Quá trình dựng đặt các đơn vị hành chính tỉnh Hòa Bình

bando-002a.jpg

Khổng Đức Thiêm

Xét thấy dân Mường ở vùng núi phía Tây đồng bằng và các tỉnh miền Nam Bắc Kỳ từ xưa vẫn được đặt dưới một chế độ hành chính đặc biệt, vì vậy, để có thể ngăn chặn một cách hiệu quả sự xâm nhập của kẻ nghịch nhằm giữ nguyên trong chừng mực nhất định tình trạng nói trên cũng như bảo tồn phần nào nền tự trị của các xứ Mường, ngày 23 tháng 5 năm Đồng Khánh thứ nhất (tức 22/6/1886), quyền Kinh lược sứ Bắc Kỳ Nguyễn Trọng Hợp đã ký Nghị định về việc thành lập tỉnh Mường. Ngày 27/7/1886 Tổng Trú sứ Trung – Bắc Kỳ Paul Bert  ra Nghị định cho phép thi hành.

Lúc này, tỉnh Mường đặt tỉnh lỵ tại phố Chợ Bờ thuộc địa phận tổng Hiền Lương, châu Đà Bắc, do đó nhiều tài liệu gọi đơn vị hành chính mới này là tỉnh Chợ Bờ.

Theo Pierre Grossin trong Tỉnh Mường Hòa Bình (Hoa Binh Muong province) thì khi mới thành lập, tỉnh Mường chia thành 4 phủ tương ứng với địa phận của người Mường ở 4 tỉnh Sơn Tây, Ninh Bình, Hà Nội và Hưng Hóa.

Tại tỉnh Sơn Tây, tách ra một khu vực lập nên phủ Vàng An [viết đúng là Vạn An hoặc Vạn Yên], huyện Đức An, có lỵ sở tại Thủ Phay [viết đúng là Thủ Pháp – một xã thuộc tổng Thủ Pháp thuộc huyện Bất Bạt, phủ Quảng Oai với 7 tổng Tinh Nhục [viết đúng là Hoằng NhuệBất Bạt],  Vũ Vô (viết đúng là Tu Vũ – Bất Bạt], Cao Phong, Cẩm Đới [Bất Bạt], Mỹ Khê, Bối Sơn [Tùng Thiện, Quảng Oai] và Yên Lãng [viết đúng là Yên Kiện – một tổng khi đó thuộc huyện Mỹ Lương, phủ Quốc Oai).

Tại tỉnh Ninh Bình chuyển huyện Lạc Yên thành phủ Lạc Sơn, gồm cả huyện Lạc Thủy. Phủ Lạc Sơn gồm 4 tổng Lạc Thiện, Lạc Nghiệp, Lạc Đạo, Lạc Thành; huyện Lạc Thủy gồm 3 tổng An Lạc, An Bình, An Nghĩa.

Tại tỉnh Hà Nội, chuyển toàn bộ vùng Mường Mỹ Đức lập thành phủ Lương Sơn, lỵ sở đóng tại Kỳ Sơn, gồm 6 tổng Kim Bôi, Dã Cát, Hòa Lạc [tên cũ là Yên Lạc] Phương Hanh [tên cũ là Phương Hương], Lý Lương [viết đúng là Mỹ Lương], Thành Dương [viết đúng là Minh Lương].

Tại tỉnh Hưng Hóa, lập phủ Chợ Bờ gồm toàn bộ 5 châu Đà Bắc, Mai Châu, Mộc Châu, Yên Châu, Phù Yên.

Như vậy, tỉnh Mường ban đầu rộng gấp mấy lần khi tỉnh này được định hình lần cuối.

Về sự kiện này, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ tục biên (Q.3, tờ 15 a) cho rằng, Nguyễn Trọng Hợp trong tờ Nghị tâu xin việc đem những vùng hầu như chỉ có người Mường thuộc các châu Lạc Yên (tên cũ là Lạc Thổ), Lạc Thủy của tỉnh Ninh Bình cùng các vùng đất thuộc phủ Mỹ Đức của tỉnh Hà Nội và của tỉnh Sơn Tây hợp thành phủ Lương Sơn và châu Kỳ Sơn của tỉnh Mường. Ở đây, các Sử quan của Quốc sử quán triều Nguyễn đã bỏ sót một khu vực quan trọng được hợp nên từ các châu của tỉnh Hưng Hóa.

Ngày 29/11/1886, quyền Tổng Trú sứ Trung – Bắc Kỳ Paulin Francois Alexandre Vial ban hành Quyết định di chuyển tỉnh lỵ của tỉnh Mường từ Chợ Bờ về Phương Lâm (tổng Hoằng Nhuệ, phủ Vàng An). Tháng 4/1888, tỉnh Mường được gọi là tỉnh Phương Lâm, bãi bỏ các đơn vị hành chính cấp phủ và thay thế bằng các đạo. Tuy nhiên, theo Pierre Brossin, việc trú ngụ ở Phương Lâm gặp gay go vì thời tiết ở đây nóng lắm, nạn lụt hàng năm đã gây tai họa cho khu trung tâm của tỉnh, khí hậu lại không được trong lành. Ngay từ đầu các ông Phó sứ Moulié De Goy, Du frénil đã tuyên bố chuyển lỵ sở trở lại Chợ Bờ. Việc di chuyển đã được quyết định theo Nghị định ngày 27/12/1888. Trước đó, ông đã đi khắp tỉnh và đã tự mình sắp đặt các Quản đạo đứng đầu các vùng tương ứng. Các đạo vùng Mường thuộc tỉnh Sơn Tây cũng được sắp đặt.

Cùng với việc di chuyển tỉnh lỵ về địa điểm ban đầu, nhà cầm quyền Pháp còn tiến một bước trong việc định hình lại tỉnh Mường. Trước hết, phủ Vàng An bị bãi bỏ. Các tổng Tu Vũ, Cẩm Đái, Bối Sơn, Mỹ Khê, Yên Kiện được trả lại cho Hưng Hóa và Sơn Tây tạo ra sự xáo trộn mới vì 13 làng này không muốn chịu sự cai trị của các viên quan lại đương thời của tỉnh ấy, ông Phó sứ Moulíe đã phản đối việc sáp nhập tổng Tu Vũ có người Mường cư trú vào tỉnh Hưng Hóa và chính những người dân có quê hương bản  quán ở đó vẫn muốn mình là người của tỉnh Mường (Piere Grossin). Đồng thời, các châu Phù Yên, Mộc Châu, Yên Châu cũng trở về tỉnh Hưng Hóa để chuẩn bị nhập vào Đạo quan binh Sơn La, đổi đạo Mỹ Đức làm phủ Mỹ Đức theo lời tâu của Kinh lược sứ Bắc Kỳ: Năm trước trích 2 huyện Hoài An, Chương Đức ở tỉnh Hà Nội và huyện Mỹ Lương tỉnh Sơn Tây, đổi làm đạo Mỹ Đức để làm phía sau cho tỉnh Sơn Tây, Hà Nội. Nay đã đặt tỉnh mới Phương Lâm, để phòng thủ phía rừng các tỉnh Sơn Tây, Hưng Hóa, Ninh Bình và phủ Mỹ Đức, Các thổ dân đều trích theo quan tỉnh mới quản trị; 3 huyện ở đạo ấy, chỉ còn ít dân Kinh, nên chiều theo địa thế, cho đổi lệ thuộc, để đỡ phiền phí. Về đạo Mỹ Đức, xin đổi làm phủ, trích 4 tổng Tuy Lai, Quảng Xá, Bột Xuyên, Vân Nội thuộc huyện Chương Đức và 4 tổng Thái Bình, Phù Lưu Thượng, Phù Lưu Tế, Trinh Tiết thuộc huyện Hoài An, cộng 8 tổng đổi làm huyện Yên Đức, lệ thuộc vào phủ mới kiêm lý; còn 3 tổng Bài Thượng, Văn La, Quảng Bí thuộc huyện Chương Đức cùng 6 tổng Lương Xá, Chúc Sơn, Cao Bộ, Dã Cát, Phương Hạnh và Yên Kiện, thuộc huyện Mỹ Lương, sáp nhập vào huyện Chương Đức, đổi làm huyện Chương Mỹ, thế là cả phủ hạt mới, đều thuộc tỉnh Hà Nội[1]. Bằng  việc làm này, các phủ Lạc Sơn, Lương Sơn và Chợ Bờ cũng bị thủ tiêu.

Tháng 1-1890, Đại tá Pennequin rời Quân khu Sơn La khiến cho Phó Công sứ tỉnh Chợ Bờ J Morel hết sức lo ngại về cái vẻ bề ngoài yên tĩnh của cả một vùng rộng lớn, rất khó giữ vững sau cuộc ra đi ấy nhưng cũng vẫn ra sức phản đối chủ trương đem sáp nhập nó vào tỉnh Sơn La. Viên Phó Công sứ cho rằng, nếu như giữa người Mường và người Kinh có những nét tương đồng nào đó thì giữa người Mường và người Thái lại không được như vậy. Ông ta cũng viện dấn rằng, vào thời nhà Nguyễn, dưới hai triều Minh Mệnh và Tự Đức, kế hoạch lập tỉnh Mường thống nhất đã được vạch ra. Vả lại, tất cả các viên Quan lang đồng tâm phản đối việc hợp nhất và đều bày tỏ vùng đất đai họ đang sống mãi mãi là một tỉnh độc lập.

Mặc dù bị phản đối mạnh mẽ, ngày 21/3/1890 Toàn quyền Đông Dương Piquet vẫn ký Nghị định tái lập đạo Mỹ Đức bao gồm các huyện Chương Mỹ, Yên Đức của tỉnh Hà Nội, huyện Kỳ Sơn và Yên Thủy của tỉnh Mường Chợ Bờ. Các viên Quan lang cũng như Phó Công Sứ J Morel tiếp tục phản đối, đòi  lập tại Mỹ Đức một lỵ sở hành chính đứng đầu là một viên Chưởng ấn trực thuộc tỉnh Mường Chợ Bờ. Viên Án sát Đinh Công Nhung, quê ở Mỹ Đức hết lòng ủng hộ kiến nghị trên nhưng nhà cầm quyền Pháp kiên quyết thi hành Nghị định đã ban hành. Ngày 15/4/1890, đạo Mỹ Đức chính thức đi vào hoạt động dưới sự điều hành của một viên Phó Công sứ. Mấy tháng sau, Kinh lược sứ Bắc Kỳ Hoàng Cao Khải đề nghị Thống sứ Bắc Kỳ ủng hộ đề nghị  của ông ta về việc chuyển phần còn lại của tỉnh Phương Lâm thành đạo Phương Lâm. Trong bức thư  đề ngày 25 tháng 8 năm Thành Thái 2 (8/10/1890) trình bày về ý đồ kể trên ông ta viết rằng “Hoàng Cao Khải Kinh Lược Bắc Kỳ kính thơ cho quan lớn  Thống sứ đại thần rằng tôi xét một hạt dân Thổ ở tỉnh Phương Lâm, nguyên trước lập làm tỉnh, đặt 1 tuần phủ, 1 án sát, vả lại tỉnh ấy chỉ có 1 phủ, 1 huyện, 2 châu (là phủ Lạc Sơn, huyện Kỳ Thủy, châu Mai Châu, châu Đà Bắc) ruộng ít, dân ít, mà việc quan cũng giảm, không nhiều. Vì bằng cứ như vậy mà theo lệ tỉnh trung, tỉnh tiểu đặt ra quan lại và ứng làm mọi việc vả là hư phiếm quá. Huống chi là hạt ấy hết thảy là dân Thổ, nguyên đặt thổ quan quản trị dân thì cũng có nhiều người không có phẩm hàm gì như là đứa thổ ty, thổ mục, tổng lý mà sung bổ đến tuần phủ án sát sợ rằng nhân phẩm không xứng đáng nhau mà đặt làm quan ắt đến nỗi làm bậy. Vậy nên nghĩ đổi lại ra làm đạo Phương Lâm, đặt  1 chánh quản đạo, 1 phó quản đạo”[2]  Ngoài ra, ông ta còn đề nghị thu ấn quan và văn bằng của Tuần phủ chuyển sang làm Chánh Quản đạo, Quách Khuê nguyên Quyền Án sát làm Phó Quản đạo.

