Chính sách của Mỹ đối với các cường quốc Châu Âu trong việc mở rộng lãnh thổ (1787 – 1861)

american territory expand 1787 – 1861

Lê Thành Nam

Trích Luận án Tiến sĩ lịch sử

1. Chính sách của Mỹ đối với Pháp ở lãnh thổ Louisiana

Louisiana là vùng lãnh thổ rộng lớn, được giới hạn từ phía tây sông Mississippi đến dãy núi Rocky, phía bắc giáp Canada, phía nam chạy đến vịnh Mexico, có hải cảng New Orleans, điểm “yết hầu” cho việc vận chuyển sản phẩm, hàng hóa của miền Tây bằng đường thủy từ vùng thung lũng sông Ohio và Mississippi đến các tiểu bang miền Đông nước Mỹ.

Trong quá trình xâm chiếm lục địa Bắc Mỹ của thực dân châu Âu kể từ thế kỷ XVI, Louisiana đã nhiều lần thay đổi chủ. Đầu tiên Louisiana là khu vực chiếm đóng của Pháp. Do thất bại trong cuộc Chiến tranh Bảy năm (1756- 1763) với Anh, Pháp phải chấp nhận ký hiệp ước Paris (1763), trong đó Anh buộc Pháp chuyển nhượng Louisiana cho Tây Ban Nha. Bắt đầu từ thời điểm này, Louisiana nằm dưới sự cai quản của Vương triều Madrid.

Kể từ khi để Louisiana rơi vào vòng kiểm soát của Tây Ban Nha, chính giới Pháp vẫn nuôi hy vọng giành lại lãnh thổ đã mất. Cụ thể là, trong thời gian đảm nhiệm cương vị công sứ Pháp tại Mỹ (1787 – 1789), Eléanore Francois Élie Moustier gửi tập tài liệu có độ dài 330 trang lên Cơ quan đối ngoại triều đình Verssaille, phác thảo những giá trị lợi nhuận dành cho nước Pháp một khi tái chiếm vùng đất này. Tập tài liệu này chỉ rõ Louisiana, tuy ít giá trị đối với Tây Ban Nha song đáp ứng một cách hữu ích đối với Pháp bằng việc cung cấp cho các “quần đảo đường” thuộc Pháp (quần đảo Antilles –TG) nguồn thực phẩm và gỗ, những thứ mà tại thời điểm này phải nhập khẩu từ Mỹ [111, tr. 89]. Sau đó, năm 1790, Công sứ đầu tiên của nước Pháp cách mạng đến Mỹ, Edmund Genet, lôi kéo một binh đoàn cư dân Mỹ vùng biên cương xuôi dòng sông Mississippi, tấn công tập hậu vào lãnh thổ Louisiana, chiếm New Orleans của Tây Ban Nha, lúc bấy giờ là kẻ thù của Pháp, song ý định này bất thành. Dưới thời Đốc chính (1794 – 1799), Tổng trưởng Ngoại giao Pháp, Talleyrand, cũng nhận thấy Louisiana là lãnh thổ có giá trị chiến lược, là “vựa lúa tương lai” cung cấp lương thực cho các thuộc địa Pháp ở vùng biển Caribbean. Mặt khác, do lo sợ trước sự bành trướng mạnh mẽ của cư dân Mỹ sinh sống ở vùng biên cương, nơi giáp ranh với Louisiana, nên Talleyrand muốn thúc ép vương triều Madrid nhượng lại Louisiana cho Pháp.

Dưới nhãn quan của Talleyrand, trong trường hợp “Tây Ban Nha nhượng cho Pháp lãnh thổ Louisiana và Floridas thì sức mạnh của Pháp sẽ là bức tường bằng đồng thau vĩnh cửu không thể đâm thủng trước những nỗ lực kết hợp của Anh và Mỹ” [111, tr. 89]; đồng thời các thuộc địa của Tây Ban Nha ở khu vực này, trước hết là Mexico và California sẽ được giữ vững. Do vậy, Talleyrand nhiều lần chỉ thị cho công sứ Pháp ở Madrid thuyết phục chính giới Tây Ban Nha chấp nhận quan điểm nói trên.

Trong khi đó, kể từ năm 1795 trở đi, vương triều Madrid nhận thấy Louisiana là “lãnh thổ không an toàn và mang lại giá trị lợi nhuận thấp” [111, tr. 89]. Lãnh thổ này luôn nằm trong tình trạng lộn xộn, được bảo vệ bởi hệ thống thành lũy kém kiên cố và đại bác lạc hậu. Hơn nữa, giá trị quản lý lãnh thổ Louisiana luôn bội chi. Theo ước tính năm 1797, số tiền mà Tây Ban Nha dành cho việc quản lý nó là 795.000 $, trong khi đó nguồn thu nhập ở đây chỉ đạt 257.000 $ [111, tr. 89]. Khó khăn trong việc phòng thủ và tốn kém trong quản lý khiến cho Louisiana trở thành gánh nặng đối với vương triều Madrid. Điều này được tổng trưởng Ngoại giao vương quốc Tây Ban Nha, Urquijo, thừa nhận: “Đối với Tây Ban Nha, Louisiana làm tiêu tốn của chúng ta hơn giá trị đích thực của nó” [83, tr. 69].

