải đình hoãn và lục quân phải chuyển sang phòng thủ,” ông viết, “tốt hơn là lục quân rút về chiến tuyến chạy từ cao nguyên ở bờ phải Sông Chindwin qua cao nguyên về phía tây bắc Mawlaik đến vùng Tiddim.

                Phúc đáp của Kawabe không nhượng bộ: ông ta hi vọng Quân đoàn 15 hãy thi hành nghĩa vụ một cách hăng hái và chiến đấu quyết liệt hơn nữa. Nhưng sĩ quan tham mưu cao cấp của ông đã lên đường đến Manila với lời thỉnh cầu Thống chế Terauchi xin đình chỉ chiến dịch. Terauchi tán thành nhưng lệnh chỉ đến tay Mutaguchi vào 9/7. Bốn ngày sau binh lính bắt đầu rút lui về hướng Sông Chindwin. Trên con đường mòn dài trở lại vùng núi trong mùa mưa lũ, binh lính đánh nhau vì giành giựt lương thực. Hàng ngàn bệnh binh, thương binh bị bỏ lại trên đường đi và phải tự sát bằng lựu đạn. Đường đi là một biển bùn lầy và ai lỡ ngã xuống sẽ bị ngập nửa người trong chất bùn đặc sệt; giày bị mất trong bùn đối với những ai không đủ sức rút chân lên. Súng máy nhẹ, súng trường, mũ sắt, mặt nạ chống hơi độc – bất cứ thứ gì vô dụng – vương vải khắp trên đường. Chỉ có ý chí muốn sống mới thúc đẩy những người sống sót; binh lính lê bước với gậy chống nhặt dọc đường, và những ai vượt qua được  một ngày đi bộ sẽ túm tụm bên nhau để trải qua một giấc ngủ chập chờn vì cơn mưa xối xả dai dẳng. Nhiều người chết chìm, quá yếu để có thể ngóc đầu lên khỏi mặt nước đang dâng

cao, và chính Sông Chindwin, đích đến của họ, vẫn lấy thêm mạng sống của hàng trăm người trong làn nước cuồn cuộn của nó.

                Tất cả có 65,000 người chết – nhiều gấp hai lần rưỡi số người thiệt mạng trên Guadalcanal, và khoảng gần số người hi sinh trên Leyte. Mutaguchi, tham mưu trưởng và các sĩ quan tham mưu cao cấp đều bị cách chức, cũng như Kawabe và tham mưu trưởng của ông. Việc Quân đoàn 15 bị vỡ tan và tái cơ cấu ban chỉ huy đã ảnh hưởng xấu đối với mọi đơn vị khác ở Miến Điện, và vào cuối năm việc cai trị của người Nhật ở đó đang đến điểm sụp đổ.

 

2.

                Ở Trung Hoa, cuộc chiến nhiều bên, rối rắm vẫn tiếp tục là một nỗi thất vọng đối với mọi bên liên quan trừ những người Cộng sản. Người Nhật đã chinh phục một vùng rộng lớn ở đông Trung Hoa nhưng vẫn không tiến gần hơn đến một giải pháp chung cuộc cho cuộc chiến dai dẳng thống khổ đó trong một xứ sở đầy bí ẩn đó. Mặc dù họ chiếm thành phố quan trọng này đến thành phố quan trọng khác, nó như dã tràng xe cát [nguyên tác: đào đường hầm trong cát: ND]; và chính phủ bù nhìn Nam Kinh của Uông Tinh Vệ không thể củng cố những thắng lợi sau khi quân đội Nhật rút đi. Người Nhật thống trị bờ biển, sông ngòi, đường xe hỏa và xa lộ, nhưng trên vùng lãnh thổ mênh mông ở giữa, một trận chiến khác vẫn tiếp tục giữa những người Trung với nhau. Tưởng Giới Thạch đánh với Mao Trạch Đông để giành quyền kiểm soát trong khi các lãnh chúa đứng về phe nhóm nào đánh thắng.

                Trung Hoa gây ra mối bất hòa. Trung tướng Joseph W. Stilwell, chỉ huy tất cả lực lượng Mỹ ở Trung Hoa, vẫn không ngừng hiềm khích với Chennault, chỉ huy Không lực 14, phát triển lên từ Nhóm Tình nguyện Mỹ, nhóm Phi Hổ. Họ thường tranh cãi về chính sách của nhân vật mà Stilwell dè bĩu gọi là “Đậu Phọng” – Tưởng. Trong một loạt những thông điệp lăng mạ gởi về Washington, Stilwell lên án rằng hàng viện trợ gởi đến Trung Hoa đã bị Quốc dân đảng sử dụng phung phí một cách vô tội vạ; hơn nữa, quân đội của Tưởng cố tình sử dụng quân nhu ít như có thể chống lại quân Nhật, vì “Đậu Phọng” có chủ trương tiết kiệm nhân lực và đồ tiếp tế dành cho trận đương đầu hậu chiến với Mao.

                Điều này, nói chung, là sự thật. Kể từ Hội nghị Cairo lần thứ hai, khi Tưởng cảm thấy rằng quyền lợi sống còn của ông bị Roosevelt phản bội do ảnh hưởng của Churchill, binh lính Quốc gia đã cầm cự một cách thụ động trong cuộc chiến với người Nhật. Trong vài vùng lãnh thổ đã có những cuộc hưu chiến thực sự giữa Quốc dân đảng và quân Nhật kéo dài hơn hai năm. Một sĩ quan Trung Quốc tại một căn cứ không quân ở Hồ Bắc, chẳng hạn, bảo vệ ý kiến không bắn các máy bay Nhật bay qua với lý lẽ là nếu người của mình làm vậy, “bọn Nhật sẽ nổi giận trả thù và quay lại đánh bom thành phố và gây rất nhiều thiệt hại.” Một sĩ quan khác của Tưởng lập luận rằng người Trung Quốc không cần thiết tấn công người Nhật vì sớm muộn rồi người Mỹ cũng sẽ bao vây nước Nhật và khi đó quân Nhật sẽ tự động rút lui mà không cần đánh nhau, và như thế tốt hơn để họ yên, và hòa thuận tốt như có thể.”

                Mặc dù sự phẫn nộ của Stilwell là có cơ sở, nhưng ông không chịu hiểu rằng các lực lượng Quốc dân đảng đã đáp lại sự hỗ trợ của chính sách Thuê-Mượn của Mỹ  bằng việc cầm chân gần một triệu quân Nhật để họ không thể sử dụng chống lại MacArthur và Nimitz. Theo đó, Tưởng không chỉ bất mãn thái độ của Stilwell mà còn thấy mình bị lợi dụng cho người Cộng sản Mỹ tuyên truyền, dán cho Thống tướng nhãn hiệu một tên phát xít và xây dựng hình ảnh của Mao như một nhà cải cách nông nghiệp, chứ không phải là một người Cộng sản chính cống. “Tin tưởng một cách sai lầm là các lực lượng Cộng sản Trung Quốc, nếu đặt dưới  quyền chỉ huy của ông ta [Stilwell], sẽ tuân thủ mệnh lệnh của ông ta và toàn tâm toàn ý đánh quân Nhật,” Tưởng viết, “ông ta cam đoan với tôi là Chính quyền có thể tái vũ trang cho họ một cách an toàn trên căn bản như cho các lực lượng của Chính quyền và cho họ quyền tự do chiến đấu chống Nhật từ những nơi mà họ bị bức bách bởi sự phong tỏa của Chính quyền. Hơn nữa, Chính quyền, ông ta chỉ ra, nhờ đó có thể thuyên chuyển các lực lượng sử dụng trong nhiệm vụ  phong tỏa để triển khai lại trong mặt trận chống kẻ thù chung. . . Sự bất hòa sau đó giữa Stilwell và tôi hoàn toàn do bọn Cộng sản và những người cảm tình viên của họ bày mưu giật dây. Điều đó gần như gây ra sự tan vỡ việc hợp tác quân sự Trung-Mỹ trên Chiến Trường Trung Quốc-Miến Điện.”

                Chennault tán thành cách đánh giá này cũng như viện dẫn là Stilwell bỏ qua quá nhiều thì giờ chơi trò người lính ở Miến Điện, nơi đó ông thường mất hút trong rừng hàng tuần, tay cầm khẩu súng trường. Giờ đây hai chỉ huy người Mỹ ít khi hòa thuận với nhau. Là một người xiển dương cho việc đánh nhau trên bộ, Stilwell cho rằng ý tưởng đánh nhau trên vùng trời Trung Quốc là khôi hài. Chiến tranh thắng bại được quyết định trên mặt đất. Nhiều tháng trời cả hai đấu khẩu nhau về những hàng tiếp tế cho Không lực Hoa Kỳ 14. Chán nản, Chennault viết những bức thư riêng cho Roosevelt phàn nàn là ông không nhận được những công cụ như đã hứa; dù vậy, các chiếc B-24 và chiến đấu cơ của ông đã tạo ra những điểm sáng duy nhất ở Trung Hoa với những trận đột kích hiệu quả vào tàu vận tải và tuyến đường giao thông của Nhật.

                Như Stilwell, dù ở một mức độ nhỏ hơn, Roosevelt cũng đang trở nên mất kiên nhẫn với người Quốc gia, và như Stilwell, ông quan tâm chủ yếu đến Miến Điện. Vào đầu năm 1944 ông thúc giục Tưởng và Stilwell tiến hành một mũi tấn công rầm rộ vượt qua Sông Salween vào Miến Điện. Tưởng thắc mắc về tính ưu tiên của một chiến dịch như thế; ông lo lắng nhiều hơn về người Nhật ở Trung Hoa. Sự miễn cưỡng của ông càng làm cho Roosevelt yêu sách mạnh mẽ hơn – nhưng vẫn không có kết quả. Mũi tấn công bất ngờ của Mutaguchi vượt qua biên giới Ấn Độ về hướng Imphal kết thúc cuộc tranh cãi đối với Roosevelt. Vào ngày 3 tháng 4 ông điện cho Tưởng một lời hăm dọa ẩn ý sẽ cắt đứt viện trợ Thuê-Mượn trừ khi một quân đoàn Quốc dân đảng tấn công dọc theo Con đường Miến Điện trong tương lai gần:

                . . . ĐỐI VỚI TÔI THỜI GIAN ĐÃ CHÍN MÙI CHO CÁC ĐẠO QUÂN CỦA QUÂN ĐOÀN 71      CỦA NGÀI TIẾN ĐÁNH KHÔNG ĐÌNH HOÃN THÊM NỮA VÀ CHIẾM NHỮNG VÙNG          TENGCHUNG-LUNGLING. MỘT LỚP VỎ BỌC CỦA MỘT SƯ ĐOÀN KHÁNG CỰ NGÀI Ở                THE SALWEEN. CUỘC TIẾN QUÂN CỦA NGÀI VỀ PHÍA TÂY KHÔNG THỂ KHÔNG   THÀNH CÔNG.

                ĐỂ LỢI DỤNG NGAY CƠ HỘI NHƯ THẾ, TRONG NĂM QUA, CHÚNG TÔI ĐÃ TRANG BỊ       VÀ HUẤN LUYỆN LỰC LƯỢNG THIỆN CHIẾN CỦA NGÀI [Các sư đoàn Vân Nam]. NẾU    HỌ KHÔNG ĐƯỢC SỬ DỤNG VÀO CHÍNH NGHĨA CHUNG THÌ NHỮNG NỖ LỰC CAM            GO VÀ LÂU DÀI CỦA CHÚNG TÔI NHẰM CHỞ VÀO ĐỒ TIẾP TẾ VÀ CUNG CẤP NHÂN                SỰ HUẤN LUYỆN ĐÃ HÓA RA VÔ ÍCH . . .        

                Tưởng Giới Thạch không trả lời chính thức thông điệp này nhưng trong vòng hai tuần Bộ trưởng Chiến tranh và Tham mưu trưởng, Tướng Hà Ứng Khâm, tán thành một trận tấn công vượt qua Salween. Chennault, cũng là người giữ chức Tham mưu trưởng của Không lực Trung Quốc, nhìn thấy một mối đe dọa lớn hơn cho chính Trung Hoa. Ông cảnh báo với Tưởng là người Nhật chuẩn bị tiến hành tấn công vào các căn cứ không quân của Mỹ nằm phía đông nam của thủ đô phe Quốc gia, Trùng Khánh. “Trong những tình huống như thế, do đó,” ông viết, “tôi cần báo cho ngài biết là các lực lượng không quân phối hợp ở Trung Hoa, không kể dự án VLR [B-29], có thể không giữ vững trước cuộc không kích của Nhật sắp tới và chắc chắn không thể cung ứng việc yễm trợ trên không cho các bộ binh Trung Quốc trên các lãnh thổ và theo một qui mô mong muốn. Để tạo cho các lực lượng không quân khả năng  hoàn thành các sứ mạng này, những biện pháp quyết liệt nhằm cung cấp cho họ đủ trang bị và đủ sức mạnh phải được thực hiện. Vì những mối đe dọa của quân Nhật đang đến gần, các biện pháp này phải được thực hiện ngay không chậm trễ.”

                Ông cũng gởi một cảnh báo tương tự cho Stilwell, và được ông ta trả lời là mối đe dọa Imphal có ưu tiên hơn trong chiến trường Trung Quốc-Miến Điện và, do đó, Không lực 14 của Chennault phải chấp nhận giảm thiểu đồ tiếp tế; “đơn giản là cắt giảm” các hoạt động của nó. Chennault phẫn nộ. Một tuần trước đây ông đã viết cho Stilwell là ông tin rằng an ninh của Trung Hoa coi như là nền tảng cho các chiến dịch quân sự tương lai chống lại Nhật Bản đang gặp lâm nguy. Trong đó ông dự đoán rằng, vì nhân lực và tài lực giảm sút trong mặt trận Thái Bình Dương, Nhật Bản sẽ bỏ rơi nhiều vùng lãnh thổ xa xôi để củng cố phòng tuyến nội địa. Do đó họ sẽ vô hiệu hóa các căn cứ Trung Quốc Đồng minh ở sườn phía đông và phòng thủ Đài Loan, chìa khóa của cuộc phòng thủ bên trong của họ.

                Cùng lúc đó ông gởi một lời kêu gọi có tính cá nhân khác đến Roosevelt; một trận tấn công vào phía đông Trung Hoa đang đến gần và ông không tin là nó có thể chống giữ được.

                Đánh giá của Chennault về các chủ định của Nhật hoàn toàn chính xác. Tokyo đã ra lệnh tư lệnh Quân đoàn Viễn chinh Trung Quốc đánh chiếm các sân bay Trung Quốc ở phía đông và ba tuyến đường sắt quan trọng trong khu vực. Chiến dịch, mang tên ICH-GO, được phân chia thành hai giai đoạn. Giai đoạn đầu tiên nhằm phân tán các lực lượng Trung Quốc, “đặc biệt bọn Quốc gia,” giữa Sông Hoàng Hà và Sông Dương Tử, và chiếm các tuyến đường sắt từ Nam Kinh đi Hán KHẩu. Sau đó, 11 sư đoàn cùng một số sư đoàn dự bị khác sẽ vượt

Sông Dương Tử và tiếp tục tiến về phía tây nam, trước tiên chiếm Trường Sa và Hành Dương ở tỉnh Hồ Nam, rồi tới Quế Lâm, Liễu Châu và Nam Ninh ở tỉnh Quảng Tây. Chiếm đóng thành phố cuối cùng này sẽ vô hiệu hóa hai sân bay của Không lực 14.

                Trước chiến dịch ICH-GO một chiến dịch tuyên truyền mạnh mẽ được phát động nhằm cách ly Trung Hoa khỏi các đồng minh Tây phương và hạ thấp tinh thần chiến đấu của binh sĩ Quốc dân đảng. Các bao tài liệu tuyên truyền tuyên bố rằng kẻ thù của Nhật là lực lượng Anh-Mỹ, chứ không phải quân đội Trung Quốc, và mục tiêu của người Nhật là thành lập một nước Trung Quốc mới. Nếu người Trung không kháng cự họ sẽ được đối xử như bạn bè. Binh sĩ Nhật, hơn nữa, nhận mệnh lệnh nghiêm nhặt ngưng đốt phá, cướp bóc, hảm hiếp; họ phải “đối xử với cư dân địa phương với lòng tốt và sự tôn trọng.” Binh lính được dạy một hành khúc mới:

                                Giữ gìn yêu quí cây cỏ,

                                Đoàn quân Nhật tiến bước qua tỉnh Hồ Nam.

                                Tấm lòng họ tử tế xiết bao!

                                Nhìn kìa, mây đó và sông đây

                                Có khác gì như ở quê nhà ta.

                                Phong cảnh này làm lồng ngực nam nhi chúng ta rộn rã.

                                Với giày mòn vẹt họ nhọc nhằn tiến lên,

                                Máu chúng ta đổ xuống lòng đất;

                                Để bảo vệ rừng này và núi đó.

                                Kẻ thù ta là Anh-Mỹ, là phường Bạch Quỷ.

 

                ICHI-GO bắt đầu vào đêm 17/4. Sư đoàn 37 vượt qua Sông Hoàng Hà khi binh lính của Mutaguchi đang quấy nhiễu Kohima. Vậy mà, kỳ lạ thay, không có phối hợp hoặc hợp tác giữa hai chiến dịch. Cùng ngày Stilwell bảo với Chennault là sứ mạng chủ yếu của ông ta là phòng thủ các sân bay B-29 ở Thành Đô, “thậm chí phải bỏ qua việc đánh phá hàng tiếp tế và yễm trợ các lực lượng trên bộ của Trung Hoa.” Chennault muốn tung tất cả máy bay của mình đánh phá quân Nhật đang tiến đến. Phòng vệ Thành Đô, ông điện cho Stilwell, không phải là vấn đề trước mắt, vì nó nằm ở phía tây Trùng Khánh. Đối diện với sự sụp đổ đang đến gần của đông Trung Hoa, Stilwell cho phép Chennault sử dụng các chiếc P-47 vốn được dành cho việc phòng thủ Thành Đô, và ra lệnh cho các B-24 của Nhóm Oanh Tạc 380 chở dầu đến Không lực 14.

                Nhưng sự yễm trợ không lực bổ sung này khó lòng làm chậm bước tiến của quân Nhật. Các quân đoàn Trung Quốc trong vùng đã xuống cấp sau gần bốn năm không đánh đấm. Chennault đổ lỗi cho thất bại của mình là hậu quả có thể lường trước được của các chính sách của Stilwell không cung cấp đủ tiếp liệu hàng không và không tin vào các kế hoạch tấn công của người Nhật.

                Còn Stilwell thì cho là Chennault quá đề cao Không lực 14, dám cam đoan với Tưởng là nếu Không lực 14 được yễm trợ, ông ta có thể ngăn chận việc xâm chiếm của quân Nhật. Nay ông ta biết rằng việc đó không thể làm được, ông ta lại đổ lỗi là vì thiếu một chút tiếp tế mà chúng tôi không gởi tới, nên ông ta phải thất bại. Ông ta đã thất bại trong việc gây tổn  thất cho tuyến đường tiếp tế của địch. Ông ta không khiến cho đơn vị Nhật nào rút lui.

                Không có ấn tượng gì trước cuộc tấn công của 72,000 binh lính Quốc gia vào Miến Điện vào giữa tháng 5, Stilwell chính thức tiếp tục phàn nàn về Tưởng. Cuối cùng ông buộc phải điện cho Marshall:

                TGT [Tưởng Giới Thạch] SẼ VẮT KIỆT CHÚNG TA MỌI THỨ ÔNG TA CÓ THỂ CÓ ĐƯỢC       ĐỂ BẮT CHÚNG TA TRẢ CHO ĐẶC QUYỀN ĐÁNH NHẬT TRÊN KHẮP TRUNG HOA. ÔNG               TA SẼ KHÔNG LÀM GÌ HỖ TRỢ TRỪ KHI BỊ BẮT BUỘC PHẢI LÀM. DÙ CHÚNG TA CÓ                ĐỔ LỖI NHIỀU BAO NHIÊU CHO CÁC BAN NGÀNH CỦA CHÍNH QUYỀN TRUNG QUỐC       GÂY CẢN TRỞ, TRÁCH NHIỆM CUỐI CÙNG VẪN NẰM TRỌN TRÊN VAI CỦA G-MO       [viết tắt của Generalissimo, tức Thống chế Tưởng]. NẾU ÔNG TA ĐÚNG LÀ NGƯỜI                ÔNG TA TỰ PHONG, THÌ ÔNG TA PHẢI NHẬN LẤY TRÁCH NHIỆM . . .                                          VÌ THẾ ĐỐI VỚI NGƯỜI TRUNG QUỐC VIỆC LỰA CHỌN PHẢI THỰC TIỄN VÀ NHẤN            MẠNH ĐẾN VIỆC ĂN MIẾNG TRẢ MIẾNG, HOẶC NÓI KHÁC ĐI GIỚI HẠN NỖ LỰC CỦA                CHÚNG TA Ở TRUNG HOA Ở CHỖ DUY TRÌ LỰC LƯỢNG HÀNG KHÔNG MÀ CHÚNG TA   CÓ THỂ. LỘ TRÌNH TIẾP THEO ĐÂY CHO PHÉP TGT CHẠY LÀNG ĐỐI VỚI NHỮNG THỎA    THUẬN CỦA MÌNH. NÓ CŨNG ĐẶT GÁNH NẶNG ĐÁNH NHAU VỚI NHẬT TRONG TAY     HOA KỲ. TÔI DÁM CHẮC RẰNG TỐI HẬU CHÚNG TA PHẢI ĐÁNH NHAU VỚI QUÂN ĐỘI     NHẬT TRÊN LỤC ĐỊA Á CHÂU. NẾU NGÀI KHÔNG TIN ĐIỀU NÀY, VÀ CHO RẰNG NHẬT           BẢN CÓ THỂ BỊ ĐÁNH BẠI BẰNG NHỮNG CÁCH THỨC KHÁC, THẾ THÌ LỘ TRÌNH THÍCH                 ĐÁNG SẼ LÀ CẮT GIẢM NỖ LỰC CỦA CHÚNG TÔI CHỈ CÒN LÀM NHIỆM VỤ KIỂM SOÁT   KHÔNG LƯU VÀ DUY TRÌ LỰC LƯỢNG KHÔNG QUÂN NÀO CHÚNG TA CHO LÀ THÍCH         HỢP Ở TRUNG HOA. . .

                TÔI XIN NGÀI QUYẾT ĐỊNH. SỨ MẠNG TÔI CÓ THAY ĐỔI GÌ KHÔNG, HOẶC LÀ TÔI CỨ                TIẾP TỤC NHƯ TRƯỚC?

                Phúc đáp của Washington là một cú xốc đối với Stilwell, và chính thức hóa một chính sách đã ấp ủ từ lâu. Chúng tôi đã quyết định là, Marshall trả lời, những chiến dịch ở Trung Hoa và Đông Nam Á sẽ được xác định bởi phần đóng góp của chúng cho các chiến dịch ở trung tâm và tây nam Thái Bình Dương.

                . . . NHẬT BẢN NÊN BỊ ĐÁNH BẠI MÀ KHÔNG CẦN TIẾN HÀNH MỘT CHIẾN DỊCH CHỦ       YẾU CHỐNG LẠI NÓ TRÊN LỤC ĐỊA Á CHÂU NẾU VIỆC ĐÁNH BẠI NÓ CÓ THỂ HOÀN                THÀNH THEO CÁCH NÀY. NHỮNG CHIẾN DỊCH TIẾP THEO CHỐNG LẠI LỤC QUÂN                NHẬT Ở CHÂU Á DO ĐÓ NÊN CHỈ MANG BẢN CHẤT CỦA HOẠT ĐỘNG TRUY QUÉT. . .

                Từ giờ trở đi Trung Hoa chủ yếu là một căn cứ quân sự từ đó mở những trận oanh tạc nội địa Nhật bằng các máy bay B-29. Ý tưởng về Siêu Pháo đài bay được phát khởi từ mối e sợ vào năm 1939 là Anh sẽ bị xâm chiếm, và sẽ không có căn cứ không quân ở châu Âu để

tấn công Đức. Đó là loại máy bay khổng lồ, khiến những chiếc B-17 trông như tí hon. Nó dài 99 bộ và cao gần 28 bộ, với sãy cánh hơn 141 bộ. Nhưng nó mượt mà, da phủ đầy đinh tán và có thể lướt với tốc độ hơn 350 dặm một giờ ở độ cao 38,000 bộ và mang theo 4 tấn bom bay trên quãng đường 3,500 dặm. Ngay từ đầu những người chế tạo nó gặp biết bao rủi ro vì trục trặc kỹ thuật. Một mô hình thực nghiệm bốc cháy trên không, rớt xuống đất và giết chết toàn bộ phi hành đoàn. Chỉ đến mùa hè 1943 mẫu sản xuất đầu tiên mới cất cánh – và mẫu này, thật ra, cũng đầy lỗi kỹ thuật.

                Quần đảo Mariana đã được chọn làm căn cứ để phóng các B-29 oanh kích Nhật Bản, nhưng chừng nào mà quần đảo này còn trong tay người Nhật, những người lên kế hoạch cho Không Lực quyết định tiến hành những đột kích đầu tiên từ Trung Hoa mặc dù có những vấn đề khó khăn về hậu cần. Tất cả nhiên liệu và vật tư đều phải được chở bằng đường hàng không từ Ấn Độ bay qua Hy Mã Lạp Sơn đến bốn sân bay ở Thành Đô vẫn còn đang xây dựng. Hơn nữa, chuyến đi về dài 4,000 dặm giữa Thành Đô và Tokyo làm giảm số lượng bom chở theo.

                Các chiếc B-29 được bay tập huấn tác chiến đầu tiên trước khi rời Ấn Độ. Đó là một sứ mạng tương đối ngắn, nhưng nó bi thảm hóa những khó khăn trong việc vận hành loại oanh tạc cơ mới. Vào ngày 5/6/1944, 98 Pháo đài bay cất cánh để đánh bom Bangkok. Một chiếc rớt ngay lập tức, 14 chiếc bỏ cuộc và vài chiếc không hề bay đến mục tiêu. Những chiếc còn lại tiến gần Bangkok trong một đội hình rời rạc. Hai chiếc rớt trên đường về, hai chiếc lủi xuống Vịnh Bengal và 42 chiếc đáp lộn sân bay. Nhưng sứ mạng được coi là “thành công về mặt thao tác”; các B-29 đã sẵn sàng cho Nhật Bản.

                Vào ngày 15/6, 92 Pháo đài bay cất cánh đến Thành Đô, tại đó chúng sẽ được tiếp đầy nhiên liệu trước chặn đường dài cuối cùng đến Tokyo. 79 máy bay đến được nơi, nhưng chỉ có 68 bay lên được vào chiều đó. Trong số này, một chiếc rớt khi cất cánh và bốn chiếc khác phải quay về vì hỏng hóc kỹ thuật. Những chiếc B-29 đầu tiên đến được mục tiêu – Nhà máy Sắt Thép Hoàng gia ở Yawata trên đảo Kyushu – ngay trước nửa đêm, giờ Trung Quốc. Pháo phòng không dày đặc và một vài chiến đấu cơ bay lên đánh chặn, nhưng trong số các oanh tạc cơ đến được Yawata, chỉ có 6 chiếc bị thiệt hại nhẹ. Việc oanh tạc là một thất bại – chỉ có một quả bom đánh trúng nhà máy – nhưng hiệu quả đối với người Nhật thì hằn sâu. Chiến tranh cuối cùng đã đến đất nhà Nhật.

                Ở đông Trung Hóa, binh lính Nhật đã đến trước cổng Trường Sa. Việc thành phố lớn này thất thủ ba ngày sau đó gây hoảng loạn đến Trùng Khánh; Bộ Chiến tranh ra lệnh hành hình vài chỉ huy chiến trường. Hai sư đoàn Nhật, sư đoàn 116 và 68, đã tiến thẳng xuống Hành Dương, 100 dặm xa hơn về phía nam. Họ đánh chiếm một sân bay kế bên vào ngày 26/6, và hai ngày sau tiến đánh thành phố. Việc đầu hàng ai cũng tin là đã tới nơi, nhưng Thiếu tướng Fong Hsien-chueh, tư lệnh Quân đoàn 10 Trung Quốc, làm người Nhật bối rối và người Mỹ ngạc nhiên khi tuyên bố sẽ quyết tâm cầm cự. Binh sĩ của ông – được các chiến đấu cơ và oanh tạc cơ của Chennault yễm trợ, mở những cuộc đột kích ban đêm mạo hiểm vào các đoàn xe tiếp tế của địch – đẩy lui quân Nhật hết ngày này đến ngày khác.

                Thiếu lương thực và quân nhu, bọn xâm lăng rút lui trong vòng nửa tháng. Tại Quế Lâm, sẽ là thành phố tiếp theo trong đường tiến của quân Nhật, dân chúng tổ chức lễ mừng suốt một tuần, đường phố sặc mùi thuốc pháo nổ dòn dã không dứt. Các nhà buôn bao vây các binh sĩ Mỹ ở Quế Lâm để tặng ngà voi, ngọc bích, tơ lụa và sơn mài.

                Người Nhật sẽ sớm trở lại với lực lượng mạnh hơn, 40 ngàn binh sĩ mới. Tướng Hong tiếp tục phòng thủ kiên cường Hành Dương nhưng Tưởng Giới Thạch không còn ủng hộ ông nữa; vì một lý do nào đó Tưởng không tin cậy cấp trên của ông ta, Thống chế Hseuh Yo. Tưởng ra lệnh đình lại tất cả đồ tiếp tế của Trung Hoa và Mỹ gởi đến thành phố bị bao vây.

                Chennault quay sang một cựu đối thủ nhờ giúp đỡ. Ông điện cho Stilwell yêu cầu cho phép chở súng và đạn được bằng máy bay cho Fong. Bộ chỉ huy của Stilwell trả lời vô thưởng vô phạt là đề nghị sẽ được cứu xét, nhưng không hành động gì. Chennault lại gởi một yêu cầu khác, cho 500 tấn. Lần này thư phúc đáp rành mạch hơn:

                XÉT VỀ LỰC LƯỢNG CỦA HSEUH YO, SỨ MẠNG CỦA Y, TÌNH HÌNH THAY ĐỔI NHANH       CHÓNG, VIỆC TRUNG HOA LẠM DỤNG NHỮNG TRANG BỊ HỌ CÓ VÀ SỬ DỤNG        KHÔNG THÍCH HỢP CÁC LỰC LƯỢNG CỦA HỌ, ĐỀ NGHỊ CỦA ÔNG CHUYÊN CHỞ     BẰNG MÁY BAY 500 TẤN VŨ KHÍ CẦM TAY VÀ ĐẠN DƯỢC SẼ LÀ PHÍ PHẠM CÔNG   SỨC. TOÀN BỘ NỖ LỰC CỦA NGƯỜI MỸ NÊN TIẾP TỤC TỪ TRÊN KHÔNG.                            

                Vài tuần sau Hành Dương thất thủ. Nhưng Không lực 16 của Chennault tiếp tục oanh kích các tuyến đường tiếp tế của Nhật và bắt buộc người Nhật phải đình hoãn cuộc tấn công vào Quế Lâm khoảng một tháng.

                Nếu Trung Hoa – mà vai trò của nó trong chiến tranh đã bị giảm sút – sụp đổ, nó sẽ dư ra 820,000 binh lính Nhật. Do đó, Roosevelt phái một đại diện của mình đến Trùng Khánh với lệnh duy trì Trung Hoa trong cuộc chiến bằng cách đoàn kết tất cả lực lượng người Hoa, kể cả những người Cộng sản, để chống lại Nhật Bản. Ông chọn ra một viên chức dân sự, phong cho chức thiếu tướng, Patrick J. Hurley, một luật sư thành đạt từng là Bộ trưởng Chiến tranh dưới thời Tổng thống Herbert Hoover. Ông nhiệt tình và dễ mến, đã chiếm được sự tin cậy của Roosevelt nhờ đã thực hiện thành công những sứ mạng ngoại giao thời chiến đối với Nga và Trung Đông.

                Hurley lên đường đến Trung Hoa, qua ngõ Moscow, khi V. M. Molotov, Ủy viên Ngoại Giao, bảo ông ta rằng Nga muốn làm bạn với Trung Hoa Dân quốc. Bộ ông ta, Molotov nói, chẳng phải là người đã dàn xếp để giải thoát Tưởng sau khi bị vị Thiếu Thống chế bắt cóc hồi năm 1936 đó sao? Làm sao Trung Hoa có thể đổ lỗi cho Nga là nguyên nhân gây hiềm khích nội bộ của Trung Hoa? Liên bang Xô viết không quan tâm đến những người Cộng sản Trung Quốc – họ  chỉ là những người Cộng sản trên danh nghĩa. Người Mỹ nên cố gắng hỗ trợ nhân dân Trung Quốc cải tổ nền kinh tế của họ, và đoàn kết quân đội của Mao và của Tưởng.

                Hurley, vốn nhìn cuộc sống theo những phạm trù đơn giản, gần như nhìn nhận mọi điều mà Molotov nói trên bề mặt. Ở Trùng Khánh, ông bảo với Tưởng là đừng nên lo lắng về việc những người Cộng sản Trung Quốc bị Nga kiểm soát – không phải rõ ràng là họ thực sự chẳng phải là người Cộng sản chút nào sao?

                Tưởng không dễ bị thuyết phục; ông đã đọc những bài viết và bài nói chuyện của Mao. Hurley cũng không thể thuyết phục Tưởng đặt Stilwell làm chỉ huy tất cả lực lượng vũ trang Trung Quốc, như Marshall đã từ lâu yêu cầu. Vào ngày 25/9 Thống chế gởi cho Hurley một bản ghi nhớ nói rằng những trải nghiệm gần đây của ông đã chỉ cho ông thấy rằng Tướng Stilwell là người “không thích hợp cho những nhiệm vụ lớn lao, phức tạp và tế nhị mà một vị chỉ huy mới sẽ cần đến. Gần như từ lúc ông ta đến Trung Hoa, ông ta tỏ ra không quan tâm gì đến mối tin cậy và tôn trọng lẫn nhau, điều kiện thiết yếu cho một sự hợp tác thành công của các lực lượng đồng minh. . . Tháng 10 vừa qua, tôi dự định yêu cẩu thay thế ông ta, nhưng khi ông ta trịnh trọng hứa là trong tương lai ông ta sẽ răm rắp tuân lệnh tôi và sẽ không làm những gì có thể khiến tôi bất mãn, tôi liền rút lại yêu cầu đó. Khổ thay, lời hứa của Tướng Stilwell chưa bao giờ được thực hiện . . .” Tưởng cam kết sẽ ủng hộ bất cứ người thay thế có năng lực nào.

                Stilwell điện cho Marshal nói rằng bản ghi nhớ chỉ là một mớ những phát biểu dối trá và rằng Tưởng “không có ý định thiết lập một cải cách dân chủ thực sự nào hoặc lập một mặt trận thống nhất với những người Cộng sản.”

                Marshall chuyển những lời cáo biện này đến Roosevelt mà thái độ vỡ mộng đối với Tưởng hiện rõ trong thư phúc đáp gởi cho Tưởng vào ngày 5/10:

                . . . TÌNH HÌNH MẶT TRẬN Ở TRUNG HOA ĐÃ XUỐNG CẤP KỂ TỪ LỜI ĐỀ NGHỊ ĐẦU           TIÊN CỦA TÔI ĐẾN MỨC GIỜ ĐÂY TÔI BUỘC LÒNG PHẢI NÓI RẰNG CHÍNH PHỦ   HOA       KỲ SẼ KHÔNG NHẬN LẤY TRÁCH NHIỆM LIÊN QUAN ĐẾN VIỆC BỔ NHIỆM MỘT SĨ                 QUAN MỸ NẮM QUYỀN CHỈ HUY CÁC LỰC LƯỢNG TRÊN BỘ CỦA NGÀI TRÊN KHẮP                 TRUNG HOA . . .               

                Tưởng, đáp lại, ra sức đổ lỗi cho Silwell – và gián tiếp là Roosevelt – cho sự sụp đổ khu vực phía đông Trung Quốc. Trong một bản ghi nhớ khác gởi cho Hurley, ông kết án vụ thảm bại gây ra bởi Stilwell cứ nằng nặc mở cuộc tấn công vào miền bắc Miến Điện.

                . . . Như tôi đã e sợ, quân Nhật lợi dụng cơ hội này để tiến hành cuộc tấn kích bên trong Trung Hoa, đầu tiên tấn công Hà Nam và rồi Hồ Nam. Vì chiến dịch Miến Điện, nên không có lực lượng tiếp viện đủ trang bị và đủ huấn luyện được sử dụng cho những mặt trận này . . . Lực lượng mà Nhật tung ra trong trận tấn công vào đông Trung Hoa lớn gấp 6 lần lực lượng đương đầu với Tướng Stilwell ở bắc Miến Điện, và kết quả thảm bại ở Trung Hoa chắc chắn không thể đền bù bằng các thắng lợi ở chiến dịch bắc Miến Điện. Vậy mà Tướng Stilwell có biểu hiện hoàn toàn dửng dưng với hậu quả của đông Trung Hoa; quá dửng dưng đến mức trong những ngày nguy cấp của chiến dịch đông Trung Hoa, ông ta khăng khăng từ chối giải phóng đồ tiếp tế theo thỏa thuận Thuê-Mượn đã có sẵn ở Vân Nam để dùng cho trận chiến ở đông Trung Hoa. . .

                Nói tóm lại, chúng ta đã chiếm Myitkyina [Miến Điện] nhưng chúng ta đã mất hầu hết lãnh thổ đông Trung Hoa và về điều này Tướng Stilwell không thể được giải trừ trách nhiệm nghiêm trọng.

                Ông chống lại lời từ khước có tính xúc phạm của Tổng thống việc chỉ định một chỉ huy Mỹ các lực lượng Trung Quốc.

                Tôi hoàn toàn tin tưởng rằng nếu Tổng thống thay thế Tướng Stilwell bằng một sĩ quan Mỹ có năng lực, chúng ta có thể hợp tác với nhau để đảo ngược cục diện hiện thời và hoàn thành những đóng góp quan trọng đến thắng lợi cuối cùng.

                Hurley đã hi vọng mình sẽ hòa giải Stilwell với Tưởng, nhưng giờ thì ông tin chắc việc này là bất khả và Stilwell phải rời khỏi Trung Hoa. Ông điện cho Roosevelt:

                . . . THEO Ý KIẾN TÔI NẾU NGÀI GIỮ LẠI STILWELL TRONG VẤN ĐỀ GÂY TRANH CÃI NÀY, NGÀI                 SẼ MẤT TƯỞNG GIỚI THẠCH VÀ CÓ THỂ NGÀI CŨNG SẼ MẤT TRUNG HOA.                        

                Trong một tuần số phận của chiến trường Trung Quốc-Miến Điện-Ấn Độ lơ lửng trong trạng thái cân bằng khi Stilwell và Hurley dội bom Washington với những lời khuyến cáo xung đột nhau. Cuối cùng, vào ngày 18/10 (hai ngày trước khi MacArthur đổ bộ lên Leyte), Roosevelt điện cho Tưởng nói rằng mình đang triệu hồi Stilwell nhưng sẽ không bổ nhiệm người Mỹ nào chỉ huy các lực lượng Trung Quốc. Ông hứa chắc sẽ phái Thiếu tướng Albert C. Wedemeyer làm Tham mưu trưởng cho ngài Thống chế và chỉ huy tất cả lực lượng của Mỹ ở Trung Hoa.

                Với Stilwell đi rồi, ngài Hurley dễ mến có thể tập trung toàn bộ sức lực để giải quyết bài toán đoàn kết Mao và Tưởng. Vào ngày 7/11, không nghe lời khuyên của Tưởng, ông bày đến thủ đô của người Cộng sản ở Vân Nam, tại đó ý tưởng của ông đang được xúc tiến; mỗi viên chức Mỹ và nhà báo viếng thăm đã được các phát ngôn viên Cộng sản bảo đảm rằng điều mà Trung Hoa cần là một chính phủ liên minh dựa trên các nguyên tắc dân chủ. Ngài Hurley có râu mép đến, ngực treo đầy huy chương, tạo ấn tượng với quan khách bằng mái tóc bờm bạc trắng và dáng đi hiên ngang. Với giọng nói âm vang ông ta thuyết giảng cho Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai và các đồng chí của họ về năm điểm đồng thuận với Quốc dân đảng. Người Cộng sản hơi bất ngờ trước kiểu cách của ông ta, nhưng chỉ đáp lại bằng cái gật đầu và những nụ cười. Tối đó trong một buổi chiêu đãi thịnh soạn ông làm sửng sốt các chủ tiệc trầm tĩnh. Sau khi nâng cốc chúc tụng Stalin, Roosevelt và Churchill, ông đứng lên và ngẫu hứng cất vang tiếng hú lâm chiến của người Da Đỏ. John K. Emmerson và các chuyên gia Ngoại giao khác cố giải thích đây chỉ là một phong tục kỳ lạ cổ xưa Mỹ có ý nghĩa là chúc sức khỏe cho tất cả.

                Dù những người Cộng sản nghĩ thế nào, họ chấp nhận phát biểu của Hurley mà không xét lại nhiều. Năm điểm kêu gọi cho việc đoàn kết các lực lượng vũ trang ở Trung Hoa “nhằm đánh bại nhanh chóng Nhật Bản và tái thiết Trung Hoa.” Chính phủ Trung Khánh phải “tái tổ chức thành một Chính Phủ Quốc gia liên minh bao gồm những đại biểu của mọi đảng phái chống Nhật và những nhóm chính trị không đảng phái. Một chính sách dân chủ mới đưa ra những cải cách cho những vấn đề quân sự, chính trị, kinh tế và văn hóa sẽ được ban hành và đưa vào thực hiện.” Chế độ liên minh theo đuổi những nguyên tắc của Tôn Trung Sơn và thành lập một “chính phủ của nhân dân, vì nhân dân và do nhân dân,” sẽ thực hiện công lý, tự do tín ngưỡng, tự do báo chí, tự do ngôn luận, tự do hội họp và liên hợp, tự do thỉnh nguyện nhà nước xét lại những khiếu nại, quyền giam giữ đúng luật và quyền cư trú.” Không có gì trong văn kiện mà những ai ngưỡng mộ Tuyên Ngôn Độc Lập  sẽ không tán thành, kể cả hai cụm từ bổ sung, vay mượn từ Tổng thống Roosevelt – tự do khỏi sự sợ hãi và tự do khỏi sự thiếu thốn.

                Hurley bay về Trung Khánh với Chu Ân Lai, tưởng rằng sứ mạng của mình đã hoàn thành. Làm sao ai có thể chống đối những tình cảm lành mạnh và cao quí như thể chứ? Molotov rất đúng. Người Trung Quốc Đỏ chỉ là những người Cộng sản thế phẩm; người Nga sẽ không bao giờ thỏa hiệp những chính sách cấp tiến như thế với những hành xử độc đoán của riêng họ.

                Trùng Khánh tiếp nhận văn kiện với thái độ nhạo báng. “Bọn Cộng sản đã bán cho ngài một danh sách hàng hóa,” Tống Tử Văn nói với Hurley. “Chính phủ Quốc dân không bao giờ chấp nhận yêu cầu của Cộng sản.” Tống hiểu tính anh rễ mình; Tưởng bảo với Hurley là sự thỏa hiệp sẽ đưa Cộng sản thống trị chính phủ liên minh. Ông cũng không chấp nhận việc Hurley bảo đảm là Mỹ sẽ cam kết vị thế của ông làm Tổng thống và Thống chế. Liên minh bị người Trung Quốc coi như là một thất bại hoàn toàn cho Quốc dân đảng.

                Hurley khăng khăng tin rằng các quan điểm phân tán nhất cũng có thể xích lại gần nhau bằng thiện chí và thuyết phục các nhà lãnh đạo Trùng Khánh soạn ra một phản đề nghị. Điều này qui định rằng các lực lượng Cộng sản được sáp nhập vào Quân đội Quốc dân và rằng đảng Cộng sản phải được hợp pháp hóa; Mao, tuy nhiên, phải giao quyền kiểm soát binh sĩ cho Hội đồng Quân sự Quốc dân. Nó tuân theo các nguyên tắc của Tôn Trung Sơn và bảo đảm các quyền tự do khác nhau và các quyền công dân, “chỉ tuân theo những nhu cầu đặc biệt về an ninh trong việc tiến hành hiệu quả cuộc chiến chống Nhật.”

                Hurley chuyển giao những đề nghị này tới Vân Nam, hi vọng chúng có thể được chấp nhận. Nhưng không. Chu Ân Lai cảm thấy bị phản bội và trả lời rằng những người Cộng sản không thể tìm thấy những cơ sở chung trong những đề nghị của Tưởng; chính phủ Vân Nam sẽ phải được nhìn nhận bình đẳng trong một chính phủ liên minh thực sự.

                Vào ngày 31/10 Tướng Wedemeyer đến để thay thế ngài Stilwell gây tranh cãi. Cục diện chiến lược ở Thái Bình Dương đã thay đổi với các chiến thắng áp đảo của hải quân Mỹ ngoài khơi Leyte, và với khả năng là Stalin có thể gởi 60 sư đoàn chống lại Nhật Bản ba tháng sau khi Đức bại trận. Nhưng việc duy trì quân đội Tưởng trên chiến trường cũng còn quan trọng để họ có thể cầm chân một quân số đông đảo binh lính Nhật. Wedemeyer điện cho Marshall nói rằng tình hình chiến sự đang trở nên tồi tệ hơn; Quế Lâm và sân bay của nó sẽ sớm bị mất, và Côn Minh, thủ phủ của Tình Vân Nam, không nghi ngờ gì nữa sẽ là mục tiêu tiếp theo.

                Cũng đã có vài thay đổi trong giới chỉ huy Nhật. Vào tháng 9, Tướng Yasuji Okamura lên thay quyền chỉ huy Quân đoàn Viễn chinh Trung Quốc, và mặc dù quyền chỉ huy của ông rất rộng lớn, ông chỉ huy trực tiếp Quân đoàn Khu vực 6, đang trong giai đoạn giữa của Chiến dịch ICHI. Mục đích của nó tuy nhiên, không có chút gì tham vọng như Wedemeyer e sợ; Tokyo không có ý định tiến xa tận tây Trùng Khánh. Việc đánh chiếm thêm lãnh thổ Trung Quốc không còn hấp dẫn như việc đánh chiếm các sân bay đông Trung Hoa. Việc chiếm các sân bay này sẽ ngăn cản các trận oanh tạc tầm xa vào các cứ điểm cuối cùng bên ngoài Thái Bình Dương và đất nhà của Nhật.

                Quế Lâm và Liễu Châu thất thủ. Gần như chỉ còn mình Chennault tiến hành những kháng cự có hiệu quả với các B-25 và chiến đấu cơ của mình. Để làm được thế, ông không do dự sử dụng bất cứ phương tiện nào để lấy đi đồ quân nhu dành cho dự án B-29. Các kết quả của những cuộc không kích bằng B-29 hình như minh chứng cho điều mà Chennault tin tưởng rằng đó chỉ là “một quan niệm điên rồ có tính qui mô.” Sau trận tấn công đầu tiên không được như ý xuống Nhật Bản, các oanh tạc cơ lớn đánh phá Kyushu thêm bốn lần nữa, cũng như Mãn Châu và Palembang trên Sumatra. Tất cả trận không kích đều không hiệu quả như trận đầu tiên.

                Việc thay thế người chỉ huy đội B-29 Trung Quốc bằng Thiếu tướng Curtis Lemay – một người lãnh đạo hiếu thắng, tháo vát mà Sư đoàn Oanh tạc Thứ 3 của ông đã hoàn thành xuất sắc chống lại người Đức – không tạo ra điều gì khác biệt. Ông nhận ra rằng mình đã thừa hưởng một “tình huống hoàn toàn bất khả” ở Trung Hoa cũng như “chiếc máy bay điên khùng bổng nhiên xuất hiện.” Ông xây dựng một hệ thống bão dưỡng mới, ra sức dạy cho các phi hành đoàn đánh bom theo đội hình, như các chiếc B-17 đã làm ở châu Âu. Dù những nỗ lực mạnh mẽ, một loạt các trận không kích ở Mãn Châu, Đài Loan, Rangoon, Singapore và Kyushu chỉ thành tựu quá ít ỏi đến nỗi chính ông buộc phải nhìn nhận các Siêu pháo đài bay của mình vẫn chưa tạo được điểm sáng trong cuộc chiến.*

  • Ban Điều tra Oanh tạc Chiến lược Hoa Kỳ sau đó kết luận rằng những trận không kích do B-29 đặt căn cứ ở Trung Hoa tiến hành “không tương xứng với những nỗ lực bỏ ra và rằng nhiên liệu và quân nhu mà các B-29 sử dụng có thể hữu ích hơn nếu được phân bố cho việc mở rộng các hoạt động chuyên chở và chiến thuật của Không lực 14.” 800 tấn bom chúng bỏ xuống có “trọng lượng và độ chính xác không đủ để sản sinh những kết quả có ý nghĩa.”

 

3.

                Trên quần đảo Mariana chương trình B-29 cũng gặp phải những khó khăn. Bị bao vây bởi những trận mưa nhiệt đới như trút nước khiến các con đường trên Saipan trở nên lầy lội, không lưu thông được, các kỹ sư chưa hoàn thành được đường băng dài 8,500 bộ đầu tiên ở Sân bay Isley (tên trước đây là Aslito) khi chiếc B-29 đầu tiên, Joltin’ Josie the Pacific Pioneer, do Chuẩn tướng Heywood Hansell lái, đáp xuống vào ngày 12/10/1944.

                Một ít ngày sau đó Chuẩn tướng Emmett O’Donnell – một cựu binh B-17 của những ngày gian khổ đầu tiên trong cuộc chiến ở Phi Luật Tân – đến để mở bộ chỉ huy Phi đội Oanh tạc 73 và khóa huấn luyện tăng cường. Sau nửa tá trận oanh kích lên Truk và Iwo Jima, hòn  đảo núi lửa nhỏ gần nửa đường đến Tokyo, các phi công của O’Donnell đã sẵn sàng giáng trả vào thủ đô Nhật Bản.

                Vào sáng ngày 17/10 hàng trăm xe cộ hội tụ về Sân bay Isley. 24 thông tín viên chiến trường và một dãy các tay nhiếp ảnh và quay phim tin tức đang chực sẵn. Khi O’Donnell leo vào chiếc B-29 của mình, hàng chục ánh đèn flash nổ lốp bốp. Nhưng cơn mưa kéo dài nhiều ngày liền đã buộc chuyến bay đình hoãn cho đến sáng ngày 24/11.

                Lúc 6:15 chiếc máy bay đầu tiên, Dauntless Dotty, với O’Donnell trên mâm điều khiển, rú lên và chạy xuống đường băng dài. Các bánh xe của chiếc máy bay màu bạc nghiến đến tận cuối phần đường nhựa – rồi lăn lên đoạn kéo dài trải đá san hô. Đến phút cuối Dauntless Dotty rướn mình lên, lướt qua mặt biển, và quay chậm về hướng Tokyo. Bay phía sau nó là 110 chiếc B-29. Trên đường, 17 chiếc buộc phải quay về. Thời tiết xấu gần như che khuất mục tiêu – nhà máy động cơ máy bay Nakajima cách Hoàng cung 10 dặm về phía tây bắc – và khi các phi cơ không hộ tống, trong luồng gió xuôi chiều 120 hải lí, gầm thét với tốc độ 445 dặm một giờ, chúng trút bom ở độ cao 27,000 đến 32,000 bộ. Chỉ có 48 quả bom , kể cả ba quả thúi, đánh trúng phức hợp nhà máy, gây thiệt hại nhẹ; những quả còn lại nổ xuống bến tàu và các khu dân cư đông đúc. Hơn 100 chiến đấu cơ đủ loại bay lên đánh chặn các Siêu pháo đài bay; một oanh tạc cơ bị rơi, và đó là do phi công chiếc Zero liều chết đâm vào đuôi nó.

                Ba ngày sau Phi đội 73 trở lại. Lần này nhà máy động cơ hoàn toàn bị mây che phủ, và 62 chiếc B-29 phải tìm một mục tiêu phụ. Tuy không thành công như hai lần đánh phá trước đây, họ đã làm ớn lạnh bộ Tư lệnh  Hoàng gia cũng như dân chúng. Các hảng xưởng quan trọng không thể cứ được bảo vệ bởi những đám mây che phủ, và hình như không có cách phòng thủ hiệu quả nào chống lại các B-29. Các nền tảng của nền công nghiệp cơ bản  Nhật đã bị tàn phá bởi những cuộc tấn công dai dẳng của các tàu ngầm và các máy bay ném bom Mỹ vào tàu vận tải. Chỉ còn ít dầu thô cho các nhà máy lọc dầu; không có than hoặc quặng cho các nhà máy thép; và các nhà máy quân nhu thiếu thép và nhôm để hoạt động. Nền kinh tế không thể chịu được những cuộc oanh tạc B-29 liên tục. Chúng phải bị ngăn chận phần nào.

                Đến thời điểm như vầy, các biện pháp khẩn cấp sẽ phải được đưa ra để bảo vệ một con tàu vốn đã trở thành một niềm tự hào và một biểu tượng của hi vọng cho toàn đất nước. Hạm đội Hỗn Hợp ra lệnh cho chiếc Shinano, con tàu chị em của siêu chiến hạm Yamato Musashi, chạy thoát về Vịnh Tokyo để có sự an toàn tương đối trên Biển Inland. Nó đã được chuyển đổi để trở thành tàu sân bay lớn nhất thế giới và nhiều nhân công hàng hải còn ở trên con tàu 68,000 tấn vừa được hạ thủy gần đây. Được đẩy bằng các tua-bin 200,000 mã lực, nó vội vã lẫn tránh vào chiều tối ngày 28/11, và chạy về nam với thủy thủ đoàn chưa được huấn luyện, có ba tàu khu trục hộ tống.

                Sàn bay bằng thép, tầng trên, một nhà chứa máy bay và những khu vực nhà kho đã được ghép vào phần cấu trúc cơ bản. Shinano là một con tê tê đi biển, bao quanh ở đường mực nước là một vòng đai chính bằng thép dày 8-inxơ; những bướu thép lớn bên dưới đường nước làm giảm hiệu quả của các ngư lôi bắn trúng. Những luồng khói chết người không thể hút qua các hệ thống quạt thông gió. Các nguy cơ hỏa hoạn đã được giảm thiểu nhiều hơn bằng cách sử dụng cấu trúc gỗ ít hơn, sử dụng chất sơn đặc biệt kháng lửa đặc biệt và việc thiết lập các hệ thống dập tắt lửa bằng bọt có tính cách mạng. Để đẩy lui các trận không kích có 16 khẩu pháo 5-inxơ góc cao, cũng như 140 súng máy phòng không 24-mm và một tá dàn phóng đa hỏa tiển.

                Về lý thuyết, Shinano là tàu sân bay không thể đánh chìm từng được chế tạo, nhưng cũng có một số kỹ sư hàng hải ở chốn riêng tư coi nó là một bộ máy kỳ quái được thai nghén bịnh hoạn và được chế tạo quá hấp tấp không phải là tàu chiến cũng không phải là tàu sân bay.