Thống sứ Bắc Kỳ đã chuẩn y đề nghị của Hoàng Cao Khải. Bộ máy hành chính người bản địa đạo Phương Lâm bị thu lại. Hai châu Đà Bắc, Mai Châu cũng sáp nhập thành châu Mai Đà.

Cũng thời gian ấy, trước sức tấn công của nghĩa quân do thủ lĩnh Đinh Công Huy chỉ huy, hai đồn binh Pháp đặt ở Chợ Bờ và Suối Rút phải di chuyển. Đứng trước mối đe do ngày một tăng, Phó Công sứ Rougry – vốn là cựu sĩ quan pháo binh hải quân, người đến thay chân của J. Morel đã đề nghị chuyển lỵ sở của tỉnh về Hòa Bình nằm ở phía tả ngạn sông Đà, đối diện với Phương Lâm.

Phải chịu đựng những áp lực mới và nhận thấy việc tái lập đạo Mỹ Đức, xé nhỏ tỉnh Mường Chợ Bờ là một sai lầm, ngày 18/3/1891 Toàn quyền Đông Dương Pikê (Piquet) đành ra Nghị định xóa bỏ đạo Mỹ Đức lần thứ hai, trả Chương Mỹ và Yên Đức về Hà Nội, Kỳ Sơn và Yên thủy về tỉnh cũ, chuyển đạo Phương Lâm thành tỉnh Phương Lâm. Cùng ngày, một Nghị định khác cũng được ban hành cho phép chuyển tỉnh lỵ từ Chợ Bờ về đóng tại làng Vinh Diệu xã Hòa Bình và chính thức đổi gọi là tỉnh Hòa Bình.

Viết về nguyên nhân giải thể đạo Mỹ Đức, khôi phục tỉnh Mường, chuyển dịch tỉnh lỵ, Piere  Grassin  cho biết, vào tháng 5/1890 sự yên ổn như nhà cầm quyền vẫn tưởng không còn nữa. Các toán nổi dậy do Đốc Ngữ cầm đầu hoành hành ngay giữa làn ranh Vạn Bú với Hưng Hóa. Tháng 8/1890, viên cựu Tuần phủ Đinh Tộ đột ngột  xin từ chức, nhờ sự giúp đỡ  của Đinh Cửu và sự thông đồng của Đốc Ngữ đã cầm đầu một toán  nổi loạn có vũ trang đông tới 500 người, lại nhận được sự ủng hộ về lương thực và thuyền bè của các Quan lang trong vùng, đêm 29 rạng ngày 30/1/1891 tấn công dữ dội vào Chợ Bờ, gây nhiều tổn thất cho nhà cầm quyền Pháp. Với sự tiếp tay của khố xanh và các quan An Nam, quân của Đốc Ngữ đã đốt và cướp Tòa Công sứ, chặt đầu ông Phó sứ Rougery. Viên Chánh quản Ziegler và viên Chủ sự Nhà giây thép tuy đã chạy trốn nhưng bốn ngày sau người ta phát hiện ra xác hai người này. Họ bị lính khố xanh Mường bắn gần chết rồi thiêu trong căn nhà mà họ ẩn náu.

Tháng 4-1891, quan Kinh lược sứ Bắc Kỳ đã phải làm một bản tường trình về những nguyên nhân của cuộc tiến công kể trên, đề xuất việc tổ chức lại bộ máy hành chính ở tỉnh Mường Chợ Bờ. Theo bản tường trình này, thì sai làm mấu chốt là ở chỗ người ta muốn áp đặt một chế độ cai trị  cũ trích đối với dân chúng Mường, nghĩa là đem đối lập mọi quyền lợi với tổ chức và tập quán  của người Mường, mà như ta đã biết, vua Minh Mạng  đã có nhiều cố gắng cải thiện trong vấn đề này. Khi các Quan lang không thừa nhận sự cai quản đó, triều đình đã đem lực lượng quân sự đến đàn áp nhưng quân đội triều đình đã chớng nản lòng vì khí hậu rất độc và lối đánh du kích, nhanh chóng lui quân, phá bỏ phương án này rồi giao trách nhiệm cai quản cho các viên Tri châu được lựa chọn trong số các Quan lang và những người Mường có máu mặt.

Đinh Văn Vinh, người Mường lai Kinh, được đề cử vào chức Tuần phủ ở Chợ Bờ, muốn làm cho người khác phải phục mình, nên đã tìm mọi cách  làm cho người Mường thù ghét chúng ta (Pháp). Bị đổi đi nơi khác năm 1888, rồi trở về chỗ cũ năm 1890, Đinh Văn Vinh lại tiếp tục đi vào con đường cũ, buộc dân chúng phải thông qua mọi việc với ông ta rồi mới được trình bẩm lên viên Công sứ. Đó chính là nguồn gốc gây nên lòng hận thù và tội tòng phạm do chủ động hoặc bị động mà các toán nổi loạn nhận thấy ở các viên Quan lang. Đây chính là cốt lõi vấn đề mà một bản tường trình đã kết luận rằng, một viên Công sứ ở tỉnh Mường thì phải là một nhà hoạt động chính trị, rằng ông ta không nên can thiệp vào chuyện cãi lộn giữa các dòng họ mà phải đứng trung gian hòa giải, rằng người ta phải làm cho các phe phái trong tỉnh Mường tập hợp nhau lại thành một liên minh, gọi là vùng đất Mường thuộc đạo Mỹ Đức (phủ Lương Sơn và huyện Lạc Thủy), tách riêng Châu Mai và châu Đà Bắc dù rằng trước đây đã có chuyện hợp nhất hai châu đó thành châu Mai Đà hồi tháng 10-1890, vì châu này quá rộng nên dù đã hợp nhất nhưng Mai Đà vẫn lập thành hai vùng riêng biệt.

Việc di chuyển lỵ sở của tỉnh mới về Hòa Bình như ông Rougery đề nghị, đã được thực hiện nhưng vai trò trung tâm hành chính và quân sự của Chợ Bờ vẫn được giữ nguyên. Người ta chỉ thay thế ở Chợ Bờ lính cơ Mường bằng lính cơ người Việt, đặt ra một loại lính cơ Mường dưới sự chỉ huy của một viên Đề đốc người Mường để phòng khi lâm nguy thì sẽ được phái đi đánh dẹp ngay tức khắc.

Đinh Văn Vinh bị đổi đi nơi khác thay thế bằng Đinh Công Nhung – lúc đó làm Phó Quản đạo Mỹ Đức và cử Đinh Tộ làm Đề đốc.

Các viên Tri châu vẫn ở nhà riêng của họ chứ không ở lỵ sở như ông Rougery đã mong muốn. Do đó lại nảy sinh sự sai lầm trước đây. Cuối cùng, người ta không chủ trương thành lập các đội lính để đi trừng phạt những người theo Đốc Ngữ mà là vừa xây dựng cơ ngơi ở Chợ Bờ, vừa xây dựng Hòa Bình thành trung tâm kinh tế – văn hóa bằng chính nhân, vật lực được khai thác tại chỗ một cách triệt để.

Vào thời điểm này, tỉnh Mường Hòa Bình bao gồm 6 châu, 17 tổng, 96 đơn vị hành chính  cấp xã như dưới đây.

Mai Châu tỉnh Hòa Bình

đèo Thung Khe thi trấn Mai Châu tỉnh Hòa Bình

CHÂU KỲ SƠN: 2 tổng, 10 xã (địa danh ngoài ngoặc là tên giáp, thôn còn trong ngoặc là tên xóm thuộc giáp, thôn hoặc trực tiếp thuộc xã).

  1. Tổng Hòa Bình 6 xã

– Xã Hòa Bình: Trung (Bích Thượng, Bích Hạ), Thịnh Lang (Suối Trẽ), Tây (Máy, Mí, Nễ, Thăng, Rẽ, Đứng, Gai), Nam (Sủ, Ngòi, Sủ Bến) Đông (Miêu, Mằng), Trung Minh (Suối Ngọc, Suối Chu, Nưa, Nội, Sòng, Lai, Can), Bắc (Thia, Bún), Yên Mông (Trùng, Nhãn, Mít, Nời, Đình, Bướng, Mỵ, Yên Thái, Suối Vôi).

– Xã Mại Thôn (Đình, Cháu, Ngọc Xạ, Gốc Da, Gò Ngô, Mó, Suối Bằng, Giếng, Rộc Môn)

– Xã Phương Lâm (Mát, Đầm, Trang Nghiêm, Yên Lập, Chăm, Chùa, Trại, Rộc Khơi, Sáy, Tháu, Chụ Viễn, Vôi, Nước Lá, Bái Yên).

Xã Quỳnh Lâm (Giậm, Đồng Gạo, Phú Nghĩa, Đồng Chụa, Đồng Sũ, Đồng Nhân, Nau, Cháng, Chù, Mang, Chái, Mỗ, Giang, Lòn).

– Xã Túy Cổ Thượng Thầy (Đồng Bài, Đá Liền); Trung (Vật Lại, Mu, Cuốc, Bái Vàng, Đồi Thông, Giếng, Tôm, Mọm).

– Xã Mông Hóa: Trung (Suối Ngành, Gò Đội, Bái Sấu, Vành, Bái Lai, Vịt, Đám Lâm, Lau Nội); Sét (Sét, Suối Non, Nồi, Chằn, Trúng, Đé Bồ, Sâu, Nhả, Ba); Hạ (Nút, Bún, Trại Đông, Đồng Sông, Pheo, Hoắc, Đồng Bến, Sõng, Róc, Đồng Vàng); Thượng (Đồng Giang, Rụ, Hang Nước, Lũng Hang, Dĩnh, Giò Bùi, Ao Trạch, Gò E, Rối).

  1. Tổng Cao Phong: 4 xã, phố

– Xã Cao Phong: Trung (Đồng Ngoài, Nà Bái, Bái Tôm, Chị Khét, Xưởng Đầu, Bái Bệ); Nhất (Cau Hạ, Đồng Trong, Trang, Bủn); Bắc (Bưng, Trúng, Tiền Rệ, Rà, Nu, Chiềng, Má, Vỏ, Bôn, Thả); Đông (Nhọi, Rú, Trằng, Quáng, Cán Thượng, Mừng, Rộn); Nan (Suộn, Đúc, Ong, Mạc, Rẹo); Tây (Bằng, Tiếp, Đồi, Lãi).

– Xã Thạch Yên (Đồi Chu, Sớm, Khánh, Giá, Đai, Thôi, Pheo, Bẹ, Bãi Sim, Um, Thang, Thoi, Bạ, Suối Tăng, Quà, cọi, Chám, Dầy)

– Phố Phương Lâm

– Phố Hòa Bình

Nhìn một cách tổng quát, tổng Hòa Bình được cấu tạo bằng phần lớn đất đai của tổng Hoằng Nhuệ (xã Hòa Bình, xã Mai Thôn, xã Phương Lâm, xã Mông Hóa, xã Quỳnh Lâm) và một phần của tổng Tu Vũ (xã Túy Cổ). Toàn bộ 4 xã, phố thuộc tổng Cao Phong được cấu trúc xen kẽ giữa tổng Cao Phong (xã Cao Phong, xã Thạch Yên) và tổng Hòa Bình (phố Phương Lâm, phố Hòa Bình). Điều này cũng có nghĩa là, đến đầu thế kỷ XX, toàn bộ đất đai của châu Kỳ Sơn là phần được tách ra từ huyện Bất Bạt tỉnh Sơn Tây. Các phần đất khác thuộc các tổng Mỹ Khê,  Bối Sơn đã được rút về Tùng Thiện – Sơn Tây, tổng Thư Pháp, Cẩm Đới rút về Bất Bạt – Sơn Tây, tổng Yến Kiện rút về Chương Mỹ – Hà Đông.