Nắm bắt được sự suy yếu trong việc cai quản Louisiana, đồng thời lợi dụng bản chất nhu nhược của Vương triều Madrid, ngay sau khi lên cầm quyền thông qua cuộc đảo chính tháng Sương mù (9-11-1799), Napoleon Bonaparte ép buộc chính phủ Tây Ban Nha kí hiệp ước bí mật San Ildefonso vào ngày 1-10-1800. Bản hiệp ước “cho phép Pháp khôi phục lại quyền kiểm soát Louisiana mà quốc gia này bị mất vào tay Tây Ban Nha năm 1763” [59, tr. 249], song Tây Ban Nha vẫn giữ được quyền kiểm soát con sông Mississippi và hải cảng New Orleans 

Chiếm đóng trở lại Louisiana trong ý đồ của Napoléon là muốn biến vùng đất này thành một đế quốc thuộc địa rộng lớn tại Tây bán cầu, nhằm ngăn chặn sự phát triển nền thương mại của tất cả các đô thị bờ đông nước Mỹ, tạo ra một “vành đai” cản trở sự mở rộng lãnh thổ của cư dân vùng biên cương sang phía tây, mặt khác chặn đứng sự bành trướng của thế lực Anh ở khu vực này.

Trên thực tế, để chuẩn bị chiếm đóng trở lại lãnh thổ Louisisana, tháng 11-1801, Napoleon Bonaparte phái tướng Charles Leclerc thực hiện cuộc viễn chinh quân sự nhằm dập tắt cuộc khởi nghĩa nô lệ da đen do Toussaint L’Ouverture – thủ lĩnh được coi là “Napoleon của quần đảo Antilles”, lãnh đạo ở Santo Domingo 14, một hòn đảo vốn trước đây là thuộc địa của Pháp ở vùng biển Caribbean, “cửa ngõ” đi vào Tân thế giới. Tiếp đến, để viện binh cho Santo Domingo và chiếm đóng New Orleans, vào thu đông 1802-1803, Napoleon Bonaparte huy động một đội quân tinh nhuệ đóng quân ở hải cảng Helvoet Sluys, gần Rotterdam (Hà Lan) do tướng Claude Victor làm tổng tư lệnh, chờ động binh.

Về phía nước Mỹ, thực hiện Sắc lệnh Tây Bắc (1787), cư dân vùng biên cương đã vượt dãy Appalachians sang định cư dọc theo thung lũng Mississippi. Theo dòng thời gian, số lượng người Mỹ định cư ở đây ngày càng tăng. Chỉ trong vòng 10 năm, số lượng cư dân Mỹ ở các tiểu bang, như sau: ở Georgia tăng từ 82.548 người (1790) lên 161.414 người (1800); ở Kentucky với các con số tương ứng là 73.677 và 220.995; ở Tennessee là 35.691 và 105.602. Riêng ở tiểu bang Ohio là 45.365 (1800) [89, tr. 101]. Những người định cư chủ yếu sử dụng đường thủy. Hàng năm có trên 150 thuyền buôn quốc tịch Mỹ xuôi ngược dòng sông Mississippi vận chuyển hơn 20.000 tấn hàng hóa như: bột mì, bông vải, đường, quặng sắt, thừng chảo, chì, thuốc lá và lông thú. Chỉ riêng năm 1801, giá trị hàng hóa luân chuyển trên sông Mississippi ước tính 1.095.412 $. New Orleans dần trở thành địa điểm xuất nhập khẩu hàng hóa đi khắp mọi nơi trên thế giới. Thời gian sau đó, theo sử gia Mỹ -Arthur P. Whitaker, cư dân nước Mỹ dần hình thành về “tư tưởng
Mississippi” [130, tr. 150].

Những tin tức về việc chính giới Pháp đang vận động Tây Ban Nha chuyển nhượng lãnh thổ Louisiana đã tác động đến nước Mỹ trong bối cảnh chiến dịch vận động tranh cử tổng thống năm 1796 giữa các đảng phái diễn ra hết sức quyết liệt. Các nghị sĩ thuộc đảng Liên bang nhanh chóng lợi dụng tin tức này buộc tội các nghị sĩ thuộc đảng Cộng hòa đang câu kết với nước Pháp không chỉ để giành lấy Louisiana mà còn có ý định chia cắt lãnh thổ Liên bang thành nhiều quốc gia nhỏ. Ngoại trưởng Timothy Pickering, diễn tả quan điểm của phái Liên bang như sau: “Chúng ta nhận được thông tin rằng chính phủ Pháp dự định tái chiếm Louisiana, theo phỏng đoán rằng trong các cuộc đàm phán với Tây Ban Nha về việc nhượng Louisiana Floridas 15 có thể đạt được sự nhất trí. Các bạn sẽ thấy tất cả mối nguy từ sự kiện này. Tây Ban Nha vẫn chắc chắn là người hàng xóm an toàn, trầm lắng và hữu ích” [83, tr. 68] hơn so với nước Pháp.

Nỗi lo lắng của T. Pickering nhanh chóng trở thành hiện thực. Một thời gian ngắn sau khi nhậm chức tổng thống, tháng 11-1801, Thomas Jefferson thông qua Công sứ Mỹ ở London, Rufus King, nhận được tin tức về bản hiệp ước San Ildefonso. Mặc dù có tư tưởng thân Pháp, song T. Jefferson vẫn cảnh báo sự lo ngại về số phận đồng bằng Mississippi. Ông viết: “Có lý do đáng xem xét để lo ngại rằng việc Tây Ban Nha nhượng Louisiana và Floridas cho Pháp. Đó là chính sách không tốt lành cho cả hai bên (Tây Ban Nha và Pháp – TG), báo hiệu điềm xấu đối với chúng ta” [83, tr. 70]. Bởi dưới quan điểm của T. Jefferson, “Pháp không chỉ là một nước có sức mạnh kinh khủng mà còn có Napoleon, một con người đầy tham vọng bành trướng” [78, tr. 40]. Là một người từng trải trên chính trường, T. Jefferson nhận định rằng: “Chỉ cần có một cường quốc châu Âu khống chế cửa sông Mississippi, thì nước Mỹ có thể bị lôi kéo vào cuộc chiến tranh châu Âu” [28, tr. 46].

