Những trận đánh – những chiến dịch hải quân nổi tiếng trong Chiến tranh Thế giới I
Biên dịch : hongsonvh
Trận hải chiến Coronel
Trận hải chiến Coronel diễn ra trong chiến tranh thế giới I vào ngày 01 tháng 11 năm 1914 ngoài khơi bờ biển miền Trung Chile gần thành phố Coronel. Một hải đội của Kaiserliche Marine do Phó Đô đốc Maximilian von Graf Spee chỉ huy đã chạm trán và đánh bại một hải đội của Hải quân Hoàng gia chỉ huy bởi Chuẩn Đô đốc Sir Christopher Cradock.
Trận đánh có lẽ đã diễn ra như là kết quả của một loạt các hiểu lầm. Không vị đô đốc nào dự kiến sẽ phải chiến đấu với một đối phương có đầy đủ lực lượng. Khi hai bên giáp mặt, Cradock cho rằng mệnh lệnh của ông là chiến đấu đến cùng, mặc dù ông lại hoàn toàn không chiếm được ưu thế. Mặc dù Đô đốc Spee đã có một chiến thắng dễ dàng, phá hủy hai tuần dương hạm bọc thép của đối phương và chỉ bị thương có ba thủy thủ, quá trình chiến đấu cũng làm tiêu hao đi một nửa nguồn dự trữ đạn dược của người Đức, mà đây lại là vấn đề không thể thay thế. Cú Shock vì thua trận tại Anh đã dẫn tới một phản ứng ngay lập tức và họ gửi thêm tàu chiến mà sau đó những tầu này đã tiêu diệt phần lớn hải đội của của Spee tại Trận chiến Quần đảo Falkland.
Khúc dạo đầu
Hải quân Hoàng gia, với sự hỗ trợ của các lực lượng hải quân khác thuộc Đồng minh ở viễn đông, đã sớm gây chiến để chiếm các thuộc địa của Đức như Kaiser-Wilhelmsland, Yap, Nauru và Samoa thay vì tìm kiếm hải đội Viễn Đông của Đức do Phó Đô đốc Maximilian von Spee chỉ huy khi họ đã bỏ căn cứ tại tại tô giới của Đức ở Thanh Đảo Trung Quốc vào lúc Nhật Bản tham chiến theo phe Anh. Cuối cùng nhận ra tiềm năng của hải đội Đức trong việc đánh phá tuyến đường giao thông tại Thái Bình Dương của Anh, Bộ trươ?ng ha?i quân đã ra quyết định tiêu diệt hải đội này như là một sự ưu tiên cao độ nhưng người Anh lại tập trung tìm kiếm tại phía tây Thái Bình Dương sau khi hải đội của Spee bắn phá Papeete.
Ngày 05 tháng mười, người Anh đã đọc được từ một thông tin vô tuyến về kế hoạch của Spee để tấn công các con mồi là tầu buôn ở các tuyến đường thương mại quan trọng dọc theo bờ biển phía tây của Nam Mỹ. Chịu trách nhiệm tuần tra trong khu vực này vào thời điểm đó là Hải đội Nam Đại Tây Dương dưới sự chỉ huy của Chuẩn Đô Đốc Sir Christopher Cradock, hải đội này gồm ba tàu tuần dương bọc thép, chiếc HMS Good Hope (Kỳ hạm của Cradock), HMS Monmouth và HMS Defence, chiếc tàu tuần dương hạng nhẹ hiện đại HMS Glasgow, ba tàu tuần dương hạng nhẹ khác, một chiếc tầu chở khách chuyển đổi, chiếc HMS Otranto và hai tầu buôn vũ trang.
Hải đội của Cradock không có các phương tiện chiến đấu hiện đại, hầu hết các thủy thủ đoàn không có kinh nghiệm đặc biệt với các chiếc Good Hope và Monmouth thì thủy thủ đoàn chủ yếu là lực lượng dự bị. Von Spee có một lực lượng hùng mạnh gồm năm tàu chiến, dẫn đầu là hai chiếc tàu tuần dương bọc thép Scharnhorst và Gneisenau cộng với ba tàu tuần dương hạng nhẹ, SMS Dresden, SMS Leipzig và SMS Nürnberg, tất cả các tàu này đều là tầu chiến hiện đại với các sỹ quan được giới thiệu bởi Đại Bộ trưởng Hải quân Alfred von Tirpitz. Tuy nhiên, Cradock chỉ nhận được mệnh lệnh đơn giản là “chuẩn bị chạm trán với đối phương trong đội hình chiến đấu” mà không chỉ rõ những nỗ lực mà Cradock sẽ phải thực hiện, hoặc không nói rõ ràng rằng ông ta nên phải truy tìm von Spee.
Ngày nhận được mệnh lệnh gửi đến cho mình, Cradock hỏi Bộ hải quân để xin phép chia hải đội của mình thành hai thê đội, mỗi thê đội có thể phải đối mặt với von Spee một cách độc lập. Các thê đội sẽ hoạt động ở bờ biển phía đông và phía tây của Nam Mỹ để đề phòng khả năng von Spee Cradock vượt qua và đánh phá vào Đại Tây Dương. Bộ Hải quân đồng ý và thế là chiếc tuần dương hạm bọc thép HMS Defence cùng ba tàu tuần dương và hai tầu buôn vũ trang tạo thành một thê đội ở bờ biển phía đông dưới sự chỉ huy của Chuẩn Đô đốc A.P. Stoddart
Các tàu còn lại thành lập thê đội ở bờ biển phía tây dưới sự chỉ huy của Cradock được tăng cường bởi một chiếc thiết giáp hạm cũ kỹ, chiếc HMS Canopus đến vào ngày 18 tháng mười. Chiếc này đã được thoát khỏi lịch trình tháo dỡ bán đồng nát bởi sự bùng nổ của chiến tranh I và vì cần một cuộc sửa chữa lớn nên tốc độ tối đa của nó chỉ đạt 12 hải lý mỗi giờ (đúng là một con rùa già ?” nhưng trong trận này vì chậm như rùa nên nó đã thoát chết trong trận Coronel). Bộ Hải quân nhận ra rằng tốc độ của nó quá chậm có nghĩa là hạm đội của mình sẽ không đủ nhanh để tham chiến và vì không có chiếc Canopus thì hạm đội không có đủ cơ hội để chống trả lực lượng của von Spee, do đó họ đã nói với Cradock sử dụng chiếc Canopus là “một thành trì và bao xung quanh các tàu tuần dương của chúng ta trong những vùng biển này và như vậy sẽ an toàn tuyệt đối”.
Tham mưu trưởng của Bộ hải quân, Phó Đô đốc Sir Doveton Sturdee, Yêu cầu thêm tầu được gửi để củng cố cho Cradock nhưng điều này đã được phủ quyết bởi First Lord of the Admiralty (Thành viên đứng đầu của Ủy Ban điều hành Bộ hải quân Lords of Admiral) – Winston Churchill và First Sea Lord of the Admiralty ( Chức tương đương với bộ trưởng Hải quân – First Naval Lord) – Hoàng tử Louis của Battenberg. Cradock sau đó yêu cầu chiếc HMS Defence tái gia nhập thê đội của ông nhưng đã bị từ chối với lý do chỉ chiếc Canopus là “đủ để tăng cường lực lượng”.
Thí tốt chốt xe
Ngày 22 tháng 10 Cradock đánh dây thép cho Bộ hải quân rằng ông ta sẽ đi tuần vòng quanh Cape Horn và để chiếc Canopus lại phía sau để hộ tống các tầu chở than của ông. Đô đốc John Fisher thay thế Battenberg làm First Sea Lord of the Admiralty vào ngày 27 tháng 10, và ngày hôm sau Fisher đã ra lệnh cho Cradock không tấn công von Spee mà không có chiếc Canopus. Sau đó ông ra lệnh cho chiếc tàu HMS Defence quay lại để củng cố cho Cradock.
Tuần trước Cradock đã gửi chiếc Glasgow đến Montevideo để nhận bất kỳ thông điệp nào mà Bộ Hải quân có thể đã được gửi đến. Von Spee, biết được sự hiện diện của chiếc Glasgow ở ngoài khơi Coronel, ông ta liền khởi hành từ phía nam Valparaíso với tất cả năm tàu chiến của mình với ý định tiêu diệt nó. Tuy nhiên chiếc Glasgow lại bắt được sóng vô tuyến điện từ một trong các tuần dương hạm của Đức và đã thông báo cho Cradock, làm ông ta quyết định quay hạm đội của mình về phía bắc để đánh chặn các tàu tuần dương của người Đức.
Do von Spee có ưu thế về tốc độ, hỏa lực và hơn hẳn về số lượng, vậy tại sao Cradock lại chọn phương án đối đầu là một câu đố cho các nhà sử gia. Người ta được biết rằng, một người bạn của Cradock tại thời điểm đó đang chờ để ra tòa án binh vì đã tránh đối đầu với một kẻ địch có ưu thế hơn nhưng ông này (bạn của Cradock) lại bị Bộ Hải quân nói rằng có ông ta thừa đủ lực lượng ( Tóm lại đánh thì chết ?” không đánh ra tòa án binh). Quan điểm được chấp nhận trong số các đồng nghiệp của Cradock là ông đã cho rằng “Không có quyền lựa chọn để từ chối đối đầu” Lời giải thích phổ biến hơn là Cradock biết nhiệm vụ của ông là không thể hoàn thành nhưng ông ta muốn gây thiệt hại cho von Spee và buộc ông này phải sử dụng số đạn dược mà ông (von Spee) không thể có bổ sung (Vì ngoài Thanh Đảo ra thì đức không có các căn cứ hải quân ở Hải Ngoại). Ngày 31 tháng 10, ông (Cradock) ra lệnh cho hải đội của mình để chuyển qua đội hình tấn công. Cả hai bên đều dự kiến rằng mình sẽ chỉ gặp một chiếc tàu duy nhất của đối phương cho đến khi họ nhìn thấy nhau vào lúc 04:40, ngày 1 tháng 11.
Trận đánh

Bản đồ có mầu về sự di chuyển của các tầu chiến trong trận hải chiến Coronel. Tàu Anh được thể hiện bằng màu đỏ, tàu Đức được thể hiện bằng màu xanh lam.
Ngày 31 tháng 10 chiếc Glasgow vào cảng Coronel để thu thập tin tức từ lãnh sự Anh. Cũng trong bến cảng có một tàu hậu cần, chiếc Göttingen của hải đội Spee và nó ngay lập tức gửi thông tin bằng radio về việc con tàu Anh ?” chiếc Glasgow mới cập cảng. Trong khi đó chiếc Glasgow lại bắt được tin này và cho rằng tàu chiến của Đức đang ở rất gần. Nhầm lẫn đã xảy ra vì các tàu của Đức đã được hướng dẫn để sử dụng chung cùng một mật danh – đó là Leipzig. Spee quyết định chuyển tàu của mình đến Coronel để bẫy chiếc Glasgow, trong khi Đô đốc Cradock đã vội vã tiến về phía bắc để chặn đường chiếc Leipzig. Không bên nào nhận ra rằng lực lượng chính của hai bên đang tiến gần về phía nhau.
Lúc 9:15 sáng ngày 1 tháng 11 chiếc Glasgow rời cảng để gia nhập vào hải đội của Cradock lúc giữa trưa, ở khoảng 40 dặm về phía tây Coronel. Vùng biển lúc này đang có bão nên không thể gửi một chiếc thuyền để chuyển các thông báo giữa các con tầu lúc này đang trôi dạt thành một dòng trên biển. Vào lúc 13:50 các con tàu hình thành một dòng chiến đấu dài khoảng mười lăm dặm và bắt đầu đi về phía bắc với tốc độ 10 hải lý mỗi giờ tìm kiếm chiếc Leipzig. Lúc 16:17 chiếc Leipzig đi kèm với các con tàu Đức khác đã phát hiện thấy khói từ dòng tầu của Anh. Von Spee ra lệnh tăng tốc tối đa các chiếc Scharnhorst, Gneisenau và Leipzig để tiếp cận tầu Anh ở tốc độ 20 knot, còn các tàu tuần dương hạng nhẹ chậm hơn như chiếc Dresden và Nürnberg thì tụt lại một khoảng xa ở phía sau.
Vào lúc 4,20 các chiếc Glasgow và Otranto đã nhìn thấy khói của tầu Đức ở phía bắc, và sau đó thấy chiếc ba tàu kia ở một khoảng cách chừng mười hai dặm. Hải đội Anh vội đảo ngược hướng, vì vậy cả hai đội tầu cùng di chuyển về phía nam, và một cuộc đuổi bắt bắt đầu nổ ra và kéo dài khoảng 90 phút. Cradock phải đối mặt với một sự lựa chọn, hoặc là tăng tốc ba tuần dương hạm của mình lên tới hai mươi hải lý và bỏ lại chiếc Otranto(đây là một chiếc tầu buôn chuyển đổi ) và chạy thoát khỏi người Đức, hoặc ở lại và chiến đấu cùng với chiếc Otranto ?” mà chiếc này chỉ có thể cố gắng chạy đến 16 knot. Các tàu Đức chạy chậm lại và giữ khoảng cách chừng 15.000 yard để tổ chức lại và chọn cho mình các vị trí tốt nhất, và để chờ đợi thời điểm tấn công tốt nhất, khi người Anh chạy về phía tây và ngược với mặt trời lặn.
Vào lúc 5:10 Cradock quyết định rằng ông ta chấp nhận chiến đấu, và đã cố gắng cho các tàu của ông xích lại gần nhau hơn. Ông thay đổi hướng dịch chuyển để về phía đông nam và cố gắng để tiến lại gần các tàu của Đức trong khi mặt trời vẫn còn rất cao và lại chiếu từ phía sau tàu của ông sẽ làm chói mắt các pháo thủ Đức. Von Spee từ chối không tham chiến và quay tàu của mình đi nhanh hơn, duy trì khoảng cách song song giữa các hải đội ở khoảng 14.000 yard. Vào lúc 6:18 Cradock lại một lần nữa cố gắng để tiến đến gần, lần này ông cho hải đội lao thẳng vào đội hình của đối phương, nhưng lại một lần nữa tầu Đức lại chạy lùi và giữ ở khoảng cách lớn hơn 18.000 yard. Vào lúc 6:50 mặt trời đã lặn, Spee tiến lại gần tới 12.000 yard và bắt đầu nổ súng (von Spee đúng là một con cáo già ?” nhưng phải như vậy mới chắc thắng).
Một số bức ảnh về hạm đội hai phía

Chiếc thiết giáp hạm tiền Dreadnought chậm như rùa HMS Canopus, nhưng chính vì chậm chạp nên nó đã thoát chết trong trận Coronel
Các tàu Đức có mười sáu súng 8,2 inch khi so sánh với hai súng 9,2 inch trên chiếc Good Hope. Một trong số hai khẩu này đã bị trúng đạn trong vòng năm phút khi trận đánh bắt đầu. Những khẩu súng 6 in còn lại trên các tàu Anh đều được đặt trong các hầm súng dọc theo hai bên mạn của các con tàu, mà vùng biển này lại đang có bão không dứt, các con tầu của Anh sẽ bị ngập nước nghiêm trọng nếu các cửa này được mở ra để bắn súng. Chiếc tàu tuần dương chuyển đổi Otranto chỉ có súng 4-inch và đang trở thành một mục tiêu lớn hơn nhiều so với các tàu khác nên nó phải chạy té về phía tây ở tốc độ tối đa và hoàn toàn bị loại khỏi vòng chiến.
Súng 6-inch của các tầu Anh không đủ tầm xa để giao chiến với súng 8-inch của tầu Đức, Cradock vẫn cố gắng để áp sát các con tàu của Đức. Vào lúc 7:30 ông ta vào gần đến 6.000 yard, nhưng khi tầu của ông càng xáp lại gần thì đạn của tầu Đức lại trở thành chính xác hơn. Cả hai chiếc Good Hope và Monmouth đều bị bốc cháy và trở thành mục tiêu dễ dàng cho các pháo thủ Đức vì bây giờ bóng tối đã phủ xuống và lại làm cho tàu Đức biến mất vào bóng tối. Chiếc Monmouth lần đầu tiên trở nên câm lặng. Chiếc Good Hope tiếp tục bắn, tiếp tục áp vào gần tàu Đức hơn nữa và lĩnh nhiều phát đạn hơn và hơn nữa. Vào lúc 19:50 nó cũng ngừng bắn, sau đó phần phía trước của nó phát nổ, sau đó nó vỡ ra và chìm, không có một ai được chứng kiến tận mắt con tầu này chìm ( vì tầu Đức đã lảng vào bóng tối, tầu Anh chiếc thì bỏ chạy, chiếc cũng đang sắp chìm).
Chiếc Scharnhorst chuyển hướng và bắn vào chiếc Monmouth, trong khi đó chiếc Gneisenau quay sang cùng với chiếc Leipzig và Dresden đồng loạt tấn công chiếc Glasgow. Hai tuần dương hạm hạng nhẹ của Đức chỉ có súng 4,1 inch nên làm chiếc Glasgow tương đối ít bị tổn thương, nhưng lúc này nó lại bị tấn công bằng súng 8,2 inch của chiếc Gneisenau. John Luce, đội trưởng của Glasgow, xác định rằng chẳng còn mục tiêu gì để cố mà ở lại và tiếp tục chiến đấu. Ông cũng đã nhận thấy rằng mỗi lần tầu của mình khai hỏa thì ánh lửa lóe lên từ các khẩu súng của ông sẽ được người Đức sử dụng làm mục tiêu cho một loạt bắn mới, vì thế ông cũng cho ngừng bắn. Một khoang của con tàu đã bị ngập, nhưng nó vẫn có thể cố gắng chạy với tốc độ 24 hải lý mỗi giờ. Đầu tiên là ông cho tầu quay lại phía chiếc Monmouth, lúc này nó không còn lửa cháy nhưng vẫn còn nổi. Chẳng còn làm được gì cho con tàu, nó đang từ từ chìm dần nhưng vẫn cố gắng để tiến về phía bãi biển thuộc bờ biển Chile. Chiếc Glasgow chuyển hướng về phía nam và bỏ đi.
Có một số nhầm lẫn giữa các tàu của Đức về số phận của hai tàu tuần dương bọc thép lúc này đã biến mất vào bóng tối sau khi ngừng bắn, và một cuộc săn đuổi lại bắt đầu. chiếc Leipzig thấy một cái gì đó đang cháy nhưng khi đến gần lại chỉ thấy đó là đống đổ nát mà thôi (xác của chiếc Good Hope???). Chiếc Nürnberg, chậm hơn so với các tàu Đức khác nên đã đến muộn và không tham gia trận đánh, nhưng nó lại nhìn thấy chiếc Monmouth, chiếc này đã bị nghiêng và bị hư hỏng nặng nhưng vẫn di chuyển. Sau khi hướng đèn pha vào cột cờ hiệu của nó, một tín hiệu yêu cầu đầu hàng đã bị từ chối, nó nổ súng và cuối cùng đã đánh chìm con tàu này. Vì không có thông tin xác nhận nên von Spee quyết định rằng chiếc Good Hope đã trốn thoát và ra lệnh từ bỏ cuộc tìm kiếm vào lúc 22:15. Và nhớ đến những báo cáo rằng một chiến hạm của Anh đang ở một nơi nào đó, ông quay về phía bắc.
Không có một ai còn sống sót trong cả hai chiếc Good Hope hoặc Monmouth, gần 1.600 sĩ quan và thủy thủ Anh đã chết với Cradock nằm trong số đó. Cả hai chiếc Glasgow và Otranto đều trốn thoát (chiếc tầu chuyển đổi chỉ bị trúng năm phát đạn và có năm người bị thương). Chỉ cần hai phát đạn đã bắn trúng chiếc Scharnhorst, không phát đạn nào trong đó phát nổ: một trong 6-inch vỏ hit trên các vành đai giáp và xuyên vào một kho, nơi mà theo lời của von Spee, “những tạo vật này chỉ nằm đó như một loại thiệp chúc mừng.” Một phát đạn khác trúng vào chiếc ống khói. Đổi lại chiếc Scharnhorst đã cố gắng bắn ít nhất 35 phát đạn trúng vào chiếc Good Hope, nhưng đã phải dùng tới 422 viên đạn 8,2-inch, và chỉ còn lại 350 viên đạn. Bốn phát đạn đã bắn trúng chiếc Gneisenau, một trong số đó như gần như đã làm ngập phòng sĩ quan. Một phát đạn từ chiếc Glasgow bắn trúng tháp pháo phía sau và làm nó tạm thời rời ra. Ba thủy thủ của chiếc Gneisenau đã bị thương, và nó dùng hết 244 viên đạn của mình và chỉ còn lại có 528 viên.
Hậu quả

Ảnh Phó Đô đốc von Spee người đã chiến thắng với tổn thất ít chưa từng thấy tại trận Coronel nhưng lại thất bại và thiệt mạng cùng phần lớn thủy thủ của mình trong trận Falkland
Von Spee sau đó nhận xét về các chiến thuật của Anh. Ông đã có những thông tin sai lạc rằng chiếc tàu chiến Canopus được nhìn thấy ở khu vực này lại được cho là một chiếc thiết giáp hạm tương đối hiện đại lớp Queen, trong khi thực tế thì chiếc tầu tăng viện lại là 1 thiết giáp hạm lớp Canopus loại đã cũ và đi biển rất kém, nhưng dù sao nó vẫn có tới bốn súng 12in và mười súng 6 in. Von Spee tin rằng ông có thể sẽ thua nếu tất cả các tàu Anh đều tham chiến đầy đủ (người Anh có chiếc Canopus đi quá chậm và chiếc Defence cùng vài chiếc nữa đi hướng khác). Mặc dù chiến thắng, ông vẫn bi quan về sự đe dọa của hải quân Anh, và cũng như cơ hội sống còn của mình. Cradock có rất ít thuyết phục về giá trị của chiếc Canopus vì nó quá chậm với tốc độ 12 hải lý để cho phép các tàu khác của mình có thể tự do di chuyển và người chỉ huy nó chỉ là sỹ quan dự bị thiếu kinh nghiệm chiến đấu.
Lời giải thích chính thức của thất bại này khi trình lên Hạ nghị viện bởi Winston Churchill là: “ông ta cảm thấy rằng ông không thể ép đối phương vào một trận chiến ngay lập tức nếu ông còn giữ chiếc Canopus, ông quyết định tấn công họ ngay với chỉ những tàu có tốc độ cao của mình, với niềm tin rằng ngay cả khi bản thân ông bị tiêu diệt … ông sẽ gây thiệt hại cho đối phương mà … nhất định sẽ dẫn đến sự hủy diệt tiếp theo của họ sau đó. “
Ngày 03 tháng 11, các chiếc Scharnhorst, Gneisenau và Nürnberg vào cảng Valparaiso và đã được chào đón như những anh hùng của người Đức. Von Spee từ chối tham gia vào các lễ kỷ niệm: xuất hiện với một bó hoa và ông nhận xét, ” Bó hoa độc đáo này sẽ làm đẹp cho ngôi mộ của tôi?. Ông đã chết với một phần lớn người trên tàu của ông khoảng gần một tháng sau đó tại Trận Quần đảo chiến Falkland ngày 08 tháng 12 năm 1914.
Sự chậm trễ của đường dây thông tin liên lạc
Ngày 30 tháng 10, trước khi trận chiến diễn ra nhưng sự chậm trễ của hệ thống thông tin liên lạc đã làm cho các mệnh lệnh đến quá muộn để có được tác dụng, Đô đốc Jacky Fisher đã được tái bổ nhiệm First Sea Lord thay thế cho Battenberg. Battenberg và Churchill đã mất khá nhiều thời gian để tranh cãi trong việc để giữ lại Battenberg, một hoàng tử Đức, là First Sea Lord chống lại các mối quan tâm rộng rãi rằng Đô đốc cấp cao của Anh đã điều hành một cuộc chiến tranh chống lại đất mà ông ta ra đời. Battenberg là một đô đốc đã được chứng minh là đáng tin cậy, nhưng cuối cùng đã phải bị thay thế vì sức ép của công luận. Tuy nhiên, toàn bộ cuộc khủng hoảng đã thu hút sự chú ý của các sĩ quan cao cấp nhất của bộ ha?i quân sự ra khỏi các sự kiện ở Nam Mỹ. Churchill sau đó nói rằng nếu ông đã không bị phân tâm, ông sẽ phải đặt câu hỏi sâu sắc hơn về những ý định của vị đô đốc của mình ở trên biển.
Churchill đã nhận được một bức điện tín từ Cradock vào ngày 27 Tháng 10, xin cố vấn cho ý định của ông để lại chiếc Canopus ở phía sau, vì tốc độ nó quá chậm, và cũng như những hướng dẫn để đưa những tàu còn lại vào tìm kiếm Spee. Ông này (Cradock) nói lại rằng ông vẫn hy vọng lực lượng tiếp viện sẽ vẫn là chiếc HMS Defence mà trước đó ông này đã được cho biết là sắp tới, và rằng ông đã đưa ra mệnh lệnh cho nó gia nhập hải đội của ông càng sớm càng tốt. Mặc dù chiếc HMS Defence đã từng được gửi đi để củng cố cho lực lượng của Cradock, sau đó nó lại được thu hồi và gọi trở về Địa Trung Hải và sau lại được gửi lại để tạo thành một phần của một hải đội mới đi tuần tra bờ biển phía đông của Nam Mỹ. Một sự bất đồng đã phát sinh giữa Cradock và bộ trươ?ng ha?i quân trong viêc giao nhiệm vụ và sử dụng con tầu này như thế nào?.
Cradock tin rằng ông đã được (các quan chức ngồi ở BHQ) lên kế hoạch để tiến lên và tiếp chiến với von Spee với những lực lượng ông có trong tay, trong khi Bộ Hải quân dự kiến ông nên tập trung các tầu chiến xung quanh chiếc Canopus để tăng cường phòng, và chỉ để trinh sát tình hình hoặc tận dụng bất kỳ tình huống lợi thế nào mà ông có để đánh bại chỉ một phần lực lượng của đối phương. Churchill trả lời qua điện tín rằng chiếc Defencesẽ ở lại bờ biển phía đông và rằng Cradock phải thực hiện nhiệm vụ với lực lượng hiện có của mình mà không đưa ra bất cứ bình luận nào về kế hoạch của Cradock để bỏ lại chiếc Canopus của mình. Churchill đã gửi thông điệp này đến các thành viên của bộ ha?i quân và nói rằng ông không hiểu một cách chính xác Cradock dự định những gì.