                Cách 100 dặm về phía nam Tokyo tàu ngầm Mỹ Archerfish đang tìm kiếm mồi. Sứ mạng chủ yếu của nó là cứu vớt các thủy thủ của các chiếc B-29 buộc phải đáp khẩn cấp xuống khu vực, nhưng vụ không kích của ngày hôm đó bị hủy bỏ và Archerfish được tự do rời vị trí công tác. Vùng đất đi săn thuận lợi nhất, thuyền trưởng Joseph F. Enright quyết định, chính là ngoài khơi Vịnh Tokyo. Lúc 8:48 P.M. đài ra đa phát hiện một mục tiêu về hướng bắc. Qua ống nhòm Enright nhận ra dưới ánh trăng một vật thể dài, thấp cách đó 9 dặm. Nó trông như một chiếc xe tăng. Archerfish lao về phía con mồi để tấn công trên mặt biển từ mạn sườn phải. Khi họ tiến đến gần hơn, Enright nhận ra đó là một tàu sân bay có ba tàu hộ tống. Ông quyết định tiến ra phía trước tàu sân bay và lặn xuống tấn công. Ông ra lệnh quay ngược lộ trình và chạy tốc độ tối đa với bốn động cơ 16-xi lanh.

                Shinano đang chạy với tốc độ 18 hải lí, bằng với Archerfish, nhưng zíc zắc nên tốc độ giảm khiến kẻ rình rập buộc phải tiến lên chậm chạp. Lúc nửa đêm, tuy nhiên, Shinano gia tăng tốc độ và con tàu ngầm dần dần bị bỏ lại phía sau. Ba giờ sau tàu sân bay đột ngột quành trở lại đi thẳng về hướng Archerfish. Enright chờ đợi một vài phút để chắc chắn đó là một sự thay đổi lộ trình thực sự. Ông ra lệnh đài chỉ huy giải tán và chuông báo động lặn vang lên. Archerfish lướt xuống bên dưới con sóng.

                “Nâng kính tiềm vọng,” Enright ra lệnh. Ông nắm lấy tay cầm và quan sát phía trước. “Tôi thấy nó rồi,” ông nói. Ông hỏi khoảng cách đến mục tiêu.

                “Năm năm không ya” là câu trả lời gần như tức thì từ sĩ quan điều hành.

                “Quay trái. Lộ trình không-chín-không.” Ensight hỏi Plot bao nhiêu thời gian.

                “Nó sẽ ở đây trong hai phút.”

                Enright quay kính tiềm vọng để nhìn bao quát khu vực. “Hạ tiềm vọng!” ông hô. “hộ tống băng qua đầu!” Kính tiềm vọng hạ đúng lúc để tránh tàu khu trục càn phía trên nó. Enright lại nâng kính một lần nữa lên vòng bi liên kết với máy tính điều khiển hỏa lực. Lúc 3:17 A.M. Enright hô “Bắn!” Tầm bắn là 1,400 ya ngay phía trước sườn ngang của tàu sân bay. Sáu ngư lôi phóng ra cách nhau 8 giây hướng về mục tiêu, tiến tới “nóng bỏng, thẳng băng, và bình thường.”

                Enright nhìn hai “con cá” đầu tiên đánh trúng đích, rồi quay kính tiềm vọng hướng về các tàu khu trục. Chúng đang tiến về Archerfish. “đánh chìm nó,” ông hô.

                Các lính canh trên Shinano nhìn bất lực khi hai ngư lôi này, và thêm hai cái nữa đâm vào tàu sân bay khổng lồ. Thuyền trưởng Toshio Abe không nao núng. Bốn phát chẳng là gì. Musashi, về cơ bản có cùng thiết kế với nó, đã hứng đến 19 ngư lôi và nhiều quả bom trước khi chìm xuống. Ông ra lệnh tàu tiếp tục lộ trình với tốc độ 18 hải lí.

                Musashi thật ra chịu nhiều thiệt hại hơn, nhưng thủy thủ đoàn dạn dày của nó là nguyên nhân khiến nó sống sót khá lâu. Còn đội kiểm soát thảm họa của Abe thiếu kinh nghiệm, lại bị cản trở vì biển động, không thể ngăn chận nước ùa vào. Hơn nữa, một số gian không có cửa kín nước. Abe có thể đã cho tàu lên cạn hoặc lái nó vào hải cảng, nhưng ông lai tiếp tục lộ trình và chạy nhanh suốt đêm. Đến hừng đông ngay đối với những người tin tưởng vào Shinano một cách mù quáng cũng thấy rõ ràng là nó bị thương chí tử. Abe giảm tốc độ nhưng đã quá trễ. Lúc 10:18 A.M., ngày 29/11, khi tàu sân bay đã nghiêng rất gắt, Abe ra lệnh bỏ tàu. Nửa giờ sau, không bắn phát súng nào hoặc phóng lên máy bay nào, Shinano chìm xuống với một tiếng ầm ầm điếc tai, đem theo xuống đáy biển với nó Abe và 500 thủy thủ.

                Tuần sau sự báo thù thiên nhiên quá quen thuộc của Nhật Bản, trận động đất, đánh vào Nagoya trên Đảo Honshu. Cơn chấn động khủng khiếp đã lật tung một đoạn dài đường sắt thành đống đổ nát, làm tê liệt một số nhà máy chế tạo quân nhu và xóa sổ một xưởng ở Toyohashi sản xuất dụng cụ chính xác. Vào tháng 12, các B-29 từ Saipan đánh bom nhà máy Động cơ Máy bay Mitsubishi ở Nagoya ba lần với mức chính xác đến độ người Nhật buộc phải khởi sự dời trang thiết bị sản xuất xuống lòng đất.

 

4.

                Vào ngày 9/1, 1945 – cùng ngày Siêu pháo đài bay trở lại Tokyo lần thứ sáu, và lần thứ 6 vô hiệu quả – Quân đoàn thứ 6 của Tướng Krueger xâm chiếm Luzon. Họ đổ bộ lên Vịnh Lingayen trên cùng bãi biển mà Homma đã tràn ngập hơn ba năm trước đây một chút. Họ được đón chờ, nhưng gần như không có sức kháng cự nào và lúc đêm xuống đã rõ là Tướng Yamashita không có ý định chống cự nghiêm túc cuộc đổ bộ. Một số sĩ quan tình báo và hành quân Mỹ sợ rằng có thể họ đang bị dẫn dụ vào bẫy, nhưng ngày 10/1 cũng chứng tỏ là một ngày dễ chịu và đến hoàng hôn các đơn vị tiền phương đã tiến sâu được 8 dặm vào nội địa. Trong vòng một tuần Quân đoàn XIV ở bên phải đã tiến sâu 30 dặm. Bên trái, Quân đoàn I cũng đạt tiến bộ không kém với giá của 220 thương vong.

                Đêm đó Yamashita cuối cùng mở cuộc phản công, chiến dịch gồm 1 sư đoàn được tính toán để cho ông có đủ thời gian chuyển quân nhu và binh lính lui về phía bắc. Ông sẽ bỏ lại toàn bộ Đồng bằng Trung tâm-khu vực Vịnh manila và cố thủ trong vùng núi hiểm trở ở Bắc Luzon, nơi đó địa thế giúp việc phòng thủ có nhiều lợi thế. Đây sẽ là trận đánh hao mòn, còn xa mới là Trận Đánh Quyết Định thường được tuyên bố.

                Người Nhật, tuy nhiên, được cho biết là quân địch đã bị dẫn dụ vào ngay trong trận đánh như thế ở Luzon. Nhưng thực tế của tình hình không thể phớt lờ hoàn toàn, và vào ngày 21/1 Thủ tướng Koiso buộc phải công nhận trước Quốc hội, một hành động hiếm hoi. Ông nhìn nhận là “các diễn biến quân sự trên chiến trường Thái Bình Dương đang trong tình thế không có chỗ cho sự lạc quan. Tuy nhiên, các tuyến đường tiếp tế mở rộng lớn lao của kẻ địch trên khắp các mặt trận đang để lộ ra cho chúng ta tấn công và với sự kiện này, tôi tin tưởng, chúng ta phải tìm ra cơ hội bằng vàng để nắm lấy thắng lợi. 

                “Thật ra giờ là thời điểm cho chúng ta, 100 triệu người, cháy cao ngọn lửa nhiệt tình, và tiến theo bước chân của những chiến sĩ dũng cảm trong Quân đoàn Tấn công đặc biệt, biểu dương một tinh thần thậm chí cao hơn nữa trong lãnh vực sản xuất góp phần vào thắng lợi vững chắc.”

                Bộ Tư lệnh  Hoàng gia vẫn còn có ý định chuyên chở các tù binh khỏi Phi Luật Tân về Nhật cho dù hai tàu đã bị đánh chìm. Bác sĩ Bodine, Thiếu tá Virgil McCollum và những người sống sót khác của con tàu Oryoku-maru đang trên biển lên đường đến Nhật. Họ đã rời Vịnh Lingayen ngay sau Giáng sinh theo hai nhóm – 1,000 người trên tàu chở hàng lớn, Enoura-maru, và 236 người, trong đó có Bodine, trên con tàu nhỏ hơn, Brazil-maru.

                Thiếu tá McCollum ở trên con tàu lớn, 16 tù binh chết trong những khoang chen chúc trên đường đến Takao, Đài Loan – chặn đầu tiên trong chuyến đi đến Nhật. Nhiều ngày liền hai con tàu nán lại trong hải cảng. Trời trở lạnh. Những bộ quân phục mùa hè mỏng manh mặc kể từ vụ bơi khỏi con tàu chìm Oryoku-maru, hoặc bộ quần áo bằng vải bông mỏng được phát cho những tù binh trần truồng lúc lên bờ biển, không đủ che ấm. Sau một tuần chịu vô vàn gian khổ những người từ tàu nhỏ được chuyển lên tàu Enoura-maru.

                McCollum và Bodine ở trong khoang cuối gần bánh lái với hơn 700 người khác. Khoang rộng 70 bộ, dài 90 bộ. Che phân nửa gian bên trên là một ban công. Ở đây người Mỹ tập trung những tù binh bị bịnh. Nước tiểu và phân nhểu xuống từ ban công lên đầu những người bên dưới. Thức ăn thiếu thốn và gần như không có nước. Tử xuất tăng lên hơn 10 người mỗi ngày.

                Vào ngày 9/1 – ngày mà binh lính của Tướng Krueger đổ bộ lên Vịnh Lingayen – các tù binh nghe tiếng gầm thét của các oanh tạc cơ Mỹ bay rất thấp. Một tiếng nổ điếc tai rung lắc con tàu. Bodine trông thấy những tia lửa bay khi cơn mưa mảnh đạn xuyên qua khoang tàu. Cánh tay trái ông phỏng và ông biết mình đã bị trúng đạn. Ông khom mình xuống thấp như có thể. Ít nhất có 15 người bị giết vì đạn pháo, và hàng chục người bị thương.

                Trong khoang phía trước, Đại tá Thủy quân Beecher đang đút muỗng cơm vào miệng thì những mảnh đạn rít qua ông, và ghim vào một cây cột kế bên. Những cột kèo bằng gỗ nặng và các rầm thép đổ xuống người các tù binh. Những lỗ xuất hiện một cách thần kỳ trên vách tàu – “nó trông như cái sàng gạo.” Choáng váng, Beecher lay người cho tỉnh. Ông không cảm nhận gì, rồi ông nhớ lại từ Thế Chiến I người ta không cảm thấy đau đớn ngay cái lúc trúng thương. Nhưng làm sao ông không bị thương? Người chết khắp mọi nơi. Một góc khoang chồng chất những thi thể người, đẫm máu và rách nát.

                Cảnh chết chóc không thể mô tả được. Hơn phân nửa trong số 500 tù binh trong khoang bị giết chết ngay lập tức. Đối với những người bị thương thì chi biết có rên siết vì đau đớn, nhưng không có băng bó hoặc thuốc men. Cũng không thấy ai ở bên trên trả lời những lời kêu cứu. Trong bóng tối, nỗi hoảng loạn và điên loạn bóp nghẹt những ai còn sống. Ba trong số tám sĩ quan chiến trường bị giết chết, do một cây rầm duy nhất đè nát. “Van, anh và tôi không đáng sống,” một sĩ quan tâm sự với Thiếu tá van Oosten, “nhưng Bob Roberts đã bị giết chết. Anh ta có quá nhiều điều để sống vì chúng và quá nhiều việc để làm.”

                Trong hai ngày, với ít nước và thức ăn, không hỗ trợ y tế, những người sống sót trải qua một địa ngục không ai sẽ bao giờ quên. Nó như những cảnh tượng trong tác phẩm Inferno của Dante khi những hồn ma lang thang vất vưởng trong vỏ tàu tối tăm, hôi thúi giữa những đống xác người. Và cảnh những người ngồi trên xác chết đang ăn những bữa cơm khốn khổ của y không phải là hiếm thấy. Cuối cùng một đội y tế nhỏ người Nhật bước xuống các khoang. Họ chữa những trường hợp thương tích nhẹ nhưng bỏ mặc những ca nặng, đang nằm “chết như ruồi.” Người chết được chuyển đi – khoảng 500 người – và chở vô bờ để hỏa táng.

                Vào chiều ngày 13/1 các tù binh được chuyển lên tàu Brazil-maru. Tàu khởi hành lúc bình minh, và hai tuần sau đối với McCollum hình như là một “cõi vĩnh hằng những khủng khiếp.” Khẩu phần ăn một lần mỗi ngày chỉ vừa cho tù binh đủ sống; nếu họ may mắn, bốn người nhận được một cà mèn lưng đựng cơm, và sáu người chia nhau một bi đông nước. Mùa đông lạnh giá, khi họ tiến lên phía bắc, càng làm tăng thêm nỗi khốn cùng. Họ cố giữ ấm bằng cách nằm co quắp bên dưới các tấm đệm rơm, “ôm lấy nhau để giữ thân nhiệt cho khỏi chết cóng.” Khi tư thế một lúc trở nên đau nhức ai đó sẽ la lên “Đổi thế!” và toàn nhóm sẽ lăn qua một lượt sang phía hông bên kia. Đôi khi người kế bên không lăn – y đã chết.

                Tuyết bay qua cửa hầm mở rộng, và hàng chục người đã sống sót qua thương tích, tiêu chảy và thiếu ăn sẽ chết cóng. Đôi khi mạng sống có thể mua từ những người lính gác – một chiếc nhẫn khóa đại học West Point có thể đổi lấy một bao đựng gạo làm chăn đắp – nhưng tử thần vẫn thăm viếng thường xuyên hơn. Khi tiếng hô “Mang người chết ra!” vang lên mỗi buổi sáng, thưởng khoảng 30 hay nhiều hơn thi thể được thu gom. Các nạn nhân trông như những ma nơ canh rùng rợn với hàm răng nhô ra giữa cặp môi rút lại, xương sườn gần như vỡ bung, cặp mắt lõm sâu, chân tay như ống điếu.

                Với bản năng thúc giục sinh tồn, người ta giành giật đệm đắp của những người quá yếu hoặc bịnh hoạn để bám chặt vào đó; người ta đánh nhau như chó vì những mẩu thức ăn. Các tù binh được giải cứu khỏi những vụ hỗn loạn từ những tấm gương của một nhúm sĩ quan và ba nhà tuyên giáo – một đạo Lu-ti, một Tin Lành và một Thiên chúa, Cha Cumming. Đến phút cuối ba người này, mòn mỏi vì những nỗ lực vắt kiệt sức, hi sinh mạng sống của mình cho những người khác.

                Nỗi khổ lớn nhất phải chịu đựng là tình trạng thiếu nước tăng dần, đôi khi đến mức chỉ được một muỗng hơn mỗi ngày, thỉnh thoảng không có giọt nào. Vào ngày 24/1 Bodine mô tả trong nhật ký của mình bằng cách nào ông và vài người khác lẻn ra khỏi khoang tàu vào ban đêm để lấy nước ngưng đọng lại trong các xy lanh động cơ sàn của con tàu.

                . . . Cuối cùng lấy được nửa bi đông và uống một cốc nhưng bị đập ba cú bằng bá súng. Trời tối đen như mực và như không thấy gì. Lính canh nằm co ro trong một căn lều nhỏ. Nếu tôi một mình thì đã OK rồi nhưng những người khác khiến y chú ý đến tôi. Bị bắn mà được uống nước cũng đáng giá. Buổi sáng bị đá lăn lóc vì cố lấy một ít tuyết trên boong tàu bẩn thỉu. . .  Đêm qua số người chết không nhiều. Ruột mình giãn xổ ra và có những co thắt đầu tiên kể từ thứ 6. Chúng tôi đã mất quá nhiều mỡ đến nỗi cơ vòng không có năng lượng để hoạt động và cho dù có phân cũng không thể kiểm soát được sự co thắt. Lượng chất bẩn mặt trong và ngoài quần áo không sao mô tả được. Tuyết rơi nhiều sáng nay và nhiệt độ gần đến mức đóng băng. Tiếp tục cầu nguyện đây là ngày cuối cùng của chúng tôi. Chúng tôi cần hơi ấm, nước, thức ăn và vệ sinh.

                Ba ngày sau, ông viết:

                . . . Đêm nay là đêm lạnh nhất chúng tôi gặp. Giờ không thức ăn hoặc không nước buổi sáng nhưng chiều có thức ăn nhưng ít. Suốt đêm chịu đựng thống khổ. Tiêu ra quần một ít hai lần. Không thể kiểm soát vì mất mỡ. Cha Cumming đã mất. Kowalski đi rồi. Tôi là người duy nhất trong nhóm còn ở lại. Khoảng 40 người đã chết đêm qua chưa được chôn. Hi vọng kết thúc sớm . . .

                               Bodine vẫn mơ về những thác nước, mùa xuân và nước ngọt, và tỉnh giấc vì cái lạnh tê buốt, lên kế hoạch để sống trên một con thuyền làm nhà hoặc trong một xe kéo làm nhà hoặc một biệt thự trong rừng và nuôi một ít gà tây và vịt.

                Vào đêm 29/1 con tàu vào bến ở Moji, trên Đảo Kyushu của Nhật Bản, và các tù binh được khám sức khỏe – chỉ là nhét nhiệt kế vào hậu môn. Hừng sáng họ bị bắt xếp hàng trên tàu trong gió rét và mưa tuyết để nhận trang phục mới – giày, quần len, áo chẽn dày, vớ và áo lót vải bông. Những người đứng đầu hàng được nhận đủ, nhưng họ phải trả giá. Họ bị bắt lột quần áo trong giá rét tê cóng, và  nước lạnh như băng từ boong tàu chảy qua bàn chân trần, họ lóng cóng mặc quần áo vào. Lính canh đập họ bằng gậy hối thúc họ nhanh lên.

                Bodine, đứng gần cuối hàng, không nhận được gì – và đôi giày của ông vừa mới bị tịch thu. Khi ông dìu một đồng đội xuống tàu cả hai bị xít thuốc khử trùng vào người. Họ bị đẩy đi lên tuyết đến một nhà kho không lò sưởi và trống trơn gần bến tàu, tại đó Bodine đổi con dao nhíp lấy một đôi giày cũ, và có thể đổ đầy bi đông với nước lạnh như băng từ một thùng bên ngoài cửa sổ. Ông được phát một bữa ăn tươm tất đầu tiên sau hơn hai năm rưỡi: một bát cơm, vài muỗng cá muối, một con tôm, một vài lát củ cải muối, một miếng gì đó khá cay, và lát trái cây có vị như khóm.

                Thêm 6 người chết trong nhà kho lạnh lẽo. Trong số 1,619 tù binh rời Manila trên con tàu Oryoku-maru, chỉ còn lại 450 người, và ít nhất 100 người trong số này sẽ chết. Những kẻ sống sót đã có nước và một bữa ăn tươm tất nhưng vẫn trăn trở một câu hỏi: Tiếp theo là gì?

 

5.

                Cũng câu hỏi đó, nhưng theo một ý nghĩa rộng lớn hơn, sắp sửa được đặt ra ở Yalta, một nơi nghỉ dưỡng ven biển ở Crimea, nơi Ba Ông Lớn sẽ quyết định bộ mặt tương lai không chỉ của châu Âu mà còn của vùng Viễn Đông. Vào ngày 23/1, ngay trước khi Roosevelt rời Washington, Tham mưu trưởng Liên quân chính thức khuyến cáo ông rằng việc Nga bước vào cuộc chiến với Nhật là việc sống còn đối với lợi ích của Hoa Kỳ. Theo ý kiến của Marshal cũng như của MacArthur, việc chinh phục Quân đoàn Quảng Đông gồm 700,000 binh tinh nhuệ ở Mãn Châu mà không có sự hỗ trợ của Xô Viết sẽ tốn đến hàng trăm ngàn sinh mạng người Mỹ. Một vài chuyên gia tình báo hải quân Hoa Kỳ – Đại Tá Ellis Zacharias và ban tham mưu của ông – dự đoán một cách sắc sảo rằng Quân đoàn Quảng Đông này chỉ tồn tại chủ yếu trên giấy tờ, vì bộ phận cốt lõi của quân đoàn đã được thuyên chuyển đến Leyte và những khu vực bị đe dọa khác. Nhưng họ không được lắng nghe.

                Ba ngày sau Ngoại trưởng Anthony Eden gởi Churchill một bức thư từ Moscow cảnh báo ông nên để ý đến những yêu sách chính trị mà người Nga chắc chắn sẽ đòi hỏi như cái giá cho việc họ tấn công Mãn Châu.

                . . . Có lẽ không cần bàn cãi về việc Nga đòi lấy lại quyền sở hữu vùng Nam Sakhalin đã được nhượng cho Nhật theo Hiệp Ước Portsmouth vào năm 1905. Người Mỹ có thể nhìn thấu đáo hơn về bất kỳ quyền gì đòi lấy quần đảo Kurile. Nhưng một biện pháp khó khăn nhất chắc chắn là việc Mãn Châu và Triều Tiên. Chúng ta chưa biết Nga sẽ thực sự sẽ yêu sách những điều gì . . . Trong bất kỳ sự kiện nào đều hiện diện một lò lửa tiềm năng của sự tranh chấp quốc tế. Do đó, ở giai đoạn này, hình như chúng ta nên bước đi thận trọng và tránh bất cứ việc gì như cam kết hoặc khuyến khích nước Nga.

                Hội nghị khai mạc vào ngày 4/2, và mối quan tâm đầu tiên của nó là châu Âu hậu chiến. Các phiên họp đầy đủ luôn sống động, đôi khi nảy lửa, với Roosevelt luôn chơi trò hòa giải giữa Churchill và Stalin. Người  Anh có phần bất mãn vai trò trọng tài mà Roosevelt tự phong, và một ít người nói thẳng ý nghĩ của mình đối với sự dốt nát đáng sợ của ông ta về lịch sử đông Âu. Eden cảm thấy rằng việc Roosevelt muốn làm rõ với Stalin là Hoa Kỳ không kết bè kết đảng với Anh để chống lại Nga đang dẫn đến “một bối rối nào đó trong mối quan hệ Anh-Mỹ có lợi cho người Nga.” Ai cũng nhìn nhận Roosevelt là một chính trị gia lão luyện có thể nhìn ra rõ ràng một mục tiêu tức thì, nhưng “tầm nhìn xa của ông thì không hoàn toàn chắc chắn.” A. H. Birse, thông dịch viên của Churchill, nghĩ rằng Roosevelt trông mệt mỏi.  “Vẻ tự tin trước đây và giọng nói chắc nịch, hiện rõ tại Teheran, hình như không còn nữa. Giọng nói của ông bây giờ là giọng nói của một người mệt mỏi về tinh thần . . . Ông chú vui tánh, tốt bụng đã trở thành một cái bóng của cá tính trước đây của mình.”

                Mối quan hệ giữa Tổng thống và Churchill vẫn gần gũi, thân tình như giữa hai anh em và với những cảm xúc lẫn lộn của anh em. Roosevelt đã đánh liều tương lai chính trị của mình khi gởi viện trợ Thuê-Mượn cho Churchill vào năm 1940 khi người Anh đang trong thời khắc hiểm nghèo chết người – nhưng vẫn tiếp tục thuyết giảng ông anh về sự vô đạo đức của chủ nghĩa thuộc địa. “Tôi tin là ngài đang cố kết liễu Đế chế  Anh,” Churchill có lần nói riêng với  ông. Về việc này thì không có nghi ngờ gì. “Hệ thống thuộc địa có nghĩa là chiến tranh,” Roosevelt đã từng thổ lộ với con trai Elliott của mình. “Bóc lột tài nguyên của Ấn Độ, Miến Điện, Java; cướp tất cả tài sản của những xứ sở này, mà không hề trả lại cho họ cái gì, những việc như giáo dục, mức sống tử tế, điều kiện sức khỏe tối thiểu – mọi điều anh đang làm là phủ định hóa giá trị của một loại cơ cấu có tính tổ chức cho hòa bình trước khi nó bắt đầu.”

                Vào ngày 8/2 các Tham mưu trưởng Mỹ cuối cùng bàn đến mối quan tâm cốt lõi của họ – cuộc chiến Thái Bình Dương. Họ họp với các Tham mưu trưởng Xô Viết ở lâu đài của Hoàng thân Yusupov, nơi Rapustin bị ám sát, để giải quyết thỏa đáng những vấn đề quân sự Viễn Đông và đặc biệt để xác định xem Nga sẽ đi những bước nào một khi tuyên chiến với Nhật.                

                Cách đó sáu dặm ở Lâu đài Livadia, nơi đặt bộ chỉ huy của Roosevelt, Tổng thống thận trọng tiếp cận cũng câu hỏi đó với Stalin trong sự hiện diện của Ủy viên Ngoại giao Molotov, Averell Harriman và hai thông dịch viên. Livadia, được xây dựng theo phong cách Phục hưng Ý trong thời trị vì của Sa hoàng Nicholas, là một kiến trúc bề thế với tường vôi màu mật ong tô điểm bằng đá trắng. Nó đứng cao hơn 150 bộ so với Biển Đen, nhìn ra biển và núi non dốc đứng.

                Roosevelt đưa ý kiến rằng mình chủ trương oanh tạc dữ dội Nhật bằng B-29, nhờ đó tránh được phải xâm chiếm thực sự đất liền. Stalin cắt ngang ông. “Tôi muốn bàn luận,” ông nói mà không rào trước, “về những điều kiện chính trị qua đó Liên bang Xô viết sẽ bước vào cuộc chiến chống Nhật.”

                Roosevelt đã có sẵn câu trả lời. Sẽ không khó khăn gì, ông nói, liên quan đến việc Nga có được phân nửa phía nam Đảo Sakhalin và quần đảo Kurile như phần thu hồi. Còn về việc giao cho người Xô viết một cảng nước ấm ở Viễn Đông, thế việc thuê Dairen của người Trung Quốc hoặc biến nó thành một cảng tự do thì sao? Stalin không cam kết gì. Thay vào đó ông ta yêu cầu nhiều hơn – sử dụng tuyến đường sắt Mãn Châu. Roosevelt thấy không có gì tai hại trong chuyện đó, và đề nghị nó được cho thuê dưới sự điều hành của Nga hoặc dưới một ủy ban Nga-Trung.

                Điều này làm Stalin mãn nguyện nhưng ông ta nói với đôi chút hăm dọa, “Nếu những điều kiện này không thỏa mãn, sẽ khó cho tôi và Molotov giải thích với nhân dân Xô viết tại sao Nga phải lao vào cuộc chiến với Nhật, một nước không gây rắc rối gì lớn.”

                “Tôi không có cơ hội nói chuyện với Thống chế Tưởng Giới Thạch,” Roosevelt nói. “Một trong những khó khăn khi nói chuyện với người Trung Quốc là bất cứ thứ gì nói với họ thì 24 giờ sau cả thế giới đều biết.”

                Stalin đồng ý rằng không cần thiết phải nói chuyện với người Trung Quốc. “Liên quan với vấn đề cảng nước ấm, chúng tôi sẽ không làm khó; tôi không chống đối việc một cảng tự do được quốc tế hóa.”

                Họ bắt đầu bàn luận thẳng thắn về các vấn đề nội bộ của Trung Hoa. Mỹ, Roosevelt nói, đã nỗ lực để giữ cho Trung Hoa sống còn. “Trung Hoa sẽ luôn sống còn,” Stalin nhận xét với một nụ cười nhẹ, nhưng ông ta thấy lạ tại sao Quốc dân đảng và Cộng sản không thể đoàn kết trong mặt trận thống nhất chống Nhật.

                Roosevelt trả lời rằng Wedemeyer và Hurley đang gặt hái được những tiến bộ khá hơn những người tiền nhiệm trong việc đoàn kết Trùng Khánh và Vân Nam. Lỗi làm đổ vỡ nằm trong tay Quốc dân đảng và Trùng Khánh nhiều hơn là những người gọi là Cộng sản.

                Đề tài chuyển sang Triều Tiên, và Roosevelt thổ lộ rằng mặc dù cá nhân ông cảm thấy không cần thiết phải mời Anh tham gia vào việc ủy trị của quốc gia đó, họ có thể bất mãn vì không được hỏi ý.

                “Họ chắc chắn sẽ bất bình,” Stalin nói với khóe cười hoang dã. “Thật ra, ngài Thủ tướng có thể giết chúng ta.” Rồi trước sự ngạc nhiên của mọi người ông ta nói một cách hòa nhã, “Tôi nghĩ nên mời người Anh.”

                Sáng hôm sau lúc 11 giờ các Tham mưu Liên quân thảo luận về báo cáo quân sự cuối cùng, nhất trí rằng vì các mục đích kế hoạch kỳ hạn sớm nhất đánh bại Đức là 1/7/1945, và kỳ hạn cuối là 31/12/1945. Thất thủ của Nhật được ấn định 18 tháng sau ngày sụp đổ của của Đức.

                Chiều đó Roosevelt, Stalin, Churchil và những cố vấn chính của họ tụ họp trong sân Lâu đài Livadia để chụp chung một tấm ảnh. Ngay khi họ trở lại phòng khiên vũ – địa điểm của tất cả các phiên họp đầy đủ – Ngoại trưởng mới, Edward Stettinius, bắt đầu đọc kế hoạch cả ba bộ trưởng đã soạn thảo vào sáng hôm đó để giải quyết vấn đề ủy trị lãnh thổ trong Liên Hiệp Quốc . Trước khi ông có thể kết thúc, Churchill gắt gỏng la lên là ông không nhất trí một chữ nào trong báo cáo. “Tôi đã không được hỏi ý kiến hoặc nghe nói về chủ đề này cho đến lúc này!” Ông khích động đến nỗi cặp kính gọng sừng của ông trượt xuống chóp mũi. “Dù dưới bất kỳ trường hợp nào tôi cũng không đồng ý với việc các ngón tay sờ soạng của 40 hoặc 50 quốc gia xoi mói vào sự tồn tại của Đế chế Anh! Chừng nào tôi còn làm Thủ tướng tôi sẽ không bao giờ nhượng bộ một tí tẹo di sản nào của của Anh Quốc!”

                Chiều hôm đó, ngày 10/2, Đại sứ Harriman gặp Molotov tại Lâu đài Yusupov. Đại sứ Mỹ được trao một bản dịch ra tiếng Anh về các điều kiện chính trị mà Liên bang Xô viết đánh đổi với việc tham chiến chống Nhật Bản: hiện trạng ở Ngoại Mông phải được giữ nguyên, và lãnh thổ Nhật chiếm được sau chiến tranh 1904-1905 – chủ yếu phần phía nam của Đảo Sakhalin, Cảng Arthur và Dairen – phải được trao trả lại. Stalin cũng yêu sách được kiểm soát đường xe lửa Mãn Châu và quần đảo Kurile. Bù lại Nga, ngoài việc tuyên chiến với Nhật, sẽ ký kết một hiệp ước thân hữu và liên minh với Tưởng.

                Harriman nghĩ có ba điều cần sửa đổi mà Tổng thống nên làm trước khi chấp nhận. Dairen và Cảng Arthur sẽ phải là những cảng tự do, và đường sắt Mãn Châu điều hành bởi một ủy ban Trung-Nga. “Thêm vào đó, tôi tin chắc rằng Tổng thống sẽ không chịu giải quyế hai vấn đề mà Trung Hoa quan tâm này, mà không có sự nhất trí của Tưởng Thống chế.”

                Ở Livadia, Harriman đưa cho Roosevelt bản nháp đề nghị của Stalin cùng với những sửa đổi chính ông đã nêu lên. Tin chắc ông ta đang hành động vì quyền lợi cao nhất của Mỹ, Tổng thống tán thành những sửa đổi và nhờ đại sứ nộp lại cho Molotov.

                Mối quan hệ ấm áp giữa Stalin và Roosevelt, nảy nở ở Teheran, tiếp tục ở Yalta cho đến buổi chiều đó khi Churchill thông báo rằng mình đã được chính phủ “chỉ thị một cách cụ thể” không đề cập đến những con số trong vấn đề bồi thường, và Roosevelt nói mình cũng sợ rằng việc đề cập đến một con số cụ thể (Stalin đã đưa ra con số $20,000,000,000, với phân nửa là thuộc Nga) sẽ khiến nhân dân Mỹ nghĩ rằng việc bồi thường chỉ là vấn đề đô la và tiền xu.

                Đối với Stalin hình như Roosevelt đang kết bè với Churchill chống lại mình, và ông ta nổi giận thấy rõ. Mặc dù vấn đề được xử êm thấm một cách nhanh chóng, Stalin rõ ràng quá quan tâm với cảm xúc thù hận bùng phát đến nỗi ông kéo Harriman ra một bên ngay khi họ giải lao uống trà để bảo với ông ta là mình sẵn sàng thỏa hiệp với Tổng thống về thỏa thuận tham chiến chống Nhật Bản. “Tôi hoàn toàn muốn có Dairen là một cảng tự do dưới sự kiểm soát quốc tế,” ông nói. “Nhưng Cảng Arthur là một chuyện khác. Nó phải là một căn cứ hải quân của Nga và do đó Nga yêu sách một hợp đồng cho thuê.”

                “Tại sao ngài không bàn vấn đề này ngay bây giờ với Tổng thống?” Harriman đề nghị, và ngay sau đó Stalin và Roosevelt chụm đầu vào nhau trao đổi thấp giọng, sự nứt rạn ngắn ngủi của họ được chữa lành. Họ đi đến nhất trí hoàn toàn. Vấn đề duy nhất bây giờ là thế nào và khi nào bảo với Tưởng về thỏa hiệp. Tổng thống thắc mắc liệu Stalin có muốn nêu lên vấn đề này với Tống Từ Vân ở Moscow hoặc ông ta muốn mình, Roosevelt, trình bày trực tiếp với Thống chế.

                Tôi là một thanh viên có liên quan, Stalin nói. Tốt hơn nếu Tổng thống làm việc ấy. Khi nào vấn đề nên thảo luận với Thống chế? Roosevelt hỏi, nhạy cảm trước vấn đề về giữ bí mật. Tôi sẽ cho ngài hay khi tôi đã sẵn sàng cho việc này, Stalin nói, trong bụng muốn có 25 sư đoàn hơn nữa ở Viễn Đông trước khi thông báo với Tưởng Giới Thạch. Ngay lúc này Churchill tiến đến nên hai người không tiếp tục thảo luận.

                Thủ tướng không biết về thỏa hiệp cho đến sáng hôm sau. Ông sắp sửa ký tên thì Eden, hoảng kinh vì nội dung ông ta vừa đọc, ngăn ông lại. Dưới sự hiện diện của Stalin và Roosevelt vị Ngoại trưởng dán cho thỏa hiệp nhãn hiệu là “một phó phẩm tai tiếng của cuộc hội nghị.” Churchill cự tuyệt ông ta; uy tín của Anh Quốc ở phương Đông sẽ lung lay nếu ông ta làm theo lời khuyên của Eden. Ông thêm chữ ký của mình vào bản hiệp ước một cách thách thức.

                Một vài giờ sau Hội nghị Yalta kết thúc. Tại bữa ăn trưa cuối cùng có một cảm giác chung là nhẹ nhõm vì mọi việc đều tốt đẹp. Roosevelt phấn chấn tinh thần. Ông trân trọng Bản Tuyên Bố về Châu Âu Giải Phóng, sự hứa hẹn về quyền tự quyết của các quốc gia này, được công nhận, và Stalin đã đồng ý bằng chữ viết sẽ tham gia cuộc chiến chống Nhật hai hay ba tháng sau khi Đức thất thủ.*

  • Vài tuần sau hội nghị, Roosevelt triệu tập giới báo chí Mỹ và tác giả Edgar Snow đến Nhà Trắng. “Mối quan hệ của tôi với Stalin tuyệt đối tuyệt vời lần này,” Tổng thống nói. “Tôi cảm thấy cuối cùng mình cũng hiểu được người đàn ông này và thích ông ta.” Ông gạt qua một bên những e dè của Snow “với vẻ lạc quan bay bổng,” trong khi công nhận rằng người Nga rõ ràng đang “chuẩn bị làm những việc theo cách riêng của họ trong những vùng đất họ chiếm đóng.” Roosevelt hình như tin tưởng là những vấn đề tương lai có thể được giải quyết bằng sự thỏa hiêp cùng nhau. “Tôi có cảm tưởng,” ông nói, “là người Nga giờ đây đã mãn nguyện và rằng chúng tôi có thể hợp tác mọi thứ với nhau. Tôi tin rằng chúng tôi sẽ quan hệ tốt với nhau.”

 

            Có một vẻ hài lòng thầm lặng thoáng qua trong số những người Mỹ. Đối với Đại sứ Harriman đó là một thành tựu chính trị vững chắc. Stalin bằng lòng ủng hộ Tưởng Giới Thạch và công nhận chủ quyền của chính phủ Quốc dân Trung Quốc đối với Mãn Châu. Harry Hopkins tin chắc rằng đây là bình minh của một ngày mới cho tất cả mọi người. Thắng lợi đầu tiên của hòa bình là việc người Nga đã chứng tỏ  mình có thể biết lý lẽ và nhìn xa.

                Một số người  Anh, tuy nhiên, có những dè dặt nghiêm túc, đặc biệt về số phận của  Ba Lan. Sức khỏe của Roosevelt đã là một yếu tố bất lợi trong những phiên hội họp và dẫn ông đến những sai lầm nghiêm trọng. Nhưng chỉ có mình ông là người tích cực xiển dương – trước bộ mặt thờ ơ của Stalin và ngờ vực của Churchill – cái thành tựu lâu bền nhất của hội nghị, sự thành lập Tổ chức Liên Hiệp Quốc.

                Những điều kiện về thỏa hiệp của Stalin đánh người Nhật chỉ được một ít người biết đến. Nếu chúng được loan truyền chắc chắn sẽ có những chống đối về việc Roosevelt và Churchill hứa hẹn rằng quyền yêu sách lãnh thổ của Xô viết trong vùng Viễn Đông “sẽ được thực thi đầy đủ sau khi Nhật Bản bại trận.” Thật ra, Nga đã bị mua chuộc để làm một điều họ rất muốn làm. Họ không gặp rủi ro nào và chịu ít tổn thất về máu và khí tài trong việc tấn công một Nhật Bản đã bị bao vây một khi Đức bị đập tan. Hơn nữa, những chiến lợi phẩm – đặc biệt việc chiếm đóng Mãn Châu – là một điều xui giục họ tham chiến hấp dẫn hơn nhiều những cam kết bí mật thắng được từ phương Tây.        

12

 

26 “Như Địa Ngục không có Lửa”

1.

                Vài tuần trước khi đổ bộ vào Leyte, các Tham mưu trưởng Liên quân chấp thuận – do yêu cầu khẩn cấp của Raymond Spruance và ba tướng lãnh Lục quân – tiến vào Nhật Bản theo lối Iwo Jima hơn là Đài Loan. Thuận lợi trước tiên là Không Lực. Iwo Jima ở phía bắc Saipan 625 dặm và cách Tokyo 660 dặm về phía nam, một căn cứ giữa đường hoàn hảo cho kế hoạch oanh tạc VLR (Very Long Range: Tầm Rất Xa). Những pháo đài bay bị nạn có thể sử dụng nó trong trường hợp khẩn cấp, và từ đó những phi cơ Mustang P-51 tầm ngắn có thể hộ tống các B-29 trên đường tới Nhật Bản.

                Sức kháng cự của quân Nhật ở Leyte bắt buộc phải đình hoãn cuộc tiến công vào Iwo Jima, mới đầu tới 3/2 rồi dời lại tới 19/2. Spruance mềm mõng, vốn là cựu binh trong trận Midway và quần đảo Mariana, được phong tư lệnh toàn diện, trong khi Richmond Kelly Turner, người đã dày dạn trong trận Guadalcanal, được phong tư lệnh Lực lượng Viễn chinh Liên quân. Đó sẽ là chiến dịch toàn Thủy quân Lục chiến với Smith “Hét như điên” làm tư lệnh đạo quân viễn chinh. Đến lượt ông chọn Thiếu tướng Harry Schmidt chỉ huy Lực lượng Đổ bộ, gồm ba sư đoàn. Hai sư đoàn được giao nhiệm vụ đổ bộ lên bãi biễn vào ngày D, sư đoàn thứ 4 và 5, bắt đầu tập dượt việc đổ bộ gay go ở Hawai, trong khi sư đoàn thứ 3, ngược lại, tập dượt ở Guam.

                Nhìn từ biển Iwo Jima trông như một con cá voi nửa chìm trong nước nhưng nhìn từ trên không nó trông như một sườn heo béo. Đặc điểm nổi bật nhất của nó là một ngọn núi lửa đã tắt ở chóp hẹp phía nam. Chỉ cao 556 bộ (khoảng 170 mét), nó hình như trông bệ vệ hơn, nhô lên thẳng từ biển. Đó là Núi Suribachi, tiếng Nhật có nghĩa là “cái bát hình nón.”

                Đảo dài gần 5 dặm (khoảng 8 km) và rộng 2.5 dặm (khoảng 4 km) – một phần ba diện tích của Manhattan. Mặc dù núi lửa không hoạt động, toàn bộ đảo hình như còn sống với các tia hơi nước phun ra và các hố lưu huỳnh sôi sụt. Sự phối hợp giữa các dốc đá sát bờ biển và núi Suribachi lởm chởm khiến nó có dáng dấp của Đá Gibraltar. Dân đảo luôn trong tâm trạng thấp thỏm sợ rằng đảo có thể tụt xuống biển bất cứ lúc nào.

                                Phần phía bắc to rộng của đảo hình tam giác là một cao nguyên cao khoảng 350 bộ (khoảng 106 mét) với các bờ đá ven biển khó xâm nhập, nhưng tại một đoạn cuối hẹp về phía Surubachi có một dãy đất rộng bằng phẳng thích hợp để đổ bộ. Bờ biển về phía đông đã được chọn làm địa điểm tấn công của Thủy quân Lục chiến, nhưng chất tưởng như cát đen chính là tro than núi lửa, quá nhẹ đến nỗi một người nặng kí sẽ đi ngập đầu gối. Trong khi đất cằn cỗi chỉ bao phủ thưa thớt thực vật trên những bãi biển và cao nguyên lộng gió, những ngọn đồi nhỏ và thung lũng bao quanh cao nguyên dày đặc cây cối rậm rạp.

3.png

Iwo là một trong một chuỗi đảo  lủng lẳng như một vòng chuỗi từ cửa vào Vịnh Tokyo đến khoảng 300 dặm của quần đảo Mariana: đầu tiên là Đảo Izu, rồi Đảo Bonin, và cuối cùng là Đảo Núi Lửa – gồm ba đảo nhỏ trên trục bắc-nam, với Iwo Jima ở trung tâm.

                Các đảo Bonin đầu tiên được định vị vào năm 1830 khi hai người New England, một người Genoese và 25 người Hawaii đổ bộ tại Chichi Jima, cách Iwo không đến 200 dặm về phía bắc. Hai mươi ba năm sau Đô đốc Perry đến thăm Chichi và chiếm nó cho Hoa Kỳ, với ý định biến nó thành trạm tiếp tế cho các tàu hải quân Mỹ và tàu hơi nước đưa thư. Nhưng Tổng thống Franklin Pierce bác bỏ hành động của ông, và vào năm 1861 Nhật Bản, tuyên bố rằng Hoàng tử Ogasawara đã phát hiện ra Bonin vào năm 1593,  sáp nhập quần đảo Bonin vào lãnh thổ Nhật.

                Một người Anh, có tên Gore, đến quần đảo Núi Lửa vào năm 1673 và đặt tên nó là Đảo Lưu huỳnh. Sau đó một nhà thám hiểm Nga đến, vào năm 1805, nhưng không người nào thấy Núi Lửa đáng lấy làm thuộc địa, và mãi đến tám thập niên sau những người định cư đầu tiên – họ là người Nhật – mới đổ bộ trên Iwo. Giống như mọi đảo khác trong chuỗi nó được đặt dưới quyền quản trị của chính quyền quận Tokyo như một bộ phận của đất mẹ.

                Vào giữa thập niên 1930 có khoảng 1100 người lập nghiệp sống trong những ngôi nhà kiểu Nhật một tầng mỏng manh. Ngôi làng chính, Motoyama nằm hơi chếch về phía bắc của trung tâm đảo gần các hố lưu huỳnh. Rau cải, chuối, dứa, đu đủ, mía và lúa được trồng để tiêu thụ tại địa phương nhưng kinh tế thì dựa vào nhà máy đường và nhà máy tinh lọc lưu huỳnh. Nhà máy đường hoạt động kém hiệu quả đến nỗi nó biến thành nơi xử lý cây thuốc. Có hai trường học do 7 giáo viên điều hành, quán trọ Taihei-ken, và một quán ba do ba cô gái phục vụ. Sáu lần mỗi năm các tàu mang đồ cung cấp, du khách, và báo chí từ Nhật Bản đến.

                Trong toàn bộ chuỗi đảo, chỉ riêng Iwo thích hợp để làm sân bay, nhưng nhiều năm liền Hải quân Hoàng gia không chú ý lắm đến nó trừ việc thiết lập những trạm phát thanh và khí tượng. Năm 1940 Công ty Xây dựng Mabuchi bắt đầu xây dựng sân bay có hai đường băng dài gần một dặm gần chân Núi Suribachi. Mùa xuân sau một trung úy Hải quân đến với 93 người để bắt đầu xây dựng các ụ súng. Hai ngàn nhân công nhân dân sự tràn vào đảo.

                Chỉ đến đầu năm 1944 khi quần đảo Marshall bị xâm chiếm, đảo Iwo, cùng với Đài Loan, mới nhận được sự chú ý đầy đủ của Bộ Tư Lệnh Hoàng gia, Đệ nhất Tư lệnh Tsunezo Wachi, trước đây là tùy viên hải quân phụ tá (và đặc vụ tình báo) ở Mexico, đổ bộ với một lực lượng đồn trú gồm 5,170 lính, 13 khẩu pháo, và hơn 200 súng máy; Hải quân có 14 súng phòng không bờ biển, một tá khẩu pháo hạng nặng và 150 súng máy 25-mm phòng không. Nhưng giữa các đơn vị có sự phật ý, thiếu đoàn kết, và khi Trung tướng Tadamichi Kuribayashi đến vào tháng 6 để dựng lên các bộ tư lệnh cho Sư đoàn 109 và nắm quyền chỉ huy tổng quát, ông tìm thấy một cộng đồng đang chia rẽ.

                Người Nhật đã dự đoán ý định của Mỹ khá lâu trước khi họ ấp ủ. “Toàn quân và toàn nước sẽ trông cậy vào các anh trong việc phòng thủ hòn đảo cốt lõi đó,” Tojo đã bảo với Kuribayashi 53 tuổi. Sự đánh giá của người Nhật về các mục tiêu của Mỹ hình như được khẳng định nửa tháng sau khi Kuribayashi đến. 51 máy bay ném bom – với mục tiêu duy nhất là hủy diệt không lực của hòn đảo – bắn hạ 66 máy bay đánh chặn và sau đó oanh tạc Iwo gần như là tùy thích.

                Cuộc đột kích làm Kuribayashi tỉnh hẳn. Dù sao thì ông cũng bày tỏ sự tin cậy vào các thuộc hạ của mình. “Khi kẻ thù đến đây, chúng ta có thể kiềm chế họ,” ông bảo một thiếu tá mới đến, Yoshitaka Horie, qua ly rượu uýt-ki, “và rồi Hạm đội Hổn hợp của chúng ta sẽ đến vả vào mặt họ. Điều đó có nghĩa là vai trò chúng ta ở đây là hành động cầm cự.”

                Horie hiểu về Hải quân nhiều hơn hầu hết các người thuộc Hải quân; anh đã làm việc một năm trong việc cải tổ hệ thống hộ tống. “Tướng quân,” anh nói, “không còn có Hạm đội Hổn hợp nữa. Một số lực lượng hải quân phân tán vẫn còn duy trì, nhưng họ không có sức giáng trả. Bộ ngài không được thông tin gì về những kết quả của A-Go sao?” Anh mô tả cuộc thảm bại hủy diệt ở ngoài khơi quần đảo Marianna mười ngày trước.

                Vị tướng kết tội anh say xỉn. “Đảo này nằm dưới quyền hành chính của thành phố Tokyo!”

                “Khi tôi nhìn hòn đảo này từ trên không,” Horie trả lời, “tôi nghĩ việc tốt nhất phải làm là đánh chìm nó xuống đáy biển.” Việc này có thể thực hiện bằng số lượng thuốc nổ vừa đủ.

                “Cậu xỉn rồi,” Kuribayashi lập lại, nhưng không mấy chắc chắn. Vào buổi sáng ông dẫn Horie ra bãi biển ở chân Núi Suribachi. Ông ném mình xuống bãi cát đen như thể ông vừa mới đổ bộ lên bờ biển. “Bãi biển này thì rộng,” ông nói và chỉ vào một đường băng gần đó. “Vâng, kẻ thù sẽ đổ bộ tại đây. Không thể khác được.”

                Kuribayashi chắc hẳn có ấn tượng với Horie – hoặc ít nhất với thông tin mà anh nắm được. Ông khẩn khoản mời vị thiếu tá đến ăn tối với ông lần nữa. Họ uống tiếp và thình lình Horie bất giác nói về thảm họa ở Midway, và tình trạng đáng thương của đoàn hộ tống. Kuribayashi, tâm trí rối bời, cố xem thường những gì Horie nói, và gọi anh là “một bách khoa toàn thư biết đi.” Nhưng sự chống đối này khiến Horie càng có sức thuyết phục hơn. Gương mặt vị tướng bổng xanh mét khi vị thiếu tá tiết lộ sự rút lui của Hạm đội Hổn hợp từ Truk đến Palau, và rồi đến Phi Luật Tân.

                “Ngày 19 tháng 6 đánh dấu cái chết của Hạm đội Hổn hợp và Nhật Bản,” viên thiếu tá nói, đôi mắt lấp lánh nước mắt. Anh cố tằng hắng. “Nếu chúng ta mỗi người giết được 10 kẻ thù trước khi chết, thế giới sẽ nhận ra chính chúng ta mới là người thực sự chiến thắng!”

                “A,” Kuribayashi thở dài, “tôi không biết điều này.”

                “Về cá nhân tôi đã cam chịu chết.” Horie rút ra một gói xyanua. Tình táo, hai người ngồi trong im lặng.

                Kuribayashi ra lệnh dân chúng di tản và tăng tốc chương trình xây dựng các công sự phòng thủ ngầm trong khối nham thạch xốp. Ông đã quyết định phòng thủ đảo theo chiều sâu thay vì tập trung nỗ lực tiêu diệt kẻ thù trên bãi biển, và vào giữa mùa hè Iwo được đào hầm và hang động. Quân số đồn trú tăng lên 7,350. Hải quân tăng lên đến 2,300 và có một chỉ huy mới, Thiếu tướng Hải quân Toshinosuke Ichimaru, một phi công kinh nghiệm vẫn còn đi khập khiễng sau vụ rớt máy bay thực nghiệm vào năm 1926. Việc chỉ huy trận chiến mới đã tạo cho ông cảm hứng thi ca:

                                Để tôi rơi như một cánh hoa.

                                Bom quân thù có thể nhắm vào tôi, đạn kẻ thù

                                Chọn tôi làm mục tiêu

                                Tôi đi, và không bao giờ trở lại.

                                Quay đầu lại, tôi nhìn ngọn núi uy nghi [Núi Phú sĩ]

                                Cầu mong Hoàng thượng sống lâu dài như núi.

                 Vào ngày 10 tháng 8 Thiếu tá Horie, hiện giờ đang ở Chichi Jima, trở lại Iowa để thiết lập hệ thống vận tải đồ tiếp tế khẩn cấp. Anh mang theo quà tặng là hai chai nước – không có suối trên đảo – và một số rau cải cho bộ tư lệnh Sư đoàn 109. Kuribayashi đang ngồi trên hiên trong một tâm trạng thoải mái, cho dù 28 xe tăng mới đây đã chìm khi chuyển đến. Hầu hết Trung đoàn Bộ binh 145 đã đến an toàn, và ông hài lòng thấy họ rất bài bản. Nhưng vào buổi chiều, sau vài ly uýt-ki, ông phàn nàn là ông không thể trông cậy vào ban tham mưu của mình. Đã có sự chống đối ngày càng tăng về chiến thuật phòng thủ cực đoan của ông. “Họ phản ứng rất lề mề với mọi việc, và tôi không thể kềm chế được sự kiên nhẫn.” Tình hình ở Chichi Jima thế nào rồi?

                Có nhiều sĩ quan luống tuổi ở đó. Một trung tá, hơn 60 tuổi, đã hỏi Horie, “Tại sao lại đào quá nhiều hang? Dù sao thì tất cả chúng ta cũng sẽ chết mà.”

                “Nhật Bản đã đến cuối con đường,” Kuribayashi suy nghĩ và rót cho vị thiếu tá một ly uýt-ki khác.

                Sự tức giận của vị tướng với bộ tham mưu làm Horie bối rối vào ngày hôm sau tại nghi thức sáng truyền thống trước bộ tư lệnh Sư đoàn. Sau khi mọi người đã quay mặt về Hoàng cung và cúi đầu, sĩ quan phụ tá bắt đầu đọc nhật lệnh. Kuribayashi cắt ngang và chỉ trích tham mưu trưởng của ông, Đại tá Shizuichi Hori, vì bộ râu cá chốt rễ tre của ông ta. Sau đó Thiếu tá Horie thăm bộ chỉ huy của đơn vị lớn nhất trong Sư đoàn 109, Lữ đoàn Hổn hợp thứ 2 với 5,000 quân và bị các chỉ huy của nó, Thiếu tướng Kotau Osuga, và Đại tá có bộ râu chướng mắt, níu áo lại. Trong 20 phút hai người phàn nàn về việc Kuribayashi khăng khăng một cách tùy tiện không chịu bảo vệ bãi biển. Việc đó có nghĩa là cho không sân bay số 1, đường băng duy nhất đủ dài cho các oanh tạc cơ cất cánh.