CHÂU LẠC SƠN: 4 tổng, 47 xã (trong ngoặc là địa danh xóm thuộc xã)

  1. Tổng Lạc Nghiệp: 9 xã:

Xã Quy Hậu (Khang, Bậy, Nà Khé, Nà Rom, Nà Chạo, Nà Văn, Nà Bóng, Đồng Đai, Bái Xe, Bui, Phơi, Đồi, Bái Vỏ, Suốc Chóc, Bái Mu).

– Xã Mãn Đức (Chiềng Xén, Tầm, Bái Chu, Bái Yên, Bông Canh, Tịnh, Đồng Rừng, Đồng Ảnh, Vin, Chông Đất, Đồng Khì).

Xã Tử Nê (Bục, Chùa, Cú Trong, Cú Ngoài, Bái Tảo, Khung, Các, Nhót, Khải, Trôi).

– Xã Thanh Hối (Chiềng Nen, Đông, Vào, Đồng Cụ, Bớ, Tam, Bái Yên, Quê Môi, Bu, Đôi, Bái Điệp, Đồng Mu).

Xã Đông Lai (Đồi Vong, Ô Ca, Bái Trang, Muộn, Trếch, Hai, Nà Ai, Cóm, Quê Bái, Bưa Á, Khơi Chờ, Hoạch, Đồi Hồng).

Xã Ngọc Mỹ (Chiềng Biệng, Quặng, Cầu Phung, Bua, Đồng Sống, Vĩnh, Tôn, Cút, Cóc, Mè, Sướng, Lãng, Giường).

Xã Sơn Trang (Cọ, Giậm Trong, Giậm Ngoài, Anh, Giã Mụ, Ốc, Giộc, Đầm, Đồi, Vó Ngọc, Bái, Đồi Vong, Vong Ngoài).

Xã Thân Thượng (Chiềng Cốc, Luống Trong, Luống Ngoài, Cò Cáo, Khăng, Trang.

– Xã Phúc Tuy (Chiềng Rồng, Bái, Khoang Trên, Khoang Dưới, Vó Bạ, Đồi, Co, Bùi, Tống, Đầm, Ngoài, Khụ Trong, Quyển, Giộc Khổ).

  1. Tổng Lạc Thiện 11 xã

Xã An Lương (Quế Phản, Gò Cáo, Quê Rông, Quê Chuông, Bến Bãi, Bưa Khun, Bưa Tang, Quê Yến, Gò Tống, Cõi Khị, Giẩy, Giẩy Dưới, Cò Rẹo, Gò Cun, Gò Ngấn, Khải, Rềnh, Nảnh, Gò Trỏng, Gò Khôn, Gò Bẹn)

– Xã Chí Đạo (Be Trong, Man, Kho, Ot, Ong, Đồi Mông, Sang, Be Ngoài, Be Trên, Bưa Mương)  

– Xã Lỗ Sơn (Chiềng Chó, Đồi Khống, Mu Bệ, Đồi Sáng, Nghẹ, Cắm, Cúng, Vó Ché, Đồi, Tăng, Võ, Uy, Giang, Trứng Tráng, Đồi Tồm, Nước Luông).

– Xã Phú Lẫm (Cói Bải, Bái, Yên Trên, Yên Dưới, Bái Mân, Bái Thơm, Đảng, Bái Éo, Quê Tồ, Giẹ, Gò Tượng, Chua Me, Đồng Chạo, Quê Trông, Khù Vả, Bản).

Xã Gia Mô (Đồi, Trên, Dưới, Vó, Lâm Trong, Lâm Ngoài, Giên Trong, Giên Ngoài, Quán Trên, Quán Dưới, Vó Giò, Từng Trong, Từng Ngoài, Gò Kha, Đồng Vẹn, Đồng Sáng, Thang Dưới, Quê Tang)

Xã Phong Phú (Chiềng Lầm, Nà Mận, Gò Toóng, Gò Ly, Chu Mu, Ải, Trọng, Chao, Viện, Vận, Vin).

Xã Tuân Lộ (Lồ, Giọi, Vạn, Nắng, Nà Trên, Chước, Nà Dộng, Lâm Lưu, Đồng Nhập, Đồng Tầm.

Xã Phú Vinh: (Ngâu, Bái Cọi, Đậy, Cá, Khởi, Giác, Bò, Tó, Ong, Nà Táp, Dung, Giộc Sung, Mòi, Khao, Đồng Khiễng, Bưởi, Chung, Khanh, Báy, Phất Cò, Mu Bùi, Hang Hề, Thu).

Xã Địch Giáo (Khạng, Khung, Lạ, Đồng Bả, Xa, Ken, Chạo, Tầm, Nà Khao, Khụ Biệng, Đồi Lò).

Xã Quy Mỹ (Đồng Chiềng, Giâm, Chân Chẹ, U, Thung, Nước Hưng, Nước Lọc, Nước Lấn, Nước Cá, Giạ Giác).

Xã Do Nhân (Khống, Trăng, Bào, Giã, Tà, Giàng, Thưởng, Mu Chiền, Khi, Chiền Chiện).

Xã Mỹ Hòa (Ngay, Chù, Chuồng, Khoang Cáp, Độ, Chào, Bái Bộ, Vậy, Đồng Gầy, Nà Tầm, Thắm, Ong, Nga, Kén, Chúc, Thung, Dai Chu, Bó, Cháu Ngang, Hải).

  1. Tổng Lạc Thành: 13 xã

– Xã Tân Mỹ (Sào Thượng, Sào Hạ, Câu, Bui, Nạch)

– Xã Tức Mặc (Trống Láo, Mặc, Côm, Át)

– Xã Ngọc Lâu (Mòn, Kháy, Sướng, Mô, Sát, Gì, Bè, Chiềng, Đúng, Sấu, Giộc, Nghì, Thê, Dun, Bái, Bùi Thượng, Bùi Hạ, Bưng, Đầm, Đèn, Đội, Bái Nhạ, Điện Bãi, Cha, Vưng, Bói)

Xã Bình Cảng (Quê Trai, Cảng, Gò Đa, Côi Vạn, Quê Cạnh, Chung, Quyên, Sâu, Thông, Chang, Công)

Xã Vụ Bản (Nghĩa, Đồng Lốc, Vồi, Beo, Đồi Thai, Bưng)

– Xã Vũ Lao (Chiềng Chào, Bến, Cháy, Củ, Mõi).

– Xã Hưng Nhượng (Vin, Khang, Đầm Đút, Bin, Chun, Cỏi)

Xã Vụ Nông (Lâm Hóa, Đạn, Cai, Càng, Sơ, Bớ).

Xã Hoài Ân (Trểnh, Lọt, Búm, Cò Kè, Đồi Bổ, Đồi Điểm, Trán, Re, Cây Si, Đồi Mè, Kho, Đồi Khí, Bài Đa, Ao Cuôn, Đồi Bùi, Ngheo, Đồi Láo, An Chân, Tuôn, Chơ, Chệ, Giuộc Ác, Khanh, Tưa, Vọc).

– Xã An Nghiệp (Diễng, gò Cha, Mạ, Um, Hổ, Giộc Thác, Đam Đa, Thông, Đương, Cò.

Xã Hiếu Nghĩa (Cai, Tinh, Song, Bượm, Chục, Cả Đét, Bu, Chổ, Đồi Mông).

Xã Bỉnh Chân (Cổi, Giào, Mè, Quê Chôi, Quê Kiên, Canh, Quê Tung).

Xã Đa Phúc (Xạ, Bèo, Bưng, Sào, Khả Đang, Đồng Nghĩa, Đồng Hang, Hanh Hóm, Đông Giáng, Thung Nhang, Vó Chác, Heo).

  1. Tổng Lạc Đạo: 14 xã

Xã Hướng Nghĩa (Vó, Cáo, Chiềng, Mới, Cắt Ngoài, Đồi Mông, Đồng Nang)

– Xã Cư Nhân (Bui, Sỉ, Bưng, Rằm, Đồng Ý)

Xã Định Cư (Sưa, Ky, Chóng, Tầm, Đính, Tầm Thượng, Tôm Hạ, Bán, Mương, Bãi, Hạt, Vó Bái Vớn, Cò Chim, Vó Đa, Yến, Bãi Yên)

Xã Xuất Hóa (Bắp, Thận, Hổ, Cáo, Bầu, Cóc, Sưa Trên, Vỏ, Ngải, Khe)

– Xã Mỹ Thành (Cỏ, Chum, Vó, Đúng, Be, Bùi, Khi, Ngọc, Đồi Cả, Nước Khán, Nước Kháo, Hoàng, Đồi Cò, Bơ).

– Xã Vân Lãng (Tre, Ấm, Trại Trong, Trại Ngoài, Nước Kháng, Lai, Ma, Đổm, Thây, Biên, Kèn, Dụ, Rầu, Bái Muộn, Đồi, Gio, Eo).

Xã Yên Điềm (Trắng, Đống Tang, Đồi Bò, Bãi Cát, Chóng Kén, Chiềng Chệ, Ghềnh, Bơ Mun, Đồng Quy, Nụn, Cú, Giộc Trên, Giộc Dưới, Thế, Bài Lây, Mận, Bạ, Bùi)

Xã Phú Hậu (Vành, Bùi, Bái, Cọi)

Xã Bỉnh Hiểm (Cỏi, Hảo, Chu, Gò Cuốc, Đồn, Đầm Sướng, Gióng Sau, Sung Không)

– Xã Văn Đức (Đục, Bồi, Chén, Tê, Mân, Thiện, Sôi, Giăng, Vá, Nước, Đồi, Thởn, Đồng Mang).

– Xã Tuôn Đạo (Nạc, Chạo, Kỳ, Khụ, Giài, Đồng Quan, Vôi Trên, Nước Chênh, Đồng Tâm, Đồng Đanh, Sào, Mộng, Em, Mọi, Đồng Đôi, Cảm).

Xã Quý Hòa Cừa, Khả, Cáo, Cốc, Ngọc, Đãi Khao, Đồng Củ, Lăng, Dụy, Thang, Đồng Siêu, Đồng Sấu, Bưa Thung, Giậm).

Xã Thượng Nhượng (Trại, Mòi, Mơ, Liêu, Đầu Voi, Nà Ròng, Bớ, Dừa)

Xã Tức Tranh (Chiềng Vang, Lâu, Mới, Quê Đồng, Quê Ngành, Đới, Tróng Tre, Tróng Giao, Thăn, Voi, Thây, Rểnh, Vôi Dưới, Đồng Chè, Tôm, Cua, Động).

CHÂU LẠC THỦY: 3 tổng, 17 xã (địa danh trong ngoặc là tên thôn, chòm)

  1. Tổng An Nghĩa: 5 xã, 11 thôn.

Xã Trường Môn (Đồng Cú, Vải Đừng, Trường Mòn)

Xã Chiêm Hóa (Ven, Tai, Tháy)

Xã Hưng Thi (Thảy, Sung, Giếng, Giong, Láo).

Xã Đồng Huống.

Xã Chi Nê

  1. Tổng An Bình: 2 xã, 3 chòm, 5 thôn

– Xã Hậu Bổng (Bống, Rối, Côm).

Xã Bình Lương (Rứa, Ba Đồng Lải, Ninh, Dập, Bát).