Ảnh Chuẩn Đô đốc Cradock, người đã chiến đấu theo kiểu tấn công cảm tử và anh dũng hy sinh trong trận Coronel.
Cradock có thể nhận được thư trả lời của Churchill, vào ngày 01 tháng 11 với các thông điệp nhận được bởi chiếc Glasgow tại Coronel, và ông ta có thời gian để đọc nó trước khi trận chiến. Vì vậy Cradock đã có thể lấy được thông báo mà nó xác nhận lần cuối về những gì ông được mong đợi sẽ phải làm. Khởi hành từ Stanley ( thuộc quần đảo Falkland) ông để lại một lá thư được chuyển tiếp đến Đô đốc Hạm đội Sir Hedworth Meux trong trường hợp ông bị chết. Trong này, ông nhận xét rằng ông không có ý định phải chịu số phận của Chuẩn Đô đốc Troubridge, người trong tháng 8 đã phải ra tòa án binh vì lẩn tránh không tán công vào đối phương, mặc dù ông ta hoàn toàn mất ưu thế về lực lương trong khi ông ta truy đuổi các chiếc Goeben và Breslau. Trong trường hợp của Troubridge tàu Đức đã vượt qua tầu của ông ta và trốn thoát, và đã có thể là von Spee cũng sẽ làm điều tương tự, chạy xung quanh mũi Horn và trở về nước Đức nếu ông (Cradock ) không can thiệp. Viên thống đốc của Falklands báo rằng Cradock có thể đã không hy vọng rằng mình còn sống sót, đồng ý kiến với viên thống đốc, Luce, thuyền trưởng của chiếc Glasgow báo cáo rằng “Cradock không đưa ra lựa chọn lẩn tránh hoặc trì hoãn giao chiến ngay cả nếu có được cơ hội thành công nhỏ nhất”.
Ngày 03 tháng 11, Fisher tại London nhận được tin từ Valparaiso rằng người ta đã nhìn thấy Spee. Ông khẩn trương ra lệnh cho chiếc Defence ra nhập vào đội hình của Cradock, và nhấn mạnh sự cần thiết phải giữ chiếc Canopus cùng với các tàu khác thì vào ngày 04 tháng 11, các báo cáo của người Đức về kết quả của trận chiến đã lan tới được London.
Phản ứng của người Anh
Đây là lần đầu tiên hải quân Anh bị đánh bại đánh bại kể từ Trận Lake Champlain trong Chiến tranh năm 1812 và lần đầu tiên một hải đội hải quân Anh bị đánh bại kể từ Trận Port Grand vào năm 1810. Sáu tuần trước đó một chiếc tàu ngầm Đức đã đánh chìm ba tàu tuần dương Anh đang tuần tra tại English Channel.
Khi tin tức về quy mô của sự thất bại của người Anh, và hậu quả nhục nhã của nó đến được Bộ Hải quân ở London, một lực lượng hải quân mới đã được tập hợp dưới sự chỉ huy của Phó Đô đốc Sturdee. Lực lượng này đã tìm thấy và tiêu diệt lực lượng của Spee tại Trận chiến Quần đảo Falkland.
Chiếc Glasgow thoát khỏi trận chiến và liên tục chạy về phía Nam trong ba ngày với tốc độ 20 hải lý mỗi giờ đi qua Eo biển Magellan. Chiếc Canopus nhận được cảnh báo của chiếc Glasgow qua tin nhắn đã quay về với tốc độ tối đa mà nó có thể đi được – 9 hải lý mỗi giờ. Ngày 6 tháng 11 hai tàu đã gặp nhau và từ từ tiến về phía đảo Falkland. Hai lần trong suốt chuyến đi chiếc Canopus đã báo rằng con tàu đã không thể được kiểm soát. Sau khi ăn than, cả hai tàu được mệnh lệnh tiến về phía Bắc, nhưng một lần nữa chiếc Canopus lại bị vỡ (nồi hơi). Cuối cùng nó nhận được lệnh tiến vào bãi biển ở phần bên trong của Stanley Harbour, Nơi nó có thể phục vụ như là một khẩu đội pháo phòng thủ bờ biển.
Chiếc Otranto chạy 200 dặm và vào biển Thái Bình Dương, trước khi chuyển hướng về phía nam và đi xung quanh mũi Cape Horn. Ngày 04 tháng 11 bộ ha?i quân ra lệnh cho các tàu còn sống sót chuyển đến Abrolhos Rocks, nơi mà một lực lượng mới đã được tập hợp ở đó. Chuẩn Đô đốc Archibald Stoddart với các tàu tuần dương bọc thép Carnarvon và Cornwall gặp họ ở đó và chờ đợi sự xuất hiện của chiếc Defence. Sturdee được lệnh để đi cùng với các tàu chiến Invincible và Inflexible sau đó nhập vào Hạm đội Grand Fleed tại Bắc ha?i để chỉ huy một hải đội mới với các ưu thế rõ ràng hơn hẳn lực lượng của von Spee.
Trận Hải chiến Quần đảo Falkland
Tóm tắt trận đánh
Ngày Ngày 08 tháng 12 năm 1914
Nơi Nam Đại Tây Dương, gần Quần đảo Falkland
Kết quả Anh chiến thắng quyết định
Tham chiến
Hải quân Hoàng gia
Chỉ huy
Doveton Sturdee
Sức mạnh
2 tàu thiết giáp hạm chủ lực
3 tuần dương hạm bọc thép
2 tuần dương hạm hạng nhẹ và
1 thiết giáp hạm tiền Dreadnought
Thương vong
10 bị giết
19 người bị thương
Không có tàu bị mất
Kaiserliche Marine – Hải quân Đế chế
Chỉ huy
Maximilian von Spee ?
Sức mạnh
2 tuần dương hạm bọc thép
3 tuần dương hạm hạng nhẹ
3 tàu vận tải
Thương vong
1.871 thiệt mạng
215 bị bắt
2 tuần dương hạm bọc thép bị đánh chìm
2 tuần dương hạm hạng nhẹ bị đánh chìm
2 tàu vận tải bị bắt và sau đó bị đánh đắm
Trận chiến Quần đảo Falkland là một chiến thắng của Hải quân Anh trước Hải quân Đế quốc Đức vào ngày 8 tháng 12 năm 1914 trong Thế chiến thứ nhất ở Nam Đại Tây Dương. Người Anh nhục nhã vì một thất bại tại trận Coronel ngày 01 tháng 11 đã gửi một lực lượng lớn để theo dõi và tiêu diệt hải đội tàu tuần dương Đức và đã đánh bại họ trong trận Coronel.
Đô đốc Graf Maximilian von Spee chỉ huy hải đội Đức gồm hai tuần dương hạm bọc thép, SMS Scharnhorst và SMS Gneisenau, ba tuần dương hạm hạng nhẹ, Nürnberg, Dresden và Leipzig, và ba tầu vận tải đã cố gắng tấn công căn cứ tiếp vận của Anh tại Stanley trên quần đảo Falkland. Hai tầu tuần dương chủ lực của Anh gồm, các chiếc HMS Invincible và HMS Inflexible, ba tàu tuần dương bọc thép gồm các chiếc HMS Carnarvon, HMS Cornwall và HMS Kent, và hai tuần dương hạm hạng nhẹ gồm các chiếc HMS Bristol và HMS Glasgow đã cập cảng chỉ một ngày trước đó.
Tầm nhìn lúc đó là tối đa: mặt biển rất bình yên với các làn gió nhẹ thổi từ phía tây bắc, mặt trời rất sáng, bầu trời quang đãng. Các tuần dương hạm hải đội Đức đã bị phát hiện rất sớm, và vào lúc 9:00 sáng ngày hôm đó trong khi các tàu tuần dương chủ lực và tàu tuần dương còn lại của Anh đều đang gắt gao tìm tông tích của năm chiếc tàu chiến Đức thì các con tầu này dàn thành hàng và tiến về phía đông nam. Tất cả ngoại trừ chiếc Dresden và chiếc tầu phụ trợ Seydlitz số còn lại đều bị bắt và đánh chìm.
Các tàu tuần dương chủ lực của Anh được lắp tám súng 12-inch (305 mm) trên một chiếc tầu, trong khi các chiếc SMS Scharnhorst và SMS Gneisenau của Spee chỉ có tám súng 8,24-inch (209 mm). Ngoài ra, các tàu tuần dương chủ lực có thể chạy với tốc độ 25 ½ knot/ giờ so với tốc độ 22 ½ knot của các tầu của Spee. Vì vậy, các tàu tuần dương chủ lực của Anh có thể chạy nhanh hơn đối thủ của họ và có ưu thế đáng kể về chất lượng súng. Chiếc thiết giáp hạm lạc hậu tiền Dreadnought, HMS Canopus, cũng đóng tại Stanley để hoạt động như một pháo đài nổi để bảo vệ khu vực này.
Hải đội của Spee
Sau của sự thành công von Spee vào ngày 01 tháng 11 năm 1914 tại trận Coronel ở ngoài khơi bờ biển Valparaiso, Chile, nơi Hải đội Đông Á của Đức đánh chìm các tàu tuần dương HMS Good Hope (Kỳ hạm của Đô đốc Cradock) và HMS Monmouth, lực lượng của Von Spee tiến vào Valparaíso. Theo yêu cầu theo luật quốc tế đối với các tàu tham chiến tại các nước trung lập, các tàu ở lại đó trong vòng 24 giờ trước khi di chuyển đến Mas Afuera, 400 dặm ngoài khơi bờ biển Chile. Ở đó, họ nhận được tin tức về việc chiếc SMS Emden bị tiêu diệt, chiếc này trước đó đã tách ra khỏi hải đội và bị tấn công ở Ấn Độ Dương. Họ cũng biết được của sự sụp đổ của thuộc địa của Đức tại Thanh Đảo – Trung Quốc, vốn đã là cảng nhà của họ. Ngày 15 tháng 11 hải đội chuyển đến Bahia San Quintin trên bờ biển Chile, nơi mà một buổi lễ được tổ chức để phân phát huân chương 300 Iron Cross hạng hai cho các thủy thủ đoàn, và một huân chương chữ thập sắt hạng nhất được trao cho Đô đốc Spee.
Spee cũng nhận được các khuyến nghị nên trở về Đức nếu ông có thể. Các tàu của ông đã sử dụng một nửa số đạn dược của họ tại trận Coronel mà họ không thể có bổ sung, và có những khó khăn để có nhiên liệu – than. Tin tình báo cho rằng các tàu Defence, Cornwall và Carnarvon đang đóng tại sông Plate, và rằng có không có tàu chiến của Anh tại đảo Stanley khi 1 tàu hơi nước ghé qua vào thời gian gần đó. Spee đã quan tâm đến các báo cáo về một tàu chiến Anh, chiếc Canopus, nhưng không ai xác định được rõ vị trí của nó. Ngày 26 tháng 11 hải đội di chuyển tới Cape Horn và đến đó vào ngày 1 tháng 12, sau đó thả neo tại Picton Island, nơi họ ở lại trong ba ngày để lấy than từ một tầu chở hàng của Anh bị bắt giữ. Ngày 06 tháng 12 Spee đề nghị một cuộc tấn công vào quần đảo Falkland trước khi chuyển về phía bắc. Cuộc tấn công này là không cần thiết vì hải đội đã có nhiều than đá ở mức họ có thể mang được, và ý tưởng này bị phản đối bởi hầu hết các thuyền trưởng của Spee, nhưng ông này vẫn quyết định tiến hành cuộc tấn công.
Sự chuẩn bị của người Anh
Ngày 30 Tháng 10 vị Đô đốc về hưu Sir John Fisher được tái bổ nhiệm First Sea Lord để thay thế Đô đốc Hoàng tử Louis của Battenberg, người đã bị buộc phải từ chức vì sự phản đối kịch liệt của công chúng chống lại việc một hoàng tử người Đức đảm nhận việc điều hành hải quân Anh. Ngày 03 tháng 11 Fisher đã được báo rằng có người nhìn thấy Spee ở ngoài khơi Valparaiso và đã có hành động để củng cố Cradock bằng cách tăng cường thêm chiếc HMS Defence lúc này đã được gửi tới tuần tra bờ biển phía đông của Nam Mỹ để củng cố hải đội của ông ta. Khi ông nhận được tin tức vào ngày 4 tháng 11 về sự thất bại tại Coronel. Kết quả là các tàu tuần dương chủ lực Invincible and Inflexible được lệnh rời khỏi Hạm đội Grand Fleed và đi đến Plymouth để sửa chữa lớn và chuẩn bị cho nhiệm vụ ở nước ngoài. Tham mưu trưởng của Admiralty là Phó Đô đốc Doveton Sturdee, Fisher có một bất đồng lâu dài với Sturdee, một trong những người kêu gọi sa thải ông ta (Fisher ) trong lần nắm cương vị First Sea Lord đầu tiên trong năm 1911, do đó, ông nắm lấy cơ hội quyết định bổ nhiệm Sturdee chức Tổng tư lệnh vùng Nam Đại Tây Dương và Thái Bình Dương, để chỉ huy hải đội mới từ chiếc Invincible.
Ngày 11 tháng 11 các chiếc Invincible và Inflexible rời Devonport, mặc dù công việc sửa chữa của chiếc tầu vẫn chưa được hoàn tất và nó khởi hành với những thợ sửa chữa vẫn còn trên boong. Mặc cho tính cấp bách của tình hình và tốc độ tối đa của nó là khoảng 25 hải lý/ giờ, con tàu chỉ đi với tốc độ ổn định 10. Chạy tốc độ cao đòi hỏi phải sử dụng một số lượng than cực lớn, do đó, để hoàn thành cuộc hành trình dài nó là cần thiết để đi ở tốc độ hành trình đây là tốc độ kinh tế nhất. Hai chiếc tàu cũng tải theo rất nhiều vật tư. Tính bảo mật của chuyến hành trình được coi là tối quan trọng để làm Spee bất ngờ, nhưng ngày 17 tháng 11, Trung úy Hirst từ chiếc Glasgow nghe người dân địa phương thảo luận về sự xuất hiện của các con tầu sắp tới ở bờ của Cape Verde. Nhưng những tin tức này đã không đến được tới Spee. Sturdee đến Abrolhos Rocks vào ngày 26 tháng 11 nơi mà Chuẩn Đô đốc Stoddart chờ đợi ông ta với phần còn lại của hải đội.
Ảnh hải đội của Phó Đô đốc Sturdee
Sturdee thông báo ý định của mình để khởi hành đi quần đảo Falkland, ngày 29 tháng 11. Từ đó, các tàu tuần dương hạng nhẹ cao tốc Glasgow và Bristol sẽ tuần tra tìm kiếm Spee và gọi quân tiếp viện nếu họ tìm thấy ông ta. Thuyền trưởng Luce của chiếc Glasgow, người đã chạy thoát trong trận Coronel, phản đối rằng không có cần phải chờ đợi quá lâu và thuyết phục Sturdee khởi hành sớm hơn một ngày. Hải đội này đã bị trì hoãn trong suốt cuộc hành trình 12 giờ khi một sợi dây cáp dùng để kéo các mục tiêu bắn tập đã quấn xung quanh chân vịt cánh quạt của chiếc Invincible, nhưng rồi con tàu đã đến đích vào buổi sáng ngày 07 tháng 12. Hai tàu tuần dương hạng nhẹ thả neo ở phần bên trong của Stanley Harbour, Trong khi các tàu lớn hơn ở lại bến cảng sâu hơn bên ngoài của Port William. Các thợ lặn vẫn cố gắng tháo chiếc cáp bọc xung quanh chiếc chân vịt cánh quạt của chiếc Invincible. Chiếc Cornwall tắt nồi hơi của mình để sửa chữa, và chiếc Bristol tháo dỡ một trong những động cơ của nó. Con tàu nổi tiếng SS Great Britain, bỏ vai trò khiêm tốn là một hầm than để một góp phần vào trận đánh, cung cấp than cho các Invincible và Inflexible. Chiếc tuần dương hạm tầu buôn chuyển đổi HMS Macedonia được lệnh tuần tra các bến cảng, trong khi chiếc Kent duy trì nhiệt độ trong nồi hơi của mình, sẵn sàng để thay thế chiếc Macedonia vào ngày hôm sau, ngày 08 tháng 11. Hạm đội của Spee xuất hiện vào buổi sáng của ngày thứ 8.
Trận đánh
Tuần dương hạm của Spee, các chiếc Gneisenau và Nürnberg, là những chiếc đầu tiên tiếp cận đảo Stanley. Vào lúc đó, toàn bộ hạm đội Anh đã ăn than. Khi Spee gây sức ép tấn công, không chỉ tàu của Sturdee trở thành các mục tiêu dễ dàng, mà bất kỳ con tàu nào muốn cố gắng để thoát ra cũng sẽ phải đối mặt với hỏa lực của toàn bộ các tàu Đức. Chỉ cần một con tàu bị đánh chìm cũng có thể ngăn chặn phần còn lại của hải đội Anh ở trong cảng. May mắn cho người Anh, người Đức đã rất ngạc nhiên bởi một phát súng bắn từ một đối tượng bất ngờ: chiếc Canopus, được đặt như một tầu canh gác và nấp đằng sau một ngọn đồi. Sự kiên này đủ để chặn trước sự tiến quân của người Đức. Các cột ống khỏi kiểu đặc biệt của các tàu chiến chủ lực Anh đã cho thấy rằng họ sẽ phải đối mặt với một kẻ thù được trang bị tốt hơn rất nhiều. Chiếc Kent đã tách ra khá xa khỏi cảng và đã nhận được mệnh lệnh đuổi theo tàu của Spee.
Nắm rõ được tình hình của các tàu Đức, Sturdee ra lệnh cho các thuyền viên tiếp tục ăn sáng khi biết rằng Canopus đã tạo cho họ 1 khoảng thời gian trong khi hơi nước tăng nhiệt độ.
Còn về phía Spee thì với những thuyền viên đang mệt mỏi mỏi của mình cộng với tàu của ông bị yếu thế về hỏa lực, thất bại dường như là không thể tránh khỏi. Nhận thức về nguy hiểm của mình một cách quá muộn màng và đã bỏ lỡ mất cơ hội vàng để bắn hạ hải đội của Sturdee khi tại cảng – Spee và hải đội của ông đã bị đánh tan ngoài biển khơi. Các tầu Anh rời cảng vào khoảng 10:00. Spee đã chạy trước với khoảng cách chừng 15 dặm (24 km) nhưng ánh sáng ban ngày rất rõ để các tàu tuần dương chủ lực nhanh hơn đuổi kịp.
Đó là lúc 13:00 khi tàu tuần dương chủ lực của Anh nổ súng, nhưng chúng phải mất nửa giờ để đưa chiếc Leipzig vào tầm bắn. Nhận thấy rằng ông ta không có hy vọng chạy thoát khỏi tàu Anh, Spee quyết định tấn công vào họ với chỉ một chiếc tàu tuần dương bọc thép của ông, để tạo cơ hội cho các tàu tuần dương hạng nhẹ trốn thoát. Trận đấu súng nổ ra vào lúc 13:20. Các tuần dương hạm bọc thép của Đức có lợi thế về gió vì đang có gió tây bắc làm người Anh bị che khuất mục tiêu bởi khói tầu của họ trong suốt thời gian tác chiến. Tác giả Hans Pochhammer (cựu sỹ quan Đức còn sống sót và thành tù binh sau trận đánh) chỉ ra rằng có một thời gian yên lặng kéo dài trong giai đoạn đầu của trận đánh, đây là lúc người Anh cố gắng buộc Đô đốc Spee phải bỏ vị trí thuận lợi của mình nhưng họ không thể làm được.
Mặc dù các chiếc Scharnhorst và Gneisenau đã thành công bước đầu khi tấn công chiếc Invincible, nhưng chiếc tàu chiến của Anh bị thiệt hại rất ít nhờ lớp giáp hạng nặng của nó. Spee sau đó lại quay sang tìm cách tẩu thoát, nhưng các tàu tuần dương chủ lực lại đưa tầu của ông vào trong tầm bắn chỉ bốn mươi phút sau đó.
Các chiếc Invincible và Inflexible tấn công các chiếc Scharnhorst và Gneisenau, Trong khi Sturdee tách các tuần dương hạm hạng nhẹ của mình ra để theo đuổi các chiếc Leipzig và Nürnberg.
Các chiếc Invincible và Inflexible quay sang nổ pháo mạn vào các tuần dương hạm bọc thép của Đức và Spee phản ứng bằng cách cố gắng để tiến lại gần. Chiếc kỳ hạm của ông ta, chiếc Scharnhorst đã bị thiệt hại lớn ở dưới ống khói, bị cháy và bị nghiêng đi. Tình trạng bị nghiêng trở thành tồi tệ hơn vào lúc 16:04 và và nó đã bị chìm vào lúc 16:17. Chiếc Gneisenau tiếp tục bắn trả và né tránh cho đến lúc 17:15 bởi vào lúc đó nó đã hết đạn dược và thủy thủ đoàn được cho phép đánh chìm nó và chuyển xuống xuồng cứu sinh vào lúc 18:02. Trong lúc con tầu này đang chìm, Đô đốc Sturdee tiếp tục tấn công vào chiếc Gneisenau với hai tàu tuần dương chủ lực của mình và chiếc tàu tuần dương hạng nhẹ Carnarvon, thay vì tách một trong những tàu chiến trên để bắt nốt chiếc Dresden. Trong số thuyền viên của chiếc Gneisenau, 190 đã được cứu khỏi mặt nước. Các tàu tuần dương chủ lực đã bị trúng khoảng 40 phát đạn nhưng chỉ bị chết một người và bốn người khác bị thương.
Trong khi đó các chiếc Nürnberg và Leipzig đã cố chạy thoát khỏi các tuần dương hạm của Anh. Chiếc Nürnberg đã chạy ở tốc độ cao nhất nhưng nó cần sửa chữa, trong khi thủy thủ đoàn của chiếc đuổi theo, chiếc Kent, nồi hơi và động cơ của nó đã được đẩy đến mức giới hạn. Chiếc Nürnberg cuối cùng đã quay sang chiến đấu vào 17:30. Chiếc Kent có ưu thế về pháo và trọng lượng giáp. Chiếc Nürnberg có hai vụ nổ lò hơi vào khoảng 18:30, nó phải trao lợi thế về tốc độ và tính cơ động cho chiếc Kent. Chiếc Nürnberg sau đó chìm vào lúc 19:27 sau khi có một cuộc đuổi bắt kéo dài. Các tàu tuần dương Glasgow và tầu phụ trợ Cornwall truy đuổi chiếc Leipzig tới cùng. Chiếc Glasgow vào gần để kết liễu chiếc Leipzig, chiếc này tuy đã hết đạn nhưng cờ hiệu chiến đấu của nó vẫn tung bay. Nó bắn hai phát pháo sáng (xin ngừng chiến), do đó chiếc Glasgow ngừng nổ súng. Lúc khoảng 21:23, ở hơn 80 dặm (130 km) về phía đông nam của Falklands, nó chìm xuống chỉ để lại 18 người sống sót.
Kết quả
Mười thủy thủ Anh đã thiệt mạng trong trận chiến và 19 người bị thương; không chiếc nào trong số các con tàu của Anh bị hư hỏng nặng. Ngược lại, 1.871 thủy thủ Đức đã thiệt mạng trong trận đánh trong đó có Đô đốc Spee và hai con trai của ông. 215 người sống sót đã được cứu thêm và trở thành tù binh trên tàu của Anh. Hầu hết họ đều đến từ chiếc Gneisenau, 5 người từ chiếc Nürnberg và 18 người từ chiếc Leipzig. Trong số 765 sĩ quan và thủy thủ từ chiếc Scharnhorst chỉ có 7 sống sót.
Trong số 8 chiếc tầu lực lượng Hải quân Đức có hai chiếc chạy thoát: đó là chiếc tầu trợ Seydlitz và tàu tuần dương hạng nhẹ Dresden, nó phải lang thang trong phần lớn một quãng thời gian khoảng ba tháng nữa trước khi thuyền trưởng của nó đã bị dồn ép bởi một hải đội Anh ở ngoài khơi Quần đảo Juan Fernández vào ngày 14 tháng ba năm 1915. Sau một trận chiến ngắn, thuyền trưởng của chiếc Dresden đã ra lệnh di tản khỏi con tầu của ông và sau đó đánh đắm nó bằng cách cho nổ kho đạn dược chính.
Như là một hệ quả của cuộc chiến, chiến thuật tấn công tầu chở hàng của đối phương ở trên các đại dương bằng tàu chiến của Marine Kaiserliche (Hạm đội Đế chế Đức ) đến hồi kết thúc. Tuy nhiên, Đức vẫn tung ra một vài tàu buôn vũ trang để tấn công tầu chở hàng cho đến khi chiến tranh kết thúc (ví dụ: xem chiếc Felix von Luckner).
Các tầu phụ trợ của Đức
Sturdee lưu ý rằng “thông tin đã nhận được từ thuyền trưởng của chiếc HMS Bristol lúc 11:27 rằng ba tàu của đối phương đã xuất hiện ngoài khơi Port Pleasant (cách không xa đảo Stanley trên bờ biển phía đông Falkland), Đây có thể là những tầu vận chuyển than. do đó viên thuyền trưởng này theo lệnh của ông ta cùng với chiếc HMS Macedonia tiến hành tiêu diệt các tàu vận tải “Vào cuối báo cáo của mình, Sturdee ghi lại một cách ngắn gọn vấn đề về các tàu vận tải của Đức” chiếc HMS Macedonia báo cáo rằng chỉ có hai chiếc tàu, tàu hơi nước Baden và Santa Isabel có xuất hiện: cả hai tàu đều bị đánh chìm sau khi đã bắt giữ các thuyền viên”.
Trong đêm ngày 07 tháng 12 các tàu phụ trợ Đức đã di chuyển trong sự bao bọc của bóng tối và neo gần ven bờ.
Tổng số tàu phụ trợ của Đức được cho là có năm chiếc. Hai trong số này, các tàu hơi Mera và Elinore Woermann, khởi hành từ sông River Plate trong ngày 4 tháng 12 năm 1914 ở một địa điểm không xác định và được chất đầy với xi măng, cuộn dây thép gai, các thiết bị phòng thủ và các vật tư dự phòng. Người ta cho rằng họ đã đi về phía quần Falklands, họ trở về sông River Plate khoảng ngày 11 tháng 12.
Chiếc tầu chở than Baden, khoảng 7.500 tấn, là một tàu Hapag được đóng vào năm 1913. Chiếc tầu than Santa Isabel, khoảng 5.200 tấn, là một tầu Hamburg Sud-Amerika được đóng năm 1914. Cả hai đều là những tầu chở than hiện đại có thể làm một bổ sung hữu ích cho các đội tàu vận tải của Anh nếu dùng chúng làm giải thưởng, nhưng cả hai đã bị đánh chìm trong vòng 50 dặm (80 km) gần Port Stanley. Hai tàu hơi nước dường như bị bắt giữ bởi các chiếc Bristol và Macedonia vào khoảng 01:00 chiều và các thuyền viên “có mười phút để bỏ tàu”. Các đội đột kích Anh vẫn còn trên tàu Santa Isabel tới tận bảy giờ, và tám giờ rưỡi trên tàu Baden trước khi các tầu chở than này bị đánh chìm.
Chiếc tàu thứ năm là tầu hành khách Norddeutscher Lloyd Seydlitz, được đóng tại nhà máy đóng tàu F. Schichau trong năm 1903. Nó có khả năng chở 2.000 người, nó đã qua thời kỳ đỉnh cao của mình nhưng vẫn có thể chạy với tốc độ 14 knot (26 km/ h). Những ngày trước khi nổ ra chiến tranh, chiếc Seydlitz khởi hành từ Sydney và đến Argentina mà không hề hấn gì, nó ẩn nấp tại Bahía Blanca ở cuối phía nam tỉnh Buenos Aires. Đầu tháng 11 năm 1914, nó thực hiện các chuyến đi từ đó đến Valparaiso thuộc Chile, nơi này là trung tâm chủ yếu để huy động các lực lượng dự bị của Đức và tình nguyện viên từ tất cả các phần của Nam Mỹ.
Theo hồi ký của Fregattenkapitän (thuyền trưởng tầu Frigate) Hans Pochhammer (Graf Spees Fahrt Letzte, Leipzig, 1924), Sỹ quan Trưởng của tuần dương hạm bọc thép SMS Gneisenau và là sĩ quan cao cấp của Đức còn sống sót trong cuộc chiến Falklands, Hải đội Đông Á của Đức đã được cất giấu trong Vịnh Peñas dọc theo bờ biển phía nam của Chile trong phần sau của tháng 11 năm 1914, để vận chuyển bổ sung đồ cung cấp mới và sửa chữa. Chiếc Seydlitz gia nhập nhóm này vào khoảng ngày 21 tháng 12 từ Valparaiso. Pochhammer đã bị bối rối bởi chiếc tầu khách này, cho dù không có dấu hiệu gì đặc biệt ở phía ngoài, nó được mô tả là “một con tàu bệnh viện”. Ông không thể hiểu được sự cần thiết phải có một con tàu như vậy, vì mỗi chiếc trong số năm tàu chiến được trang bị thiết bị y tế đầy đủ, khoang cho bệnh nhân và có tổng cộng mười một bác sĩ phẫu thuật. Pochhammer khôngđược lên chiếc Seydlitz, và không có thành viên của nó mà ông ta từng nhìn thấy là nhân viên y tế .
Pochhammer xác nhận rằng ba tầu phụ trợ đã có mặt tại Picton Island trong Beagle Channel vào đầu tháng 12 năm 1914. Họ đã không thể đến Falklands cùng với năm chiếc tàu chiến vào tối ngày 07 tháng 12, và bị bỏ lại trước đó. Pochhammer nói rằng trong thời gian ông ta bị giam cầm tại Port Stanley, ông đã bị giam giữ trên chiếc tàu HMS Macedonia trong một khoảng thời gian. Trong những cuộc trò chuyện với người của mình, khi ông hỏi họ về những gì có ở trên chiếc Seydlitz, ông đã kể lại,
“Con tầu thoát khỏi cảng Pleasant như là một con dơi thoát khỏi địa ngục. Các chiếc Macedonia và Bristol mỗi chiếc mải bắt một chiếc tầu hơi nước và điều này cho phép chiếc Seydlitz chạy về phía nam và phía tây để thoát ra, tất cả chúng tôi đều cho rằng nó là một tàu buôn chuyển đổi thành tuần dương có vũ trang?.
Khi đến lãnh thổ của Argentina, chiếc Seydlitz tiến vào San Antonio Oeste và tuyên bố nó là “một con tàu bệnh viện”. Các quan chức Argentina đã không bị mắc lừa và họ giải giới nó như là một tầu phụ trợ của hải quân Đức. Nó đã bị giải giới trong phần còn lại của cuộc chiến.
Hoạt động hải quân trong Chiến dịch Dardanelles
Ngày 19 tháng 02 năm 1915 ?”> 09 tháng 01 năm 1916
Nơi Dardanelles, Thổ Nhĩ Kỳ
Kết quả Chiến thắng quyết định thuộc về Liên minh Trung tâm ( Đức & Thổ)
Tham chiến
Phe Đồng minh
Đế quốc Anh
Pháp
Australia
New Zealand
Nga
Chỉ huy
Sackville Carden
John de Robeck
Émile Guépratte
Sức mạnh
31 tàu thiết giáp
3 tàu tuần dương chủ lực
24 tàu tuần dương
25 tàu khu trục
8 tầu monitor
14 tàu ngầm
50 tàu vận tải
Thương vong
6 tàu thiết giáp chìm
3 tàu thiết giáp bị thiệt hại
1 tàu tuần dương chủ lực bị thiệt hại
1 tàu khu trục bị đánh chìm
8 tàu ngầm bị tiêu diệt
Phe Trung tâm
Đế quốc Ottoman
Đức
Chỉ huy
Fuad Pasa
Cevat Bey
Otto Liman von Sanders
Sức mạnh
Không thống kê được
Thương vong
2 tàu thiết giáp
1 tàu thả thủy lôi
Một số tầu vận tải nhỏ
Các hoạt động của hải quân trong Chiến dịch Dardanelles ở Thế chiến thứ nhất chủ yếu được thực hiện bởi Hải quân Hoàng gia với sự hỗ trợ đáng kể từ Hải quân Pháp và những đóng góp khiêm tốn từ Nga và Australia. Chiến dịch Dardanelles bắt đầu như là một hoạt động hoàn toàn của hải quân. Khi hoạt động này không thành công trong việc vượt qua tuyến phòng thủ của Thổ Nhĩ Kỳ, một cuộc xâm lược vào bán đảo Gallipoli đã được tiến hành, mà trong đó lực lượng hải quân đã đóng một vai trò quan trọng. Trong suốt chiến dịch, các nỗ lực được thực hiện bởi lực lượng tàu ngầm để đi qua eo biển Dardanelles và phá vỡ tuyến đường vận chuyển của Đế quốc Ottoman trong Biển Marmara.
Khúc dạo đầu
Vào lúc khởi điểm của sự bùng nổ của Thế chiến I, Đế chế Ottoman là một cường quốc chưa thực sự ngả về phe nào. Trong khi nước Anh đã có những mối quan tâm mang tính chất lịch sử lâu dài trong khu vực, nước Đức đã có những hoạt động tích cực nhất trong việc tạo dựng một mối quan hệ tốt đẹp với Đế quốc Ottoman. Khi chiến tranh bùng nổ, người Anh bắt giữ hai thiết giáp hạm đang được đóng cho Đế quốc Ottoman mà lúc đó chúng vẫn còn ở xưởng đóng tàu của Anh. Để đáp lại, người Đức đã tặng một món quà gồm hai tàu, chiếc tuần dương hạm chủ lực Goeben và tuần dương hạm hạng nhẹ Breslau để thay thế (những tầu đã bị Anh cướp trắng). Trong khi vẫn còn được điều hành bởi đội thủy thủ người Đức của họ, các tàu được đổi tên thành tương ứng Yavuz Sultan Selim và Midilli, chúng trở thành xương sống của hải quân Ottoman. Thông qua việc sở hữu chiếc Yavuz Sultan Selim, Đế chế Ottoman kiểm soát các tàu chiến mạnh nhất trong biển Hắc ha?i vào năm 1914.
Đóng cửa eo biển Dardanelles
Trong tháng mười năm 1914, Đế quốc Ottoman đóng cửa eo biển Dardanelles đối với vận chuyển Đồng Minh. Điều này xảy ra sau một sự cố ngày 27 tháng 9 khi người Anh hải đội của Anh tại Dardanelles đã bắt giữ một tàu phóng ngư lôi Thổ Nhĩ Kỳ. Thực tế quyết định thực tế đóng cửa eo biển dường như đã được thực hiện bởi các cố vấn quân sự của Đức đang có mặt tại Dardanelles mà không cần sự chuẩn y của chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ. Ngày 28 tháng 10, hạm đội Thổ Nhĩ Kỳ, dẫn đầu là Goeben, bắt đầu bắn phá các con tầu của Nga tại Biển Đen. Các cảng ở Odessa và Sevastopol đã bị bắn phá, một tàu thả thủy lôi và một pháo hạm bị đánh chìm. Mục đích thực sự của cuộc tấn công là triệt phá sức mạnh của hạm đội Biển Đen Nga đã không được hoàn thành. Nga tuyên chiến với Đế chế Ottoman, ngày 2 tháng 11, và người Anh cũng làm thế sau ngày 06 tháng 11. Một cuộc tấn công của Đế quốc Ottoman vào nước Nga qua Dãy núi Kavkaz đã được tiến hành trong tháng 12 đã không thành công (Trận Sarikamish), các nhà lãnh đạo hàng đầu của Nga kêu gọi sự trợ giúp từ nước Anh trong tháng 1 năm 1915.
Winston Churchill, lúc này đang đảm đương chức vụ First Lord of Admiralty, đã lên kế hoạch chiếm giữ eo biển Dardanelles sớm nhất là vào tháng 9 năm 1914. Trong một tờ trình lên thủ tướng, Herbert Asquith vào dịp năm mới, ông đã vạch ra hai mặt trận mới có khả năng chống lại quân Đức, dự định để phá vỡ thế bế tắc và những mất mát to lớn về nhân mạng ở mặt trận phía Tây. Khả năng đầu tiên, đó cũng là lựa chọn ưa thích của ông, là một cuộc xâm lược vào Schleswig-Holstein bằng đường biển, cho phép Đan Mạch tham gia Đồng minh và lập ra cho người Nga một tuyến đường cung cấp thông qua biển Baltic. Một khả năng nữa là một cuộc tấn công vào eo biển Dardanelles, mà một lần nữa cũng sẽ tạo lập cho người Nga một tuyến đường cung cấp và có thể khuyến khích Bulgaria và Romania tham gia phía Đồng minh. Người Nga rất sẵn sàng hỗ trợ, cùng với nhận thức rằng Đế quốc Ottoman là một kẻ thù yếu đuối (” con bệnh của Châu Âu”), thì triển vọng tiến hành một chiến dịch ở eo biển Dardanelles có vẻ rất hấp dẫn.
Phân chia trách nhiệm
Vấn đề có vẻ trở nên phức tạp đối với Churchill trong việc chọn chức vụ First Sea Lord, người mà thường phải là một viên đô đốc cao cấp nhất có trách nhiệm phụ trách hoạt động của hải quân. Churchill đã bổ nhiệm Hoàng tử Louis của Battenberg vào chức vụ này vào năm 1912. Ông phải thay thế Battenberg vì tình cảm bài Đức của công chúng – Battenberg đã trở thành một công dân Anh khi ông gia nhập hải quân ở tuổi 14, nhưng ông vẫn nói tiếng Anh với một giọng Đức. Sự lựa chọn của ông là vị đô đốc 73 tuổi John Fisher, người đã về hưu sau khi nắm giữ chức vụ First Sea Lord vào năm 1910. Fisher được coi là xuất xắc, nhưng phần nào cũng bị suy giảm vì tuổi tác. Một vấn đề nữa nảy sinh ngay lập tức với Churchill, ông là một người có tính cách mạnh mẽ và quen với việc chỉ đạo từ Admiralty, và muốn nhận sự hỗ trợ về chính trị cho các quyết định của mình từ the First Sea Lord hơn là nhận mệnh lệnh từ ông ta.
Fisher được bổ nhiệm vào cuối tháng 10 năm 1914 và ủng hộ chiến dịch mới ở Bắc Âu, mà có lẽ phản ánh mối quan tâm truyền thống của lực lượng hải quân khi kiểm soát được vùng biển Channel. Ông miễn cưỡng tạm đồng ý kế hoạch cho một hoạt động hải quân trong eo biển Dardanelles, nhưng sau đó luôn khẳng định rằng ông không bao giờ ủng hộ nó, và đã luôn luôn tin rằng một hoạt động của hải quân phải nên được kèm theo một lực lượng trên bộ. Churchill và Fisher liên tục cãi nhau trong suốt thời gian của chiến dịch, và Fisher cuối cùng xin từ chức vào ngày 15 tháng 5 1915 sau khi lặp đi lặp lại các mối đe dọa sẽ làm như vậy. Fisher đã viết về Churchill rằng: Ông ta luôn luôn cố thuyết phục tôi. Mối quan hệ của Fisher với Churchill luôn phức tạp và đột ngột từ chức của ông là không có ngoại lệ. Việc Fisher từ chức xảy ra đúng vào lúc chiến dich đang có những tiến triển nghèo nàn nhất, tạo ra sự sụp đổ của chính phủ và Churchill bị thay thế khỏi chức vụ the First Lord, do đó không người nào ( Fisher và Churchill) giành được quyền kiểm soát Bộ Hải quân. Trớ trêu thay, mặc dù họ không thể đồng ý với nhau, cả hai đều tôn trọng lẫn nhau và không mong muốn kế hoạch của người kia thất bại
Ngày 11 tháng 1, theo yêu cầu của Churchill, chỉ huy của Hải đội Hoàng gia Anh tại Địa Trung Hải, Phó Đô đốc S.H. Carden đề xuất một kế hoạch phong tỏa eo biển Dardanelles bằng việc sử dụng thiết giáp hạm, tàu ngầm và tàu quét mìn. Ngày 13 1háng 01, Hội đồng Chiến tranh của Anh phê duyệt kế hoạch này, và Carden được cung cấp bổ sung các tầu thiết giáp tiền Dreadnought, HMS Queen Elizabeth và chiếc tuần dương hạm chủ lực HMS Inflexible, Pháp cung cấp một hải đội gồm bốn tàu chiến tiền Dreadnought, trong khi Nga đóng góp duy nhất một tàu tuần dương hạng nhẹ, chiếc Askold.
Chiến dịch ban đầu được dự định tiến hành hoàn toàn bằng hải quân do việc thiếu quân và do sự độc lập của bộ trươ?ng ha?i quân Winston Churchill, nhưng vào đầu tháng hai người ta mới quyết định rằng có nhiều bộ binh chính quy hơn là điều cần thiết. Lực lượng thủy quân lục chiến Hoàng gia được bổ sung bởi một sư đoàn bộ binh chính quy, sư đoàn 29 Anh. Sư đoàn này xuất phát từ Ai Cập, lính Úc và New Zealand, những người đã trải qua đào tạo vất vả cũng tham gia chiến đấu. Ở giai đoạn đầu của chiến dịch này, vai trò dự kiến của bộ binh là chiếm đóng Istanbul; Việc chiếm eo biển đã được thực hiện bởi các lực lượng hải quân của Entente.
Chiếm giữ eo biển
Ngày 3 tháng 11 năm 1914, Churchill đã ra lệnh tiến hành đợt tấn công đầu tiên của Anh vào Dardanelles sau cuộc chiến giữa Thổ Nhĩ Kỳ và Nga bùng nổ. Đợt tấn công của Anh được thực hiện bởi các tàu chiến của Hải đội Địa Trung Hải của Carden, Indomitable và Indefatigable, cũng như các tàu chiến Pháp đã lỗi thời, các chiếc Suffren và Vérité. Cuộc tấn công này thực sự đã diễn ra trước khi một lời tuyên chiến chính thức đã được công bố bởi nước Anh để chống lại Đế quốc Ottoman.
Mục đích của cuộc tấn công là để kiểm tra độ chắc chắn của các công sự và biện pháp ứng phó của Thổ Nhĩ Kỳ. Kết quả có vẻ như rất đáng khích lệ. Trong hai mươi phút bắn phá, một phát đạn duy nhất bắn trúng vào kho đạn của một pháo đài ở Sedd el Bahr, mũi của bán đảo Gallipoli, loại khỏi vòng chiến (nhưng không phá hủy hoàn toàn) 10 khẩu pháo và giết chết 86 binh sĩ Thổ Nhĩ Kỳ. Tổng số thương vong của cuộc tấn công là 150 người trong đó có 40 người Đức. Hậu quả đáng kể nhất là người Thổ quan tâm hơn và hướng vào để tăng cường phòng thủ của họ, và họ thiết lập việc mở rộng các khu vực thả thủy lôi.
Hệ thống phòng thủ Dardanelles trong tháng hai – ba, 1915 hiển thị bãi mìn, lưới chống tàu ngầm và khẩu đội súng lớn.
Eo biển Dardanelles được bảo vệ bởi một hệ thống pháo đài tăng cường và pháo binh di động được sắp xếp phòng thủ theo các tuyến “bên ngoài”, ” trung gian” và “bên trong” phòng thủ. Trong khi tuyến phòng thủ bên ngoài nằm ở lối vào eo biển và đã được chứng minh dễ bị bắn phá và tấn công, thì tyến phòng thủ bên trong bao phủ các hẻm núi, điểm hẹp nhất của eo biển gần Canakkale. Vượt ra ngoài phòng thủ bên trong, eo biển đã hầu như không còn được ba?o vệ. Tuy nhiên, Nền tảng của sự phòng thủ của eo biển là một loạt 10 bãi thủy lôi được thiết lập trên eo biển gần các hẻm núi và có tổng cộng 370 quả thủy lôi.
Và các sự kiện tiếp theo đã tạo nên Trận Gallipoli, Một trận đánh tiêu hao kéo dài 10-tháng, bắt đầu vào lúc 07:30, ngày 19 tháng hai 1915. Hai tàu khu trục đã được gửi để thăm dò eo biển. Các phát bắn đầu tiên được bắn từ Kumkale bởi các khẩu đội pháo Krupp 24 cm của Orhaniye Tepe lúc 07:58. Các thiết giáp hạm Cornwallis và Vengeance di chuyển vào phía trong và tấn công vào các pháo đài và phat bắn đầu tiên của chiến dịch của người Anh nổ ra vào lúc 09:51 và bởi chiếc Cornwallis. Không có thống kê kết quả của đợt bắn phá thử nghiệm của ngày 03 tháng 11.
Một nỗ lực được tiến hành vào ngày 25 tháng 2. Thời gian này người Thổ Nhĩ Kỳ đã tiến hành di tản tuyến phòng thủ bên ngoài và hạm đội tiến vào eo biển để tấn công tuyến phòng thủ trung gian. Lính Thủy quân lục chiến Hoàng gia đột kích các pháo đài Sedd el Bahr và Kum Kale và gặp ít phản kháng. Ngày 01 tháng 03, bốn thiết giáp hạm tham gia bắn phá tuyến phòng thủ trung gian.
Rất ít các nỗ lực được thực hiện để xóa bỏ các bãi thủy lôi. Các tàu quét mìn, chỉ huy bởi tham mưu trưởng của Carden, Roger Keyes, là những tầu đánh cá được điều khiến bởi các thuyền viên dân sự và họ không muốn làm việc trong tầm đạn. Các cuộc tấn công mạnh mẽ vào eo biển tiếp tục bị cản trở bởi quá trình quét mìn. Sự ỳ trệ của này của hạm đội đã làm tăng cường sự phòng thủ của Thổ Nhĩ Kỳ vốn đã lung lay khi Đồng minh bắt đầu tấn công. Ngày 4 tháng 3, các cuộc tấn công vào phòng thủ bên ngoài đã bị chống trả làm 23 thủy quân lục chiến Anh thiệt mạng.
Chiếc Queen Elizabeth nhận được mệnh lệnh tấn công tuyến phòng thủ bên trong, lúc đầu tiên từ Aegean gần bờ biển GABA Tepe, bắn phá vào toàn bán đảo và sau đó bắn sâu vào bên trong eo biển. Vào đêm 13 tháng 03, tàu tuần dương HMS Amethyst dẫn sáu tàu quét mìn trong một nỗ lực để xóa các bãi thủy lôi, Bốn trong số các tầu đánh cá đã bị đánh chìm và chiếc Amethyst đã bị thiệt hại với 19 người đã bị giết chết từ một phát bắn duy nhất.
Ngày 15 tháng 03, Bộ ha?i quân thông báo với Carden rằng họ đồng ý kế hoạch của ông ta trong việc tiến hành một cuộc tấn công mở rộng vào ban ngày, các tàu quét mìn được điều hành dưới sự bảo vệ trực tiếp của toàn bộ hạm đội. Carden đã bị ốm trong cùng ngày và được thay thế bằng Chuẩn Đô đốc John de Robeck. Một sĩ quan pháo binh có ghi trong nhật ký của mình rằng de Robeck đã bày tỏ mối nghi ngại về khả năng có thể làm câm lặng các khẩu súng của Thổ Nhĩ Kỳ bằng cách bắn phá, và rằng quan điểm này đã được tin tưởng một cách rộng rãi trên tàu.
Trận 18 tháng 3
Trận chiến quyết định diễn ra vào đêm 08 tháng ba khi tàu tha? thủy lôi của Thổ Nhĩ Kỳ chiếc Nusret đặt một đường thủy lôi ở Eren Koy Bay, một vịnh rộng dọc theo bờ biển châu Á ở bên trong lối vào eo biển. Người Thổ Nhĩ Kỳ đã nhận thấy những chiếc tàu Anh quay sang mạn phải vào vịnh khi rút ra. Dòng thủy lôi mới có từ 20 -> 26 quả chạy song song với bờ, và được thả cách nhau khoảng 2,5 yard (4,5 m) và tổng khoảng cách đươc rải thủy lôi là 100 yard (91 m). Nước biển rất trong có nghĩa là các quả thủy lôi có thể được nhìn thấy qua mặt nước bằng máy bay trinh sát.
Kế hoạch của Anh cho 18 tháng 03 là làm câm lặng tuyến phòng thủ bảo vệ gồm 5 bãi mìn đầu tiên, họ xóa các bãi thủy lôi bằng các tàu quét mìn làm viêc qua đêm. Ngày hôm sau, tuyến phòng thủ còn lại quanh eo biển và năm bãi thủ lôi mới đã được xóa bỏ. Các hoạt động vẫn được tiến hành mà không có sự nhận thức của Anh hoặc Pháp có những bãi thủy lôi bổ sung gần đây của Thổ Nhĩ Kỳ.
Các tàu thiết giáp hạm được bố trí thành ba dòng, hai của Anh và một của Pháp, với các tàu hỗ trợ đi bên sườn và hai tàu dự bị.
Các tầu trong dòng đầu tiên của Anh đã nổ súng từ Eren Koy Bay khoảng 11:00. Ngay sau buổi trưa, de Robeck ra lệnh cho dòng Pháp đi qua và bắn vào các pháo đài ở eo biển. Súng của Thổ Nhĩ Kỳ đã bắt đầu ngắm vào các chiếc Gaulois, Suffren, Agamemnon và Inflexible tất cả các chiếc này lần lượt dính đạn. Trong khi đạn của hải quân đã không phá hủy được các khẩu đội pháo Thổ Nhĩ Kỳ, thì nó cũng thành công trong việc tạm thời giảm hỏa lực của họ. Vào khoảng 13:25 pháo phòng thủ Thổ Nhĩ Kỳ đã hầu hết là câm lặng như vậy de Robeck quyết định rút dòng tầu Pháp về và chuyển tiếp dòng thứ hai của tầu Anh cũng như các chiếc Swiftsure và Majestic.
Lúc 13:54 chiếc ouvet thực hiện một cú lướt qua mạn phải vào Eren Koy Bay và nó đâm phairt một quả thủy lôi, bị lật và chìm trong vòng một vài phút, giết chết 600 người. Phản ứng ban đầu của Anh là họ cho rằng con tầu đã bị vì nổ kho đạn bị bắn trúng hoặc đã bị trúng ngư lôi. Hầu hết các báo cáo công bố rằng họ không biết gì về các bãi mìn, tuy nhiên, chuỗi các thủy lôi đã được phát hiện trước đó vào buổi sáng, và nhìn thấy họ chuyển đến Đô đốc de Robeck. Các tầu đánh cá dân sự hoạt động như tàu quét mìn ở phía trước của dòng tầu A đã phát hiện và tiêu diệt ba quả thủy lôi trong một khu vực được cho là đã được dọn sạch, trước khi các đội tầu này phải rút lui vì đạn đối phương. Thông tin này đã không được chuyển đến cho de Robeck.
Người Anh tăng cường tấn công. Khoảng 16:00 chiếc Inflexible bắt đầu quay về và đâm vào một quả thủy lôi ở gần nơi chiếc Bouvet đã chìm, giết chết 30 người. Chiếc tuần dương hạm chủ lực vẫn nổi và cuối cùng tấp được vào một bãi biển trên đảo Bozcaada (Tenedos).
Chiếc Irresistible là chiếc tiếp theo trúng thủy lôi. Khi nó bắt đầu trôi một cách vô vọng, thủy thủ đoàn đã được cứu thoát. De Robeck ra lệnh cho chiếc Ocean tiếp cận chiếc Irresistible nhưng nước được cho là quá nông để thực hiện một cú tiếp cận. Cuối cùng lúc18:05 chiếc Ocean cũng lại đâm vào một quả thủy lôi làm hỏng các thiết bị lái rây tình trạng bất lực tương tự. Chiếc thiết giáp hạm bị bỏ rơi vẫn còn nổi khi người Anh rút lui. Một tàu khu trục được chỉ huy bởi viên thuyền trưởng kỳ cựu Roger Keyes trở lại muộn hơn, đã cố gắng để kéo đi hoặc đánh chìm xác con tầu bị nạn nhưng dù loay hoay trong bốn giờ, không có dấu hiệu kết quả nào của của họ.
Chiếm giữ eo biển
Ngày 3 tháng 11 năm 1914, Churchill đã ra lệnh tiến hành đợt tấn công đầu tiên của Anh vào Dardanelles sau cuộc chiến giữa Thổ Nhĩ Kỳ và Nga bùng nổ. Đợt tấn công của Anh được thực hiện bởi các tàu chiến của Hải đội Địa Trung Hải của Carden, Indomitable và Indefatigable, cũng như các tàu chiến Pháp đã lỗi thời, các chiếc Suffren và Vérité. Cuộc tấn công này thực sự đã diễn ra trước khi một lời tuyên chiến chính thức đã được công bố bởi nước Anh để chống lại Đế quốc Ottoman.
Mục đích của cuộc tấn công là để kiểm tra độ chắc chắn của các công sự và biện pháp ứng phó của Thổ Nhĩ Kỳ. Kết quả có vẻ như rất đáng khích lệ. Trong hai mươi phút bắn phá, một phát đạn duy nhất bắn trúng vào kho đạn của một pháo đài ở Sedd el Bahr, mũi của bán đảo Gallipoli, loại khỏi vòng chiến (nhưng không phá hủy hoàn toàn) 10 khẩu pháo và giết chết 86 binh sĩ Thổ Nhĩ Kỳ. Tổng số thương vong của cuộc tấn công là 150 người trong đó có 40 người Đức. Hậu quả đáng kể nhất là người Thổ quan tâm hơn và hướng vào để tăng cường phòng thủ của họ, và họ thiết lập việc mở rộng các khu vực thả thủy lôi.