                Đô đốc Ichimaru cũng chống đối kế hoạch của Kuribayashi và chiều đó ông cùng ba sĩ quan hải quân khác gặp mặt vị tướng có sự hiện diện của Horie. Tư lệnh Hijiri Urabe của Phi đội thứ ba nói rõ là mình đang chuyển tải ý kiến của Bộ Tổng Tham mưu Hải quân, không phải ý kiến của cá nhân mình. “Hải quân muốn xây dựng những công sự bê tông ngầm quanh Chidori [Sân bay số 1] và sẵn sàng để gởi khoảng 325 súng máy cũng như vật liệu xây dựng cần thiết. Kẻ thù chỉ có thể đổ bộ gần Chidori. Do đó, nếu chúng ta phòng thủ với công sự nằm sâu, Iwo Jima có thể bất khả xâm nhập.”

                Chính người khách từ Chichi, chứ không phải Kuribayashi, phản ứng. “Pháo của chúng ta có thể đứng vững được bao lâu dọc theo bãi biển ở Saipan và Guam? Ngài làm ơn cho tôi thấy các công sự ở bờ biển có hiệu quả đến đâu ở Tarawa? Cuộc phòng thủ trực diện chống lại hàng trăm pháo hạm và phi cơ là điều vô ích. Những bài học chúng ta đã học được ở Saipan, Guam và Tinian đã dạy ta rõ ràng rằng cách phòng thủ tốt nhất là bắn tỉa kẻ thù từ các hang động. Chúng ta phải nhận thức rằng chúng ta không thể phòng thủ một bãi biển.” Ngoài ra, Thiếu tá Horie nói thêm, các hạm pháo lớn của kẻ thù có thể làm nổ tung bất kỳ công sự nào. “Trong trường hợp này, bao lâu chúng ta có thể giữ vững Iwo Jima?” Anh đề nghị rằng những khẩu pháo và khí tài Hải quân nên được sử dụng để củng cố sức phòng thủ Núi Suribachi và vùng Motoyama.

                “Tôi đồng ý với Thiếu tá Horie,” Kuribayashi nói cụt ngũn.

                Urabe hỏi vị tướng nên xét lại, rồi quay về phía Horie với một nụ cười gượng gạo. “Tôi thật sự ngạc nhiên là Thiếu tá Horie, người luôn được coi là thân hữu với Hải quân, lại chống đối tôi.”

                “Nếu tôi không đọc được những báo cáo chiến trường từ Guadalcanal, Saipan và Guam, chắc tôi cũng sẽ đồng ý với Hải quân mà không do dự. Giờ lương tâm không cho phép tôi làm thế.”

                Kuribayashi vẫn giữ lập trường chống đối việc phòng thủ mạnh mẽ trên bãi biển, nhưng ông cũng cần sự hợp tác của Hải quân để tiếp tế khí tài, vũ khí, đặc biệt thuốc nổ, xi măng và súng máy. Sáng hôm sau ông đề nghị thỏa hiệp: Hải quân có thể sử dụng nửa số vật liệu cho các công sự trên bãi biển nếu phần còn lại giao cho Lục quân. Tư lệnh Urabe vui vẻ tiếp nhận đề nghị. “Hôm qua tôi đã hứa gởi cho ngài đủ số vật liệu xây dựng cho 300 công sự,” ông nói. “Ngay khi trở lại Nhật tôi sẽ đôn đốc để kiếm đủ 350.”

b.png

                Kuribayachi triệu tập tất cả chỉ huy và thông báo chính thức kế hoạch trận đánh: họ không phải khai hỏa vào các tàu đổ bộ hoặc kháng cự lại sự đổ bộ trên bãi biển khi chưa được lệnh. Một khi mà kẻ thù dấn sâu vào đất liền 500 bộ (khoảng 150 mét), các vũ khí tự động gần sân bay cũng như khẩu pháo trên Suribachi và cao nguyên Motoyama sẽ khai hỏa. Tướng Osuga và Đại tá Hori còn định phản đối Kuribayashi nhưng ông đã nói át đi. “Một khi kẻ thù tiến sâu vào đảo,” Kuribayachi nói, “mỗi người sẽ kháng cự cho đến cuối, biến chỗ đứng của mình là lăng mộ. Mỗi người sẽ làm tốt nhất để giết 10 kẻ thù.”

                Lực lượng đồn trú gồm 21,000 quân – 14,000 Lục quân và 7,000 Hải quân – được phân bố trong năm khu vực với 1860 người giữ Núi Suribachi, tại đó họ phải chiến đấu độc lập, giữ chân kẻ thù lâu như có thể. Nhiều hang động đã được đào trong sườn núi nhìn ra bãi biển, lối vào hang động được xây nghiêng để che chở khỏi bom nổ và súng phun lửa. Bên trong núi, công việc gần như đã hoàn tất trên một hành lang rộng có tầng – có hơi nước, nước, điện và tường vôi.

                Phần còn lại của đảo được rải khắp với các công sự bê tông tường dày. Nhiều cái có gia cố bổ sung: những đống cát cao 50 bộ (khoảng 15 mét). Các khẩu hạm pháo bờ biển lớn được bố trí dọc theo bãi biển, và các súng phòng không được đặt ở vị trí thuận lợi để tiêu diệt địch.

                Khu vực phía bắc của đảo là một hang thỏ gồm những hang động thiên nhiên và nhân tạo, chúng là những mê lộ gồm các phòng ngầm nối liền nhau bằng đường hầm được thông phía trên cho hơi nước và khí lưu huỳnh thoát ra. Một hang, bộ chỉ huy Lữ đoàn, tọa lạc gần Motoyama, có thể chứa 2,000 quân; nó sâu khoảng 75 bộ (khoảng 22 mét) và có một chục lối vào.

                Phòng tuyến chính đầu tiên – một mạng lưới các vị trí được đào để đặt pháo, súng máy nhẹ và thậm chí các xe tăng được chôn lấp – chạy dọc theo bờ nam của cao nguyên giữa hai sân bay. Phòng tuyến thứ hai chạy quá sân bay thứ hai một chút qua Motoyama.

                               Kuribayashi viết thư về nhà đều đặn. Ông khiển trách bà xã đi thăm viếng quá nhiều, và cô con gái lớn nhất, Yoko, vì viết chính tả quá kém và chữ viết quá xấu. Khi bà Kuribayashi than thở là cuộc sống ở Tokyo càng lúc càng không thể chịu được, ông chỉ ra rằng Iwo Jima còn tồi tệ hơn.

                . . . Nguồn tiếp tế duy nhất của chúng tôi là nước mưa. Anh chỉ có một cốc nước để rửa mặt – đúng ra, là rửa mắt, rồi Trung úy Fujita [phụ tá của ông] sử dụng lại nước đó. Xong xuôi, anh giữ nước đó cho phòng vệ sinh. Binh lính thậm chí không hưởng được nhiều như thế. Mỗi ngày, sau khi đã đi thanh tra những vị trí phòng thủ, anh ao ước có được một cốc nước lạnh mà không có. Ở đây có nhiều ruồi lắm. Cóc nhái cũng nhiều, chúng bò khắp nơi trên mình chúng tôi. Chúng rất dơ bẩn. May thay không có rắn hoặc loại bò sát độc.

                               Vào ngày 12 tháng 9 ông chuẩn bị sẵn sàng cho bà về những gì ông biết đang đến gần.

                . . . Kẻ thù có thể đổ bộ trên đảo này sớm thôi. Khi đó, chúng tôi phải đi theo số mệnh của những người ở Attu và Saipan.

                Các sĩ quan và binh lính của anh hiểu về “Cái chết” rất rõ ràng. Anh rất tiếc phải kết thúc cuộc sống của mình nơi đây, chiến đấu với người Mỹ nhưng anh muốn bảo vệ hòn đảo này lâu như có thể và làm trì hoãn những cuộc ném bom lên Tokyo của kẻ địch.

                À! Em đã làm việc chăm chỉ trong một thời gian dài như một người vợ hiền và mẹ của ba đứa con. Cuộc sống của em sẽ càng ngày càng cam go hơn và bấp bênh hơn. Hãy chăm lo sức khỏe và ráng sống lâu. Tương lai của con cái chúng ta cũng sẽ không dễ chịu gì. Nhờ em chăm sóc chúng nó sau khi anh mất rồi.

                Ông cũng cảnh báo với Yoko và con trai duy nhất của mình, Taro, là chúng sẽ đối mặt với một tương lai u ám.

                Việc kẻ thù đổ bộ lên đảo của ba chỉ là vấn đề thời gian. Nếu cuộc phòng thủ thất bại, Tokyo sẽ bị oanh kích ngày và đêm. Không thể nào diễn tả cho hết những hỗn loạn, khủng khiếp và hoảng loạn mà một trận oanh kích gây ra. Những ai sống nhàn hạ ở Tokyo không thể tưởng tượng được điều đó là thế nào. Do đó, trong trường hợp bị oanh kích, việc quan trọng nhất là toàn bộ gia đình phải luôn ở bên nhau. Ai tách khỏi gia đình có thể chết trên đường đi. Điều này thực sự xảy ra trong trận động đất Kanto năm 1923. Các con phải làm việc cho gia đình mà mẹ là trung tâm.

                Không cần biết qui định của trường học, các con phải bảo vệ gia đình trước tiên. Các con không được tuân theo những qui định một cách máy móc vì tình hình sẽ rất nghiêm trọng để con có thể lo lắng về sự an nguy của nhà trường. Giả sử con muốn đi đến trường để cứu giúp trong khi ngôi nhà riêng của mình bị tiêu hủy và mẹ con chết thì sao? Con sẽ làm gì lúc ấy? Con phải chia sẻ số phận với mẹ các con.

                Một khi mà Tokyo bị oanh kích điều đó có nghĩa là Iwo Jima đã bị kẻ thù chiếm đóng. Có nghĩa là cha các con đã chết. Nói cách khác các con – chị em mồ côi cha – phải phụ thuộc vào mẹ các con. Các đứa trẻ không cha không quá đáng thương nếu vẫn còn mẹ. Và từ giờ trở đi các con phải tập quen dần với việc sống mà không có cha bên cạnh.

                Ít lâu sau ông viết cho Taro một bức thư riêng nhấn mạnh những bổn phận của cậu như một người con trai duy nhất.

                . . . Cuộc sống của ba như ngọn đèn trước gió. Chắn chắn là ba cũng sẽ có cùng số phận như tư lệnh đảo Saipan, Tinian và Guam. Ba không thể sống sót. Do đó, con là nhân vật trung tâm của gia đình ta và phải giúp đỡ mẹ. Cho đến giờ này con là đứa con trai được nuôi dưỡng trong nhà kính. Khi ba ở Tokyo ba cố gắng huấn luyện con theo kiểu khắc khổ nhưng có lẽ con không nhận ra là ba làm việc ấy vì tình yêu thực sự của một người cha. Sau này, con có thể hiểu ra.

                Ông khuyên Taro đọc sách, học tập, bỏ thuốc, tránh uống rượu, vui vẻ ở nhà để mọi người luôn lạc quan, và sử dụng cả hai mặt giấy không răng cưa và khoảng trống khi viết những bức thư sau này.

                Vào cuối tháng 11 các thành lũy ngầm và các ụ súng – khoảng 800 súng tất cả – đều sẵn sàng khai hỏa. Sân bay số 2 đã được vận hành và thêm một đường băng thứ ba đang được khởi công, dài một dặm ở phía bắc. Kuribayashi cũng đã giải quyết những bất mãn trong bộ tham mưu của mình. Ông đã cách chức tham mưu trưởng hay nói thẳng của ông, Đại tá râu mép Hori, và chỉ huy Lữ đoàn Hổn hợp thứ 2, Tướng Osuga, và gởi cả hai xuống một bệnh viện ngầm trên đảo “để phục hồi sức khỏe.”

                Vào ngày 21/1, 1945, Kuribayashi bảo bà xã thôi đừng cầu nguyện cho ngày trở về của ông. Ông quyết sẽ chết tại Iwo:

                . . . Anh không cần biết mộ mình nằm ở đâu. Tro cốt anh không mang về nhà và linh hồn anh sẽ ở lại với em và các con. Hãy ráng sống lâu như có thể và nhờ em chăm sóc các con.

                Ông cũng nhắc nhở em mình đừng lùm xùm chuyện ông lên báo.

                Hãy đặt một bia đá trên mộ anh với những dòng chữ đơn giản sau: “Mộ của Trung tướng Tadamichi Kuribayashi.” Đừng để các phóng viên báo chí hay tạp chí lôi chuyện anh lên mặt báo. . . Anh muốn tên tuổi anh được giữ sạch sẽ thậm chí sau khi anh chết.’

2.

                Suốt sáu tuần lễ Iwo Jima bị đánh bom mỗi ngày bởi những B-24 từ quần đảo Marianna thỉnh thoảng có sự hỗ trợ của siêu pháo đài bay.  Nhưng cuộc tấn công ác liệt nhất đến từ biển, và vào 15/2, các tàu chiến đã bắn vào hòn đảo nhỏ 21,926 quả pháo. Thật đáng nễ, vì thương vong tương đối ít, các binh lính phòng thủ đã chui xuống hầm. Bình minh hôm sau sáu tàu chiến, bốn tàu tuần dương  hạng nặng và một hạng nhẹ đến đậu ngoài khơi Núi Suribachi. Những tàu khu trục và hộ tống khu trục phóng ra tới trước mặt chúng, và một tá tàu sân bay em bé, ở cách đảo 50 dặm về phía nam, gởi những đội tuần tra chống tàu ngầm và chiến đấu cơ.                                                                      

                Thông tín viên và tác giả John P. Marquand, cha đẻ của nhân vật thám tử lừng danh Đông phương Motto viết rằng thật khó để lầm lẫn Iwo Jima “với cái gì khác hơn là một hòn đảo Nhật Bản, vì nó có màu sắc tinh tế nhẹ nhàng của một bức tranh lụa.”

                Các chiến hạm và tàu tuần dương  bắt đầu đợt pháo kích. Việc nã pháo “hóa ra là một sự thăm dò cẩn thận, chậm rãi những mục tiêu gần như là vô hình, với những khoảng lặng dài buồn tẻ giữa những lần pháo.” Nó nhắc cho Marquand nhớ đến “những cú nhún nhảy và đánh nhử của các võ sĩ quyền anh trong giây phút đầu của hiệp một. Nói một cách khác, lực lượng tác chiến của chúng ta giống như một nhóm người săn mồi vây quanh một con thú dữ bị thương. Họ đang từ từ tiến đến nó thận trọng, ra sức đo lường sức mạnh của nó và đồng thời dụ nó vào cuộc giao đấu.”

                Trừ một ít loạt đạn chưa được phép, quân Nhật vẫn im tiếng súng. Rồi đám mây đen trùm xuống hòn đảo như một tấm khăn choàng bảo vệ, và mặc dù trận pháo kích vẫn tiếp tục từng đợt đến chiều tối, sự thiêt hại là không đáng kể.

                Về phía bắc, nội địa Nhật Bản cũng bị đột kích từ biển. Phi cơ từ Lực lượng Tác chiến 58 của Mitscher, táo bạo tiến sát trong vòng 60 dặm cách nội địa, đang đánh phá các hảng xưởng gần Tokyo sản xuất khung và động cơ máy bay. Sáng hôm sau, ngày 17/2, các oanh tạc cơ của ông bỏ bom các xưởng Musashino, trước đây cũng là mục tiêu của phi đội B-29. Vừa trước trưa, tuy nhiên, thời tiết xấu đi, và Mitscher quay về Iwo Jima để yễm trợ lực lượng đổ bộ, reo mừng vì kết quả đánh phá của mình, đặc biệt kỳ công chống lại phòng không Nhật Bản: 341 máy bay địch đã được báo cáo bị bắn hạ và 190 bị phá hủy trên mặt đất mà ta chỉ thiệt hại 49 phi cơ.

                Tại Iwo Jima thời tiết đã cải thiện và tầm quan sát tốt ra. Những tàu dò mìn ở cách bờ biển 750 ya (khoảng 685 m) thu hút hỏa lực phân tán từ đảo, và tuần dương hạng nặng Pensocola tiến vào để hỗ trợ. Mục tiêu này quá hấp dẫn đối với một ổ pháo. Pháo bắn trúng tàu tuần dương  sáu lần trước khi nó rút lui với 17 người chết và 120 người bị thương. Tàu khu trục tiến vào để che chở các xuồng pháo trang bị hỏa tiển cách bờ biển 1,000 ya (khoảng 914 mét). Tàu cao tốc chứa đầy người nhái băng qua tuyến này.

                Quân Nhật rúng động, vì vẻ tỉnh bơ của kẻ thù cũng như cảnh phô diễn sức mạnh của họ. Nhạc phổ thông bập bùng trên mặt biển, như thể từ một nhóm người đang dạo chơi, và họ có thể trông thấy những thủy thủ Mỹ vắt khăn qua cổ trố mắt nhìn hòn đảo như thể các du khách đang ngắm cảnh. Kuribayashi không còn nghi ngờ gì cuộc đổ bộ đã bắt đầu. Vào lúc 10:35 sáng ông ra lệnh vài khẩu đội pháo khai hỏa nhắm các xuồng pháo, đang bắn trả với các hỏa tiển của chúng. Để đáp trả đến lượt các đại pháo dấu ở chân núi Suribachi và ở đầu mút phía bắc của Iwo khai hỏa. Vài xuồng pháo bị trúng đạn, và các phi cơ thả một màn khói che phủ trong khi các tàu khu trục bắn những loạt đạn lân tinh trắng. Các xuồng cao tốc, vẫn tiếp tục tiến về đảo  không nao núng, quay gắt khi đến gần bờ, và khoảng 100 người nhái nhảy tòm xuống nước. Họ không tìm thấy chướng ngại vật dưới nước hoặc trên bãi và một ổ mìn duy nhất, đã được cho nổ.

                Tại Sân bay Số 2 có hai chiến đấu cơ Zero còn hoạt động được, trang bị những quả bom 60 kí, ẩn núp bên trong tường chắn bằng bê tông. Các phi công được ra lệnh đâm vào con tàu lớn nhất họ có thể đến được, nhưng một người chần chừ. “Dù thế nào cậu cũng chết mà,” một bạn nói. Viên phi công khăng khăng nói mình đau đầu. Chỉ huy của họ quay về phía một nhóm phi công và hỏi một người tình nguyện. Một người rướn mình vào phi cơ. Lớp ngụy trang được tháo dỡ, và hai Zero lăn bánh ra khỏi tường chắn vào đường băng. Họ xoay sở bay lên không, nhưng khi họ lướt qua Suribachi cả hai đều bay vào tầm đạn pháo và rơi tòm xuống biển.

                Ngày thứ hai của trận oanh kích kết thúc, và Kuribayashi, nghĩ rằng mình đã đẩy lùi cuộc đổ bộ, báo tin thắng lợi về Tokyo. Đô đốc Toyoda của Hạm đội Hổn hợp đánh điện chúc mừng Đô đốc Ichimaru:

                MẶC DÙ KẺ THÙ OANH TẠC VÀ PHÁO KÍCH RẤT DỮ DỘI, ĐƠN VỊ CỦA ÔNG Ở IWO PHÁN XÉT TỈNH TÁO Ý ĐỊNH CỦA ĐỊCH VÀ LÀM THẤT BẠI NỖ LỰC ĐỔ BỘ ĐẦU TIÊN VÀ BÌNH TỈNH CHỜ ĐỢI CUỘC ĐỔ BỘ TIẾP THEO, QUYẾT TÂM GIỮ VỮNG IWO VỚI BẤT CỨ GIÁ NÀO. TÔI VÔ CÙNG VUI MỪNG KHI NGHE ĐƯỢC TIN ĐÓ, VÀ TÔI CẦU CHÚC CÁC BẠN TIẾP TỤC DUY TRÌ KHÍ THẾ VÀ ĐẨY LÙI KẺ THÙ, CHO DÙ CUỘC TẤN CÔNG CÓ ÁC LIỆT ĐẾN ĐÂU, VÀ GIỮ VỮNG PHÒNG TUYẾN ĐẦU CỦA TỔ QUỐC CHÚNG TA.

                Hai ngày pháo kích gây ra ít thương vong nhưng đã làm lộ ra những khẩu đội pháo ẩn núp của Kuribayashi và qui mô của công cuộc phòng thủ của ông, khiến người Mỹ duyệt lại một cách hiệu quả bản đồ oanh kích của họ trong ngày cuối cùng. Hỏa lực sẽ được tập trung trên khu vực chung quanh bãi biển đông nam, bãi biển mà Thủy quân Lục chiến sẽ đổ bộ.

                Bầu trời buổi sáng đầy mây với mưa rào. “Pháo sát bãi biển và quét lên,” chỉ huy Lực lượng Pháo binh và Bắn Che ra lệnh vào lúc 7:45 sáng. Lần đầu tiên việc pháo kích phát huy sức hủy diệt; những hình ảnh cho thấy phân nửa số công sự và hầu hết lô cốt trên bãi biển đã bị giật bung khỏi nền móng.

                Tối đó Thủy quân Lục chiến của sư đoàn 4 và 5, đã rời Saipan trên những chiếc LST và tàu vận tải vào ngày 15 và 16 tháng 2, đi thành hàng nhận thức ăn, kiểm tra quân dụng, ba lô và vũ khí. Không có gì căng thẳng hoặc bồn chồn hiện rõ. Mỗi người trông vô sự như ngày hôm qua.

                Trong cabin của mình trên tàu chỉ huy, Eldorado, Smith “Hét Như Điên” đang đọc Kinh Thánh. Người của ông sẽ chịu thương vong nghiêm trọng khi họ đặt chân lên bãi biển trong ít giờ tới. Ông theo hội Giám lý nhưng ông mang một huy chương St. Christopher được Giáo hoàng ban phép. Vài tuần trước ông đã viết cho Trung tướng Alexander Vandergrift, hiện giờ là Tư lệnh của Quân đoàn Thủy quân Lục chiến, rằng ông cảm thấy việc chiếm một pháo đài như Iwo Jima không đáng phải trả bằng những thương vong nặng nề mà lính ông phải chịu đựng.

                . . . Trong hai trường hợp riêng lẻ tôi quả quyết là hỏa lực hải quân là không đủ, với kết quả là nó đã được tăng cường đến một mức độ nào đó, nhưng vẫn không đủ, theo ý kiến tôi, để đáp ứng nhu cầu. Tôi chỉ có thể đạt đến mức đó.

                Chúng tôi đã làm tất cả điều có thể để sẵn sàng. . . và tôi tin tưởng nó sẽ thành công, nhưng nghĩ về số thương vong phải chịu khiến tôi vô cùng khổ sở. . . Ước mong Ơn Trên cho điều gì đó xảy ra để chiến dịch này được hủy bỏ hoàn toàn.

                Vào 3:30 sáng ngày D – 19 tháng 2 – Thủy quân Lục chiến có bữa điểm tâm bằng thịt bò. Lúc mà họ bước ra boong tàu đến mạng lưới xuống tàu thì trời đã sáng, và qua sương mù họ có thể nhìn thấy đảo Iwo, trông cô đơn như một hoang đảo. Núi Suribachi mất hút trong một đám mây thấp như một điềm gở.

                Tàu vận tải và đổ bộ lắc lư qua mặt nước yên tĩnh đi về phía những vị trí xuống “hàng” của họ. Lúc 6:40 sáng bảy tàu chiến, bốn tàu tuần dương nặng và bốn tàu tuần dương nhẹ bắt đầu trận oanh tạc trước giờ-H ác liệt nhất trong cuộc chiến. Năm phút sau chín xuồng pháo rải như mưa rào những hỏa tiển lên cao nguyên Motoyama trong khi những xuồng pháo khác phun hàng loạt đạn cối vào sườn núi Suribachi. Vào 8:30 việc oanh tạc lắng xuống để 120 phi cơ bỏ bom trải thảm bãi biển đông nam, Suribachi và Sân bay Số 1 bằng hỏa tiển, bom na-pan và bom nổ. Họ bay lên ra khỏi đột ngột như khi xuất hiện và cuộc pháo kích tiếp tục. Lần này có 10 tàu khu trục tham gia. Hòn đảo hình như lung linh qua tấm vải liệm đâm chồi của bụi và khói. Nhiều phi cơ hơn chúc xuống, bắn phá bãi đất đen bằng những loạt đạn. Đó là một trận oanh kích “khủng khiếp” nhất mà thông tín viên Robert Sherrod đã từng chứng kiến. “Mặc dù đã nhìn thấy việc này nhiều lần,” anh ghi lại trong sổ tay. “Tôi không khỏi nghĩ thầm, ‘Không ai có thể sống được qua trận pháo này.’ Nhưng tôi biết rõ hơn.”

                Ngồi thu lu trong công sự, lô cốt và hang động, binh lính Nhật chịu đựng những chấn động, ngón tay bịt kín các lỗ tai. Chỉ thị cuối cùng từ Kuribayashi đã rất rõ ràng:

                Trên hết mọi thứ, chúng ta sẽ cống hiến chính mình và toàn bộ sức mình cho công cuộc phòng thủ hòn          đảo này.

                Chúng ta sẽ nắm lựu đạn, tấn công xe tăng địch và phá hủy chúng.

                Chúng ta sẽ xâm nhập vào giữa kẻ thù và tận diệt chúng.

                Với mỗi loạt súng chúng ta sẽ giết chết kẻ thù, không hề thất bại.

                Mỗi người phải hoàn thành bổn phận giết đủ 10 địch trước khi chết.

                Chúng ta sẽ quấy nhiễu kẻ thù bằng các chiến thuật du kích cho đến khi bị hủy diệt đến người cuối cùng,  

                Từ miệng hang của mình trên Suribachi, xã trưởng Kiyomi Hirakawa – một cựu viên chức chính quyền – nhìn chết trân khi một đoàn tàu khổng lồ của kẻ thù lù lù tiến tới nơi. Thật là đẹp và có khí thế, ông nghĩ. Chính cỗ máy đồ sộ đã làm ông kinh sợ, chứ không phải kẻ địch. Ông hiểu tất cả về chiến binh Mỹ, từ những tài liệu tuyên truyền và các truyền đơn. “Họ tự cho mình là những chiến sĩ can trường,” một truyền đơn như thế có tựa Tâm Lý Cá Nhân của Người Mỹ viết, “vậy mà không hề khao khát đem vinh quang cho tổ tiên hoặc cho hậu thế, cũng như vinh quang cho gia đình. Với tư cách cá nhân họ chỉ muốn được biết đến và được ca ngợi là can trường. Họ là những người yêu phiêu lưu và nguy hiểm. Có những chuyện kể về những người Mỹ ráng sức vượt qua thác Niagara trong một chiếc thùng. . . Họ sợ chết, nhưng là những cá nhân, họ không nghĩ ngợi nhiều về những xảy ra sau đó. Chẳng hạn, khi thực hiện điều gì đó phiêu lưu, ho không sợ chết. Họ là những tên nói dối bậc thầy. Họ bị lừa phỉnh bằng thói xu nịnh và tuyên truyền. Những khao khát của họ thiên về vật chất. Họ bước vào trận đánh không vì động lực tinh thần, mà chỉ trông cậy vào sự vượt trội về vật chất.”

                Những tàu đổ bộ LST, chứa binh sĩ trong năm đợt tấn công đầu tiên, di chuyển vào vị trí cuối cùng cách bờ biển 5,500 ya (khoảng 5,000 mét) Những khẩu hiệu như “Quá Trễ để Lo Lắng” được viết nguệch ngoạc trên thang. Những thang này hạ xuống nặng nề, và những chiếc xe lội nước bắt đầu vọt ra biển và lướt trên mặt nước về phía Iwo. Đợt đầu tiên gồm 69 xe lội nước mỗi chiếc chở khoảng 20 người, trườn tới bãi biển lúc 9:02 sáng, hai giờ sau giờ-H, và bắt đầu bò tới. Vào đất liền 20 ya chúng gặp phải một thềm có dốc cao 15 bộ (khoảng 4.5 mét). Xe lội nước khuấy tung lên dữ dội lớp tro núi lửa đen, xốp như đường, nhưng chỉ có một số ít vượt qua dốc được. Những xe khác buộc lòng phải nôn ra binh lính bên trong ở chân dốc, ở đó những binh sĩ vác nặng đứng ngập chân trong cát đen đến mắt cá. Họ lầm lũi tiến lên qua làn đạn súng trường lác đác và từng loạt đạn súng cối rời rạc. Có lẽ sức mạnh của kẻ địch đã được phóng đại hoặc các trận oanh kích ồ ạt đã đẩy bọn Nhật xuống lòng đất.

                Nhưng khi các Thủy quân Lục chiến vừa trồi được lên thềm, họ liền gặp hỏa lực súng máy và súng trường từ các công sự, lô cốt, hang động giấu kín. Mảnh đạn súng cối bay như mưa trên đầu họ, nổ quanh các xe lội nước đang hướng về bờ biển. Thủy quân Lục chiến  bị thổi bay xuống biển cố gắng bơi đến bờ nhưng ba lô nặng chĩu kéo họ chìm dưới nước.

                Sư đoàn thứ 5, lần đầu tiên tham chiến, đang bung ra trên bãi biển phía bên trái. Một đội tác chiến trung đoàn, thứ 28, di chuyển gan lì về phía Núi Suribachi, nhiệm vụ của họ là cắt qua vòng cổ cát rộng 700 ya (khoảng 640 m) đến bờ bên kia của đảo, cô lập ngọn núi và tấn công nó ồ ạt trong khi một đội khác, thứ 27, tấn công mút phía nam của Sân bay Số 1.

                Ở sườn bên phải hai trung đoàn của Sư đoàn 4 phải yễm trợ tiến chiếm sân bay và sau đó dãy đồi án ngữ cao nguyên Motoyama. Đó là trận đánh đầu tiên của Binh nhì Allen R. Matthew, một thông tín viên chiến trường, và trên xe lội nước anh cảm thấy mình như bất tử, bất diệt. Anh có thể hình dung mình đau buồn trước cái chết của một người bạn – chứ chưa hề nghĩ một người bạn đau buồn vì cái chết của mình. Nhưng khi anh trườn người trên bãi biển, miệng nhai kẹo cao su một cách máy móc, tâm trí anh bấn loạn cả lên, anh tự giục mình, Chạy chạy chạy, ra khỏi bãi biển, và đừng chôn chân trên bãi biển trừ khi tuyệt đối cần thiết vì kẻ địch đang nhắm hỏa lực vào đây và thế nào cũng xơi tái mình. . . ra khỏi bãi biển và chạy. Nhưng anh không tài nào chạy được. Anh loạng choạng trước sức nặng của trang bị và lún trong cát. Anh không nghe thấy tiếng sấm sét của trận đánh nhưng điều gì đó buộc anh phải ngoái nhìn lại phía sau. Cát phun ra như một mạch nước đen. Miệng anh khô đến nỗi kẹo cao su dính vào răng và lưỡi anh. Anh lảo đảo tiến tới cố phun nó ra nhưng những mẩu nhỏ vẫn bám vào môi và cằm. Nó không có vẻ gì là một cuộc tấn công mà anh đã đọc về nó. Chung quanh, mỗi người đang chạy và sẩy chân trong sự câm lặng ác mộng. Họ hình như không có vũ khí, không quân phục, không có mặt. Thình lình anh nghe một tiếng kêu. “Y-y-y-tá!” một tiếng kêu thất thanh trong đau đớn và khiếp đảm. “Ôi, y-y-y-tá!” Thủy quân Lục chiến không có kiểu la như thế. Tiếng kêu phát xuất từ một người ngồi trong một chỗ lún cạn trên thềm dốc; anh ta bất động, như một pho tượng. Bên trái ba người nằm chất đống lên nhau theo một kiểu lạ lùng. Chắc hẳn họ đã chết.

                Điên cuồng, Matthew đạp hai chân mình trong lớp tro mềm của dốc thềm, luống cuống giữ cho súng trường ngốc lên không để cát chui vào nòng. Cuối cùng anh cũng lên được thềm. Anh tính chạy về phía một hố pháo nhưng chỉ ì ạch một cách bất lực trong cát lún. Mình đúng là một mục tiêu tuyệt vời! anh nghĩ. Anh lại té lần nữa, và lăn từ từ vào hố pháo. Anh nuốt nước bọt nhưng cái lưỡi phồng rộp của anh cạ khô khốc lên vòm miệng. Anh tằng hắng và cuối cùng nước bọt chảy ra. Anh quan sát khung cảnh. Bây giờ anh đã là một cựu binh; anh biết rằng mình có thể bị giết chết.

                Những người bị thương đầu tiên còn đi được đến trình diện ở trạm y tế trung đoàn. Một người, chiếc hàm của anh lủng lẳng những sợi thịt giữ lại, chịu đau để được băng bó nhưng không chịu đưa về tuyến sau. Anh cố giải thích, nhưng rồi quì xuống viết gì đó trên mặt tro núi lửa. Những chữ liền bị lấp ngay. Anh bực tức cào cát và đành cho người dẫn đi.

                Các xe tăng đầu tiên lù lù tiến lên bờ biển vào lúc 9:30 sáng. Chúng loạng choạng tiến lên trên lớp tro mềm. Một số xoay sở leo được đến thềm, nhưng phần đông không tiến lên được và bị bắn hạ bởi các pháo chống tăng. Sư đoàn 4 đặc biệt đã trông cậy vào sự yễm trợ của chúng, và việc tiến chiếm sân bay sẽ chậm lại một cách nguy cấp. Bị kẹt giữa hỏa lực đạn chéo nhau từ vô số công sự và lô cốt, binh lính sư đoàn phải dập tắt từng ụ pháo một bằng cách phá hủy và súng phun lửa.

                Thiếu úy Benjamin Roselle, Jr, chỉ đổ bộ lúc 1 giờ chiều cùng với đơn vị liên lạc hải pháo. Mang nặng những thiết bị truyền tin, họ cố sức leo lên thềm tại đầu mút tận cùng bên phải của chiến tuyến. Bàn chân trái của Roselle gần như bị một loạt đạn súng cối thổi bay. Trong lúc đồng đội phải buộc garô trên chân cho anh để cầm máu anh còn nói đùa một câu. Một đạn súng cối khác rơi xuống đầu họ, giết chết hai người và rắc những mảnh đạn lỗ chỗ vào cái chân còn tốt của Roselle. Chỉ còn anh và một người nữa, và cả hai nằm sát mặt đất khi viên đạn thứ ba nổ ngay trên đầu họ. Roselle bị trúng đạn lần nữa, lần này ngay vai. Còn chân phải của người kia bị thổi bay, và anh chàng im lặng bò xuống thềm, cái chân cụt kéo lê theo. Giờ thì chỉ còn mình anh. Roselle không thể nghĩ đến điều gì trừ cha và mẹ đang ở Royal Oak, Michigan. Một hàng rào pháo cối bắt đầu đi lên từ bờ biển hướng đến thềm. Roselle thấy mình bị nhấc bổng lên rồi bị bỏ xuống. Anh không quan tâm. Anh liếc nhìn đồng hồ đeo tay đúng lúc một mảnh pháo xẹt qua cổ tay anh. Đồng hồ biến mất; và ngay chỗ đó là một lỗ đỏ há hốc. Cảm giác như mình đang bị đóng đinh, anh nghĩ.

                Đối với binh sĩ Mỹ trên bãi biển hỏa lực hình như là ác liệt, nhưng các khẩu pháo của Kuribayashi vẫn còn khai hỏa rất hạn chế, và nhiều dàn pháo bên trong đảo vẫn chưa bắn phát nào. Quân nhu phải được tiết kiệm; mỗi loạt đạn phải có tác dụng. Trong báo cáo điện đài đầu tiên của ông về Tokyo, vị tướng biểu dương sĩ quan chỉ huy của một trung đội pháo chống tăng đã bắn hạ hơn 20 xe tăng của kẻ thù trước khi ngã xuống, và yêu cầu cho anh được truy thăng đại úy. Ông khen ngợi hai chỉ huy chống tăng khác, một sĩ quan bộ binh và toàn bộ Trung đoàn bộ binh 145. Ông cũng báo cáo là quĩ của đại đội tổng cộng 120,000 yen “sau đây sẽ được hiến tặng cho Ngân khố Quốc gia” – số tiền đã bị cháy rụi.

                Vào hoàng hôn 30,000 Thủy quân Lục chiến đã lên bờ. 566 người hi sinh, bị giết hoặc chết vì bị thương nặng. Số còn lại chen chúc trên một khu vực bãi biển nhỏ, dài 4,400 ya và điểm sâu nhất là 1,100 ya. Họ không thể hoàn thành được những mục tiêu của ngày đầu tiên và đang đào hố cá nhân chờ đợi sự phản công. Nhưng Kuribayashi thận trọng trong việc sử dụng người cũng như quân nhu. Không giống vị tư lệnh ở mặt trận Saipan, ông không định lãng phí quân lính trong những cuộc tấn công ban đêm vô ích. Ông cho thực hiện một công việc hiệu quả hơn nhiều: ra lệnh sử dụng hỏa lực pháo kích và đạn súng cối để quấy nhiễu.

                Suốt đêm các kho quân nhu của Thủy quân Lục chiến phát nổ từng cái một với độ chính xác bí ẩn, như thể có một tiền sát pháo binh địch bên trong hàng ngũ Mỹ. Cuối cùng một Thủy quân Lục chiến nghe có tiếng kêu clic clic trầm phát xuất từ một xe vận tải Nhật to tướng bị mắc cạn trên bãi biển. Cùng một vài đồng đội, anh lính bò đến chiếc xe bị bỏ rơi. Anh nhận ra một thân người ma quái bên trong – một tên Nhật với máy truyền tin mắc sau lưng. Mặc dù cái chết của y làm giảm đáng kể tính chính xác của pháo binh Nhật, nhưng vì bãi biển quá chen chúc đến nỗi số thương vong tiếp tục nặng nề. Không thể làm gì để ngăn chận những tàn phá mà hỏa tiển kêu rú từ bóng đêm gây ra. Chúng không phải là các tên lửa qui ước. Các thợ quân nhu Nhật Bản đã nghĩ ra cách biến những bom 60 và 250 kí thành các hỏa tiển, phóng chúng bằng điện khi đặt trên các dàn gỗ. “Hỏa tiển” bay theo độ nghiêng 450, vượt một quãng đường khoảng 2,000 ya (khoảng 1800 m) theo hướng bao quát của vị trí kẻ địch và phát nổ khi chạm đất.

                “Đêm đầu tiên trên Iwo Jima chỉ có thể được mô tả là cơn ác mộng ở địa ngục,” Sherrod viết. Vào rạng đông xác chết nằm la liệt trên mặt cát đen. Không ai ở Thái Bình Dương đã chứng kiến những thi thể nát bấy như thế; chân và tay nằm cách xa thân mình 50 bộ (khoảng 15 mét). Một cơn mưa nhẹ đang rơi. Trời lạnh. Hải quân pháo kích lúc 7:40 sáng trễ hơn một giờ so với ngày-D. Sau 50 phút Thủy quân Lục chiến tấn công. Bên trái, ở chân Núi Suribachi, việc tiến lên thật gay go; trung đoàn 28 tiến lên hơn 200 ya (khoảng 182 m) một chút khi trời tối cho dù có sự yễm trợ của pháo, xe xích, và việc bắn phá bổ sung từ các tàu khu trục đậu cách bờ biển 260 ya.

                Bên phải Sư đoàn 4 chọc thủng đến Sân bay Số 1, rồi quay về hướng bắc và chạm trán với phòng tuyến chủ lực thứ nhất của Kuribayashi. Suốt ngày dài giao tranh, các quân khuyển được mang lên bờ xục xạo khắp bãi biển. Một con tên George đã là cựu binh trong hai lần đổ bộ trước đây. Một con khác, thuộc giống fox terrier, chẳng đếm xỉa gì đến tiếng pháo nổ điếc tai khắp mọi nơi, nghịch ngợm một quả lựu đạn chưa nổ, lăn nó khắp nơi, rồi ngoạm và ném nó lên không. Nó ngoạm trái lựu đạn đến một hố cá nhân, làm binh sĩ đang nằm trong đó chạy tán loạn. Nó liền chạy theo họ, không chịu nghe lệnh thả lựu đạn xuống. Cuối cùng, nó cũng vâng lời, nhưng ngay khi một người lính đến định nhặt quả lựu đạn thì nó nghịch ngợm ngoạm lấy chạy đi. Họ dụ nó bằng thức ăn nhưng nó lại muốn chơi đùa. Họ lại ném các thân cây để nó xao nhãng; nhưng nó vẫn không thèm bỏ món đồ chơi mới của mình. Cuối cùng một người gợi ý cứ ngó lơ nó. Sau một ít phút nó mới bỏ quả lựu đạn; người ta nhặt nó lên và cuộc chiến chống Nhật lại tiếp diễn.

               

3.

                Vào ngày thứ ba, 21/2, pháo kích từ tàu lại bắt đầu lần nữa lúc 7:40 sáng, và một lần nữa Thủy quân Lục chiến mở đợt tấn công đúng 50 phút sau đó với sự yểm trợ sát sao của máy bay ném bom. Vào đầu giờ chiều Thủy quân Lục chiến thứ 28 phá vỡ phòng tuyến bằng đá và bê tông, gần như đến sát chân Núi Suribachi. Cuộc tấn kích toàn diện về hướng bắc cũng khởi sự tốt đẹp, đặc biệt tại đầu mút bên trái, tại đó xe tăng có thể vận hành được. Tại đây Sư đoàn 5 tiến sâu vào 1,000 ya. Về mặt phải, Sư đoàn 4 gặp phải địa thế gồ ghề và hỏa lực mạnh hơn, nên chỉ tiến sâu được nửa khoảng đường đó.

                Tới hoàng hôn người Nhật không kích lần đầu tiên. Năm kamikaze (Thần phong cảm tử) đặt căn cứ gần Tokyo xuyên qua mạng lưới chiến đấu bao quanh tàu Saratoga, nằm ngoài khơi Iwo Jima 35 dặm. Hai máy bay cảm tử đầu tiên bị bốc lửa nhưng vẫn lao tới. Chúng lướt trên mặt nước và đâm vào chiếc tàu sân bay. Ba chiếc còn lại đâm ngay vào Saratoga và nổ tung. Trước khi đám cháy được dập tắt, thêm 5 phi cơ nữa xuất hiện. Bốn chiếc bị bắn rơi, nhưng chiếc thứ năm bỏ một quả bom làm xé nát một lỗ thủng rộng 25 bộ (khoảng 7 mét) ở boong tàu cất cánh. Chiếc Saratoga bị hư hỏng nặng bắt buộc phải quay về Mỹ để được đại tu. Cách đó một ít dặm một chiếc kamikaze đơn độc  bắt đầu khai hỏa lên tàu sân bay em bé Bismarck Sea. Bốc cháy từ đầu đến đuôi, nó đâm xuống đáy biển một ít phút sau nửa đêm.

                Tối đó chương trình phát thanh “Đất mẹ và Đế chế” của Tokyo đề cập đến việc đổ bộ của quân địch lên Iwo Jima, và nói về các lãnh đạo của họ với một sự ngưỡng mộ không giống ai:

                “Ông Turner này được gọi và được biết dưới biệt danh “Cá sấu” trong Hải quân Mỹ. Ông ta được ví với con vật này vì công việc của ông ta rất giống với công việc của một con cá sấu, vừa sống dưới nước vừa sống trên đất liền. Cũng vậy, bản chất thực sự của một con cá sấu là một khi nó ngoạm được thứ gì nó sẽ không bao giờ nhả ra. Bản chất của Turner thì cũng như vậy.

                “Spruance, với một tinh thần tiến công mạnh mẽ, và Turner, với một quyết tâm tuyệt hảo, đã dẫn dắt các binh lính của mình đến sát nội địa, nhưng họ bổng thấy mình rơi vào một tình trạng tiến thoái lưỡng nan, vì họ không thể tiến tới hoặc rút lui.

                “Ông Turner này, người chịu trách nhiệm cho cái chết của quá nhiều thanh niên quí báu của chúng ta, sẽ không trở về nhà an lành – y không được về và không thể về. Đây là một trong nhiều việc chúng ta có thể làm được để các anh linh tử sĩ được yên nghỉ.”

                Cơn mưa lạnh, dai dẳng tiếp tục suốt ngày 22/2 khi Thủy quân Lục chiến củng cố quyền kiểm soát “Đá Nóng”, mật danh cho Suribachi, hoàn toàn bao vây ngọn núi lửa, trừ một dải đất dài 400 ya (khoảng 360 mét) trên bờ biển phía tây. Tư lệnh Nhật Bản, Đại tá Kanehiko Atsuji, báo tin cho Kuribayashi qua điện đài là số thương vong của ông rất cao:

                HIỆN GIỜ QUÂN ĐịCH ĐANG THIÊU CHÁY CHÚNG TÔI BẰNG SÚNG PHUN LỬA. NẾU        CHÚNG TÔI VẪN GIỮ VỮNG VỊ TRÍ CHÚNG TÔI SẼ BỊ TẬN DIỆT. CHÚNG TÔI MUỐN RA               NGOÀI VÀ TẤN CÔNG LẦN CUỐI CÙNG.

               Các cuộc tấn công cảm tử đã thống trị triết lý quân sự của Nhật Bản kể từ trận Guadalcanal, chỉ làm lợi cho kẻ thù. Kuribayashi trả lời cụt ngũn:

                TÔI ĐÃ CHO RẰNG CHIDORI [Sân bay Số 1] SẼ BỊ ĐỊCH TRÀN NGẬP NHANH CHÓNG          NHƯNG ĐIỀU GÌ ĐÃ XẢY RA KHIẾN NÚI SURIBACHI THẤT THỦ TRONG VÒNG BA         NGÀY?

                Sáng hôm sau Thủy quân Lục chiến tiếp tục tấn công lên ngọn núi lửa đã tả tơi, lách dần lên sườn núi dốc đứng hứng toàn bộ hỏa lực tập trung. Chỗ nào lực lượng phòng thủ Nhật hết sạch đạn dược, họ lăn đá xuống dốc núi. Các công sự và hành lang ngầm bị chiếm trọn. Thủy quân Lục chiến bò trườn vào các hang nhỏ, dao cắn giữa hai hàm răng, để loại kẻ thù trong những trận cận chiến. Thiếu úy Harold Schrier và 40 người tiến gần đến đỉnh trước tiên. Anh có mang theo quốc kỳ Mỹ và chỉ thị từ Trung tá Chandler Johnson, chỉ huy tiểu đoàn, để cắm nó “trên đỉnh đồi.” Vào khoảng 10:15 sáng họ đến rìa miệng núi lửa, trên đó phủ đầy xác binh lính Nhật. Tại bờ miệng họ tạm thời bị ghìm lại bởi một loạt đạn từ một toán nhỏ ở bờ bên kia. Trong cuộc chạm trán này, có người tìm được một ống nước dài. Lá cờ – kích cỡ 54 x 28 in-xơ (137 x 71 cm) – được buộc vào một đầu, và vào lúc 10:20 Thiếu úy Schrier và năm đồng đội , trong đó có một người Da Đỏ, Louis Charlo, cắm cao lá cờ Sao và Sọc. Một nhiếp ảnh gia từ tạp chí Leatherneck bắt đầu ghi hình. Hai tên lính Nhật từ một hang phóng ra, một người cầm lựu đạn, người kia cầm kiếm đã tuốt vỏ. Binh nhất Robeson bắn chết người cầm kiếm. Lựu đạn được ném vào nhiếp ảnh gia, khiến anh phải nhảy vào miệng núi lửa và rơi tòm xuống 50 bộ (khoảng 15 m) mang theo máy ảnh. Máy ảnh bị va đập nhưng bức hình vẫn còn nguyên.

                Từ bãi biển phía dưới, lá cờ nhỏ vừa đủ để nhìn thấy. Binh lính trong hố cá nhân hoan hô và đấm thùm thụp vào nhau. Có những giọt nước mắt lăn dài. Còi tàu hú lên inh ỏi. Đến trưa một lá cờ khác lớn hơn được treo thay thế. Nhếp ảnh gia Rosenthal, người đã chụp những bức ảnh đổ bộ nổi tiếng ở Pelelieu và Guam cho The Associated Press, đã đến quá trễ cho việc cắm cờ lần đầu tiên. Anh suýt lỡ dịp cho cảnh cắm cờ lần thứ hai khi bận xếp những viên đá để đứng lên chụp cho có góc ảnh đẹp hơn. Và khi sáu binh sĩ bắt đầu dựng cột cờ lên, Rosenthal vừa kịp thời bấm máy. Đây là bức ảnh nổi tiếng nhất trong Thế Chiến II, được giải ảnh báo Putlitzer và được điêu khắc gia Felix de Weldon chọn để làm tượng đài Tưởng niệm Binh chủng Thủy quân Lục chiến.

                Thủy quân Lục chiến đang tấn công mặt bắc nghe tin qua loa phóng thanh dùng để điều động việc đổ bộ: “Núi Suribachi đã thuộc về chúng ta! Quốc kỳ Mỹ đã được cắm trên trên đỉnh núi bởi Sư đoàn Thủy quân Lục chiến thứ 5. Thật quá tuyệt vời.” Các chiến sĩ đang kiệt sức cũng ráng ngước mắt nhìn về hướng lá cờ đang phấp phới trên  đỉnh núi lửa. Loa phóng thanh tiếp tục, “Chúng ta chỉ còn phải vượt qua 2,630 ya là chiếm được hòn đảo.”

                “Chỉ còn,” một ai đó càu nhàu, “chỉ còn. . .”

                Chiều hôm đó, Tướng Harry Schmidt lên bờ biển, sẵn sàng chỉ đạo Lực lương Đổ bộ, bộ phận lớn nhất của Thủy quân Lục chiến để chiến đấu dưới một quyền chỉ huy duy nhất, với ba sư đoàn đầy đủ. Ông gặp các chỉ huy của sư đoàn 4 và 5; họ đồng ý là sư đoàn dự bị, số 3, đã lên bờ, sẽ trực tiếp tiến vào giữa về hướng Sân bay Số 2, với sư đoàn 4 bên phải và sư đoàn 5 bên trái. Sherrod hỏi Tướng Schmidt chiến dịch sẽ kéo dài bao lâu. “Năm ngày tới,” Schmidt trả lời. “Tuần qua tôi đã nói là sẽ cần 10 ngày và tôi không đổi ý.”

                Phòng tuyến đầu tiên của người Nhật đã bị bẻ gãy, nhưng hơn 25 toán xâm nhập đã tấn công liều chết vào các vị trí của Thủy quân Lục chiến, chống lại lệnh của Kuribayashi, và bị quét sạch đến người cuối cùng. Tuy nhiên, ngay phía sau, ở trung tâm của Iwo, Sân bay Số 2 đã được củng cố bằng hàng trăm công sự và dàn pháo che giấu. Trong hai ngày nó đã chịu đựng gần như là liên tục những đòn đánh của tàu chiến, máy bay, pháo và xe tăng. Giờ là nhiệm vụ của bộ binh của sư đoàn dự bị – hai tiểu đoàn của của Trung đoàng 21. “Chúng ta phải chiếm cho được trận địa đó hôm nay,” chỉ huy của Tiểu đoàn 3 bảo lính của mình vào ngày thứ bảy, 24/2. Lúc 9:30 sáng, sau một hàng rào pháo vang rền, hai tiểu đoàn lao vào những vị trí hình như không thể xâm phạm được. Đó là một trong cuộc tấn công quyết liệt nhất kể từ trận của Pickettt tại Gettyburg. Thủy quân Lục chiến phóng mình tới công sự với lưu đạn và lưỡi lê. Khi vũ khi bị kẹt do tro núi lửa, họ kết liễu kẻ thù bằng bá súng, rìu – thậm chí những cuốc và xẻng đào hố.

                Quân Nhật – tàn binh của Trung đoàn 145 – vẫn không rút lui, và sự tàn sát trên cả hai bên đều thật khủng khiếp. Trong vài phút một đại đội Thủy quân Lục chiến mất đến bốn sĩ quan, nhưng hai tiểu đoàn vẫn tràn tới sân bay. Bên kia, địa hình thay đổi từ các đụn tro núi lửa đến “một dải đất cằn cỗi, hoang sơ của những triền đá, cắt xén thành những dốc lởm chởm, khe nứt, và đường rãnh.” Nó làm Trung sĩ Alvin Josephy, một thông tín viên chiến trường, nhớ đến “Vùng đất Xấu của miền Tây nước Mỹ – hoặc, như ai đó nói, như địa ngục không có lửa.” Từ một trong những triền đá một toán lính Nhật điên cuồng xông ra, đánh bật binh lính Mỹ, khiến họ phải dàn lại đội hình và tấn công triền đá lần nữa. Trong một giờ rưỡi hai đối thủ quần thảo ác liệt với lưỡi lê và lựu đạn. Khi mọi chuyện kết thúc, một phần ba hòn đảo đã thuộc về Mỹ.

                Khi đêm xuống vào ngày chủ nhật Thủy quân Lục chiến đã giành hầu hết sân bay từ tay lính Nhật và lấn tới từng thước một về hướng ngôi làng Motoyama. Kuribayashi điện về Tokyo báo tin sau một tuần chiến đấu, binh lính ở  tuyến đầu tổn thất trung bình 50 phần trăm, và hầu hết súng máy và 60 phần trăm đại pháo đã bị tiêu diệt.

                               Vào thứ hai, Thủy quân Lục chiến tiếp tục giao chiến dưới bầu trời quang đãng lần đầu tiên kể từ khi đổ bộ. Nhưng đến trưa trận mưa không tránh khỏi lại tái diễn, và ba sư đoàn chậm chạp dấn tới cho đến khi những đơn vị tiên phong của Sư đoàn 4 đến được độ cao kinh khủng, Đồi 382, ở bên phải Motoyama, tại đó họ bị đẩy lùi bởi hỏa tiển và súng cối. Sư 4 tiến tới vào sáng hôm sau, năm tiểu đoàn sát cánh bên nhau. Các trận đánh xáp lá cà gớm ghiếc lại tiếp tục, làm số thương vong mỗi ngày của sư đoàn tăng lên 792.

                Dọc theo phòng tuyến Thủy quân Lục chiến thiệt hại nặng nề, nhưng tinh thần vẫn lên cao. Những lời lẽ khôi hài được viết đầy trên vách hang và được dựng cạnh các hố cá nhân:

                CÔNG TY BẤT ĐỘNG SẢN NÚI SURIBACHI

NHÌN RA BIỂN

GIÓ THOÁNG MÁT

BẮN PHÁO HOA HÀNG ĐÊM

CẦN TUYỂN ĐẦU BẾP

QUÁN ĂN ICHIMOTO

DƯỚI QUYỀN QUẢN LÝ MỚI

SỚM MỞ CỬA CHO NHÂN SỰ

CỦA QUÂN ĐỘI HOA KỲ (CHÚNG TÔI HI VỌNG)

CHÚ Ý: HỐ CÁ NHÂN NÀY LÀ SỞ HỮU RIÊNG

VÀ KHÔNG ĐƯỢC XÂY DỰNG VỚI SỰ

HỖ TRỢ CỦA PHÒNG QUẢN TRỊ NHÀ

Ở LIÊN BANG. KHÔNG XÂY DỰNG CHO TIỆN NGHI

MÀ CHO TỐC ĐỘ

 

                Số thương vong tăng lên cũng làm sống lại sự tranh cãi giữa Lục quâ và Quân đoàn Thủy quân Lục chiến lần đầu tiên xuất hiện trên mặt báo trong trận đánh ở Saipan. Tờ San Francisco Examiner tuyên bố trong bài xã luận trang đầu ngày 27/2 rằng có “một chứng cứ đáng sợ trong tình hình là các lực lượng tấn công người Mỹ đang trả một giá quá nặng nề cho hòn đảo, có lẽ quá nặng nề,” và rằng họ đang “gặp nguy cơ bị quét sạch trước khi có thể đến được những khu vực Nhật Bản thực sự quan yếu.” Bài xã luận tiếp tục với việc ca ngợi

MacArthur như là một nhà chiến lược thành công nhất và tài giỏi nhất của Hoa Kỳ:

                Ông ta thành tựu tất cả mục tiêu của mình.