Phản ứng đầu tiên của chính giới Mỹ trước việc Pháp dự định tái chiếm Louisiana và New Orleans, trong công hàm gửi Robert Livingston (18-4- 1802), Công sứ Mỹ ở Paris, người đứng đầu cơ quan hành pháp Mỹ cho rằng:

“Trên quả địa cầu, có điểm duy nhất mà người sở hữu nó là kẻ thù tự nhiên và quen thuộc của chúng ta. Đó là New Orleans, nơi mà 3/8 sản phẩm trên toàn lãnh thổ chúng ta phải thông qua để ra thị trường, và từ sự màu mỡ của nó, New Orleans sẽ mang lại cho chúng ta hơn một nửa sản phẩm trên cả nước và là nơi cư ngụ hơn một nửa dân số chúng ta…[Do đó], ngày mà nước Pháp chiếm giữ New Orleans… từ tình thế này chúng ta (nước Mỹ) phải liên minh hạm đội Anh và dân tộc Anh” [77,tr. 189].

Đồng thời với việc gửi công hàm cho công sứ Mỹ, ngày 25-4-1802, T. Jefferson còn gửi một lá thư riêng đến Pierre Samuel du Pont de Nemours, một chính khách Pháp với tư tưởng tiến bộ, nhờ nhân vật này thuyết phục giới cầm quyền Pháp mà trước hết là Napoleon, từ bỏ ý định tái chiếm Louisiana.

Bức thư viết:

“Tôi công khai với bạn, tôi tin rằng bạn sẽ có bức thư này, trong giới hạn quyền lực của bạn để áp đặt chính phủ đó (Pháp) xem xét, trong phạm vi chống lại việc sở hữu Louisiana là không trở thành hiện thực…. Việc Pháp sở hữu Louisiana không tạo ra thêm bất cứ thứ gì, mà chỉ là một đối trọng bù lấp vào khoảng trống trong việc giải quyết vấn đề một cách thông thường – vết đốm nhỏ (tức việc nước Pháp chiếm Louisiana – TG) bây giờ xuất hiện như là một điểm vô hình cuối đường chân trời, là sự phôi thai của một cơn bão mà sẽ tàn phá các quốc gia nằm hai bên bờ Đại Tây Dương và kéo theo nhiều tác động đối với vận mệnh của các quốc gia này. Tuy nhiên, điều này có thể tránh được là bằng lời khẩn nguyện chân thành của tôi; và trong trường hợp bạn sử dụng các biện pháp nhằm thông báo đến sự từng trải […] của Napoleon về tất cả hậu quả của nó, bạn sẽ có công lớn đối với hai dân tộc. Hòa bình và tách khỏi sự can thiệp của châu Âu là mục tiêu của chúng tôi và sẽ tiếp tục trong khi trật tự hiện tại ở châu Mỹ vẫn còn chưa bị xáo động” [89, tr. 103].

Đồng thời với các sự kiện nêu trên, dưới sự ủy nhiệm của người đứng đầu Nhà Trắng, ngày 1-5-1802, Ngoại trưởng Mỹ, James Madison, chỉ thị cho Robert Livingston thăm dò chính giới Pháp về khả năng mua New Orleans và Floridas.

Thời gian trôi đi, những động thái của Pháp trong việc chiếm lại Louisiana trở nên rõ ràng hơn. Ngày 16-10-1802, tức một ngày trước khi hoàng đế Charles IV ban hành chiếu chỉ cuối cùng về việc chuyển giao chính thức Louisiana cho nước Pháp, dưới sức ép của Napoleon, toàn quyền Tây Ban Nha ở New Orleans, Morales, ra lệnh thủ tiêu “quyền kí gửi” – một đặc quyền cho phép cư dân Mỹ lưu giữ hàng hóa ở hải cảng New Orleans để chờ thương thuyền vận chuyển ra nước ngoài. Đối với Mỹ, hành động này là trái với các điều khoản mà Chính phủ hoàng gia Tây Ban Nha đã kí với Mỹ trong Hiệp ước Pinckney (1795) 16. Theo suy tính của cư dân miền Tây nước Mỹ, một khi Napoleon hoàn thành việc chiếm đóng Louisiana thì sẽ “đóng cửa” dòng sông Mississippi. Điều này được xem là một đòn giáng mạnh vào lợi ích kinh tế Mỹ, trước hết là cư dân miền Tây và gây ra những phản ứng dữ dội.

Một cư dân tiểu bang Kentucky bày tỏ thái độ giận dữ rằng: “Toàn thể dân chúng Kentucky mong ước có cơ hội đánh chiếm New Orleans và ngày đó sẽ không xa” [64, tr. 103]. Một người Anh đương thời, bình luận về sự kiện này như sau: “Hiếm có sự kiện nào kể từ sau cách mạng mà kích động sự chống đối mãnh liệt của cư dân Mỹ như sắc lệnh này” [83, tr. 71].