  1. Tổng An Lạc: 10 xã, 31 thôn)

Xã An Lạc  (Nghi, Dương, Thung)

Xã Hữu Lại (Dại, Vố Cương, Tế, Sài)

– Xã Thượng Lũng (Bái Cả, Đầm Hồng, Khiển, Cây Chim, Bái Đa, Tên)

– Xã Lạc Thủy (Dậu, Trác, Bạn Lãng, Dọc Cọ)

– Xã Phù Vệ (Làng Cả, Cửa Ly, Đồng Lạc, Bái Trọc)

Xã An Lương (Hang Um, Đắp, Đông Trống)

– Xã Hiện Lũng (Chồn Hiên, Cò Nu, Thung Thang)

– Xã An Thái, (Cẩm, Trệ,

– Xã  Thác La

– Xã Phú Lại:

Đây là 2 châu vốn thuộc phủ Thiên Quan của tỉnh Ninh Bình, trước khi đưa vào tỉnh Mường Hòa Bình là toàn bộ huyện Lạc Thổ, một phần của huyện Phụng Hóa, huyện Yên Hóa với những xáo trộn như sau:

– Vào đầu thời Nguyễn, huyện Lạc Thổ có 3 tổng, 25 xã, trang, theo đó:

  1. Tổng Thạch Bi có 7 xã (Thạch Bi, Phù Liễn, Phú Lẫm, Lỗ Sơn, Thanh Nê, Đông Lai, Hoành Mô).
  2. Tổng Trung Hoàng có 9 xã, trang (Trung Hoàng, Phúc Chỉ, An Chỉ, Thượng Cốc, Ngọc Minh, Văn Lãng, Văn Minh, Thiên Mụ và trang Núi Cói).
  3. Tổng Quỳnh Côi có 9 xã, trang (Quỳnh Côi, Ngọc Lâu, Bình Hiển, Phúc Lương, Cửu Nại, Bình Cảng, Tức Mặc và hai trang Chân Phúc, Vũ Lao.

Năm 1836, huyện Lạc Thổ đổi thành huyện Lạc Yên, các tổng cũ bị giải thể để lập thành 4 tổng Lạc Thiện, Lạc Nghiệp, Lạc Đạo, Lạc Thành với một sự xáo trộn lớn:

Tổng Thạch Bi sau khi bị xóa bỏ, một số xã chia thành nhiều xã mới, chỉ còn 4 xã giữ tên cũ, trong đó 3 xã Phú Lâm, Lỗ Sơn, Hoành Mô nằm trong tổng Lạc Thành, xã Đông Lai nằm trong tổng Lạc Nghiệp.

– Tổng Trung Hoàng sau khi bị xóa bỏ, một số xã chia thành nhiều xã mới, chỉ còn 3 xã giữ nguyên nhưng đổi tên, trong đó xã Thượng Cốc đổi thành xã Tích Cốc, xã Thanh Nê đổi thành xã Tử Nê, xã Phúc Chỉ đổi thành xã Phúc Tuy nằm trong tổng Lạc Nghiệp, xã Thanh Nê đổi thành xã Tử Nê, xã Phúc Chỉ  đổi thành xã Phúc Tuy nằm trong tổng Lạc Nghiệp và xã Văn Lãng giữ tên cũ nằm trong tổng Lạc Đạo.

Tổng Quỳnh Côi sau khi giải thể, một số xã chia thành nhiều xã mới, trong số 6 xã giữ nguyên tên cũ, có 4 xã Bình Cảng, Ngọc Lâu, Tức Mặc, Vũ Lao nằm trong tổng Lạc Thành; xã Bình Hiển nằm trong tổng Lạc Đạo. Riêng xã Phúc Lương đưa sang tổng Yên Thị của tổng Lạc Phong (Nho Quan – Ninh Bình).

Đối với châu mới Yên Thủy, quá trình chia tách từ các tổng, huyện cũ của Ninh Bình diễn ra với nhiều xáo trộn như sau:

– Huyện Phụng Hóa chuyển một số xã có nhiều người Mường cư trú thuộc  hai tổng An Lạc và tổng Lãng Phong để lập ra tổng An Lạc thuộc châu Yên Thủy, trong đó có xã Lạc Tuyền đổi thành xã Lạc Thủy, xã Chân Lại đổi thành xã Hữu Lại và các xã An Lạc, Hiệu Lũng của tổng An Lạc  cộng với xã Phú Lai của tổng Lãng Phong. Phần còn lại của huyện Phụng Hóa đổi thành huyện Nho Quan – Ninh Bình.

Huyện Yên Hóa cho chuyển từ tổng Vô Hốt xã Hậu Bổng vào tổng An Bình; xã Trường Môn vào tổng An Nghĩa; xã Thác La vào tổng An Lạc của châu Yên Thủy. Đồng thời, tổng Xích Thổ cũng chuyển xã Hưng Thi vào tổng An Nghĩa của châu Yên Thủy.

Phần còn lại của huyện Yên Hóa đổi thành huyện Gia Viễn – Ninh Bình.

CHÂU LƯƠNG SƠN: 4 tổng 17 xã: (ngoài ngoặc là tên giáp, thôn thuộc xã trong ngoặc là xóm thuộc giáp, thôn hoặc trực thuộc xã).

  1. Tổng Cư Yên gồm 6 xã:

– Xã Kệ Sơn: Đội Hầu (Đội Hầu, Trại Soan, Nước Vải), Vẻ (Vẻ), Đồng Chúi (Đồng Chíu, Đá Liền, Bãi, Trại Mới, Lọc Sọc, Bãi Soan, Võ Sấu),  Thạch (Rút, Chuôn Gà), Nhất (Suối Cỏ, Đầm Đa, Trại Hoa, Gò Cháu, Ngọc Lâm), Nhì (Suối Cốc, Đồng Ỳ), Quê Sụ (Quê Sụ, Quê Nhàm, Rung Ấm, Nước Đảo, Húi), Răm (Vai Đào, Đồng Lau), Cao (Cao, Sáng, Trại Mới, Cường, Bái), Bằng Gà (Chanh, Tháy, Mỏ, Cột, Bài, Cả, Cu Bối, Suối Bu)

– Xã Mỗ Sơn: Mỏ (Mỏ, Đồng Bái, Gò Trúc), Mòng (Mòng Trên, Mòng Dưới, Bưa Đâu), Rổng (Rổng vòng, Bái Dài, Rổng Tầm, Đồng Cấn).

– Xã Nhuận Trạch (Rầm Giới, Cầu Sơn, Đồng Si, Bưng, Giếng Sạ, Đồng Sế, Trại).

– Xã Cư Yên (Đồng Chanh, Suối Sếu, Hang, Suối Rè, Đồng Râm. Giếng Ếm, Đồng Sâm).

Xã Liên Khuê: Liên Khuê (Sen, Nước Lạnh, Đá Cạn), Vân Khuê (Vận, Sim, Gò Chiền, Đồn Vận)

– Xã Thuận Lương (Thuận Lương, Bến Gò, Ngánh, Thượng, Ngánh Hạ, Đồng Sương, Đá Bạc, Nước Đỏ).

  1. Tổng Bằng Lộ gồm 5 xã (trong ngoặc, ngoài ngặc giống tổng trên):

– Xã Yên Lệ (Trung Mường, Trại Khoai, Trại Hương, Luông, Trại Giữa, Rợn, Đầm Bối, Hội, Gỏng, Trại Yên, Lặt, Đủ, Mùn, Mè, Chám Mỷ).

– Xã Quang Diệu (Đình, Chầm Vao, Đồng Dưới, Đồng Sổ, Thung Mộ, Gắm, Rục Giữa, Đồng Lụa, Đồng, Thuống Trên, Đồng Tơi, Suối, Mọng, Cò, Rục Ngoài, Rục Trong)

– Xã Đáo Lãng ( Chùa, Đồng Dằng, Cổ Động, Đá Thâm, Nhòn, Gò Chè, Gò Chói, Quê Vải, Đồng Dâu, Đồng Cao, Trại Mới)

– Xã Bằng Lộ ( Cửa Khâu, Đồng Bệnh, Đồng Cạn, Đồng Bèn, Đồng Chầm, Suối Sặt, Đồng Âm, Đồng Bồ)

– Quất Lâm ( Quất Lâm, Đồng Bùi, Đồng Vội, Đồng Táu, Đồng Quýt, Đồng Tram, Suối Nấy, Gò Bài, Vai Đá)

  1. Tổng Thanh Lương : gồm 2 xã ( địa danh trong, ngoài ngoặc giống tổng trên)

– Xã Thanh Lương: Nội ( Mỵ Trong, Mỵ Ngoài); Mỵ ( Cành Trong, Cành Ngoài, Bãi Khoai, Bãi Đóng, Đồng Hòa, Gò Gạo, Suối Trượi, Nà Bờ, Bưa Đăng, Bưa Bèo, Báy); Khai ( Khai, Đồi Vồi, Đồng Chờ, Bái Lộng, Đầm Giàn). Lựng ( Lựng, Bai Xa, Lầm Trong, Lầm Ngoài, Suối Nhội, Rộc Đồng, Mục Mòn); Cuối ( Chạo, Mý, Sụ, Cột, Rạch, Thông, Cai, Bạng Mát). Ngoại ( Sấu Trên, Sấu Dưới ); Gạo ( Voi Lội, Chầm Si, Tre Hóa, Gò Mu, Đê, Cau Dưới, Quèn Màn, Suối Cái, Điếm, Sụ, Sạ, Đồng Rẹ, Cáp, Rộc Mít, Đồng Bến, Đá Chồm, Đồi Him). Yên Lịch ( Chợ, Đồi, Mu, Đệt, Thăng, Chòm My, Lộng, Suối Mọi, Suối Sóc, Chân Dương); Vôi ( Bỉ, Vành, Chợ, Đầm, Đồi Dào, Trằng, Bủa Vường, Quèn Mạn, Đồng Bái, Vôi, Chí).

– Xã Thanh Nông: Vai ( Trại, Giếng Két, Bưng, Bương); Đồi ( Đồi, Phú Hữu, Đồng Gianh,Tân Lâm, Phố Đồi); Ái Nàng ( Ái Nàng, Đông)

  1. Tổng Kim Bôi: gồm 4 xã ( địa danh trong, ngoài ngoặc như tổng trên)

– Xã Kim Bôi: Bôi Câu ( Bôi Câu, Lạng, Răm, Nước Ruồng, Mõ, Bái, Lột, Sào Đông, Trò, Nuông, Suối Con, Mến, Bãi ); Vố ( Vố, Lục, Bo, Đồi, Gò Cha ); Bôi Cả ( Bôi Cả, Bái Mu, Quê Bộ, Nam, Muôi, Nghìa, Má, Rạch, Yên, Cóc, Giựng, Cháo, Vó Khang, Vọ)

– Xã Hạ Bì: Trung ( Bờ, Chợ, Lũng, Mang, Chiêng, Khoáng, Suối Dâu, Nội, Quê Mè, Nè, Bưa Sy, Bãi Guyền, Bái Bụt, Bưa Bờ, Đầm Trầy, Công Khoai); Ba ( Sáng, Gò Đầm, Lập, Bưa Trám, Sào Trên, Sào Dưới, Sào Bái); Tre ( Tre, Bái Thị, Ngheo, Bãi Cáo, Gò Sắng, Gò Rường); Mớ ( Mớ Đồi, Mớ Đá, Khoắc, Nước Trải, Quê Sung)

– Xã Vĩnh Đồng : Đông ( Thao Cả, Đồng, Ngoài, Đá Cạn, Bụt, Rạnh, Đốc, Ve, Đồng Nang, Lươn); Bắc ( Đầm Rừng, Căn Cay, Bái Cõi, Đám Lấm, Vó Cối, Thao Trong, Cùn Chán, Đầm Hạ, Suối Rèo, Bưa Đầm); Tây ( Trang, Đồi, Rậm Ruờm, Sim, Thung, Cò Lĩm, Thượng Ấm, Lành Anh, Chạo); Nam ( Sầm Thượng, Sầm Hạ, Vó Lươn, Vay, Vãng, Bái Rồng, Sú, Đồng Bến, Vựng, Bưa Rè, Chanh Trên, Chanh Dưới, Bãi Ỏm, Suối Đúng, Bưa Rồng, Đồng Đanh, Khoáng Bưởi, Sống, Suối Láo, Ký, Rai); Trung ( Chiềng Động, Gò Đầm, Cốc, Quê Rù, Ráy, Chung Yên, Cặm Cố, Định)