Hệ thống phòng thủ Dardanelles trong tháng hai – ba, 1915 hiển thị bãi mìn, lưới chống tàu ngầm và các khẩu đội súng lớn.
Eo biển Dardanelles được bảo vệ bởi một hệ thống pháo đài tăng cường và pháo binh di động được sắp xếp phòng thủ theo các tuyến “bên ngoài”, ” trung gian” và “bên trong” phòng thủ. Trong khi tuyến phòng thủ bên ngoài nằm ở lối vào eo biển và đã được chứng minh dễ bị bắn phá và tấn công, thì tyến phòng thủ bên trong bao phủ các hẻm núi, điểm hẹp nhất của eo biển gần Canakkale. Vượt ra ngoài phòng thủ bên trong, eo biển đã hầu như không còn được ba?o vệ. Tuy nhiên, Nền tảng của sự phòng thủ của eo biển là một loạt 10 bãi thủy lôi được thiết lập trên eo biển gần các hẻm núi và có tổng cộng 370 quả thủy lôi.
Và các sự kiện tiếp theo đã tạo nên Trận Gallipoli, Một trận đánh tiêu hao kéo dài 10-tháng, bắt đầu vào lúc 07:30, ngày 19 tháng hai 1915. Hai tàu khu trục đã được gửi để thăm dò eo biển. Các phát bắn đầu tiên được bắn từ Kumkale bởi các khẩu đội pháo Krupp 24 cm của Orhaniye Tepe lúc 07:58. Các thiết giáp hạm Cornwallis và Vengeance di chuyển vào phía trong và tấn công vào các pháo đài và phat bắn đầu tiên của chiến dịch của người Anh nổ ra vào lúc 09:51 và bởi chiếc Cornwallis. Không có thống kê kết quả của đợt bắn phá thử nghiệm của ngày 03 tháng 11.
Một nỗ lực được tiến hành vào ngày 25 tháng 2. Thời gian này người Thổ Nhĩ Kỳ đã tiến hành di tản tuyến phòng thủ bên ngoài và hạm đội tiến vào eo biển để tấn công tuyến phòng thủ trung gian. Lính Thủy quân lục chiến Hoàng gia đột kích các pháo đài Sedd el Bahr và Kum Kale và gặp ít phản kháng. Ngày 01 tháng 03, bốn thiết giáp hạm tham gia bắn phá tuyến phòng thủ trung gian.
Rất ít các nỗ lực được thực hiện để xóa bỏ các bãi thủy lôi. Các tàu quét mìn, chỉ huy bởi tham mưu trưởng của Carden, Roger Keyes, là những tầu đánh cá được điều khiến bởi các thuyền viên dân sự và họ không muốn làm việc trong tầm đạn. Các cuộc tấn công mạnh mẽ vào eo biển tiếp tục bị cản trở bởi quá trình quét mìn. Sự ỳ trệ của này của hạm đội đã làm tăng cường sự phòng thủ của Thổ Nhĩ Kỳ vốn đã lung lay khi Đồng minh bắt đầu tấn công. Ngày 4 tháng 3, các cuộc tấn công vào phòng thủ bên ngoài đã bị chống trả làm 23 thủy quân lục chiến Anh thiệt mạng.
Chiếc Queen Elizabeth nhận được mệnh lệnh tấn công tuyến phòng thủ bên trong, lúc đầu tiên từ Aegean gần bờ biển GABA Tepe, bắn phá vào toàn bán đảo và sau đó bắn sâu vào bên trong eo biển. Vào đêm 13 tháng 03, tàu tuần dương HMS Amethyst dẫn sáu tàu quét mìn trong một nỗ lực để xóa các bãi thủy lôi, Bốn trong số các tầu đánh cá đã bị đánh chìm và chiếc Amethyst đã bị thiệt hại với 19 người đã bị giết chết từ một phát bắn duy nhất.
Ngày 15 tháng 03, Bộ ha?i quân thông báo với Carden rằng họ đồng ý kế hoạch của ông ta trong việc tiến hành một cuộc tấn công mở rộng vào ban ngày, các tàu quét mìn được điều hành dưới sự bảo vệ trực tiếp của toàn bộ hạm đội. Carden đã bị ốm trong cùng ngày và được thay thế bằng Chuẩn Đô đốc John de Robeck. Một sĩ quan pháo binh có ghi trong nhật ký của mình rằng de Robeck đã bày tỏ mối nghi ngại về khả năng có thể làm câm lặng các khẩu súng của Thổ Nhĩ Kỳ bằng cách bắn phá, và rằng quan điểm này đã được tin tưởng một cách rộng rãi trên tàu.
Trận 18 tháng 3
Trận chiến quyết định diễn ra vào đêm 08 tháng ba khi tàu tha? thủy lôi của Thổ Nhĩ Kỳ chiếc Nusret đặt một đường thủy lôi ở Eren Koy Bay, một vịnh rộng dọc theo bờ biển châu Á ở bên trong lối vào eo biển. Người Thổ Nhĩ Kỳ đã nhận thấy những chiếc tàu Anh quay sang mạn phải vào vịnh khi rút ra. Dòng thủy lôi mới có từ 20 -> 26 quả chạy song song với bờ, và được thả cách nhau khoảng 2,5 yard (4,5 m) và tổng khoảng cách đươc rải thủy lôi là 100 yard (91 m). Nước biển rất trong có nghĩa là các quả thủy lôi có thể được nhìn thấy qua mặt nước bằng máy bay trinh sát.
Kế hoạch của Anh cho 18 tháng 03 là làm câm lặng tuyến phòng thủ bảo vệ gồm 5 bãi mìn đầu tiên, họ xóa các bãi thủy lôi bằng các tàu quét mìn làm viêc qua đêm. Ngày hôm sau, tuyến phòng thủ còn lại quanh eo biển và năm bãi thủ lôi mới đã được xóa bỏ. Các hoạt động vẫn được tiến hành mà không có sự nhận thức của Anh hoặc Pháp có những bãi thủy lôi bổ sung gần đây của Thổ Nhĩ Kỳ.
Các tàu thiết giáp hạm được bố trí thành ba dòng, hai của Anh và một của Pháp, với các tàu hỗ trợ đi bên sườn và hai tàu dự bị.
Các tầu trong dòng đầu tiên của Anh đã nổ súng từ Eren Koy Bay khoảng 11:00. Ngay sau buổi trưa, de Robeck ra lệnh cho dòng Pháp đi qua và bắn vào các pháo đài ở eo biển. Súng của Thổ Nhĩ Kỳ đã bắt đầu ngắm vào các chiếc Gaulois, Suffren, Agamemnon và Inflexible tất cả các chiếc này lần lượt dính đạn. Trong khi đạn của hải quân đã không phá hủy được các khẩu đội pháo Thổ Nhĩ Kỳ, thì nó cũng thành công trong việc tạm thời giảm hỏa lực của họ. Vào khoảng 13:25 pháo phòng thủ Thổ Nhĩ Kỳ đã hầu hết là câm lặng như vậy de Robeck quyết định rút dòng tầu Pháp về và chuyển tiếp dòng thứ hai của tầu Anh cũng như các chiếc Swiftsure và Majestic.
Lúc 13:54 chiếc ouvet thực hiện một cú lướt qua mạn phải vào Eren Koy Bay và nó đâm phairt một quả thủy lôi, bị lật và chìm trong vòng một vài phút, giết chết 600 người. Phản ứng ban đầu của Anh là họ cho rằng con tầu đã bị vì nổ kho đạn bị bắn trúng hoặc đã bị trúng ngư lôi. Hầu hết các báo cáo công bố rằng họ không biết gì về các bãi mìn, tuy nhiên, chuỗi các thủy lôi đã được phát hiện trước đó vào buổi sáng, và nhìn thấy họ chuyển đến Đô đốc de Robeck. Các tầu đánh cá dân sự hoạt động như tàu quét mìn ở phía trước của dòng tầu A đã phát hiện và tiêu diệt ba quả thủy lôi trong một khu vực được cho là đã được dọn sạch, trước khi các đội tầu này phải rút lui vì đạn đối phương. Thông tin này đã không được chuyển đến cho de Robeck.
Người Anh tăng cường tấn công. Khoảng 16:00 chiếc Inflexible bắt đầu quay về và đâm vào một quả thủy lôi ở gần nơi chiếc Bouvet đã chìm, giết chết 30 người. Chiếc tuần dương hạm chủ lực vẫn nổi và cuối cùng tấp được vào một bãi biển trên đảo Bozcaada (Tenedos).
Chiếc Irresistible là chiếc tiếp theo trúng thủy lôi. Khi nó bắt đầu trôi một cách vô vọng, thủy thủ đoàn đã được cứu thoát. De Robeck ra lệnh cho chiếc Ocean tiếp cận chiếc Irresistible nhưng nước được cho là quá nông để thực hiện một cú tiếp cận. Cuối cùng lúc18:05 chiếc Ocean cũng lại đâm vào một quả thủy lôi làm hỏng các thiết bị lái rây tình trạng bất lực tương tự. Chiếc thiết giáp hạm bị bỏ rơi vẫn còn nổi khi người Anh rút lui. Một tàu khu trục được chỉ huy bởi viên thuyền trưởng kỳ cựu Roger Keyes trở lại muộn hơn, đã cố gắng để kéo đi hoặc đánh chìm xác con tầu bị nạn nhưng dù loay hoay trong bốn giờ, không có dấu hiệu kết quả nào của của họ.
Hậu quả
Ngày 18 tháng 3 là một chiến thắng quan trọng cho Thổ Nhĩ Kỳ. Tuy nhiên đã có các cuộc điện đàm giữa các nhà lãnh đạo Anh, đặc biệt là từ Churchill, cho báo chí về cuộc tấn công hải quân. Ngày 20 tháng 3 De Robeck nói rằng ông đang tổ chức lại đội tàu quét mìn của mình, điều này cho thấy ông có ý định tiếp tục tấn công, và Churchill trả lời rằng ông ta sẽ gửi bốn tàu thay thế. Chỉ ngoại lệ có chiếc Inflexible, các con tàu đã bị mất đều đã bị hư hỏng hoặc đã cũ không còn tác dụng để trang bị chiến đấu cho hải quân hiện đại và chúng đã được lựa chọn cho đoàn quân chinh phục là một lựa chọn chính xác bởi vì chúng có thể bị tiêu diệt. Các pháo đài Thổ Nhĩ Kỳ gần như đã cạn kiệt đạn dược của họ nên nếu các cuộc tấn công hải quân được nối lại, quân Đồng minh có thể gặp ít phản kháng từ các khẩu đội. Hơn nữa các thuyền viên của những chiếc tàu chiến bị chìm sẽ thay thế các thường dân trên đánh cá tàu quét mìn đánh cá, làm cho chúng có thể sẵn sàng hơn nữa trong việc tỏa sâu và rộng dưới làn lửa đạn, và hạm đội có những tàu khu trục có một số tầu được trang bị thiết bị rà phá thủy lôi hiện đại, có thể xử lý công việc dễ dàng. Đại sứ Mỹ tại Thổ Nhĩ Kỳ, Henry Morgenthau, báo cáo rằng Istanbul dự kiến sẽ Đồng minh sẽ lại tấn công và rằng người Thổ Nhĩ Kỳ cảm thấy rằng họ chỉ có thể giữ được trong một vài giờ nếu một đợt tấn công nữa đã diễn ra vào ngày19. Hơn nữa, ông nghĩ rằng bản thân Thổ Nhĩ Kỳ có thể tan rã như khi thủ đô của nó bị chiếm đóng. (chính vì lý do này mà sau đó người Thổ phải rời thủ đô tới Ankara)
Nhưng phải lưu ý rằng tại khu vực chính của eo biển hẹp, hơn mười lớp thủy lôi ở tầng nước sâu hơn vẫn hoàn toàn nguyên vẹn. Hơn nữa, chúng được bảo vệ rất tốt bởi các khẩu súng có cỡ nòng nhỏ hơn trên bờ mà người ta chưa thấy bất kỳ hành động nào của chúng trong ngày 18 tháng 3. Những vị trí này và các tuyến phòng thủ khác nữa trong eo biển vẫn chưa hết đạn dược và các nguồn tiếp tế của họ. Thực tế rằng là một hoặc nhiều hơn nữa các cố gắng của hạm đội chưa chắc đã tạo ra kết quả là thông được sang biển Marmara.
Churchill đã dự tính tổn thất này và xem xét chúng như là cái giá phải trả cần thiết về mặt chiến thuật. Trong tháng 6 năm 1915, ông thảo luận về tình hình chiến dịch với phóng viên chiến tranh Ellis Ashmead-Bartlett, người phải trở về London để cung cấp các báo cáo thực tế. Ashmead-Bartlett rất tức giận vì tổn thất về tàu bè và nhân mạng nhưng Churchill trả lời: Đó không phải là điểm quan trọng! Họ đã phải hy sinh.Vấn đề gì sẽ xảy ra nếu bị mất nhiều tầu chiến hơn? Các tàu bị mất đều đã cũ và vô dụng. Với quan điểm để bù đắp cho số bị thiệt hại, Hải quân quyết định đặt hàng 600 chiếc tàu mới trong giai đoạn Đô đốc Fisher làm First Sea Lord, khoảng tương ứng với độ dài của chiến dịch Dardanelles.
De Robeck được báo cáo là đã quẫn trí từ các thiệt hại. Ông đã viết trong ngày 18 tháng 3: Sau khi mất quá nhiều tàu chiến rõ ràng tôi thấy mình sẽ bị thay thế vào sáng ngày mai. Ông ta đã phụ trách một hạm đội bị tổn thất nghiêm trọng nhất của Hải quân Hoàng gia kể từ trận Trafalgar và cảm thấy việc tiếp tục mất đi những con tầu là điều tồi tệ nhất có thể xảy ra đối với một thủy thủ. Ngày 23 tháng ba, ông gửi điện tín cho bộ ha?i quân và yêu cầu có sự hỗ trợ cần thiết của lực lượng trên bộ trước khi tiếp tục chiến dịch. Sau đó ông nói với Ủy ban Dardanelles hiện đang điều tra những thiệt hại của chiến dịch rằng nguyên nhân chính làm thay đổi tâm trí của ông là mối quan tâm là những gì có thể xảy ra trong trường hợp chiến dịch thành công: hạm đội có thể tiến vào İstanbul hoặc vào được biển Marmara nhưng đối phương thì không đơn giản là sẽ đầu hàng như kế hoạch đã dự tính, mà không có bộ binh để đảm bảo an toàn cho lãnh thổ vừa bị chiếm đóng. ( ông này lo xa là Hạm đội Anh sẽ cô độc khi tiến sâu vào đất địch, nhưng đấy là lo hão ?” các tầu Anh chẳng bao giờ bén mảng được đến đó)
Với sự thất bại của các cuộc tấn công bằng hải quân, ý tưởng tung các lực lượng trên bộ để tiến qua các vùng phía sau các pháo đài Dardanelles và chiếm Istanbul đã được chấp nhận thay thế. Ngày 25 tháng 4, Chiến dịch Gallipoli đã được tiến hành. Một lực lượng hải quân đáng kể đã được dành để hỗ trợ các hoạt động đó.
Nỗ lực hơn nữa
Sau kết quả không thành công của chiến dịch trên đất liền cho đến tháng 5, De Robeck cho rằng có thể một lần nữa cố gắng tiến hành một cuộc tấn công bằng hải quân. Churchill hỗ trợ ý tưởng này, ít nhất là khởi động lại nỗ lực để dọn sạch các bãi thủy lôi, nhưng điều này bị phản đối bởi Fisher và các thành viên khác của Hội đồng Admiralty. Bên cạnh những khó khăn tại Dardanelles, nó còn liên quan đến việc nhiều tàu chiếc có thể phải được chuyển đến đây từ Hạm đội Grand Fleed ở Biển Bắc. Bất đồng này góp phần vào nguyên nhân xin từ chức cuối cùng của Fisher, tiếp theo là sự cần thiết cho Asquith ( thủ tướng Anh lúc đó) tìm kiếm các đối tác liên minh để chống đỡ cho chính phủ của ông, Churchill cũng bị miễn nhiệm các hậu quả của chiến dịch. Kế hoạch tấn công hải quân tiếp theo thế là được bỏ xó.
Keyes vẫn là một người ủng hộ kiên định các hoạt động của hải quân và ngày 23 tháng 9 gửi một đề nghị tiếp tục tấn công Dardanelles đển de Robeck. De Robeck không thích kế hoạch này nhưng dù sao cũng chấp nhận nó để gửi lên Bộ Hải quân. Rủi ro đối với tàu Anh đã tăng lên kể từ tháng Ba do sự hiện diện của tàu ngầm Đức tại Địa Trung Hải và biển Marmara, nơi mà các tàu của Anh sẽ trở thành những mục tiêu mời mọc nếu kế hoạch thành công. Mặt khác, bây giờ các tầu quét mìn được trang bị tốt hơn và một số các tàu có lưới quét thủy lôi mà chúng được đặt hy vọng sẽ cải thiện cơ hội của họ đối với các quả mìn nước. Thổ Nhĩ Kỳ bây giờ đã được cung cấp tốt hơn bởi các tuyến đường từ Đức trong khi nhu cầu nhiều nữa hơn cho tàu hải quân của Đồng minh để hỗ trợ các nỗ lực bổ sung vào chiến dịch liên tục của tàu chiến để hỗ trợ cho các tấn công trên đất liền, và hải quân lại phải tham gia chiến dịch đang diễn ra tại Salonica để cố gắng hỗ trợ cho người Serbia. Kitchener (không rõ chức vụ ) đã đưa ra một đề nghị là chiếm lấy Eo đất Bulair bằng việc sử dụng tới 40.000 quân, qua đó cho phép các tàu của Anh trong biển Marmara được tái cung cấp bằng đường bộ từ Vịnh Xeros. Bộ hải quân ý kiến là một cuộc tấn công hải quân không thể được tiến hành mà không có sự hỗ trợ của lực lượng trên bộ để tấn công các pháo đài Dardanelles, đây là điều được coi là không thực tế vì thiếu quân số. Kitchener đã đến thăm khu vực này để kiểm tra các vị trí và nói chuyện với những chỉ huy có liên quan, trước khi đưa ra một báo cáo tư vấn cho một sự rút quân. Ủy ban Chiến tranh phải đối mặt với một sự lựa chọn hoặc là mới một chiến dịch mới không đủ chắc chắn để phá vỡ bế tắc hiện tại, hoặc tiến hành rút quân, đề nghị được đưa ra vào 23 tháng 11 rằng tất cả các đội quân này được triệt thoái.
Phần lớn Nội các Anh ít quan tâm đến hậu quả của việc từ bỏ chiến dịch, đó là hậu quả về mặt chính trị của một thất bại và hậu quả gây thiệt hại cho nước Nga. De Robeck đã được tạm thời thay thế bằng Đô đốc Rosslyn Wemyss trong tháng 11 năm 1915 vì lý do sức khoẻ kém. Ngược lại với De Robeck, Wemyss là một người ủng hộ các hành động xa hơn và lạc quan hơn đáng kể về cơ hội thành công. Trong khi ước tính thiệt hại của de Robeck là 12 tàu chiến, Wemyss coi họ có khả năng mất không quá ba. Đó là đề nghị từ bỏ các hoạt động ở Salonica, nơi mà quân đội không bao giờ trực tiếp tham gia chiến đấu để trợ giúp Serbia, để có thể tăng thêm quân tiếp viện, nhưng điều này đã bị phủ quyết bởi người Pháp. Wemyss tiếp tục một chiến dịch quảng bá về cơ hội thành công. Ông đã có mặt khi de Robeck nhận chức vụ từ Carden, mặc dù Wemyss có thâm niên cao hơn (de Robeck), nhưng ông ta chỉ được chỉ huy căn cứ tại Mudros trong khi de Robeck được làm tư lệnh hạm đội. Churchill đã ưu tiên lựa chọn de Robeck. Ngày 07 Tháng 12 quyết định của Nội các là phải từ bỏ chiến dịch.
Hoạt động của tàu ngầm Đồng minh