Sự giận dữ của công luận Mỹ lan nhanh đến Quốc hội Liên bang. Tại đây, các nghị sĩ thuộc các tiểu bang miền Tây nhận thức rõ vai trò và sự cần thiết phải hành động của họ trước “sự kiện New Orleans”. Trong khi đó, các nghị sĩ thuộc đảng Liên bang tận dụng “sự kiện này” như là cơ hội đóng vai trò người bảo vệ quyền lợi cư dân miền Tây nhằm tranh thủ số phiếu của họ để tranh đoạt quyền lực với đảng Cộng hòa. Alexander Halmilton, người đứng đầu đảng Liên bang, cho rằng chính quyền nên chiếm giữ New Orleans và Floridas, sau đó mới đàm phán với Pháp [111, tr. 93]. Đảng Liên bang còn kích động Quốc hội thông qua đạo luật cung cấp ngân quỹ 5.000.000 $ và huy động 50.000 dân quân du kích để chiếm giữ New Orleans, đuổi người Tây Ban Nha, Pháp và tất cả người ngoại quốc, rời khỏi biên giới nước Mỹ [89, tr. 106].

Chính quyền thuộc đảng Cộng hòa do Tổng thống T. Jefferson đứng đầu, đối mặt tình thế tiến thoái lưỡng nan. Vấn đề đặt ra là, nếu T. Jefferson không hành động ngay lập tức và có những bước đi hiệu quả nhằm xoa dịu sự phẫn nộ của cư dân miền Tây thì sẽ dẫn đến tình trạng sụp đổ Liên bang hoặc nếu Jefferson sử dụng biện pháp bạo lực, tức tiến hành chiến tranh với ngoại quốc thì điều này dẫn đến thảm họa đối với đất nước, trái với ước muốn của Tổng thống.

Để trấn an dư luận trong nước, ngày 11-1-1803, T. Jefferson gửi đến Thượng viện bản dự luật đề cử James Monroe với tư cách đại diện ngoại giao đặc biệt của chính phủ Mỹ đến Paris nhằm mục đích “mở rộng và giành lấy tính hiệu quả hơn cho quyền và lợi ích của Mỹ ở dòng sông Mississippi và những vùng lãnh thổ bờ Đông”. Ngay lập tức, Thượng viện nhanh chóng phê chuẩn yêu cầu của Tổng thống và Ủy ban Hạ viện thông qua khoản ngân sách 2.000.000 $ dành cho việc đàm phán. Dưới nhãn quan của hai viện này: “Việc giành lấy New Orleans và Floridas sẽ không chỉ tạo thuận lợi đối với nước Mỹ mà còn được xem là nhu cầu cần thiết khẩn cấp của cư dân nước Mỹ…

Chúng ta mong muốn được sử dụng tự do con sông Mississippi, Mobile, Apalachicola và các dòng sông khác ở miền Tây, bằng chính bản thân và sự thịnh vượng của chúng ta, New Orleans và Floridas phải trở thành một phần của nước Mỹ, cả bằng con đường mua bán hoặc chinh phục” [111, tr. 94]. 

Trong các chỉ thị đối với J. Monroe, Tổng thống T. Jefferson dự tính những “kịch bản” mà phái đoàn Mỹ có thể vấp phải trong quá trình đàm phán về lãnh thổ Louisiana. Thứ nhất, nếu Napoleon sẵn sàng bán New Orleans và Floridas thì J. Monroe và R. Livingston được ủy quyền đề nghị với mức giá 10.000.000 $; thứ hai, nếu nước Pháp từ chối bán bất cứ vùng lãnh thổ nào thì các đại diện Mỹ phải dùng mọi biện pháp có thể nhằm thuyết phục chính giới Pháp cải thiện “quyền kí gửi” hàng hóa cho cư dân Mỹ ở hải cảng New Orleans, điều này vốn được đảm bảo bằng Hiệp ước Pinckney (1795); thứ ba, nếu nước Pháp có động thái thù địch chống lại Mỹ hoặc đóng cửa dòng sông Mississippi đối với nền thương mại Mỹ thì họ được quyền vượt biển Manche tới London mời nước Anh tham gia liên minh với Mỹ.

Trong khi đó, tại Paris, trước khi J. Monroe đến, R. Livingston đã tiến hành đàm phán với đại diện ngoại giao Pháp một thời gian, Công sứ Mỹ đề xuất mua New Orleans và Floridas với giá 10.000.000 $, còn với Louisiana thì không quá 25.000.000 $ [78, tr. 41], nhưng không đem lại kết quả. 

Tuy nhiên, chẳng bao lâu sau đó tình hình châu Âu đã có những thay đổi, Anh kí với Pháp Hòa ước Amiens (3-1802), hòa bình lập lại ở châu Âu, nhưng chỉ mang tính chất tạm thời. Bởi theo hòa ước này, Pháp chiếm Bỉ và Hà Lan. Sự chiếm đóng của Pháp tại đây được ví như “một khẩu súng lục chĩa vào trái tim nước Anh” [41, tr. 33]. Mâu thuẫn giữa Anh và Pháp không hề giảm đi mà trái lại ngày càng gia tăng. Theo suy tính của Napoleon, chiến tranh giữa Anh và Pháp sẽ xảy ra là điều không tránh khỏi 17 và khi chiến tranh diễn ra, khả năng nước Mỹ sẽ đứng về phía Anh chống lại Pháp. Cùng với đó, tình hình chiến trường diễn ra trái với mong muốn của Napoleon. Tại châu Mỹ, “cuộc khởi nghĩa của những người nô lệ da đen ở Santo Domingo đã làm tan vỡ giấc mơ của Napoleon. Bệnh sốt vàng da và những cuộc tấn công của nghĩa quân đã dẫn đến sự thất bại thảm hại của đội quân Napoleon gửi đến đàn áp cuộc khởi nghĩa” [78, tr. 41]; tại châu Âu, đạo quân do tướng Claude Victor thống lĩnh không thể động binh để giải vây cho đội quân Charles Leclerc ở “chiến trường Caribbean” do tình trạng đóng băng xảy ra tại các hải cảng Hà Lan.