Xã Nật Sơn: Rếch ( Rếch, Quê Kho, Bái Chạo, Thung, Hòa, Meng Măng, Trung Cấp, Đô Lái, Nà Nang, Suối Sống), Củ ( Củ Trong, Củ Ngoài, Bưa Hồng, Tiệng, Đáp, Trẹo, Hang Nai, Vó Đất, Suối Măng), Đú Sang ( Đú, Bái Tam, Vó Mái, Tráng, Suối Can, Gò Bùi, Bãi, Sáng Trên, Đá Côi, Chầm Dong, Nước Đúc, Đồi Mu, Khoang Dền, Suối Chuộn, Sáng Dưới, Vỏ Láo, Gò Thấu, Suối Láo); Rắng ( Khoang, Mè, Quê Bèo, Quận Bả, Só Rèo, Đồng Si); Rộc ( Rộc, Mát, Gò Chàu, Bưa Cáu, Bọc, Nà Lốc, Đồng Lốc); Chỉ ( Chỉ Trong, Chỉ Ngoài, Ba Bị, Bưởi, Trán, Nèo, Đồng Khô); Cầu ( Cầu, Nhộng, Khuộc, Đúc, Láo Ray, Cuôi, Ốc, Sống, Pheo, Khăn, Nhông, Suối Sống, Bần Sáng, Hang Lờm); Khả ( Khả Trên; Khả Dưới, Đồng Cờn; Tằng Long, Hồi Trên, Hồi Dưới, Đỏng)

Căn cứ vào danh sách tổng, xã đã liệt kê kể trên, toàn bộ địa giới của chân Lương Sơn được tạo nên bởi phần lớn huyện Mỹ Lương, phủ Quốc Oai tỉnh Sơn Tây, sau chuyển về tỉnh Hà Nội. Cụ thể như sau :

– Thuộc tổng Phượng Hạnh là các xã Kệ Sơn, Mỗ Sơn, Nhuận Trạch, Cự Yên, Liên Khê của tổng Cự Yên mới.

–  Thuộc tổng Mỹ Lương là xã Thuận Lương của tổng Cự Yên mới

– Thuộc tổng Hòa Lạc là hai xã Yên Lộ , Quang Diệu của tổng Bằng Lộ mới

– Thuộc tổng Dã Cát là các xã Đào Lãng, Bằng Lộ, Quất Lâm của tổng Bằng Lộ mới.

– Thuộc tổng Minh Lương là các xã Thanh Lương, Thanh Nông của tổng Thanh Lương mới

Riêng tổng Kim Bôi vẫn giữ nguyên 4 xã cũ là Kim Bôi, Hạ Bì, Vĩnh Đồng, Nật Sơn.

Từ cuối thế kỹ XVIII, khi viết về Mỹ Lương, Lê Quý Đôn đã đánh giá:

“ Huyện Mỹ Lương chỉ có một tổng Cao Bộ cùng vài bà xã ở tổng khác như Tốt Động, Đăng Tiên, ở vào đồng bằng, còn các xã đều ở một dải ven núi, hai tổng Hạ Bì và Minh Luân, núi rừng hiểm trở rất nhiều lam chướng, những xã trưởng, thôn trưởng gọi là lang đạo cũng như huyện Lạc Thổ.

Xã Tốt Động, huyện Mỹ Lương, ruộng phẳng dân đông, là làng cũ của Đặng Ma La, Thám hoa thời nhà Trần. Ở đấy có đường cái rộng chừng hai trượng, là đường vào Thanh Hoa của triều trước, người ta nói đi đường này rất tắt và gần, nhưng nay đường núi đã bế tắc không đi được nữa.

Xã Đăng Thực, huyện Mỹ Lương, có một khu đền là rừng cây rậm rạp, trong ấy có một khoảng đất vuông, bằng phẳng, chừng hơn một trượng gọi tên là chùa Ngạc, ở giữa có cây đa lớn, ở dưới có bình hương bằng sành, trước bình hương để hai hộp tròn bằng gỗ, đựng hai đồng tiền bằng gỗ, một đồng sấp, một đồng ngửa, đường kính ước hai tấc, không biết có từ đời nào, đều không mục nát mà cũng không ai dám lấy.

Xã Thuần Lương, huyện Mỹ Lương có một gian chùa tên là Lạp Tự ( chùa Săn) lợp bằng cỏ tranh, cột gỗ lim, trong thờ một tượng đá hộ pháp như hình người con trai, cởi trần; đứng trơ xương ra, không biết là ý nghĩa gì? Vài chục năm trước đây, có người khách phương Bắc đem nước giội lên đỉnh đầu tượng đá cho chảy vào bụng rồi thoát ra dương vật đằng trước, như người đi tiểu tiện, xem nước tiểu tiện đi đến chỗ nào, liền đào chỗ ấy lấy số vàng để đấy mang đi. Được mấy hôm, có một con hổ đến ôm tượng đá quật ngã xuống, đến nay vẫn còn”[3].

CHÂU ĐÀ BẮC : 2 tổng, 6 xã và phố ( trong ngoặc là địa danh xóm thuộc xã)

  1. Tổng Đức Nhàn: 3 xã, 23 xóm

– Xã Đức Nhàn ( Chiềng, Pheo, Giều, Tuổng, Nách, Nghi, Chum)

– Xã Quy Đức ( Riễm, Giâm, Ói Vọi, Ói Luông, Lầu, Đồng Ruộng)

– Xã Hào Tráng ( Lụm, Mó Hém, Sãng, Nựa, Vầy, Bến Mo, Sơn, Giút, Vĩnh, Ngành Tre).

  1. Tổng Hiền Lương: 2 xã, 11 xóm

– Xã Hiền Lương ( Chiềng, Mơ, Dưng, Kế, Gioi)

– Xã Tú Lý ( Mu, Tĩnh, Công, Riêng, Chòng, Cháu)

  1. Phố Chợ Bờ

CHÂU MAI: 2 tổng, 5 xã và phố ( trong ngoặc là địa danh xóm thuộc xã).

– Tổng Bạch Mai: 2 xã, 28 xóm

– Xã Mai Thượng ( Chiềng Châu, Mỏ, Nụt, Nàng, Bin, Đáy, Hiềng, Nà Sò, Lác, Nhót Sô, Sô, Chiềng Trọng, Tòng, Thông Khoe, Tẹt, Mang, Vãng, Đậu, Cha Long, Đồng Bảng, Bâng Bốn).

– Xã Tân Mai ( Khoang, Đoi,Phúc, Thốn Lốn, Nọt, San, Cô Nào)

  1. Tổng Thanh Mai

– Xã Mai Hạ ( Chiềng Hạ, Tồn, Khán, Nghẹ, Lầu, Lộng, Củm, Vạn Mai, Chiềng Hịch, Quên, Sim Lim, Ngõa, Cha Lang, Nà Sun, Lãm)

– Xã Bao La ( Chiềng La, Bước, Băng, Cun, Pheo, Lọng Sắng, Bùng, Bốc, Bường, Vân, Báo, Cháng).

– Phố Suối Rút ( Van Chò)

Theo Phạm Thuận Duật trong Hưng Hóa ký lược, chân Đà Bắc nguyên thuộc Châu Mộc trấn Hưng Hóa, năm Ất Dậu đời Lê Cảnh Hưng (1975) chia từ sông Đà về phía bắc thành châu Đà Bắc gồm 5 động Hiền Lương, Thanh Nhàn, Hào Nháng, Tân An, Dĩ Lý; từ sông Mã về phía Nam là châu Mã Nam. Năm Thiện Trị nguyên niên (1841) đổi động làm xã, chia làm 2 tổng:

– Tổng Hiền Lương có 2 xã Hiền Lương, Cẩm Nang

– Tổng Thanh Nhàn có 3 xã Thanh Nhàn, Hào Tráng, Quy Đức

Châu Mai cũng thuộc trấn Hưng Hóa, gồm 3 động Bao La, Mai Thượng, Mai Hạ. Năm Minh Mệnh thứ 19 (1839), ngoài việc đổi các động ở Châu Mai thành xã, thêm xã Tân Mai, Châu này còn thành lập thành 2 tổng:

– Tổng Thanh Mai có 2 xã Bao La, Mai Thượng.

Vào khoảng đầu năm 1894, người Mường ở các làng Giã Cát, Hòa Mục và Bach Thạch thuộc tổng Giã Cát, phủ Quốc Oai, tỉnh Hà Nội đòi được trở lại tỉnh Mường.

Cuối năm 1896, do việc các điều chủ Chausse và Magnan xin lập đồn điền có nêu Toàn quyền Đông Dương một lần nữa tính đến chuyên chỉnh đốn lại tỉnh Mường Hòa Bình cũng như đề ra phương án sáp nhập Chi Nê vào tỉnh Hà Nam khiến cho nhà chức trách ở địa phương lo ngại, đến mức có viên Đề đốc quê ở Giã Cát, nơi ông ta đã làm Quan lang đã bỏ làng mà đi. Tháng 9/1898, tận dụng tình hình trên, Quách Cửu – cựu Tri phủ Lạc Sơn và Quách Trấn – cựu Phó Quan lang ở Chợ Bờ đã đòi đưa Lạc Sơn và Lạc Thủy vào tỉnh Ninh Bình. Đề xuất trên nhận được sự hậu thuẫn của Ủy viên Tòa Công sứ trị trận ở Nho Quan vì ông ta nhận ra ngay mối lợi do việc địa bàn cai quản được mở rộng nhưng vấp phải sự phản đối kịch liệt của người Mường và lúc này mới lộ chuyện Quách  Cựu và Quách Tuấn đánh tráo những giấy tờ có chữ ký của dân địa phương trong đơn xin giảm thuế sang đơn xin sáp nhập về Ninh Bình.

Tháng 4/1889, châu lỵ Lạc Sơn được thành lập ở Hoài Ân thuộc tổng Lạc Thành, châu lỵ Lạc Thủy  được thành lập ở Chi Nê thuộc tổng Yên Nghĩa.

Hệ quả của những việc được vạch ra từ cuối năm 1896, đến ngày 24/10/1908 mới được thực thi. Đó là sự kiện toàn bộ châu Lạc Thủy của tỉnh Mường Hòa Bình được Toàn quyền Đông Dương Klobukouski ban hành Nghị định cho sáp nhập vào tỉnh Hà Nam.

Ngày 1/12/1924, một số làng của tổng Vô Hốt trước đây thuộc huyện Yên Hóa – Ninh Bình được đưa sang châu Lạc Thủy tỉnh Mường Hòa Bình nhập trở lại tổng Vô Hốt cũ mà lúc này đang nằm trong phủ Nho Quan – Ninh Bình.

– Năm 1939, châu Đà Bắc và Châu Mai sáp nhập thành châu Mai Đà.

Cách mạng tháng 8/1945 thành công, các đơn vị hành chính cấp châu của tỉnh Hòa Bình vẫn giữ nguyên như cũ nhưng đổi châu thành huyện, bỏ cấp tổng vốn là đơn vị hành chính cấp trung gian giữa huyện và xã. Cuối năm 1946, tỉnh Hòa Bình gồm 4 huyện Kỳ Sơn, Lương Sơn, Lạc Sơn và Mai Đà (khi đó Lạc Thủy vẫn thuộc Hà Nam) cùng với các tỉnh Sơn Tây, Hà Đông, Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình, Sơn La, Lai Châu được đặt trong một đơn vị hành chính cấp trung gian giữa Trung ương và tỉnh là Khu II. Bước vào cuộc kháng chiến chống Pháp, địa phương tiếp tục có những xáo trộn các đơn vị hành chính như sau:

– Ngày 25/1/1948, tỉnh Hòa Bình thuộc Liên khu III do việc Chủ tịch Chính phủ ban hành Sắc lệnh số 120- SL hợp nhất các Khu II, Khu III và Khu XI thành Liên khu III. Trong thời gian ấy, ba xã Hòa Bình, Thịnh Lang và Yên Nông từ huyện Kỳ Sơn.