Tàu chiến của Đế quốc Ottoman, chiếc Mesudiye đã già nua cũ kỹ tới mức chỉ để làm pháo hạm ven bờ – nhưng đánh chìm được nó cũng là một chiếc công xuất sắc của Đồng minh trong chiến dịch Dardanelles
Các vụ tấn công của tàu ngầm Anh đã bắt đầu vào năm 1914, trước khi chiến dịch Dardanelles bắt đầu. Ngày 13 tháng 12, tàu ngầm Anh HMSB11 đã vào eo biển, tránh năm dòng thủy lôi, và phóng ngư lôi vào chiếc các thiết giáp hạm cũ kỹ của Đế quốc Ottoman, chiếc Mesudiye được chế tạo vào năm 1874, lúc này đang neo như một pháo đài nổi trong Sari Sighlar Bay, phía nam của Canakkale. Chiếc Mesudiye bị lật úp trong 10 phút, nó bẫy nhiều thủy thủ đoàn trong số 673 người. Tuy nhiên vì ở trong vùng nước không sâu, các thân tàu vẫn nổi trên bề mặt nên hầu hết cacsthuyr thủ đã được cứu sống bằng cách đục các lỗ hổng ở thân tàu. Ba mươi bảy người đã chết.
Vụ đánh chìm con tầu trên được cho là một chiến thắng đối với Hải quân Hoàng gia. Thuyền trưởng của chiếc B11, Đại úy ha?i quân Norman Holbrook, được trao tặng huân chương Victoria Cross ?” Huân chương VC đầu tiên của Hải quân Hoàng gia trong chiến tranh – và tất cả 12 thành viên thủy thủ đoàn khác nhận được giải thưởng. Cùng với sự bắn phá của hải quân vào tuyến phòng thủ bên ngoài, ngày 3 tháng 11, thành công này khuyến khích người Anh theo đuổi chiến dịch Dardanelles.
Tàu ngầm đầu tiên của Pháp cũng hoạt động trước khi bắt đầu chiến dịch. Ngày 15 tháng 1 năm 1915, tàu ngầm Pháp chiếc Saphir đã cố gắng để đi vào eo biển hẹp, nó đi qua tất cả 10 dòng thủy lôi, trước khi chạy bị mắc cạn tại điểm Nagara. Nhiều tài liệu viết rằng nó đã bị nổ bởi thủy lôi, bị đánh chìm bởi đạn pháo hay tự đánh đắm, làm 14 người chết và 13 người còn lại trong số thủy thủ đoàn trở thành tù binh chiến tranh.
Ngày 17 tháng 4, chiếc tàu ngầm Anh E15 cố gắng đi qua eo biển nhưng do lặn xuống quá sâu nên bị mắc cạn gần điểm Kepez, mũi phía nam của Sari Sıĝlar Bay, thuộc tầm súng của khẩu đội pháo Dardanos. Bảy thủy thủ đoàn đã thiệt mạng và phần còn lại bị bắt. Chiếc E15 bị mắc cạn là một giải thưởng có giá trị cho người Thổ Nhĩ Kỳ và người Anh đã cố gắng để phá hủy nó cuối cùng họ cũng đánh chìm được nó sau rất nhiều nỗ lực.