                Ông ta khôn ngoan hơn và mưu trí hơn và dự đoán trước và suy nghĩ trước hơn người Nhật.

                ÔNG TA TIẾT KIỆM SINH MẠNG BINH LÍNH CỦA MÌNH, không chỉ cho tương lai, mà còn vì sự trở về bình yên của họ với gia đình và những người thân yêu ở đất mẹ Hoa Kỳ sau khi hòa bình được lập lại.

                Thật là may mắn cho chúng ta khi có một chiến lược gia tài ba như Tướng MacArthur trong mặt trận Thái Bình Dương.

                Tại sao chúng ta không SỬ DỤNG ông nhiều hơn, và thật ra, tại sao chúng ta không cho ông quyền tư lệnh tối cao trong cuộc chiến Thái Bình Dương, và sử dụng tối đa thiên tài quân sự hiếm hoi của ông trong việc

đánh thắng những trận quan trọng mà không tốn nhiều xương máu của binh sĩ Mỹ?

                Chính sách Thủy quân Lục chiến ngày hôm sau được báo Chronicle của San Francisco biện hộ:

                Việc tái chiếm Phi Luật Tân luôn thể hiện tài ba, nghị lực, và niềm khích lệ vô bờ của nhân dân Mỹ. Chúng ta tự hào vì chiến công đó.

                Để bôi nhọ Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ trong một loại chiến dịch, để rút ra những so sánh kinh tỡm giữa loại chiến dịch của họ với loại chiến dịch do Tướng MacArthur tiến hành là một ý nghĩa kỳ quặc độc ác [Thủy quân Lục chiến là binh chủng Hải quân trong khi bộ binh là binh chủng lục quân của MacArthur: ND]. Ám chỉ Thủy quân Lục chiến chết nhanh và di chuyển chậm trên Iwo Jima bởi vì sự lãnh đạo bất tài của Thủy quân Lục chiến và Hải quân trong cuộc tấn công đó là một mưu toan đáng nguyền rủa nhằm lừa gạt nhân dân Hoa Kỳ.

                Chronicle không muốn tham dự vào một trận tranh cãi về những công trạng tương đối giữa các lực lượng tham chiến của chúng ta trên những đấu trường khác nhau của cuộc chiến. Nhưng Chronicle cũng không muốn giữ thái độ câm lặng khi Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ, hoặc bất kỳ lực lượng nào khác trên chiến tuyến thế giới, bị tàn sát ngay tại nhà để làm một ngày hội La Mã [ngày giao đấu mua vui của các dũng sĩ giác đấu thời La Mã ; ND].

                Chính Bộ Chiến tranh cũng đang tìm kiếm những phương cách để giảm thiểu thương vong trên tất cả mặt trận. Vấn đề gây tranh cãi nhiều nhất đã được văn phòng của Tướng Marshall đề nghi đến Đô đốc Nimitz, những đề nghị tương tự trước đây cũng đã được văn phòng này gởi cho chiến trường Âu châu; đó là việc sử dụng hơi độc. Có sẵn một trữ lượng lớn để sử dụng. Nimitz cân nhắc việc sử dụng nó trên Iwo Jima nhưng kết luận rằng “Hoa Kỳ  không nên là nước đầu tiên vi phạm Hiệp ước Geneva.”

                               Dự đoán của Tướng Schmidt là trận chiến sẽ kết thúc trong 10 ngày rõ ràng là quá lạc quan. Người Nhật vẫn còn chiếm giữ hơn phân nửa hòn đảo. Vào đầu giờ chiều ngày thứ 10, tuy nhiên, Sư đoàn 3 chọc thủng phòng tuyến Kuribayashi thứ hai, tràn ngập đống đổ nát của ngôi làng Motoyama. Ở mặt phải binh sĩ Sư đoàn 4 gần như bao vây Đồi 382, nhưng họ phải mất thêm hai ngày nữa mới chiếm được nó.

                Sáng hôm đó – ngày thứ bảy, 3 tháng 3 – phi cơ đầu tiên đáp xuống đường băng bẩn thỉu của Sân bay Số 1, mà công binh Ong biển đã sửa chữa và kéo dài đến 3,000 bộ (khoảng 914 mét) trong khi đánh nhau. Đó là phi cơ bệnh viện C-47 từ quần đảo Marianna đem theo thuốc men và thư từ. Máy bay thứ hai hạ cánh là chiếc Curtiss R5C chở hai tấn rưỡi đạn súng cối.

                Trong trận đánh ác liệt còn tiếp diễn, một trong những mục tiêu chính yếu đã được hoàn tất. Vào chủ nhật một chiếc B-29 xuất hiện bay nhấp nhô trong tình trạng nguy kịch; đó là chiếc Dinah Might, vừa bỏ bom xuống Tokyo. Nó gần như hết nguyên liệu và van chuyển đổi không hoat động để lấy xăng từ bình phụ. Thiếu úy Fred Malo kéo lê hai lần qua phi trường, rồi canh chiếc máy bay khổng lồ hướng vào đường băng. Nó nghiêng xuống đường băng trong đám bụi mù mịt, một cánh của nó húc gãy cột điện thoại và dừng lại ngay trước khi ra hết đường băng. Van hư được sửa lại, Dinah Might lại cất cánh về Saipan, phi đoàn 11 người của nó là những sĩ quan Tuyên úy cho Quân đoàn Thủy quân Lục chiến. (Sáu tuần sau đó Malo và tất cả trừ một người sẽ chết – một số khi bay qua Kawasaki, Nhật, và một số trong tai nạn khi cất cánh ở Tinian.) Đô đốc Spruance đang theo dõi một cách mãn nguyện từ boong lái trên tàu Indianapolis; nó minh chứng cho yêu cầu khẩn cấp của ông phải chiếm lấy đảo.

                Sáng hôm đó Kuribayashi gởi một báo cáo dài dòng cho Phó Tham mưu Lục quân qua trạm truyền tin đặt tại Chichi Jima. Độ dài của bức điện báo là minh chứng câm lặng cho nỗi sợ của ông đây có thể là thông điệp cuối cùng.

                . . . LỰC LƯỢNG CỦA CHÚNG TÔI ĐANG LÀM HẾT SỨC MÌNH ĐỂ TIÊU DIỆT KẺ ĐỊCH. NHƯNG CHÚNG TÔI ĐÃ MẤT GẦN HẾT PHÁO VÀ TĂNG VÀ HAI PHẦN BA SĨ QUAN. CHÚNG TÔI CÓ THỂ GẶP KHÓ KHĂN TRONG NHỮNG TRẬN GIAO CHIẾN SẮP TỚI. VÌ BỘ CHỈ HUY VÀ TRUNG TÂM LIÊN LẠC CỦA CHÚNG TÔI GIỜ ĐÃ LỘ RA TRƯỚC TUYẾN TIÊN PHONG CỦA ĐỊCH, CHÚNG TÔI SỢ MÌNH CÓ THỂ BỊ MẤT LIÊN LẠC VỚI TOKYO. TẤT NHIÊN, MỘT SỐ CỨ ĐIỂM MẠNH CÓ THỂ CHIẾN ĐẤU ĐỂ CẦM CỰ THÊM VÀI NGÀY NỮA. THẬM CHÍ NẾU CÁC CỨ ĐIỂM MẠNH THẤT THỦ, CHÚNG TÔI HI VỌNG NHỮNG KẺ SỐNG SÓT SẼ TIẾP TỤC CHIẾN ĐẤU CHO ĐẾN PHÚT CUỐI CÙNG. . . CHÚNG TÔI LẤY LÀM TIẾC VÌ MÌNH KHÔNG THỂ PHÒNG THỦ ĐẢO MỘT CÁCH THÀNH CÔNG.

                GiỜ TÔI, KURIBAYASH, TIN CHẮC RẰNG ĐỊCH SẼ XÂM CHIẾM NHẬT BẢN NGAY

 TỪ HÒN ĐẢO NÀY. . . TÔI RẤT LẤY LÀM TIẾC VÌ CÓ THỂ TƯỞNG TƯỢNG RA THẢM HỌA XẢY RA CHO ĐẾ CHẾ CHÚNG TA, TUY NHIÊN, TÔI CŨNG AN ỦI PHẦN NÀO, KHI NHÌN THẤY CÁC SĨ QUAN VÀ BINH LÍNH CỦA MÌNH HI SINH MÀ KHÔNG HỐI TIẾC SAU KHI ĐÃ CHIẾN ĐẤU TỪNG TẤC ĐẤT MỘT TRƯỚC MỘT QUÂN SỐ ĐỊCH TRÀN NGẬP VỚI NHIỀU XE TĂNG VÀ PHƠI MÌNH TRƯỚC NHỮNG CUỘC PHÁO KÍCH KHÔNG THỂ NÀO TẢ ĐƯỢC.

                MẶC DÙ CÁI CHẾT ĐANG ĐẾN GẦN, TÔI VẪN BÌNH TÂM CẦU NGUYỆN TRỜI PHẬT SẼ PHÙ HỘ CHO TỔ QUỐC TÔI. VÌ TÌNH HÌNH CHIẾN SỰ CÓ THỂ BIẾN CHUYỂN VÀ LIÊN LẠC ĐIỆN ĐÀI CÓ THỂ BỊ CẮT ĐỨT, GIỜ ĐÂY TÔI GỞI LỜI XIN LỖI ĐẾN CẤP TRÊN VÀ SĨ QUAN BẠN BÈ CỦA TÔI VÌ ĐÃ KHÔNG NGĂN CHẬN ĐƯỢC CUỘC XÂM LĂNG CỦA KẺ THÙ.

                Ông nhắc lại những ngày vinh quang xưa cũ; khi đại quân Mông Cổ xâm chiếm đảo Eki và Tsushima đã bị đẩy lùi trên bờ biển Kyushu.

                . . . TIN RẰNG TỔ QUỐC CỦA TÔI SẼ KHÔNG BAO GIỜ SỤP ĐỔ TRONG CẢNH TÀN PHÁ, LINH HỒN TÔI SẼ LUÔN LUÔN CHIẾN ĐẤU QUÂN THÙ ĐÊ TIỆN ĐÓ VÀ BẢO VỆ BIÊN CƯƠNG CỦA ĐẾ CHẾ MÃI MÃI.

                LÀM ƠN GHI LẠI NHỮNG BÁO CÁO CHIẾN TRƯỜNG VÀ NHỮNG NHẬN XÉT MÀ CHÚNG TÔI ĐÃ GỞI QUA ĐIỆN ĐÀI. NẾU CHÚNG CÓ THỂ GIÚP ÍCH PHẦN NÀO CHO CHIẾN THUẬT QUÂN SỰ VÀ CHƯƠNG TRÌNH HUẤN LUYỆN TƯƠNG LAI, TÔI SẼ LẤY LÀM CẢM KÍCH.

                CUỐI CÙNG TIỆN ĐÂY TÔI XIN GỞI LỜI CẢM TẠ CÁC SĨ QUAN CẤP TRÊN VÀ BẠN BÈ MỘT LẦN NỮA VÌ SỰ GIÚP ĐỠ TỐT BỤNG CỦA HỌ CHO SỰ NGHIỆP CỦA TÔI.

                TÔI MUỐN NÓI THÊM LÀ CHÚNG TÔI HỢP TÁC RẤT TỐT VỚI LỰC LƯỢNG HẢI QUÂN CHO ĐẾN GIÂY PHÚT CUỐI CÙNG.

                TẠM BIỆT, T. KURIBAYASHI                       

                Sức kháng cự của quân Nhật tiếp tục mạnh hơn người Mỹ tưởng tượng, mặc dù giữa các đơn vị của Kuribayashi có ít sự phối hợp. Các biện pháp tuyệt vọng được sử dụng để ngăn chặn xe tăng phóng lửa của người Mỹ: những lính Nhật tình nguyện buộc chất nổ trên lưng và trở thành một cái bẫy sống dại dột khi họ nằm núp mình trên lối đi của những xe tăng đang tiến tới. Tình hình của họ hình như quá vô vọng đối với Thiếu Tướng Sadasue Senda, người đã thay thế Osaga hay gây rối giữ chức chỉ huy Lữ đoàn Hổn hợp thứ 2, đến nỗi ông xin phép Kuribayashi được phát động một trận tấn công toàn diện cuối cùng. Kuribayashi giận dữ ra lệnh cho ông ta giữ vững vị trí; ra khỏi hang động chỉ làm sự sụp đổ của Iwo nhanh hơn mà thôi. . Nhưng Senda, người đã từng đánh nhau với quân Nga ở Mãn Châu, chứng tỏ mình còn ngang bướng hơn cả Osuga. Vào tối ngày 8 tháng 3 ông triệu tập các sĩ quan đến hang chỉ huy nóng bức, một mê lộ sâu nức mùi lưu huỳnh. Ở đó, dưới cái nóng 120o F (khoảng 49o C) ông đọc chỉ thị cho một cuộc đột kích toàn diện: một hàng rào súng phóng lựu, hỏa tiển và súng cối đúng 6 giờ chiều hôm sau sẽ khởi đầu một cuộc tấn công tổng lực về hướng nam hướng về Nui Suribachi; Hải quân sẽ yễm trợ cuộc tấn công trên cả hai sườn. “Tôi sẽ đi đầu binh sĩ,” Senda tuyên bố. Họ chuyền tay nhau uống một cốc nước duy nhất, thay thế ly rượu chúc mừng. Senda khen ngợi họ. “Chúng ta hẹn gặp lại nhau tại Đền Yasukuni ở Tokyo.”

                Việc truyền lệnh của ông cho bộ chỉ huy Hải quân, cách đó một dặm, bằng lệnh miệng, đã dẫn đến sự hiểu lầm: là cuộc tấn công sẽ xảy ra đêm đó – kể từ trận Trân Châu Cảng, ngày 8 mỗi tháng mang một ý nghĩa đặc biệt. Trong bóng tối gần 1500 hải quân từ những đơn vị khác nhau bắt đầu tiến lén lút về tuyến xuất phát trang bị với giáo tre, súng trường, lựu đạn và một ít súng máy.

                Trung úy Satoru Omagari – chỉ huy đơn vị tên lửa trước đây đã gây thiệt hại trong những ngày đầu của cuộc chiến – dẫn đầu 140 người ra khỏi hang sâu 75 bộ (khoảng 22 mét). Anh có lệnh đem họ đến Nghĩa trang Hải quân, giữa các sân bay 2 và 3, tại đó họ sẽ hợp quân với các đơn vị khác. Bị quấy nhiễu bởi hỏa lực súng cối và pháo từng hồi, và đôi khi bị lạc trong một địa hình không quen, Omagari đến nơi chỉ còn 15 người. Trong thung lũng nhỏ đầy cát, hỗn loạn xảy ra; hơn 1,000 người, thiếu tổ chức một cách vô vọng, lang thang quanh quẩn trong bóng đêm. Đến nửa đêm đám binh lính bắt đầu tiến theo hướng nam về phía các vị trí tiền phương của Sư đoàn 4. Họ phải bước đi thận trọng qua khu vực đầy hố, nhưng những tiếng la “Banzai!” [Vạn tuế!] thiếu kiềm chế đã đánh động kẻ thù. Ngay  lập tức những trái sáng được phóng lên làm lộ diện những kẻ tấn công. Và sau đó một trận mưa đạn cối làm nổ tung những đất và tro bụi vọt lên như mạch nước phun. Ít nhất 800 lính Nhật bị giết chết.

                Binh lính trong khu vực của Omagari bị bắn hạ bằng các súng máy. Trong vòng một tiếng họ khom mình trong các hố pháo và sau những tảng đá chờ đợi cơ hội để rút lui về hang. Nhưng Omagari không sẵn sàng để bỏ cuộc. Với vài trăm người anh bắt đầu tìm một sĩ quan Lục quân để dẫn dắt họ. Anh tìm được bộ chỉ huy trong hang động của một đơn vị Lục quân, Trung đoàn Xe Tăng Thứ 26, nhưng không ai hay biết gì về một cuộc tấn công toàn diện. Chàng Omagari máu nóng kết án họ tránh né và suýt gây ấu đả với một đại úy. Cuộc tranh luận lôi ra sĩ quan phụ tá của vị chỉ huy, một thiếu tá. Ông cho hay không có vụ tấn công nào cả. Kuribayashi đã hủy lệnh của Senda.

                Chính vị chỉ huy, Trung tá Takeichi Nishi, đã đến gặp họ. Ông là một nam tước thuộc một gia đình quyền quí, và kỵ sĩ nổi tiếng nhất Nhật Bản. Trong Thế vận hội năm 1932 tổ chức ở Los Angeles ông và chú ngựa của mình, Uranus, đã chiếm giải nhất trong môn nhảy ngựa cá nhân. Ông đã mời Omagari và binh sĩ của anh ở lại như một lực lượng thay thế, nhưng Omagari vẫn còn không tin là lệnh tấn công đã bị hủy. Anh hình dung ra cảnh các đồng chí Hải quân của mình tái chiếm Suribachi mà không có anh. Còn Nishi vốn quá mệt mỏi vì đánh nhau thì kiên nhẫn hơn.”Nếu người ta muốn chết,” ông nói, “y có thể chết bất cứ lúc nào. Ở đây chỉ cách bọn lính Mỹ 50 mét.”

                Omagari tức tốc rời hang, nhưng lúc mà anh tập họp người của mình vào hàng ngũ, thì đã quá trễ để tham gia cuộc tấn công toàn diện. Thất vọng, anh trở lại và giao binh lính của mình cho Nishi. Nhưng Omagari tự mình từ chối việc phòng thủ hang động. Anh tình nguyện làm một trái bom người và lao mình dưới xe tăng địch. Anh được hứa sẽ đến lượt mình trong ít ngày tới.

                Chiều hôm sau một đoàn tuần tra từ Sư đoàn Thủy quân Lục chiến 3 đến được đầu mút phía đông nam của hòn đảo. Binh sĩ khoác nước biển rửa mặt và đi chân trần đùa với sóng nước. Họ mang về một can nước mặn, và để chứng tỏ lực lượng Nhật đã bị xé làm đôi, nó được gởi đến Tướng Schmidt với ghi chú “Dùng để kiểm tra, không để uống.” Đối với Schmidt trận đánh đã kết thúc, và ông thông báo cho Hải quân là ông không còn cần máy bay từ tàu sân bay yễm trợ nữa. Đô đốc Turner đã trên đường trở lại Guam.

                Tướng Kuribayashi đã ngăn cấm phát động một cuộc tấn cộng toàn diện tổng lực, nhưng Senda, người đã khơi mào sáng kiến đó, không thể bị kềm chế. Thu gom tất cả lực lượng trong khu vực lân cận đêm đó, và mỗi tay cầm một quả lựu đạn, ông cầm đầu cuộc tấn công. Trán ông quấn khăn trắng có vẽ hình Mặt Trời Mọc. Cuộc tấn công đúng là vô ích như Kuribayashi dự đoán. Gần như mọi binh sĩ tham gia đều tử trận, trong đó có Senda.

                Vào ngày 11 tháng 3 quân Nhật bị đẩy lùi chỉ còn giữ những khu vực nhỏ, một trên đầu mút đông bắc của đảo và một trên bờ biển tây bắc, nơi Kuribayashi và Đô đốc Ichimaru còn giữ vững trong những hang động sâu trong khi tàn binh tiếp tục một cuộc phòng thủ tự sát. Trong hang chứa các thùng dầu, không xa đó, Omagari đợi cho bóng tối buông xuống trước khi ra đi làm sứ mạng cuối cùng. Sau nửa đêm anh rời khỏi hang với một thùng thuốc nổ buộc trên lưng. Anh tìm thấy 5 thi thể gần một đường rãnh – một con đường hợp lý cho xe tăng Mỹ tiến lên – và loay hoay chui vào giữa đống xác chết bốc mùi, lấy máu bôi lên mặt và quân phục, và lấy bộ đồ lòng người chết đắp lên mình. Ai sẽ dùng bộ đồ lòng của mình ngày mai? anh tự hỏi.

                Anh đợi suốt ngày, ướt sũng mồ hôi trong nắng, nghe tiếng bánh xích của xe tăng địch. Mùi bốc ra tanh tưởi muốn nôn mửa. Đàn ruồi xanh to con vây kín lấy anh. Tại sao không kết thúc nhanh gọn cho rồi? Những kỷ niệm từ thuở nhỏ và những ý tưởng phản bội cắt đứt nỗi ước muốn chết của anh. Có phải đây là điều anh đã được dạy dỗ và rèn luyện? Anh và thế hệ của anh đã được nuôi dưỡng cho chiến tranh để tin tưởng nó đẹp và vinh quang, để chết cho Thiên hoàng. Nằm giữa các xác chết và phủ lên người ruột rà hôi thúi có đẹp không? Anh đã ngưỡng mộ 47 Lãng khách, [Câu chuyện kể về một nhóm võ sĩ thời kỳ đầu thế kỷ 18 đã mất chủ tướng (trở thành lãng khách) trở thành biểu trưng của lòng trung thành, sự hy sinh, chí kiên định và danh dự mà tất cả võ sĩ luôn thể hiện vào thời bấy giờ: ND] tin rằng họ là hình mẫu cho các tính cách cố hữu của người Nhật. Nếu thế, tại sao anh và các đồng đội của mình đã bị nhồi sọ bằng tuyên truyền cốt để khiến họ tìm kiếm cái chết trong trận chiến?

                Khi trời tối anh lại lẻn về hang. Anh cố rửa ráy, nhưng cái mùi xú uế của cái chết vẫn bám dai dẳng trên người. Anh lại bị thu hút không cưỡng lại được phải trở lại trận địa, tại đó anh trải qua một ngày nữa nằm giữa các xác chết, khắc khoải trước ý nghĩa của cuộc sống như một người Nhật. Một lần nữa không có xe tăng nào xuất hiện, và đến đêm anh lại trở về hang tiêu tan mọi ảo tưởng. Giờ thì anh chắc chắn một điều là sẽ không bao giờ liều lĩnh ra ngoài lần nữa làm một quả bom người.

                Bên kia đảo trong một hầm khác, Trung úy Hải quân Toshihiko Ohno và binh lính của anh đã bị quân Mỹ đẩy lùi từ vị trí này đến vị trí khác. Ohno đã chỉ huy một đội phòng không gồm 54 người, nhưng hiện giờ chỉ còn lại 5 người. Về phương diện nào đó Ohno, một người cao 6 bộ (khoảng 1.83 mét) và mảnh khảnh, giống một sĩ quan Mỹ trẻ tuổi mới tốt nghiệp từ trường võ bị hơn là một sĩ quan Nhật điển hình. Một người vừa mới tốt nghiệp cao đẳng, bản tính nhạy cảm và khả ái, anh hình như không thích hợp cho nhiệm vụ chỉ huy, nhưng dưới đạn lửa anh đã trở nên chính chắn. Anh và đồng đội nép mình trong một công sự bê tông ngầm khoảng 11 bộ vuông (khoảng hơn 1 mét vuông). Lối vào đã bị phong tỏa và họ phải bò qua lỗ châu mai. Họ nằm sóng xoài trên nền bê tông, đánh một giấc say sưa sau khi no bụng; họ đã tìm thấy hai hộp bánh bít quy và kẹo, ba gói đường to, và một can 10 ga-lông chứa nước lưng bình.

                Một tiếng động đánh thức Ohno. Qua lỗ châu mai anh thấy chiếc mũ của một Thủy quân Lục chiến. Khi anh rút súng lục, chiếc mũ biến mất. Rồi nghe tiếng rít, và một quả lựu đạn ném vào dội sàn. Ai đó nhảy ra trước mặt Ohno và trùm một cái chăn qua quả lựu đạn trước khi nó phát nổ. Nó nổ tung lên nhưng không ai bị thương. Choáng váng, Ohno không biết rằng một bó mìn thỏi đã được ấn qua lỗ châu mai. Anh giật phắt tấm chăn đang ngún khói và dùng nó để đẩy bó mìn đến phía sau lỗ châu mai. Anh nhảy lùi lại, bám chặt tường và la lên cảnh báo. Mọi người bịt lỗ tay bằng ngón tay cái, ngón tay giữ chận mũi và hai ngón còn lại bịt miệng. “Tenno Heika banzai!” [Thiên Hoàng Bệ Hạ vạn tuế!] anh tự nói với mình và hình dung vợ và mẹ. “Ta đã sẵn sàng. . . “ Ụ pháo hình như tung lên đến ba bộ [khoảng 1 mét) trong không trung. Anh cảm thấy thân thể mình bị nén chặt bởi một lực siêu nhiên nào đó. Anh nghe mình bất giác kêu lên, “A!”

                Ụ pháo bốc khói “Các anh có sao không?” anh hỏi đồng đội. Tất cả trừ một người có tên Kitagata trả lời. Qua một lỗ hổng mà cửa thông gió đã nổ tung, một cột ánh sáng soi rõ Kitagata. Đầu cậu đang chảy máu và cát rắc lên da thịt cậu. Cậu rên rỉ. Một bóng người cản lại cột ánh sáng lù mù; một Thủy quân Lục chiến đang chăm chú nhìn xuống. Ohno lấy một tay bịt chặt miệng Kitagata. Bóng người rút đi và ai đó bên ngoài hô to, “Thôi đi!” Họ lại an toàn được một lúc.

4.

                Vào ngày 14 tháng 3 một nhóm nhỏ các sĩ quan và binh sĩ Thủy quân Lục chiến đứng nghiêm quanh một boongke cháy đen của Nhật. Một đại tá đại diện cho Đô đốc Nimitz đọc bảng hiệu triệu:

                “. . . Các lực lượng Hoa Kỳ dưới quyền chỉ huy của tôi đã chiếm đóng đảo này và các Đảo Núi Lửa. Toàn bộ chính quyền của Đế chế Nhật Bản trên các đảo bị chiếm đóng này theo đây sẽ bị đình chỉ. Tất cả quyền lực của chính phủ được trao lại cho tôi với tư cách thống đốc quân sự và sẽ được thực thi bởi những chỉ huy phụ tá dưới sự chỉ đạo của tôi. . . “

 

                Ba binh nhì phía trên boongke cột lá cờ vào cột cao 80 bộ (khoảng 24 mét) và khi tiếng kèn vang lên bài quốc ca, cờ được kéo lên. Sau nghi thức không có trao đổi nhiều. Smith “Hét như điên”, ánh mắt lấp lánh, quay về phía phụ tá của ông: “Đến giờ đây chính là trận gay go nhất.” Trong những ngày dài 24 tiếng vừa qua, bảy Thủy quân Lục chiến đã nhận Huy chương Danh dự qua hành động ném mình che quả lựu đạn để cứu đồng đội. “Trong số những người Mỹ phục vụ trên đảo Iwo,” Nimitz sau đó viết, “lòng dũng cảm phi thường là một đức tính bình thường.”

                Sâu dưới lòng đất, không xa đó, có một nghi thức khác. Tướng Kuribayashi ra lệnh đốt cờ của Trung đoàn 145 để khỏi rơi vào tay quân địch. Hai ngày sau trung đoàn không còn tồn tại, cũng như Lữ đoàn Hổn hợp thứ 2. Lúc 5:35 chiều Kuribayashi điện về Tokyo một thông điệp mà một lần nữa ông nghĩ là thông điệp cuối cùng của mình:

                TRẬN CHIẾN ĐANG ĐẾN HỒI KẾT CỤC.

TỪ KHI ĐỊCH ĐỔ BỘ, THẬM CHÍ ÔNG TRỜI CÒN PHẢI KHÓC KHI CHỨNG KIẾN SỰ CAN TRƯỜNG CỦA CÁC SĨ QUAN VÀ BINH SĨ DƯỚI QUYỀN TÔI.

ĐẶC BIỆT, TÔI VUI MỪNG KHI BINH LÍNH VỚI TAY KHÔNG CÓ THỂ TIẾN HÀNH MỘT LOẠT NHỮNG TRẬN ĐÁNH CHỐNG LẠI KẺ ĐỊCH SỞ HỮU KHÍ TÀI TRÀN TRỀ VƯỢT TRỘI TRÊN ĐẤT, BIỂN VÀ TRÊN KHÔNG.

TUY NHIÊN, NGƯỜI CỦA TÔI LẦN LƯỢT TỬ TRẬN VÀ TÔI HỐI TIẾC RẤT NHIỀU KHI BẤT LỰC ĐỂ QUÂN ĐỊCH CHIẾM LẤY MỘT PHẦN LÃNH THỔ NHẬT BẢN.

                GIỜ KHÔNG CÒN QUÂN NHU, KHÔNG CÒN NƯỚC UỐNG. TẤT CẢ BINH SỈ CÒN SỐNG   SẼ TIẾN HÀNH MỘT TRẬN TẤN CÔNG TOÀN DIỆN.

                KHI NGHĨ VỀ MÓN NỢ ÂN NGHĨA ĐỐI VỚI XỨ SỞ, TÔI KHÔNG CÒN HỐI TIẾC GÌ.

                TRỪ KHI HÒN ĐẢO ĐƯỢC CHIẾM LẠI, NẾU KHÔNG TÔI NGHĨ LÀ NHẬT BẢN KHÔNG         THỂ ĐƯỢC AN TOÀN. TÔI THẬT TÌNH HI VỌNG LINH HỒN MÌNH SẼ CHĨA MŨI NHỌN            TẤN CÔNG Ở KIẾP SAU.

                NGUYỆN CẦU TRỜI PHẬT BAN CHO THẮNG LỢI VÀ BÌNH YÊN CUỐI CÙNG. CHO PHÉP      TÔI GỞI LỜI CHÀO “TẠM BIỆT” MÃI MÃI. . .

 

                Ông kết thúc với ba bài thơ của mình:

                                KHÔNG CÒN QUÂN NHU

                                THẬT BUỒN CHO TÔI KHI PHẢI RỜI BỎ THẾ GIỚI NÀY

                                KHI KHÔNG HOÀN THÀNH ĐƯỢC SỨ MẠNG THIÊNG LIÊNG

                                CHO TỔ QUỐC.

                                TÔI KHÔNG THỂ THỐI RỮA TRONG LÒNG ĐẤT

                                TRỪ KHI LINH HỒN TÔI TRẢ ĐƯỢC THÙ NÀY

                                ƯỚC GÌ TÔI CÓ THỂ CẦM LẤY VŨ KHÍ, CHO DÙ ĐẾN KIẾP THỨ BẢY.

                                TÔI LO ÂU CHO TƯƠNG LAI NƯỚC NHẬT

                                KHI CỎ HOANG CHE PHỦ HẢI ĐẢO NÀY.

                Hình như Kuribayashi cuối cùng đã sẵn sàng cho một cuộc tấn công toàn diện. Lệnh cuối cùng của ông thật đơn giản:

  1. Trận chiến đang tiến gần đến giai đoạn cuối cùng.
  2. Quân đồn trú chúng ta sẽ tiến hành một cuộc tấn công toàn diện chống lại kẻ thù vào tối nay. Thời điểm bắt đầu là 0001 giờ, ngày 18 tháng 3, 1945.
  3. . . . Mỗi người phải chiến đấu đến hơi thở cuối cùng. Không ai được vương vấn với sinh mạng của mình.
  4. Tôi sẽ luôn luôn đi đầu đoàn quân.

 

                Trong ngày các sổ mật mã và tài liệu mật đều được đốt trong động chỉ huy Hải quân. Ngay trước hoàng hôn Đô đốc Ichimaru triệu tập những binh sĩ còn lành lặn, khoảng 60 tất cả, đến phòng họp 65 ya dưới lòng đất. “Cho đến giờ phút này,” ông nói, “các bạn đã vượt qua mọi khó khăn, tuân thủ mệnh lệnh của tôi và chiến đấu một cách dũng cảm chống lại quân thù có tiếp tế vượt trội. Sự thất thủ của hòn đảo này có nghĩa là gót giày của bọn Mỹ sẽ sớm dẫm lên tổ quốc ta. Tuy nhiên, các bạn là những chiến binh Nhật Bản. Đừng quá bi lụy khi phải chết. Sống với khí thế cao vời và tàn sát nhiều kẻ thù như có thể và chiến đấu cho đến kiếp thứ bảy. Cám ơn các bạn.”

                Sĩ quan tham mưu cấp trên của ông, Tư lệnh Takeji Mase, bước tới và lớn tiếng đọc một lá thư mà vị Đô đốc gởi đến Tổng thống Roosevelt. Thư tố cáo Roosevelt đã lăng mạ Nhật Bản khi gọi Nhật là “một thứ họa da vàng, một quốc gia khát máu, và một chất nguyên sinh của bè lũ quân phiệt.” Nước Mỹ chịu trách nhiệm cho việc khơi mào chiến tranh, chứ không phải người Nhật. “Xem xét từ những hành động của ngài, chủng tộc da trắng – nhất là chủng tộc Anglo-Saxon – đang độc chiếm những thành quả của thế giới bằng mồ hôi của những chủng tộc da màu. . . Tại sao lại là ngài, một quốc gia đã phát triển, ươm mầm cho phong trào tự do cho các quốc gia bị áp bức ở phương Đông? Tất cả điều chúng tôi muốn là ngài hãy trả lại cho người Đông phương những gì của người Đông phương.” Vị Đô đốc cũng không tài nào hiểu ra làm cách nào Roosevelt dám kích bác chương trình của Hitler trong khi hợp tác với Liên bang Sô viết, mà mục tiêu chính yêu của họ là chủ nghĩa xã hội hóa toàn thế giới. “Nếu chỉ lực lượng hung ác mới quyết định ai là người thống trị thế giới, thế thì chiến tranh sẽ tiếp tục không bao giờ dứt và không bao giờ có hòa bình và hạnh phúc toàn diện. Khi ngài đạt được mục đích độc chiếm thế giới bằng phương thức man rợ, hãy nhớ lại sự thất bại của người tiền nhiệm của ngài, Tổng thống Wilson, khi ở đỉnh cao quyền lực.”

                Bức thư được quấn trong khăn nịt bụng của sĩ quan liên lạc, và bản dịch ra tiếng Anh của nó được giao cho Phó Tư lệnh Kunio Akada. Bức thư sau đó được lính Mỹ tìm thấy và hiện giờ nằm trong bảo tàng viện của Học viện Hải quân Hoa Kỳ ở Annapolis.

                Nửa giờ trước lúc nửa đêm Đô đốc Ichimaru, để lại gần 100 binh sĩ bị thương, ra khỏi hang với 60 người của mình. Họ ngay lập tức bị tràn ngập bởi hỏa lực đạn pháo, súng cối và súng máy Mỹ bắn tới tấp.

                Kuribayashi ra khỏi hang gần như cùng một lúc với gần 500 binh sĩ. Nhưng hầu hết họ không có vũ khí và ông cũng không có ý định cầm đầu một trận tấn công cuối cùng. Ông chỉ di chuyển một đoạn ngắn về phía bắc để đến một hang an toàn hơn. Trước lúc rạng đông một tá người sống sót sau cuộc đột kích tuyệt vọng của Hải quân đến nhập bọn với họ. Trong số đó có cả Đô đốc Ichimaru.

                Đại tá Nishi chưa hề nhận được lệnh tấn công toàn diện, cũng không hiểu tấn công liệu có làm được gì. Đối với ông trận chiến vẫn chưa kết thúc, và đêm hôm sau ông tiến về hướng bắc tấn công một vị trí Thủy quân Lục chiến gần một đồi đá lớn nhìn qua bãi biển. Ông cầm roi ngựa, cái roi ông sử dụng trong các cuộc tranh tài Thế vận hội, và trong túi ngực của ông là một lọn lông bờm của chú ngựa Uranus. Tại chân đồi đá Nishi và 200 binh sĩ, trong đó có Omagari, bị chận đứng bởi hỏa lực ác liệt. Bình minh khiến họ lộ diện và hứng chịu một cơn mưa lựu đạn tàn khốc. Giữa âm thanh đạn pháo Omagari nghe Nishi gọi “Tập họp!” và bò về phía vị trí của ông ta với 40 người khác. Nishi nói họ đang ở trong “tổ ong bắp cày” và họ sẽ phải tìm chỗ ẩn núp trong các hang động dọc theo bãi biển.

                Trên Chichi Jima, Thiếu tá Horie đã không thể liên lạc điện đài với Iwo từ cái đêm Kuribayashi chuyển đến hang mới. Vào buổi sáng ngày 23/3, sau 5 ngày, sự im lặng bị phá vỡ bằng một loạt các tin điện. Người vận hành trên Iwo Jima đang gởi lên sóng một cách khó hiểu những báo cáo đã bị dồn ứ lại nay tuôn ra không ngừng. Horie đọc những báo cáo này mà nghẹn ngào xúc động. Kuribayashi mô tả việc kẻ địch kêu gọi đầu hàng (qua loa phóng thanh) được binh sĩ nhận được bằng sự khinh thị, họ tiếp tục tấn công mặc dù đã hết cả lương thực và nước nôi trong 5 ngày.

                . . . NHƯNG TINH THẦN CHIẾN ĐẤU CỦA CHÚNG TÔI VẪN LÊN CAO.

                CHÚNG TÔI QUYẾT TÂM CHIẾN ĐẤU ĐẾN PHÚT CUỐI CÙNG.

                Sau đó một khoảng im lặng. Đó là tin nhắn cuối cùng của Kuribayashi, nhưng ngay trước hoàng hôn, sau gần 20 phút im lặng, điện đài lại lách cách với thông điệp cuối cùng. Lần này nó thật rõ ràng.

                                TẤT CẢ SĨ QUAN VÀ BINH SĨ CỦA CHICHI JIMA. VĨNH BIỆT.

                Tất cả đều đã kết thúc trừ một cuộc tấn công banzai cuối cùng ba ngày sau bởi một nhóm xấp xỉ 350 binh lính lục và hải quân, bao gồm 40 battotai (người mang kiếm). Ra khỏi các hẽm đá trên mũi tây bắc của hòn đảo họ bò lê nửa trần truồng, như người tiền sử, để quét sạch điên cuồng những gì trên đường đi. Cuộc tấn công rừng rú của họ gây sững sốt trại Không lực và công binh Ong biển. Một tiểu đoàn tiền phương Thủy quân Lục chiến, vội vã được gọi đến, đấu tay đôi. Phải mất trọn một ngày sau một trận cận chiến dữ dội hai phần ba quân địch bị tàn sát và phần còn lại phân tán.

                Sáng sớm hôm sau, ngày 27/3, Tướng Kuribayashi, đã bị thương khi di chuyển đến nơi trú ẩn khác, ra miệng hang với một sĩ quan tham mưu, Đại tá Kateji Nakane. Kuribayashi quay mặt về hướng bắc phía Hoàng cung, quì xuống và long trọng lạy ba lần. Ông đâm vào bụng mình, đầu gục xuống. Nakane giơ cao thanh kiếm và chém xuống ngay cổ vị tướng. Ông chôn thi thể với sự trợ giúp của một trung sĩ và bò lại vào hang để báo tin với Đại tá Tadashi Takaishi, tham mưu trưởng của Kuribayashi, và Đô đốc Ichimaru những gì đã xảy ra; rồi ông ta trở lại nơi Kuribayashi tự sát với Takaishi. Hai người tự sát bằng súng lục.

                Tối đó ngay trước 11 giờ Ichimaru, với 10 binh sĩ đi theo, cũng bước ra ngoài. Một tràng đạn súng máy hạ gục Đô đốc và hai sĩ quan phía sau ông.

Trận Iwo Jima đã lấy đi sinh mạng của 4,554 thủy quân lục chiến và 363 hải quân, tổn thất lớn nhất của Mỹ trong Thế chiến II xét về chiều dài trận đánh và quân số tham gia. Trong số 21,000 quân phòng thủ, chỉ hơn 3,000 một chút còn sống. Trong số này, 216 người trở thành tù binh. Những người khác vẫn chui rúc trong những hang động nức mùi lưu huỳnh và ngột ngạt như những con thú bị săn đuổi, đói khát, tuyệt vọng và hoang mang. Đối với tất cả trừ một ít, viễn cảnh duy nhất phía trước là cái chết. 

4567

 

27 Những Bông Hoa ở Edo

 

1.

                Khoảng một năm trước Trận Trân Châu Cảng chính quyền Nhật đã ra lệnh cho dân chúng thành lập những nhóm “đoàn thể láng giềng” nhằm mục đích kiểm soát các chương trình phân phối khẩu phần và phòng không. Mỗi đơn vị bao gồm khoảng một tá gia đình, và đến giờ hệ thống đã tạo ra những thay đổi mạnh mẽ đến cấu trúc gia đình truyền thống của người Nhật. Sự gian khó đã buộc các gia đình lệ thuộc vào láng giềng nhiều hơn là vào bà con thân thiết, có thể sống cách xa nhiều dặm đường. Mỗi người, dù thượng lưu hay hạ lưu, đều tham gia vào các cuộc diễn tập không kích trong cộng đồng, chuyền các xô nước và khiêng cáng cứu thương, vật dụng phế liệu và cát. Tính dân chủ lan rộng đến lương thực và những nhu yếu phẩm khác, như cách ăn mặc: phụ nữ mặc mompei (váy rộng thùng thình), và tất cả đàn ông mặc kaki xập xệ là “đồng phục quốc gia.” Trẻ em học thói quen chia sẻ mọi thứ như nhau, và người lớn được dạy là chỉ qua sự hợp tác thì họ mới có thể sống còn.

                Có một khẩu hiệu, “Chúng ta đều bình đẳng,” mang một ý nghĩa mới vào cuối năm 1944 khi mức độ oanh tạc càng ngày càng leo thang. Các cuộc không kích ban đêm, thường nhắm vào các khu dân cư, gây hoảng sợ hơn những trận không kích ban ngày. Trong những lần về miền quê mua thực phẩm, bà Sumie Seo Mishima thậm chí có thể dừng lại và trầm trồ trước cảnh tượng của đàn Ong đang tiến tới – Ong là tên thông dụng của Siêu pháo đài bay: “Trên bầu trời phía đông lù lù hiện ra một phi cơ, một phi cơ khác và một phi cơ B-29 khác nữa. . . Phun những vệt khói trắng khí thoát ra, chúng bay theo một đội hình hoàn hảo qua bầu trời xanh thẩm. . . như những tấm khăn choàng tạo bởi những con cá lấp lánh bơi qua biển cả của vũ trụ.” Sự suy nghiệm mang tính thẩm mỹ này bị đổ vỡ chóng vánh khi con cá trông duyên dáng kia thả những quả trứng của chúng xuống.“

                         “Tiến trình làm bắn tung tóe mặt đất bằng những cơn mưa đạn lửa trong tiếng rùng rùng nhịp nhàng như những cơn sóng lớn đại dương, và những quả bom nặng nề ném xuống, mỗi quả đâm vào lòng quả đất với một tiếng thịch chí tử, lập lại trong mỗi chuyến bay. Trong hầu hết mọi cuộc không kích, đối với chúng tôi hình như, các phi cơ Mỹ lại mang theo những loại bom đạn mới, tạo ra những hiệu quả khác nhau khác với lần vừa qua. Những âm thanh không quen thuộc này làm tăng thêm nỗi khiếp đảm và run sợ trong mỗi vụ xâm kích mới.”

                Đó là một mùa đông lạnh bất thường và một số ống nước của căn hộ phải vỡ ra và gia chủ phải chịu đựng hàng tháng trời trước khi được sửa chữa. Tiểu thuyết gia Jun Takami ghi trong nhật ký của mình là trong vài ngôi nhà “tại đó những ống nước phòng vệ sinh đã vỡ và nước đổ xuống tầng dưới, người ta phải dùng dù trong nhà, và khi nước đóng băng trên nền nhà họ có thể trượt băng trên đó.”

                Nỗi sợ hãi sinh ra những mê tín mới: nếu bạn ăn cơm vắt có bọc hành tăm bên trong, và nấu với đậu đỏ, bạn sẽ không hề bị trúng bom. Hơn nữa, nếu bạn chỉ ăn hành tăm trong bữa điểm tâm bạn chắc chắn không bị trúng bom. Một trò mê tín khác xuất phát khi một cặp vợ chồng, sống sót một cách mầu nhiệm khi một quả bom nổ sát bên, tìm thấy hai con cá vàng chết gần đó. Họ bèn nghĩ rằng cá vàng đã thế mạng cho họ, vì thế họ đặt cá vàng lên bàn thờ Phật trong nhà và thờ chúng. Khi câu chuyện lan tràn, người ta khó tìm mua được cá vàng còn sống; và thế là cá vàng bằng sứ được sản xuất với số lượng lớn và bán với giá cắt cổ.

                Mặc dù các trận không kích đã tạo ra những thay đổi mạnh mẽ trong cuộc sống dân chúng Nhật ở nội địa, mục đích chủ yếu – xóa sổ tất cả phương tiện sản xuất – đã không được hoàn thành. “Nhiệm vụ này đã được mọi người biết đến nhưng nhiều mục tiêu của cuộc ném bom không thực sự hoàn thành,” Curtis LeMay phàn nàn với Trung tá St. Clair McKelway, sĩ quan về quan hệ công cộng của ông, vào ngày 6/3. LeMay đảm nhiệm họat động của B-29 ở quần đảo Mariana sáu tuần trước. Ông sung sướng được ra khỏi Trung Hoa, với vấn đề tiếp tế không thể khắc phục được, nhưng tiếp tục bị quấy rầy vì những thất bại vận hành và những kết quả xoàng xĩnh. Chương trình không kích chiến lược, chủ yếu sử dụng chất nổ cao, đã từng tàn phá nước Đức với những phức hợp kỹ nghệ tập trung, ít có tác dụng với nền sản xuất chậm chạp ở Nhật, ở đó hai phần ba nền kỹ nghệ được phân tán trong các hộ gia đình và các xưởng nhỏ không có đến 30 nhân công.

                LeMay nảy ra một kế hoạch căn cơ cho các phi cơ của mình: bay thấp vào ban đêm, loại bỏ hầu hết những trang bị để gia tăng trọng tải, và phân bố bom lửa vào những mục tiêu dễ bắt lửa trên một diện rộng. Hai ngày sau, không hỏi ý Washington, ông đã ra lệnh một trận oanh tạc của B-29. Tại buổi chỉ dẫn vào sáng hôm sau, ngày 9 tháng 3, phi hành đoàn được thông báo họ sẽ tấn công Tokyo đêm đó từ cao độ thấp – từ 5,000 đến 8,000 bộ (khoảng 1,500 m đến 2,400 m). Họ chống đối ra mặt. Mọi súng ống trừ pháo ở đuôi máy bay đều bị dỡ bỏ; thông báo khiến phi hành đoàn bị sốc đến cứng họng. Như thế là tự tử.

                Lúc 5:36 giờ chiều chiếc B-29 lăn bánh xuống đường băng North Field trên đảo Guam và gầm rú bay lên bầu trời oi bức. 50 giây sau một chiếc khác cất cánh, rồi một chiếc khác và một chiếc khác nữa. Một chiếc không thể đạt đủ tốc độ cất cánh; bộ phận hãm đã bị đóng băng và không thể nhả ra. Sự ma sát khiến thiết bị tiếp đất nóng cháy và dầu thắng bốc lửa. Khi bánh xe chảy ra, thiết bị gãy vụn. Trong cơn mưa tia lửa chiếc phi cơ khổng lồ trượt trên bụng, nghiêng ra khỏi đường băng và đụng vào dãy san hô đằng kia trong tiếng nổ kinh khiếp.

                Lúc 6:15 chiều, các B-29 từ Tinian và Saipan bắt đầu tham gia vào đám rước đồ sộ trong không gian. 333 oanh tạc cơ ù ù về hướng bắc. Tận phía trước in trên chân trời tối đen một loạt nổ bùng xuất hiện – Iwo Jima, tại đó Tướng Senda sắp sửa dẫn đầu đám tàn quân của Lữ đoàn Hổn hợp thứ 2 và những đơn vị hải quân tuyển lựa cho trận tấn công toàn diện vô vọng. Các máy bay đồ sộ nhấp nhô trong cơn nhiễu động ở mức bay thấp, nhưng khi họ đến gần Tokyo thời tiết cải thiện hơn. Phi hành đoàn, như các hiệp sĩ, mặc áo giáp, khóa bộ áo chống đạn cồng kềnh và mũ bảo hộ bằng thép nặng, rồi nhìn chăm chăm về phía trước tìm những đốm lửa được các máy bay chỉ điểm định vị tạm thời.

                Trở lại đảo Guam, Tướng LeMay bước tới lui trong phòng. Nếu cuộc oanh kích hoạt động theo đúng như ông hi vọng, cuộc chiến sẽ được rút ngắn. Ông sẽ nhanh chóng triển khai một loạt không kích tương tự trên khắp nước Nhật. Mức độ tàn sát dân thường sẽ là chưa từng có, nhưng nền kỹ nghệ cần phải hủy diệt. Nếu không, cần phải có một trận xâm lăng để chấm dứt cuộc xung đột và điều đó sẽ lấy đi sinh mạng của nửa triệu người Mỹ, có thể một triệu.

                Ánh trăng mới ném một thứ ánh sáng lờ mờ nhưng các vì sao chiếu lấp lánh trên bầu trời Tokyo. Vào nửa đêm các máy bay chỉ điểm định vị các điểm mục tiêu và chuẩn bị đánh dấu trái tim của Tokyo bằng các bom na-pan M47. Khu vực kinh doanh rộng ba đến bốn dặm từng là nơi đô hội đông vui, rực rỡ nhất ở phương Đông, nhưng giờ đây chỉ lác đác xe cộ lưu thông và hầu hết cửa hàng và hí viện đều đóng cửa. Tuy vậy, 750,000 nhân công luơng thấp vẫn sinh sống trong cái thành phố bên trong thành phố đông nghịch này, một thành phố không bao giờ ngủ. Hàng ngàn nhà xưởng liên tục hoạt động.

                Với số nhà gỗ dồi dào Tokyo đã từng liên tục là nạn nhân của những đám cháy khổng lồ từ cái thời Tokyo được mang tên là Edo. Những hỏa hoạn này được xem như là phần không thể thiếu của cuộc sống thành phố đến nỗi chúng được cho một cái tên thi vị là “Những Bông Hoa của Edo.” Mặc dù hệ thống cứu hỏa hiện thời đã được hiện đại hóa, vẫn chưa có lính phòng cháy chống lại những tai họa do lửa. Vào năm 1923, theo sau một trận động đất lớn, lửa tàn phá gần hết thành phố. Hai năm sau Tokyo lại bị phá hủy lần nữa, và đến lần thứ ba vào năm 1932.

                Hiện thời có đến 8,100 lính cứu hỏa chuyên nghiệp và 1,117 thiết bị chữa cháy phân bổ khắp thành phố, với các bể nước tĩnh dành cho tình trạng khẩn cấp. Nhưng lực lượng lính cứu hỏa này vẫn chưa đáp ứng được cho một diện tích thành phố rộng 213 dặm vuông, nhất là trong thời chiến. Khu vực kinh doanh vẫn là nơi dễ bị tổn thương nhất. Một số ít làn đường dành cho xe cứu hỏa đã được vạch ra trong những khu phố đông đúc, chúng sẽ được đưa vào sử dụng một hoặc hai năm tới, các viên chức thành phố đã hứa như vậy.

                Tiếng còi báo động hú khoảng nửa đêm ngày 9 tháng 3 cũng giống như cả chục lần báo động khác. Vì những lần không kích trước không gây thiệt hại nhiều, nên hình như không ai quan tâm nhiều đến còi báo động; truyền thanh Tokyo báo tin những oanh tạc cơ của kẻ thù đang lượn vòng phía trên hải cảng Choshi, cách thủ đô 50 dặm về hướng đông bắc, và tạm thời không có gì nguy hiểm.

                Các máy bay chỉ điểm vẫn chưa bị phát hiện khi bay tầm thấp về hướng thủ đô khinh suất ở tốc độ 300 dặm một giờ. Hai chiếc đầu tiên, có lộ trình bắt chéo phía trên mục tiêu, thả những chùm bom chính xác đến hoàn hảo lúc 12:15 sáng. Một trăm bộ (khoảng 30 m) phía trên mặt đất, các hỏa tiển M47 tách ra, bắn ra những thanh na-pan dài 2 bộ nổ bùng ra lửa khi chạm đất, làm lan rộng những ngọn lửa cô đặc. Trong vài phút một chữ X bốc lửa được khắc dấu trên khu buôn bán của Tokyo. Mười chiếc chỉ điểm nữa gầm thét ném bom napan vào chữ X. Rồi tiếp theo là lực lượng chính, gồm ba đợt, theo đội hình thứ tự nhưng ngẫu nhiên, ở cao độ thay đổi từ 4,900 bộ đến 9,200 bộ. Các đèn pha rọi tìm chĩa vào máy bay oanh kích một cách điên cuồng và những lọn lửa của hỏa lực phòng không nổ ra mà không đạt hiệu quả. Không thấy có chiến đấu cơ địch bay lên nghênh chiến.

                Được trận gió mạnh quất vào, đám lửa lan rộng nhanh chóng khi các oanh tạc cơ lần lượt tản ra hướng về các khu cư trú để trút hàng ngàn thanh bom napan của chúng. Lửa tiếp lửa, tạo thành một trận hỏa hoạn khủng khiếp. Những quả cầu lửa nhảy từ tòa nhà này đến tòa nhà khác với sức mạnh bão táp, tạo ra một làn sóng nóng đỏ có nhiệt độ lên tới 1,800 F (khoảng 982 độ C.)  