– Đầu năm 1956, xã Lũng Vân, huyện Bá Thước, tỉnh Thanh Hóa chuyển sang tỉnh Hòa Bình, sáp nhập vào xã Toàn Thắng, huyện Lạc Sơn (chưa rõ ngày, tháng và cấp thẩm quyền ban hành văn bản.

Ngày 15/7/1948, bộ trưởng Bộ Nội Vụ ban hành Nghị định số 354 – NV/ Nghị định về việc sáp nhập xã Thuần Lương thuộc huyện Lương Sơn của tỉnh Hòa Bình vào huyện Chương Mỹ của tỉnh Hà Đông; sáp nhập xã Mỹ Sơn và xã Cao Dương thuộc huyện Mỹ Đức vào huyện Lương Sơn của tỉnh Hòa Bình.

Ngày 28/5/1949, Ủy ban Kháng chiến hành chính Liên khu III ban hành Nghị quyết  về việc sáp nhập xã Thanh Nông và Thanh Lương thuộc huyện Lương Sơn tỉnh Hòa Bình thành một xã.

– Tháng 6-1949, châu Mai Đà về khu XIV,sau đổi là khu Xrồi lại chuyển sang trực thuộc Liên khu Việt Bắc (không rõ cấp nào ban hành Quyết nghị). Theo Báo cáo số 17357 HC/LK3 của Ủy ban Kháng chiến hành chính Liên khu III ngày 21/12/1949 tỉnh Hòa Bình khi đó có 3 huyện là Kỳ Sơn, Lương Sơn và Lạc Sơn với 88 xã.

– Ngày 9/8/1950 Chủ tịch nước ban hành Sắc lệnh số 13 – SL về việc chuyển huyện Mai Đà từ Liên khu Việt Bắc về tỉnh Hòa Bình thuộc Liên khu III.

Tháng 1/1951, Ủy ban Kháng chiến hành chính Liên khu III ban hành Quyết định chuyển trở lại 3 xã Hòa Bình, Thịnh Lang, Yên Mông từ huyện Đà Bắc về huyện Kỳ Sơn.

Ngày 6/4/1951, Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định số 79/TTg trả xã Mai Châu  từ huyện Lạc Sơn  về huyện Mai Đà (có lẽ xã này được chuyển về Lạc Sơn từ giữa năm 1948 khi Mai Đà từ Liên khu III sáp nhập về Liên khu Việt Bắc.

Ngày 1/5/1953, Ủy ban Kháng chiến hành chính Liên khu III ban hành Quyết định cắt 5 xã phía tây huyện Nho Quan (tức các xã trước đây đưa trở lại tổng Vô Hốt) là Quảng Minh, Phú Thịnh, Đoàn Kết, Bảo Lương và Yên Sơn nhập trở lại huyện Lạc Thủy, đồng thời  đưa huyện Lạc Thủy trực thuộc tỉnh Hòa Bình.

Tháng 8/1954, Ủy ban Kháng chiến hành chính Liên khu III ban hành Quyết định chia xã Thạch Yên thuộc huyện Kỳ Sơn thành hai xã Yên Thượng, Yên Lập; chia xã Cao Phong cùng huyện thành 8 xã Dũng Phong, Nam Phong, Tân Phong, Tây Phong, Thu Phong, Xuân Phong, Đông Phong và Bắc Phong.

Trong năm 1954, Ủy ban Kháng chiến hành chính Liên khu III còn ban hành Quyết định thay đổi đơn vị hành chính của huyện Yên Thủy, theo đó chia xã Quảng Ninh thành hai xã Ngọc Lương và Yên Trị; xã Phú Thịnh thành 3 xã Lạc Thịnh, Yên Lạc, Phú Lai; xã Đoàn Kết thành 2 xã Đoàn Kết, Hữu Lợi, xã Bảo Lương đổi tên thành xã Bảo Hiệu; xã Yên Sơn thành xã Lạc Lương.

Trong khoảng thời gian từ năm 1955 đến năm 2009, tỉnh Hòa Bình tiếp tục có nhiều thay đổi về các đơn vị hành chính từ cấp xã, cấp huyện đến cấp tỉnh như sau:

Ngày 2/1/1955, Ủy ban Kháng chiến hành chính Liên khu III ban hành Quyết định số 357 – QĐ chia xã Thạch Bi huyện Lạc Sơn thành 9 xã: Địch Giáo (5 xóm), Quy Mỹ (5 xóm), Do Nhân (5 xóm), Tuân Lộ (6 xóm), Phong Phú (8 xóm), Phú Vinh (10 xóm), Mỹ Hoa (14 xóm), Quyết Thắng (5 xóm), Phú Cường (11 xóm).

Ngày 15/5/1955, Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định số 530 – TTg tái lập thị xã Hòa Bình; chia xã Yên Quang huyện Kỳ Sơn thành 3 xã Yên Quang, Yên Bình, Yên Trung

– Đầu năm 1956, xã Lũng Vân, huyện Bá Thước, tỉnh Thanh Hóa chuyển sang tỉnh Hòa Bình, sáp nhập vào xã Toàn Thắng, huyện Lạc Sơn (chưa rõ ngày, tháng và cấp thẩm quyền ban hành văn bản).

Ngày 9/8/1956, Ủy ban Hành chính Liên khu III ban hành Quyết định số 489 chia xã Mai Thượng huyện Mai Châu thành 7 xã: Đông Bảng (4 xóm), Tòng Đậu (7 xóm), Thung Khe (3 xóm), Chiềng Sai (7 xóm), Nà Phòn (5 xóm) Nà Mèo (4 xóm, Chiềng Châu (7 xóm), Nà Mèo (4 xóm), Chiềng Châu (7 xóm).

Ngày 25/8/1956, Ủy ban Hành chính Liên khu III ban hành Nghị quyết số 321 NG.Q/TC chia xã Dân Tiến huyện Lạc Sơn thành 5 xã: Xuất Hóa 6 xóm), Yên Hậu (8 xóm), Bình Hẻm (3 xóm), Văn Nghĩa (10 xóm), Mỹ Thành (3 xóm). 

Ngày 15/9/1956, Ủy ban Hành chính Liên khu III ban hành Quyết định số 378 TC/CB chia xã Quyết Thắng huyện Lạc Sơn thành 6 xã: Ngổ Luông, Lỗ Sơn, Do Mô, Yên Phú, Chí Đạo, Định Cư; chia xã Kiến Thiết huyện Lạc Sơn thành 5 xã: Phúc Tuy, Chí Thiện, Ngọc Mỹ, Văn Sơn, Thượng Cốc.

– Ngày 21/9/1956, Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định số 1053- TTg chia huyện Mai Đà thành 2 huyện Đà Bắc và Mai Châu. Huyện Đà Bắc ở phía bắc sông Đà có các xã Toàn Sơn, Tu Lý, Hiền Lương, Hào Tráng. Quy Đức, Đức Nhân. Huyện Mai Châu ở phía nam sông Đà có các xã Mai  Thượng, Pu Bin, Mai Hạ, Bao La, Tân Mai.

– Ngày 10/11/1956, Ủy ban Hành chính Liên khu III ban hành nghị định số 565 TC/CB chia xã Toàn Thắng huyện Lạc Sơn thành 3 xã: Bắc Sơn, Lũng Vân, Nam Sơn; ban hành Quyết định số 566 TC/CB chia xã Quy Đức huy Đà Bắc thành 8 xã Tiền Phong, Dân Lập, Tân Lập, Yên Hòa, Đoàn Kết, Trung Thành, Tân Minh, Cao Sơn.

Ngày 22/1/1957, Ủy ban Hành chính Liên khu III ban hành Quyết nghị  số 140 QN/LK3 chia xã Đức Nhàn huyện Đà Bắc thành 8 xã Đồng Ruộng, Đồng Chum, Mường Chiềng, Tân Pheo, Giáp Đắt, Suối Nánh, Mường Tuổng, Đồng Nghê; ban hành Quyết nghị số 141 QN/LK3 chia xã Tự Do huyện Lạc Sơn thành 3 xã Ngọc Lâu, Ngọc sơn, Tự Do; ban hành Quyết nghị số 142 QN/ LK3 chia xã Cao Dương huyện Lương Sơn  thành 5 xã Tân Thành, Hợp Châu, Long Sơn, Cao Dương, Cao Thắng; ban hành Quyết nghị số 146 QN/LK3 chia xã Mông Hóa huyện Kỳ Sơn thành 4 xã Dân Hòa, Mông Hóa, Phúc Tiến, Dân Hạ; ban hành Quyết nghị số 147 QN/LK3 thành lập  xã Sủ Ngòi huyện Kỳ Sơn trên cơ sở sáp nhập các xóm Sủ (nguyên thuộc xã Trung Minh), Xóm Ngòi và xóm Sủ Bến (nguyên thuộc xã Dân Chủ) cùng huyện; ban hành  Quyết nghị số 148 QN/LK3 chia xã Tiến Xuân huyện Kỳ Sơn thành 2 xã Tiến Xuân, Đông Xuân; ban hành Quyết nghị số 149 QN/LK3 chia xã Đoàn Kết huyện Lạc Sơn thành 5 xã Đông Lai, Thanh Hối, Mãn Đức, Tử Nê, Quy Hậu; ban hành Quyết nghị số 214 QN/LK3 chia xã Kim Bôi huyện Lương Sơn thành 5 xã Kim Tiến, Kim Bình, Kim Bôi, Hợp Kim, Kim Sơn.

Ngày 15/3/1957, Ủy ban Hành chính Liên khu III ban hành Quyết nghị số 206 QN/LK3 đổi tên xã Trung Bì huyện Lương Sơn thành xã Trung Sơn; đổi tên xã Xuân Bì cùng huyện thành xã Thượng Bì.

Ngày 27/7/1957, Ủy ban Hành chính Liên khu III ban hành Quyết nghị số 469 TC/KB chia xã Hùng Sơn huyện Mai Châu thành 3 xã Lâm Sơn, Hùng Sơn, Hòa Sơn; ban hành Quyết nghị số 470 TC/KB chia xã Hợp Thành huyện Lương Sơn thành 3 xã Thanh Nông, Hợp Thành, Thanh Lương; ban hành Quyết nghị số 471 TC/KB chia xã Pù Bin huyện Mai Châu thành 2 xã Pù Bin, Noong Luông.

Ngày 15/10/1957, Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định số 480 – TTg về việc chia huyện Lạc Sơn (trừ xã Ngòi Hoa) làm hai huyện.

Huyện thứ nhất lấy tên là huyện Tân Lạc: đông bắc giáp huyện Kỳ Sơn; tây bắc giáp huyện Đà Bắc; tây giáp huyện Mai Châu; tây nam giáp tỉnh Thanh Hóa; đông nam giáp huyện Lạc Sơn mới, gồm 23 xã: Trung Hòa, Địch Giáo, Tử Nê, Phú Vinh, Quyết Chiến, Thanh Hối, Mỹ Hòa, Bắc Sơn, Lỗ Sơn, Phú Cường, Nam Sơn, Ngổ Luông, Quy Hậu, Quy Mỹ, Đông Lai, Mãn Đức, Do Nhân, Ngọc Mỹ, Tuân Lộ, Phong Phú, Gia Mộ, Lũng Vân, Ngòi Hoa.

Huyện thứ hai lấy tên là huyện Lạc Sơn: đông giáp huyện Lạc Thủy, tây giáp huyện Tân Lạc; nam giáp tỉnh Thanh Hóa; bắc giáp huyện Lương Sơn, gồm 30 xã: Miền Đồi, Định Cư, Hương Nhượng, Văn Sơn, thị trấn Vụ Bản, Liên Vũ, Thượng Cốc, Xuất Hóa, Ngọc Lâu, Phúc Tuy, Nhân Nghĩa, Vũ Lâm, Phú Lương, Tân Lập, Ân Nghĩa, Ngọc Sơn, Tuân Đạo, Yên Nghiệp, Tự Do, Quý Hòa, Tân Mỹ, Chí Đạo, Mỹ Thành, Liên Hòa, Chí Thiện, Văn Nghĩa, Đa Phúc, Yên Phú, Bình Hẻm.