Ảnh chiếc E15 khi trở thành tù binh của người Thổ, chiếc này có tải trọng tối đa 807 tấn và tốc độ tối đa 15,25 hải lý/ giờ khi nổi trên mặt nước, 9,75 hải lý giờ khi lặn sâu
Chiếc tàu ngầm đầu tiên thành công trong việc đi qua eo biển là chiếc HMAS AE2, trong đó nó đã đi qua được vào đêm 24/25 tháng 4. Lúc này quân đội đã bắt đầu đổ bộ vào Cape Helles và Anzac Cove tại bán đảo vào lúc bình minh của ngày 25. Mặc dù AE2 đã đánh chìm một tàu tuần dương Thổ Nhĩ Kỳ, chiếc tàu ngầm dưới sự chỉ huy của Trung úy Stoker, đã bị đe dọa bởi các tầu phóng ngư lôi trong một số nỗ lực để đánh chìm một mục tiêu đầy hứa hẹn khác. Ngày 29 Tháng 4, trong vịnh Artaki Bay gần Panderma, chiếc AE2 bị nhìn thấy và nhấn chìm bởi chiếc tầu phóng ngư lôi Sultanhisar của Thổ Nhĩ Kỳ. Bỏ tàu thủy thủ đoàn đã trở thành tù binh chiến tranh. Hiện tai có một nỗ lực được thực hiện bởi các chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ và Úc để xác định vị trí và trục vớt chiếc AE2.
Chiếc tàu ngầm thứ hai đi qua eo biển gặp may mắn hơn chiếc AE2. Ngày 27 tháng 4, chiếc HMSE14, được chỉ huy bởi trung úy Edward Boyle, tiến vào biển Marmara và đã hoành hành trong ba tuần, đây là một trong những hoạt động quân sự thành công nhất mà Đồng Minh đã đạt được trong toàn bộ chiến dịch. Trong khi số lượng và giá trị của các con tàu bị đánh chìm tương đối nhỏ, hiệu quả về truyền thông và tinh thần đối với người Thổ Nhĩ Kỳ lại rất đáng kể. Khi trở về Boyle đã ngay lập tức được trao tặng Huân chương Victoria. Boyle và con tầu E14 đã thực hiện một số chuyến đi vòng quanh biển Marmara. Chuyến đi thứ ba của ông bắt đầu vào ngày 21 Tháng 7, khi ông đi qua eo biển mặc dù Thổ Nhĩ Kỳ đã đặt một lưới chống tàu ngầm ở gần eo biển hẹp.
Các vụ tấn công của tàu ngầm Anh đã bắt đầu vào năm 1914, trước khi chiến dịch Dardanelles bắt đầu. Ngày 13 tháng 12, tàu ngầm Anh HMSB11 đã vào eo biển, tránh năm dòng thủy lôi, và phóng ngư lôi vào chiếc các thiết giáp hạm cũ kỹ của Đế quốc Ottoman, chiếc Mesudiye được chế tạo vào năm 1874, lúc này đang neo như một pháo đài nổi trong Sari Sighlar Bay, phía nam của Canakkale. Chiếc Mesudiye bị lật úp trong 10 phút, nó bẫy nhiều thủy thủ đoàn trong số 673 người. Tuy nhiên vì ở trong vùng nước không sâu, các thân tàu vẫn nổi trên bề mặt nên hầu hết cacsthuyr thủ đã được cứu sống bằng cách đục các lỗ hổng ở thân tàu. Ba mươi bảy người đã chết.
Vụ đánh chìm con tầu trên được cho là một chiến thắng đối với Hải quân Hoàng gia. Thuyền trưởng của chiếc B11, Đại úy ha?i quân Norman Holbrook, được trao tặng huân chương Victoria Cross ?” Huân chương VC đầu tiên của Hải quân Hoàng gia trong chiến tranh – và tất cả 12 thành viên thủy thủ đoàn khác nhận được giải thưởng. Cùng với sự bắn phá của hải quân vào tuyến phòng thủ bên ngoài, ngày 3 tháng 11, thành công này khuyến khích người Anh theo đuổi chiến dịch Dardanelles.
Tàu ngầm đầu tiên của Pháp cũng hoạt động trước khi bắt đầu chiến dịch. Ngày 15 tháng 1 năm 1915, tàu ngầm Pháp chiếc Saphir đã cố gắng để đi vào eo biển hẹp, nó đi qua tất cả 10 dòng thủy lôi, trước khi chạy bị mắc cạn tại điểm Nagara. Nhiều tài liệu viết rằng nó đã bị nổ bởi thủy lôi, bị đánh chìm bởi đạn pháo hay tự đánh đắm, làm 14 người chết và 13 người còn lại trong số thủy thủ đoàn trở thành tù binh chiến tranh.
Ngày 17 tháng 4, chiếc tàu ngầm Anh E15 cố gắng đi qua eo biển nhưng do lặn xuống quá sâu nên bị mắc cạn gần điểm Kepez, mũi phía nam của Sari Sıĝlar Bay, thuộc tầm súng của khẩu đội pháo Dardanos. Bảy thủy thủ đoàn đã thiệt mạng và phần còn lại bị bắt. Chiếc E15 bị mắc cạn là một giải thưởng có giá trị cho người Thổ Nhĩ Kỳ và người Anh đã cố gắng để phá hủy nó cuối cùng họ cũng đánh chìm được nó sau rất nhiều nỗ lực.
Chiếc tàu ngầm đầu tiên thành công trong việc đi qua eo biển là chiếc HMAS AE2, trong đó nó đã đi qua được vào đêm 24/25 tháng 4. Lúc này quân đội đã bắt đầu đổ bộ vào Cape Helles và Anzac Cove tại bán đảo vào lúc bình minh của ngày 25. Mặc dù AE2 đã đánh chìm một tàu tuần dương Thổ Nhĩ Kỳ, chiếc tàu ngầm dưới sự chỉ huy của Trung úy Stoker, đã bị đe dọa bởi các tầu phóng ngư lôi trong một số nỗ lực để đánh chìm một mục tiêu đầy hứa hẹn khác. Ngày 29 Tháng 4, trong vịnh Artaki Bay gần Panderma, chiếc AE2 bị nhìn thấy và nhấn chìm bởi chiếc tầu phóng ngư lôi Sultanhisar của Thổ Nhĩ Kỳ. Bỏ tàu thủy thủ đoàn đã trở thành tù binh chiến tranh. Hiện tai có một nỗ lực được thực hiện bởi các chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ và Úc để xác định vị trí và trục vớt chiếc AE2.
Chiếc tàu ngầm thứ hai đi qua eo biển gặp may mắn hơn chiếc AE2. Ngày 27 tháng 4, chiếc HMSE14, được chỉ huy bởi trung úy Edward Boyle, tiến vào biển Marmara và đã hoành hành trong ba tuần, đây là một trong những hoạt động quân sự thành công nhất mà Đồng Minh đã đạt được trong toàn bộ chiến dịch. Trong khi số lượng và giá trị của các con tàu bị đánh chìm tương đối nhỏ, hiệu quả về truyền thông và tinh thần đối với người Thổ Nhĩ Kỳ lại rất đáng kể. Khi trở về Boyle đã ngay lập tức được trao tặng Huân chương Victoria. Boyle và con tầu E14 đã thực hiện một số chuyến đi vòng quanh biển Marmara. Chuyến đi thứ ba của ông bắt đầu vào ngày 21 Tháng 7, khi ông đi qua eo biển mặc dù Thổ Nhĩ Kỳ đã đặt một lưới chống tàu ngầm ở gần eo biển hẹp.
Một tàu ngầm nữa của Anh cũng có một hành trình thành công vào biển Marmara là chiếc E11, được chỉ huy bởi Trung úy Martin Nasmith, người được trao huân chương VC và thăng cấp đại úy vì thành tích của mình. Ông đã đánh chìm hoặc vô hiệu 11 chiếc tàu trong ba ngày từ ngày 24 tháng 5 tại cảng Rodosto trên bờ biển Thrace. Ngày 08 tháng 8, trong một đi tuần tiếp theo vào biển Marmara, chiếc E11 phóng ngư lôi vào chiếc thiết giáp hạm Hayreddin Barbarossa của Thổ Nhĩ Kỳ.
Một số nhiệm vụ phá hoại được thực hiện bởi các nhóm được đổ bộ từ tàu ngầm. Ngày 08 tháng 9, thiếu úy H.V. Lyon từ tàu ngầm E2 của Anh, bơi vào bờ gần Küçükçekmece (Thrace) để cho nổ một cây cầu đường sắt. Cây cầu đã bị phá hủy nhưng Lyon đã không bao giờ trở về. Các nỗ lực cũng đã được thực hiện để phá vỡ tuyến đường sắt chạy sát mặt nước dọc theo Vịnh İzmit trên bờ biển châu Á. Vào đêm 20 tháng 8, trung úy D?Oyly Hughes từ chiếc E11 bơi lên bờ và cho nổ tung một phần của tuyến đường sắt, ông đã có được phần thưởng Distinguished Service Order cho những nỗ lực của mình. Ngày 17 tháng 7, chiếc tàu ngầm E7 đã bắn phá các tuyến đường sắt và sau đó đã phá hủy hai chiếc xe lửa đã buộc phải dừng lại.
Người Pháp cũng tiếp tục các nỗ lực để vào biển Marmara. Tiếp theo thành công của chiếc AE2 và E14, chiếc Tàu ngầm Pháp Joule cố gắng đột nhập vào ngày 01 tháng 5, nhưng đã đâm vào một quả thủy lôi và đã bị đắm với toàn bộ thủy thủ đoàn. Các nỗ lực tiếp theo đã được thực hiện bởi chiếc Mariotte ngày 27 tháng 7. Tuy nhiên, chiếc Mariotte thất bại trong việc vượt qua lưới chống tàu ngầm mà chiếc E14 đã làm được và bị buộc phải bề mặt. Sau khi bị bắn trúng từ các khẩu đội pháo bờ biển, chiếc Mariotte bị đánh đắm. Ngày 04 tháng 09, vẫn chiếc lưới này đã đánh bắt được chiếc E7 khi nó đang cố gắng để bắt đầu một chuyến đi vào biển Marmara.
Tàu ngầm đầu tiên của Pháp vào biển Marmara là chiếc Turquoise. Tuy nhiên, nó đã buộc phải quay lại và, ngày 30 tháng 10, khi cố gắng quay trở lại qua eo biển, nó bị mắc cạn dưới một pháo đài và bị bắt giữ nguyên vẹn. Các thủy thủ đoàn 25 người được bắt làm tù binh và các tài liệu chi tiết về kế hoạch hoạt động của quân Đồng minh đã bị phát hiện, bao gồm một lịch điểm hẹn với tàu ngầm Anh, chiếc E20, ngày 6 tháng 11. Điểm hẹn này được canh trừng bởi tầu ngầm Đức, chiếc U-14 , nó đã phóng ngư lôi và đánh chìm chiếc E20 giết chết tất cả chỉ trừ chín người trong số thủy thủ đoàn. Chiếc Turquoise được vớt lên và đưa vào biên chế (nhưng khônglàm nhiệm vụ) Hải quân Thổ Nhĩ Kỳ với cái tên Onbasi Müstecip, được đặt theo tên chỉ huy pháo thủ đã buộc tầu Pháp phải đầu hàng.
Chiến dịch tàu ngầm của Đồng Minh trong biển Marmara là một trong những cuộc tấn công thành công đáng kể trong trận Gallipoli. Giữa tháng 4 năm 1915 đến tháng 1 năm 1916, chín tàu ngầm của Anh đã đánh chìm hai tàu thiết giáp (mặc dù đã lỗi thời) và một tàu khu trục, năm pháo hạm, chín tàu vận tải, bảy tầu cung cấp, 35 tàu hơi nước và 188 các tàu loại nhỏ hơn với tổn thất tổng cộng 8 tàu ngầm của Đồng Minh bị đánh chìm tại eo biển hoặc trong biển Marmara. Người Thổ Nhĩ Kỳ bị buộc phải từ bỏ việc sử dụng biển Marmara như là một tuyến đường vận chuyển.
Năm 1993, một hoạt động khai thác than cho thấy xác tàu của một tàu ngầm Đức, chiếc UB-46, gần bờ biển Kemerburgaz. Sau khi thực hiện nhiệm vụ trong Hắc ha?i, trên đường trở về, chiếc UB-46 trúng một quả thủy lôi gần Karaburun và chìm với tất cả các thủy thủ của nó. Con tầu này bây giờ được trưng bày tại Bảo tàng Hải quân Besiktas tại Istanbul.
Hỗ trợ cho bộ binh
Quân đoàn viễn chinh Địa Trung Hải được thành lập vào ngày 12 tháng 3 dưới sự chỉ huy của tướng Sir Ian Hamilton bao gồm khoảng 70.000 binh sĩ. Tại một cuộc họp ngày 22 tháng 03, bốn ngày sau sự thất bại của hải quân, người ta đã quyết định sử dụng bộ binh để chiếm bán đảo Gallipoli và chiếm giữ các pháo đài, mở đường cho hải quân đi qua vào biển Marmara. Công việc chuẩn bị cho đổ bộ kéo dài một tháng, tạo điều kiện cho quân phòng thủ Thổ Nhĩ Kỳ có dư dật thời gian để củng cố.
Các nhà lập kế hoạch Anh vẫn đánh giá thấp khả năng của người Thổ Nhĩ Kỳ và, lúc bắt đầu, nó được dự kiến là cuộc xâm lược nhanh chóng. Một lực lượng Anh đổ bộ vào Cape Helles, sau đó tiến sâu sáu dặm (11 km) vào ngày đầu tiên và vào ngày thứ hai, sẽ chiếm cao nguyên Kilitbahir, ở đây họ có thể nhìn ra eo biển hẹp. Nhưng như thực tế đã xảy ra, trong tám tháng chiến đấu người Anh không bao giờ vượt quá được nhiều hơn năm dặm Anh (9 km) và mục tiêu ngày đầu tiên của họ là Krithia và đồi Achi Baba vẫn còn nằm ngoài tầm với.
Cuộc đổ bộ vào Gallipoli là chiến dịch đổ bộ lớn nhất trong chiến tranh. Cuộc đổ bộ ban đầu được thực hiện tại Cape Helles do Sư đoàn 29 Anh và tại GABA Tepe do Quân đoàn hỗn hợp Úc và New Zealand. Cuộc đổ bộ thứ hai, bị mất liên lạc và binh sỹ được đổ bộ quá xa bờ bắc tại một nơi nay là Anzac Cove. Trong cả hai đợt đổ bộ, các tàu chiến đều làm lực lượng yểm trợ hai bên cánh chỉ có ngoại lệ ở V Beach tại Helles nơi chiếc SS River Clyde được sử dụng như một chiếc tầu đổ bộ và chuyên chở 2.000 binh lính.
Trong đợt đổ bộ tại Anzac Cove, lớp quân đổ bộ đầu tiên đã đi thuyền vào bờ từ ba chiếc thiết giáp hạm lớp Formidable; các chiếc HMS London, Prince of Wales và Queen. Lớp đổ bộ thứ hai đã lên bờ từ bảy tàu khu trục. Dưới sự hỗ trợ của các chiếc Triumph, Majestic tuần dương Bacchante cùng với các thu?y phi cơ từ tàu sân bay Ark Royal và chiếc khinh khí cầu Manica đây là chiếc khí cầu được dùng để cung cấp tọa độ bắn cho pháo binh.
Các đợt đổ bộ vào tại Cape Helles được trải rộng trên năm bãi biển với những hướng chính là bãi biển V & W ở mũi của bán đảo. Trong khi đổ bộ vào Anzac được lập kế hoạch như là một cuộc triển khai bất ngờ mà không có các đợt bắn phá sơ bộ, thì cuộc đổ bộ vào Helles được thực hiện sau khi các bãi biển và pháo đài đã bị bắn phá bởi các tàu chiến. Việc đổ bộ vào S Beach bên trong các eo biển đã được thực hiện từ tàu chiến Cornwallis và hầu như không gặp mây kho khăn. Lực lương đổ bộ vào W Beach được sự yểm hộ từ các tàu tuần dương HMS Euryalus và thiết giáp hạm Implacable và các tầu này cũng mang quân để đổ bộ vào bãi biển X. Các tàu tuần dương HMS Dublin và thiết giáp hạm Goliath hỗ trợ các đổ bộ vào bãi biển X cũng như đổ một cuộc bộ nhỏ ở phía bắc trên bờ biển Aegean tại bãi biển Y, sau đó đợt này bị từ bỏ.
Vai trò của lực lượng hải quân này là để hỗ trợ đổ bộ, sử dụng súng hải quân để thay thế pháo dã chiến, loại vũ khí đang bị thiếu hụt một cách trầm trọng trong năm 1915. Tuy nhiên, với một vài ngoại lệ ngoạn mục, hiệu suất của súng hải quân đối với các mục tiêu đất liền được cho là không cao, đặc biệt là để tấn công vào các vị trí cố thủ. Các khẩu súng thiếu độ cao ( do hạn chế của tháp pháo) do đó phải bắn với một đạn đạo không đổi, cùng với nền tảng của súng vốn đã không ổn định, dẫn đến kết quả kém chính xác giảm.
Tuy nhiên súng của tàu chiến cũng chứng minh hiệu quả chống lại các đợt tấn công của bộ binh. Ngày 27 tháng 4, trong cuộc tấn công đầu tiên của Thổ Nhĩ Kỳ ở Anzac, trung đoàn 57 Thổ Nhĩ Kỳ tấn công đổ dốc ra biển trong phạm vi của chiếc thiết giáp hạm Hill trong tầm ngắm của chiếc Queen Elizabeth, chiếc nàyắn một loạt sáu phát đạn 15 in, ngăn chặn hoàn toàn cuộc tấn công này. Ngày 28 tháng 4, gần bãi biển Y, chiếc Queen Elizabeth quan sát thấy một đợt tấn công của khoảng 100 lính Thổ Nhĩ Kỳ. Một phát đạn 15 in có chứa 24.000 viên được bắn ra ở tầm ngắn và xóa sổ toàn bộ toán quân trên. Đối với phần còn lại của chiến dịch người Thổ Nhĩ Kỳ rất cảnh giác với di chuyển trong phạm vi tầm nhìn của chiến hạm.
Cũng trong ngày 27 tháng tư, một quả khinh khí cầu phát hiện một con tàu vận tải Thổ Nhĩ Kỳ di chuyển gần eo biển. Chiếc Queen Elizabeth, đang đóng ở ngoài khơi GABA Tepe, đã bắn qua bán đảo, ở khoảng cách trên 10 dặm (khoảng 20 km), và đánh chìm chiếc tầu vận tải với phát bắn thứ ba của nó. Đối với phần lớn thời gian chiến dịch người Thổ Nhĩ Kỳ vận chuyển quân qua các tuyến đường sắt mặc dù các vật tư khác tiếp tục được vận chuyển bằng tàu trên biển Marmara và Dardanelles.
Người ta đã nhanh chóng trở nên rõ ràng rằng cuộc chiến ở Gallipoli sẽ không là một chiến dịch nhanh chóng hay dễ dàng. Tại Helles, nơi ban đầu là chiến trường chính, một loạt các trận đánh tốn kém ở tiền tuyến chỉ nhằm để tiến gần hơn tới Krithia. Qua những trận chiến, hải quân tiếp tục cung cấp hỗ trợ bằng oanh tạc hải pháo. Tuy nhiên, trong tháng 5 đã có ba tàu chiến bị trúng ngư lôi, chiếc Goliath trong Morto Bay ngày 12 tháng 5, chiếc Triumph ngoài khơi Anzac, ngày 25 tháng 5 và chiếc Majestic ngoài khơi bãi biển W ngày 27 tháng 5. Chiếc Goliath bị đánh chìm bởi tàu phóng ngư lôi của Thổ Nhĩ Kỳ, chiếc Muavenet, trong khi hai chiếc khác bị đánh chìm bởi tầu ngầm Đức, chiếc U-21. Sau những mất mát trên, sự hỗ trợ thường xuyên từ các thiết giáp hạm giảm xuống với việc sự rút đi của chiếc thiết giáp hạm có giá trị HMS Queen Elizabeth bởi Bộ ha?i quân ngay sau khi tin tức về việc mất chiếc HMS Goliath đến tai họ. Để thay thế các thiết giáp hạm việc hỗ trợ của hải pháo được tiến hành bởi các tàu tuần dương, tàu khu trục và tầu lớp Monitor mục đích thiết kế là để chuyên bắn phá ven biển.
Một khi lực lượng hải quân trở nên cảnh giác với mối đe dọa tàu ngầm, thiệt hại đã chấm dứt. Ngoại trừ các hoạt động liên tục của tàu ngầm Đồng Minh trong eo biển Dardanelles và biển Marmara, thiệt hại đáng kể duy nhất của hải quân sau tháng 5 là chiếc tầu khu trục lớp Laforey, chiếc HMS Louis, vào ngày 31 tháng 10 bị mắc cạn ngoài khơi Suvla trong một cơn gió mạnh và bị vỡ. Việc tiêu hủy con tàu bị mắc kẹt được tăng tốc bởi sự trợ giúp từ súng của người Thổ Nhĩ Kỳ.
Một tàu ngầm nữa của Anh cũng có một chuyến hành trình thành công vào biển Marmara đó là chiếc E11, được chỉ huy bởi Trung úy Martin Nasmith, người được trao huân chương VC và thăng cấp đại úy vì thành tích của mình. Ông đã đánh chìm hoặc vô hiệu 11 chiếc tàu trong ba ngày từ ngày 24 tháng 5 tại cảng Rodosto trên bờ biển Thrace. Ngày 08 tháng 8, trong một đi tuần tiếp theo vào biển Marmara, chiếc E11 phóng ngư lôi vào chiếc thiết giáp hạm Hayreddin Barbarossa của Thổ Nhĩ Kỳ.
Một số nhiệm vụ phá hoại được thực hiện bởi các nhóm được đổ bộ từ tàu ngầm. Ngày 08 tháng 9, thiếu úy H.V. Lyon từ tàu ngầm E2 của Anh, bơi vào bờ gần Küçükçekmece (Thrace) để cho nổ một cây cầu đường sắt. Cây cầu đã bị phá hủy nhưng Lyon đã không bao giờ trở về. Các nỗ lực cũng đã được thực hiện để phá vỡ tuyến đường sắt chạy sát mặt nước dọc theo Vịnh İzmit trên bờ biển châu Á. Vào đêm 20 tháng 8, trung úy D?Oyly Hughes từ chiếc E11 bơi lên bờ và cho nổ tung một phần của tuyến đường sắt, ông đã có được phần thưởng Distinguished Service Order cho những nỗ lực của mình. Ngày 17 tháng 7, chiếc tàu ngầm E7 đã bắn phá các tuyến đường sắt và sau đó đã phá hủy hai chiếc xe lửa đã buộc phải dừng lại.
Người Pháp cũng tiếp tục các nỗ lực để vào biển Marmara. Tiếp theo thành công của chiếc AE2 và E14, chiếc Tàu ngầm Pháp Joule cố gắng đột nhập vào ngày 01 tháng 5, nhưng đã đâm vào một quả thủy lôi và đã bị đắm với toàn bộ thủy thủ đoàn. Các nỗ lực tiếp theo đã được thực hiện bởi chiếc Mariotte ngày 27 tháng 7. Tuy nhiên, chiếc Mariotte thất bại trong việc vượt qua lưới chống tàu ngầm mà chiếc E14 đã làm được và bị buộc phải bề mặt. Sau khi bị bắn trúng từ các khẩu đội pháo bờ biển, chiếc Mariotte bị đánh đắm. Ngày 04 tháng 09, vẫn chiếc lưới này đã đánh bắt được chiếc E7 khi nó đang cố gắng để bắt đầu một chuyến đi vào biển Marmara.
Trận hải chiến Jutland