                Những người trên mặt đất phút chốc bị tê liệt trước cảnh tượng đáng sợ của những máy bay che phủ họ như một bầy rồng khổng lồ – màu lá cây do đèn pha rọi, màu đỏ thẩm do ánh lửa dưới đất. Từ khu cư trú Bunkyo-ku nhìn qua trung tâm đám cháy, cậu thanh niên 17 tuổi Susumu Takahashi ngắm nhìn những chùm bom nở hoa bên trên Đại học Hoàng gia Tokyo. Anh là sinh viên trường Cao đẳng Y khoa Showa, và sau còi báo động không kích anh vẫn ở lại trong nhà để học thi trong khi những thành viên khác của gia đình đều đi vào nơi trú ẩn. Từ bầu trời đỏ thẩm, những mảnh vụn lửa rơi xuống chung quanh Takahashi. Một ngọn lửa bùng nổ trên mái nhà và anh vội vàng dập tắt nó bằng cái “dập lửa” – một nắm giẻ rách buộc vào một đầu gậy dài. Ngôi nhà kế bên nổ bùng thành ngọn lửa như một lò đầy ga. Anh chạy đến phòng mình để lấy ba cuốn sách – ngày mai là ngày thi – rồi tìm những ảnh thờ tổ tiên ở bàn thờ Phật. Chúng đã không còn chỗ cũ; mẹ anh chắc đã mang cất chúng rồi. Anh chụp lấy một ảnh Phật mạ vàng và bạc và cẩn thận chọn những cổ vật tốt nhất – tượng bằng ngà. Theo thói quen, anh kéo cửa lại, chôn các đồ cổ trong nơi trú ẩn của gia đình (nó trống trơn, những người khác đã chạy đi) và bước ra đường. Bên phải mọi thứ đều đang bốc lửa. Anh chạy ra đường chính ở bên trái nơi có một xe cứu hỏa đang đậu một cách bất lực; những vòi nước chùng xuống, chung quanh là những tòa nhà đang bốc cháy. Không có nước.

                Takahashi cố vượt qua rìa đám cháy. Gia đình Sekimura sống cách trung tâm dấu X bốc cháy không đến 2 dặm. Khi họ bắt đầu thấy đám lửa gần Nhà Ga Tokyo, họ trùm bốn đứa con trong áo choàng tránh lửa bọc kín đầu và nhập bọn với dòng người hướng về phía nhánh sông Sumida. Bước qua những mảnh vụn cháy xoăn tít đang bắt đầu rơi lả tả như tuyết đen nhắc bà Sekimur nhớ lại trận động đất lớn năm 1923, khi bà lên 12. Cảnh tượng các quả bom bung ra trên đầu “như những nãi chuối” mê hoặc bà hơn là làm bà khiếp sợ.

                Họ xô đẩy qua cầu để trốn chạy đám lửa đang rượt đuổi họ “như một dã thú.” Một cơn gió lớn bị hút vào ngọn lửa quét một trận bão đá sỏi châm chích mặt mày họ. Họ quay đi đưa lưng hứng cơn gió mạnh, rồi lại lầm lũi bước ra khỏi đám cháy, mê mẩn nhìn những thùng dầu lăn lông lốc qua mái một xưởng dây cáp gần con sông rồi phát nổ thành những quả cầu lửa bay hơn 100 bộ trong không trung.

                Trung tâm Tokyo phát sáng như mặt trời. Những đám mây cuồn cuộn khói nổi lên, chiếu sáng từ bên dưới bởi các ngọn lửa màu da cam. Hàng ngàn người khiếp sợ rúc bên trong nơi trú ẩn bằng gỗ của họ, rồi sẽ bị thiêu sống, nhưng hầu hết những người trong vùng thảm họa cố sức tẩu thoát – đến ngôi chùa lớn ở Asakusa, sẽ trở thành nấm mồ của mình, hay, như gia đình Sekimura, về hướng 11 chiếc cầu thép bắc qua dòng sông uốn khúc Sumida. Trong một  lúc đây là những con đường thoát hiểm, nhưng rồi ngọn lửa cũng vượt sông và rồi không còn đường thoát nào cho những người chậm chân.

                “Ánh sáng nóng đỏ đang lan qua chân trời đông nam nhanh chóng phình ra và che lấp toàn bộ bầu trời,” bà Sumie Mishima nhận xét, “thậm chí ngay chỗ chúng tôi đứng, ở vùng ven đối diện của thành phố, một thứ ánh sáng hồng kỳ quái an vị trên mặt đất và chiếu sáng rõ ràng những gương mặt hằn sâu nét kinh hoàng. Đám cháy hình như kéo dài suốt đêm.”

                Hơi nóng khủng khiếp húc vào những chiếc B-29 trên cao, ném một số lên cao hàng ngàn bộ trong không trung. Tận trên cao, chiếc phi cơ chở tham mưu trưởng của LeMay, Trung tướng Thomas Powers, lướt qua lướt lại. Ông chụp hình đám cháy, và báo cáo với LeMay là Tokyo đúng là một địa ngục. Phi hành đoàn trong đợt ném bom cuối cùng có thể ngửi thấy mùi của thịt cháy; một số phải nôn ọe. Ném bom ở châu Âu hình như có tính khử trùng từ không trung; còn ở đây nó là một thực tại làm nôn mữa.

                Lúc rạng đông Takahashi nhìn xuống thành phố ngún khói từ vị trí thuận lợi trong trường Cao đẳng Nha-Y khoa Tokyo. Trung tâm của thủ đô là một vùng đất hoang bằng phẳng trừ những pho tượng đá, cột và tường bê tông, khung thép, và các cột điện thoại rải rác, đầu mút chúng bốc khói như những cây nến. Tiêu rồi, anh nghĩ.

                Bà Sekimura, địu con nhỏ trên lưng, bắt đầu truy tìm lại những vật dụng bà đã chôn dưới đất. Cây cầu đông nghẹt những thây người đã bị mắc kẹt. Chính con sông, gần như đã bốc hơi, bị ứ nghẽn vì các thi thể căng phồng và đồ đạc trong nhà. Ở phía bên kia, hơi nóng vẫn còn bốc ra từ mặt đất, một ngày tháng 3 mát mẻ nghe như một mùa hè đến sớm. Những nơi chốn bà đã quen thuộc gần hết cuộc đời đã biến mất. Tất cả những gì bà có thể nhận ra là xưởng dây cáp; nó cong quẹo và biến hình như một cây kẹo tan chảy. Có thi thể khắp mọi nơi. Một số trần truồng, cháy đen; một số đứng thẳng một cách kỳ cục, khom mình như đang tính chạy; một số chấp hai tay cầu nguyện; những người khác ngồi như thể đang thiền định. Đầu một người đàn ông teo lại bằng kích thước một quả bưởi. Những thi thể được phủ rơm được chất đống trong sân trường. Mùi của tử thần tràn ngập không khí.

                Cuối cùng bà cũng tìm được tro tàn của ngôi nhà mình nhưng đất không đào được vì còn quá nóng. Bà nhìn quanh quất; vì thậm chí một tờ giấy hoặc một đôi đũa cũng gần như không mua được; nếu mất một ấm trà là điều bi đát, thì mất của cải có nghĩa là trở về kiếp sống của cầm thú. Tất cả món mà bà có thể cứu vớt được là một chiếc kama để nấu cơm; bà dùng một que cây nâng nó lên vì sợ phỏng tay. Lạ thay, cảnh tượng của quá nhiều thi thể không làm bà động lòng. Bà bước đi một cách máy móc qua những thây người hàng xóm, mà không thể nhỏ nước mắt. Có một bà mẹ và một đứa con sống bên kia đường. Họ hoàn toàn cháy đen trừ ra những vòng trắng quanh cặp mắt; họ lúc nào cũng chu đáo như thế. Choáng váng, bà băng qua bệnh viện và ao nước cứu cấp. Nó chứa đầy lớp này đến lớp khác những thi thể sóng xoài. Một người đàn ông ngăn bà lại và lưu ý bà là y đã ở trong đống xác chết ấy. “Mọi người khác đã chết,” y phều phào nói. “Thật là nhiệm mầu tôi thậm chí không bị thương.”

                Dân chúng lấy các cây gậy dài chọc vào lớp thi thể để tìm kiếm người thân. Tiền bạc rớt ra từ obi của một bà già và dính vào thi thể ướt nhem của bà, nhưng không ai buồn lấy. Qua bức tường bị phá hủy của một kỷ viện đổ ra hàng trăm bộ kimono bằng lụa đầy màu sắc. Bà Sekimura nâng những trang phục mỏng manh một cách nhẹ nhàng trong tay bà; chúng rất đắt giá. Thật đáng tiếc khi một chất liệu như thế bị hư hỏng. Không xa đó những cái chân ló ra một cách vụng về từ một đống xà bần.

                Mọi nơi bà bắt gặp những thây người trong những tư thế thống khổ – mẹ ra sức che chở các con nhỏ bị cháy đen; chồng và vợ  gắn chặt nhau bởi hơi nóng trong một cái ôm cuối cùng. Những người sống sót khác đã trở lại và họ dùng than viết ngoằn ngoèo những tin nhắn cho người thân trên các bức tường và vỉa hè.

                Mười sáu dặm vuông của Tokyo đã bị đốt rụi và các viên chức thành phố sau đó ước tính có 130,000 người chết, gần bằng lò sát sinh ở Dresden *. Sau này Phòng Lịch Sử Chiến tranh Nhật Bản tính có 72,489 người chết.

  • Vụ oanh tạc Dresden do Mỹ và Anh thực hiện vào thành phố Dresden, Đức, trong Thế chiến II. Trong bốn đợt không kích giữa 13 và 15 tháng 2 năm 1945, 722 oanh tạc cơ hạng nặng của Không lực Hoàng gia Anh và 527 của Không lực Hoa Kỳ trút xuống hơn 3,900 tấn bom lửa và bom nổ. Vụ oanh tạc phá hủy 1,600 mẫu (6.5 km vuông) của trung tâm thành phố. Ước tính có từ 22,700 đến 25,000 người chết, hầu hết là dân thường.

 

                Ngày hôm sau LeMay gởi 313 oanh tạc cơ mang bom napan đến Nagoya, thành phố lớn thứ ba của đế chế. Những cuộc oanh kích ác liệt bằng bom lửa xuống Osaka và Kobe tiếp liền sau đó. Trong vòng một tuần, 45 dặm vuông của khu kỹ nghệ tối thiết đã bị hủy diệt. Không còn nghi ngờ gì nữa chiến thuật mới của LeMay sẽ sớm đẩy người Nhật vào tình thế không thể kéo dài cuộc chiến. Nhưng nhiều thứ không phải là sức mạnh quân sự của Nhật Bản đã bị hủy diệt. Trong đó một số lớn thường dân vô tội đã bị giết chết.

                Thái độ của người Mỹ đối với vụ ném bom đã đảo ngược hoàn toàn với sự ghê tỡm chân thành ban đầu của họ đối với  hành động giết bừa bãi các dân thường trong các thành phố Tây Ban Nha và ở Trung Hoa. Lúc chiến tranh bùng nổ ở châu Âu, Roosevelt thể hiện đạo đức nhân bản của nhân dân mình, gởi đi những thông điệp cho những người hiếu chiến kêu gọi họ kiềm chế những “hành vi man rợ vô nhân đạo” khi bỏ bom thường dân. Thậm chí sau trận Trân Châu Cảng, các nhà lãnh đạo không lực Mỹ nhấn mạnh đến việc ném bom chính xác vào ban ngày, và nhắm hủy diệt các mục tiêu quân sự được tuyển chọn. Nhưng dần dần hiệu quả của chương trình này không được kéo dài, và những khu vực bị ném bom được mở rộng ra để bao gồm bất cứ thứ gì yễm trợ cho các nỗ lực chiến tranh của kẻ địch, kể cả, nếu cần, chính dân chúng. Đó là một chính sách phần lớn là không được thông tin và không được ghi âm theo đó rõ ràng là toàn thể dân chúng bên địch, ở hậu phương cũng như ở tiền tuyến, sẽ phải chịu sự đối xử tàn bạo để ép buộc địch đầu hàng.

                Công luận phần đông chấp nhận sự biến chuyển này, dù thỉnh thoảng nổi lên những quan ngại về đạo lý. Đến năm 1945 gần như mọi người Mỹ đều đồng ý rằng Nhật và Đức đáng hứng chịu từng quả bom rơi xuống xứ sở họ. Tạp chí Time, chẳng hạn, mô tả các trận oanh tạc Tokyo của LeMay như là “một giấc mơ đã biến thành sự thật” chứng tỏ rằng “nếu biết cách đốt, các thành phố Nhật sẽ cháy như lá mùa thu.”

                Đặc biệt người Mỹ không mấy có cảm tình với kẻ thù đã tấn công Trân Châu Cảng mà không báo trước và gây ra những hành động tàn độc như trên Hành Trình Tử Thần Bataan. Kết quả là hiếm có tiếng nói nào bệnh vực với lý do nhân đạo cho hàng trăm ngàn thường dân bị thiêu đốt và phanh thây. Tuần san Thiên chúa America không tin là những cuộc oanh kích hàng loạt phù hợp với “luật điều Thượng đế hoặc tính cao thượng của chính nghĩa chúng ta.” Một truyền đơn bằng tiếng Anh có tựa Tàn Sát bởi Tử Thần được phân phát tại Hoa Kỳ với lời giới thiệu đặc biệt được tán thành bởi 28 nhà giáo dục và giáo sĩ tiếng tăm; nó kêu gọi độc giả hãy “tự vấn trái tim mình” liên quan đến sự tham gia của họ trong “lễ hội của tử thần.” Nước Mỹ, bao gồm hầu hết giới tăng lữ, phản bác những lời hô hào như thế. “Thượng đế đã trao cho chúng ta khí giới,” một giáo sĩ vặn lại trong phần bình luận của người đọc của tờ New York Times; “chúng ta hãy sử dụng chúng.” Những gì trước đây là tội phạm ở Coventry, Rotterdam, Warsaw và London đã trở thành hành động anh hùng ở Hamburg, Dresden, Osaka và Tokyo.

 

2.

                Tiền đồn kháng cự quan trọng cuối cùng của Nhật Bản ở Phi Luật Tân và Miến Điện đang lâm nguy. Trên đảo Luzon, binh sĩ của MacArthur đã chiếm Bataan và Corregidor. Không có gì minh họa sự khác biệt giữa hai đối thủ tốt hơn bằng cách so sánh việc phòng thủ hòn đảo nhỏ hình con nòng nọc này. Người Mỹ đã kháng cự 12 giờ trước khi Wainwright cảm thấy chiến đấu nữa cũng vô nghĩa. Ba năm sau 5,000 lính phòng thủ Nhật Bản chiến đấu trong 11 ngày chống lại cuộc tấn công ào ạt của lính nhảy dù và lực lượng đổ bộ. Chỉ có 20 người còn sống. Về chiến lược không có gì khác biệt nhiều khi chiến đấu 11 ngày hay 11 giờ.

                MacArthur trong một tâm trạng xúc cảm khi ông đi đến The Rock bằng thuyền PT. “Quí vị,” ông nói, “ngày trở về thật là dài.” Trên đống hoang tàn của tiền đồn ông ra lệnh thượng quốc kỳ Mỹ. “Kéo cờ lên và không để cho kẻ thù nào kéo nó xuống lần nữa.” Sau nghi thức ông xem xét những đổ nát. “Đây là sự đền tội,” ông nói.

                Không giống Corregidor, Manilla không được phòng thủ gì hết. Yamashita chuyển tất cả quân trừ lực lượng an ninh ra khỏi thành phố, nhưng ông vừa rút đi thì Chuẩn Đô đốc Sanji Iwabuchi chiếm lại Manila với 16,000 thủy thủ. Iwabuchi được lệnh từ cấp trên, Phó Đô đốc Denshichi Okochi, phá hủy tất cả phương tiện cảng và nhà kho hải quân. Khi đã ở đó, Iwabuchi chỉ huy lực lượng an ninh 3,750 người, và chống lại lệnh đặc biệt của Yamashita, biến thành phố thành một bãi chiến trường. Khi mà quân Mỹ chiếm được nó vào ngày 4/3, thủ đô chỉ còn là đống gạch vụn và hàng ngàn dân thường đã thiệt mạng, nhiều người trong số đó là nạn nhân của những hành vi tàn bạo của binh lính Nhật.

                Nhưng Phi Luật Tân còn lâu mới được quét sạch. Yamashita có 170,000 binh lính khỏe mạnh, trang bị tốt, hầu hết họ bảo vệ phòng tuyến phía bắc dưới quyền chỉ huy trực tiếp của ông, nhưng cũng có những nhóm lớn trấn giữ trong những ngọn núi phía đông và đông bắc Manila và trong vùng núi Zambales gần Sân bay Clark. Cuộc chiến của họ không phải là Trận Đánh Quyết Định được mong đợi từ lâu mà đúng hơn là trận đánh tiêu hao. Vai trò của Yamashita là cầm cự với MacArthur càng lâu càng tốt, và trong quá trình ấy giết nhiều quân Mỹ như có thể.

                Bộ binh Mỹ, công phẫn vì tình trạng tồi tệ của dân thường và các tù binh Mỹ bị giam cầm ở nhà ngục Santo Tomas, lên đường tiêu diệt Yamashita với sĩ khí lên cao. Các áp phích thúc giục họ không khoan hồng với những “con quỷ da vàng.” Cho dù không có sự cổ vũ như thế, thái độ của nhiều binh lính Mỹ đối với người Nhật cũng tiến dần đến sự thái quá. Trong Nhật Ký Thời Chiến của mình, Charles Lindbergh, đi một vòng Thái Bình Dương, viết: “Binh sĩ chúng ta không quan tâm việc bắn bỏ một tù binh Nhật hoặc một người lính muốn đầu hàng. Họ đối xử với lính Nhật còn thua với một con thú, và hành động này gần như được mọi người tha thứ. Chúng ta tuyên bố mình chiến đấu vì nền văn minh, nhưng càng ngày chứng kiến cuộc chiến này ở Thái Bình Dương tôi càng nghĩ chúng ta càng sai khi cho rằng mình là người văn minh. Thật ra, tôi không chắc kỷ lục của chúng ta về phương diện này đứng ở thứ hạng cao hơn người Nhật rất nhiều.”

                Những ám chỉ về chủng tộc còn lan ra đến những nạn nhân của người Nhật – dân Phi Luật Tân (Filipino)– bị gọi một cách khinh thị là “flip” hoặc “gook.”

                Không có cuộc chiến tiêu hao ở Miến Điện. Người Anh đi theo binh lính Nhật sống sót trong trận Imphal vượt qua các ngọn núi xâm nhập Miến Điện và băng qua Sông Chindwin. Vào ngày binh lính MacArthur đổ bộ lên Vịnh Lingayen, ngày 9/1, họ phát động một trận phản công về hướng Mandalay và trái tim của Miến Điện. Vẫn còn kiệt quệ sau thảm bại Imphal, người Nhật không thể làm gì nhiều để ngăn cản quân Anh tràn về nam.

                Ba Maw biết rằng mình đã thua trận và ông bắt đầu chuẩn bị cuộc đấu tranh vũ trang hậu chiến để đuổi thực dân Anh ra khỏi xứ sở mình. Ông sẽ phải tìm ra cách thức để giữ vững tinh thần giành độc lập của người Miến Điện, cộng với hận thù triền miên đối với thực dân Anh. Ông thành lập Hội đồng Phòng thủ Tối cao để huy động sức chiến đấu của nhân dân mình. “Đây là trận đánh cuối cùng trong cuộc chiến đấu lâu dài với đế quốc Anh,” ông bảo họ. “Chúng ta đã đánh họ ba lần và cả ba lần đều thất bại, và vì thế trở thành một chủng tộc bị áp bức trong nhiều thế hệ. Giờ chúng ta phải chiến đấu và đánh thắng trận thứ tư cuối cùng này với sự hỗ trợ của Nhật Bản, vì nếu chúng ta thảm bại một lần nữa chúng ta sẽ thành nô lệ một thời gian dài sau đó.”

                Ba Maw thành công trong việc cắm sâu tinh thần phản kháng lâu dài đối với người Anh nhưng không thể làm chậm bước tiến của họ. Vào ngày 9/3 họ tiến vào Mandalay, đánh chiếm ga tàu hỏa Obo và Đồi Mandalay, rồi tiếp tục về nam hướng về thủ đô, Rangoon.

                Hình như quan trọng như Phi Luật Tân và Miến Điện mà có lần các nhà lãnh đạo quân sự Nhật Bản từng nghĩ, họ không thể ra khỏi cái suy luận khó tránh là niềm hi vọng cuối cùng của đế chế nằm trong sự phòng vệ hữu hiệu một đảo tương đối nhỏ chỉ cách nội địa 350 dặm về phía nam. – Okinawa. Đô đốc Tomioka, chẳng hạn, tin rằng kẻ thù có thể bị đập tan tại đó với một nỗ lực toàn diện, và thắng lợi này sẽ cho Nhật Bản sáu tháng để thương lượng một nền hòa bình bảo đảm việc trị vì tiếp tục của Thiên hoàng.

                Sự thất thủ của Leyte và Iwo Jima đã khiến Nội các của Tướng Koiso bên bờ sụp đổ. Koiso đã được cất nhắc có chủ ý vào vai trò thủ tướng lâm thời, và từ ngày đầu tiên trong nhiệm vụ mới đường đi của ông rất bấp bênh. Với tất cả uy tín của vị thế nhưng không được phe phái nào ủng hộ, Koiso không tạo ra ảnh hưởng nào vào sự phát triển của cuộc chiến và cũng không đạt được gì qua những nỗ lực ngầm để tìm kiếm hòa bình. Không như Tojo [Thủ tướng vừa qua], ông không đại diện cho phe quân phiệt, nhiều người trong số này nhìn ông với mối ngờ vực. Ông cũng không hay biết gì về những vận động phức tạp và liên tục của các nhóm hòa bình.

                Quan ngại về tương lai của quốc gia dưới một ban lãnh đạo như thế quá tha thiết đến nỗi Thiên hoàng triệu tập Hoàng thân Kido và đề nghị ông nên tham vấn các cựu bộ trưởng trước đây về tình hình chiến sự đang xấu đi. Chỉ có một lần trước đây, vào buổi chiều trước ngày tuyên chiến, Thiên hoàng đã triệu tập các jushin [các nhà chính trị lão thành] để thảo luận mọi vấn đề trừ việc chọn ra một thủ tướng mới.

                Kido mời các jushin đến văn phòng Thiên hoàng từng người một, sợ rằng phe quân phiệt sẽ đâm ra nghi ngờ nếu họ xuất hiện cùng một lúc. Như thế cũng dễ hơn cho mỗi người được tự do phát biểu ý kiến. Nhưng trừ ý kiến của Konoye, những lời cố vấn của họ đều mơ hồ và không thấu đáo, hoặc đơn giản chỉ là lời kêu gọi duy cảm nên tiếp tục cuộc chiến với lòng quyết tâm. Sự đánh giá của Konoye là một khảo sát có luận cứ chặt chẽ, nếu không muốn nói là sai hướng, về vực thẳm quân sự và chính trị mà Nhật Bản sẽ lao xuống trừ khi hòa bình được thiết lập nhanh chóng. Ý kiến của ông được trình bày trong Bảng Ghi Nhớ gởi Thiên hoàng dài tám trang, do ông viết tay bằng bút lông và được đọc lớn cho Thiên hoàng nghe. Chắc chắn không thần dân nào khác hơn Konoye có thể bạo gan trình bày một đánh giá thẳng thắn như thế trực tiếp với nhà vua. Như hầu hết mọi việc khác liên quan đến Konoye đó là một quan điểm bất thường – chủ quan và khách quan, thực tiễn và lý thuyết. Bắt đầu bằng một tuyên bố táo bạo (“Dù phải rất tiếc nói ra, thần tin rằng Nhật Bản đã để thua cuộc chiến này”), ông tấn công vào chủ nghĩa Cộng sản chỉ dựa trên sự hoang tưởng đang lớn dần của ông (“Hiểm họa lớn nhất cho sự duy trì hệ thống quân chủ của Nhật Bản không đến từ sự thất trận mà từ mối đe dọa của cách mạng Cộng sản”). Rồi, trong một cố gắng để chứng tỏ là Nhật Bản sắp bị những người Cộng sản bản địa cướp chính quyền, ông dự đoán một cách chính xác tiến trình của chủ nghĩa Mác ở Đông Âu và Triều Tiên. Đánh giá tiếp theo của ông, tuy nhiên, sai lệch do định kiến của ông: Sự kiện Mãn Châu, Sự kiện Trung Hoa và Cuộc Chiến Đông Á Lớn Hơn cũng đã là ‘một kế hoạch được mưu tính một cách  có ý thức” bởi các nhà cực đoan trong Quân đội, mà chính họ là những bù nhìn của các chính trị gia cực đoan cánh hữu “đơn giản chỉ là những người Cộng sản đội lốt quốc túy, lén lút toan tính làm cách mạng Cộng sản.”

                Như quá nhiều trí thức thời trẻ quá thiên về cánh tả và khi già đi lại trở nên bảo thủ, Konoye thấy sự đe dọa Đỏ ở mọi nơi. Ông kết án những người ủng hộ khẩu hiệu “Một Trăm Triệu Người Cùng Chết” đã làm thế do sự xúi giục của “những người Cộng sản đang ra sức đưa đất nước vào sự rối loạn để dễ bề làm cách mạng.” Hơn nữa, một số nhà lãnh đạo Mỹ quá ăn sâu vào tình cảm thân Xô viết đến nỗi họ đang “cổ vũ một đồng minh với Nga với bất cứ giá nào trong khi người khác lại kêu gọi hợp tác với Mao.”

                Vậy mà kết luận mà ông rút ra từ những kết án kỳ lạ này lại có tính lô-gíc không thể tránh được: hòa bình chỉ có thể được thương lượng nếu phe quân phiệt (“Mặc dù họ biết mình không thể đánh thắng cuộc chiến, tôi tin rằng họ sẽ chiến đấu đến chết để khỏi mất mặt”) bị lừa ra khỏi cuôc thương lượng đó. “Do đó nếu gốc cây bị đốn ngã, lá và cành của nó sẽ héo và chết.” Những đề nghị của ông để thỏa thuận với phe quân phiệt, tuy nhiên, không thực tế, mặc dù đáng mong muốn: loại trừ họ bằng một cú đảo chính, rồi sau đó thương lượng trực tiếp với Mỹ và Anh.

                Tuy có những điều không phù hợp, Bảng Ghi Nhớ dài dòng kích động Thiên hoàng và cố vấn trưởng của ông. Không như các jushin đồng nghiệp, Konoye đã bóc trần cốt lõi của vấn đề, và mặc dù cách giải quyết của ông là không thực tế, cuối cùng nó sẽ biến thành một kế hoạch có hiệu quả cho hòa bình bởi ngài Kido có đầu óc thực tiễn.

                Khao khát chấm dứt chiến tranh một cách thuận lợi của Thủ tướng Koiso không bị kiềm chế bởi sự thiếu tin cậy vào ông ta mà các nhà chủ hòa và phe quân phiệt biểu lộ. Tai hại thay, ông nhắm đến hòa bình với Tưởng Giới Thạch như là chìa khóa mở ra những thương lượng danh dự với Mỹ và Anh. Hơn nữa, người ông chọn làm trung gian là một con người hoạt đầu mà cả vùng Viễn Đông đều biết tiếng, Miao Pin. Một viên chức của chế độ bù nhìn Nam Kinh, y tuyên bố là mình có đường dây liên lạc điện đài bí mật với chính quyền Trùng Khánh. Ngoại trưởng của Koiso và cố vấn hiểu biết nhất của ông về Trung Hoa, Mamoru Shigemitsu, cảnh báo rằng nhân vật Miao tai tiếng này chỉ toan tính đến việc xúc tiến tham vọng của mình. “Tin tưởng vào vai trò trung gian của y,” Shigemitsu sau đó viết, “là một sự ngây thơ trẻ con và cho thấy một sự dốt nát về chính trị Trung Quốc.”

                Koiso vẫn không lắng nghe và thuyết phục bộ trưởng chiến tranh của mình, Thống chế Sugiyama, mang Miao đến Nhật trên một chuyến phi cơ quân sự. Tại phi trường gần Tokyo, Miao phớt lờ vị Thủ tướng, người đã mời mình đến, và khăng khăng đòi được họp trực tiếp với một thành viên hoàng gia, Hoàng thân Higashikuni, tại đó y cố lấy lòng Thiên hoàng. Nhưng Thiên hoàng cũng cho rằng toan tính đó khó ưa như Nội các của Koiso. Miao trở lại Trung Hoa một cách nhục nhã – sau đó bị Tưởng hành hình – và cùng với y hi vọng duy trì quyền lực của Koiso tiêu tan.

8910

 

28 Chuyến Xuất Kích Cuối Cùng

 

1.

                Vươn dài về phía nam từ Nhật Bản và uốn cong về hướng Đài Loan trong 790 dặm như một chiếc đuôi dài là một chuỗi gồm 140 hòn đảo, quần đảo Ryukyu. Ở giữa quần đảo này tọa lạc một thành trì quan yếu nhất bảo vệ đất mẹ, Okinawa. Một đảo thon dài khoảng 60 dặm từ bắc tới nam, và ở gần giữa chỉ rộng 2 dặm, nó là một vũ đài lý tưởng cho cuộc xâm chiếm Nhật Bản với eo bằng phẳng để làm sân bay và hai vịnh nước sâu rất thích hợp làm căn cứ hải quân. Thời tiết của nó thuộc vùng cận nhiệt đới, được điều hòa bởi Kuroshio (dòng Gulf Stream ở Thái Bình Dương) và Dòng Ogasawara. Quanh năm độ ẩm cao; mưa nhiều và thất thường, có khi lượng mưa xối xả một ngày bằng lượng trung bình của cả tháng. Từ tháng 5 đến 11 mỗi tháng có hai trận bão quét qua đảo.

                Okinawa là giao lộ của phương Đông, nằm ở vị trí gần như cách đều Nhật Bản, Trung Hoa và Đài Loan, và bị ảnh hưởng của ba nước này cũng như bởi các đảo của vùng nam Thái Bình Dương. Năm 1372 triều đại nhà Minh chiếm đóng đảo làm chư hầu. Hai thế kỷ sau những người Nhật từ Kyushu đến đánh phá đảo nhưng cho phép cư dân tiếp tục nộp đồ triều cống cho Trung Hoa. Sự thần phục kép độc đáo này kéo dài cho đến 1875, khi ông nội của Hirohito, vị Thiên hoàng hiện nay, phái một lực lượng đến xâm chiếm toàn bộ quần đảo Ryukyu. Bốn năm sau Minh Trị chính thức xáp nhập quần đảo, lấy tiếng Nhật làm ngôn ngữ chính thức và thay thế vua Okinawa bằng một vị thống đốc. Là một thuộc địa 450,000 dân Okinawa – đa số chen chúc trong khu vực sinh sống tốt hơn ở phía nam của đảo – tiếp tục sống như đã từng sống bao thế kỷ nay, xoay sở một cuộc mưu sinh đạm bạc chủ yếu bằng nghề nông.

                Tuy bị bỏ mặc, vào thời điểm bùng nổ chiến tranh với phương Tây Okinawa đã trở thành một phần gắn liền với đế chế, và được đại diện trong Quốc hội như là một trong số 47 tỉnh lỵ của Nhật Bản. Về phương diện kỹ thuật dân cư của nó là công dân hạng nhất, nhưng phần đông người nội địa không coi họ ngang hàng. Người Okinawa, với di sản pha trộn của mình, coi mình là người Nhật và trung thành với Thiên hoàng như bất kỳ cư dân Tokyo nào, mặc dù phần đông họ còn thờ cúng tổ tiên Trung Quốc của mình.

                Trong ba năm đầu tiên của cuộc chiến Thái Bình Dương, không tới 600 binh lính đóng tại Ryukyu, và chỉ đến 1/4/1944, Quân đoàn thứ 32, ba sư đoàn đủ quân số và một lữ đoàn, được khởi động tại Okinawa. Vào cuối năm lực lượng đồn trú yếu đi đáng kể khi Sư đoàn số 9 tinh nhuệ được chuyển đến Đài Loan, nhưng tư lệnh Quân đoàn – Trung tướng Mitsuru Ushijima, một sĩ quan trầm tĩnh và có năng lực gần đây đã là sĩ quan chỉ huy của Học viện Quân sự – vẫn còn có trong tay một lực lượng hùng hậu: Sư đoàn 24 từ Mãn Châu gồm 14,000 quân trong đó có vài ngàn tân binh người Okinawa; Sư đoàn 62, 12,000 binh sĩ, chủ yếu là bộ binh, đã chiến đấu ở Trung Hoa; và 5,000 người của Lữ đoàn Hổn hợp Độc lập 44. Cũng có trung đoàn xe tăng gồm 14 xe tăng loại trung bình và 13 xe tăng loại nhẹ, và các đơn vị pháo khác nhau với số đáng kể các đại bác máy 22-mm, pháo 75-mm, súng phóng lựu 150-mm và 81-mm, súng cối, cũng như 24 đại súng cối chống tăng đầu vòi 320-mm phun ra những quả đạn 675 cân.

                Hơn nữa, Ushijima có thể trông cậy vào hai trung đoàn hải vận, một hổn hợp gồm những đơn vị dịch vụ và 20,000 kiếm sĩ, các đơn vị phòng vệ cộng đồng của cư dân Okinawa nóng lòng muốn phục vụ cho Thiên hoàng của họ.

                Sự rút đi của Sư đoàn số 9 khiến cho Ushijima phải cấu kết lại một kế hoạch phòng thủ mới sử dụng lực lượng còn lại của mình một cách có lợi nhất. Ông gần như tin chắc là kẻ thù sẽ đổ bộ lên bờ biển phía tây ngay dưới eo đảo dọc theo các bãi biển Hagushi mênh mông, vì thế ông tập trung người của mình về phía nam. Ông cũng bắt đầu chuyển các binh sĩ hải quân và dịch vụ nhiều như có thể thành binh sĩ ở tuyến trước. Từ các tiểu đoàn hải kích, thành lập để cung cấp người cho các tàu cảm tử, ông trích ra 5,500 bộ binh, và mặc dù họ trang bị kém và huấn luyện sơ sài, họ có tinh thần chiến đấu cao. Mười ngàn nhân sự hải quân khác được tổ chức thành một lực lượng được một Đô đốc chỉ huy. Để giải phóng nhiều hơn nhân lực quân sự cho chiến đấu, 3,900 người Okinawa được tạm thời giao cho Quân đoàn 32 làm binh sĩ lao động; 600 sinh viên trở thành các người đưa tin, lính liên lạc và phụ tá truyền tin tại những bộ chỉ huy khác nhau. Một nhóm các học sinh trung học năng nổ được huấn luyện để chiến đấu; 750 trong số đó thành lập đội Máu và Sắt được huấn luyện để xâm nhập phòng tuyến kẻ thù và tiến hành chiến tranh du kích.

                Ngay phía trên hai thành phố lớn nhất của Okinawa, Naha và Shuri, địa thế rất lý tưởng để phòng vệ, và chính tại đây Ushijima dựng một phòng tuyến bề sâu, một chuỗi những đồn lũy đồng tâm, quay mặt về hướng bắc và mở rộng khắp hòn đảo. Nhiều động, lô cốt, và ụ pháo được đào vào sườn đồi kết nối với nhau bằng một hệ thống phức tạp các đường hầm. Thậm chí các nhà mồ của người Trung quốc cũng được biến thành công sự, bất chấp sự phản đối của các bậc lão thành Okinawa. Cũng như tại Iwo Jima, Ushijima sẽ cho phép quân thù đổ bộ và chỉ giao tranh với họ từ những vị trí đã chuẩn bị trước. Vào tháng 3 hơn 100,000 phòng vệ binh, kể cả nhóm Boeitai (kiếm sĩ), đã vào vị trí. Hai sư đoàn dạn dày nhất giữ phòng tuyến chủ lực, trong khi sư đoàn thứ ba và Lữ đoàn Hổn Hợp Độc lập 44 án ngữ mũi phía nam của Okinawa chống quân đổ bộ ở khu vực đó. Phần nửa phía bắc của đảo chỉ có lực lượng phòng vệ tượng trưng gồm hai tiểu đoàn.                      

                Ushijima đã dự đoán đúng kế hoạch của Mỹ. Họ sẽ đổ bộ lên bãi biển Hagushi, mặc dù có cuộc đổ bộ nghi binh ở phía nam. “Núi băng trôi” là chiến dịch Lục-Hải liên quân dưới quyền chỉ huy toàn diện của Đô đốc Spruance, người đã chống lại ý kiến xâm chiếm Đài Loan. Một tướng Lục quân, Simon Bolivar Buckner, Jr – một người chống đối Đàl Loan khác – sẽ cầm đầu tất cả lực lượng bộ binh. Cha ông, một trong những vị tướng đầu tiên của Liên minh, đã thoát khỏi nhà tù của Liên bang. Con trai ông là một người can trường và có tinh thần kỷ luật cao và đã đi đến giới hạn để chứng minh điều ấy. Trong chiến dịch Aleutian ông đã ngủ trên chiếc đệm mỏng lấy giấy làm khăn trải; ông tự luyện tập đọc sách mà không cần kính cận bằng cách nheo mắt. Quân đoàn thứ 10 của ông gồm 9 sư đoàn có kinh nghiệm tác chiến, phân nửa lục quân, phân nửa Thủy quân Lục chiến. Lục quân tập luyện và diễn tập tại Espiritu Santo và Leyte, trong khi Thủy quân Lục chiến sử dụng Guadalcanal. Công tác vận chuyển lực lượng tấn công gồm 183,000 binh sĩ và 747,000 tấn khí tài ra chiến trường thật là kinh khủng. 430 chuyến vận chuyển binh lính sẽ được chở xuống tại 11 cảng khác nhau, từ Seatle đến Leyte.

                Bước đầu tiên, vào ngày 24/3, là vụ đánh chiếm Keramas, một nhóm đảo nhỏ nhiều núi non cách Naha 15 dặm. Ở đó chỉ có 750 lính phòng vệ, và chúng chạy tán loạn vào đồi núi và hang động. Trước hoàng hôn đảo đã sẵn sàng làm căn cứ cho thủy phi cơ và chỗ neo đậu hạm đội.

                Cùng ngày một trận oanh tạc Okinawa có hệ thống bắt đầu. Một tuần sau các người nhái làm việc công khai dọc theo các bãi biển Hagushi, dọn sạch rác rưới và cho nỗ mìn, trong khi binh lính Nhật ở trên bờ quan sát với sự ngưỡng mộ lẫn lo âu, không khai hỏa như đã được chỉ thị. Cao điểm của trận oanh tạc xảy ra vào ngày 31/3. Khi nó ngưng, Chuẩn Đô đốc W. H. P. Blandy, chỉ huy tất cả công tác mở đầu, thông báo công việc chuẩn bị đã “đủ cho một cuộc đổ bộ thành công.” Tại thời điểm này, 27,226 đạn 5-inxơ hoặc lớn hơn đã trải thảm xuống Okinawa. Hiệu quả có vẻ tàn khốc nhưng phòng tuyến chủ lực vẫn gần như còn nguyên vẹn. Ngay trước rạng đông ngày 1/4, Chủ nhật lễ Phục sinh, tiếng pháo của hải quân một lần nữa làm thức tỉnh binh lính của Ushijima. Những người ẩn nấp dọc theo bờ biển nhìn ra ngoài trố mắt trước cảnh tượng đáng sợ: 1,300 tàu chiến tập trung ngoài khơi.

                Đó là ngày L (L chỉ Love). Vào 8 giờ sáng tàu đổ bộ chứa đầy lính tấn công khởi hành đến bãi biển. Tàu LST nhả ra các xe lội nước bọc sắt, tàu đổ bộ cũng chở theo binh lính và trang bị. Hầu như không có kháng cự gì khi hai Quân đoàn và hai sư đoàn Thủy quân Lục chiến ào ạt tràn lên bãi biển vào buổi sáng. “Thật khó mà tin,” Robert Sherros viết. “Tôi vẫn còn sống lâu hơn là mình tưởng,” một lính bộ binh của Sư đoàn 7 nhận xét khi lên đến đỉnh đồi. Anh nói thay cho mọi người. Đến tối hơn 60,000 binh sĩ Mỹ đã lên bờ trong một đầu cầu không rộng hơn 3 dặm và sâu chưa tới 1 dặm. Không kể vụ đổ bộ Guadalcanal, đó là một cuộc xâm lăng lớn ít tốn xương máu nhất – 28 người chết, 27 người mất tích. “Chúng tôi đã đổ bộ lên Okinawa một giờ rưỡi sau giờ-H, không bị bắn, và thậm chí không ướt bàn chân,” thông tín viên ưa thích của bộ binh, Ernie Pyle, báo cáo. Okinawa là một miếng bánh.

                Quân đoàn thứ 10 di chuyển nhanh chóng trên khắp các mặt trận, chạm trán một chút đối kháng nào đó quanh các sân bay từ các đơn vị Boeitai, và trước khi hết ngày thứ hai đường băng Kadena không chỉ được thông thoáng mà còn được sửa chữa cho những vụ đáp khẩn cấp. Vào ngày thứ ba Thủy quân Lục chiến, vốn đã quay về phía bắc, băng qua eo hẹp của hòn đảo. Okinawa đã bị cắt làm hai. Các sư đoàn bộ binh đi về nam tiếp tục gặp sức kháng cự rời rạc. Tại làng chỉ huy của Shimabuku họ đối đầu với một cặp người Nhật – ông già run run cúi đầu chào không dứt. Một người là hiệu trưởng, người kia là thầy giáo Shosei Kima. Kima đã thuyết phục 1,300 dân làng ở yên trong nhà đừng chạy trốn vào vùng quê mà chết đói.

                “Các cậu người Mỹ!” Kima kêu lên. “Tôi đạo Thiên chúa người Okinawa!”

                Người Mỹ thận trọng khống chế họ bằng súng. Có một khoảng thời gian chừng vài phút chờ đợi căng thẳng cho đến khi thông dịch viên, Thomas Higa, đến nơi. “Sensei  [Tiên sinh tức thầy]!, anh la lên, cầm lấy tay Kima. “Kim tiên sinh, thầy có nhớ con không? Con là Taro Higa đây. Con là học trò của thầy ở trường tiểu học đây.”

                Suốt ngày hôm đó binh sĩ Mỹ tiến sâu vào đảo về hướng bắc và nam. Quân thù đâu rồi? Trung tá James Brown của Trung đoàn Thủy quân Lục chiến 12, gởi một tin đến sĩ quan tiếp vụ của sư đoàn: “Đại tá, làm ơn gởi cho tôi một xác lính Nhật. Nhiều lính của tôi chưa hề thấy hắn. Chúng tôi sẽ chôn hắn cho ngài.”

                                    

2.

                Không được ủng hộ từ bất kỳ bộ phận nào, chế độ Thủ tướng Koiso tiêu đời. Dù vậy, ông tiếp tục nỗ lực một cách điên cuồng nếu không muốn nói là vô vọng để cứu vãn nội các của mình. Ông làm Thiên hoàng bối rối khi đầu tiên đề nghị một sự tái cơ cấu nội các quyết liệt để rồi một lát sau lại xin từ chức; ông mang đề nghị ấy đến trình Kido nhưng chỉ nhận sự phản ứng lạnh nhạt; thất vọng, ông trở lại gặp Thiên hoàng. Nhà vua hoang mang vì sự lúng túng của Koiso, bảo ông, “Hãy về nghiên cứu vấn đề lại cẩn thận hơn.”

                Đó là lời đề nghị nhã nhặn cho ông bước xuống nhưng Koiso tiếp tục tự đánh lừa mình. Ông bảo Hoàng thân Higashikuni mình có thể “gánh vác cuộc chiến một cách thỏa đáng” nếu ông được tái cơ cấu một cách chính qui; rồi ông có thể được bổ nhiệm làm bộ trưởng chiến tranh. Ông phàn nàn là Lục quân cứ liên tiếp bác bỏ lời yêu cầu thay thế bộ trưởng chiến tranh Sugiyama, và ông sẽ sớm mang vấn đề này trực tiếp đến Thiên hoáng. Một lần nữa Thiên hoàng lại thờ ơ.

                Koiso đã hết cách để có thể cứu vãn chính phủ của mình. Chạm tự ái, ông bảo Kido vào chiều ngày 4/4 là ông sẽ từ chức vào ngày hôm sau. Chức năng quan trọng nhất của Cơ mật Viện là chọn ra thủ tướng mới. Theo truyền thống trước tiên Kido sẽ hội ý với các chính trị gia lão thành (jushin) để hỏi ý kiến của họ trước khi cố vấn cho Thiên hoàng. Tuy nhiên, lần này một cuộc điều tra sơ khởi sẽ được tiến hành ngay lập tức, để bảo đảm chọn lựa được một người sẽ hoạt động cho hòa bình, nhưng được Lục quân chấp nhận.

                Đó là một bước khác thường nhưng được sự tán thành hoàn toàn của Thiên hoàng. Vào ngày 5/4, khi Koiso trình đơn xin từ chức chính thức lên Thiên hoàng, Hoàng thân Kido dò xét lập trường với từng nhà lãnh đạo quân sự riêng lẻ trong bốn vị. Ông đề nghị là có lẽ đây là lúc thành lập “một nội các Điều hành Chiến tranh,” trong đó thủ tướng, cần thiết là một quân nhân, sẽ kiểm soát không chỉ những vấn đề của quốc gia mà còn là Tư lệnh Tối cao. Cả hai Tham mưu Trưởng Lục quân Umezu và Bộ trưởng Chiến tranh Sugiyama lạnh nhạt với một nội các như thế. Umezu biết rằng trận đánh trên Okinawa sẽ theo chiều hướng xấu nhưng Nhật Bản “phải sẵn sàng chiến đấu đến phút cuối cùng.” Sugiyama cũng bi quan như thế, nhưng vẫn ôm ấp hi vọng một khi Nga đánh bại Đức Nga có thể thuyết phục các đồng minh của mình làm hòa với Nhật. Tham mưu Trưởng Hải quân Koshiro Oikawa không chắc chắn về kết quả của cuộc chiến – ông không tin là thậm chí một thắng lợi tại Okinawa sẽ kết thúc nó; quân thù đơn giản sẽ tấn công một lần nữa.

                Lời khai của ba người này chỉ cho Kido thấy rằng các tư lệnh cao cấp trong thâm tâm biết rằng cuộc chiến này không thể thắng. Về phần người thứ tư, việc Bộ trưởng Hải quân Yonai bí mật ủng hộ hòa bình, tất nhiên, được Hoàng thân biết rõ. Ngoài ra, bộ trưởng đã tìm được một ứng viên thích hợp cho chức thủ tướng: Đô đốc Kantaro Suzuki. Đề nghị này hình như lý tưởng đối với Kido. Vị Cựu Tổng Quản Nội thị này là một con người “vĩ mô”, mà Thiên hoàng gọi một cách thân thương là oyagi (lão gia).

                Cuối chiều hôm đó, lúc 5 giờ, các jushin – trừ Nam tước Wakatsuki vì bị trễ tàu – tề tựu trong Nhà khách Hoàng cung để chọn ra một thủ tướng. Tham dự cũng có Kido và chủ tịch mới của Hội đồng Cơ mật, người tình cờ cũng được Cơ mật Viện chọn làm thủ tướng – Đô đốc Suzuki. Trong phiên họp đầu tiên của Tojo với tư cách một jushin, ông rất cảnh giác và hay kích bác, cho thấy rõ từ đầu là ông ta sẽ phủ nhận bất kỳ ứng viên hòa bình nào. Những jushin thân cận với ông đều chống đối ông nhưng không ra mặt. Vì sợ đánh động đến bọn quân phiệt, họ không dám đụng chạm một cách công khai.

                “Việc Koiso từ chức cho thấy các vấn đề của quốc gia cũng như Tư lệnh Tối cao cần được xét lại,” Tojo bắt đầu. “Điều này nghĩa là gì?” Nó là một thách thức cũng như là một câu hỏi.

                “Thủ tướng Koiso không đưa ra lời giải thích nào đặc biệt,” Kido trả lời.

                “Trong khi đang chiến tranh thay đổi chính quyền là điều không nên,” Tojo nói một cách hằn học. “Nội các tiếp theo phải là nội các cuối cùng! Hiện giờ có hai luồng tư tưởng trong đất nước này: một là chúng ta phải chiến đấu đến cùng để bảo đảm tương lai của xứ sở; hai là đem đến hòa bình một cách nhanh chóng cho dù phải trả giá bằng việc đầu hàng vô điều kiện. Tôi nghĩ chúng ta phải xác định điểm này trước.”Đây là nội các gánh trên vai số phận của quốc gia chúng ta cho đến mức cuối cùng, một nội các sẽ động viên toàn bộ sức mạnh của quốc gia chúng ta. Những vấn đề như là hòa bình hay chiến tranh không thể nêu ra  ở đây.”

                Một khoảng lặng nặng nề rồi hai thành viên dân sự – Hiranuma và Hirota – thử xoa dịu Tojo. Cả hai đều khẳng định, nói vậy nhưng không phải vậy, cuộc chiến phải được theo đuổi đến phút cuối cùng. Các jushin bắt đầu thảo luận về các yêu cầu cần có của một thủ tướng tương lai nhưng không giới thiệu một tên tuổi nào. Cuối cùng, sau một giờ, chính ngài Chủ tịch Hội đồng Cơ mật Suzuki đề nghị là một trong các jushin nên giữ chức vụ này. “Vì yêu cầu thể lực của chức vụ này rất lớn, cho phép tôi đề cử Hoàng thân Konoye, người trẻ nhất trong nhóm, bước lên.”

                Konoye từ chối, ông phạm quá nhiều sai sót và không hoàn thành được những cam kết trong ba chính phủ vừa qua của ông. Hiranuma đồng ý là Konoye không thể chấp nhận được dựa trên những cơ sở này, nhắc lại (vì lợi ích của Tojo) rằng cuộc chiến phải được theo đuổi một cách quyết liệt, và rồi đề nghị ứng viên ưa thích của Kido và Osaka – Đô đốc Suzuki. Sự đáp ứng thật là nồng nhiệt.

                “Tôi đồng ý,” Konoye nói.

                “Một ý kiến rất tuyệt,” Wakatsuki nói, vừa mới hổn hển chạy vào và xin lỗi vì đến trễ. “Chúng ta không thể có môt lựa chọn nào tốt hơn.”

                Suzuki từ chối; ông đã hứa với gia đình mình sẽ không nhận chức vụ này. “Tôi nhớ tôi có lần đã bảo với Osaka là nếu một quân nhân mà bước vào chính trị, y sẽ đưa đất nước đến chỗ thảm bại. Điều này được minh chứng qua sự sụp đổ của La Mã, sự lu mờ của Kaiser [Hoàng đế Phổ, nổi tiếng trong Thế Chiến I: ND] và số phận của dòng họ Romanov. Vì nguyên tắc này, tôi không thể chấp nhận vinh dự này. Ngoài ra, tôi còn lãng tai.”

                Hiranuma xin ông hãy xem xét lại. “Công chúng tin tưởng vào bản tính trung thực và lòng trung thành của anh.”

                Thật khó, thậm chi đối với Tojo để phản đối Suzuki – ông là một người theo Đạo giáo một cách sùng kính, hoàn toàn không có tham vọng; ông xuất thân từ một dòng dõi quân nhân nhiều đời; em ông là một vị tướng được nể trọng – nhưng ông thiếu một phẩm chất trọng yếu. Tojo bắt đầu bằng cách ca ngợi vị Đô đốc nhưng thách đố triết lý của ông cho rằng quân nhân nên tránh xa chính trị. “Kẻ địch đang trở nên nôn nóng. Họ sẽ thử một chiến lược táo bạo; họ chắc chắn tìm cách đổ bộ ở đâu đó trên nội địa Nhật Bản. Thế thì việc phòng thủ hậu phương sẽ trở thành một vấn đề sống còn. Chính phủ và tư lệnh cao cấp phải gắn kết làm một. Do đó vị thủ tướng phải là một người lính chính quy.” Ông đề nghị Thống chế Shunroku Hata.

                Kido kiềm chế. “Ý kiến của anh thế nào, Hirota?”

                “Chúng ta phải có ai đó từ Lục quân hoặc Hải quân để có thể kiểm soát và lãnh đạo họ.”

                “Còn ý kiến của anh, Đô đốc Okada?”

                Okada từ chối ủng hộ người nào khác ngoài Suzuki. “Tôi không biết ai khác,” ông nói, “nên không có ý kiến.”

                Kido biết rằng hậu phương sẽ sớm trở thành chiến trường và nội các mới sẽ cần sự tin cậy hoàn toàn của quốc gia. Nhưng từ điểm đó trở đi ông không đồng hành cùng Tojo. “Về cá nhân,” ông nói, “tôi hi vọng rằng ngài Suzuki  sẽ trỗi dậy cùng với cơ hội.” Ông quay nhìn thẳng vào Tojo. “Chúng ta phải nhìn thẳng vào tình hình trong một phối cảnh to rộng hơn của ngài.”

                Tojo trừng mắt nhìn Kido. Cho đến giờ này ông đã kiềm chế cơn hằn hộc đối với Cơ mật Viện, người mà ông đổ tội đã truất phế ông khỏi chức thủ tướng. “Hãy cẩn thận, không khéo tôi sợ Lục quân sẽ quay mặt đi, thì nội các mới sẽ sụp đổ.”

                Phát biểu đó làm nổi giận hơn là hù dọa Kido. “Thật là nghiêm trọng nếu Lục quân quay mặt đi khỏi chúng ta,” ông nói. “Ngài cảm thấy như thế sao?”

                “Tôi không thể nói là mình không.”

                Kido vẫn giữ vững lập trường. “Bầu không khí trong buổi họp này thực sự là chống quân phiệt. Có lẽ nhân dân sẽ quay mặt đi khỏi Lục quân!”

                Thái độ hù dọa của Tojo cũng khiến Okada hành động. “Tại một thời điểm nguy cấp như thế này,” ông bất nhẫn kêu lên, “làm sao một người đã từng chấp nhận lệnh Hoàng thượng để làm thủ tướng lại dám nói rằng Lục quân sẽ quay mặt đi!”

                Tojo nhận ra rằng mình đã đi quá xa. “Tôi rất tiếc,” ông nói. “Tôi xin rút lại những gì vừa nói. Ý tôi muốn nói là Lục quân sẽ thấy sự lựa chọn như thế là không thỏa đáng.”

                Tojo bị cô lập. Khuynh hướng chung của buổi họp đã quay sang chống lại ông.

                “Ghi nhớ tất cả điều này trong trí,” Kido đúc kết, “tôi sẽ trình bày quan điểm của tôi với Hoàng thượng và hỏi quyết định của ngài.” Một ít phút sau, lúc 8 giờ, buổi họp được hoãn lại, và các thành viên đi ra phòng gần đó để dùng cơm chiều. Trước khi họ ăn xong, Kido mời Suzuki trở lại phòng họp với ông. “Nếu anh lập chính phủ,” Kido bảo ông, “chúng tôi sẽ phải xin anh thực hiện những công việc tối quan trọng.” Một lần nữa Suzuki thoái thác, ông không nghĩ mình thích hợp cho chức vụ và ông thiếu tự tin.

                Kido khẩn khoản. Thời khắc quá cấp bách nên không thể thoái thác chỉ dựa trên cơ sở là quân nhân không nên tham gia chính trị. “Nó đã vượt qua ranh giới đó, thưa Đô đốc. Chúng ta phải giới thiệu với Hoàng thương một ai đó mà ngài tin tưởng tuyệt đối.”

                Suzuki nhượng bộ. “Nếu Thiên hoàng ra lệnh tôi phải thành lập nội các mới, tôi sẽ tuân lệnh,” ông nói. Trong giọng nói của ông không có cảm xúc, không có dấu vết của sự miễn cưỡng. Đúng 10 giờ vị Đô đốc 78 tuổi, lưng đã còm vì tuổi tác, bước vào thư phòng Thiên hoàng. Hoàng thượng, chỉ có một mình trừ Tổng Quản Nội thị Hisanori Fujita, chỉ nói đơn giản, “Trẫm ra lệnh cho khanh thành lập nội các.”