Sáp nhập xã Ngòi Hoa thuộc huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình vào huyện Đà Bắc cùng tỉnh.

Ngày 30/11/ 1957, Ủy ban Hành chính Liên khu III ban hành Quyết nghị số 730 TC/KB chia xã Bao La huyện Mai Châu thành 5 xã Bao La, Piềng Ve, Pà Cò, Cun Pheo, Hang Kia.

Ngày 14/12/1957, Ủy ban Hành chính Liên khu III ban hành Quyết nghị số 741 TC/KB chia xã Nhuận Trạch huyện Lương Sơn thành 2 xã Cư Yên, Nhuận Trạch; ban hành Quyết nghị số 472 TC/KB chia xã Mai Hạ huyện Mai Châu thành 4 xã Mai Hạ, Vạn Mai, Mai Hịch, Xăm Khòe.

Ngày 3/12/1958, bỏ cấp Liên khu, giải thể Ủy ban Hành chính Liên khu III theo Nghị định số 162 – NV của Bộ Nội Vụ.

Ngày 17/4/1959, Thư ký Chính phủ ban hành Nghị định số 153 – TTg về việc chia huyện Lương Sơn làm hai huyện.

  1. Huyện Lương Sơn gồm 22 xã: Hợp Thành, Nhuận Trạch, Thanh Lương, Cự Yên, Thanh Nông, Liên Sơn, Cao Dương, Hùng Sơn, Cao Thắng, Hòa Sơn, Long Sơn, Lâm Sơn, Hợp Châu, Tân Vinh, Tân Thành, Hợp Hòa, Trung Sơn, Cao Sơn, Tiến Sơn, Đào Lâm, Thành Lập, Trường Sơn.
  2. Huyện Kim Bôi gồm 22 xã: Dũng Tiến, Vĩnh Đông, Kim Trung, Thượng Tiến, Kim Bôi, Hợp Đồng, Kim Bình, Đông Bắc, Hợp Kim, Vĩnh Tiến, Kim Tiến, Từ Sơn, Kim Sơn, Nật Sơn, Bắc Sơn, Hạ Bỳ, Trung Bỳ, Thượng Bỳ, Bình Sơn, Sơn Thủy, Lập Chiêng, Hùng Tiến

Ngày 27/2/1961, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 31 – QP

Quyết định số 31-CP chuyển 5 xã Yên Quang, Yên Bình, Yên Trung, Tiến Xuân, Đồng Xuân từ huyện Kỳ Sơn về huyện Lương Sơn cùng tỉnh.

Ngày 19/4/1963, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 50-CP sáp nhập xóm Sủ Bến huyện Kỳ Sơn về thị xã Hòa Bình.

– Ngày 10/5/1963, Bộ Nội vụ banh hành Quyết định số 96-NV sáp nhập xóm Khi và xóm Rộc, xã Yên Phú, huyện Lạc Sơn vào xã Bình Hiểm cùng huyện.

– Ngày 7/12/1963, Bộ Nội vụ ban hành Quyết định số 211 – NV chia 3 xã của huyện Kim Bôi gồm xã Tú Sơn thành 2 xã Đú Sáng, Tú Sơn, xã Dũng Tiến thành 3 xã Mỵ Hòa, Sào Báy, Nuông Dăm; xã Kim Truy thành 3 xã Kim Truy, Nam Thượng, Cuối Hạ và xã Hào Tráng huyện Đà Bắc thành 2 xã Vầy Nưa, Hào Trang.

Ngày 17/8/1964, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 12 b – CP chia huyện Lạc Thủy thành 2 huyện:

1 Huyện Lạc Thủy gồm 12 xã: Hưng Thi, Phú Thành, Phú Lão, Cố Nghĩa, Lạc Long, Đồng Tam, Khoan Dụ, Yên Bồng, Đồng Môn, An Bình, An Lạc và Liên Hòa.

  1. Huyện Yên Thủy gồm 11 xã: Lạc Sĩ, Lạc Lương, Bảo Hiệu, Hữu Lợi, Ngọc Lương, Yên Trị, Phú Lai, Yên Lạc, Lạc Thịnh, Đoàn Kết và Lạc Hưng.

Ngày 21/4/1965, Ủy ban Thường vụ Quốc Hội ban hành Nghị quyết số 103 – NQ-TVQH sáp nhập xã An Hòa huyện Thạch Thất tỉnh Sơn Tây vào xã Tiến Xuân huyện Lương Sơn.

Ngày 13/7/ 1967, Bộ Nội Vụ ban hành Quyết định số 310-NV thành lập thị trấn ở các nông trường quốc doanh: thị trấn nông trường Thanh Hà thuộc huyện Kim Bôi, thị trấn nông trường Sông Bôi thuộc huyện Lạc Thủy.

– Ngày 8/2/1968, Bộ Nội vụ ban hành Quyết định số 45 – NV thành lập thị trấn nông trường Cao Phong thuộc huyện Kỳ Sơn; cắt khu phố Bưng xã Bắc Phong huyện Kỳ Sơn để sáp nhập vào thị trấn nông trường Cao Phong.

Ngày 15/11/1968, Bộ nội vụ ban hành Quyết định số 631 – NV hợp nhất xã Cao Sơn và Đào Lâm thành xã Cao Răm, huyện Lương Sơn.

Ngày 10/9/1969, Bộ Nội vụ ban hành Quyết định số 427 – NV thành lập thị trấn nông trường Mồng 2 tháng 9 thuộc huyện Yên Thủy.

Ngày 26/11/1970, Phủ Thủ tướng ban hành Quyết định số 71-BT đưa các xã Tân Thành, Hợp Châu, Cao Dương, Cao Thắng, Long Sơn, Thanh Lương, Hợp Thành và Thanh Nông huyện Lương Sơn về huyện Kim Bôi.

Ngày 27/11/1975, Quốc hội khóa V, kỳ họp thứ 2 ban hành Nghị quyết hợp nhất tỉnh Hòa Bình và tỉnh Hà Tây thành một tỉnh mới lấy tên là tỉnh Hà Sơn Bình.

Ngày 27/3/1978, Phủ Thủ tướng ban hành Quyết định số 53 – BT hợp nhất 3 xã  Hạ Bì, Trung Bì, Thượng Bì thành xã Hạ Bì; thành lập thị trấn Bo thuộc huyện Kim Bôi.

Ngày 3/8/1978, Phủ Thủ tướng ban hành Quyết định số 134-BT sáp nhập xã Hòa Bình và Thịnh Lang huyện Kỳ Sơn vào thị xã Hòa Bình.

Ngày 11/11/1983, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định tách xã Thái Bình huyện Kỳ Sơn nhập vào thị xã Hòa Bình.

Ngày 27/2/1985, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 55 – HĐBT điều chỉnh địa giới một số xã thuộc huyện Đà Bắc: sáp nhập vào xã Tân Lập và xã Dân Lập thành xã Tân Dân; giải thể xã Hào Tráng; tách 2100 ha đất tự nhiên thuộc xã Tu Lý để lập xã Hào Lý; tách 1.143 ha đất tự nhiên xóm Rằng xã Tu Lý sáp nhập vào xã Cao Sơn cùng huyện.

Ngày 28/2/1985, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 56-HĐBT điều chỉnh địa giới các huyện Đà Bắc, Tân Lạc và Kỳ Sơn: tách xã Ngòi Hoa huyện Đà Bắc nhập vào huyện Tân Lạc; tách xã Thung Nai huyện Đà Bắc nhập vào huyện Kỳ Sơn.

Ngày 6/9/1986, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 103-HĐBT giải thể xã Hùng Sơn và thị trấn nông trường Cửu Long để thành lập thị trấn huyện lỵ huyện Lương Sơn.

Ngày 19/3/1988, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 49-HĐBT thành lập thị trấn Mường Khến huyện Tân Lạc trên cơ sở tách các xóm Chiềng và Minh Khai của xã Mãn Đức; xóm Tân Hồng của xã Quy Hậu.

Ngày 24/4/1988, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 71 – HĐBT sáp nhập 4 xã Dân Chủ, Sủ Ngòi, Thống Nhất và Yên Nông huyện Kỳ Sơn vào thị xã Hòa Bình, đưa thị xã Hòa Bình lên 6 phường (Chăm Mát, Đồng Tiến, Hữu Nghị, Phương Lâm, Tân Hòa, Tân Thịnh), 7 xã (Dân Chủ, Hòa Bình, Sủ Ngòi, Thái Bình, Thịnh Lang, Thống Nhất, Yên Mông), diện tích 13.343 ha.

Ngày 26/12/1990, Ban tổ chức Cán bộ Chính phủ ban hành Quyết định số 581/TCCP thành lập thị trấn huyện lỵ Mai Châu trên cơ sở giải thể xã Chiềng Sại; thành lập thị trấn huyện lỵ Đà Bắc với diện tích 622,5 ha tách từ xã Tu Lý; thành lập thị trấn Chi Nê huyện lỵ huyện Lạc Thủy  trên cơ sở 444,5 ha diện tích tự nhiên của xã Lạc Long, 93 ha diện tích tự nhiên của xã Đồng Tâm; hoạch định địa giới thị trấn Vụ Bản,  huyện lỵ Lạc Sơn tên cơ sở ranh giới đã được thỏa thuận giữa các xã Liên Vũ, Xuất Hóa, Yên Phú và thị trấn Vụ Bản để sau khi phân vạch có diện tích tự nhiên là 247,53 ha; chia xã Liên Hòa huyện Lạc Sơn thành hai xã Bình Cảng và Bình Chân; tách 873 ha diện tích  tự nhiên của xã Thái Bình, 704 ha diện tích tự nhiên của xã Thịnh Lang, thị xã Hòa Bình để lập xã Thái Thịnh.

Ngày 12/8/1991, Quốc hội khóa VIII, kỳ họp thứ 9 ban hành Nghị quyết chia tỉnh Hà Sơn Bình thành hai tỉnh Hòa Bình và Hà Tây. Tỉnh Hòa Bình có diện tích tự nhiên 4.697 km2 với 10 đơn vị hành chính gồm thị xã Hòa Bình và 9 huyện là Lương Sơn, Đà Bắc, Lạc Sơn, Mai Châu, Kỳ Sơn, Kim Bôi, Tân Lạc, Yên Thủy, Lạc Thủy.

Ngày 1/8/1994, Chính phủ ban hành Nghị định số 80-CP thành lập thị trấn Hàng Trạm huyện Yên Thủy trên cơ sở các xóm Hàng Trạm, Yên Bình, Lạc Phong cả xã Yên Lạc và khu dân cư nông trường Mồng 2 tháng 9 trên xã Yên Lạc với diện tích tự nhiên 270 ha, thị trấn huyện lỵ Kỳ Sơn  trên cơ sở 460 ha tách ra từ xã Dân Hà; thị trấn Cao Phong huyện Kỳ Sơn trên cơ sở 944 ha thuộc nông trường Cao Phong (trừ khu dân cư đội sản xuất Tây Phong giao về xã Tây Phong quản lý; giải thể nông trường Mồng 2 tháng 9 và thị trấn nông trường Cao Phong.

Ngày 27/3/1999, Chính phủ ban hành Nghị định số 15/1999/NĐ-CP giải thể nông trường Thanh Hà thuộc huyện Kim Bôi để thành lập thị trấn Thanh Hà thuộc địa bàn xã Thanh Nông; thành lập xã Trung Bì trên cơ sở 1394,4 ha  diện tích tự nhiên của xã Hạ Bì; thành lập xã Thượng Bì trên cơ sở 1.5455,57 ha diện tích tự nhiên của xã Hạ Bì huyện Kim Bôi; thành lập xã Tân Sơn trên cơ sở 1.695,5 ha diện tích tự nhiên của xã  Bao La huyện Mai Châu; chuyển giao xã Đa Phúc từ huyện Lạc Sơn về huyện Yên Thủy.