út cổ chai Skagerrak, cửa ngõ chiến lược vào Baltic và Bắc Đại Tây Dương, vùng biển ngoài khơi Jutland và Na Uy
Ngày 31 tháng 5 năm 1916 – 01 tháng 6 1916
Nơi Biển Bắc ha?i, gần Đan Mạch
Kết quả Người Anh phải chịu nhiều thiệt hại hơn nhưng vẫn duy trì ưu thế ở Biển Bắc
Tóm tắt các bên tham chiếnHạm đội Grand Fleed Fleed của
Hải quân Hoàng gia
Chỉ huy
Sir John Jellicoe
Sir David Beatty
Sức mạnh
28 tàu thiết giáp
9 tàu tuần dương chủ lực
8 tuần dương hạm bọc thép
26 tuần dương hạm hạng nhẹ
78 tàu khu trục
1 ta?u tha? mi?n
1 tầu chở thủy phi cơ
Thương vong
6.094 thiệt mạng
510 người bị thương
177 bị bắt
3 tàu thiết giáp
3 tàu tuần dương bọc thép
8 tàu khu trục
(113.300 tấn bị đánh chìm)
3 tàu thiết giáp
3 tàu tuần dương bọc thép
8 tàu khu trục
(113.300 tấn bị đánh chìm)Hạm đội High Seas Fleed của
Kaiserliche Marine
Chỉ huy
Reinhard Scheer
Franz Hipper
Sức mạnh
16 tàu thiết giáp
5 tàu tuần dương chủ lực
6 tàu tiền Dreadnought
11 tuần dương hạm hạng nhẹ
61 tầu phóng ngư lôi, tàu khu trục
Thương vong
2.551 thiệt mạng
507 người bị thương
1 tiền-Dreadnought
1 tàu tuần dương chủ lực
4 tàu tuần dương hạng nhẹ
5 tầu phóng ngư lôi, tàu khu trục
(62.300 tấn bị đánh chìm)
1 tàu tuần dương chủ lực
4 tàu tuần dương hạng nhẹ
5 tầu phóng ngư lôi, tàu khu trục
(62.300 tấn bị đánh chìm)
Trận Jutland là trận hải chiến lớn nhất trong Chiến tranh thế giới I, và là trận đụng độ đầy đủ quy mô duy nhất của các thiết giáp hạm trong chiến tranh. Đây là trận chiến lần thứ ba nổ ra giữa các thiết giáp hạm, sau các trận đánh Hoàng Hải và Tsushima trong Chiến tranh Nga-Nhật.
Đó là trận chiến từ ngày 31 tháng 5 – 1 tháng 6 năm 1916, tại Bắc ha?i gần Jutland, Đan Mạch. Những tầu tham chiến gồm tầu của Hạm đội High Seas Fleed Hải quân Đế quốc Đức, chỉ huy bởi Phó Đô đốc Reinhard Scheer, và tầu của Hạm đội Grand Fleed Hải quân Hoàng gia, chỉ huy bởi Đô đốc Sir John Jellicoe. Hạm đội Đức có ý định thu hút, tạo ra cái bẫy và tiêu diệt một phần của Hạm đội Grand Fleed, vì về mặt số lượng người Đức không đủ để tham chiến với toàn bộ hạm đội Anh tại cùng một điểm thời gian. Điều này tạo thành một phần của một chiến lược lớn hơn để phá vỡ phong tỏa của Anh vào nước Đức và cho phép tầu vận chuyển của Đức hoạt động. Trong khi đó, Hải quân Hoàng gia theo đuổi một chiến lược để thu hút và tiêu diệt Hạm đội High Seas Fleed, hoặc giữ cho lực lượng Đức ra xa khỏi tuyến đường vận chuyển của người Anh.
Kế hoạch của Đức là sử dụng nhóm năm tàu chiến trinh sát hiện đại cao tốc của Phó Đô đốc Franz Hipper để thu hút hải đội tầu tuần dương chủ lực của Phó đô đốc David Beatty vào một dòng tàu ngầm đã trực sẵn và vào con đường của hạm đội chính của Đức. Tuy nhiên, người Anh đã đọc được các tín hiệu của người Đức rằng dường như có một hoạt động của một hạm đội lớn, và vào ngày 30 tháng 5 Jellicoe khởi hành cùng Hạm đội Grand Fleed để đến nơi hẹn với Beatty, qua các địa điểm dự định của dòng tàu ngầm Đức trước khi các tầu U Boat đến được vị trí của họ.
Chiều ngày 31 Tháng 5, Beatty gặp lực lượng tàu tuần dương chủ lực của Hipper rất lâu trước khi người Đức dự kiến, và sự kiện này đã loại bỏ bất kỳ ảnh hưởng nào của lực lượng tàu ngầm (chưa kịp đến nơi). Trong một trận vừa đánh vừa chạy, Hipper đã thành công trong việc thu hút đội tiên phong của Anh vào con đường của Hạm đội High Seas Fleed. Vào thời gian mà Beatty rút lui về phía hạm đội chính của Anh, ông đã mất hai tàu tuần dương chủ lực từ một lực lượng tổng cộng gồm mười tàu, chống lại năm được chỉ huy bởi Hipper. Tuy nhiên, Hạm đội Đức trong khi theo đuổi của Beatty đã rút lui khi gặp hạm đội chính của Anh. Vào lúc 18:30 giờ, khi mặt trời đã xuống thấp trên chân trời phía tây backlighting các lực lượng Đức, và lúc mặt trời lặn vào khoảng 20:30, hai hạm đội lớn – tổng cộng đến 250 tàu chiến – đã hai lần tấn công dữ dội vào nhau.
Mười bốn tầu Anh và mười một tàu Đức bị đánh chìm, với sự mất mát lớn về nhân mạng. Sau hoàng hôn suốt xuống và trong suốt đêm, các tầu chiến của Jellicoe liên tục di chuyển để cắt quân Đức ra khỏi căn cứ của họ, với hy vọng tiếp tục cuộc chiến tiếp theo vào buổi sáng. Tuy nhiên được sự bảo vệ của bóng tối, Scheer đã vượt qua các tầu chiến của Hạm Đội Anh và trở về cảng.
Cả hai bên đều tuyên bố chiến thắng. Người Anh bị mất tàu chiến hơn và có nhiều thủy thủ thiệt mạng hơn đến 2,5 lần so với người Đức và báo chí Anh chỉ trích thất bại nghiêm trọng của Hạm đội Grand Fleed, nhưng kế hoạch của Scheer nhằm phá hủy một phần đáng kể các chiến hạm của Anh cũng thất bại. Người Đức tiếp tục là mối đe dọa buộc người Anh phải tập trung tàu chiến của họ ở Biển Bắc, nhưng trận chiến khẳng định chiến thuật của người Đức là tránh cuộc đối đầu trên phương diện toàn bộ hạm đội là đúng đắn và họ không bao giờ quay trở lại để tranh chấp quyền kiểm soát các đại dương. Thay vào đó, Hải quân Đức tập trung những nỗ lực và nguồn lực vào chiến tranh tàu ngầm không hạn chế và hủy diệt các tuyến tầu vận tải của quân Đồng minh và các nước trung lập. Các báo cáo kiểm tra sau đó được ủy nhiệm bởi Hải quân Hoàng gia đã tạo ra sự bất đồng mạnh mẽ giữa các ủng hộ viên của Jellicoe và của Beatty và hiệu suất của hai Đô đốc này trong trận chiến, và chúng vẫn còn tiếp tục tranh được luận tới ngày hôm nay.
Bối cảnh và kế hoạch
người Đức lập kế hoạch
Với 16 chiến hạm lớp tàu chiến Dreadnought so với 28 chiếc của Hải quân Hoàng gia, Hạm đội High Seas Fleed của Đức có rất ít cơ hội để chiến thắng một cuộc đụng độ đầu đối đầu. Vì thế người Đức phải chấp nhận sử dụng một chiến thuật chia rẽ và tiêu diệt: Họ dàn dựng một cuộc tấn công vào biển Bắc và bắn phá bờ biển Anh. Mục đích là để thu hút ra các hải đội nhỏ và các tàu trực chiến của Anh sau đó các đội này có thể bị phá hủy bởi một lực lượng lớn hơn hoặc tàu ngầm.
Trong tháng 1 năm 1916, Đô đốc Von Pohl, chỉ huy của Hạm đội Đức, bị ốm. ông này được thay thế bởi Scheer, người tin rằng hạm đội đã được sử dụng một cách quá thụ động, người Đức có tàu chiến và thủy thủ tốt hơn so với Anh và nên có một trận đánh với họ. Theo Scheer chiến thuật hải quân của Đức nên:
Gây thiệt hại cho Hạm đội Anh bằng cách cuộc tấn công vào các lực lượng hải quân Anh đang tham gia vào cuộc phong toả German Bight, Cũng như việc thả thủy lôi trên bờ biển của Anh và tấn công bằng tàu ngầm bất cứ khi nào có thể. Sau khi một sự cân bằng về lực lượng đã được tạo ra như là kết quả của các hoạt động này, và tất cả các lực lượng của chúng ta sẽ sẵn sàng và được tập trung lại, một nỗ lực sẽ được thực hiện bởi hạm đội của chúng ta để tìm kiếm một trận chiến quyết định trong những hoàn cảnh không thuận lợi cho kẻ thù.
Ngày 25 tháng 4, một quyết định đã được thực hiện bởi Bộ ha?i quân Đức để ngăn chặn các cuộc tấn công bừa bãi của các tàu ngầm vào các con tàu buôn. Điều này xuất phát từ các phản đối từ các quốc gia trung lập, đặc biệt là Hoa Kỳ, nước có công dân trở thành nạn nhân của các cuộc tấn công. Người Đức đã nhất trí rằng các cuộc tấn công trong tương lai sẽ chỉ diễn ra một cách phù hợp với Luật quốc tế, họ đồng ý yêu cầu kẻ tấn công đưa ra một cảnh báo và cho phép các thuyền viên của con tàu có thời gian để di tản, và không được tấn công vào tất cả các tàu trung lập. Scheer tin rằng các đội U Boat sẽ không thể tiếp tục làm việc theo các điều khoản này vì chúng đã lấy đi những lợi thế của phương pháp tiếp cận bí mật của tàu ngầm và làm cho họ dễ bị tổn thương ngay cả từ những khẩu súng tương đối nhỏ trên các con tàu mục tiêu. Thay vào đó ông ta lập một kế hoach triển khai các đội tàu ngầm để chống lại các tàu quân sự.
Người ta hy vọng rằng, sau một cuộc tấn công thành công của tàu ngầm Đức, những tầu hộ tống tốc độ cao của Anh chẳng hạn như các tàu khu trục, sẽ bị chia lẻ ra bởi các hoạt động chống tàu ngầm. Nếu người Đức có thể giáp mặt với người Anh tại các địa điểm mà người Đức dự kiến, rất có triển vọng rằng ưu thế về địa lợi này sẽ làm các cân bằng lực lượng giữa các hạm đội. “Sau khi người Anh xuất kích để đánh trả các lực lượng tấn công đánh phá” Hải quân Hoàng gia Anh sẽ chỉ còn lại các đơn vị suy yếu của nó để đối đầu với hạm đội chính của Đức dưới sự chỉ huy của Scheer. Hy vọng như vậy là Scheer sẽ có thể phục kích một phần của hạm đội Anh và tiêu diệt nó.
Triển khai tàu ngầm
Một kế hoạch được đặt ra để định vị tàu ngầm của Đức ở ngoài khơi các căn cứ hải quân Anh, và sau đó sẽ tiến hành một số hoạt động để kéo các tàu của Anh về phía các tàu ngầm Đức đang chờ đợi (bẫy tầu ngầm). Chiếc tàu chiến Seydlitz đã bị hư hại trong một trận đánh trước đó nhưng đã được sửa chữa kịp thời vào giữa tháng, do đó một hoạt động đã được lập kế hoạch vào ngày 17 tháng 5. Vào đầu tháng 5 một số khó khăn đã nảy sinh ở đội tàu thiết giáp số III, do đó, kế hoạch đã bị đẩy lùi đến ngày 23 tháng 5. Mười tàu ngầm (U24, U32, U43, U44, U47, U51, U52, U63, U66, U70) đã nhận được mệnh lệnh đầu tiên tuần tra ở vùng trung tâm của Biển Bắc các giữa 17 và 22 Tháng Năm, và sau đó chở về vị trí chờ đợi. Các chiếc U43 và U44 đóng trong Pentland Firth mà Hạm đội Grand Fleed có khả năng sẽ vượt qua khi rời khỏi Scapa Flow, trong khi phần còn lại Firth of Forth tiến hành chờ đợi các tàu tuần dương chủ lực xuất phát từ Rosyth. Mỗi chiếc tầu ngầm được phân bổ một khu vực mà họ có thể di chuyển xung quanh nếu thấy cần thiết để tránh bị phát hiện nhưng họ được hướng dẫn để luôn túc trực ở. Trong những chuyến tuần tra ban đầu ở biển Bắc các tàu ngầm thường được hướng dẫn để di chuyển hướng Bắc-Nam để bất kỳ những kẻ thù nào tình cờ gặp họ đều tin rằng họ khởi hành hoặc trở về từ các hoạt động ở trên bờ biển phía tây (mà điều này yêu cầu họ phải vượt qua trên phía bắc của nước Anh) . Một khi đến các vị trí cuối cùng của mình, các tàu đã tuân thủ lệnh một cách nghiêm ngặt để tránh bị phát hiện sớm mà có thể làm hỏng chiến dịch. Người Đức bố trí một tín hiệu được mã hóa chuyển đến những cảnh báo cho các tàu ngầm chính xác khi nào các hoạt động bắt đầu.
Ngoài ra, chiếc UB27 đã được gửi đi vào ngày 20 Tháng 5 với hướng dẫn để đi theo cách của nó vào Firth of Forth qua May Island. Chiếc U46 nhận được lệnh tuần tra bờ biển Sunderland, Vốn đã được chọn để tiến hành một cuộc tấn công nghi binh nhưng vì những vấn đề với chiếc động cơ, nó đã không thể rời khỏi cảng và chiếc U47 được chuyển hướng để làm nhiệm vụ này. Ngày 13 tháng 5 chiếc tàu ngầm thả thủy lôi U72 đã được gửi đến các để đặt các thủy lôi ở Firth of Forth, ngày 23 tháng 5 chiếc U74 rời đi đặt thủy lôi ở Moray Firth, và trong ngày 24 chiếc U75 được cử đi làm nhiệm vụ tương tự ở phía Tây của Orkneys. Chiếc UB22 và UB21 được gửi đi tuần tra các Humber, tại đó chúng có báo cáo (không chính xác) về sự hiện diện của tàu tuần dương hạm chủ lực của Anh. Các chiếc U22, U46 và U67 được vị trí ở phía Bắc của Terschelling để bảo vệ chống lại sự can thiệp của các đội tầu hạng nhẹ Anh đóng tại Harwich.
Ngày 22 tháng 5 người Đức thấy rằng chiếc Seydlitz vẫn không kín nước sau khi sửa chữa và sẽ không thể sẵn sàng cho đến ngày 29. Các tàu ngầm đã ở các vị trí phục kích bây giờ phải đối mặt với những khó khăn riêng của chúng: tầm nhìn gần bờ biển thường xuyên nghèo nàn do sương mù và các điều kiện nước biển, hoặc tạo ra các gợn nhỏ từ kính tiềm vọng, có thể làm lộ vị trí của họ, hoặc sóng quá to để làm cho chúng giữ được ở một độ sâu ổn định. Người Anh đã trở nên có một nhận thức về một sự hoạt động không bình thường của tàu ngầm và đã bắt đầu tuần tra truy tìm và ép buộc các tàu ngầm ra khỏi vị trí của chúng. Chiếc UB27 đi qua Bell Rock vào đêm 23 tháng 5 trên đường vào Firth of Forth như kế hoạch, nhưng đã dừng lại do sự cố về động cơ. Sau khi sửa chữa nó lại tiếp tục như kế hoach, nấp sau đằng sau tàu buôn để vào Largo Bay vào ngày 25 tháng 5. Nhưng con tàu bị vướng vào lưới mà cái lưới này đã quấn vào một trong những cánh quạt chân vịt, buộc nó phải từ bỏ hoạt động và trở về nhà. Chiếc tàu thả thủy lôi U74 đã bị phát hiện bởi bốn đánh cá vũ trang vào ngày 27 tháng 5 và bị đánh chìm ở khoảng cách 25 dặm về phía đông nam của Peterhead. Chiếc U75 thả thủy lôi của nó ở ngoài khơi Orkneys, mà mặc dù những quả thủy lôi này không đóng vai trò gì vào trận đánh, nhưng sau đó chúng đã chịu trách nhiệm trong việc đánh chìm chiếc tàu tuần dương HMS Hampshire có chở Lord Kitchener ( Người đứng đầu quân đội) lúc này đang có một sứ mệnh để đến nước Nga vào ngày 05 tháng 6. Chiếc U72 buộc phải từ bỏ nhiệm vụ của mình mà không đặt được bất kỳ khi một quả thủy lôi nào vì dầu bị rò rỉ có nghĩa là nó đã để lại một dấu vết có thể nhìn thấy trên đại dương phía sau nó.
Zeppelins
Người Đức vẫn duy trì một hạm đội khinh khí cầu Zeppelins mà chúng đã được sử dụng để trinh sát trên không và tổ chức các cuộc oanh tạc thường xuyên. Cuộc tấn công được lên kế hoạch vào Sunderland dự định sử dụng các khinh khí cầu Zeppelins lôi hạm đội Anh đến từ phía bắc nếu không có thể tạo được những cuộc tập kích bất ngờ. Vào ngày 28 tháng 5 gió đông bắc mạnh, có nghĩa rằng là sẽ không thể tung ra các Zeppelins, do đó, cuộc không kích một lần nữa đã bị hoãn lại. Các tàu ngầm chỉ có thể ở lại các điểm phục kích của họ cho đến ngày 01 tháng Sáu trước khi nguồn cung cấp của họ bị cạn kiệt và họ đã nhận được mệnh lệnh quay trở lại, do đó một quyết định đã được thực hiện một cách nhanh chóng về cuộc đột kích này. Người Đức đã quyết định sử dụng một kế hoạch thay thế, từ bỏ cuộc tấn công vào Sunderland và thay vào đó gửi một đội tàu tuần dương chủ lực đến Skagerrak (biển giữa Na Uy và Đan Mạch), nơi mà có khả năng họ sẽ gặp các đoàn tàu buôn chở hàng và tuần dương hạm tuần tra của Anh. Người Đức thấy điều này có thể được thực hiện mà không cần sự hỗ trợ từ trên không, bởi vì nếu hành động ngay lập tức thì người Đức sẽ ở gần hơn, thay vì dựa trên tuần dương hạm và tàu phóng ngư lôi tuần tra để trinh sát. Mệnh lệnh cho kế hoạch thay thế đã được ban bố vào ngày 28 tháng 5, mặc dù vẫn còn hy vọng cho đến phút cuối rằng thời tiết sẽ khá hơn để cho phép họ thực hiện kế hoạch ban đầu. Hạm đội Đức tập hợp tại sông Jade và tại Willhelmshaven và được chỉ dẫn để giữ nhiệt độ nồi hơi nước cao và sẵn sàng cho hành động từ lúc nửa đêm ngày 28 tháng 5.
Vào lúc 02:00 ngày 30 tháng 5 gió vẫn còn quá mạnh và quyết định cuối cùng đã được ban bố là sử dụng kế hoạch thay thế. Các tín hiệu mã hóa ?o31 May G.G.2490? đã được chuyển đến các đội tầu để thông báo cho họ cuộc tấn công vào Skagerrak sẽ bắt đầu ngày 31 tháng 5. Các tín hiệu được gửi đến các tàu ngầm đang tạo bẫy phục kích được truyền trong suốt cả ngày từ các đài phát thanh E-Dienst tại Brugges, và chiếc U-boat tiếp liệu Arcona đang thả neo tại Emden. Chỉ có hai trong số những tàu ngầm đang phục kích, chiếc U66 và chiếc U32 nhận được mệnh lệnh.
Phản ứng của Anh
Thật không may cho kế hoạch của Đức, người Anh đã thu được một bản sao của cuốn mật mã chính của Đức từ chiếc tuần dương hạm hạng nhẹ SMS Magdeburg, vốn bị bắt giữ bởi hải quân Nga sau khi con tàu bị mắc cạn ở vùng biển lãnh thổ Nga vào năm 1914. Thông tin liên lạc radio của hải quân Đức có thể do đó thường được nhanh chóng giải mã, và Bộ ha?i quân Anh thường biết các hoạt động về Đức.
Phòng 40 của Bộ Hải quân Anh duy trì chỉ đạo việc tìm kiếm và đánh chặn các tín hiệu của hải quân Đức. Phòng này đã chặn và giải mã tín hiệu của Đức vào ngày 28 tháng 5 rằng ra lệnh cho tất cả các tàu sẵn sàng ra khơi vào ngày 30. Nhiều tín hiệu thông tin hơn nữa đã bị chặn và mặc dù chúng không được giải mã người Anh đã thấy rõ ràng là một hoạt động quân sự lớn có khả năng sắp xảy ra. Vào lúc 11:00, ngày 30 tháng 5 Jellicoe được cảnh báo rằng chiến hạm của Đức dường như đang chuẩn bị để lên đường vào sáng hôm sau. Vào lúc 17:00 Bộ ha?i quân đã chặn được tín hiệu từ Scheer, ?o31 May G.G.2490? dường như rõ ràng là có một cái gì đó quan trọng sắp xảy ra.
Không biết mục tiêu của quân Đức, Jellicoe và nhân viên của ông đã quyết định vị trí hạm đội để chặn đầu bất kỳ nỗ lực nào của người Đức để vào Bắc Đại Tây Dương, hoặc biển Baltic thông qua Skagerrak, bằng cách chọn một vị trí ngoài khơi Na Uy, nơi họ có thể có thể chặn đứng bất kỳ cuộc tấn công nào của Đức vào làn đường vận chuyển của Đại Tây Dương, hoặc ngăn chặn quân Đức tiến vào biển Baltic. Một vị trí xa hơn về phía tây là không cần thiết vì làm như thế diện tích của Bắc ha?i có thể được sử dụng tuần tra bằng đường hàng không và chiến hạm trinh sát blimp.
Do đó, Đô đốc Jellicoe dẫn 16 thiết giáp hạm Dreadnought mười sáu các hải đội 1 và 4 của Hạm đội Grand Fleed và ba tàu tuần dương chủ lực của hải đội 3 về phía đông ra khỏi Scapa Flow lúc 22:30, ngày 30 tháng 5. Ông muốn sát nhập với hải đội 2 gồm 8 thiết giáp hạm Dreadnought nữa được chỉ huy bởi Phó Đô đốc Jerram đến từ Cromarty. lực lượng đánh phá của Hipper đã không rời khỏi Outer Jade Roads cho tới tận 01:00 ngày 31 tháng 5 hướng về phía tây của đảo Heligoland qua một con kênh được dọn sạch các bãi mìn, họ quay đầu về phía bắc với tốc độ 16 knots. Hạm đội chính của Đức gồm mười sáu tàu chiến Dreadnought của hải đội I và III rời nơi xuất phát lúc 02:30, được gia nhập ở ngoài khơi Heligoland lúc 04:00 bởi sáu tàu thiết giáp tiền Dreadnought của Hải đội II đến từ sông Elbe. Các tầu chiến cao tốc hơn của Beatty ( Anh) gồm sáu chiếc tàu tuần dương hạm chủ lực hải đội1 và 4 cùng với hải đội 5 gồm bốn thiết giáp hạm nhanh chóng rời Firth of Forth vào ngày hôm sau, và ý định của Jellicoe là hẹn gặp ông ta (Đô đốc Beatty) ở khoảng 90 dặm (170 km) về phía tây của nút cổ chai Skagerrak ngoài khơi bờ biển của Jutland và chờ đợi người Đức hoặc cho đến khi ý định của họ (người Đức) trở nên rõ ràng hơn. Các vị trí được lên kế hoạch cho ông ta khả năng phản ứng với ý định của người Đức trên phạm vi rộng nhất.
Chiến thuật hải quân năm 1916
Nguyên tắc tập trung các lực lượng là chiến thuật cơ bản của các hạm đội vào thời kỳ này (cũng như trong các thời kỳ trước đó). Giáo trình chiến thuật thời này khuyến khích một hạm đội tiếp cận và chiến đấu với đối phương trong những đội hình những cột tầu chiến song song nhỏ gọn, cho phép các tầu chiến vận động tương đối dễ dàng, và đưa toàn bộ đội hình vào tầm nhìn để tiến hành dễ dàng hơn việc truyền các tín hiệu cần thiết cho công việc chỉ huy và kiểm soát.
Đó là một lợi thế cơ bản của đội hình này, một hạm đội được hình thành từ một vài cột ngắn có thể thay đổi hướng của nó nhanh hơn so với một đội hình có dạng một cột dài duy nhất. Kể từ khi tín hiệu mệnh lệnh trong thời kỳ này vẫn còn bị giới hạn bởi tầm nhìn ?” việc phất cờ hoặc bặt tắt các đèn searchlights giữa các tầu tàu ?” chiếc kỳ hạm thường được đặt ở phần đầu của cột tầu trung tâm để các tín hiệu của nó có thể dễ dàng được nhìn thấy bởi nhiều tàu trong đội hình.
Tầm nhìn hạn chế đôi khi có nghĩa là một con tàu chỉ có thể nhận ra các tín hiệu của chiếc hàng xóm gần nhất hoặc các chiếc láng giềng trong hạm đội. Trong những trường hợp này rất cần thiết lặp lại các tín hiệu bởi mỗi con tàu để một mệnh lệnh của vị đô đốc được truyền đạt đến toàn bộ đội hình. Vấn đề này đã trầm trọng hơn do thực tế là các tàu thường chạy bằng nhiên liệu đốt than ở thời này và chúng tạo ra rất nhiều khói, đây thường là yếu tố chính cản trở tầm nhìn.
Vì vậy có thể phải mất một thời gian rất dài để truyền một tín hiệu từ chiếc kỳ hạm đến toàn bộ đội hình tầu chiến. Đó là thường cần thiết cho một tín hiệu để được xác nhận bởi mỗi tàu trước khi nó có thể được chuyển đến các tàu khác, và trật tự một cho một phong trào hạm đội sẽ phải được tiếp nhận và công nhận bởi tàu hàng trước khi nó được thi hành. Trong một hình đơn cột lớn là một tín hiệu có thể mất mười phút hoặc nhiều hơn để được thông qua từ một đầu của đường dây đến khác, trong khi ở một hình thành của các cột song song, khả năng hiển thị trên các đường chéo thường tốt hơn (và luôn luôn ngắn hơn) so với một đơn dài cột, và các đường chéo đã cho tín hiệu “dự phòng”, tăng xác suất mà một tin nhắn sẽ được nhanh chóng nhìn thấy và giải thích một cách chính xác.