Trước tình thế trên đây, Napoleon quyết định một cách bất ngờ rút khỏi vùng đất Louisiana, nhưng không nhường lại cho Tây Ban Nha như hiệp ước đã kí kết vào tháng 10-1800 giữa hai nước 18, mà quyết định bán vùng đất này cho Mỹ, dẫu rằng trong cách nhìn của Napoleon, Louisiana là địa bàn có vị trí chiến lược quan trọng, một “vựa lúa” cung cấp cho quân đội Pháp tại châu Mỹ. Chính Napoleon đã nói rõ ý đồ này trước bề tôi của mình: “Ta biết giá trị đích thực vùng đất (Louisiana) mà ta bán và cảm thấy hối tiếc vì phải từ bỏ nó. Nhưng ta không có đủ thực lực để nắm giữ nó. Nước Anh sẽ chiếm lấy vùng đất này. Hãy bán toàn bộ vùng Louisiana. Thực hiện công việc này ngay lập tức” [93, tr. 326].

Đối với Napoleon Bonaparte, việc bán vùng đất Louisiana cho Mỹ nhằm các mục đích sau: thứ nhất, tách Mỹ ra khỏi Anh và kết thân với Mỹ để tập trung đánh Anh; thứ hai, thu được một khoản tiền lớn để bổ sung vào ngân khố quốc gia nhằm phục vụ cho cuộc chiến tranh với nước Anh sắp tới; thứ ba, tăng thêm sức mạnh cho Mỹ nhằm tạo ra cho nước Anh một đối thủ cạnh tranh mặt biển trong tương lai mà sớm muộn sẽ hạ thấp uy thế của đế quốc Anh; thứ tư, sự gia nhập của Louisiana, cuối cùng sẽ gây nên sự chia rẽ trong nội bộ nước Mỹ.

Nắm bắt được ý định của Napoleon, ngày 11-4-1803, R. Livingston gặp Talleyrand, Tổng trưởng Ngoại giao Pháp. Khi R. Livingston chuẩn bị đề xuất ý định mua New Orleans và Louisiana như lần trước, thì Talleyrand hỏi ngay: 

“Đối với toàn bộ Louisiana, các ông muốn trả bao nhiêu tiền ?” [28, tr.46]. Động thái đó thực sự làm cho đại diện ngoại giao Mỹ hết sức bất ngờ. Cuộc đàm phán “Thương vụ Louisiana” tiếp tục và nhanh chóng đi đến kết quả. Ngày 30-4-1803, tại Paris, đại diện chính quyền Mỹ – J. Monroe và R. Livingston kí với chính phủ Pháp một bản thương ước về “vấn đề Louisiana”. 

Theo thương ước này, Pháp bán Louisiana cho Mỹ với giá 15.000.000 $. Ngoài khoản tiền nước Pháp nhận từ Mỹ, thương ước còn ghi rõ:

“… Cư dân định cư trong lãnh thổ Louisiana sẽ trở thành công dân Mỹ và được thừa nhận theo quy chế Hiến pháp liên bang nhằm thỏa mãn các quyền lợi, cơ hội và được bảo vệ như công dân Mỹ; họ cũng được duy trì và được bảo vệ quyền tự do, tài sản và tín ngưỡng” (Điều 3) …“Ngay sau khi thương ước có hiệu lực, Cộng hòa Pháp sẽ rút bỏ các đồn bốt quân sự tại New Orleans và các vùng đất khác nằm trong phạm vi Louisiana mà Tổng tài (Pháp) tuyên bố sở hữu (Điều 5) …” [70, tr.19-20].

Với thương ước trên, giấc mơ thiết lập một đế chế Pháp của Napoleon ở Bắc Mỹ bị sụp đổ. Pháp mất đi địa bàn chiến lược quan trọng ở Tây bán cầu và nguồn cung cấp lương thực quan trọng từ vùng đất trù phú này. Talleyrand phải chua chát thừa nhận: “Nước Mỹ tạo nên một thương vụ quý tộc. Tôi nghĩ rằng, nước Mỹ hưởng được nhiều đắc lợi trong thương vụ này” [78, tr. 42].

Sở hữu được vùng đất Louisiana, nước Mỹ đã gạt bỏ chướng ngại của phong trào Tây tiến. Con sông Mississippi, “Cha của các dòng sông”, hoàn toàn trở thành con sông nội địa của Mỹ, đã tạo điều kiện hết sức thuận lợi cho đất nước phát triển. Các vấn đề quyền hàng hải, quyền gửi kho v.v… lâu nay gặp nhiều rắc rối cũng được giải quyết nhanh chóng. Ngoài ra, do ranh giới của Louisiana không rõ ràng đã giúp cho Mỹ có cơ sở để giải thích một cách tùy tiện về biên giới của họ trong việc bành trướng về phía Tây. Andrew H. Berding cho rằng: “Đây là bước tiến quan trọng trong việc mở rộng tân quốc gia và có tính chất chiến lược vì đã ngăn chặn quyền hành chính trị của Âu châu trỗi dậy tại miền Tây nước Mỹ” [67, tr. 52].