                “Thần rất lấy làm vinh dự được bệ hạ cân nhắc nhưng cho phép thần từ chối như thần đã nêu trong buổi họp với các jushin vào chiều này.” Trong vòng một giờ ông đã đổi ý hai lần. “Thần chỉ là sĩ quan hải quân khiêm tốn của Hoàng thượng và không có kinh nghiệm về các vấn đề chính trị. Hơn nữa, thần không có quan điểm chính trị.  Phương châm của thần chỉ là làm theo lời dạy của Hoàng đế Minh Trị là quân nhân không nên can thiệp vào chính trị.

Do đó, cúi mong bệ hạ tha thứ, thần không thể nào chấp nhận ân sủng của bệ hạ.”

                Thiên hoàng mỉm cười thấu hiểu, “Trẫm biết, Suzuki, những gì khanh muốn nói và nhận thức vị trí của mình, nhưng tại thời điểm cấp bách này không ai ngoài khanh có thể nhận nhiệm vụ này. Đó là lý do trẫm đã mời khanh.”

                Khi ông chầm chậm bước lui ra, Suzuki nói, “với sự cho phép của Hoàng thượng, thần muốn được suy nghĩ cho thấu đáo,” nhưng lòng chân thành của Thiên hoàng đã khiến ông đổi ý lần nữa. Kết quả của hơn bảy năm phục vụ với chức Tổng Quản Nội thị giúp ông nhận ra được một cách đúng đắn những điều không cần nói ra của Hoàng thượng: kết thúc cuộc xung đột càng sớm càng tốt.

               

 

3

                Tối đó trên Biển Inland, những buổi tiệc chia tay làm không khí trên siêu chiến hạm Yamato và chín tàu khác trong Hạm đội Thứ hai sống động hẳn lên. Chỉ huy của nó, Phó Đô đốc Seiichi Ito, đã được Đô đốc Soemu Toyoda, tư lệnh của Hạm đội Hổn hợp, ra lệnh dẫn dắt lực lượng còn lại này chống lại kẻ địch đang neo đậu ngoài khơi Okinawa. Toyoda thông báo với tất cả chỉ huy trong Hạm đội Hổn hợp về lối thoát cảm tử:

                SỐ PHẬN CỦA ĐẾ CHẾ CHÚNG TA NẰM TRÊN HÀNH ĐỘNG DUY NHẤT NÀY. TÔI ĐÃ          KÊU GỌI TỔ CHỨC MỘT ĐƠN VỊ TẤN CÔNG ĐẶC BIỆT TRÊN MẶT BIỂN CHO MỘT                CHIẾN DỊCH XUYÊN THẤU VỚI TÍNH CAN TRƯỜNG VÔ ĐỐI SAO CHO SỨC MẠNH CỦA           HẢI QUÂN HOÀNG GIA CÓ THỂ ĐƯỢC CẢM NHẬN TRONG HÀNH ĐỘNG ĐỘC NHẤT         NÀY ĐỂ TRUYỀN THỐNG CHÓI NGỜI CỦA CÁC LỰC LƯỢNG TRÊN MẶT BIỂN CỦA HẢI                 QUÂN HOÀNG GIA CÓ THỂ ĐƯỢC THĂNG HOA VÀ VINH QUANG CỦA CHÚNG TA SẼ            TRUYỀN LẠI CHO HẬU THẾ, MỖI ĐƠN VỊ, KHÔNG CẦN BIẾT CÓ PHẢI LÀ ĐƠN VỊ TẤN                 CÔNG ĐẶC BIỆT HAY KHÔNG, SẼ CỦNG CỐ LÒNG QUYẾT TÂM CHIẾN ĐẤU OANH LIỆT     CHO ĐẾN HƠI THỞ CUỐI CÙNG ĐỂ HỦY DIỆT HOÀN TOÀN HẠM ĐỘI ĐỊCH, NHỜ ĐÓ              THIẾT LẬP VỮNG CHẮC NỀN TẢNG VĨNH VIỄN CHO ĐẾ CHẾ.”

                               Buổi tiệc mà Chuẩn Đô đốc Keizo Komura đãi các sĩ quan chỉ huy của Squadrion Tàu khu trục Thứ hai của ông trên tàu chỉ huy của mình, tàu tuần dương  nhẹ Yahagi,  rất náo nhiệt. Mỗi tàu đều đổ đủ số lượng nhiên liệu chỉ cho chuyến đi không về, nhưng biết rõ điều này và chắc chắn mình sẽ hi sinh hình như đã khiến các sĩ quan tỏ ra bất cần. Komura và Đại úy Tameichi Hara, hoa tiêu của tàu Yahagi, bỏ lại các đồng đội đang hát bài ca huynh đệ “Doki no Sakura” để đi tham quan một vòng quanh tàu. Tại khu thủy thủ họ thấy các binh sĩ đang nằm ngủ trên võng một cách bình thản. Trong phòng máy một thợ máy đang tẩn mẩn cho dầu một động cơ bảo Hara, “Mình đã đổi đồng hồ đeo tay với thằng bạn khoái nhậu.” Anh ta muốn chắc chắn một cách tuyệt đối là tàu sẽ không bị hỏng hóc ở Okinawa.

                Hara trèo lên trên cùng, lòng tràn ngập cảm xúc và men cay. Anh cảm thấy vô cùng hạnh phúc khi đưa tay vịn một cây cột để khỏi ngã.                       

       “Nippon banzai!” [Nhật Bản vạn tuế!] anh hét lên, nước mắt tràn xuống má. “Yahagi banzai! Nippom banzai!] [Yahagi vạn tuế! Nhật Bản vạn tuế!]

                 Phó Đô đốc Ryunosuke Kusaka, tham mưu trưởng của Toyoda, cựu binh của Trân Châu Cảng, Midway và các trận chiến tàu sân bay ngoài khơi Guadalcanal, đã chống đối kịch liệt giải pháp cảm tử của Hạm đội Thứ hai; Yamato, có thể được sử dụng hiệu quả hơn cho các trận đánh trên nội địa. Nhưng ông là người được chọn để bay đến Biển Inland vào sáng ngày 6/4 (hạm đội sẽ khởi hành tối đó cho chuyến đi hẹn hò với số mệnh) để giải thích ý nghĩa của sứ mạng theo quan điểm của mình. Ito hiểu; ông muốn được cố vấn về một vấn đề. “Tôi phải làm gì nếu chúng tôi bị hư hai nặng trên đường đi khiến không thể đi tiếp?”

                Kusaka không thể giúp ông được. “Anh sẽ phải tự quyết định cho mình.” Họ uống một cốc sake cuối cùng.

                “Tôi rõ rồi,” Ito nói. “Làm ơn đừng khó chịu với tôi. Đầu óc tôi bình tĩnh. Tôi không hối tiếc gì và ra đi thảnh thơi.” Ông nhờ Kusaka huấn thị các sĩ quan cao cấp của mình. Kusaka bảo họ đây là cơ hội cuối cùng của Hạm đội Hổn hợp cũng như của quốc gia. Họ phải thọc sâu qua lực lượng hải quân Mỹ ngoài khơi Okinawa và làm mắc cạn tàu của họ trên đảo. Đại pháo của Yamato – có tầm bắn 25 dặm – có thể đánh phá các vị trí của kẻ thù.

                Một số người còn ngờ vực trong lòng nhưng không ai dám nói ra. Tuy nhiên, thuyền trưởng của Yamato – Chuẩn Đô đốc Kosaku Ariga – thì hồ hỡi. Lúc nào cũng nhoẻn miệng cười, mỗi lần Kusaka nói điểm nào hợp ý ông, ông lại lấy tay vỗ bụng. Đại úy Hara viết cho gia đình là mình chuẩn bị một sứ mạng tấn công trên biển.

                . . . Đó là một trách nhiệm lớn lao cũng như một vinh dự lớn lao là một hoa tiêu của một chiến hạm lớn trong chuyến ra khơi này đến Okinawa. Hãy biết là anh sung sướng và tự hào vì cơ hội này. Hãy hãnh diện vì anh. Tạm biệt.

                Đồ tiếp tế dư được dỡ xuống tàu. Những người bệnh cũng như các khóa sinh buộc phải xuống tàu dù họ không muốn. Mặt trời chiếu qua lớp sương mù khi hạm đội rút neo lúc 3 giờ chiều. Tàu tuần dương  của Hara, Yahagi, đi trước, theo sau là bốn tàu khu trục, và cuối cùng là Yamato với bốn tàu khu trục nữa.

                Khi đoàn tàu 10 chiếc chầm chậm tiến về nam qua Biển Inland, lượt không kích đầu tiên trong 10 lượt giáng xuống những tàu tụ tập ngoài khơi Okinawa. Trong gần 4 giờ, 341 oanh tạc cơ bỏ bom nổ theo cách qui ước trong khi 355 kamikaze (máy bay cảm tử) lao xuống tàu Mỹ. Đến tối ba tàu khu trục, một tàu LST và hai tàu quân nhu đã bị đánh chìm, và 10 tàu khác bị hư hỏng nặng.

                Trên chiếc Yamato, Đô đốc Ito vui mừng nghe báo cáo có 30 tàu địch đã được trông thấy chìm xuống, trong khi 20 chiếc khác bốc cháy. Phía trên không Kusaka đi theo đoàn tàu trên một thủy phi cơ xa như nhiên liệu cho phép, sau đó ông vơ tay vẫy tạm biệt khi chiếc phi cơ nhỏ quay vòng trở về. Tối đó thủy thủ đoàn 1,000 người của tàu Yahagi tề tựu trên boong để nghe Đại úy Hara đọc thông điệp cuối cùng từ Đô đốc Toyoda kêu gọi họ chiến đấu đến cùng – vận mệnh của quốc gia tùy thuộc vào “chiến dịch này.” Khi những tiếng hô “Banzai!” đã dịu xuống, Hara bổ sung những huấn thị thực tiễn của mình, khiến hầu hết thủy thủ đoàn cảm thấy bị phật lòng. “Sứ mạng chúng ta có vẻ như là tự sát, và quả đúng như thế. Nhưng tôi muốn nhấn mạnh là tự sát không phải là mục tiêu. Mục tiêu là thắng lợi. Các anh không phải là những con cừu bị quất roi lùa vào bàn hiến tế. . . Một khi mà con tàu này hư hại hoặc bị chìm, đừng do dự mà cứu lấy mạng mình cho trận đánh tiếp theo. Sẽ còn những trận đánh khác. Các anh không được tự tử. Các anh phải đánh bại kẻ thù!”

                Lần này không có tiếng hô “Banzai.” Một trung úy hoang mang phá vỡ sự im lặng: anh đã được dạy bảo ở Học viện là phải chết cùng với tàu của mình. Hara hiểu rõ mối quan ngại của anh. “Trong thời phong kiến,” ông nói, “sinh mạng rẻ mạt bị phí phạm, nhưng chúng ta hiện đang ở thế kỷ 20. Luật bushido [võ sĩ đạo] dạy rằng một chiến binh sống sao cho lúc nào cũng sẵn sàng để chết.” Nhưng điều này không có nghĩa sinh mạng của chúng ta bị tước bỏ một cách vô nghĩa. “Chúng ta phải thắng cuộc chiến này và không nên nghĩ về cái chết.” Ông kêu gọi họ đổi chiều hướng của cuộc chiến. Có tiếng hoan hô nức lòng cho Thiên hoàng và Yahagi.

                Lúc 8 giờ tối Hạm đội 2 thận trọng tránh bãi mìn ở Eo Bungo và tiến ra Thái Bình Dương. Ito ra lệnh hành trình 20 hải lý đi xuống bờ biển Kyushu. (Đoàn tàu của ông đã bị hai tàu ngầm Mỹ phát hiện.) Lúc rạng đông 10 tàu chiến tiến vào vùng biển rộng bên dưới đảo. Họ dịch chuyển tạo đội hình vòng tròn với Yamato ở trung tâm, và bắt đầu chạy zíc zắc theo hướng nam về phía Okinawa với vận tốc 24 hải lý. Các phi cơ hộ tống đã quay trở về, và khi bờ biển Kyushu ra khỏi tầm mắt, hạm đội chỉ còn một mình.

                Từ đám mây đen thấp cơn mưa quét qua đoàn tàu Nhật lúc 8 giờ sáng. Một giờ sau tàu khu trục Asashimo rớt lại đằng sau, ra hiệu cho biết động cơ bị trục trặc nhưng sẽ cố sửa chữa. Cuối cùng thì nó cũng ra  khỏi tầm mắt. Dần dần trời lại quang đãng và vào lúc 11:30 một thủy phi cơ xuất hiện khoảng 8 dặm về hướng đông. Đó là chiếc của Mỹ. Rồi có điện báo từ trạm quan sát của đảo cho biết phía trước có 250 máy bay địch đang bay về nam.

                Đô đốc Spruance, vẫn chỉ huy Hạm đội 5, đã bảo Marc Mitscher, lực lượng Tác chiến 58, để kẻ thù tiếp tục tiến về phía nam, giao họ cho hỏa lực của các đơn vị trên biển, nhưng Mitscher muốn giành cơ hội này để minh chứng một lần cho tất cả là không quân có thể đánh chìm con tàu kinh khủng nhất còn nổi trên mặt nước; thủy thủ tuyên bố là mình đã đánh đắm tàu Musahi ở Phi Luật Tân, nhưng các tàu ngầm có thể đã đánh chìm nó. Sự xuất hiện bất ngờ của Yamato, tàu chị em của nó, “cung cấp một cơ hội rõ ràng để chứng tỏ, nếu việc chứng tỏ là cần thiết, sự ưu việt của không quân.”

                Mitscher phái những phi cơ từ Nhóm Tác chiến 58.1 và 58.2, rồi quay sang tham mưu trưởng của ông. “Thông báo cho Đô đốc Spruance là tôi đề nghị tấn công nhóm Yamato tại 1200 trừ khi được chỉ thị khác.” Thông điệp đến Spruance đọc: “Ngài xử họ hay tôi xử?” Spruance viết nguệch ngoạc trên khoảng trống của thông điệp: “Anh xử chúng đi.”

                Trên cầu tàu Yahagi, vừa qua trưa, Đô đốc Komura nhìn thấy những máy bay đầu tiên đang tới gần. “Họ đến rồi kìa!” ông kêu lên với Thuyền trưởng Hara. Nhanh chóng các tàu khai mở đội hình khi các thủy thủ đoàn ùa đến các vị trí chiến đấu. Hạm đội thình lình bị phủ một bức màn trắng xóa của trận mưa rào, chỉ kéo dài trong 10 phút. Chốt quan sát trên Yahagi la lớn, “Máy bay phía đuôi tàu!”

                Hara quay tàu. Phi cơ, hơn 40 chiếc, nhào xuống khỏi đám mây dày thấp. 150 khẩu pháo phòng không và súng máy của Yamato do dự chốc lát, rồi bầu trời bổng bùng nổ các cuộn khói đen, và bị xé nát bởi các đường đạn chỉ hướng. Nhưng người Mỹ xông qua bức tường hỏa lực dày đặc này. Hai quả bom nổ gần cột chính của Yamato. Một ngư lôi xé toạc hông tàu chiến.

                Chiếc Yahagi 8,500 tấn nghiêng gắt trong mưa để tránh trận không kích quyết chiến, nhưng lúc 12:45 nó loạng choạng vì một quả bom. Gần như ngay lập tức một cái rùng mình dữ dội chạy khắp thân tàu; một ngư lôi đâm vào sườn nó ngay đúng mức nước. Chiếc tàu tuần dương  trôi đi và dừng lại, bất lực vì chết máy trong nước, khi một nhóm máy bay tấn công thứ hai lao thấp xuống khỏi đám mây. Một quả bom phát nổ ngay phần đầu tàu, một quả khác ở sau đuôi; một ngư lôi đụng vào đầu mạn phải. Yahagi rung lắc dữ dội, như thể, Hara nghĩ, nó được làm bằng giấy.

                Máy bay chúc lên cao một cách ngạo nghễ mất hút qua các đám mây trên bầu trời quang đãng, và với vẻ trầm tĩnh lạ lùng, Hara quan sát chiếc tàu tuần dương  khốn khổ của mình trong sự sững sờ. Đô đốc Komura muốn chuyển đến một tàu khu trục và tiếp tục tiến về Okinawa. Tàu khu trục Isokaze được hiệu lệnh cặp sát để cứu những  người sống sót, nhưng khi nó chầm chậm tiến đến gần, tàu khu trục xui xẻo bị một đợt máy bay thứ hai xé mây đánh xuống. Yahagi, cũng chẳng may mắn hơn, bị các đạn súng máy cài nát. Komura không chịu tẩu thoát trên xuồng cứu hộ. Ông thà chết theo Yahagi còn hơn là trên một con thuyền nhỏ vô danh.

                Cách đó một vài dặm boong tàu cong queo của Yamato nghẹt ứ các thi thể không toàn vẹn, một đống bầy nhầy của ruột và tứ chi, và thân mình. Máu chảy xuống các lỗ thoát nước. Sườn con tàu chiến đã oằn lại và tốc độ nó chỉ còn 18 hải lý. Nhưng Đô đốc Ariga vẫn cho tàu chạy đến Okinawa. Lúc 1:35 chiều một đợt thứ ba – gần 150 máy bay – tràn đến, tập trung hỏa lực vào bên sườn đã hư hỏng. Yamato nghiêng một bên và quay đi, nhưng thêm hai ngư lôi – cái thứ 5 và 6 – đâm vào sườn trái trong khi hơn 7 quả bom nổ tung trên boong trung tâm. Đạn súng máy bắn như mưa lên con tàu, tiêu diệt phân nửa đội phòng không của tàu. Bộ phận bẻ lái đã hư hỏng và tàu nghiêng 15 độ.

                Lúc 1:50 sĩ quan giám sát thiết bị kiểm tra nước điện thoại cho phòng chỉ huy, “Chúng ta đã đạt mức nước tối đa. Để tránh không cho tàu nghiêng hơn chúng ta phải bơm nước ngập phòng máy mạn phải.” Điều này có nghĩa là tốc độ giảm xuống còn 9 hải lý, nhưng chỉ huy phòng không xin nửa giờ điều chỉnh độ nghiêng để anh ta có thể khai hỏa. Sĩ quan thừa  hành, Đại úy Jiro Nomura, chần chừ một phút. “Bơm nước vào phòng máy,” anh nói.

                Con tàu chầm chậm lấy lại thăng bằng, thì một quả ngư lôi khác đâm vào cửa tàu và tàu lại nghiêng. Lúc 2 giờ chiều, Yamato nhận quả ngư lôi thứ tám, lần này trúng mạn phải. Một cú gọi khẩn trương từ phòng lái khẩn cấp. “Ở đây nhiều nước quá. Chúng tôi không còn lái được nữa -” tiếng của chỉ huy hoa tiêu bị cắt ngang.

                “Quay tàu về hướng bắc!” Đô đốc Ariga hét lớn. Theo truyền thống, một người chết quay đầu về hướng bắc. Ariga muốn làm điều tương tự với Yamato đang hấp hối. Nhưng các thủy thủ trong phòng lái khẩn cấp đã chết đuối tại vị trí của mình, và con tàu bắt đầu xoay vòng chầm chậm, không thể kiểm soát, ngay khi đợt thứ tư xuất hiện. Bệnh viện tạm thời ở đuôi tàu đã bị xóa sạch. Thêm ba quả ngư lôi cắt vào vỏ tàu. Tàu nghiêng đến 18 độ; tốc độ chỉ còn 7 hải lý.

                Tàu tuần dương  Yahagi nhanh chóng chìm xuống, các boong tàu đều ngập nước. Nó đã hứng chịu 13 quả bom và 7 ngư lôi. Khắp nơi Đại úy Hara đều trông thấy những tàu khu trục hoặc chìm hoặc bốc cháy. Có hai tàu hình như không bị hư hỏng và đang phóng quanh Yamato để bảo vệ. Đô đốc Komura cảm thấy nước đã ngập đến chân mình. Ông liếc nhìn đồng hồ – lúc đó là 2:05. Đúng lúc đó ông bị hút xuống dưới. Ông hiểu rằng đó là đoạn kết của cuộc đời mình nhưng ông vẫn tỏ ra tỉnh táo, khi bị nuốt chửng xuống một cuộn nước xoáy trong một khoảng thời gian gần như là vô tận trước khi ông vọt lên mặt nước. Khi ông lội qua nước có dầu ông trông thấy một mặt người đen nhẹp. Đó là Hara. Khi trồi trên ngọn một con sóng Hara nhìn được chiếc Yamato cách đó hơn 6 dặm. Máy bay vần vũ quanh nó như ruồi nhặng. Nhưng nó vẫn còn di chuyển, một cảnh tượng tuyệt vời!

                Trên cầu tàu Yamato sĩ quan điều hành Nomura chú ý những ánh đèn đỏ nhấp nháy trên bảng cảnh báo. Anh tiến đến để xem sự cố gì xảy ra. Nửa tá đèn cháy sáng – tháp súng Số 1 và ít nhất năm kho đạn được. Có phải chúng sắp nổ dây chuyền hay không? Trong số 1,170 viên đạn cho đại pháo, chỉ có 3 quả được bắn. Nếu các viên đạn còn lại nổ tung, chiếc Yamato “không thể chìm” sẽ nổ tung tại đường ráp nối. Một thiết bị cảnh báo dự phòng bắt đầu kêu một  tiếng vo vo như một điểm gỡ, rồi một tiếng nữa, và một tiếng nữa. Anh nghe Ariga quát anh. “Bộ chúng ta không thể bơm nước được vào phòng đạn được sao?” và giọng nói của ông khản đặc. Việc đó là không thể. Trạm chỉ huy kiểm tra nước đã bị phá hủy. Nomura đợi một tiếng nổ sẽ xóa sạch tất cả bọn họ. Anh nghĩ với một mức độ hài lòng. Vâng, cũng không sao. Đó sẽ là một vụ hara-kiri của võ sĩ .

                Ngay sau 2:15 chiều quả ngư lôi thứ 12 đụng sườn ở cửa ra vào, như thể, Nomura nghĩ, “chúng tôi nhận được phát súng ân huệ.” Nếu lệnh bỏ tàu không được ban ra ngay lập tức, thủy thủ đoàn sẽ tiêu tùng. Nhưng không nghe chỉ thị nào từ Đô đốc Ariga. Nomura lảo đảo lên cầu thang xoay hẹp đến cầu tàu thứ hai, tại đó anh có thể giám sát con tàu. Bình thường thì boong tàu trên cùng cao hơn mặt nước 25 bộ; cửa tàu của boong đã ngập nước. Thật không thích hợp khi thấy binh lính đang ngồi ở đuôi tàu hút thuốc và ăn bít qui. Không hiểu sao, Nomura lại bực mình với sự tỉnh bơ của họ.

                Những cột nước sừng sững phun lên hai bên thân tàu. Cặp mắt của Nomura quét qua siêu cấu trúc. Có cái gì đó thiếu xót. Lá cờ! Anh lại nhìn lần nữa; ngay cột cờ cũng đã bay mất. Không biết ảnh Thiên hoàng và Hoàng hậu có an toàn không? Khi đánh nhau chúng được cất tại bộ phận chỉ huy của pháo chính, nơi bọc sắt dày nhất trên tàu. Nomura điện cho bộ phận chỉ huy pháo và được biết anh ta đã khóa mình vào trong phòng chỉ huy cùng với các bức ảnh, sợ chúng trôi mất khi tàu chìm.

                Khi Yamato đã nghiêng 30 độ, Nomura điện cho Agiga. “Kết cục sắp đến rồi,” anh nói. Đó là thời điểm toàn thể thủy thủ đoàn phải bám lên phần nổi của con tàu. Ariga, đến lượt mình, thông báo cho Đô đốc Ito qua ống nói rằng không cón hi vọng gì để điều chỉnh độ nghiêng.

                “Tư lệnh Hạm đội, con người của ngài thật quí giá. Hãy bỏ tàu cùng với thủy thủ đoàn. Chỉ một mình tôi ở lai.” Ariga ra lệnh tâp họp trên boong trên, rồi điện cho Nomura, vẫn còn đang đứng ở cầu tàu thứ hai. “Sĩ quan Điều hành,” ông nói giọng khàn khàn, “bỏ tàu ngay lâp tức và báo cáo chi tiết các hoạt động cho Hạm đội Hổn hợp.” Nomura phản đối nhưng Ariga phớt lờ cộc lốc. “Tôi ở lại với tàu. Hãy ráng sống mà về nhà.”

                “Thuyền trưởng,” Nomura khẩn khoản, “em sẽ ở lại với ngài.”

                “Sĩ quan Điều hành, đó là mệnh lệnh.” Ông gác máy và bảo một thủy thủ trói mình vào trụ la bàn. Các thủy thủ bắt đầu cột dính nhau vào thùng dụng cụ. “Mấy cậu làm cái quái gì thế?” Ariga giận dữ quát lên. “Các cậu còn trẻ phải nhảy xuống và bơi vào bờ!”

                Ito cũng từ khước việc bỏ tàu. Ông bắt tay với Tham mưu Trưởng Morishita, và trong khi các nhân viên của ông nhìn “với mười ngàn cảm xúc,” vị Đô đốc đi thăng bằng qua boong tàu đang nghiêng, mở cửa một cầu thang xoắn ốc và biến mất. Phụ tá của ông toan bước theo nhưng Morishita đã quát lên,” Baka! Thanh niên phải sống để phục vụ Thiên hoàng!”

                Lúc 2:25 chiều độ nghiêng tăng nhanh chóng cho đến khi con tàu khổng lồ lăn trên sống neo của nó. Những tiếng hô “Banza!” bị nhấn chìm trong tiếng nước ào ạt. Yamato nằm lật nghiêng trên sườn, như một con cá voi mắc cạn. Ánh đèn tắt ngấm khi những khẩu pháo bể nát, quân nhu, những mảnh thi thể trượt tự do vào biển cả. Thủy thủ cố leo lên boong tàu đã dựng đứng, trượt trên vũng máu của đồng đội. Tại đỉnh họ trèo qua hàng rào mạn phải, tại đó họ chen chúc nhau trên sườn tàu.

                Sĩ quan Điều hành Nomura cảm thấy mình bị kéo xuống nước bằng một lực hút mạnh mẽ. Trong vùng nước trong anh trông thấy đồng đội “múa may quay cuồng” trong vùng nước xoáy. Bên dưới là màu xanh thẩm không đáy. Ánh sáng phía trên mặt nước mờ dần. Cận kề với tử thần, anh cảm thấy nhận thức của mình sáng suốt một cách không ngờ. Anh chìm xuống càng lúc càng sâu trong nổi thống khổ. Những tia chớp sáng đỏ bắn qua nước. Một chuỗi những chấn động đập vào anh như búa tạ. Như thể “trời và đất đều nổ tung.” Đạn pháo nổ tung dưới mặt nước. Nomura bị đẩy vọt lên khỏi mặt nước. Những quả cầu lửa nhảy vòng trên sóng nước. Anh quay người nằm ngữa trên mặt nước. Đoạn kết của Yamato, anh nghĩ, cũng là đoạn kết của Hải quân Hoàng gia.

                Trên tàu khu trục Yukikaze, thuyền trưởng của tàu, Tư lệnh Tochigi Terauchi nhìn Yamato một cách tuyệt vọng – nó là biểu tượng của nước Nhật – lăn qua và mất hút. Ông báo cho thuyền trưởng Masayoshi Yoshida, sĩ quan cao cấp mới của hạm đội, đang ở trên tàu khu trục Fuyutsuki: “Đề nghị chúng ta tiếp tục sứ mạng.”

                “Vớt các người sống sót rồi sau đó sẽ quyết định phải làm gì” là câu trả lời.

                Sĩ quan phóng ngư lôi của Fuyutsuki muốn hạ thủy xuồng ca nô để vớt người nhưng Terauchi ngăn lại. “Đây không phải là sứ mang thông thường,” ông quát lên. “Đây là cuộc tấn công tự sát. Cho dù Yamato đã chìm chúng ta cũng phải tiếp tục.” Ông báo cho Yoshida lần nữa, yêu cầu xét lại tình hình, rồi ra lệnh cho người của ông vớt những người sống sót nhưng chỉ những người có thể sử dụng để chiến đấu tiếp. “Không cứu người bị thương!”

                Những người trong nước đối mặt với hai nguy cơ – bị bỏ rơi và bị bắn hạ bởi đạn máy bay đang dệt mạng lưới tử thần trên khắp mặt biển. Hara theo dõi với vẻ ngạc nhiên khi một chiếc xuồng bay lướt trên mặt nước. Nó quay đầu về một bãi nước được nhuộm màu xanh lá cây. Một phi công Mỹ từ bè cứu sinh leo lên xuồng bay, và khi nó rướn mình lên khỏi mặt biển như một con ngỗng già, Hara cảm thấy thèm muốn.

                Vài giờ sau, gần hoàng hôn, Khi Hara cùng với Đô đốc Komura và vài người sống sót khác của tàu Yahagi, cuối cùng được tàu khu trục Hatsushimo vớt lên. Komura khoan thai rửa bộ mặt lấm lem dầu và thay một bộ đồng phục đi mượn trước khi viết thông điệp cho Hạm đội Hổn hợp: “Chúng tôi hiện giờ hướng về Okinawa.” Toàn bộ hạm đội của ông chỉ còn hai tàu khu trục nguyên vẹn; hai tàu khu trục khác còn sống sót và cả hai đều lếch thếch trở về Nhật. Nhưng trước khi thông điệp của Komura có thể được phát đi, Hạm đội Hổn hợp hủy bỏ toàn bộ sứ mạng Okinawa. Hatsushimo quay ngược lộ trình về nhà. Chính Komura là người đã phái những phi cơ đầu tiên qua Trân Châu Cảng – những máy bay trinh sát từ Chikuma – và ông đã sống sót qua trận xuất kích cuối cùng của Hải quân Hoàng gia. Ông đã chứng kiến cái bắt đầu và cái kết thúc. “Mình đã nếm trải đủ rồi,” ông lẩm bẩm.

               

4

                Tại Tokyo đêm đó Hajime Suzuki, con trai duy nhất của ngài thủ tướng tiếp theo, không sao chợp mắt được. Cha anh, người đã sống sót một cách màu nhiệm qua Sự kiện 2/26 (viên đạn đã xuyên qua tim ông và còn ở lại trong lưng), chắc chắn sẽ đương đầu hiểm nguy với các sĩ quan trẻ quá khích một lần nữa. Nhưng Hajime không còn là một đứa trẻ và anh cảm thấy mình phải là lá chắn cho cha. Sáng sớm hôm sau Hajime bảo Suzuki mình sẽ thôi việc ở Bộ Canh nông và trở thành thư ký riêng cho ông. “Đừng đi cùng với ba đến chỗ chết,” vị Đô đốc nói. “Ba đã đi một con đường dài nhưng con còn phải đi xa.” Nhưng Hajime nhất định không nghe – khát vọng cá nhân là điều vô nghĩa trong một nước Nhật bại trận.

                Suzuki triệu hồi Đô đốc Keisuke Okada đến nhà riêng và mời ông làm bộ trưởng quân nhu trong nội các mới. Đề nghị này làm Okada thất kinh (ông đã giải ngũ khỏi Hải quân 7 năm rồi và vẫn còn nguyền rủa bọn sĩ quan cực đoan).  Bao quanh vị Đô đốc là những người nghiệp dư thiện chí còn chưa biết sử dụng điện thoại đúng cách, nói chi giúp ông lập nội các. Okada điện thoại cho con rễ của mình, Hisatsune Sakomizu, người đã cổ vũ ông ra khỏi nơi cư trú chính thức của Thủ tướng (Okada) vào năm 1936. “Ba hiện giờ đang ở nhà Đô đốc Suzuki, giúp ông thành lập nội các,” ông bắt đầu. Sakomizu, với sự lãnh hội mưu trí về cả chính trị lẫn quân sự, là “người duy nhất” có thể ngăn cho Suzuki khỏi phạm những sai lầm chết người. Trong vòng một giờ Sakomizu rời bỏ công việc của mình tại Bộ Tài chính để trở thành thư ký nội các.

                Sức mạnh lớn nhất của Suzuki là ai cũng tin rằng ông là người có đủ tư cách nhất để chấm dứt cuộc chiến, nhưng ông vẫn chưa quyết định về cách thức giải quyết vấn đề đó. Nếu ông tuyên bố chính sách “chủ bại” đó, thậm chí với nội các của mình, ông sẽ bị buộc ra khỏi chức vụ hoặc bị ám sát. Ngay lúc này ông phải chơi trò haragei (“trò nói tiếng bụng”), đó là, che giấu động cơ, ủng hộ chiến tranh trong khi tìm kiếm hòa bình. Kết quả là Konoye từ khước một chức vụ trong nội các khi Suzuki không đưa ra bảo đảm nào sẽ “hoạt động cho hòa bình.” Trái lại, ông nhanh chóng hứa hẹn với Thống chế Sugiyama là ông sẽ mang chiến tranh đến kết cục tối hậu, và hơn nữa, bảo với các phóng viên,”Giờ là lúc mà mỗi người trong số 100 triệu người vứt bỏ đi những gì làm mình thấp kém và trở thành một lá chắn vinh quang cho công cuộc bảo vệ cơ cấu quốc gia. Tôi, tất nhiên, sẽ giải quyết việc điều hành quốc gia và sẵn sàng ngã xuống như một mũi xung kích của ngài, của nhân dân. Tôi kêu gọi ngài, nhân dân, biểu dương một khí thế chiến đấu mới với ý chí can trường và quyết liệt tiến lên qua thân xác tôi, để Tâm trí Thiên hoàng yên ổn.”

                Ngay lúc này, Suzuki không tiết lộ ý đồ của mình cho bất cứ ai, nhưng con trai mình, Hajime, linh tính hiểu được ý đồ cha và thông tin cho các bạn thân về ý định thực sự của cha mình.  

                Nội các làm lễ nhậm chức vào ngày 7/4, mặc dù vị trí có ý nghĩa nhất, bộ ngoại giao, vẫn chưa có người. Các lựa chọn khác dựa vào lời khuyên của các jushin thân hữu và Sakomizu, nhưng sau khi cân nhắc kỹ lưỡng, người mà Suzuki ưa thích cho nhiệm vụ kiến tạo những thương lượng hòa bình là Shigenori Togo. Điều tra cho thấy rằng Togo, người đã giữ chức vụ tại thời điểm Trân Châu Cảng, đã chống đối đi đến chiến tranh và sau đó từ nhiệm để phản đối lại “những chính sách độc tài và chuyên chế” của Tojo.

                Togo đang vui thú điền viên ở Karuizawa, thị trấn an dưỡng ưa chuộng của các chính khách gần Alps của Nhật, khi ông nhận được một cú điện thoại từ người trung gian – tỉnh trưởng Nagano – chuyển giao lời mời của Suzuki. Togo trả lời cụt ngũn: Không cho đến khi mình đã thảo luận vấn đề với tân Thủ tướng và “đạt được sự đồng thuận về các quan điểm.” Ông sẽ không trở lại tham chính trừ khi có quyền tự do hành động. Ở Tokyo, tuy nhiên, ông thấy Suzuki không muốn từ bỏ chiến thuật haragei, thậm chí trong cuộc trao đổi riêng tư với ai đó chia sẻ những quan điểm của ông. “Tôi cho rằng ngài nhậm chức với một số ý tưởng nào đó trong đầu,” Togo hỏi ông với một chất giọng nặng chất Kyushu, “vì giải quyết chuyện quốc gia bây giờ không thể nào dễ dàng, trong khi các nỗ lực chiến tranh đang trong cơn quằn quại.”

                Câu trả lời của Suzuki không thể nào làm Togo thất vọng hơn. “Tôi nghĩ rằng chúng ta có thể tiến hành chiến tranh thêm hai hay ba năm nữa.”

                Togo khước từ chức vụ. “Thậm chí nếu tôi có thể đảm nhận trách nhiệm ngoại giao nặng nề của chúng ta, ngài Thủ tướng và tôi không thể hợp tác hiệu quả chừng nào mà chúng tôi còn có những quan điểm khác biệt đối với viễn cảnh của chiến tranh.

                Nhưng vấn đề không kết thúc ở đó. Quá nhiều người nhìn thấy ở Togo như là một nhà cổ vũ cho hòa bình và lần lượt mỗi người gia tăng sức ép lên ông. Trong vòng 24 giờ ông bị non nửa chục nhà lãnh đạo, bao gồm 2 jushin và cố vấn trưởng của Thiên hoàng, Đô đốc Okada, chẳng hạn, lập luận rằng chính sách của Suzuki không “nhất thiết cứng nhắc” và Togo có thể “giúp nhào nặn nó,” và con rễ Sakomizu của Okada, bào chữa cho Suzuki: Sẽ rất mạo hiểm cho Suzuki nếu tuyên bố quá sớm một toan tính hòa bình ngay trong buổi gặp mặt đầu tiên của họ. “Ngôn ngữ như thế, đến từ một người trong cương vị Thủ tướng và trong những tình huống đó, có thể gây ra những tác động không mong muốn.”

                Togo không thể hiểu những lối giữ kẻ như thế. Nếu Suzuki đã nhất trí với Togo về hòa bình, sao ông ta không thể cho mình biết trong cuộc trao đổi riêng tư? Nếu Suzuki thậm chí không tin cậy người ông giao phó chức ngoại trưởng, làm sao họ có thể hợp tác trong những ngày gay go sắp tới?

                Lời kêu gọi tiếp theo đến từ văn phòng Cơ mật viện. Matsudaira, thư ký chính của Kido, tiết lộ rằng chính Thiên hoàng đang hi vọng cuộc chiến sẽ kết thúc. Nỗ lực liên quan này mang Togo đến gặp Suzuki lần thứ hai, mà lúc này biết rằng mình cần thẳng thắng hơn. “Đối với hậu quả của cuộc chiến,” ông bảo Togo, “quan điểm của ông hoàn toàn hợp ý tôi. Và đối với phạm vi ngoại giao anh được tự do hành động.”

                Togo vẫn còn miễn cưỡng. Ông yêu cầu bảo đảm là Nội các sẽ ủng hộ những thương lượng cho hòa bình nếu một nghiên cứu cho thấy rằng cuộc chiến không thể tiếp diễn cho ít nhất ba năm nữa. Suzuki buông xuống mọi dè dặt;  ông chấp nhận ngay điều kiện của Togo. Đối với phần còn lại của thế giới, tuy nhiên, ông vẫn sử dụng haragei, giả vờ quyết tâm chiến đấu đến phút cuối cùng đắng cay như Tojo.

 

5.

                Sau một tuần lễ trên Okinawa các sư đoàn Mỹ tiến về nam vẫn chưa gặp trở ngại gì trừ những tiền đồn của kẻ thù và tiến độ bỏ xa thời biểu. Đô đốc Turner quá tin tưởng đến nỗi ông điện về cho Nimitz vào buổi trưa ngày 8/4:

                TÔI CÓ LẼ ĐIÊN NHƯNG CÓ VẺ NHƯ LÀ BỌN NHẬT ĐÃ TỪ BỎ CUỘC CHIẾN, ÍT NHẤT        TRONG KHU VỰC NÀY.

                HÃY XÓA TẤT CẢ SAU TỪ “ĐIÊN” là câu trả lời mỉa mai của Nimitz.

                Bộ binh sắp giao chiến với hệ thống phòng thủ khủng khiếp ở phía trên Shuri. Ở đây hòn đảo rộng 4 dặm, một chuỗi các đồi đá vôi cuồn cuộn, lấm tấm những hang động, các nhà mồ và cắt đứt bởi các thềm, khe vực và dốc đứng. Vì đồi thường chạy từ đông sang tây, nên lính Mỹ đối mặt với các tuyến phòng thủ tự nhiên liên tiếp.

                Chiều đó, hỏa lực không ngừng của kẻ thù khiến sườn phía đông của Buckner bị chặn đứng hoàn toàn trong khi sườn phía tây của ông bị chặn lại bởi một ngọn đồi vươn dài về phía đông đến 1,000 ya từ bờ biển đến Xa lộ 5, một con đường chạy qua trung tâm hệ thống phòng thủ suốt đến tận Shuri. Phần đất cao này là chỏm Kakazu, hai ngọn đồi nối với nhau bằng một vùng yên ngựa. Nó không có vẻ gì là một trở ngại, vì nó không cao cũng không lởm chởm, chỉ là một mô đất to bao phủ cỏ, bụi cây và cây con.

                Nhưng ngọn đồi to bè, xấu xí này là một trong những chìa khóa của tuyến phòng thủ Shuri và khi binh lính Mỹ tràn lên chỏm vào buổi sáng ngày 9/4 họ gặp phải một lực phòng thủ quyết liệt. Vào chiều tối, hết đạn và hàng ngũ bị tiêu diệt, họ phải rút lui. Hai ngày sau là một sự bế tắc tiêu hao xương máu khi lính Mỹ ở cả hai sườn tấn công lần nữa và đều bị đẩy lui.

                Đó là trận đánh mà Ushijima mong muốn, nhưng cứ mãi phòng thủ khiến lính của ông bực bội; họ thuyết phục ông, đi ngược với xét đoán hợp lý của mình, chấp thuận cho họ sử dụng 6 tiểu đoàn tấn công vào đêm sau, 12/4, kết hợp với một cuộc oanh kích kamikaze rầm rộ khác. Trung đoàn 22 (của Sư đoàn 62) sẽ tấn công mặt trái, và vào chiều tối ngày 11 chỉ huy của nó, Trung tá Masaru Yoshida, người đã ở Okinawa không đến một tháng, tập họp các sĩ quan của ông để phát họa sứ mạng. “Các anh sẽ hành quân trong bóng đêm qua những con đường xấu và dưới trận pháo ác liệt; kế hoạch hành quân của chúng ta phải giữ bí mật đến phút cuối cùng. Tiến quân theo đường uốn khúc như lươn bò. Mặc dù các anh đi đến một nơi không quen thuộc, đừng gây ra tiếng động nào khi các anh đến nơi, nhớ đào takosubo trong đất cứng và ngụy trang khéo léo cho đến rạng đông ngày mai.”

                Trời mưa nặng hạt khi binh lính, vác trên vai ba lô 110 cân (khoảng 50 kí), xuất phát về phía chiến trường trên con đường lầy lội.

                Sáng sớm ngày sau 185 kamikaze, đồng hành cùng với 150 chiến đấu cơ và 45 máy bay ngư lôi, bắt đầu oanh kích các con tàu chung quanh Okinawa. Rồi đến 8 oanh tạc cơ 2 động cơ, bên dưới treo một vũ khí mới, bom oka (hoa đào nở). Chạy bằng ba hỏa tiển đẩy, các tàu lượn này giống như một ngư lôi có cánh nhỏ, và phi công có thể phóng xuống cả tấn bom nổ tri-nitro-anisol ở tốc độ hơn 500 hải lý. Vũ khí tự sát mới có biệt danh bom baka (“ngu ngốc”) do người Mỹ đặt tên, nhưng nó không làm giảm nổi khiếp đảm mà nó gieo rắc tức thì trên khắp hạm đội. Vào khoảng 2:45 chiều một quả được bỏ từ bụng của tàu mẹ và phóng đến tàu khu trục Mannert L. Abele, mới vừa choáng váng vì bị một kamikaze đánh trúng. Con tàu gãy làm đôi và chìm gần như là tức khắc. Một quả oka khác nổ trên tàu khu trục Stanly. Trong lúc đó, kamikaze và các phi cơ qui ước đánh chìm tàu LCS(L)-33 và làm hư  hỏng một tàu chiến, ba tàu khu trục và 8 tàu khác.

                Cuộc đột kích trên bộ ít thành công hơn. Nó mở màn bằng một hỏa lực tập trung và dàn súng cối vào lúc nửa đêm. Bộ binh Nhật bắt đầu xâm nhập vào các vị trí của quân Mỹ, nhưng trái sáng được bắn lên chói lòa làm lộ ra đội hình quân địch giữa trận địa và trong một giờ cuộc phản công đã bị chặn đứng. Lần đầu tiên Chuẩn úy Kaname Imai của Trung đoàn 22, con của một nhà sư thần đạo, nghe tiếng kêu “rút lui” từ người chỉ huy tiểu đoàn của anh. Anh lặp lại “rút lui”, nhưng binh lính của anh đứng chết trân không hiểu. “Đi theo tôi!” Imal gọi và bắt đầu lon ton về phía trước như thể đang tấn công. Người của anh đi theo và vài tiểu đoàn khác bắt chước, rồi anh chợt quay trở lại chạy về phía sau.

                               Ở Warm Springs, Georgia, vẵn còn là ngày 12/4. Sau bữa ăn trưa Tổng thống Roosevelt ngồi làm mẫu cho một bức chân dung màu nước tại nhà riêng ở nông thôn được gọi là Nhà Trắng Nhỏ, cách Viện Warm Springs 2 dặm. Đúng 1:15 trưa ông nhắm mắt và nói thều thào, “tôi nhức đầu kinh khủng.” Xong ông ngã vật ra bất tỉnh.

                Bác sĩ James Paulin, nguyên chủ tịch Hiệp hội Y khoa Hoa Kỳ, chạy đến, sau hai giờ chạy xe qua các con đường tắt, và thấy Tổng thống “đổ mồ hôi lạnh, mặt mày xám tro và thở rất khó khăn.” Mạch ông hầu như không đập và bốn phút sau tim ông ngừng đập hoàn toàn. Bác sĩ Paulin chích một mũi adrenalin vào tim. Tim Tổng thống đập một vài phút, rồi ngừng vĩnh viễn. Lúc đó là 3:35 chiều.

                Bọn Phát xít xem cái chết của ông là việc trì hoãn vào phút chót sự bại trận của họ. “Số phận đã hạ gục kẻ thù lớn nhất của ngài. Thượng đế chưa bỏ rơi chúng ta.” Goebbels hào hứng điện thoại cho Hitler. “Hai lần ông ta đã cứu mạng ngài trong các vụ ám sát ghê tỡm. Tử thần, mà kẻ thù nhắm vào ngài năm 1939 và 1944, giờ đã giáng xuống kẻ thù nguy hiểm nhất của chúng ta. Đúng là phép màu!”

                Nhà lãnh đạo mới của Nhật Bản, trái lại, không tỏ ra vui mừng. Thủ tướng Suzuki phát thanh lời chia buồn của ông đến nhân dân Mỹ, diễn tả “tình cảm sâu đậm” của mình vì sự mất mát của một người “đem lại vị thế thuận lợi cho nhân dân Mỹ ngày nay.” [Bài phát biểu này không được đăng trong báo chí Nhật, và thậm chí con trai ông không biết gì về nó mãi sau chiến tranh.] Tuy nhiên, các nhà tuyên truyền Nhật lợi dụng sự kiện này để dựng lên câu chuyện là Roosevelt đã chết vì lo rầu – và thay đổi lời nói cuối cùng của ông “tôi nhức đầu kinh khủng” thành “Tôi đã phạm một sai lầm kinh khủng.”

                Mặt khác cái chết của Roosevelt ít gây sự chú ý trừ ra trong các bài xã luận. “Đó là sự trừng phạt của Thượng đế,” tờ Manichi viết. “Như là hiện thân cho chủ nghĩa đế quốc Mỹ, ông ta đã tạo ra ảnh hưởng đáng nguyền rũa cho toàn thể nhân loại.” Tờ Asahi Shimbun trích lời Đô đốc Nomura, người đã làm việc cật lực cho hòa bình ở Washington, nói, “Điều này nghe có vẻ điên rồ, nhưng cách đây bốn hay năm ngày tôi có một giấc mơ. Tôi mơ thấy mình ở Nhà Trắng và khi tôi bước vào phòng Roosevelt có một quan tài đặt ở đó. Người phụ tá chỉ chiếc quan tài và bảo tôi Roosevelt nằm trong đó. Giấc mơ này đã biến thành sự thật. Nhưng cho dù ai chết, cuộc chiến của người Mỹ vẫn tiếp diễn không thay đổi và chúng ta phải quyết tâm chiến đấu đến khi kết thúc.”

                Tin tức đến Okinawa vào rạng đông ngày 13. “Nghiêm! Nghiêm! Chào!” loa phóng thanh vang lên trên những con tàu Mỹ. “Tổng thống Roosevelt đã qua đời. Nhắc lại, vị Tư lệnh Tối cao của chúng ta, Tổng thống Roosevelt, đã qua đời.” Có một cứ sốc đến không ngờ, và Đô đốc Turner buộc phải ban hành lời tuyên bố chính thức. Qua những đau buồn hiện lên những quan ngại mới. Cái chết của ông có ảnh hưởng tiến trình của cuộc chiến hay không? Liệu người kế vị của ông, Harry Truman, cũng yêu sách sự đầu hàng vô điều kiện hay không?

                Các sĩ quan tuyên truyền trong quân đội Nhật ở Okinawa, theo sự nhắc nhở của nội địa, in những truyền đơn nối kết sự quá cố của Tổng thống với số phận của người Mỹ trên hòn đảo.

                               Chúng tôi phải diễn tả sự tiếc nuối sâu xa của chúng tôi về cái chết của Tổng thống Roosevelt. “Thảm kịch Mỹ” giờ đang được dựng lên tại Okinawa cùng với cái chết của ông ta. Các bạn chắc hẳn đã chứng kiến 70% các tàu sân bay và 73% các tàu chiến của các bạn bị đánh chìm hoặc bị hư hại với 150,000 thương vong. Không chỉ vị Tổng thống quá cố mà mọi người khác phải chết vì lo rầu khi nghe những tổn thất hủy diệt như thế. Sự tổn thất khủng khiếp đưa đến cái chết cho nhà lãnh đạo xấu số của các bạn sẽ biến các bạn thành những người mồ côi trên đảo này. Quân đoàn xung kích đặc biệt của Nhật sẽ đánh chìm các con tàu của bạn đến tàu khu trục cuối cùng. Bạn sẽ chứng kiến điều đó được thực hiện trong một tương lai gần.

                Một lính bộ binh Mỹ đang đọc truyền đơn chợt ngẫng lên khi tiếng pháo gầm rú từ các con tàu Mỹ ở Vịnh Nakagusuku và kêu lên, “Vậy chúng nó cho rằng tiếng pháo đó đến từ cái chỗ quái nào thế?”

                Ít người Nhật chia sẻ cái ảo tưởng của Goebbels là cái chết của Roosevelt sẽ báo trước một khúc ngoặt của cuộc chiến. Những lãnh thổ mà họ đã xâm chiếm trong những tháng đầu của chiến tranh đã bị chiếm lại hoặc sụp đổ. Không đâu minh chứng điều này rõ hơn ở Phi Luật Tân. Yamashita còn giữ những căn cứ ở phía bắc, nhưng MacArthur đã cố thủ vững chắc ở phía tây Mindanao và đang chuẩn bị một trận càn quét vĩ mô lên khắp đảo.

                Tướng Sosaku Suzuki bắt buộc phải bỏ Leyte để gia nhập với nhóm 743 người đã được di tản đến Cebu. Hầu hết trong số 12,000 bị bỏ lại sau, bao gồm Tướng Makino của Sư đoàn 16, đối mặt với cái chết – vì đói, tự sát hoặc dưới tay kẻ thù. Người Mỹ đã đổ bộ lên Cebu cùng lúc Suzuki đến thủ đô, và ông quyết định liều lĩnh làm một chuyến đến Mindanao, tại đó có gần như hai sư đoàn đủ quân số và thể lực cũng như 12,000 viên chức Nhật. Tại sao không tập kết tất cả những người này trong vùng núi tây bắc Davao? Ở đó họ có thể đánh lùi kẻ thù vô hạn định, và hơn nữa, thiết lập một xã hội tự túc, kết hôn với người bản xứ. Đó sẽ là một thiên đường tuyệt đối không kỳ thị. Nhiệt tình của ông được Tướng Tomochika, tham mưu trưởng của ông, chia sẻ. Họ cùng nhau thảo ra hiến pháp và chọn một cái tên tạm thời cho “nhà nước mơ ước”này – Vương quốc Suzuki.

                “Trong trường hợp tôi chết trên đường đi,” Suzuki bảo Tomochika ngay trước khi họ leo lên 5 chiếc banca (loại xuồng của dân bản xứ) vào ngày 10/4, “anh phải thế tôi làm tư lệnh Quân đoàn 35 và thực hiện dự án của chúng ta.” Ông làm bài thơ kỷ niệm cho trận thử thách mà ông sắp đương đầu:

                                Đừng để đói đến chết.

                                Hãy bước vào trận chiến;

                                Cho dù chúng ta phải chết một cách kiên cường,

                                Ta sẽ không ngừng tiến lên,

                                Vì tôi là tư lệnh,

                                Và may thay tôi còn sống để phục vụ;

                                Cho tôi nhiều chiến công.

                 Mất sáu ngày cho hạm đội nhỏ, thường bị vây bủa bởi bão tố, mới đến được Negros phía nam. Trong bóng đêm họ xuất phát chặng cuối cùng dài, đi qua vùng bỏ ngõ đến Mindanao. Không có gió và đi ngược sóng, nhưng vững tay chèo đưa họ đến luồng nước chính. Tất cả trừ thuyền của Suzuki bị quét vào Biển Mindanao, và đến 10 giờ họ đã ra khỏi tầm mắt. Mệt lừ, Suzuki và đồng đội của mình không còn có thể lợi dụng luồng nước, và chiếc banca của họ trôi giạt trở lại về phía Negros. Vào buổi sáng một máy bay Mỹ phát hiện ra họ gần một tháp hải đăng.

                “Nhảy!” tùy viên của vị tướng, Thiếu úy Tokujo Watano, la lên, và nhảy xuống xuồng. Nhưng Suzuki vẫn ở lại banca. Khi một tràng đạn bắn tung tóe lên mặt nước chạy về hướng chiếc xuồng, Watano nhìn thấy vị tướng mình, nắm thanh kiếm trong tay, khom mình như chuẩn bị thực hiện hara-kiri. Đó là kết cục của Suzuki và của vương quốc trong mơ của ông. Chỉ có xuồng của Tomochika đến được Mindanao, và chẳng bao lâu đảo bị MacArthur chiếm lĩnh. “Khởi đầu là một giấc mơ,” Tomochika nhận xét sau đó, “và kết thúc là một cơn ác mộng.”

11121314

 

29 Trận Cuồng Phong Sắt

 

1.

                Vào ngày mất của Roosevelt Nội các của Suzuki cho phép tổ chức một Quân đoàn Tình nguyện gồm những người từ 15 đến 55 tuổi và các phụ nữ từ 17 đến 45 cho trận đánh nội địa. Các tờ báo tiếp tục viết một cách tin tưởng về Okinawa, mà sự thất thủ của nó phải cần đến việc sử dụng lực lượng tình nguyện. “Kẻ thù làm đúng ngay việc chúng ta chờ đợi khi chúng ta lên kế hoạch chi tiết việc xử trí chúng,” một Đô đốc hồi hưu có tên Edo nói. “Chiến thuật mà chúng ta cho phép kẻ thù xâm chiếm đảo Okinawa rất giống với chiến thuật dựa lưng vào tường mà đánh. Chúng ta không thể sử dụng chiến thuật này trừ khi chúng ta ý thức đầy đủ về sức mạnh của chúng ta có thể đẩy lùi lực lượng chính của kẻ thù trong khi để kẻ thù đẩy lùi các bộ phận thứ yếu của chúng ta.”