Ngày 31/8/1999, Chính phủ ban hành Nghị định số 87/1999/NĐ-CP giải thể nông trường Sông Bôi huyện Lạc Thủy, chuyển giao dân cư đang sống trên địa bàn về các xã Đồng Tâm, Lạc Long, Cố Nghĩa, Liên Hòa, Phú Lão, Phú Thành và Hưng Thi.

Ngày 12/12/2001, Chính phủ ban hành Nghị định số 95/2001/NĐ-CP chia huyện Kỳ Sơn thành hai huyện Cao Phong và Kỳ Sơn. Ngày 27-10.2006, Chính phủ ban hành Nghị định số 126/2006/NĐ – CP thành lập thành phố Hòa Bình với diện tích  tự nhiên là 13.276,05 ha, dân số 95.589 người, có 14 đơn vị hành chính cấp phường (Phương Lâm, Đồng Tiến, Chăm Mát, Thái Bình, Tân Thịnh, Tân Hòa, Hữu Nghị, Thịnh Lang) và xã (Dân chủ, Sủ Ngòi, Thống Nhất, Hòa Bình, Yên Mông, Thái Thịnh).

Ngày 29/5/2008, Quốc hội khóa XII kỳ họp thứ 3 ban hành Nghị quyết số 15/2008/QH12 chuyển toàn bộ 1720,36 ha diện tích tự nhiên và dân số hiện tại của 4 xã Đông Xuân, Tiến Xuân, Yên Bình, Yên Trung thuộc huyện Lương Sơn và hai huyện Thạch Thất, Quốc Oai thành phố Hà Nội.

Ngày 14/7/2009, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 31/NQ-CP chuyển xã Trung Minh huyện Kỳ Sơn  về thành phố Hòa Bình; chuyển 2306,34 ha diện tích tự nhiên của toàn bộ xã Yên Quang huyện Lương Sơn về huyện Kỳ Sơn; chuyển 10.607,07 ha diện tích tự nhiên của 7 xã Tân Thành, Cao Dương, Hợp Châu, Cao Thắng, Long Sơn, Thanh Lương, Hợp Thanh của huyện Kim Bôi về huyện Lương Sơn; chuyển toàn bộ thị trấn Thanh Hà và xã Thanh Nông thuộc huyện Kim Bôi về huyện Lạc Thủy; chuyển xã Tân Dân huyện Đà Bắc về huyện Mai Châu.

Sau những điều chỉnh liên tục từ cuộc kháng chiến chống Pháp đến nay, tỉnh Hòa Bình ổn định với diện tích tự nhiên 4.608, 7 km2 bao gồm 1 thành phố, 10 huyện, 191 xã, 11 trấn và 8 phường như sau:

1 Thành phố Hòa Bình, diện tích tự nhiên 148,2 km2, 8 phường (Chăm Mát), Đồng Tiến, Hữu Nghị, Phương Lâm, Tân Hòa, Tân Thịnh, Thái Bình, Thịnh Lang), 7 xã (Dân chủ, Hòa Bình, Sủi Ngòi, Thái Thịnh, Thống Nhất, Trung Minh, Yên Mông).

  1. Huyện Cao Phong, diện tích tự nhiên 254,37 km2, 1 thị trấn (Cao Phong), 12 xã (Bắc Phong, Bình Thanh, Dũng Phong, Đông Phong, Nam Phong, Tân Phong, Tây Phong, Thu Phong, Thung Nai, Xuân Phong, Yên Lập, Yên Thượng).
  2. Huyện Kỳ Sơn, diện tích tự nhiên 210,76km2, 1 thị trấn (Cao Phong), 12 xã (Bắc Phong, Bình Thanh, Dũng Phong, Bình Thanh, Nam Phong, Tân Phong, Tây Phong, Thu Phong, Thung Nai, Xuân Phong, Yên Lập, Yên Thượng.
  3. Huyện Lương Sơn, diện tích tự nhiên 369,85km2, 1 thị trấn (Lương Sơn), 19 xã (Cao Dương, Cao Răm, Cao Thắng, Cư Yên, Hòa Sơn, Hợp Châu, Hợp Hòa, Hợp Thanh, Lâm Sơn, Liên Sơn, Long Sơn, Nhuận Trạch, Tân Thành, Tân Vinh, Thành Lập, Thanh Lương, Tiến Sơn, Trung Sơn)
  4. Huyện Kim Bôi, diện tích tự nhiên 549,5km2, 1 thị trấn (Bo), 27 xã (Bắc Sơn, Bình Sơn, Cuối Hạ, Đông Bắc, Đú Sáng, Hạ Bì, Hợp Đồng, Hợp Kim, Hùng Tiến, Kim Bình, Kim Bôi, Kim Sơn, Kim Tiến, Kim Trung, Lập Chiệng, Mỵ Hòa, Nam Thượng, Nật Sơn, Nuông Dăm, Sào Báy, Sơn Thủy, Thượng Bì, Thượng Tiến, Trung Bì, Tú Sơn, Vĩnh Đồng, Vĩnh Tiến.
  5. Huyện Lạc Sơn, diện tích tự nhiên 581 km2, 1 thị trấn (Vụ Bản), 28 xã (Ân Nghĩa, Bình Cảng, Bình Chân, Bình Hẻm, Chí Đạo, Chí Thiện, Định Cư, Hương Nhượng, Liên Vũ, Miều Đồi, Mỹ Thành, Ngọc Lâu, Ngọc Sơn, Nhân Nghĩa, Phú Lương, Phúc Tuy, Quy Hóa, Tân Lập, Tân Mỹ, Thượng Cốc, Tự Do, Tuân Đạo, Văn Nghĩa, Văn Sơn, Vũ Lấm, Xuất Hóa, Yên Nghiệp, Yên Phú.
  6. Huyện Tân Lạc, diện tích tự nhiên 523 km2, 1 thị trấn (Mường Khến) 23 xã (Bắc Sơn, Địch Giáo, Do Nhân, Đông Lai, Gia Mô, Lỗ Sơn, Lũng Vân, Mãn Đức, Mỹ Hòa, Nam Sơn, Ngổ Luông, Ngọc Mỹ, Ngòi Hoa, Phong Phú, Phú Cường, Phú Vinh, Quy Hậu, Quy Mỹ, Quyết Chiến, Thanh Hối, Trung Hòa, Tuân Lộ, Tử Nê).
  7. Huyện Yên Thủy, diện tích tự nhiên 282,1 km2, 1 thị trấn (Hàng Trạm), 12 xã (Bảo Hiện, Đa Phúc, Đoàn Kết, Hữu Lơi, Lạc Hưng, Lạc Lương, Lạc Sỹ, Lạc Thịnh, Ngọc Lương, Phú Lai, Yên Lạc, Yên Trị).

9 Huyện Lạc Thủy, diện tích tự nhiên 320 km2, 2 thị trấn (Chi Nê, Thanh Hà), 13 xã (An Binh, Khoán Dụ, Lạc Long, Liên Hòa, Phú Lão, Phú Thành, Thanh Nông, Yên Bồng).

  1. Huyện Đà Bắc, diện tích tự nhiên 779,04 km2 , 1 thị trấn (Đà Bắc) 19 xã (Cao Sơn, Đoàn Kết, Đồng Chum, Đồng Nghê, Đồng Ruộng, Giáp Đắt, Hào Lý, Hiền Lương, Mường Chiềng, Mường Tuổng, Suối Nánh, Tân Minh, Tân Pheo, Tiền Phong, Toàn Sơn, Trung Thành, Tu Lý, Vầy Nưa, Yên Hòa).
  2. Huyện Mai Châu, diện tích tự nhiên 564,54 km2, 1 thị trấn (Mai Châu), 22 xã (Ba Khan, Bao La, Chiềng Châu, Cun Pheo, Đồng Bảng, Hang Kia, Mai Hạ, Mai Hịch, Nà Meo, Nà Phòn, Noòng Luông, Pà Cò, Piềng Vế, Phúc San, Pù Bin, Tân Dân, Tân Mai, Tân Sơn, Thung Khe, Tòng Đậu, Vạn Mai, Xăm Khỏe).

Sự xuất hiện của tỉnh Mường, hay nói một cách khác để cho tỉnh Mường hiện diện như mong ước của Minh Mệnh – vị vua luôn quan ngại về cải cách hành chính, hoàn thiện chính sách về miền núi phải trải nghiệm chừng nửa thế kỷ (1836-1886) khi nó gặp được ý tưởng của giới cầm quyền Pháp. Với Minh Mệnh và triều Nguyễn, việc làm đó bao hàm ý nghĩa của một sự xoa dịu nỗi bất mãn của đội ngũ Quan Lang cũng như mọi tầng lớp bình dân trong người Mường cỉ vì luôn bái vọng Lê triều mà các địa bàn nơi họ sinh sống như Lạc Thổ, Phụng Hóa, Yên Hóa trở thành bãi chiến trường trong suốt mấy chục năm, những tên lang, tên tổng như Sơn Âm, Thạch Bị bị xóa bỏ. Với người Pháp, bằng sự hiểu biết và tinh tường về dân tộc học thực dân, họ muốn từ thử nghiệm này sẽ có tiếp những tỉnh Thái, tỉnh Tày, tỉnh Mông. Việc ra đời của một đơn vị hành chính bao quát các ngã tư Hưng Hóa – Ninh Bình – Hà Nội – Sơn Tây (thực ra chỉ là ngã ba Hưng Hóa – Ninh Bình – Sơn Tây vì những vùng đất mới thuộc tỉnh Hà Nội trước sau vẫn của Sơn Tây) cho thấy, khu vực này thời Hùng Vương vốn nằm trong bộ Văn Lang, bộ Tân Hưng, đến thời Lý – Trần – Lê thì thuộc vào các phủ Tràng An – Tây Quan, Gia Hưng và Quảng Oai – Quốc Oai. Đến thời Nguyễn, các phủ trên thuộc và các tỉnh Ninh Bình, Hưng Hóa và Sơn Tây (có một thời thuộc cả Hà Nội) là vùng tụ cư, sinh sống truyền đời của dân tộc Mường. Do đó, tỉnh Mường ra đời là một nhu cầu của thực tiễn lịch sử, không hẳn như nhiều người cho rằng nó nằm trong chuỗi chính sách chia để trị của nhà cầm quyền Pháp. Có một sự thật là, chính bằng  sự khoanh vùng lúc rộng, lúc hẹp và đến nay để lại một tỉnh Hòa Bình rộng chừng 4600km2  là một đóng góp kỳ diệu để bảo lưu và gìn giữ  cũng như cứu vãn  những nét tinh hoa văn hóa tốt đẹp – nhất mà biết bao thế hệ người Mường đã xây đắp nên: Tỉnh Hòa Bình ra đời đã thu lại khung trời cho 4  Mường cốt lõi và tinh túy (Bi, Vang, Thày, Động) nhất của người Mường, đáng được ngợi ca như Quách Trù đã viết trong Hòa Bình Quan Lang lược sử ca âm

Tiếng đồn nhân kiệt địa linh

Chia ra địa phận đã rành năm châu

Kỳ Sơn sở tại ở đầu

Thứ châu Lương, Lạc lại sau Mai, Đà

Lại đem tổng xã chia ra

Tổng đa mười bốn, xã đã tán tư

Có tòa Thủ hiến quan cư

Quyền coi cai trị công tư dân Mường

Nhất quan Tuần phủ chính Lang

Chức quan Án sát chủ trương đứng đầu

Dưới thời Chánh, Phó Tri châu

Đó là chức trị trước sau dân Mường

Còn như các chức Thổ Lang

Lại cho khai phục chức thường trị dân…” 

 


Chú thích:

[1] Đại Nam thực lục, tập chín, Nxb Giáo dục, H. 2006, tr. 408

[2] Hồ sơ E6.30400, lưu tại Trung tâm Lưu trữ quốc gia 1.

[3] Lê Quý Đôn. Kiến văn tiểu lục, Nxb VHTT, H.2007,tr 336 – 337.

Bình luận về bài viết này