“Thương vụ Louisiana”, mặc dù vấp phải sự phản đối quyết liệt của các nghị sĩ Liên bang, vì dưới quan điểm của họ, hành động mua bán lãnh thổ của Tổng thống là vi hiến song T. Jefferson lập luận rằng: “Quyền mua bán lãnh thổ là nội dung đã được đề cập một cách tự nhiên trong quyền lập hiệp ước” và “lương tri của đất nước chúng ta (Mỹ – TG) sẽ xóa đi tội lỗi từ một lập luận thiếu chặt chẽ nếu như lập luận ấy đưa lại những kết quả mỹ mãn”[25, tr. 91]. Điều quan trọng trên hết đối với T. Jefferson là xuất phát từ lợi ích của dân tộc, bởi: “Lãnh thổ có được, bao gồm vùng sông Missouri và Mississippi, làm tăng gấp đôi diện tích đất nước; một lãnh thổ hiện ra với đất đai màu mỡ, khí hậu trong lành, sản phẩm nông nghiệp trù phú và thông tin liên lạc quan trọng” [95, tr. 317].

“Thương vụ Louisiana” được xem như là mốc mở đầu quá trình mở rộng lãnh thổ về phía Tây của nước Mỹ. Tầm vóc của nó trong tiến trình lịch sử Mỹ thật lớn lao. Khi nước Mỹ nắm giữ được Louisiana thì trục Đông – Tây chiếm ưu thế so với trục Bắc – Nam.

“Thương vụ Louisiana” đã đẩy mạnh quá trình “Tây tiến” trong lịch sử nước Mỹ. Đến nửa thế kỷ XIX, bằng nhiều con đường khác nhau, cương giới lãnh thổ Mỹ kéo dài đến bờ biển Thái Bình Dương. Về ý nghĩa này, sử gia Bemiss cho rằng: “Tầm quan trọng của nó đối với nước Mỹ, đánh giá như thế nào vẫn còn thấp, … nó cho đất nước này một trong những kho lương thực, nhiên liệu và động lực dồi dào bậc nhất thế giới … Louisiana đã trở thành một hành lang để nước Mỹ mở rộng sang Floridas, Texas, New Mexico, California, Oregon và Alaska” [28, tr. 48].

Như vậy, khoảng một phần tư thế kỷ sau khi lập quốc, các nhà lãnh đạo Mỹ đã lập nên kỳ tích trong chính sách ngoại giao “mở nước”. Điều đáng chú ý là đường lối ngoại giao “mở nước” của Mỹ ở buổi đầu đã diễn ra bằng con đường hòa bình. Nước Mỹ đã tránh được một cuộc chiến tranh với Pháp về “vấn đề Louisiana”. Cha đẻ của “Thương vụ Louisiana” – Tổng thống T. Jefferson cho rằng “Thương vụ Louisiana” đã “xóa tan mọi cuộc tranh cãi với các cường quốc (châu Âu – TG) mà nước Mỹ tin rằng sẽ đẩy họ vào cuộc chiến tranh với Pháp” [95, tr. 317].

Có được những thành quả như trên là nhờ các nhà lãnh đạo Mỹ lúc bấy giờ, đứng đầu là T. Jefferson, với tầm nhìn chiến lược, đã biết “tranh thủ” những khó khăn của Pháp đang gặp phải ở cả hai lục địa Âu – Mỹ; đặc biệt là đã biết triệt để khai thác những mâu thuẫn trong nội bộ các nước châu Âu, trước hết là Anh và Pháp. Chính Napoleon Bonaparte đã chua chát thú nhận: “Nước Mỹ là quốc gia may mắn, lớn mạnh nhờ sự điên cuồng của các quốc gia Âu châu chúng ta” [67, tr. 53]. Đây chính là một minh chứng cho tính thực dụng trong nền ngoại giao Mỹ và đặc điểm này tiếp tục duy trì cho đến tận ngày nay.

2. Chính sách của Mỹ đối với Tây Ban Nha ở khu vực Tây Nam và lãnh thổ Floridas

2.1. Vấn đề khu vực Tây Nam

Khu vực Tây Nam 19 của Mỹ giáp với hai vùng lãnh thổ rộng lớn mà tại thời điểm này thuộc quyền kiểm soát của Vương quốc Tây Ban Nha, Floridas ở phía Nam và Louisiana ở phía Tây qua con sông Mississippi. Khu vực này có nhiều dòng sông (Tennessee, Yazoo) đổ vào “Cha các dòng sông” trước khi chảy ra đại dương nên thuận tiện cho giao thông đường thủy. Chủ nhânđầu tiên của địa bàn này là các bộ lạc da đỏ (Chickasaws, Choctaws, Creek và Cherokee). Trong thời kỳ các thuộc địa Bắc Mỹ nằm dưới sự cai trị của đế quốc Anh, người da trắng men theo các triền sông đến đây thiết lập khu định cư. Lâu dần, số lượng người đến sinh sống ngày càng đông, đa phần là người Mỹ gốc Anh. Đến khi nước Mỹ ra đời (1783), nhiều thị trấn lần lượt mọc lên ven sông, như Nasville (ngày nay thuộc Tennessee), Boonesborough, Harrodsburg và Lexington (Kentucky).