                Nhưng Quân đoàn 32 của Tướng Ushijima đã bị giáng một đòn thống thiết hơn. Trong hai tuần chiến đấu, gần như 7,000 binh sĩ thiện chiến của ông đã ngã xuống, mặc dù phòng tuyến Shuri còn giữ được. Thủy quân Lục chiến đã tràn ngập nửa phần phía bắc của đảo – vốn được phòng ngự bởi 2 tiểu đoàn Nhật – trừ Bán đảo Motobu. Vào ngày 16/4 họ chiếm Yae-take, một đỉnh đồi lởm chởm cao 1,200 bộ, án ngữ bán đảo, sau một trận đánh ác liệt trong ba ngày, cuối cùng kết thúc chiến dịch ở bắc Okinawa.

                Một vài dặm ở phía tây bán đảo là Ie Shima, một đảo hình ô van dài 5 dặm, bằng phẳng trừ một ngọn núi lửa đã tắt cao 600 bộ gần trung tâm tại đó những binh lính Nhật cuối cùng trong khu vực được bố trí lực lượng. Việc chiếm đóng đảo này thuộc nhiệm vụ của Bộ binh, và lúc 8 giờ cùng buổi sáng, sau một trận pháo kích của hải quân, bộ binh trèo qua các đụn cát cao về hướng sân bay, mục tiêu chính của cuộc xâm chiếm. Khi đến gần núi lửa họ chạm trán với một mê lộ những đường hầm, boong ke, hang động và lỗ nhện. Từ những vị trí này quân đồn trú với quân số thua sút, hỗ trợ bởi hàng trăm dân tình nguyện, phòng vệ kiên cường nhất chống Sư đoàn 77.

                Ernie Pyle tạm thời rời Thủy quân Lục chiến trên đảo Okinawa để tháp tùng bộ binh, binh chủng mà anh có mối thân tình đặc biệt. Vào ngày 18/4 anh đang trên đường ra mặt trận trên một chiếc xe jeep với tư lệnh trung đoàn thì một loạt đạn súng máy quét qua con đường. Pyle, một người mảnh khảnh, phóng xuống một con mương. Khi anh ngẫng đầu lên nhìn, thì hứng một viên đạn qua trán. Anh chết ngay lập tức và được chôn gần đó.

                Trở lại Okinawa Thủy quân Lục chiến quây quần tối hôm đó đọc cho nhau nghe những đoạn viết ưa thích trong các phóng sự của anh. “Thật là uổng phí khi một anh chàng ngon lành như thế lại gặp vận xui trên một hòn đảo nhỏ chó chết này,” một hạ sĩ nói. Họ kiểm tra giường xếp mà anh để lại. Nó chứa một vật dụng cá nhân duy nhất – một chuỗi vỏ ốc biển đầy màu sắc. Họ gói nó lại và gởi về cho người vợ góa của Pyle, “Cô Gái Đó.”

                               Phía bắc của phòng tuyến Shuri Lục quân đã sẵn sàng một cuộc tấn công toàn diện vào hệ thống phòng thủ. “Sẽ sắp sửa cam go đây,” Thiếu tướng John Hodge, tư lệnh Quân đoàn XXIV, dự đoán. “Có 65 đến 70 ngàn lính Nhật núp trong mút phía nam của đảo, và tôi thấy không có cách nào bắt chúng ra ngoài trừ cho nổ tung chúng từng ya một.”

                Hải quân đã đưa vào để yễm trợ. Tại 5:40 sáng hôm sau sáu tàu chiến, sáu tàu tuần dương và tám tàu khu trục bắt đầu pháo kích phức hợp phòng thủ 5 dặm kéo dài ngang qua đảo. Hai mươi phút sau, 27 tiểu đoàn pháo binh – 324 khẩu pháo tất cả – khai hỏa, đào xới các vị trí ở tuyến đầu trước khi bắn phá 500 ya ở phía sau. Đến 6:30 pháo binh hạ thấp, bắn vung vải các tuyến đầu thêm 10 phút nữa. Đây là trận tập trung hỏa lực lớn nhất ở chiến trường Thái Bình Dương – 19,000 quả đạn.

                Pháo binh dâng cao hơn nữa khi các trung đội của hai sư đoàn, thứ 7 ở phía đông và số 96 ở trung tâm, xuất kích ồ ạt về phía trước. 50 phút sau một sư đoàn khác, thứ 27, tấn công Sống núi Kakazu trên bờ tây của phòng tuyến.

                Thật khó tin, cuộc pháo kích chưa từng có vẫn không làm người Nhật hề hấn gì nhiều, và mặc dù ba đơn vị tấn công dũng mãnh, tất cả ba đều bị đẩy lui. Thương vong rất cao, đặc biệt trong bộ phận của sư đoàn 27, trong đó 22 xe tăng bị phá hủy trong cuộc tấn công vô vọng tại Sống Núi Kakazu kinh khiếp. Vào chiều tối Quân đoàn XXIV đã mất 720 người chết, bị thương và mất tích. Trong bốn ngày sau hai sư đoàn trên các sườn chỉ tiến rất chậm, từng tấc đấc một cách nhọc nhằn, trừ bộ binh thứ 96 xoay sở tiến được đến hơn 1,000 ya – để rồi phải đối mặt với trái tim của lực lượng phòng vệ Shuri, một dốc đứng cắm lên như một đoạn của Vạn Lý Trường Thành. Đây là Sống núi Maeda, với những triền đá dựng đứng ngăn trở, thực sự cho thấy là một thành trì đúng như dáng vẻ của nó. Bộ binh nhanh chóng bị đẩy lùi. Tướng Buckner, tư lệnh Quân đoàn 10, bác bỏ đề nghị đổ bộ phía sau phòng tuyến Nhật: đá ngầm ở phía nam rất nguy hiểm, bãi biển không đủ để tiếp tế, và bất kỳ đầu cầu nào cũng có thể bị chận lại bởi số đông binh lính Nhật trong vùng.

                Lập luận của Buckner là hợp lý – nhưng không đúng. Ushijima cũng sợ kế hoạch điều động đó (“Nó sẽ đưa lại kết cục nhanh chóng cho trận chiến”), nên ông đã bắt buộc phải chuyển sư đoàn hậu quân ở miền bắc để tăng cường cho phòng tuyến Shiru. Lực lượng này bắt đầu hành quân trong đêm, và vào tối ngày 25/4 hầu hết đều ở vị trí để thay thế các lính phòng thủ bị thương. Họ đến đúng lúc để hứng chịu mũi dùi của đợt xuất kích mới của quân Mỹ vào Maeda. Nó cũng thất bại. Một đại đội của Sư đoàn 96 leo lên chóp mỏm với giá cao ngất là 18 thương vong trong vài phút. Một đại đội khác tạo thành chuỗi người leo qua sống núi, nhưng ba người chỉ huy đứng đầu đã bị bắn hạ bằng đạn súng máy.

                Bên trái, tại mút phía đông của Maeda, bộ binh lên được đỉnh hai ngọn đồi và bắt gặp hơn 500 quân Nhật đang ở ngoài trời vừa đúng lúc các xe tăng Mỹ và xe thiết giáp phun lửa đang lăn bánh trên Xa lộ 5, liền quay vòng ở cuối sống núi. Họ bắn đạn chéo nhau và tiêu diệt sạch quân Nhật.

                Sợ rằng kẻ thù có thể ra sức đột phá và đến phía sau dốc đứng. Ushijima gởi một chỉ thị nhắn gọn cho Sư đoàn 62: “Quân địch với binh lính đi theo xe tăng đang tiến vào khu vưc phía đông và nam của Maeda từ khoảng 1300. Sư đoàn 62 sẽ phái những đơn vị địa phương quân. . . tấn công kẻ thù đang tiến vào khu vực Maeda với một quyết tâm đẩy lùi họ vĩnh viễn.” Ushijima cũng ra lệnh cho Sư đoàn 24 đến hỗ trợ cho láng giềng của họ bất chấp ranh giới sư đoàn và “tập trung sức mạnh chủ lực tại đông bắc Shuri tối hôm nay.” Maeda phải được giữ bằng mọi giá.

                Vào buổi sáng ngày 27/4 bộ binh, xe tăng và xe phóng lửa của Mỹ, hợp tác nhau chặt chẽ, một lần nữa tấn công các vị trí còn lại của quân Nhật ở đầu mút phía đông của Maeda, và trước hoàng hôn chiếm được hai ngọn đồi. Với toàn bộ đoạn phía đông của dốc đứng trong tay kẻ thù, Ushijima ra lệnh cho trung đoàn của Sư đoàn 24 quét sạch toàn bộ sống núi ngay lập tức. Nhiệm vụ chiếm vị trí trung tâm được giao cho tiểu đoàn do một đại úy trẻ nhất trong Lục quân Hoàng gia, Tsuneo Shimura, chỉ huy. Phần đông 600 người của anh chưa hề ra trận. Chẳng hạn, một vài tuần trước Shuzen Hokama 19 tuổi vẫn còn theo học trường Sư phạm Shuri, nhưng như những người Okinawa khác, anh đã tình nguyện làm nhiệm vụ ở tuyến đầu.

                Khi tiểu đoàn chậm chạp đi quanh qua thủ phủ cổ xưa tối hôm đó, họ lượn quanh co để tránh khoảng 100 thi thể bị ném “như những con búp bê bằng giẻ rách” trong con phố đối diện một nhà thờ Thiên chúa lớn – khi một quả pháo của hải quân đã rơi trúng một xe chở đạn dược. Hokama trông thấy những miếng thịt dính chặt vào tường, và máu văng tung tóe lên con đường đá sỏi. Rời thị trấn họ tiếp tục đi hàng hai về hướng bắc dọc theo một con đường lầy lội cho đến khi đạn pháo phân tán họ vào cánh đồng. Trong khi tạm nghỉ mỗi người lính được phát một lát dứa ướp đường – “một hương vị ngọt cuối cùng” trước khi chết.

                Họ chỉ đến được mức xuất phát rất lâu sau nửa đêm, và gần như là ba giờ sáng khi Đại úy Shimura phát động cuộc tấn công gồm hai tiểu đoàn. Gần như ngay lập tức các loạt đạn súng cối bắn qua sống núi và rơi vào hàng ngũ họ. Shimura ra lệnh binh sĩ tiến lên thận trọng qua màn đạn súng cối. Ngay khi họ tiến lên con dốc nghiêng trong ánh sáng mờ mịt đầu tiên của một ngày mới, các xe tăng xuất hiện ở bên phải trên Xa lộ số 5 như những con hổ rình mồi. Tất cả súng hai bên khai hỏa đồng thời, và hơn 100 người bị giết trong vài phút đầu tiên. Những kẻ sống sót ẩn núp trong các lăng mộ Trung Hoa và các hầm tránh bom thô sơ, hoặc đằng sau các tảng đá. Shimura và 7 người khác tìm được bình yên trong lăng mộ, ở đấy họ trốn cho đến cuối ngày.

                Xe tăng cuối cùng xuất hiện với tia nắng cuối cùng của mặt trời. Shimura đi ra và thấy một phần ba người mình đã chết, nhưng Trung đoàn vẫn khăng khăng bảo anh phải chiếm vách đá ngay đêm đó. Anh đánh dấu lưng mình bằng những vệt sơn trắng và dẫn người của mình tiến tới dọc theo một lòng suối khô cạn. Nửa đường lên dốc anh vấp phải một cửa hầm được ngụy trang. Rúc bên trong là 50 người – tàn binh của phân đội Kaya. Chỉ trang bị một vài khẩu súng trường, họ đã bị đẩy lùi khỏi dốc đứng. Shimura bước vào trước sự reo hò và nước mắt. Đại tá Kaya ôm chầm lấy Shimura với sự nhẹ nhõm. “Từ giờ trở đi tôi giao mọi việc cho cậu xử,” ông nói. Ông không bàn bạc trận đánh hoặc những gì ông biết về vị trí của kẻ địch, thay vào đó ông chỉ mời anh một cốc sa kê, nhưng anh từ chối.

15.png

Shimura rời hang với sự chán chường và dẫn người của mình đến miệng chóp núi. Họ ẩn núp ở đó cho đến rạng đông, rồi họ thình lình ném lựu đạn, và dưới sự yễm trợ của đạn súng máy bắn qua bờ đá, hét lên xung phong và vung các lưỡi lê lấp lánh. Khí thế chiến đấu mang họ đến đỉnh sống núi, một miếng đá vôi nhô ra trông giống như một tháp canh lâu đài. Ở đó họ chạm trán với một nhóm lính Mỹ ở giữa dốc đứng, và rồi rải người dọc theo một tuyến dài khoảng 200 ya, cố thủ sau các tảng đá hoặc trong những hang động nhỏ. Thành công nhanh chóng của họ nhờ vào khí thế của họ cũng như trận chiến tiêu hao đã giằng co dọc theo sống núi trong 4 ngày. Các đơn vị Mỹ chạm trán với họ đã giảm sút khoảng 40% hiệu năng tác chiến, và một số trung đội chỉ còn nửa tá người.

                Cuộc giao tranh gần bờ biển phía tây không ác liệt như ở dốc đứng nhưng cả hai bên đều tổn thất nặng. Ngày hôm sau, 30/4, Sư đoàn Thủy quân Lục chiến 1 bắt đầu đến tiếp ứng Sư đoàn Bộ binh 27, đã tổn thất 2,661 thương vong trong không đến hai tuần.

                Bộ binh tiếp viện cũng đi lên Sống Núi Maeda. Hết lần này đến lần khác bộ binh, mang chất nổ trong túi xách, trèo lên đỉnh bằng dây thừng và móc sắt nhưng đều bị quân Nhật, nhô ra từ mạng lưới chằng chịt các hang động đẩy lùi liên tục. Shimura giữ vững vị trí gần Needle Rock chống trả một tá cuộc tấn công khốc liệt, và sự phòng thủ của anh quá ấn tượng đến nỗi Trung đoàn ra lệnh cho anh tiếp tục tấn công. Đêm đó anh được lệnh phải tái chiếm bãi gò đống chập chùng đầu tiên ở bên phải, mà Nhật gọi là Đồi Quỷ. Anh cho gọi đại đội 5. Binh lính tiến chiếm đồi ngay sau nửa đêm và bắn pháo sáng để báo hiệu họ đã chiếm được mục tiêu. Nhưng vì họ không thể đào takosubo trong đất cứng như đá, khi ánh sáng đầu tiên của bình minh phơi trần họ, họ bị tiêu diệt đến người cuối cùng.

                Quân thù đã ở trên đảo một tháng trời và quân số đã lên đến 170,000. Okinawa đã biến thành một nước Mỹ -Nhỏ. Các con đường được mở rộng và tân trang – để có thể chịu được tải trọng của hàng vạn xe cộ từ bãi biển ồ ạt tiến lên – những núi hàng tiếp tế được dựng lên, pháo phòng không được bố trí, và dịch vụ truyền tin được thiết lập liên kết tất cả thiết bị Lục quân và Hải quân.

                Người Nhật được dạy dỗ là phải khinh rẻ người Mỹ, ấn tượng trước cách chiến đấu hợp lý của họ. Họ ăn mặc  chỉn chu, có lượng quân nhu và thực phẩm vô hạn, và hình như đã biến chiến tranh thành một trò phiêu lưu. Thậm chí hình xăm của kẻ thù khiến họ thích thú.

                Trong một hang động bên dưới Thành Cổ Shuri 100 bộ, nơi Đô đốc Perry đã được vua Okinawa đón tiếp long trọng cách đây gần một thế kỷ. Tham mưu trưởng của Ushijima, Trung tướng Isamu Cho, om sòm yêu cầu một cuộc phản công toàn diện khác. Ông ta là một người nhiệt tình, hút thuốc và uống rượu vô độ. Sự nghiệp quân sự của ông – như của Tsuji – đã đầy ứ những hành động gekokujo [Hạ khắc thượng: Kẻ dưới lật đổ người trên] . Ông đã tham gia vào Cách mạng Cờ Thổ Cẩm [Cuộc nổi dậy của phe quân phiệt nhằm lật đổ chính quyền: ND] chết yểu vào năm 1931. Sau đó ông chuyển về Mãn Châu, ở đó tính ưa thích lập mưu tính kế của ông đã kéo dài cuộc chiến tranh biên giới với Nga ở Changkufeng vào năm 1938. Ông vốn nóng tính, và việc tát tay thuộc hạ là điều bình thường. Giờ tranh luận với Ushijima, ông vung cán thuốc dài như thể đó là một vũ khí.

                  Ushijima lễ phép lắng nghe. Ông thường biểu lộ một sự tôn kính thái quá khiến những người chung quanh khó chịu – trừ ngài Cho, mà tính hiếu chiến đã được đốt cháy bằng rượu sa kê hai người đã đối ẩm cùng nhau suốt một giờ qua. Sự dè dặt của Ushijima được sĩ quan hành quân của ông ủng hộ; anh một mình tranh cãi với yêu sách lặp đi lặp lại một cuộc giáng trả quyết định. Đại tá Hiromichi Yahara – một người mặt mày dữ tợn không dễ bị hù dọa. “Công kích với lực lượng yếu kém hơn chống lại một lực lượng vượt trội tuyệt đối của kẻ thù sẽ là mạo hiểm và dẫn đến sự thảm bại hoàn toàn.” Hơn nữa, ông tiếp tục, họ sẽ phải tấn công một kẻ thù đang ở trên cao. Giải pháp hợp lý là tiếp tục chiến thuật như hiện thời. Ông nghĩ sự hủy diệt là không tránh khỏi, nhưng dành được thời gian vô giá cho Tổng Tư lệnh Hoàng gia chuẩn bị một chiến lược phòng thủ. Một cuộc phản công tối đa chỉ gây những tổn thất nhẹ cho quân địch, nhưng hàng ngàn binh lính Thiên hoàng sẽ hi sinh một cách vô ích. Nhưng bản năng phản công của người Nhật khi bị dồn vào đường cùng là không thể đè nén được. Tư lệnh Sư đoàn 62 bật dậy và hùng hỗ ủng hộ Cho, cũng như tư lệnh các sư đoàn và lữ đoàn đã bực bội vì buộc phải tuân theo chiến thuật phòng thủ. Với nỗi ngờ vực, Ushijima ra lệnh cuộc phản công sẽ bắt đầu hai ngày tới.

                Đó là một kế hoạch tham vọng và phức tạp – phối hợp với cuộc công kích kamikaze toàn diện trên tàu chiến và được yễm trợ bởi các oanh tạc cơ chiến thuật – để thọc một mũi 5 dặm về phía bắc vào các phòng tuyến Mỹ. Hai trung đoàn, đường tiến quân của họ đã được một hàng rào pháo nặng dọn sạch, sẽ bắt đầu cuộc tấn công phía đông Xa lộ 5 trong khi một trung đoàn thứ ba ào ạt tiến xuống từ Sống Núi Maeda, và với sự yễm trợ đáng kể của xe tăng xông tới dọc theo xa lộ đến các điểm cao bên kia. Lữ đoàn Hổn hợp Độc lập 44 sẽ đi theo trong nửa dặm trước khi quẹo trái về hướng bờ biển phía tây. Để đánh lạc hướng kẻ thù sẽ có hai cuộc đổ bộ bằng xe lội nước phía sau phòng tuyến Mỹ, một trên bờ biển phía tây và một phía đông.

                Lúc hoàng hôn vào ngày 3/5, pháo binh bắt đầu giáng xuống những vị trí tuyến đầu của kẻ thù, và kamikaze tấn công tàu chiến của Hoa Kỳ, đánh chìm tàu khu trục Little và LSM-195, và làm hư hại bốn tàu khác. Ngay sau nửa đêm một cuộc tấn công của 60 máy bay ném bom qui ước lên các vùng hậu quân của Quân đoàn 10 cùng lúc với lực lượng xe lội nước tiến đến bờ biển . Các đơn vị phía tây đổ bộ lầm tại địa điểm gần với một đại đội Thủy quân Lục chiến. Đánh động trước những tiếng la “Banzai” các Thủy quân Lục chiến khiến lính Nhật bất ngờ với hàng rào súng cối chết ngưới cùng hỏa lực tập trung của súng máy và súng trường. Một ít lính Nhật chạy thoát được bị săn lùng và tiêu diệt. Tù binh duy nhất là một con bồ câu đưa tin. Nó được thả đi sau khi lính Mỹ buộc vào nó một thông điệp chế nhạo điển hình Thủy quân Lục chiến: “Chúng tôi thả về bồ câu cho các bạn. Tiếc là chúng tôi không thể các chuyên viên phá sập của các bạn.” Lực lượng xe lội nước đến bờ biển phía đông bị một tàu tuần tra hải quân phát hiện. Nó liền bắn trái sáng làm sáng rực cả vùng. Hầu hết xuồng đổ bộ đều bị phá hủy, và phần đông số lính Nhật chạy được lên bờ đều bị xóa sổ.

                Một giờ trước rạng đông hàng rào pháo binh Nhật gây điếc tai đến cực điểm trong vòng nửa giờ. Sau đó hai trái sáng màu đỏ được bắn lên: báo hiệu trận tấn công bắt đầu. Bộ binh Nhật ào ạt tiến về phía trước một cách nhốn nháo. Ở bên phải, 2,000 người lập tức sa vào một trận địa pháo của binh lính Mỹ. Những người sống sót cố vượt lên phía trước đều bị tỉa một cách có hệ thống trên vùng đất phẳng trơ trụi.

                Kết quả thắng lợi của mũi trung tâm tùy thuôc vào sự yễm trợ của xe bọc thép. Nhưng vì pháo địch quá chính xác đã làm tê liệt tất cả xe tăng trung bình, nên chỉ còn không hơn 9 xe tăng nhỏ xoay sở tiến theo mũi tiến quân, 600 lính tiểu đoàn của Đại úy Koichi Ito. Binh lính của Ito xuyên thẳng qua phòng tuyến Mỹ trong ánh sáng nhá nhem trước bình minh, nhưng bị bắn hạ bởi đạn súng máy. Chín xe tăng cố gắng xông lên nhưng pháo đã chặn bước chúng từng xe một. Ito quyết định đi tới không cần sự yễm trợ của xe tăng và dẫn dắt tiểu đoàn đã tả tơi về hướng mục tiêu đầu tiên, một ngọn đồi cách Maeda một dặm về hướng đông bắc gần thị trấn Tanabaru.

                Các báo cáo chắp vá đến được với bộ tư lệnh Quân đoàn 32 vào giữa sáng tuyên bố những thắng lợi ấn tượng và mở ra những tiệc ăn mừng trong hang động bên dưới đống đổ nát của Lâu đài Shuri. Tuy nhiên, không ai trừ Ito đã tiến quân được một đoạn đáng kể, nên ông được ra lệnh tấn công ngọn đồi phía trên Tanabaru đêm hôm đó. Cùng với đồng đội ông dấn tới hai bên Xa lộ 5 cho đến khi bị hỏa lực kẻ thù chặn lại. Bây giờ vì Ito có được sự yễm trợ thiết giáp – các xe tăng đã xuất hiện nhờ sự che phủ của bóng đêm – ông có thể tiếp tục. 6 xe tăng bị phá hủy trong các trận đánh ác liệt tiếp diễn sau đó, nhưng Ito và người của mình vượt qua được một dặm dài cam go qua phòng tuyến Mỹ để đến Tanabaru. Ông đặt mìn những con đường chạy qua thị trấn và đến rạng đông đã dựng được phòng tuyến vòng ngoài trên sườn dốc của ngọn đồi. Rồi ông truyền tin mà không dùng mật mã – lính mật mã đã chết – rằng ông và gần 450 người của mình đã đến mục tiêu. Ông nhận được lệnh cố thủ ở đó.

                Vào trưa ngày 5/5 thậm chí đối với ngài Cho hống hách cũng biết rõ ràng cuộc phản công mà ông thai nghén đã thảm bại. Giờ không còn hi vọng nào cho Okinawa; thảm bại là điều chắc chắn.

                Ito còn nằm trên Tanabaru nhưng ông phải gánh chịu sức ép từ mọi phía. Trong ngày hơn 100 chi đội của ông đã bị súng phun lửa, súng cối và lựu đạn giết chết. Sáng hôm sau quân Mỹ tiếp tục tấn công và bị đẩy lùi vì kẻ thù sử dụng biện pháp cảm tử. Giờ đây còn không tới 150 trong số 600 người lúc khởi đầu tấn công, và Ito đang sẵn sàng để hi sinh khi một thông điệp bọc lấy một viên đá được ném vào trong takotsubo của ông. Đó là từ một lính truyền tin của ông ném tới: lệnh vừa nhận được là phải rút lui về. Trước khi bỏ các binh sĩ bị thương ở lại ông phân phát lựu đạn cho họ trước khi tập họp những người còn khả năng chiến đấu dưới chân đồi. Vào nửa đêm họ di chuyển về hướng nam trong bóng tối nhưng một dặm đi trên đất kẻ thù đã phải trả giá. Chỉ Ito và một tá người khác có thể qua được an toàn.

                Người Nhật đã chống trả với mọi nguồn lực mà họ có thể tận dụng được nhưng bị Quân đoàn XXIV của Hodge đè bẹp dễ dàng. Sự thành công trùng hợp với một thành tựu nhiều ý nghĩ hơn. Vào trưa ngày 8/5 mọi khẩu pháo Mỹ đều bắn ba phát chào mừng – Đức đã đầu hàng.

                Đánh bại Nhật Bản trong một cuộc tấn công hao tốn xương máu là một việc, nhưng bắt họ chui ra từ các công sự phòng thủ thì thật là đau lòng. Sống núi Maeda đã biến thành một phiên bản đẫm máu của “King of the Hill” (Một bộ phim hoạt hình nhiều tập của truyền hình Mỹ), với trước tiên một bên cố thủ trên đỉnh đồi rồi bên kia giành lại. Một tiểu đoàn bộ binh, tiểu đoàn 1 của Trung đoàn Bộ binh 307, mất hơn phân nửa quân số trong 8 ngày, kể cả 8 chỉ huy tiểu đoàn trong thời gian 36 giờ.

                Tổn thất của người Nhật còn thê thảm hơn nhiều. Đại úy trẻ Shimura, chẳng hạn, từng chỉ huy 600 người trên tuyến sống núi; giờ còn lại không tới 150 người và hầu hết đều bị thương nặng. Vậy mà anh không nghe lệnh rút lui, anh muốn chết ngay nơi phần đông đồng đội của mình đã ngã xuống. Trung đoàn kêu gọi anh phải lui quân, và một sĩ quan tham mưu của Sư đoàn 24 gởi đi một thông điệp có mã khóa lập luận rằng anh nên “tìm những chiến trường khác thích hợp hơn để chết.” Shimura cho người của mình biết về lệnh trên nhưng anh nói mình sẽ tiếp tục ở lại đánh du kích. “Ai muốn ở lại với tôi thì ở. Chúng ta sẽ cố thủ ở đây bên trên sống núi này cho đến chết.” Một số lính theo ông và người còn lại rút về theo lệnh, giao Sống núi Maeda cho quân thù.

                Maeda thất thủ, lực lượng phản công Mỹ chầm chậm tiến tới qua khắp hòn đảo. Hai sư đoàn đầy đủ quân số Thủy quân Lục chiến (III Quân đoàn Đổ bộ) giờ giữ sườn phía tây: sau một trận đụng độ ác liệt Sư đoàn 6 đã chiếm được Đồi Sugar Loaf, cái neo phía tây của phòng tuyến toàn diện, cách Shuri không tới một dặm, và Sư đoàn 1, đã tham chiến từ Guadalcanal, tiến vượt qua Wana Draw, một lối đi hẹp, đầy đá dẫn đến trung tâm của kinh đô cũ. Xa nhất về hướng đông, suốt con đường ra đến bờ biển, ba sư đoàn của Quân đoàn XXIV, từ từ tiến lên, chiếm các đồi Chocolate drop, Flaptop, và những đồi khác ngay phía đông Shuri. Vào hoàng hôn ngày 21/5 thành phố bị bao vây từ ba phía nhưng bóng tối buông xuống cùng cơn mưa như thác đã rơi xuống trận địa. Wana Draw biến thành một đầm lầy. Xe tăng và xe lội nước quay bánh bất lực trong bùn lầy. Suốt dọc theo chiến tuyến, những hố cá nhân đào trong các con dốc đất sét bắt đầu tan rã, và những người ở dưới thấp phải tát nước không ngừng như đang ở trên những con thuyền thủng đáy. Trong gần như trọn tuần mưa xối xả không ngớt. Thực phẩm đưa ra tiền tuyến bị hạn chế, trong cơn lũ lụt không sao chợp mắt được; người chết không thể chôn cất và để tự do phân hủy.

                Mặc dù cơn mưa cho ông được nghĩ ngơi, Tướng Ushijima quyết định bỏ Shuri. Hơn 60,000 binh sĩ của ông đã bị giết trong trận phòng thủ đẫm máu cho thành phố. Các sư đoàn 62, 24 và Lữ đoàn Hổn hợp Độc lập 44 – trái tim của quân đội ông – đã bị tan tác bởi pháo hạm, hỏa lực pháo và không kích không ngừng của kẻ địch, cũng như các cuộc tấn công của xe tăng và bộ binh. Ông gạt ra một bên mọi phản kháng không chịu lui binh, tuy cục bộ, trên cơ sở là bất kỳ sự cố thủ nào ở Shuri cũng sẽ đẩy nhanh sự thất thủ của Okinawa.

 

2

                Trong ấn bản tháng 5 của tạp chí thương mại Jitsugyo-no-Nippon, Chuẩn Đô đốc Etsuzo Kurihara viết:

                Một số người ưa thích phương án để kẻ địch cắt da thịt mình trong khi mình sẽ cắt xương cốt chúng. Tôi chống đối một chiến lược tính toán kiểu như thế. Trái lại, tôi thiên về phương án để kẻ thù cắt xương cốt mình trong khi chúng ta cũng cắt xương cốt chúng. Mỗi người Nhật bản có thể làm điều này. Phương án này sẽ tạo ra tính ngoan cường trong nhân dân ta. Đây là chiến thuật của Quân đoàn Tấn công đặc biệt của chúng tôi.               

                Chiến thuật Kamikaze đã được thử nghiệm chống lại người Mỹ kể từ trận đánh ở Vịnh Leyte, nhưng tại Okinawa nó đã trở thành một bộ phận tích hợp trong việc phòng thủ. Kể từ cuộc đổ bộ phía Đông sáu cuộc tấn công kamikaze qui mô lớn, gồm hơn 1,500 máy bay, đã được lao xuống các tàu Mỹ đang tập trung quanh đảo. Vài trăm máy bay này đã lách qua được màn lưới hỏa lực phòng không dầy đặc và nổ tung trên mục tiêu, đem xuống đáy biển gần 20 tàu Mỹ và làm hư hại nặng khoảng 25 tàu khác. Dù con số có vẻ ghê rợn, nó không nói lên sự thật về cái chết, nỗi khủng khiếp và tính anh hùng của hai bên. Thật là rùng mình khi chứng kiến một máy bay địch cứ một mạch nhắm hướng tàu bạn mà bay đến, người phi công quyết tâm làm nổ tung bạn và  y để cùng nhau vào địa ngục.

                Cuộc oanh kích kamikaze thứ 7, vào ngày 25/5, phối hợp với cuộc rút quân của Ushijima khỏi Shuri và mở màn bằng một đơn vị của những chiến binh phá hoại tự sát, được chở trên 5 oanh tạc cơ bay đến Sân bay Yontan ở trung tâm Okinawa. Bốn máy bay hai động cơ này bị bắn hạ, nhưng chiếc thứ 5 đáp được xuống trận địa bằng bụng. Binh lính Mỹ nhìn mà không tin vào mắt mình khi các chiến binh tự sát Nhật từ phi cơ nhào ra và phân tán đến đường băng ném lựu đạn và bom lửa vào các phi cơ Mỹ đang đậu. Bảy máy bay bị phá hủy, 26 cái khác bị hư hại, và hai kho dầu chứa 70,000 ga-lông xăng (khoảng 260,000 lít xăng) bốc cháy trước khi các kẻ xung kích bị tàn sát.

                Ngoài khơi, kamikaze đã ào ạt bay tới về hướng khu vực vận tải, và trong 12 giờ sau đó 176 máy bay Đặc công đâm sầm vào mục tiêu của chúng. Chúng đánh chìm LSM-135 và tàu hộ tống khu trục Bates. Bốn tàu khác phải lủi mất, bị loại thải hoặc rời khỏi nhiệm vụ vì bị hư hại.

                Sự cuồng tín của các phi công này thật đáng sợ đối với người Mỹ trong giờ phút tối hậu của họ, nó toát ra “một sự mê hoặc như bị thôi miên đối với một cảnh tượng quá xa lạ với triết lý Tây phương của chúng ta,” Phó Đô đốc C. R. Brown nhận xét. “Chúng tôi nhìn mỗi kamikaze lao xuống với nỗi khiếp đảm lạ lùng của một người chứng kiến một cảnh tượng hãi hùng hơn là của một nạn nhân bị nhắm đến. Chúng tôi quên mất chính mình trong phút chốc khi tìm kiếm vô vọng xem những con người ở trên kia suy nghĩ gì.” Từ sự mê hoặc gần như là bệnh hoạn này là một mớ hỗn độn của những lý thuyết và tin đồn: những phi công kamikaze lao vào trận chiến như những giáo sĩ trong áo choàng có mũ trùm; họ bị đánh thuốc; họ bị xích vào phòng lái; họ là một nhóm ưu tú được đào luyện từ nhỏ để tự sát. Thật ra, họ chỉ là những thanh niên Nhật trung bình, hoàn toàn tự nguyện. Mục đích của họ là chết một cái chết có ý nghĩa và họ tin rằng hệ thống Đặc công là cách thức tốt nhất để khắc phục năng xuất yếu kém so với người Mỹ. Một người có thể làm hư hại hoặc đánh chìm một tàu chiến và mang theo 1,000 kẻ thù chết với y.

                Ensign Yasunori Aoki, sinh ra tại Tokyo 22 năm trước, tin vào khẩu hiệu: “Một máy bay, một tàu chiến.” Tình yêu thiên nhiên đã dẫn anh đến Cao đẳng Canh nông và Lâm nghiệp. Khi được lệnh nhập ngũ, anh gia nhập Hải quân Hoàng gia cho oai, học bay, và vào đầu năm 1945 là một huấn luyện viên trên đảo Shikoku. Tại đó những người tình nguyện được chiêu mộ cho Quân đoàn Đặc công. Mỗi phi công, huấn luyện viên cũng như học viên, được yêu cầu ghi tên mình trên một mảnh giấy. Ai muốn tình nguyện sẽ khoanh một vòng tròn trên tên mình; ai từ chối vẽ một tam giác. Không có ép buộc và một vài người vẽ tam giác mà không ngần ngại, nhưng Aoki cảm thấy như thế là hèn nhát. Ngoài ra, vì không ai sống sót qua chiến tranh, nên anh muốn chết như một phi công; anh thậm chí có thể đánh đắm một chiếc tàu.

                Những người tình nguyện được huấn luyện bay là là cách mặt nước 30 bộ (khoảng 9 mét), rồi bay lên bắn một tháp điều khiển. Họ bay chiếc Shiragiku (Hoa Cúc Trắng), một máy bay huấn luyện hai chỗ ngồi, kềnh càng, chậm chạp. Aoki, chỉ huy của máy bay, trở thành người lái nó, mặc dù, theo ý kiến anh, không cần có chỉ huy, nhưng nếu không có cấp trên ngồi kế bên, phi công dễ bị cám dỗ quay về.

                Nhiều tuần trôi qua nhanh chóng. Việc huấn luyện rất thu hút và sứ mạng hình như còn quá xa ở tương lai đến nỗi nó hình như không thực. Nhưng một khi việc huấn luyện kết thúc, Aoki bắt đầu nhận ra là mình đang lãnh bản án tử hình; ý thức về cái chết lớn dần khi máy bay được tân trang cho sứ mạng. Một thùng xăng bổ sung được buộc vào phòng lái và một quả bom 250 kí được lắp vào mỗi cánh. Khi giám sát chiếc phi cơ của mình Aoki không khỏi suy nghĩ. Đây là máy bay chở ta trên chuyến đi một chiều.

                Vào ngày 25/5 nhóm anh được chuyển đến Kanoya trên Kyushu, một sân bay cho chuyến bay cuối cùng đến Okinawa. Sự kết thúc số mệnh tràn ngập tâm khảm anh. Các vẻ mặt sáng ngời của các đồng đội khiến anh thấy mình thấp hèn. Lúc hoàng hôn Aoki ngắm nhìn một chuyến bay kamikaze đến Okinawa – nhóm anh sẽ đi tiếp sau. Anh buồn rầu quay lại doanh trại, một ngôi trường tiểu học, tại đó anh kinh ngạc khi thấy non nửa chục người mà anh tưởng đã cất cánh rồi. Việc họ từ khước đi khiến anh giảm bớt tủi hỗ, anh không thể hèn nhát như thế. 

                Trưa hôm sau anh nằm dài trong cỏ ngắm nhìn các máy bay trong nhóm mình đang được đẩy ra đường băng để chuẩn bị bay cho sứ mạng. Thình lình đất chung quanh anh chấn động; người Mỹ đang bỏ bom căn cứ. Aoki không nhúc nhích. Chả có gì khác nếu mình bị giết, anh tự nói với mình; anh hi vọng sẽ sống váo một thời thanh bình hơn ở kiếp sau. Nhưng khi anh rảo bước trở lại doanh trại, cuộc sống, mà vài phút trước hình như quá rẻ, trở nên quí giá hơn bao giờ hết. Được sống thêm một ngày là vô giá; thậm chí một giờ, một phút, một giây. Anh dừng lại nhìn một con ruồi đang bay vơ vẩn. “Mầy thật may mắn vì được sống,” anh nói lớn. Sau bữa ăn tối nhóm tụ tập nghe chỉ dẫn về sứ mạng hôm sau. Mỗi phi đội phải chọn cao độ và đường bay của mình. Đa số chọn lộ trình gián tiếp về hướng đông hoặc tây. Aoki đề nghị đi thẳng đến Okinawa. Phi công của anh, một thanh niên 17 tuổi tên Yokoyama, rất dễ thương.

                Họ đi ngủ sớm và Aoki tỉnh dậy, bình tâm, ngay trước rạng đông. Mình ngon lành, anh nghĩ. Ngày 27/5, ngày cuối cùng của anh trên mặt đất, rực rỡ và quang đãng, và anh cảm thấy tươi tỉnh và hăng hái lạ thường. Anh đã để lại vài móng tay và lọn tóc cho gia đình. Bây giờ anh viết bưu thiếp cho cha, mẹ, bốn em trai và gái. “Đất nước thiêng liêng của chúng ta sẽ không bị hủy diệt,” anh bảo họ, và rồi cầu nguyện Nhật Bản sẽ tránh được cảnh thảm bại hoàn toàn.

                Vào chiều tối nhóm anh được đãi một bữa tối trang trọng. Một sĩ quan điều hành đề nghị nâng ly. Aoki nốc một hơi cạn cốc sake trước khi nhận thấy các đồng đội của mình chỉ nhấm môi. Một nhiếp ảnh viên của kênh tin tức yêu cầu đứng chụp ảnh. Họ đội mũ da trang trí huy hiệu Mặt Trời Mọc. Tay nối tay, họ ca vang bài “Doki no Sakura” (“Dòng Dõi Đóa Anh Đào”).

                Tại cuộc thanh tra cuối cùng một đại úy đứng trước mặt Aoki và thắc mắc hỏi tại sao mặt anh đỏ thắm. “Bộ cậu không được khỏe sao?” Chỉ là tại rượu sake, Aoki giải thích. “Nếu cậu không được khỏe,” viên đại úy an ủi nói, “cậu có thể ở lại và đi với tốp sau.”

                “Tôi khỏe mà, thưa đại úy.”

                Mười lăm phi đội chất đống lên xe và ra đi với những lời chúc tụng đuổi theo. Tại phi trường họ tròng vào người một cách không thích đáng những áo phao cứu sinh trang trí rực rỡ hình Mặt Trời Mọc rất lớn. Túi của Aoki không đựng gì ngoài một tấm ảnh gia đình và hai omamori nhỏ bằng gỗ, một bùa hộ mệnh của Phật tử, mà anh hi vọng sẽ hộ trì anh hoàn thành sứ mạng.

                Ngay trước hoàng hôn một nghi lễ tiễn biệt được một chuẩn Đô đốc chủ trì. Trong khi ông ta đọc diễn văn Aoki nghe một nhóm các sĩ quan tham mưu đang tán gẫu và cười cợt. Anh bất mãn sâu sắc khi bị họ đối xử quá vô tình trước một sự kiện trọng đại như thế. Viên trưởng huấn trịnh trọng chúc họ thành công. “Có một đài quan sát trên đảo Okinawa sẽ xác định được thành quả của sứ mạng các bạn,” ông nói. “Đêm nay trăng tròn. Trăng sẽ chứng kiến kỳ tích của các bạn, vì thế các bạn sẽ không thấy mình cô độc. Tôi sẽ tiếp bước theo các bạn, hãy đợi tôi.” Ba mươi người đều đầm đìa nước mắt mà không thấy xấu hỗ. Họ hiểu rằng ông ta muốn đi theo họ, và biết ơn vì một đồng đội của mình đã làm cho giây phút cuối cùng của họ trên mặt đất khỏi rơi vào cảnh tầm thường.

                Khi 15 phi cơ lăn bánh vào vị trí, một đám đông nhỏ đứng dọc theo đường bay vẫy khăn tay, mũ và cờ. Qua tiếng gầm rú của động cơ Aoki nghe ai đó hét lên, “Aoki! Aoki!” Anh quay lại. Đằng kia phía sau máy bay, đuổi theo anh, tay quơ quơ ra dấu và khóc, là một phi công đã từ chối đi trong chuyến bay trước. Aoki cảm thấy bối rối và bất mãn, có vẻ như mình bị một phụ nữ chạy đuổi theo. Nhưng anh vẫn mỉm cười và nói to lên, “Hãy theo sau chúng tôi!” khi người huấn luyện viên lớn tuổi gia tăng tốc độ và cất cánh khỏi mặt đất. Chiếc phi cơ bay vút lên như kéo dài buổi tà dương đang nhạt nhòa. Cảnh đẹp biết bao! Aoki thầm nghĩ.

                Ở độ cao 3,000 bộ anh phi công trẻ theo một lộ trình gần như trực chỉ hướng nam đến Tori Shima (Đảo Chim), nằm cách Okinawa 60 dặm về hướng tây. Ở đây họ sẽ quay trái thẳng đến khu vực tàu vận tải địch. Phía trước một máy bay đơn độc đang quay đi theo lộ trình gián tiếp. Bên dưới là một ánh đèn xanh lá cây đánh dấu điểm Sada. Đây là ánh sáng cuối cùng trên nội địa và Aoki nhìn nó chăm chú cho đến khi nó biến mất. Anh nhìn xuống một đảo nhỏ. Những vệt khói lam chiều cuộn lên. Một bà nội trợ nào đó đang nấu bữa cơm chiều cho gia đình. Anh không khỏi thầm nghĩ. Bà ấy đang sống và mình đang đi vào chỗ chết.

                Một lớp mây bắt Yokoyama phải bay thấp xuống 2,200 bộ, nhưng không khí bên dưới quá nhiễu loạn khiến cậu phải hạ thấp đến 1,000 bộ. Họ bay như thế một cách đơn điệu hàng giờ liền. Thời gian ước tính đến được Đảo Chim đã trôi qua. Aoki ra hiệu cho Yokoyama tiếp tục và kiểm tra đồng hồ mình. Đã 11:30. Trận oanh kích được ấn định lúc nửa đêm, vậy là họ đã trễ. Sau năm phút anh ra lệnh cho Yokoyama rẽ sang hướng đông và hạ thấp. Aoki rải các mảnh giấy thiếc để làm nhiễu ra đa địch, rồi kéo cần để quay cánh quạt đẩy trên hai quả bom. Bom bây giờ đã được kích hoạt và sẽ nổ khi va chạm. Đám mây che phủ phía trên đã tan và Aoki có thể nhìn thấy hình trăng tròn phản chiếu trên mặt nước. Rồi một ánh sét lóe sáng. Một ánh sét khác. Không, vài tàu chiến địch đang bắn họ. Yokoyama kéo cần lái để lên cao 300 bộ; Aoki nhướn mắt nhìn tàu nhưng các chớp lóe sáng thịnh nộ của hỏa lực phòng không có lẽ không hơn một dặm làm anh chói mắt. Phải mất một phút nữa mới đến được tàu, và tiếng súng tạch tạch càng lúc càng chính xác.

                “Quẹo phải!” anh ra lệnh.

                Những vệt sáng của đường đạn chi chít bay về phía họ. Có một tiếng gầm thét, hình như một chiếc Grumman của địch lướt qua. Đồ chó má! Không có đến một khẩu súng lục để đấu với nó, và nếu Yokoyama tính quay đi họ sẽ là một mục tiêu dễ bi xơi tái. Aoki kéo vòm cửa buồng lái trên đầu, đứng bật lên và nhìn quanh quất. Chiếc Grummqan đã biệt dạng. Anh bảo phi công quay trở lại hướng về Okinawa. Gần như ngay lập tức họ trông thấy một tàu khu trục đang lướt sóng vô tư ở trước mặt họ theo hướng nam. “Nhào xuống!” Aoki la lên. Yokoyama đã được huấn luyện nhào xuống ngược chiều kim đồng hồ để tránh va vào các máy bay bạn nhưng bây giờ cậu ta lại nhào xuống theo chiều kim đồng hồ, điều mà cậu ta chưa từng làm trước đây.

                Không có phát súng nào bắn ra từ tàu khu trục khi họ tiến đến nó từ đuôi tàu. Aoki vẫn còn đứng, tay bắt chéo chống trên vòm cửa, bàn tay chống cằm, nhìn chằm chằm vào chiếc khu trục. Anh rất thanh thản khi đợi một tiếng nổ đưa mình vào quên lãng. Họ hiện giờ quá gần đến nỗi nếu bọn Mỹ khai hỏa thì đã trễ. Anh mãn nguyện; cái chết của anh thật là có ý nghĩa.

                Anh và Yokoyama không ai nói một lời khi chiếc máy bay huấn luyện già nua ì ạch gầm rú về phía chiếc khu trục. Một tiếng đổ vỡ vang lên khi máy bay họ chạm mặt nước. Aoki thấy mình vẫn còn trong máy bay và còn sống. Vì Yokoyama trước đây chưa bao giờ đuổi theo một mục tiêu di động, nên anh đã nhào xuống hụt phía sau tàu. Nhưng tại sao quả bom vẫn không nổ khi va chạm?

                “Chỉ huy, lại đây!” Yokoyama đang đứng trên mũi máy bay đang chìm. Aoki rướn người ra khỏi buồng lái vừa đúng lúc chiếc phi cơ chúc mũi bên dưới các con sóng, và thổi phao cứu sinh hình như là việc làm vô nghĩa. Họ đang một mình trong bóng đêm – không tàu, không máy bay.

                “Chúng ta làm gì bây giờ?” Yokoyama hỏi.

                Đã từ bỏ cuộc sống, Aoki thấy khó khăn phải trả lời. Anh không cảm thấy vui mừng vì được sống. Lúc rạng đông họ có thể phân biệt một dãy đất ở đằng xa. Đó chắc là Okinawa. Aoki đề nghị họ bơi đến đó, nhưng họ bị một tàu khu trục địch chận lại. Họ nằm bất động trong nước giả chết, hai cánh tay khóa vào nhau. Khi chiếc khu trục chạy dọc theo họ họ nhắm mắt và mở miệng. Một dây móc bám vào ống quần của Yokoyama. “Đá văng ra!” Aoki quát lên nhưng viên phi công không thể thoát ra được và bị kéo lên như một con cá, với Aoki còn bấu chặt lại cánh tay cậu. Aoki bắt đầu leo lên dây thừng treo lủng lẳng bên cạnh con tàu; cứ để địch bắt bây giờ nhưng sẽ trốn thoát và tự tử sau đó, anh thầm nghĩ.

                “Anh cũng leo lên kìa!” Yokoyama kêu lên không tin vào mắt mình.

                Trên boong tàu họ từ chối thuốc lá và bánh mì. Yokoyama trừng trừng nhìn Aoki một cách bực tức. Họ được chuyển sang một con tàu lớn hơn, và giờ thì rõ ràng sự trốn thoát là điều không thể. Aoki minh họa cho phi công của anh cách thức tự tử bằng cách cắn lưỡi và bị ngạt thở vì ra máu. Anh lại lè lưỡi dài ra, Aoki đánh vào cằm mình hết lần này đến lần khác. Dù đau đớn quá mức, nhưng máu chảy ra rất ít. Rồi anh cố tự bóp cổ mình cho đến khi choáng váng. Anh kết luận là số của anh là phải sống và trở thành một tù nhân kiểu mẫu. *

  • Khi Aoki trở lại Nhật vào cuối năm 1946, anh được người cậu tiếp đón, một trung tướng, trong niềm vui và cảm thông – và lần đầu tiên Aoki vui sướng vì mình được sống. “Tôi đã có hai kiếp sống,” anh nói sau đó. “Giờ mỗi giây phút đều quí giá.”

 

3.

                Vào buổi đêm hôm trước sứ mạng tự sát của Aoki, Tướng Ushijima bắt đầu rút bộ chỉ huy từ Shuri, cùng với lực lượng còn lại của Sư đoàn 62 và Trung đoàn Tăng 22, để lại một vỏ bọc phòng thủ phía ngoài cùng. Cơn mưa nặng hạt che phủ cuộc rút quân nhưng cũng gây thử thách, đặc biệt cho những người bị thương phải đi bộ. Họ không có thuốc men và hầu như không có thực phẩm hoặc nước kể từ khi di tản khỏi tiền tuyến. Từng nhóm nhỏ những người có thể đi được lết thết trong mưa dầm dưới sự dìu dắt của những y tá dân Okinawa trẻ tuổi gần đây đã theo học Trường Sư phạm, và vịn vào dây thừng để khỏi đi lạc trong bóng đêm.

                Việc di chuyển vào khu vực phía sau lưng địch không bị người Mỹ phát hiện trong vòng 24 giờ. Rồi pháo binh và các tàu yểm trợ của hải quân bắt đầu ngăn chận các con đường và các trục giao thông. Ngày hôm sau, 27/5, Tướng Buckner ra chỉ thị mới cho các Quân đoàn III và XXIV:

                        Có những chỉ dấu cho thấy quân thù rút lui vào những vị trí phòng thủ mới với khả năng có thể phản công vào các lực lượng của ta đang đe dọa sườn của họ. Khởi động không trì hoãn áp lực mạnh mẽ và không ngừng để  xác định chắc chắn những toan tính có thể có và duy trì thế áp đảo. Kẻ thù không được – lặp lại – không được cho phép thiết lập vững chắc những vị trí dù chỉ để can thiệp cho có.

                Những nhóm tuần tra xung kích lần mò theo toàn tuyến Shuri, nhưng vỏ bọc che chở cuộc rút lui còn hiệu quả khiến cho các nhóm tuần tra tiếp tục báo cáo là không có dấu hiệu quân Nhật rút lui. Tình báo Quân đoàn 10 nhất trí: “Hiện giờ có vẻ như là quân Nhật cho rằng giữ vững phòng tuyến quanh phía bắc Shuri là biện pháp tốt nhất. . . Có lẽ chúng ta sẽ dần dần bao vây cứ điểm Shuri.”

                Bộ binh dự tính một cuộc vây hãm, nhưng Thủy quân Lục chiến không chịu đợi. Sư đoàn 1 tràn vào Sống núi Shuri vào ngày 29/5 và nhận thấy mức độ phòng thủ yếu ớt. Họ càn quét vào lâu đài đổ nát. Tại đây sức phòng thủ cứng cỏi hơn, nhưng tối đó các sĩ quan Tình báo Quân đoàn 10 đánh giá lại tình hình: Hiện giờ chắc chắn là “kẻ thù đang cố thủ phòng tuyến Shuri dưới lớp vỏ bọc, quân số đông đảo đã chuyển đến nơi khác.”

                Dưới màn mưa hình như là bất tận, Ushijima đã trốn thoát với phần đông lực lượng của mình và đã thiết lập những bộ chỉ huy mới cách lâu đài Shuri 9 dặm về phía nam trong một hang động trên sườn núi nhìn qua bờ biển lởm chởm của đảo. Nhưng cuộc lui binh đã phải trả một giá rất đắt đối với người dân Okinawa. Trong cơn hoảng loạn, từng đàn dân chúng đã chạy về nam theo sau đoàn binh và đã bị tàn sát bởi đạn pháo. Hàng ngàn người chết bỏ xác lại trên những con đường lầy lội.

                Vào ngày cuối cùng của tháng 5, Thủy quân Lục chiến và bộ binh thận trọng tiến vào kinh thành cổ từ hai phía. Shuri chỉ còn là một đống hoang tàn, đổ nát vì đạn súng cối, bom 1,000 cân và gần 200 đợt pháo kích từ chiến hạm. Chỉ có hai công trình – Trường Sư Phạm và nhà thờ Giám lý hội là còn đứng vững. Bị chôn vùi trong đống đổ nát là hàng trăm dân chúng và của cải tứ tán. Mùi hôi thúi xông lên nồng nặc át hẳn mùi thuốc súng.

                Chính Lâu đài Shuri, phải cần đến 10,000 nhân công xây dựng trong 8 năm, gần như hoàn toàn bị phá hủy bởi hải pháo. Thành lũy đồ sộ của nó đổ xuống như những khối đồ chơi trẻ nít. Hai cái chuông đồng to lớn bị pháo bắn bể, nhưng ít nhất vẫn còn nhận ra được. Trên đó khắc những dòng chữ:

                . . . Chú ý! Chuông là gì? Chuông là vật phát ra âm thanh vang xa, rộng và cao. Đó là bảo vật của Phật tử, mang đến trật tự cho công việc thường nhật của nhà sư. . .

                Nó luôn luôn vang lên đúng giờ, báo trước giờ khắc của hoàng hôn hoặc bình minh. Nó đánh thức người mê lầm thức dậy nỗ lực phục hồi danh dự của mình. Và chuông sẽ ngân vang như thế nào? Nó sẽ vang xa, rộng như một tràng sấm, nhưng với sự thuần khiết hoàn toàn. Và những sinh linh tội lỗi, nghe được tiếng chuông ngân, sẽ được cứu rỗi.