Hạm đội Gran Fleed của Anh di chuyển theo đội hình những cột song song khi bùng nổ chiến tranh năm 1914
Tuy nhiên, trước khi trận chiến nổ ra các đơn vị hạng nặng của hạm đội có thể sẽ được triển khai ở một cột duy nhất. Để hình thành một trận đánh đối đầu khi đã định hướng tương đối chính xác vị đối phương, các đô đốc chỉ huy cần thiết phải biết khoảng cách chính xác với hạm đội của đối phương cũng như phương hướng và tốc độ của chúng. Đây là nhiệm vụ của các lực lượng trinh sát, bao gồm chủ yếu của tàu tuần dương chủ lực và tàu tuần dương, Để tìm đối phương và báo cáo thông tin này trong thời gian đủ, và nếu có thể, lực lượng này sẽ đánh đuổi các lực lượng trinh sát của đối phương khi chúng muốn có cơ hội thu được những thông tin tương đương.
Lý tưởng nhất là dòng tầu chiến là vượt qua con đường dự định của cột tầu đối phương để phát huy tối đa số hỏa lực của đội tầu, trong khi đối phương chỉ có thể bắn bằng các các khẩu súng về phía trước của những chiếc tàu hàng đầu, một sự cơ động được gọi là “Crossing T”. Đô đốc Togo, Chỉ huy của hạm đội tàu chiến của Nhật Bản đã làm được điều này khi tấn công Đô đốc chiến hạm Nga của Đô đốc Rozhestvensky vào năm 1905 tại Trận Tsushima, với kết quả chiến thắng tuyệt đối. Jellicoe đã có thể áp dụng được chiến thuật này hai lần trong một giờ đối đầu với Hạm đội High Seas Fleed tại Jutland, nhưng trong cả hai dịp Scheer đều cố gắng để thoát được, do đó tránh được một đòn đánh quyết định.
Thiết kế tàu
Vì sự giới hạn của công nghệ thời đó mà đã có một sự đánh đổi giữa tải trọng của con tầu và kích cỡ của súng, giữa trọng lượng của vỏ giáp bảo vệ con tàu, và tốc độ tối đa. Thiết giáp hạm hy sinh tốc độ lấy vỏ giáp và súng hải quân hạng nặng [11-inch (279 mm) hoặc lớn hơn]. Tuần dương hạm chủ lực của Anh hy sinh trọng lượng của vỏ giáp lấy tốc độ lớn hơn, trong khi các đối thủ người Đức của họ lại được trang bị súng nhẹ hơn. Những tiết kiệm về trọng lượng cho phép họ thoát khỏi sự nguy hiểm mà nó sẽ hủy diệt những con tàu khác (súng nhỏ thì lại có giáp dầy). Nói chung, các khẩu súng lớn hơn được đặt trên một tàu của Anh nó có thể tấn công ở tầm xa hơn. Trên lý thuyết một con tàu bọc thép mỏng hơn có thể thoát ra khỏi phạm vi bắn của một đối thủ chậm hơn trong khi vẫn tiếp tục nổ súng vào nó. Sự phát triển nhanh chóng của tốc độ trong những năm trước chiến tranh có nghĩa là mỗi năm một thế hệ mới của các tàu tiền nhiệm của nó trở thành lạc hậu. Do đó có những tàu tương đối mới vẫn có thể bị lỗi thời, và trở nên yếu kém trong một trận chiến.
Đô đốc Fisher, Chịu trách nhiệm chế tạo các chiến hạm của Anh trong thời kỳ trước chiến tranh ủng hộ học thuyết súng lớn và tốc độ cao. Đô đốc Tirpitz, chịu trách nhiệm chế tạo các hạm đội Đức, ủng hộ tàu không thể chìm và đã chọn để hy sinh một số cỡ nòng súng để cải thiện vỏ giáp. Chiếc tàu tuần dương hạm chủ lực của Đức Derfflinger có vỏ giáp tương đương với độ dày của chiếc thiết giáp hạm Anh Iron Duke (mặc dù không phải hoàn toàn chỗ nào cũng được như vậy), tốt hơn một cách đáng kể so với các tàu chiến của Anh của lớp Tiger. Tàu Đức có sự phân chia nội bộ tốt hơn và có ít cửa ra vào và các điểm yếu khác trong các vách ngăn của họ, nhưng với bất lợi là không gian cho thủy thủ đoàn bị giảm một cách đáng kể. Khi các con tầu được thiết kế chỉ để hành trình trên Biển Bắc họ không cần phải sống trên tàu như các thủy thủ Anh và thuyền viên của họ có thể sống trong các doanh trại lên bờ khi cập cảng.
Thứ tự của các đội tầu
Anh Đức
Thiết giáp hạm Dreadnought 28 16
Tàu tiền Dreadnought 0 6
Tuần dương hạm chủ lực 9 5
Tuần dương hạm bọc thép 8 0
Tuần dương hạm hạng nhẹ 26 11
Tàu khu trục 78 61
Hạm đội Grand Fleed của Jellicoe được chia thành hai phần. Hải đội thiết giáp hạm Dreadnought mà ông đã lập thành lực lượng chính bao gồm 24 tàu thiết giáp và ba tàu tuần dương chủ lực. Các tàu thiết giáp được thành lập thành ba thê đội gồm tám tàu mỗi thê đội, và mỗi thê đội lại tiếp tục được chia thành hai phân đội gồm bốn tầu cho mỗi phân đội, mỗi phân đội được chỉ huy bởi một flag officer (chịu chẳng biết là gì nhỉ). Kèm theo đó là tám tuần dương hạm bọc thép ( được phân loại bởi Hải quân Hoàng gia vào năm 1913 là “tàu tuần dương”), mười hai tuần dương hạm hạng nhẹ, 51 tàu khu trục, và một tàu tha? thủy lôi.
Các thông tin trinh sát Anh được cung cấp bởi Hải đội tàu tuần dương chủ lực dưới sự chỉ huy của David Beatty: gồm sáu tàu tuần dương chủ lực, bốn chiến hạm tốc độ cao thuộc lớp Queen Elizabeth, mười bốn tàu tuần dương hạng nhẹ và 27 khu trục hạm. Trinh sát đường không được cung cấp bởi các thủy phi cơ của chiếc HMS Engadine, một trong những tàu sân bay đầu tiên trong lịch sử tham gia vào một trận hải chiến.
Hạm đội High Seas Đức dưới sự chỉ huy của Scheer cũng được tách ra thành một lực lượng chính và một lực lượng trinh sát riêng biệt. Lực lượng chính của hạm đội Scheer bao gồm mười sáu tầu thiết giáp hạm Dreadnought và sáu tàu thiết giáp hạm tiền Dreadnought, cách bố trí tàu chiến của người Đức cũng giống với cách của người Anh. Cùng đi với họ có sáu tuần dương hạm hạng nhẹ và ba mươi mốt tầu phóng ngư lôi.
Lực lượng trinh sát của Đức được chỉ huy bởi Franz Hipper bao gồm năm tuần dương hạm chủ lực, ba mươi tàu tuần dương hạng nhẹ và tầu phóng ngư lôi. Người Đức không có tầu tương đương với chiếc Engadine, và không có tầu chở thủy phi cơ để hoạt động cơ với hạm đội, nhưng lực lượng Hải quân Đế quốc Đức lại có khinh khí cầu sẵn để tuần tra biển Bắc.
Các tàu chiến của Anh có số lượng lớn súng và trọng lượng pháo mạn lớn hơn các đối thủ người Đức của họ; £ 332.360 (150.756 kg) so với £ 134.216 (60.879 kg). Hầu hết các thiết giáp hạm và tàu tuần dương chủ lực của cả hai bên cũng có các kích cỡ ngư lôi khác nhau, và các súng nhẹ hơn điều khiển bằng tay cũng vậy.
Đội tàu thiết giáp hạm của Đức đã bị cản trở bởi tốc độ chậm chạp và vũ trang tương đối nghèo nàn của sáu tầu tiền Dreadnought của Hải đội II, và nó làm hạn chế tốc độ tối đa của các chiến hạm này xuống còn mười tám knot, so với tốc độ tối đa của hạm đội Anh là 21 knots. Ở phía người Anh, tám tàu tuần dương bọc thép đều yếu trong cả hai yếu tố tốc độ và giáp bảo vệ, Cả hai loại này của các hải đội đều đã lỗi thời đặc biệt dễ bị tấn công bởi các tàu hiện đại hơn của đối phương.
Hoạt động của tầu tuần dương hạm chủ lực
Các tuyến đường của hạm đội tàu chiến Anh đã đi ngang qua khu vực tuần tra được phân bổ cho chiếc tầu ngầm U32. Sau khi nhận được lệnh bắt đầu hoạt động, chiếc U32 chuyển đến một vị trí 80 dặm về phía đông của đảo May Island vào lúc bình minh ngày 31 tháng 5. Vào lúc 3:40 nó nhìn thấy các tàu tuần dương Galatea và Phaeton rời khỏi Forth ở tốc độ 18 knot. Nó bắn một quả ngư lôi vào chiếc tàu tuần dương đi đầu ở một khoảng 1000 yard, nhưng kính tiềm vọng của nó bị kẹt ?olên?, cho đi vị trí ngắm bắn của nó bị xê dịch trước khi bắn một lần thứ hai. Chiếc tàu tuần dương di chuyển đi để tránh các quả ngư lôi, trong khi chiếc tầu thứ hai quay sang hướng chiếc tàu ngầm và cố gắng húc vào nó. Chiếc U32 lặn bổ nhào xuống và nó ngóc lên vào lúc 4:10 kính tiềm vọng của nó cho thấy hai tàu chiến (hải đội tàu chiến 2) thuộc nhóm phía đông nam. Họ đã quá xa để kịp tấn công, nhưng Kapitanleutenant von Spiegel kịp báo cáo những gì đã nhìn thấy về việc hai tàu thiết giáp hạm và hai tàu tuần dương tiến về phía người Đức.
Chiếc U66 cũng làm nhiệm vụ tuần tra ngoài khơi Firth of Forth, nhưng đã buộc phải dạt ra một vị trí phía bắc 60 dặm ngoài Peterhead vì tàu tuần tra của Anh. Điều này bây giờ làm nó nhìn thấy hải đội thứ 2, đến từ Moray Firth. Vào lúc 05:00 nó đã lặn xuống khi các tàu tuần dương Duke of Edinburgh xuất hiện từ sương mù tiến về phía nó. Sau đó là 1 tàu tuần dương khác chiếc Boadicea, và sau đó tám chiếc thiết giáp hạm. Chiếc U66 ở cách chiếc thiết giáp hạm khoảng chừng 350 yard và chuẩn bị khai hỏa, nhưng buộc phải bổ nhào xuống vì một tàu khu trục đến gần và bỏ lỡ cơ hội. Vào lúc 06:35 nó báo cáo đã nhìn thấy tám thiết giáp hạm và tuần dương hạm lên phía bắc.
Các báo cáo của cả hai tàu ngầm này không chính xác, bởi vì chúng phản ánh một vế của một chuyển động zig-zag được sử dụng bởi tàu của Anh để tránh tàu ngầm. Cố bắt lấy các thông tin vô tuyến từ các tầu rời khỏi Scapa trong đêm trước đó, một ý tưởng được hình thành trong đầu vị tư lệnh Đức rằng các hải đội Anh, bắt đầu đang làm 1 điều gì đó giống như là được chia thành những phần riêng biệt, đây là chính xác những gì người Đức mong muốn.
Các tầu của Jellicoe đến được điểm hẹn của họ mà không hề bị hư hại cũng như không hề bị phát hiện. Tuy nhiên, lúc bấy giờ ông bị nhầm lẫn bởi một báo cáo tình báo của Bộ hải quân, cố vấn rằng hạm đội chính của Đức vẫn còn ở cảng. Chỉ huy trưởng của Phòng Điều hành (The Director of Operations Division), Chuẩn Đô đốc Thomas Jackson đã yêu cầu bộ phận tình báo, phòng 40, để tìm vị trí hiện tại của ký hiệu được gọi là DK đây là ký hiệu của Đô đốc Scheer. Họ trả lời rằng hiện ký hiệu này vẫn được truyền từ Wilhelmshaven. Sau này nhân viên tình báo trên mới được biết Scheer đã sử dụng một dấu hiệu liên lạc khác khi ở trên biển, nhưng không có ai hỏi thêm để biết thông tin này hoặc giải thích lý do đằng sau việc đổi mật danh này để xác định vị trí hạm đội của Đức.
Các tàu chiến của Đức dọn hết các bãi mìn xung quanh Amrum và xuôi kênh này lúc 9:00. Sau đó họ tiến về phía tây bắc, vượt qua 35 dặm về phía tây của Reef Horn các tầu nhẹ hướng về phía Little Fisher Bank ở cửa Skagerrak. Hạm đội High Seas theo sau một ở một khoảng cách 50 dặm. Các tàu tuần dương chủ lực tạo đội hình một cột ở phía trước, với bốn tàu tuần dương của nhóm trinh sát II cộng với tàu phóng ngư lôi hỗ trợ tầm xa trong một vòng cung tám dặm về phía trước và ở cả hai bên sườn. Đội tàu phóng ngư lôi IX tạo thành một đội hình hỗ trợ gần ngay xung quanh các tàu tuần dương chủ lực. Hạm đội High Seas tương tự tạo thành một cột tầu phía trước đội hình, với các đội hình chặt chẽ các tàu phóng ngư lôi hai bên và xa hơn nữa là đội hình năm tàu tuần dương bao quanh cột tầu chính khoảng 5-8 dặm. Gió cuối cùng cũng đã quay trở lại mức độ trung bình để các chiếc Zepelins có thể được sử dụng, vào lúc 11:30 năm chiếc đã được tung ra , chiếc L14 với Skagerrak, chiếc L23 ở vị trí 240 dặm về phía đông của Noss Head trong Pentland Firth, chiếc L21 ở vị trí 120 dặm ngoài khơi Peterhead, chiếc L9 ở vị trí 100 dặm ngoài khơi Sunderland , và chiếc L16 ở vị trí 80 dặm về phía đông của Flamborough Head. Tuy nhiên tầm nhìn vẫn còn rất xấu vì các đám mây xuống ở tầm 00 feet.
Đụng độ
Vào khoảng 14:00 tầu của Beatty tiến về phía tây ở một vĩ độ gần giống với của hải đội của Hippe, lúc này đang tiến về phía bắc. Hướng đi vẫn không thay đổi Beatty đã có thể đi xuyên qua giữa hai hải đội tầu của Đức, ở vị trí 40 dặm về phía nam của hải đội tàu tuần dương hạm và 20 dặm về phía bắc của Hạm đội High Seas Fleed vào khoảng 16:30, và người Đức đã có thể bẫy tàu của ông như kế hoạch mà họ đã hình dung. Tuy nhiên, ông đã ra lệnh dừng lại để tiến hành trinh sát khi hải đội của ông đạt tới một vị trí 260 dặm phía đông của nước Anh và sau đó chuyển về phía bắc để gặp hạm đội của Jellicoe. Tầu của Beatty được chia thành ba cột, với hải đội tàu tuần dương chủ lực ở hai hàng đầu trong đường song song cách nhau ba dặm. Hải đội 5 tiến lên 5 dặm về phía tây bắc, ở một vị trí quá xa để có bất kỳ tiếp xúc nào với đối phương, trong khi các tuần dương hạm và khu trục hạm tràn sang phía đông nam của tàu tuần dương chủ lực. Sau khi Hải đội 5 dẫn đầu cột tàu Anh tại phía tây nhất, các hải đội của Beatty là các hải đội trung tâm và sau cùng, với BCS 2 ở phía tây.
(1) 15:22, Hipper nhìn thấy tầu của Beatty.
(2) 15:48, Các phát đạn đầu tiên được bắn ra bởi đội tầu của Hipper.
(3) 16:00 -16: 05, Chiếc Indefatigable phát nổ, chỉ còn lại hai người sống sót.
(4) 16:25, Chiếc Queen Mary phát nổ, chín người sống sót.
(5) 16:45, Tầu tuần dương chủ lực của Beatty di chuyển ra khỏi phạm vi tác xạ của Hipper.
(6) 16:54, Các thiết giáp hạm của Evan-Thomas quay về phía bắc sau Beatty.
Vào 14:20, ngày 31 tháng 5, mặc dù mây mù nặng và làm tầm nhìn của sương mù rất nghèo nàn, các báo cáo trinh sát của Beatty là lực lượng tàu địch tiến vào phía đông nam; các đơn vị tầu chiến hạng nhẹ của Anh lấy thông tin từ một tầu hơi nước trung lập Đan Mạch (N J Fjord) chiếc dừng lại giữa hai hạm đội, chiếc này nói rằng thấy hai tàu khu trục Đức đang hoạt động (các chiếc B109 và B110). Những phát đạn đầu tiên của trận chiến được bắn ra vào lúc 14:28 khi chiếc tuần dương hạng nhẹ Galatea và Phaeton của Hải đội tàu tuần dương số 1 Anh nổ súng vào tàu khu trục của Đức, lúc này đang rút lui về phía các tuần dương hạm hạng nhẹ đang tiến tới của họ. Vào lúc 14:36 người Đức cũng nổ phát súng đầu tiên của trận đánh khi chiếc Elbing của chuẩn Đô đốc Friedrich Bödicker thuộc Hướng đạo Nhóm II bắn vào đối thủ Anh của nó, chiếc Galatea ở phạm vi tối đa.
Trong khi đó Beatty bắt đầu di chuyển tàu tuần dương chủ lực của ông và các lực lượng hỗ trợ về hướng đông nam và sau đó về phía đông để cắt tàu Đức ra khỏi căn cứ của họ, và ra lệnh cho chiếc Engadine tung ra một chiếc thu?y phi cơ để cố gắng có thêm thông tin về số lượng và vị trí của các lực lượng Đức. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử mà một tàu sân bay được sử dụng để làm nhiệm vụ trinh sát trong hải chiến. Chiếc máy bay từ chiếc Engadine đã xác định vị trí và báo cáo về một số tàu tuần dương hạng nhẹ của Đức ngay trước 15:30, và nhận được vài phát súng phòng không, nên các nỗ lực để tiếp tục trinh sát đoàn chiến hạm đã không thành công.
Thật không may cho Beatty thông tin lúc ông ta thay đổi hướng đi của mình vào lúc 14:32 đã không nhận được được bởi Sir Hugh Evan-Thomas của Hải đội 5 (Những con tầu này quá xa để đọc những lá cờ của Beatty), vì chiếc Tiger, con tàu cuối cùng trong cột của ông đã không còn ở vị trí mà nó có thể chuyển tiếp tín hiệu bằng đèn rọi đến Evan Thomas, vì nó trước đây đã được lệnh phải làm như vậy. Trong khi đó, trước khi chuyển về phía bắc chiếc Tiger là con tàu gần nhất với Evan-Thomas, còn bây giờ nó ở xa hơn cả tầu của Beatty ?” chiếc Lion. Vấn đề còn trầm trọng hơn bởi vì Evan-Thomas đã không được giới thiệu tóm tắt về thứ tự mệnh lệnh trong Hải đội Beatty, vì đội tầu của ông thường hoạt động cùng Hạm đội Grand Fleed. Hạm đội tàu được dự kiến sẽ tuân theo mệnh lệnh di chuyển một cách chính xác và không đi chệch khỏi chúng.
Những mệnh lệnh của Beatty cho của sĩ quan của ông là dự kiến giữ vị trí với chiếc kỳ hạm. Kết quả là, bốn chiếc thiết giáp hạm lớp Queen Elizabeth, những chiếc nhanh nhất và có vũ khí mạnh nhất trên thế giới vào thời gian đó, vẫn di chuyển theo hướng cũ trước đó vài phút, và dừng lại ở khoảng sau mười dặm (16 km). Beatty cũng có cơ hội trong những giờ trước đó để tập trung lực lượng của mình lại, và không phải không có lý do để làm như vậy, khi ông tiến lên phía trước với tốc độ nhanh hơn so với những chiếc thiết giáp hạm. Việc phân tán lực lượng đã có hậu quả nghiêm trọng đối với người Anh, bắt họ phải trả giá cho những gì sẽ xảy ra khi bị mất lợi thế áp đảo về số tàu và hỏa lực trong giờ đầu tiên một nửa trận chiến sắp tới.
Với tầm nhìn có lợi cho quân Đức, vào khoảng 15:22 đội hình chiến đấu của Hipper chạy về khoảng phía tây bắc, hải đội Đức nhìn thấy Beatty tại một khoảng cách khoảng 15 dặm (28 km), trong khi Beatty của lực lượng của Beatty không xác định được tàu chiến của Hipper cho đến 15:30. (Vị trí số 1 trên bản đồ). Vào lúc 15:45 Hipper quay về phía đông nam để dử Beatty về phía Scheer, khoảng 46 dặm (85 km) về phía đông nam với lực lượng chính của Hạm đội High Seas Fleed.
Cuộc đua về phía Nam
Sự điều hành hải đội của Beatty trong 1/4 giờ tiếp theo đã nhận được rất nhiều lời chỉ trích, như tàu của ông đã đi quá xa và ít hơn các đội tầu Đức, nhưng ông vẫn tiếp tục duy trì hỏa lực của mình trong hơn mười phút với đội tàu Đức. Ông cũng không sử dụng thời gian có sẵn để sắp xếp lại các tầu tuần dương chủ lực của mình thành một đội hình chiến đấu, và kết quả là họ vẫn tiếp tục vận động khi trận chiến bắt đầu.
Lúc 15:48, các lực lượng đối mặt song song ở khoảng cách 15.000 yard (14 km), với người Anh ở về phía tây nam của người Đức (tức là ở bên phải), Hipper nổ súng tiếp theo là các tàu của Anh cũng nổ súng của họ khi họ ngắm được mục tiêu (Vị trí 2). Vì vậy, bắt đầu giai đoạn mở đầu của trận hải chiến, được gọi là cuộc truy đuổi về phía Nam, trong đó người Anh đuổi người Đức, và Hipper cố tình dẫn dụ Beatty về phía Scheer.
Trong những phút đầu của trận chiến tiếp theo, tất cả các tàu Anh ngoại trừ Princess Royal bắn quá xa so với vị trí của đối thủ người Đức của họ, do điều kiện tầm nhìn xấu, trước khi cuối cùng họ nhận ra vấn đề về phạm vi bắn. Chỉ có các chiếc Lion và Princess Royal đã tạo thành đội hình, do đó, bốn chiếc tàu khác đã bị cản trở trong khi nắm bắt mục tiêu bằng các di chuyển đơn lẻ riêng của họ. Beatty đã đứng dưới gió so với Hipper, và do đó khói từ ống khói và khói thuốc súng từ các tàu của ông ta lại che khuất mục tiêu của chính mình, trong khi khói của tầu của Hipper lại được thổi đi. Ngoài ra, bầu trời phía đông rất u ám và các tàu Đức mầu xám và rất khó khăn để phân biệt cũng như xác định tầm bắn.
Beatty đã ra lệnh cho tàu của mình thành lập một đội hình một dòng để một tàu chiến Anh tấn công một tầu Đức và chiếc Lion flagship của Anh xoắn chặt lấy chiếc kỳ hạm của Đức Lützow. Tuy nhiên, do sai lầm khác với tín hiệu bằng cờ, và có thể do chiếc Queen Mary và Tiger đã không thể nhìn thấy con tàu chỉ huy Đức vì khói, chiếc tầu thứ hai của Đức, Derfflinger, đã không bị chặn đánh và thoải mái nổ súng mà không có sự gián đoạn. Chiếc Moltke thu hút hỏa lực từ hai tàu tuần dương chủ lực của Beatty, nhưng vẫn tiếp tục bắn với độ chính xác chết người trong thời gian này, nó bắn 9 phát đạn vào chiếc Tiger trong 12 phút đầu tiên. Người Đức đã ghi điểm đầu tiên. Được hỗ trợ bởi khả năng quan sát vượt trội, năm chiếc tầu tuần dương chủ lực của Hipper nhanh chóng bắn liên tiếp vào ba trong số sáu tàu tuần dương chủ lực của Anh. Bảy phút trôi qua trước khi người Anh cố gắng để bắn phát đạn đầu tiên của họ.
Chiếc tầu đầu tiên gần như bị hủy diệt trong cuộc truy đuổi về Nam vào lúc 16:00, khi một loạt đạn 305 mm (12 inch) từ chiếc Lützow làm hỏng các phần giưa trên tháp pháo “Q” của chiếc kỳ hạm Lion của Beatty. Hàng chục thủy thủ thiệt mạng ngay lập tức, nhưng đến lúc đó sự phá hủy lớn hơn được ngăn chặn khi người chỉ huy của tháp pháo đang bị thương nghiêm trọng, thiếu tá Francis Harvey thuộc Thủy quân lục chiến Hoàng gia, kịp thời ra lệnh đóng cửa kho đạn và cho làm ngập kho đạn. Việc này đã ngăn cản một vụ nổ kho đạn lớn vào lúc 16:28, khi một đám cháy làm bắt lửa số chất nô? không khói sẵn có bên dưới tháp pháo và giết chết tất cả những người trong phòng bên ngoài kho đạn “Q”. Chiếc Lion đã được cứu sống. Chiếc Indefatigable đã không được may mắn như vậy; lúc 16:02, chỉ 14 phút trong trận chiến, nó bị phá vỡ từ phía sau bởi ba phát đạn 280 mm (11 inch) từ chiếc Von der Tann, thiệt hại gây ra đủ để loại nó ra khỏi đội hình và kho đạn “X” ở phía sau bị nổ. Ngay sau đó, mặc dù ở phạm vi gần như tối đa, Von der Tann đã bắn một loạt súng 280 mm (11 inch) tháp pháo “A” ở phía trước của chiếc Indefatigable. Các phát đạn có thể đã xuyên thủng vỏ giáp mỏng ở phía trên và vài giây sau chiếc Indefatigable bị xé ra bởi một vụ nổ kho đạn, nó chìm ngay lập tức với thủy thủ đoàn gồm 1.019 sĩ quan và thủy thủ, chỉ để lại hai người sống sót. (Vị trí 3).
Ngay sau đó, một salvo đạn bắn trúng hoặc xung quanh chiếc Princess Royal , làm cho chiếc này bị che khuất bởi khói từ các viên đạn. Một tín hiệu viên kịp thời nhảy lên đài chỉ huy của chiếc Lion và báo cáo ” chiếc Princess Royal đã nổ tung thưa ngài?o, Đô đốc Beatty quay sang viên thuyền trươ?ng kỳ hạm và nói rằng “Chatfield, có cái quái quỷ gì xảy ra với các con tầu của chúng ta ngày hôm nay.” (Theo các câu chuyện truyền miệng thì Beatty ngay lập tức ra lệnh cho tàu của mình để “rẽ đến hai điểm tới cảng – Two points to port “, tức là hai điểm gần đối phương, nhưng không có bất kỳ hồ sơ chính thức nào về lệnh này) nhưng thực ra chiếc Princess Royal vẫn còn nổi được sau khi trúng các loạt đạn trên.
Lúc 16:30, các chiến hạm hàng đầu của Scheer nhìn thấy trận đánh nổ ra giữa các tuần dương hạm chủ lực ở đằng xa, ngay sau khi chiếc Southampton trong Hải đội hạng nhẹ 2 của Beatty do Commodore William Goodenough nhìn thấy đội hình chính của Hạm đội High Seas Fleed của Scheer, và gửi ngay các báo cáo chi tiết về sức mạnh của Đức: mười sáu tàu Dreadnought và sáu thiết giáp hạm lớn hơn ( loại tiền Dreadnought mang ra để hù nhau và thí mạng để cản hậu). Đây là tin tức đầu tiên mà Beatty và Jellicoe có được về Scheer và hạm đội của ông ta ở ngay trên vùng biển này. Đồng thời tất cả các tàu khu trục lao vào hỗn chiến ở khoảng không gian giữa hai đội tàu tuần dương hạm chủ lực đối lập, các tàu khu trục Anh và Đức chiến đấu tay đôi với nhau và cố gắng để phóng ngư lôi tàu lớn hơn của đối phương. Mỗi bên đã bắn nhiều quả ngư lôi, nhưng cả hai đội tàu tuần dương chủ lực đều chuyển hướng để tránh các cuộc tấn công từ tầu khu trục và tất cả đều thoát nạn trừ chiếc Seydlitz, bị trúng ngư lôi ở phía trước vào lúc 16:57 được bắn bởi chiếc tàu khu trục Petard của Anh. Mặc dù đang bị ngập nước, chiếc Seydlitz vẫn duy trì được tốc độ. Chiếc tàu khu trục Nestor, dưới sự chỉ huy của Thuyền trưởng Barry Bingham, dẫn đầu cuộc tấn công của Anh. Người Anh phóng ngư lôi làm bị thương chiếc V27 của Đức sau đó các thủy thủ Đức sớm rời bỏ và con tầu chìm, và sau đó chiếc Petard phóng ngư lôi đánh chìm chiếc V29 ghi điểm thứ hai trong ngày. Các chiếc S35 và V26 cứu các thuyền viên trong các tầu đồng đội đang chìm đắm của họ. Nhưng chiếc Nestor và một tàu khu trục nữa của Anh, chiếc Nomad, cũng bị bất động vì trúng hàng loạt đạn và sau đó bị đánh chìm bởi tàu Dreadnought của Scheer khi nó vượt qua. Bingham đã được cứu sống, và nhận một huân chương Victoria Cross vì vai trò lãnh đạo của ông trong trận đánh của các tàu khu trục.

Ảnh chiếc Seydlitz của Đức, mặc dù đã bị trúng đạn te tua trong trận Jutland nhưng nó nhưng vẫn lết được về đến cảng nhà

Ảnh của chiếc tuần dương hạm chủ lực von Der Tann của Đức – chiếc có công lớn trong việc bắn hạ chiếc HMS Queen Mary trong trận Jutland
Chạy về phía Bắc
Ngay sau khi ông nhìn thấy đội tiên phong của Scheer ở khoảng cách xa chừng 12 dặm (22 km), lúc 16:40, Beatty chuyển lực lượng tàu tuần dương của mình quay 180 độ, hướng về phía bắc để thu hút người Đức về phía Jellicoe. (Vị trí 5). Cuộc rút lui của Beatty về phía Jellicoe được gọi là chạy về phía Bắc, lúc này tình huống lại đổi chiều và người Đức lại rượt đuổi người Anh. Vì Beatty một lần nữa thất bại trong ý định của ông trong việc truyền đầy đủ tín hiệu, các siêu tàu Dreadnought của Hải đội 5 trận (lúc này ở quá xa phía sau để đọc được những lá cờ của ông) thấy rằng họ đang vượt qua các tàu tuần dương chủ lực của đối phương và đi trực tiếp vào đối đầu với phần chính của Hạm đội High Seas Fleed. Lúc đó là vào khoảng 16:48, ở một phạm vi bắn cực đại, các thiết giáp hạm hàng đầu của Scheer nổ súng.
Trong khi đó, tại 16:47, nhận được tín hiệu của Goodenough và biết rằng giờ đây Beatty đang thu hút hạm đội của Đức về phía bắc, Jellicoe báo hiệu cho các lực lượng của mình rằng trận chiến mà họ đã chờ đợi quá lâu cuối cùng sẽ xảy ra vào lúc 16:51, qua đài phát thanh ông đã thông báo với Bộ Hải quân ở London là như vậy.
Những khó khăn của Hải đội5 trận đã tăng khi Beatty lặp đi lặp lại mệnh lệnh cho Evan-Thomas tới ” rẽ lần lượt – turn in succession ” (thay vì “quay lại với nhau – turn together “) lúc 16:48 khi chiếc thiết giáp hạm vượt qua ông ta. Evan-Thomas nhận ra các tín hiệu, nhưng Đại úy ha?i quân Ralph Seymour, sỹ quan cờ hiệu của Beatty, đã làm trầm trọng thêm tình hình khi ông ta không cho lôi xuống những lá cờ (để thực hiện các tín hiệu) trong một số phút. Tại 16:55, khi hải đội 5 đi vào phạm vi của các chiến hạm địch, Evan Thomas đã ban hành lệnh cảnh báo bằng lá cờ riêng của mình để hải đội di chuyển đột ngột và làm theo sự hướng dẫn của mình. Mệnh lệnh ” rẽ lần lượt – turn in succession ” có kết quả và ngay lập tức tất cả bốn chiếc tàu cùng quay đầu, tạo cơ hội cho Hạm đội High Seas Fleed lại có thời gian để tính phạm vi bắn thích hợp. Trong trường hợp này thuyền trưởng của tàu theo sau (chiếc Malaya) quay đầu tiên để giảm thiểu các kết quả bất lợi.
Trong những giờ tiếp theo, các tầu của Hải đội 5 với hỏa lực mạnh mẽ và vỏ giáp dày đã hoạt động như hậu đội của Beatty, đã thu hút hỏa lực của tất cả các tàu chiến Đức trong khu vực.
Vào lúc 17:10 Beatty nới lỏng hải đội của mình ra khỏi phạm vi của các tàu tuần dương chủ lực đang chiếm ưu thế của Hipper để tạo thời gian cho các tàu bị thương của mình có một thời gian tránh xa khỏi những phát đạn chính xác và chết người của kẻ thù. Từ khi người Đức có ưu thế về tầm nhìn và hỏa lực chứ không phải là tầu của Beatty đã dẫn tới nguy cơ tổn thất nhiều tàu tuần dương chủ lực hơn nữa khi khả năng tác xạ của họ không có hiệu lực: minh hoạ cho sự chênh lệck, các tàu tuần dương chủ lực của Beatty đã không bắn trúng bất kỳ phát đạn nào vào tầu Đức trong giai đoạn này cho đến 17:45, nhưng họ đã nhanh chóng bị trúng nhiều hơn năm phát đạn trước khi ông có được phạm vi bắn tốt hơn (4 phát đạn chúng vào chiếc Lion, trong đó 3 phát từ chiếc Lützow, và một phát vào chiếc Tiger từ chiếc Seydlitz). Bây giờ mục tiêu duy nhất mà người Đức có thể đạt được, các con tàu của Hải đội 5 cũng đồng thời bị trúng đạn từ các tàu tuần dương chủ lực của Hipper từ phía đông (các chiếc Barham và Valiant), và từ tàu chiến hàng đầu của Scheer từ phía đông nam (các chiếc Warspite và Malaya). Ba chiếc đã bị bắn trúng: chiếc Barham (4 phát đạn từ chiếc Derfflinger), chiếc Warspite (2 phát từ chiếc Seydlitz), và chiếc Malaya (7 phát từ các tàu chiến của Đức), chỉ chiếc Valiant được vô sự.
Bốn chiếc siêu tàu Dreadnought có lẽ là chịu đựng loại đạn này của Đức tốt hơn tàu tuần dương hạm chủ lực và không bị đánh chìm mặc dù chiếc Malaya bị hư hại nặng, một kho đạn bị cháy và thủy thủ đoàn bị thiệt hại nặng nề. Đồng thời, đạn từ các khẩu 15-inch (381 mm) của bốn tàu Anh cũng rất chính xác và hiệu quả. Khi hai hải đội của Anh chạy về phía bắc với tốc độ cao nhất toàn bộ hạm đội Đức hăm hở đuổi theo, Hải đội 5 đã bắn 13 phát đạn vào các tàu tuần dương hạm chủ lực của đối phương (4 phát trúng vào chiếc Lützow, 3 phát trúng vào chiếc Derfflinger, 6 phát trúng vào chiếc Seydlitz) và 5 phát vào các chiếc giáp hạm (mặc dù chỉ bị trúng duy nhất 1 phát đạn chiếc Markgraf đã bị thiệt hại nghiêm trọng). (Vị trí 6).