Về phía Tây Ban Nha, chứng kiến cuộc đấu tranh giành độc lập của các thuộc địa Anh tại Bắc Mỹ, mặc dù có sự giúp đỡ về tài chính 20 song triều đình phong kiến Madrid không mấy thiện cảm trước thắng lợi của nền cộng hòa vừa mới xác lập. Bởi theo suy tính của họ, “viện trợ cho quân khởi nghĩa (các thuộc địa Bắc Mỹ – TG) giống như một mối họa và không nên ảo tưởng trông chờ vào sự trả ơn của nước cộng hòa vừa mới sinh ra này. Họ sẽ quên ơn huệ nhận được và chỉ nghĩ tới chuyện bành trướng” [42, tr. 308]. Mặt khác, sự thắng lợi của các thuộc địa Anh sẽ cổ vũ nhân dân “châu Mỹ thuộc Tây Ban Nha” đứng dậy đấu tranh cởi bỏ “xiềng xích” thống trị của mẫu quốc ở Tây bán cầu.

Điều này đe dọa trực tiếp đến lợi ích thực dân của Vương triều Madrid. Xuất phát từ nguy cơ nói trên, do không phải là một bên tham gia đàm phán nên Chính phủ Tây Ban Nha tuyên bố không chịu sự ràng buộc bởi hiệp định giữa Anh và Mỹ (3-9-1783). Theo đó, Tây Ban Nha từ chối công nhận đường ranh giới giữa Mỹ với khu vực Tây Florida (thuộc lãnh thổ Floridas). Họ cho rằng đường ranh giới đó phải nằm tại vĩ tuyến 32028’ Bắc, nơi con sông Tennesse chảy qua, cách vĩ tuyến 310 Bắc khoảng 100 dặm về phía Bắc. Điều này xuất phát từ lý do, khi khu vực Tây Florida còn nằm dưới sự quản chế của nước Anh, đường phân giới chính thức của nó với các thuộc địa Bắc Mỹ khác nằm tại vĩ tuyến 32028’ Bắc. Nằm trong phạm vi tuyên bố có chủ quyền, Tây Ban Nha tiến hành xây dựng hàng loạt các đồn bốt quân sự ở Alabama, Mississippi và Tennesse. Từ địa bàn “đứng chân”, người Tây Ban Nha phát triển uy lực ra toàn bộ khu vực Tây Nam bằng chính sách liên minh với các bộ lạc da đỏ. Năm 1784, tại Pensacola (Floridas), triều đình Madrid ký một loạt hiệp ước riêng rẽ với từng bộ tộc Creek, Choctaw và Chickasaw. Theo đó, Vương triều Madrid trang bị khí giới và đạn dược cho người da đỏ nhằm thực hiện tấn công vào các khu định cư của người Mỹ da trắng. Thực chất, Tây Ban Nha muốn thiết lập “khu đệm” nhằm ngăn cản sự bành trướng của người Mỹ, đồng thời kiềm tỏa sức mạnh của nền cộng hòa non trẻ – nước Mỹ.

Một thực tế lịch sử cần lưu ý là cư dân miền Tây từ lâu sinh sống dựa vào việc sản xuất các mặt hàng thiết yếu (ngũ cốc, lông thú, gỗ, gia súc) cung cấp cho thị trường miền Đông và giao thương với các thuộc địa của Anh và Pháp ở vùng biển Caribbean. Việc vận chuyển thương phẩm bằng đường bộ sẽ mang lại chi phí lớn do phải vượt qua dãy núi cao Appalachians, đồng thời khiến sức lực của con người nhanh chóng kiệt quệ. Để giảm sự tốn kém, cư dân miền Tây tận dụng đường thủy, nhất là con sông Mississippi và các phụ lưu của nó, cho hoạt động vận chuyển. Con sông Mississippi dần trở thành cầu nối tự nhiên giữa người miền Tây với thế giới bên ngoài. Họ chất đầy hàng hóa lên thuyền, xuôi dòng sông đến hải cảng New Orleans. Từ đây hàng hóa được đưa sang con tàu khác để vận chuyển đến vùng duyên hải thuộc các tiểu bang miền Đông và vùng biển Caribbean. Theo Hiệp ước Paris, “việc lưu thông trên dòng sông Mississippi, từ thượng nguồn đến đại dương, sẽ mãi mãi tự do và mở ra đối với công dân Mỹ và Anh” [91, tr. 15]. Thế nhưng, như là hệ quả việc tuyên bố chủ quyền đối với khu vực Tây Nam, Vương triều Madrid tước đi đặc quyền vận chuyển hàng hóa trên sông Mississippi của cư dân Mỹ. Năm 1784, tức một năm sau khi Hiệp ước Paris có hiệu lực, Tây Ban Nha ra sắc lệnh “đóng cửa” hoàn toàn dòng sông. Hành động này được xem như một đòn chí tử đánh vào lợi ích kinh tế của cư dân sinh sống ven sông.

Phản ứng trước động thái trên, cư dân miền Tây phẫn nộ. Họ đòi Chính phủ tiến hành thương lượng với Tây Ban Nha. Năm 1786, chính phủ Mỹ dưới thời “Điều khoản hợp bang”, cử John Jay làm đại diện tiến hành đàm phán với Diego de Gardoqui, công sứ Tây Ban Nha tại Mỹ. Trong các cuộc đàm phán, J.Jay yêu cầu Tây Ban Nha hủy bỏ sắc lệnh nói trên, chấp nhận đường ranh giới nằm tại vĩ tuyến 310 Bắc, đồng thời rút bỏ những đồn bốt quân sự ở Tây Nam, song Gardoqui khước từ. Trong một thời gian dài, quan hệ Mỹ –Tây Ban Nha luôn trong tình trạng căng thẳng.