                Tướng Buckner hớn hở khi hay tin quân địch đã bỏ rơi hệ thống phòng thủ ghê gớm. “Ushijima đã lỡ chuyến đò trong cuộc rút binh của mình từ tuyến Shuri,” ông nói với ban tham mưu chiều tối hôm đó. “Bây giờ tất cả đã qua trừ việc xóa sạch các ổ kháng cự. Điều này không có nghĩa là hết giao tranh ác liệt nhưng quân Nhật sẽ không thể tổ chức một phòng tuyến khác.”

                Tuy nhiên, Ushijima đã phát hiện một chướng ngại vật tự nhiên bên dưới Shuri 6 dặm. Đó là một dốc đứng san hô – án ngự bởi hai ngọn đồi liền kề nhau, Yuzadake và Yaezu-dake – đi ngang qua gần hết mũi phía nam của Okinawa như một bức tường thành khổng lồ. Nó cao hơn và lởm chởm hơn Sống núi Maeda. Ở đây, quay lưng ra biển, người Nhật trấn giữ cứ điểm cuối cùng.

                Vào ngày 1/6 quân Mỹ bắt đầu tiến sát vào. Mức độ tiến rất chậm vì binh lính phải ì ạch trên bùn lầy ngập đến mắt cá chân. Những đám mây thấp che phủ khu vực thấp trải rộng bên dưới chướng ngại vật kinh khủng khi các cánh quân tỏa ra để chiếm bán đảo ở hai phía. Cánh phía đông, Chinen, được cố thủ yếu ớt, nhưng Bán đảo Oroku, nhô ra ngay dưới Naha, được phòng thủ bởi 2,000 hải quân. Dưới mệnh lệnh của Ushijima, họ phải bỏ các thiết bị trên bán đảo, sau khi phá hủy hầu hết các công cụ và vũ khí hạng nặng, và chuyển về nam; nhưng ở đó, bên dưới tuyến phòng thủ tự nhiên mới, họ tìm thấy dân chúng chiếm hầu hết các hang động mà họ được giao cố thủ. Thay vì đuổi dân Okinawa ra khỏi hang, như Lục quân đang làm, họ lại trở về bán đảo, tại đó, với vũ khí cầm tay, họ đẩy lui các cuộc tấn công trên đất và đổ bộ của Thủy quân Lục chiến.

                Cuối cùng, vào ngày 5/6, trận mưa chấm dứt nhưng đã để lại dấu ấn của nó. Các đường tiến vào bức tường thành Yuza-Yaeju là một bãi lầy đất sét mềm nhão mà xe tăng không thể qua được. Chỉ đến ngày 10/6 Sư đoàn 96 mới phát động một đòn tấn công vào Yaeju, được bộ binh Mỹ đặt tên lại là “Trái Táo Lớn”. Phải mất hai ngày với hỏa pháo và cận chiến ác liệt một trung đoàn mới thiết lập được vị trí vững chắc trên con dốc phía bắc của quả táo lớn.

                Ushijima gần như không có pháo để chặn đứng kẻ thù; cũng không được lực lượng bộ binh tiếp viện đến kịp lúc vì lưu thông tồi tệ. Quân Mỹ củng cố từng tấc đất chiếm được trước khi người Nhật có thể phản công một cách hiệu quả, và vào nửa đêm ngày 13/6 toàn bộ phân nửa phía đông của sống núi đã bắt đầu sụp đổ.

                Các lính thủy Nhật can trường trên Bán đảo Oroku cũng thảm bại trước lực lượng Thủy quân Lục chiến của Sư đoàn 6, nhưng cuộc giao tranh tàn khốc đã gây tổn thất cho Mỹ 1,600 thương vong. Ngày 15/6 các thi thể của Chuẩn Đô đốc Minoru Ota, tư lệnh Nhật, và năm sĩ quan tham mưu của ông được tìm thấy trong hầm chỉ huy ngầm. Họ nằm sóng xoài, cổ họng bị cắt đứt, trên một mặt đá bằng phẳng lót bằng những tấm đệm đẫm máu.

                Gần như 1,000 binh lính Nhật bị giết mỗi ngày khi trận chiến biến thành một loạt những cuộc tranh chiếm hang động. Ngay tối đó Đại tá Hitoshi Kanayama, chỉ huy Trung đoàn 27 của Sư đoàn 7, tập họp các sĩ quan, hạ sĩ quan trong hang chỉ huy của ông. Từ một bục nhỏ ông thông báo là Sư đoàn sẽ tiến hành một cuộc tấn công toàn diện lúc rạng đông. Nhưng ông không thể tuân lệnh. Trung đoàn ông chỉ còn ít hơn 100 người và ông cho rằng các đơn vị khác cũng ít quân như thế. Không thể nào tiến hành một trận chiến qui mô nữa.

                Kanayama đổ xăng lên lá cờ trung đoàn và quẹt diêm đốt. Khi lá cờ bùng cháy, ông nói, “Trong ba tháng qua các anh em đã trải qua những gian khổ không sao tả hết. Tôi cám ơn anh em đã chiến đấu thật dũng cảm. Giờ đây tôi xin giải tán trung đoàn. Các anh em tự ý hành động. Ai muốn trở lại quê nhà thì cứ tìm cách thoát thân. Còn tôi sẽ chết tại nơi đây, nhưng các anh em không phải chia sẻ trách nhiệm với tôi.”

                Những lời ông nói ra làm những người dưới quyền bối rối; họ bất mãn khi bị bỏ lại tự định đoạt. Rút một dao găm, Kanayama nhìn trân trân vào binh sĩ và một lần nữa nhắc nhở họ không được bắt chước mình. Một cách an định và tĩnh lặng ông thọc mũi dao vào bụng dưới theo đúng nghi thức truyền thống. Khi máu phun ra, đầu ông gục xuống. Sĩ quan phụ tá của ông, Đại úy Sato, giơ cao thanh kiếm và chém xuống dứt khoát, cắt lìa đầu của Kanayama. Rồi Sato tự sát bằng súng. “Tenno Heika banzai!” anh hét lên trước khi bóp cò.

 

4.

                Trận chiến biến thành một cuộc săn người tàn bạo khi người Mỹ lùng sục con mồi trốn chui bằng lựu đạn, thuốc nổ và súng phun lửa. Vào ngày 17/6, Quân đoàn 32 của Ushijima đã choáng váng và tan tác. Kỷ luật đã bốc hơi. Binh lính còn sống phạm những hành động mà mới một vài ngày trước là không thể nghĩ đến: họ thách thức các sĩ quan của mình; đánh nhau như bọn man rợ trong hang động để giành thức ăn và nước uống; tàn sát và hãm hiếp dân chúng.

                Trong hang Chỉ huy, nằm sâu trong một triền đá dốc, hiểm trở gần chóp đảo, Tướng Ushijima chờ đợi phút kết cục một cách điềm tĩnh. Đó là một lòng hang dài, gần chóp triền đá, với một đầu đối mặt với biển hơn 200 bộ phía bên dưới, và đầu kia nhìn ra ngôi làng Mabuni – và kẻ thù đang tiến đến. Ushijima đã vừa đọc xong lời kêu gọi đầu hàng từ Buckner đã được thả xuống đằng sau phòng tuyến:

                     Các lực lượng dưới quyền của ngài đã chiến đấu anh dũng và tài tình, và các chiến thuật của bộ binh ngài xứng đáng lòng nể trọng của các địch thủ. . . Như bản thân tôi, ngài là một vị tướng bộ binh đã được rèn luyện lâu dài và dạn dày trong chiến tranh. . . Vì vậy tôi tin rằng, cũng như tôi, ngài hiểu rõ là sự hủy diệt mọi kháng cự của binh sĩ Nhật trên đảo chỉ là vấn đề của một vài ngày. . .

                Trong khi lời kêu gọi đầu hàng chỉ mang lại một nụ cười nhạt trên gương mặt Ushijima, Cho thì lại bật lên một tràng cười nhạo báng, gần như là không thể kiềm chế được – làm sao một thành viên võ sĩ đạo có thể xét đến một đề nghị như thế? Tình hình xấu đi nhanh chóng đã gây ra một biến đổi xáo trộn trong Cho. Ushijima có thể nằm trên võng suy tư, đọc sách hoặc làm thơ, nhưng Cho thì hậm hực đi tới đi lui như một con thú bị nhốt, thỉnh thoảng nắm lấy chuôi gươm như thể vừa trông thấy một kẻ thù.

                Ushijima vẫn điềm tĩnh. Ông đặc biệt quan tâm đến những sinh viên trẻ người Okinawa phục vụ dưới trướng; ông vỗ đầu họ như người cha và hỏi han về gia đình họ. Nghịch cảnh càng làm sắc bén tính khôi hài của ông. Một lần khi thấy Cho sảy bước đến cuối hang đối mặt với làng Mabuni và đi tiểu giữa trời, Ushijima vừa cười vừa nói, “Anh hãy tiểu nhanh lên. Thằng nhỏ của anh là mục tiêu quá lớn đối với địch đó.”

                Vào trưa ngày 18/6 địch thủ của ông, Simon Bolivar Buckner, đi xa về phía trước để quan sát một đơn vị Thủy quân Lục chiến mới đến đang tiến vào trận địa. Ông đứng nhìn suốt một giờ; thế rồi khi ông lui ra sau khỏi vị trí quan sát, một quả pháo Nhật nổ ngay trên đầu ông. Một mảnh đạn phá vỡ một mô đá san hô, và oái oăm thay, một miếng san hô bén nhọn văng ra ghim vào ngực vị tướng. Mười phút sau ông qua đời.

                                 Lệnh cuối cùng của Ushijima được thảo ra trong hang thúc giục binh sĩ mình “chiến đấu đến cùng và hi sinh cho chính nghĩa bất diệt là trung thành với Thiên hoàng,” nhưng không phải là tấn công tự sát. Ông chỉ thị cho những người còn sống của Quân đoàn 32 len lỏi qua phòng tuyến kẻ thù trong y phục dân thường và gia nhập băng nhóm du kích nhỏ ở phía bắc đảo. Trong bóng đêm các nhóm đầu tiên cố vượt qua nhưng bị phát hiện. Khu vưc được hỏa châu chiếu sáng và những người không bị giết ngay bắt buộc phải quay lại chui xuống đất một lần nữa.

                Trưa ngày hôm sau một tiếng nổ làm lung lay lối vào cửa hang Ushijima. Các xe tăng Mỹ đã tiến đến Mabuni và đang pháo thẳng vào những miệng hang trong ngọn đồi dâng cao phía bên dưới ngôi làng. Jinsai Higa, một người dân Okinawa đã phục vụ ở Tân Guinea trước khi cơn bệnh buộc ông phải trở lại Naha, đang cắt tóc cho Ushijima. Cho tiến đến vị tướng khi người thợ cao đang dọn dẹp đồ nghề, và nói, “Cám ơn anh rất nhiều.” “Vì cớ gì?” Ushijima hỏi. “Anh đã nghe lời khuyên của tôi trong khi tôi tưởng là anh không nghe. Anh để tôi phản công theo cách thức của mình.”

                “Tôi nghĩ cách thức đó dễ dàng hơn,” Ushijima trả lời. “Chính sách của tôi là luôn giao quyền quyết định cho các phụ tá.”

                “Có lúc tôi định hành xử hara-kiri nếu anh không tán thành kế hoạch của tôi,” Cho cộc lốc nói. “Nhưng anh đã để tôi tiến hành viêc đó – và với một nụ cười. Anh tạo mọi thứ dễ dàng cho tôi và tôi muốn cảm ơn anh vì điều đó trước khi chúng ta rời bỏ thế gian này.”

                Dân chúng cũng như binh sĩ đều đối mặt với sự hủy diệt trong hàng trăm hang động như tổ ong trong mũi phía nam của đảo. Cách bộ chỉ huy của Ushijima hai dặm về phía tây một nhóm y tá sinh viên người Okinawa – ra khỏi bệnh viện của họ khi nó được giải thể – tìm thấy nơi trú ẩn với hàng chục dân chúng trong một hang động ngầm. Nobuko Yamashiro chỉ mới 17 tuổi. Cô đang cố sức một cách tuyệt vọng cứu sống người chị đang hấp hối của mình, Yoshiko, cũng là một y tá. Nhưng trong hang không có thức ăn và nước uống và cô thì sợ khi phải liều lĩnh ra khỏi hang. Các y tá đã bị đuổi từ hang này đến hang khác và vào đêm ngày 18 binh lính lại ra lệnh cho họ di chuyển một lần nữa – để tìm “một nơi trú ẩn an toàn hơn” xa hơn về phía nam.

                Bất mãn và phờ phạc, các y tá bắt đầu leo lên cầu thang dẫn đến miệng hang. Tiếng la “Kẻ thù tấn công!” đã bị cắt đứt bởi một tràng đạn. Những đốm lửa màu xanh đổ như mưa xuống những người đang leo thang. Khí ga! Khói cay xè cuồn cuộn vào hang. Ngạt thở và mắt cay xè, những người trong hang mò mẫm về hướng cầu thang. Nobuko ho sặc sụa như thể có gì bóp chẹn cổ cô. Cô la lên đau đớn gọi chị mình. Địa ngục chắc phải như thế này, cô nghĩ. Lựu đạn nổ như sấm dậy. Rồi im lặng bao trùm.

                “Giờ chắc tất cả chúng ta sắp chết đến nơi,” một giọng đàn ông trầm tĩnh vang lên. “Chúng ta hãy hát ‘Umi Yukaba.’“ Khi họ cố sức hát bài ca yêu nước ưa thích của mình thì Nobuko bất tỉnh. Cô tỉnh dậy với một cảm giác dễ chịu kỳ lạ; chưa bao giờ trước đây cô tỉnh dậy với một cảm giác tuyệt vời như thế. Cô cố sức ngồi dậy, nhưng thân thể mình quá nặng. Tại sao vậy? Có tiếng người rên rỉ chung quanh cô, chắc cô cũng bị thương rồi. Đùi bên trái và cổ của cô bắt đầu đau nhức, và cô phát hiện ra là mình đã bị một mảnh đạn bắn trúng.

                Cô cố sức đứng lên lần này đến lần khác. Chị cô hiện đang ở đâu? Chiến đấu với cơn buồn ngủ ập đến, cô gắng gượng tỉnh táo, cô biết mình sẽ chết nếu buông xuôi. Cô rút chân lên, và trong một tư thế nằm của bào thai cô lăn qua và chống đầu gối. Bò giữa các thi thể nằm sóng sượt trên nền hang, cô bắt đầu xem xét họ cẩn thận từng người một. Tại chân cầu thang cô nhìn lên. Bóng đen của một người lính Mỹ đang đứng ở cửa hang in trên bầu trời xanh. Cô nén một cơn ho và bò trở lại vào bóng tối để tiếp tục cuộc tìm kiếm thống khổ. Khi tìm được chị mình ở phía sau hang thì người chị đã chết.

                Những lời kêu gọi đầu hàng được khuếch đại từ các xe tăng và những con tàu chạy dọc theo bờ biển có hiệu quả hơn là khi ở Saipan và Iwo Jima. Hàng đoàn thường dân và một số đáng kể binh lính bỏ những nơi trú ẩn ngầm chui ra. Trước khi đêm xuống hơn 4,000 dân Okinawa và 800 binh sĩ ra đầu hàng. Binh lính ra ngoài được chỉ dẫn phải cởi bỏ quân phục chỉ mặc khố quấn ngang hông. Một người tiến đến phòng tuyến của Sư đoàn Bộ binh 7, tay cầm gươm. Y đứng nghiêm, chào kiểu nhà binh rồi giao nộp vũ khí của mình cho Trung sĩ Alvin Hannah. Một người khác mang hai cuốn tự điển nhỏ – một cuốn tự điển Anh-Nhật, cuốn kia Nhật-Anh. Sau một chút làm bộ tịch y reo lên vui vẻ,” Tôi, bị đánh bại, khổ sở, nhục nhã, suy đồi.”

                               Khi Ushijima điện đi thông điệp vĩnh biệt của mình cho Bộ Tư lệnh Hoàng gia vào tối ngày 21/6, Cho đang thảo một thông điệp của mình mà ông hi vọng có thể gởi đi bằng tay. “Chiến lược, chiến thuật và cách đánh của chúng tôi đã được khai thác tối đa và chúng tôi chiến đấu anh dũng, nhưng không mấy hiệu quả đối với sức mạnh vật chất vượt trội của kẻ thù,” ông viết, thêm là mình đang từ bỏ cõi đời “mà không hối tiếc, sợ hãi, hỗ thẹn hoặc hàm ơn.”

                Những nghĩa vụ cuối cùng đã hoàn tất, hai vị tướng giờ chuẩn bị cho cái chết. Đại tá Yahara gương mặt u ám xin phép Ushijima được tự sát. Vị tướng dịu dàng nhưng nghiêm khắc từ chối lời thỉnh cầu. “Nếu anh chết sẽ không có ai còn lại để biết sự thật về trận chiến Okinawa này. Hãy gánh lấy nổi nhục nhã tạm thời và cam chịu nó. Đây là lệnh của tư lệnh Quân đoàn.”

                Ngay sau rạng đông ngày 22/6 Ushijima nhờ Higa cắt tóc theo đúng nghi thức lần cuối cùng. Tính khôi hài vẫn không rời khỏi ông. Khi người thợ cạo xoay đầu ông từ bên này qua bên kia, Ushijima nói vui, “Tôi là một cái máy quay có nhân tính.” Đến trưa quân Mỹ đã tiến chiếm phần trên của hang động. Sau một ít giờ vị tướng mở một hộp dứa – món ăn cuối cùng trong hang – và chia sẻ nó với binh lính và dân chúng tình cờ đi qua.

                Vào chiều tối Ushijima và Cho quì gối theo đúng nghi thức bên cạnh nhau. Cho cúi đầu thấp để lộ ra cái ót của mình. Đại úy Sakaguchi, một chuyên gia kendo [kiếm đạo] bậc 5, giơ kiếm chém xuống, nhưng cánh tay phải bị thương của anh dao động và lưỡi kiếm không đi đủ sâu. Trung sĩ Kyushu Fujita giằng lấy thanh kiếm và chặt đứt cột sống của Cho.

                “Dân chúng Okinawa chắc phải oán hận tôi,” Ushijima buồn bã nói khi ông vạch trần bụng dưới của mình và điềm nhiên thọc sâu dao găm vào đó. Cột sống của ông bị cắt lìa và bảy sĩ quan tham mưu của ông tự sát tập thể bằng súng lục.

                Cùng ngày ở bộ tư lệnh Quân đoàn 10 gần phi trường Kadena, các đại diện của Quân đoàn 10, hai quân đoàn và sư đoàn đứng nghiêm khi quân nhạc chơi bài quốc ca Mỹ. Đội quân kỳ kéo lên lá quốc kỳ, chứng tỏ đảo Okinawa đã được chiếm lĩnh.

                Nhưng hàng ngàn binh lính và dân chúng Nhật, vẫn còn lẫn trốn người Mỹ, cuộc thử thách còn lâu mới kết thúc. Shigeru Kinjo 13 tuổi bò ra khỏi hang nơi gia đình cậu đang ẩn nấp và trông thấy lần đầu tiên gương mặt gần kề của kẻ thù. Họ trần truồng từ eo trở lên, ngực lông lá như thú vật. Vậy là tiêu đời, Shigeru nghĩ. Cậu không tin truyền đơn của kẻ thù tuyên bố rằng không tù binh nào bị tàn sát; mà đinh ninh mũi và tai của họ sẽ bị cắt xẻo. Quay về hang cùng với gia đình, đang ngồi rúc sát vào nhau. Một ai đó đập quả lựu đạn vào vách đá để mở chốt và ném nó vào chỗ họ đang ngồi. Shigeru nghĩ là thế giới đã nổ tung. Cậu nghe em mình lẩm bẩm gì đó, rồi em hấp hối.

                “Tôi chưa chết đâu,” ai đó nói và rồi giọng ấy van xin, “Cho nổ nữa đi!”

                Một tiếng nổ thứ hai làm rung chuyển cái hang nhỏ. Những miếng da thịt bắn vào người Shigeru. Vẫn còn một ít người sống sót nhưng không ai xin thêm một quả lựu đạn thứ ba. Ai đó đưa ra ý kiến cắt mạch máu để tự tử, nhưng không ai làm theo. Họ ở lại hang vật vờ suốt đêm. Đến sáng một giọng nói la lên bằng tiếng Anh, “Bước ra!” Gần như tức thì một lon được ném vào hang phun khói trắng mù mịt. Thêm hai lựu đạn cay phát nổ. Ngạt thở, Shigeru bò ra cửa hang, hai chân máu chảy dầm dề. Cậu cảm thấy mình bị nhấc bổng lên lưng một người lính. Tại làng Makabe quân thù (một Thủy quân Lục chiến) đặt Shigeru xuống và mở một lon trai. Lon mang nhãn Nhật nhưng cậu trai chắc mẫm rằng nó có chất độc nên từ chối ăn. Anh lính nói gì đó và rồi cắt cho cậu hai cây gậy tre, và khi cậu trai chống gậy đi cà nhắc đến nơi tập trung cậu thắc mắc khi nào cuộc hành hình mới bắt đầu.

                Một dặm về hướng tây bắc binh sĩ Mỹ đang ra sức quét sạch một mê cung nhiều tầng bằng bom khói trong hơn một tuần lễ. Bên trong chen chúc ít nhất 300 binh lính và dân chúng. Hạ sĩ quan Shikichi Miyagi đã tẩu thoát từ Bán đảo Oroku sau cái chết của Đô đốc Ota để tìm người vợ Betty, một người Hawaii, và đã thành công. Hiện giờ khói trở nên quá ngột ngạt đến nỗi Miyagi – một võ sĩ Karate nổi tiếng nhất Okinawa – phải bồng người vợ bất tỉnh của mình vào sâu trong hang qua lớp bùn ngập đến háng.

                Bùn biến thành một dòng nước và chẳng bao lâu ngập đến vai Miyagi. Nước làm Betty tỉnh dậy, và khi bàn chân không còn chạm đáy được nữa anh trao cho Betty cây nến đang cháy soi sáng đường đi và bơi qua dòng nước, răng cắn chặt cổ áo của Betty. Cứ bơi được vài mét anh lại đặt bàn chân xuống nghỉ nhưng bàn chân chỉ chìm trong lớp bùn nhão dưới đáy khiến anh phải chới với trồi đầu lên khỏi mặt nước. Cơn ác mộng hình như là vô tận – anh không biết đến bao lâu – cho đến khi bàn chân chạm được nền đáy cứng và gân cốt bị hành hạ của anh có thể được nghỉ ngơi. Hai người ráng leo lên bờ. Rồi họ nhận thấy có một cơn gió lạnh buốt – hẳn phải có lối ra gần đây – và trông thấy phía trước có ánh đèn. Đó là ánh nến soi rõ gần nửa chục người bu quanh.

                Cuộc thử thách để lại cho họ một quyết đoán: thà chết trên mặt đất trong ánh sáng mặt trời còn hơn là ngộp thở trong bóng tối. Ở lối vào họ nghe thấy những tiếng nói của lính Mỹ. Betty la lên “Hello!” và nói là mình quê quán ở Hawaii và có người anh đi cùng.

                “Chúng tôi đến đây để cứu các người,” có tiếng đáp lại. “Bước ra đi!”

                Họ ló ra từ miệng hang và thấy mình trong một hẽm cụt, sâu 20 bộ. Bên trên một vòng tròn súng trường đang chỉa xuống. Các sợi dây thừng được thả xuống, đầu kia là một chục lính Thủy quân Lục chiến tay nối tay giữ chặt. Thay vì bị giết gia đình Miyagi được kéo lên khỏi hang. Họ không thể nào tin nỗi những gì đang xảy ra. Binh lính Mỹ, cười toe toét, ấn vào tay họ các khẩu phần K, nước uống và thuốc lá. Một trung úy lắc lắc tay Miyagi. Binh lính ôm choàng lấy họ, cọ má họ với má mình, và rồi bắt đầu mang những can xăng đến miệng hang. Miyagi cố ngăn họ lại. Ra dấu điên cuồng, anh cố giải thích là xăng cháy sẽ giết chết không chỉ binh lính Nhật ở tầng trên mà còn dân chúng ở tầng dưới. Anh tình nguyện đi xuống hang và dẫn dân chúng ra. Mặc bộ đồ lao động của Thủy quân Lục chiến mới toanh, anh tìm đường vào hang qua bọn lính gác Nhật có vũ trang, và thuyết phục 800 dân chúng ra đầu hàng.

                Xa hơn về phía nam, ở tận cuối hòn đảo, trong một bụi gai gần bờ biển, 13 y tá sinh viên người Okinawa do Seizen Nakasone, một giáo viên ở Trường Sư phạm dẫn đầu, chuẩn bị tự sát đêm đó – hàng ngàn thường dân đã tự tử bằng lựu đạn, noi gương không thua sút những người Nhật chính cống và cũng bởi khiếp sợ kẻ thù. Các cô gái ngồi quanh một vòng tròn hát bài “Sayonara” (Tạm biệt), một bài ca ám ảnh do một thầy giáo âm nhạc trẻ sáng tác. Trong cơn khủng hoảng Nakasone tách ra hàng ngũ và sắp xếp mớ ý nghĩa của mình. Thật là vô ích khi không biết chết vì điều gì! Sương đọng trên cành lá lấp lánh dưới ánh trăng, đẹp đẽ và bí ẩn làm sao.

                Lúc rạng đông anh nhận thấy những người Mỹ trong trang phục lao động xanh lá thận trọng tiến tới. Đó là bọn bạch quỷ, vậy mà anh không hề khiếp sợ họ. Tại sao anh và các cô gái kia phải tự tử? Anh đi vội đến các sinh viên của mình và thấy họ đang quây quần một vòng tròn.

                “Thầy Nakasone, chết bây giờ được chưa thầy?” một cô hỏi, tay cầm quả lựu đạn. Ngay từ đầu cô này đã cổ xúy việc tự tự tập thể.

                Nakasone yêu cầu họ đợi thêm chút nữa – anh hi vọng ngăn họ cho đến khi người Mỹ đến. Hai cô trẻ nhất mếu máo gọi mẹ và được phép rời khỏi vòng người. Một lần nữa cô gái với quả lựu đạn lại hỏi đã đến giờ chết chưa. Và một lần nữa Nakasone bảo đợi. Anh đi về hướng bãi biển để đón kẻ thù. Một lính bộ binh viết “Thức ăn – Nước uống” trên một tờ giấy. Nakasone, đi sau là các bộ binh, trở lại chỗ các cô gái và cố thuyết phục họ là người Mỹ, đang bắt đầu tiến vào, sẽ không làm hại họ gì hết. Nhưng họ vẫn khiếp sợ “bọn quỷ ngoại bang” cho đến khi họ nhận thấy một người lính một tay ôm súng một tay bồng một bé sơ sinh và không ngừng vỗ về, “Bé ơi, đừng khóc.” Từng người một các cô rời vòng tròn  – tất cả trừ cô gái cầm quả lựu đạn. Nakasone giật nó khỏi tay cô. Cô phóng nhanh ra biển và quăng mình xuống nước. Binh lính kéo cô vào, bị san hô cắt chảy máu vậy mà cô vẫn vùng vẫy. Nakasone những tưởng mình là người Okinawa duy nhất ra đầu hàng, đơ người vì hỗ thẹn. Nhưng ít ra anh cũng cứu sống được các sinh viên của mình.

                Nhưng Nakasone còn lâu mới là người duy nhất. Trong tuần lễ sau đó ít nhất 3,000 người lính và công binh nghe theo lời kêu gọi của Hạ sĩ quan Miyagi và những người tình nguyện Nhật Bản khác như anh hết lần này đến lần khác đi sâu vào các hang động để cứu các đồng đội của họ. Những ai khăng khăng khước từ sẽ bị súng phun lửa và bom nổ trừng phạt. Trong cùng thời gian đó, 9,000 binh sĩ đã bị tận diệt.

                Vào ngày 2/7 chiến dịch Okinawa chính thức được tuyên bố kết thúc. Trong gần đúng ba tháng Mỹ đã mất 12,520 bộ binh, Thủy quân Lục chiến và lính thủy, chết hoặc mất tích. Đó là tổn thất lớn nhất trong mặt trận Thái Bình Dương.

                Người Nhật mất 110,000 binh sĩ. Thêm vào đó, thương vong của dân thường lên đến một mức độ chưa từng có. Bị kẹt giữa hai quân đội, xấp xỉ 75,000 đàn ông, đàn bà và trẻ con vô tội bị giết chết. Và sự hi sinh của họ là vô ích. Người Nhật đã thua một trận chủ yếu cuối cùng mà họ có thể chiến đấu bên ngoài đất mẹ.

16171819202122

 

Những Kẻ Lạc Loài

 

1.

                Có nhiều kẻ lạc loài tập trung trên đảo Iwo Jima nhiều hơn bất kỳ đảo nào khác ở Thái Bình Dương. Khi Iwo Jima chính thức tuyên bố an toàn vào giữa tháng ba, Thủy quân Lục chiến ước tính có không tới 300 người Nhật còn ở lại hang động, thật ra có gần 3,000. Những người cuối cùng mò ra khỏi hang trong đêm tối lén lút tìm kiếm lương thực hoặc một hang an toàn hơn sẽ bắt gặp một cảnh tượng không nhận ra được. 7,000 công binh Ong biển đã san ủi 20 dặm đường xá, dựng lên những khu nhà rộng rãi, xây đê chắn sóng và bến tàu, và san bằng cao nguyên trung tâm gần Motoyama để làm đường băng dài 10,000 bộ (khoảng 3 km), đường băng dài nhất ở Thái Bình Dương. Những kẻ ăn đêm thường chạm mặt nhau lúc đêm khuya mà không trao đổi với nhau lời nào, nhưng khi trăng tròn (một thời khắc thân thương đối với người Nhật) họ sẽ âm thầm hồi tưởng về quê nhà, gia đình và các món ăn – và cuối cùng tự hỏi mình sẽ chết ra sao: hara-kiri hay tấn công tự sát.

                Trốn thoát khỏi Iwo Jima thực sự là điều bất khả nhưng cũng có người táo bạo đã làm thử. Ohno, trung úy Hải quân trẻ tuổi đã thoát chết trong đường tơ kẻ tóc khi công sự bị đánh mìn, là một trong số này; anh vẫn còn nuôi mộng trở thành một doanh nghiệp hay nhà ngoại giao. Vào ngày 2/4 anh đã chế một la bàn bằng cách từ hóa một kim bằng sáp với  một nam châm trong một máy điện đài, và cùng với 4 người khác thu thập đủ vật liệu để làm một chiếc bè – 18 thanh ván dài 18 bộ, những thùng nước rỗng, và nửa chiếc lều nhà binh Mỹ để làm buồm và nửa kia được xé ra từng mảnh để làm dây thừng – và cặm cụi chôn nó trong cát để đêm không trăng đầu tiên vừa đến là có thể đào lên ráp lại nhanh chóng. Họ hi vọng sẽ dong buồm về hướng bắc với tốc độ 6 hải lý và trong 12 tiếng có thể gặp dòng hải lưu Kuroshio quét qua Nhật Bản.

                Vào một đêm hoàn toàn tối mù đầu tiên họ vội vã ra bãi biển mang theo thực phẩm và nước uống, và bắt đầu ráp chiếc bè. Họ ước tính sẽ mất hai giờ, nhưng đến lúc họ dựng xong cột buồm và buộc được nửa mái che trú mưa nắng thì đã đến nửa đêm. Quá trễ, Kitagata nói. Anh trước đây là một ngư phủ ở Hokkaido, biết cách lái thuyền. Hơn nữa, sóng đang cao. Anh định hoãn lại thì Ohno rút thanh kiếm và đe dọa giết anh.

                Hì hục đẩy chiếc bè kềnh càng qua các con sóng cao 6 bộ đập vào bờ đều đặn. Cách bờ ba mươi ya, một con sóng sừng sững đập tan chiếc bè. Ohno thấy mình trơ trọi và bị ngất xỉu. Anh tỉnh dậy trên bãi biển. Kitagata đang nhìn xuống anh trân trân oán trách. Một thành viên trong nhóm nằm sóng xoài trong tàn tích của chiếc bè; đầu y bị vỡ ra. Những người còn sống chôn cất y trong cát rồi buồn rầu trở lại hang, mọi hi vọng trốn thoát đều tiêu tan.

                Trong một hang ở chân Núi Suribachi, 22 người sống sót cuối cùng của trận đánh đó đã chịu đựng mọi thứ. Không súng phun lửa hoặc xăng đốt nào có thể làm họ chui ra, nhưng khi nước biển từ vòi ào ạt đổ vào, họ bắt buộc phải trồi lên. Binh nhì Kiyomi Hirakawa là người áp chót đi ra và miệng hang sụp xuống khi anh chỉ mới ra phân nửa mình. Anh vùng vẫy thoát khỏi lớp cát nhưng bị người cuối cùng nắm chặt chân anh ghì lại. Hirakawa được giật ra bình yên bởi những người đã thoát ra trước, và khi anh đào bới một cách vô vọng để cứu người không may bên dưới, thì họ đã mất tăm về hướng bãi biển. Hirakawa kiên nhẫn ngồi đợi cho đến bình minh, nhưng chỉ có 5 đồng đội trở lại. Họ đã bị quân thù mai phục. Bốn người trong nhóm lại xuống hang nhưng người thứ năm và Hirakawa quyết định ở lại nơi thoáng khí và kết thúc sự sinh tồn trong ác mộng bằng lựu đạn.

                Bình minh thật đẹp, biển một màu xanh thẩm, cỏ lấp lánh sương đêm. Họ bắt gặp một mẩu thuốc lá mà một người lính bộ binh Mỹ nào đó đã quăng xuống – Bộ binh đã đến thế Thủy quân Lục chiến. Họ đốt thuốc bằng hộp diêm của Mỹ và khom mình xuống sau một tảng đá để thay phiên nhau rít thuốc. Cách đó không đầy 20 ya những bộ binh Mỹ bắt đầu đổ ra lều để tắm và đánh răng. Họ chú ý thấy khói thuốc bay lên từ phía sau tảng đá. Họ ra dấu cho hai lính Nhật bước ra. Nhưng Hirakawa và bạn không nhúc nhích, họ chờ cho có tên lính Mỹ nào đến gần sẽ chết chung với chúng bằng lựu đạn duy nhất còn lại.

                Vài người lính Mỹ thận trọng bước đến gần và ném hai điếu thuốc đã đốt đến gần tảng đá. Hirakawa vươn lấy phần của mình – điếu thuốc nguyên vẹn đầu tiên trong hơn một tháng. Hai bao thuốc lá lại được ném đến dưới chân họ. Chắc mẫm là mình sẽ chết bất cứ lúc nào, hai kẻ lạc loài hút cuống cuồng điếu này đến điếu kia. Hai quả táo lăn đến chân tảng đá. Hirakawa, đã thấy chóng mặt vì hút quá nhiều, nhai ngấu nghiến nhưng không nếm thấy mùi vị nào cả.

                Một người lính Mỹ bắt đầu tiến chầm chậm về phía họ với hai lon bia. Đây là tiệc chiêu đải cuối cùng trước khi chết đây mà, Hirakama nghĩ, và đưa tay cầm quả lựu đạn. Anh lính dừng lại cách họ khoảng 15 bộ (khoảng 4.5 mét). Anh đặt xuống hai lon và ra dấu bảo họ uống. Anh quá xa để có thể bị lựu đạn giết chết. Hai người lính Nhật tiến về phía trước khiến anh lính Mỹ lùi lại. Hirakawa nâng lon lên miệng. Đó là nước! Thật là nước cam lồ sau khi chỉ được uống nước nhỏ giọt hôi mùi lưu huỳnh trong suốt thời gian sống trong hang.

                Trong lúc hai người đứng phân vân thưởng thức nước uống, một khóa sinh Nhật trong quân phục Mỹ chạy đến còn thở không ra hơi. Y bảo họ là ở Nhật toàn bộ quân đồn trú trên Iwo Jima đã được lên danh sách tử trận. “Tại sao chúng ta phải chết hai lần?” anh thanh niên lập luận. “Như thế thật là vô lý.”

                Cuộc sống bổng nhiên hóa thành khả dĩ với Hirakawa. Mình đã “chết”, anh lý luận, và bây giờ có cơ hội được sống lần thứ hai, gần như là sự tái sinh.

                Hai người liền đầu hàng. Họ được tắm rửa và cho mặc bộ đồ lao động sạch sẽ, và họ không tin vào mắt mình khi một bác sĩ Mỹ dịu dàng băng bó chân một người lính Nhật, mặc cho máu và mũ lấm vào đồng phục bác sĩ của mình. Không bác sĩ Nhật nào sẽ làm như thế, Hirakawa nghĩ. Sau chuyện này làm sao anh có thể sợ người Mỹ cho được? Thật là phí công, những tháng khủng khiếp đã qua trong hang động, anh nghĩ. Tại sao có quá nhiều người chúng ta phải chết một cách vô ích như thế?

                Sự xui rủi còn bám theo Trung úy Ohno. Hai người của anh – Yamakage và Matsudo – một buổi tối đã ra đi tìm thức ăn và quân nhu nhưng không hề trở lại, và giờ chỉ còn mình anh với Kitagata. Những giờ khắc gần như là bất tận khi họ cam chịu tù túng cô đơn trong hang, thỉnh thoảng cắt ngang bằng những tiếng nổ chói tai của những quả lựu đạn mà lính tuần tra Mỹ đi qua hờ hững ném xuống. Hai người trốn tránh ở quá gần đội công binh Ong biển đến nỗi họ có thể nghe được tiếng nhạc jazz phát qua loa, và có một lần họ chắc mẫm là bị phát hiện khi bên trên bọn Mỹ đang tán gẫu mà dưới này Kitagata xì hơi rõ to và dài.

                Họ vẫn ôm ấp một hi vọng hão huyền: Nhật sẽ phát động một trận tổng phản công từ biển vào ngày 27/5, Ngày Hải Quân. Sáng hôm đó họ ăn mừng bằng số thực phẩm đánh cắp còn lại – một hộp thịt và trứng và nước ép trái cây – và tin tưởng ngóng đợi giờ này qua giờ khác sự xuất hiện của Hạm đội Hổn hợp. Khi bầu trời tối sầm, thì tinh thần họ cũng tối đen. Họ đăm chiêu suy nghĩ hai ngày trời và rồi hồ hỡi rời khỏi hang động, mỗi người trang bị ba quả lựu đạn và một quyết tâm bán cái chết của mình với giá cao nhất có thể. Đảo tối tăm có vẻ hoang vắng cho đến khi họ chạm trán với hai bộ binh Mỹ lang thang. Trước khi Ohno có thể giật chốt quả lựu đạn thứ nhất thì họ đã hốt hoảng bỏ chạy. Nhìn kỹ hóa ra hai “bộ binh Mỹ” kia chính là lính của anh, Yamakage và Matsudo.

                Họ trở lại hang với nỗi thất vọng và ngủ thiếp đi. Ohno bổng giật mình vì có tiếng rít. Lưu đạn! Anh giật tấm chăn và mới chỉ che được phân nửa cơ thể thì nó phát nổ. Lúc đầu anh tưởng mình lành lặn, rồi anh nhìn thấy quần áo mình ngún khói. Quả lựu đạn lưu huỳnh đã phun như mưa lên người anh những đốm lửa đỏ nóng. Anh phủi quần áo như điên, những mảnh nhỏ dính vào ngón tay. Đau đớn anh vùi ngón tay phỏng rát dưới cát. Môt túi thuốc nổ lại được ném vào qua miệng hang. Hai người bị cơn chấn động đẩy té xuống đất. Qua làn khói tan dần họ thấy miệng hang nổ toác rộng ra. Ohno, một tay cầm kiếm, một tay nắm chặt quả lựu đạn, lao mình về phía trước. Kitagata chộp anh lại. “Vô ích thôi,” y thều thào.

                Tiếng gầm rú của động cơ và tiếng bánh răng nghiến đi trước một trận lở đất. Rồi mọi vật đều tối sầm. Họ đã bị chôn vùi bởi một xe ủi đất. Họ bò về lối ra khẩn cấp và đến chiều tối họ lại lên mặt đất với 6 quả lựu đạn mang theo. Một phức hợp các lều trại mọc lên như nấm một cách thần kỳ gần đó và Kitagata cho rằng lựu đạn không đủ cho một cuộc tấn công đúng nghĩa. Anh muốn tìm thêm mìn đã chôn vùi trong trận đánh. Sau năm giờ đào bới họ vẫn tay không. Giờ Kitagata không muốn cùng anh tấn công, nhưng Ohno vẫn cương quyết kết thúc mọi chuyện ngay trong đêm đó. “Cậu chỉ cần một quả lựu đạn để tự sát,” anh nói. “Đưa tôi hai quả kia đi.”

                Kitagata cũng không chịu. Khom mình dưới lớp sương mù trước bình minh, Ohno xoa khắp mình mẫy bằng kem đánh răng và xà bông Lux lấy trộm để anh có mùi của một người Mỹ. Khi anh treo một vòng ba quả lựu đạn quanh cổ anh nói, “Hẹn gặp nhau tại Đền Yamakuni.” Anh bắt đầu bò về hướng hàng rào kẻm gai bao quanh trại lính. Gần cổng anh đưa tay ra sau lưng định rút thanh kiếm nhưng nó đã rớt ra khỏi vỏ từ lúc nào; anh chửi thề sao mình không gặm kiếm giữa hàm răng như các lính đặc công trong phim ảnh.

                Trong bóng tối lờ mờ anh tin là mình có thể đánh lừa lính gác với “mùi Mỹ” của mình. Nhưng không có lính gác để đánh lừa. Anh nhặt một hòn đá để đánh chốt lựu đạn và tiến về căn lều lớn nhất, bao quanh bởi các màn chắn. Anh ló đầu nhìn vào bên trong – một gian phòng ăn. Bò đến căn lều tiếp theo, anh thận trọng cuộn vải lều lên. Một người đàn ông ở trần, đang nằm trên võng cách anh vài bộ, đang gãi bộ ngực lông lá của y một cách ngái ngủ. Ohno đánh chốt và đợi tiếng rít. Rõ ràng ngòi nổ đã ướt sau vài tháng nằm trong hang ẩm thấp. Anh thử quả thứ hai. Lần này có tiếng rít ngắn ngủi rồi ngòi nổ xì ra tắt ngấm.

                Anh cột hai quả thối vào quả thứ ba. Một lần nữa không có gì xảy ra. Anh bực tức đến rưng rưng nước mắt. Không có vũ khí nào trong lều, thậm chí dụng cụ đào hố cũng không. Loại lính gì thế? Trời đã bắt đầu rựng sáng và anh lẻn vào trong một căn lều khác. Hai trong bốn chiếc võng dã chiến đã có người nằm – nhưng không có súng. Ai đó đang tiến đến, miệng huýt sáo. Ohno ngồi thụp xuống sau một chiếc võng trống ngay trước khi người húyt sáo, một người cao to vạm vỡ, bước vào lều. Y đi đến ngay chiếc võng mà Ohno đang ẩn núp. Biết mình thế nào cũng bị phát hiện, Ohno chồm lên – một hiện thân hải hùng của bộ tóc rắn của ác nữ Medusa. Tên lính Mỹ to xác chạy bổ ra khỏi lều với tiếng hét thất thanh. Hai lính Mỹ trên võng nhảy chồm lên người Ohno và xiết chặt anh cho đến khi anh chàng huýt sáo trở lại với nửa tá binh sĩ có vũ khí. Thất thủ, đợi bị bắn, Ohno hỏi anh chàng huýt sáo bằng tiếng Anh bập bẹ tên anh ta – đó sẽ là một câu chuyện thú vị để kể lại trên Thiên đường. Gã to xác, mặt còn tái mét, miễn cưỡng lẩm bẩm “Bill.” Các anh lính Mỹ khác òa lên cười. Một người nói, “Làm ơn,” và thản nhiên ra dấu bảo anh đi theo. Không hiểu tại sao, Ohno có cảm tưởng như mình vừa tìm được những người bạn mới. Anh quay sang Bill và nói, “Gary Cooper thế nào rồi?” *

  • Gary Cooper là một tài tử gạo cội của điện ảnh Mỹ những năm 1940-50, chuyên đóng vai các chàng cao bồi miền Tây. Vào ngày 30/11/1946, nhúm tro cốt của Ohno được mang về cho cha anh. Cùng ngày đó, Ohno bằng xương bằng thịt về đến nhà sau gần một năm rưỡi bị giam ở Hawaii. “Thật là một ngày diệu kỳ!” cha anh kêu lên khi họ cúi đầu. “Thình lình tôi có đến hai con trai.”

 

                Không xa nơi Ohno đang thưởng thức cà phê và bánh nóng, Trung úy Satoru Omagari, người đã mất hai ngày trời cố làm nổ tung chính mình với chiếc xe tăng, một lần nữa lại tự sát thất bại – lần này anh đút nòng súng lục vào miệng và bóp cò. Chỉ nghe tiếng clíc. Từ lâu anh đã cho phép binh lính đi đầu hàng, nhưng ít có ai nghe theo. Đó sẽ là nỗi ô nhục vĩnh viễn cho dòng dõi một nam nhi, và chính anh sẽ trở thành một musekimono (một tên bị ruồng bỏ), người mà tên tuổi của y sẽ bị xóa vĩnh viễn khỏi gia phả của gia tộc lẫn hồ sơ tư pháp của làng xã. Về pháp luật y không còn tồn tại và cách duy nhất kiếm việc làm là bỏ đi và thay bằng một tên khác.

                Thậm chí Omagari cũng cho phép chính mình xét đến việc đầu hàng, nhưng là một sĩ quan anh hiểu rằng một hành động như thế có thể bị xử tội chết sau chiến tranh. Bị người Mỹ săn đuổi từ nơi ẩn trốn này đến nơi ẩn trốn khác, anh quyết định dẫn người mình trở lại hang Hàng không Hải quân, mà những người đang chiếm giữ canh chừng lối vào chống lại người Nhật cũng như người Mỹ. Hikocho [đội trưởng] của họ, một trung úy, và bộ tham mưu của anh ta không chịu chia sẻ cái hang rộng thênh thang của họ và kho dự trữ dồi dào thực phẩm và nước uống với bất kỳ ai.

                Hiện giờ là ban đêm và nhóm Omagari bất ngờ tìm cách xông vào cửa hang, làm bọn lính canh trở tay không kịp. Có ít nhất 150 lính thủy trong cái hang nhiều ngóc ngách và họ vây quanh những người đột nhập, tò mò muốn biết tình hình trên mặt đất thế nào – ít có người nào nhìn thấy ánh sáng ban ngày trong hai tháng vừa qua. Họ bị khủng bố bởi kỷ luật hikocho; những người mới nhập ngũ được phái ra ngoài một cách có hệ thống để thi hành những sứ mạng tấn công và không được phép trở lại, e rằng có thể “gây chú ý với địch về vị trí hang”. Họ mong muốn Omagari loại bỏ viên chỉ huy của họ. Có lẽ anh nên khuyến khích hviên trung úy đánh cắp một máy bay Mỹ để thoát ra khỏi đảo – một kế hoạch mà hikocho xem xét không chán.

                Y hào hứng nói với người mới đến về kế hoạch của mình, và sự cổ vũ của Omagari nghe chân thật đến nỗi viên trung úy và bốn bộ hạ rời khỏi hang để tìm máy bay. Sự ra đi của họ được ăn mừng bằng các bài hát, sake và uýt ki, nhưng cuộc chè chén bị cắt đứt bởi những tiếng náo động ở lối vào phía sau của hang. Nhóm hikocho đang ầm ĩ la ó đòi trở vào hang – họ đã nhanh chóng nhận ra rằng không có cách nào tiếp cận đường băng. Họ bị nhóm người mới nhập ngũ giận dữ chặn lại. “Chính anh đã ra luật là ai đã đi thì không được trở lại,” một người hét lên.

                Giờ là sĩ quan cao cấp mới của họ, Omagari bảo các lính thủy, như đã từng nói với binh lính mình trước đây, là cứ để mặc họ. Cuộc sống trong hang trở nên dễ chịu với sự bốc hơi của kỷ luật quân đội. Trong cái nóng hầm hầm các ông tự do trần truồng, nhưng các sĩ quan, để giữ chút thể diện, chỉ mặc khố.

                Trong vòng vài ngày, lính Mỹ đã phát hiện ra hang. Lựu đạn và bom khói khiến các người chiếm đóng phải chạy đến chỗ sâu hút nhất trong hang. Khi cường độ tấn công lên cao, một nhóm đông quyết định đào thoát khỏi đảo bằng bè. Ngay lập tức họ bị túm lại, và một số được thả trở vào hang vận động những đồng đội khác ra đầu hàng. Lời kêu gọi thất bại và cuộc tấn công tiếp tục. Omagari được loa phóng thanh nêu tên: “Tôi muốn nói chuyện với anh. Bạn có ra không?” Đó là tiếng một sĩ quan bạn bè nhưng Omagari phớt lờ. Một người Mỹ lấy mi-crô và thông báo là hang sẽ bị làm ngập nước vào ngày hôm sau.

                Các lính thủy không chịu tin là có đủ nước trên đảo để làm ngập hang. “Cứ để chúng đổ,” một ai đó rống lên. “Tụi mình sẽ uống hết!” Khi nước biển được bơm vào hang mọi người chạy nhốn nháo lên các đường hầm cao hơn. Rồi nghe tiếng “rùm”, lửa chạy tràn qua thác nước; xăng đã được bơm vào nổi lên mặt nước và bắt lửa. Chỉ những ai chạy được lên chỗ cao nhất mới thoát chết.

                Ngày hôm sau một luồng ánh sáng vàng rọi khắp hang đang bốc khói. Omagari vội chụp lấy cây súng máy nhẹ, rồi nhận ra đó là một hạ sĩ quan dưới quyền mình đang cầm chiếc đèn pin. Y ăn mặc quân phục Mỹ. Thêm hai người Nhật nữa, cũng mặc đồng phục lao động của lính Mỹ, tiến đến. Họ có thuốc lá, họ được kẻ thù đối xử tử tế, cho biết có nhiều tù binh Nhật, kể cả một thiếu tá. Rồi họ bỏ đi để đồng bào của mình tự quyết định. Không ai nói gì cho đến khi một lính thủy cất tiếng, “tôi nghĩ mình sẽ đi ra.”

                “Nếu cậu muốn sống,” Omagari nói, “hãy đầu hàng.” Từng người một họ cúi đầu chào như một lời cáo lỗi và lần lượt ra khỏi hang. Cuối cùng chỉ còn Omagari ở lại cùng với một người bạn cũ, Thiếu úy Kakuta, đang bị thương nặng.

                “Chúng ta phải làm gì?” Omagari hỏi bạn.

                Kakuta đang mê sảng và nói như một người điên cho đến khi Omagari đề nghị họ cùng chết một lượt. “Tôi không muốn chết,” Kakuta la lên trong một thoáng tỉnh táo.

                Omagari cũng không muốn chết. Nhưng anh không thể nộp mình cho kẻ thù mà người trần truồng như thế. Anh tìm được một súc vải bông loại dùng làm khố quấn ngang bụng, rồi bỏ lại Kakuta, anh bò ra khỏi hang, súng lục cầm tay. Nửa tá lính Mỹ, cười toe toét, tiến về phía anh. Một thiếu úy mặt còn hôi sửa giơ tay ra.

                “Gượm đã,” Omagari nói bằng tiếng Nhật. “Tôi là sĩ quan và cần phải ăn mặc tề chỉnh trước khi gặp ông.” Anh xấu hỗ quay lưng, xé đứt một khúc dài sáu bộ từ súc vải và quấn một chiếc khố tự chế một cách khéo léo. Rồi anh cũng giơ tay ra.

                Anh vẫn giữ vẻ điềm tỉnh cho đến khi tắm táp xong, thì anh mới suy sụp. Đó là lần đầu tiên mà anh khóc. Anh không chịu nói và ăn không thấy ngon. Sau buổi ăn chiều các tù binh khác ồn ào ăn mừng sự sống lại của mình bằng những bài hát tục tĩu. Anh chê bai cách xử sự của họ, và nỗi buồn bực lên đến độ anh muốn chết cho rồi. Anh thề rằng sau khi trở lại hang vào buổi sáng để mang Kakuta ra, anh sẽ tự sát. 

                Anh sai lầm khi thổ lộ kế hoạch của mình cho một sĩ quan bạn bè, và người này liền báo cho lính Mỹ. Omagari bị quản thúc để canh chừng. Như Yasunori Aoki, phi công kamikaze, anh cắn lưỡi, tự xiết cổ bằng tay mình, nhưng tất cả đều thất bại. Phải mất nhiều tuần trước khi cuối cùng anh chấp nhận nỗi ô nhục của kẻ đầu hàng.

                Nhưng hàng trăm kẻ lạc loài khác trên Iwo Jima không thể chấp nhận việc nộp mình. Mà họ cũng không dám tự xử hara-kiri. Họ tiếp tục sống chui rúc bên dưới lớp vỏ của hòn đảo nhỏ bé này như những hồn ma trên một hành tinh xa xăm. Trong số đó có hai người của Ohno – Yamakage và Matsudo. Sáu năm sau họ là người cuối cùng trong đạo quân đồn trú ở Iwo Jima ra đầu hàng. *   

  • Họ trốn đến năm 1951. Yamakage trở lại Iwo Jima với Stuart Griffin, một sử gia ở Căn cứ Không quân Tachikawa và sau này là nhà bình luận cho tờ Họ đến để tìm lại tập nhật ký mà Yamakage khăng khăng nói mình đã giữ gìn trong 5 năm. Hai người lục soát có hệ thống hang động cuối cùng của Yamakage, nhưng không tìm thấy gì. Griffin bày tỏ mối nghi ngờ là chưa chắc có tập nhật ký. Chiều đó Yamakage biến mất để tiếp tục đi tìm sổ tay. Sáng hôm sau ông trở lại thất vọng, hai bàn tay bị cào xước.

                        Ngay trước giờ phi cơ cất cánh để trở về, Griffin và Yamakage bị thôi thúc phài đến đỉnh Núi Suribachi để chụp ảnh. Tại đỉnh Yamakage bắt đầu quét cặp mắt trên mặt đất. Ông dừng lại, quay về sau và chầm chậm bước trở lại. Rồi ông bắt đầu nhảy cẫng về phía bờ vực nhìn ra biển. Ông bước nhanh hơn, giơ hay cánh tay lên không, hét lên điều gì đó và nhảy xuống. Griffin chạy tời bờ vực. Có một bậc đá vươn ra cách bờ vực 20 ya bao phủ bởi cát, và ông nhận thấy lớp cát bị quét đi như vừa có vật gì trượt lên nó. Khuất tầm mắt, 100 ya bên dưới trên một bậc đá khác, là thi thể của Yamakage.

                                Ông và Matsudo chẳng phải là những kẻ lạc loài cuối cùng ở Thái Bình Dương ra đầu hàng. Sáu năm sau người ta tìm thấy những         người khác từ Saipan đến Mindoro. Hai người lính trên đảo Guam đầu hàng gần như 16 năm sau khi hòn đảo đó được giải phóng. Có lẽ còn có người khác nữa sẽ ra; họ đã được báo cáo ở Phi Luật tân, Tân Guinea và Guadalcanal.         

             

Bình luận về bài viết này