Ảnh chiếc Barham – chiếc thiết giáp hạm lớp siêu Dreadnought của Anh – thuộc hải đội 5 của Sir Evan Thomas trong trận Jutland

Ảnh chiếc Valiant – chiếc thiết giáp hạm lớp siêu Dreadnought của Anh – thuộc hải đội 5 của Sir Evan Thomas trong trận Jutland
Cuộc chạm trán của các hạm đội
Jellicoe giờ đây đã nhận thức được rằng trận chiến của toàn bộ hạm đội đã rất gần, nhưng ông ta không có đủ thông tin về vị trí và hướng đi của người Đức. Để hỗ trợ Beatty, ngay từ đầu trận chiến vào khoảng 16:05, Jellicoe đã ra lệnh cho tàu tuần dương chủ lực thuộc Hải đội 3 của chuẩn Đô đốc Horace Hood tăng tốc độ tiến về phía trước để tìm và hỗ trợ lực lượng Beatty, và giờ đây lực lượng của Hood cũng chạy đua với lực lượng ở phía Bắc của Jellicoe. Hải đội tuần dương chủ lực 1 thuộc sự chỉ huy của Chuẩn Đô đốc Arbuthnot đây là đội tầu tiên phong của Jellicoe và họ đang tiến dần về phía đông nam.
Tại 17:33 chiếc tuần dương hạm bọc thép Black Prince của hải đội của Arbuthnot, bên sườn phía tây nam của lực lượng của Jellicoe, đã vào tầm nhìn của chiếc Falmouth, ở khoảng cách 5 dặm Anh (9 km) trước hải đội tầu tuần dương hạng nhẹ của Beatty, họ đã có những liên lạc bằng các tín hiệu quan sát được đầu tiên giữa các phần đang cụm lại của Hạm đội Grand Fleed. Vào lúc 17:38 chiếc tuần dương hạm liên lạc Chester, nhìn thấy tàu tuần dương chủ lực của Hood đang tới, đã bị chặn lại bởi các tầu tiên phong của lực lượng trinh sát của Đức dưới sự chỉ huy của Chuẩn Đô đốc Bödicker.
Ít hơn rất nhiều so với đội tầu gồm bốn tàu tuần dương hạng nhẹ của chiếc Bödicker, chiếc Chester đã bị tấn công dữ dội trước khi gặp được đơn vị tầu hạng nặng của Hood, lúc này đang di chuyển về phía tây cho mục đích đó. Chiếc kỳ hạm Invincible của Hood ngay lập tức vô hiệu hóa chiếc tàu tuần dương hạng nhẹ Wiesbaden vào lúc 17:56. chiếc Wiesbaden đã trở thành một mục tiêu cho hầu hết các chiến hạm của Anh trong giờ tiếp theo, nhưng vẫn nổi và bắn một số ngư lôi vào tàu thiết giáp của đối phương từ tầm xa. Trong khi đó các tàu khác của Bödicker bỏ chạy về hướng Hipper và Scheer với một ý tưởng sai lầm rằng Hood dẫn đầu một lực lượng lớn hơn các tàu chiến của Anh từ phía bắc và phía đông. Một trận đánh hỗn loạn của các tàu khu trục nổ ra trong sương mù và khói xảy ra sau đó khi các tầu phóng ngư lôi của Đức đã cố gắng để tấn công thẳng thừng vào đội hình tầu đối phương mới xuất hiện này, nhưng các tàu tuần dương chủ lực của Hood tránh được tất cả các ngư lôi bắn vào họ. Trong trận chiến này, sau khi dẫn đầu một đợt phản công bằng ngư lôi chiếc tàu khu trục Anh Shark đã bị vô hiệu hóa, nhưng vẫn tiếp tục nổ súng vào các tầu vượt qua của đối phương trong các giờ tiếp theo.
Các hạm đội giao chiến
Triển khai

(1) 18,00 Các tuần dương hạm chủ lực tái nhập gia các hạm đội chính tương ứng
(2) 18,15 Hạm đội Anh triển khai thành đội hình 1 dòng chiến đấu
(3) 18,30 Hạm đội Đức trúng đạn và dạt ra
(4) 19,00 Hạm đội Đức quay trở lại
(5) 19,15 Hạm đội Đức lại quay đi lần thứ hai
(6) 20,00
(7) 21,00 Lúc mặt trời lặn: Giả định đội hình hành tiến của Jellicoe trong đêm
Trong khi chờ đợi Beatty và Evan-Thomas tiếp tục trận chiến của họ với tàu tuần dương chủ lực của Hipper, lần này thì họ đã có các điều kiện về lợi về thế tầm nhìn. Sau khi một số tàu của ông bị hư hỏng, Hipper quay trở lại để gặp hạm đội lớn của Scheer vào khoảng 18:00, giống như chiếc kỳ hạm Lion của Beatty cuối cùng đã nhìn thấy soái hạm Iron Duke của Jellicoe. Jellicoe hai lần yêu cầu về vị trí mới nhất của hạm đội Đức từ Beatty, người không thể phát hiện thấy tàu chiến Đức và không thể trả lời được câu hỏi này cho đến 18:14. Trong khi đó Jellicoe nhận được nhiều báo cáo khác nhau khó hiểu về độ chính xác và sự hạn chế về ánh sáng từ tuần dương hạm và tàu chiến ở mạn phải của sườn (phía nam) của lực lượng của mình.
Jellicoe đang ở một vị trí đáng lo ngại, ông cần phải biết vị trí của hạm đội Đức để đánh giá khi nào và làm thế nào để triển khai các tàu thiết giáp của mình từ đội hình hành trình của họ (trong sáu cột mỗi cột bốn tàu ) thành một dòng đơn dã chiến. Việc triển khai có thể được về phía tây hoặc về phía đông, và phải được thực hiện trước khi người Đức đến, nhưng triển khai quá sớm có nghĩa là có thể mất đi cơ hội của bất kỳ một cuộc chiến quyết định nào. Triển khai ở phía tây sẽ mang lại cho hạm đội của Anh lợi thế về việc áp sát hơn với Scheer, tranh thủ được khoảng thời gian quý giá khi hoàng hôn đến gần, nhưng người Đức có thể đến nơi trước khi sự cơ động đã hoàn thành. Triển khai về phía đông có thể làm lực lượng của họ ra xa khỏi Scheer, nhưng tàu của Jellicoe có thể vận động chéo chữ “T”, và tại ra khả năng ưu thế lớn về tầm nhìn cho các pháo thủ Anh ?”các tầu của Scheer in bóng về phía mặt trời lặn ở phía tây, trong khi Hạm đội Grand Fleed sẽ trở nên không thể xác định được trong bóng tối phía bắc và phía đông, và sẽ được ẩn theo phản xạ của ánh sáng mặt trời thấp mà không bị can thiệp bởi mây mù và khói. Công việc triển khai sẽ lấy đi hai mươi phút không thể thay thế, và các hạm đội sẽ gặp nhau khi đang ở tốc độ cao. Đây là một trong những quyết định quan trọng nhất về chiến thuật và khó khăn nhất trong toàn cuộc chiến, Jellicoe ra lệnh triển khai ở phía đông vào lúc 18:15.
Góc gió
Trong khi đó Hipper đã tái gia nhập Scheer, và Hạm đội High Seas Fleed được kết hợp lại và tiến về phía bắc, trực tiếp đối đầu với Jellicoe. Không có dấu hiệu nào cho thấy Scheer biết về sự có mặt của Jellicoe trên biển, hãy cho rằng ông ta một mình tiến xuống từ phía tây bắc, và bị phân tâm bởi sự can thiệp bởi các tàu của Hood ở phía bắc và phía đông. Bốn tàu tuần dương chủ lực của Beatty bây giờ còn sống sót vượt qua các tàu Dreadnought tiên phong Anh gia nhập vào ba tàu tuần dương chủ lực của Hood; tại thời điểm này chiếc Defence kỳ hạm của Chuẩn đô đốc Arbuthnot và chiếc Warrior cả hai đang vượt qua mũi của tầu của Beatty và chiếc Lion phải tránh một vụ va chạm với chiếc Warrior. Gần đó, nhiều tuần dương hạm hạng nhẹ và khu trục hạm của Anh ở cạnh sườn phía tây nam của các tàu thiết giáp cũng được triển khai qua các hướng khác nhau trong các nỗ lực để chỉ thoát khỏi các va chạm, và nằm dưới làn lửa đạn từ một số tàu Đức đã tiếp cận tới nơi. Quãng thời gian nguy hiểm này khi mà các con tầu của lực lượng Anh sáp nhập lại và tái triển khai sau này được gọi là “Wind Corner”.
Các tuần dương hạm bọc thép của Arbuthnot không có vị trí thực sự trong cuộc đụng độ sắp tới giữa các tàu Dreadnought hiện đại, nhưng họ bị thu hút bởi thân tàu trôi dạt của chiếc đã bị tê liệt Wiesbaden. Các chiếc Defence và Warrior.đi đến gần để tiêu diệt nó, đây là một sai lầm phải trả giá vì họ tiến vào tầm súng của tầu của Hipper và Scheer đang tới gần. Chiếc Defence bị bắn tơi bời bằng súng cỡ nòng hạng nặng từ nhiều tàu chiến của Đức, một kho đạn của nó đã phát nổ trong tầm nhìn của hầu hết các tầu đang triển khai của Hạm đội Grand Fleed; nó chìm với tất cả các thành viên thủy thủ đoàn (903 sĩ quan và thủy thủ). Chiếc Warrior cũng bị thương rất nặng, nhưng không bị chìm vì nó ở gần chiếc siêu chiến hạm Dreadnought Warspite. Chiếc Warspite đã tăng tốc và thiết bị lái của nó bị kẹt vì quá tải ở tốc độ cao khi Hải đội 5 đã thực hiện một cú rẽ về phía bắc lúc 18:19. Chạy ở tốc độ cao nhất trong vòng tròn rộng, chiếc Warspite xuất hiện như một mục tiêu mát mắt cho các tàu Dreadnought Đức và nó đã trúng mười ba đạn, vô tình dính phải đạn nhắm vào chiếc Warrior đen đủi. Chiếc Warspite đã được đưa trở lại kiểm soát và sống sót sau đợt tấn công, nhưng nó đã bị thiệt hại phải giảm tốc độ và rút lui về phía bắc; sau đó (lúc 21:07), nó nhận được yêu cầu từ Evan-Thomas là phải quay trở lại cảng. Chiếc Warspite đã đi vào một sự nghiệp lâu dài và lừng lẫy khi phục vụ tại Chiến tranh thế giới II. Mặt khác chiếc Warrior đã bị bỏ lại và chìm vào ngày hôm sau sau khi thủy thủ đoàn được sơ tán vào lúc 08:25 ngày 01 tháng 6 bởi chiếc Engadine, con tầu đã kéo chiếc tàu tuần dương bọc thép bị đánh chìm thêm 100 dặm (160 km) vào ban đêm.

Ảnh chiếc tuần dương hạm bọc thép HMS Defence năm 1907, chiếc này mải bắn chiếc Wiesbaden nên lao vào tầm súng của hạm đội Đức và bị đánh chìm
Khi chiếc Defence bị chìm và chiếc Warspite chạy vòng, vào khoảng 18:19, Hipper di chuyển trong phạm vi của Hải đội tầu tuần dương chủ lực số 3 của Chuẩn Đô đốc Hood, nhưng vẫn còn nằm trong phạm vi của tầu của Beatty. Lúc đầu, tầm nhìn ủng hộ người Anh: chiếc Indomitable bắn trúng chiếc Derfflinger ba phát và trúng chiếc Seydlitz một phát, trong khi chiếc Lützow nhanh chóng nhận 10 phát đạn từ các chiếc Lion, Inflexible và Invincible, trong đó có hai phát đạn bắn từ chiếc Invincible trúng vào chiếc Lützow ở dưới mực nước, có thể những phát đạn này đã kết thúc số phận chiếc kỳ hạm của Hipper. Nhưng lúc 18:30 chiếc Invincible đột ngột xuất hiện như một mục tiêu rõ ràng trước các chiếc Lützow và Derfflinger. Hai chiếc tàu của Đức sau đó đã bắn ba loạt đạn một lúc vào chiếc Invincible, và chiếc này chìm trong vòng 90 giây. Một phát đạn 305 mm (12 inch) từ loạt bắn thứ ba trúng vào tháp pháo-Q ở phần giữa thân tầu của chiếc Invincible, làm nổ kho đạn ở phía dưới và con tàu nổ tung lên và vỡ ra thành hai đoạn giết chết tất cả chỉ trừ sáu người trong số thủy thủ đoàn gồm 1.032 sĩ quan và thủy thủ, trong số đó có cả Chuẩn Đô đốc Hood. Trong số tàu tuần dương chủ lực còn lại của Anh chỉ có chiếc Princess Royal tiếp tục trúng đạn cỡ nòng hạng nặng vào thời gian này [hai phát đạn 305 mm (12 inch) từ chiếc thiết giáp hạm Markgraf]. Chiếc Lützow, bị ngập nước ở phía trước và không thể liên lạc bằng radio, giờ đây không thể tiếp tục chiến đấu và bắt đầu cố gắng để rút lui, vì vậy Hipper rời khỏi chiếc kỳ hạm của mình và chuyển sang chiếc tàu khu trục G39, với hy vọng để lại lên boong một trong những tàu tuần dương chủ lực khác sau đó.

Chiếc thiết giáp hạm HMS Invincible năm 1907 – chiếc này bị nổ tung trong trận chiến Jutland cùng với 1.026 thủy thủ + sỹ quan và luôn cả Chuẩn Đô đốc Hood
Các diễn biến vào ban đêm và người Đức rút lui
Lúc 21:00 Jellicoe, ý thức được vấn đề Hạm đội Grand Fleed sẽ có nhiều thiếu sót cho một trận chiến ban đêm, nên ông đã quyết định cố gắng tránh một trận đánh lớn cho đến bắt đầu bình minh của ngày hôm sau. Ông lập một đội tuần dương hạm và khu trục hạm giám sát ở cách năm dặm (8 km) phía sau hạm đội của mình để tuần tra phía sau còn lại ông dẫn đầu phía Nam để chặn tuyến đường thoát Scheer mong đợi. Trong thực tế Scheer chọn cách vượt qua các làn tầu của Jellicoe và thoát về phía Horns Reef. May mắn cho Scheer, hầu hết các lực lượng tầu hạng nhẹ trong hậu đội của Jellicoe không báo cáo về bảy cuộc va chạm riêng rẽ với các hạm đội của Đức trong ở đêm; rất ít các báo được gửi bằng radio mà chiếc kỳ hạm của Anh cũng không nhận được báo cáo nào, có thể bởi vì người Đức đã gây nhiễu tần số điện đài của Anh. Nhiều chiếc trong số các tàu khu trục đã không tận dụng tối đa các cơ hội của họ để tấn công khi phát hiện ra tàu của Đức, bất chấp kỳ vọng của Jellicoe là các lực lượng tàu khu trục, nếu cần thiết, có thể sẽ phải chặn đường rút của hạm đội Đức. Jellicoe và các chỉ huy của ông không hiểu được rằng những tiếng súng nổ liên kỳ hồi về phía bắc ( được nhìn thấy và nghe rõ hàng giờ bởi tất cả các thiết giáp hạm Anh) cho thấy rằng các con tàu hạng nặng của Đức đã đi xuyên qua đội hình các tuần dương hạm và khu trục hạm ơ? phía sau hạm đội của Anh. Nhưng người ta lại cho rằng các cuộc tấn công ban đêm là kết quả của các cuộc tấn công được tiến hành bởi các khu trục hạm của Đức. Những tầu mạnh nhất trong tất cả các tàu chiến Anh ( các tầu có súng 15 inch thuộc Hải đội 5 ) chỉ đứng quan sát tàu chiến của Đức vượt qua phía sau họ và giao chiến với các tầu hạng nhẹ của Anh ở khoảng cách chừng 3 dặm (5 km) hoặc ít hơn, và các pháo thủ trên chiếc HMSMalaya đã sẵn sàng nổ súng, nhưng thuyền trưởng của họ lại gạt đi, họ muốn trì hoãn để nhận lệnh của Chuẩn Đô đốc Evan-Thomas-và không có viên chỉ huy nào báo cáo những gì họ đã nhìn thấy với Jellicoe.
Khi bản chất của sự đào thoát của Scheer, và sự bất chiến của Jellicoe, chỉ ra ưu thế trên tổng thể của người Đức trong trận giao chiến trong buổi tối, kết quả của những va chạm vào ban đêm không thể hiện tổng thể cuộc chiến. Trong phần đầu của trận đánh đêm nhiều tầu Đức đã bị tấn công bất ngờ bởi chiếc tầu khu trục Southampton ?” chiếc kỳ hạm của thuyền trưởng kỳ cựu Goodenough, chiếc này đã bị đánh đắm, sau khi bị hư hỏng nặng trong chiến đấu với một đội tầu Trinh sát của Đức gồm các tuần dương hạm hạng nhẹ, nhưng vẫn cố gắng phóng ngư lôi vào chiếc Frauenlob làm nó chìm vào lúc 22:23 với tất cả thủy thủ đoàn ( gồm 320 sĩ quan và thủy thủ).
Từ 23:20 đến khoảng 02:15, một số tàu khu trục nhỏ của Anh phóng ngư lôi tấn công vào hạm đội Đức trong một loạt các cuộc đụng độ dữ dội và hỗn loạn ở cự ly rất gần (thường dưới 0,5 dặm (1 km)). Phải mất đến năm tầu khu trục bị đánh chìm và một số chiếc khác bị thương người Anh mới phóng ngư lôi trúng được vào chiếc tàu tuần dương hạng nhẹ Rostock, chiếc này chìm vài giờ sau đó và chiếc thiết giáp hạm tiền Dreadnought Pommern, chiếc này nổ tung với tất cả thủy thủ đoàn (844 sĩ quan và thủy thủ) trong các đợt tấn công cuối cùng trước lúc bình minh. Ba trong số những tàu khu trục của Anh va chạm vào nhau trong hỗn loạn và chiếc tàu thiết giáp của Đức ?” chiếc Nassau đâm vào chiếc tàu khu trục Anh ?” chiếc Spitfire, làm nổ tung cấu trúc thượng tầng của con tàu Anh. Chiếc Nassau có một lỗ thủng 3,3 m (11 ft) ở bên cạnh của nó và làm giảm tốc độ tối đa của nó xuống còn 15 knot (28 km / h), trong khi bỏ lại phần bọc sắt trên boong của chiếc Spitfire. Chiếc Spitfire sống sót và đã trở được lại cảng. Một chiếc tuần dương hạm của Đức, Elbing, đã vô tình đâm vào chiến hạm Dreadnought Posen và bị bỏ lại rồi đánh chìm vào sớm ngày hôm sau. Trong số các tàu khu trục của Anh các chiếc Tipperary, Ardent, Fortune, Sparrowhawk và Turbulent đã bị chìm trong trận chiến ban đêm.
Chỉ sau nửa đêm ngày 1 tháng sáu, chiếc Thüringen và các tàu chiến khác của Đức đánh chìm chiếc HMS Black Prince xấu số của Hải đội tuần dương 1, chiếc này vốn dại dột đi vào dòng tầu chiến của Đức. Chiếc Black Prince đã bị áp đảo bởi các súng ở mạn tầu và nổ tung lên cùng với tất cả thủy thủ đoàn (857 sĩ quan và thủy thủ) cũng như chiếc Defence chỉ huy của nó vài giờ trước đó. Lạc lối trong bóng tối, các tàu tuần dương chủ lực của Đức Moltke và Seydlitz đã tương tự đi thẳng vào dòng tầu trận chiến của Anh và bị nhận ra nhưng lại được số phận buông tha, không như chiếc Black Prince khi các thuyền trưởng của tàu Anh lại một lần nữa từ chối nổ súng vì không muốn tiết lộ vị trí hạm đội của họ.Vào lúc 01:45 chiếc Lützow chìm vì bị thiệt hại nặng nề bởi chiếc HMS Invincible trong trận đánh chính, sau đó nó bị tàu khu trục G38 phóng ngư lôi đánh chìm theo lệnh của Thuyền trưởng Viktor von Harder của chiếc Lützow sau khi những người sống sót trong số thủy thủ đoàn 1.150 người chuyển sang các tàu khu trục đi cùng. Vào lúc 02:15 mũi của chiếc tầu khu trục Đức V4 đột nhiên nổ tung, chiếc V2 và V6 đến bên cạnh để vớt các thủy thủ còn lại và sau đó chiếc V2 đánh chìm phần thân của con tầu. Vì không có kẻ địch ở gần đó nên người ta giả định rằng nó đã đâm vào một quả thủy lôi hay trúng một quả ngư lôi được phóng từ tàu ngầm.

Chiếc tuần dương hạm bọc thép xấu xố HMS Black Prince, chiếc này đi vào dòng tầu của Đức trong trận Jutland nên bị bắn chìm – toàn bộ thủy thủ đoàn anh dũng hy sinh
Tại lúc 2:15 năm chiếc tàu của Anh trong đội tàu khu trục nhỏ của Anh dưới sự chỉ huy của thuyền trưởng James Uchtred Farie tập hợp lại và đi về phía nam. Tại lúc 2:25 họ nhìn thấy hậu quân của dòng tầu Đức. Chiếc Marksman hỏi của chiếc chỉ huy ?” chiếc Champion là đây liệu là tầu Anh hay tầu Đức. Nó được trả lời rằng người ta nghĩ chúng là tầu Đức, sau đó Farie cho đổi hướng đi về phía đông để tránh dòng Đức. Tất cả đều rẽ trừ chiếc Moresby ở phía sau vẫn bám theo sau, qua bầu trời tối sầm nó nhìn thấy những gì cô nghĩ là bốn chiến hạm tiền Dreadnought cách 2 dặm (4 km). Nó treo một lá cờ tín hiệu chỉ ra rằng kẻ thù đang về phía tây và sau đó vào gần đến tầm bắn, phóng ra một loạt phóng ngư lôi sau đó cao chạy lúc 02:37 sau đó bơi ngoặt đi để tái tham gia vào đội tàu nhỏ của nó. Bốn chiến hạm tiền-Dreadnought trong thực tế là hai tầu tiền Dreadnought, chiếc Schleswig-Holstein và chiếc Schlesien, và các tàu chiến Von der Tann và Derfflinger. Von der Tann nhìn thấy các phóng ngư lôi và bị buộc phải chạy sang bên mạn phải tránh quả ngư lôi khi nó đi ngay gần mũi của con tầu. Chiếc Moresby nối lại liên lạc với chiếc Champion và thuyết phục chiếc này rằng nó đã bắn trúng được một phát ngư lôi.
Cuối cùng, lúc 05:20, khi hạm đội của Scheer đang an toàn trên đường về nhà của họ thì chiếc tàu thiết giáp của Đức – Ostfriesland va phải một quả thủy lôi Anh ở mạn phải của con tàu, giết chết một người và làm bị thương mười người, nhưng con tầu vẫn có thể về tới cảng. Chiếc Seydlitz, bị hư hỏng nghiêm trọng và gần chìm, chỉ sống sót sau chuyến đi trở về và sau khi tiếp đất và lấy về nước nhiều hơn vào tối ngày 1 tháng 6, đã có được sự hỗ trợ ở đuôi tàu đến cảng đầu tiên, nơi bà bị bỏ neo đậu tại 07:30 ngày vào buổi sáng của 02 tháng 6.
Việc Hạm đội Đức trốn thoát được cũng là nhờ sự giúp đỡ của Bộ ha?i quân Anh tại London vì họ đã gửi những thông tin sai lệch thu thập được bởi tình báo hải quân qua việc bắt sóng đài Radio của đối phương để chỉ ra vị trí, hướng đi và ý định của Hạm đội High Seas Fleed trong đêm. Một thông điệp truyền đến Jellicoe khi ông nhận được vào lúc 23:15 báo cáo chính xác hành trình và tốc độ của hạm đội Đức vẫn như lúc 21:14. Tuy nhiên những tín hiệu sai lầm từ trước đó trong ngày báo cáo rằng chiến hạm của Đức vẫn còn trong cảng, và một tín hiệu tình báo nhận được vào lúc 22:45 cho một vị trí không chính xác của hạm đội Đức đã giảm niềm tin của ông ta vào (Jellicoe) các báo cáo tình báo. Đã có các tin nhắn khác được chuyển tiếp, trong đó xác nhận thông tin nhận được lúc 23:15, hoặc đã có báo cáo chính xác tàu Anh nhìn thấy và đụng với tàu khu trục của Đức, tuần dương hạm và tàu chiến, sau đó Jellicoe đã có thể thay đổi hướng đi để đánh chặn Scheer ở Horns Reef. Các các tin nhắn chặn được chưa kịp gửi đi đã được sử lý bởi chỉ 1 sĩ quan cấp dưới còn lại làm việc trong đêm đó, và người này không đánh giá đúng tầm quan trọng của chúng. Cuối cùng vào lúc Jellicoe đọc được vị trí của Scheer lúc 04:15, thì Scheer đã ở cách quá xa để đón bắt và lúc này người ta rõ ràng rằng cuộc chiến không còn có thể tiếp tục được nữa.