Do Tây Ban Nha đóng cửa dòng sông Mississippi nên hoạt động vận chuyển các sản phẩm, nhất là ngũ cốc, của cư dân miền Tây ra bên ngoài bị đình trệ. Họ không thể vươn đến những thị trường xa hơn nên lợi nhuận suy giảm. Để có thể vận chuyển dễ dàng đồng thời tạo ra nguồn thu nhập, họ trưng cất ngũ cốc thành những thùng rượu whiskey mang ra thị trường tiêu thụ. Năm 1791, chính phủ Liên bang đánh thuế đối với các loại rượu trưng cất để tăng ngân sách tài chính quốc gia. Cư dân miền Tây không những không tuân theo mà còn đe dọa sử dụng vũ lực đối với nhân viên thu thuế. Năm 1794, nông dân miền Tây Pennsylvania kháng cự bằng hành động nổi loạn. Họ tấn côngvào đội quân bảo vệ những nhân viên thu thuế của chính quyền Liên bang.

Lịch sử nước Mỹ gọi đây là “Cuộc nổi loạn Whiskey”. Cuộc nổi loạn tuy bị chính quyền G. Washington sớm dập tắt song sự kiện này chứng tỏ cư dân miền Tây nước Mỹ tỏ ra bất mãn với chính sách của Liên bang. Nếu tình trạng này kéo dài sẽ xuất hiện đấu tranh đòi ly khai dẫn tới nguy cơ tan vỡ Liên bang. Vấn đề đặt ra là, Chính phủ phải có biện pháp như thế nào nhằm xoa dịu mâu thuẫn với cư dân miền Tây, mà trước hết là việc Tây Ban Nha từ chối việc lưu thông thương thuyền Mỹ trên sông Missississippi và không cho chuyển hàng tại New Orleans.

Để tránh nguy cơ sụp đổ Liên bang, vào cuối năm 1794, Tổng thống G.Washington cử Thomas Pinckney làm đại diện ngoại giao đến Madrid tiến hành đàm phán với chính phủ Tây Ban Nha. Trong khi hai bên đang thương lượng thì tình hình quốc tế diễn ra bất lợi cho vương triều Madrid. Tại châu Âu, do bất đồng về vấn đề thuộc địa ở Tân thế giới nên liên minh Anh – Tây Ban Nha sụp đổ. Sự kiện này diễn ra đồng thời với việc nước Mỹ ký với Anh bản Hiệp ước Jay (11-1794) 22 khiến cho Thủ tướng Tây Ban Nha, Godoy, lo ngại khả năng hình thành liên minh giữa Anh và Mỹ. Một khi điều này xảy ra sẽ dẫn tới nguy cơ các thuộc địa của Tây Ban Nha tại Tân thế giới bị tấn công. 

Mặt khác, tại Mỹ, các bộ lạc da đỏ với tư cách đồng minh Tây Ban Nha tỏ ra bất lực trước sự bành trướng của người Mỹ da trắng. Bằng chứng là, trong những năm 1793 – 1794, các ngôi làng định cư của người da đỏ tại Tây Nam bị khuất phục bởi hai cuộc viễn chinh do John Sevier và James Robertson chỉ huy. Thắng lợi này buộc người da đỏ cam kết không quấy phá các khu định cư, nhường lại đất đai cho người Mỹ da trắng.

Trong bối cảnh đó, để duy trì sự an toàn cho các thuộc địa phía Nam ở Tây bán cầu, đồng thời tách nước Mỹ ra khỏi liên minh với Anh, chính phủ Tây Ban Nha buộc phải nhượng bộ. Ngày 27-10-1795, tại cung điện San Lorenzo, đại diện chính phủ Mỹ, T. Pinckney ký với chính phủ Tây Ban Nha một bản hiệp ước. Theo đó, Tây Ban Nha chấp nhận:

“Đường ranh giới phía Nam của nước Mỹ, mà phân chia lãnh thổ Mỹ với các thuộc địa Đông và Tây Florida của Tây Ban Nha nằm tại vĩ tuyến 310 Bắc” (điều 2); “Việc lưu thông trên con sông Mississippi, từ thượng nguồn đến đại dương, sẽ được tự do cho công dân Mỹ” (điều 4); “công dân Mỹ được phép cất giữ hàng hóa và tài sản của họ tại hải cảng New Orleans để chờ xuất khẩu mà không phải trả bất cứ khoản phí nào cao hơn mức giá tương đương dành cho việc thuê kho hàng với thời hạn 3 năm và hứa sẽ tiếp tục gia hạn giấy phép này” (điều 22)…[91, tr. 31-32].

Bản hiệp ước này về sau được gọi là Hiệp ước San Lorenzo hoặc Pinckney, đã buộc Tây Ban Nha tôn trọng đường ranh giới theo quy định của Hiệp ước Paris giữa Anh và Mỹ (1783). Nó góp phần xoa dịu sự bất mãn của cư dân miền Tây bằng việc cho phép sự tự do lưu thông trên sông Mississippi, tránh nguy cơ ly khai của cư dân miền Tây, đồng thời kiềm chế sự quấy rối của thổ dân da đỏ. Điều quan trọng là Hiệp ước Pinckney giúp Mỹ tránh bị lôi cuốn vào cuộc phân tranh bên kia đại dương của các cường quốc châu Âu, tạo điều kiện hòa bình cho sự phát triển của đất nước. Đối với Tây Ban Nha, hiệp ước này là một bước thụt lùi đầu tiên trong chính sách duy trì “khu đệm” nhằm chống lại sự mở rộng lãnh thổ của cư dân Mỹ vùng biên cương, mở ra cơ hội mới cho sự bành trướng của Mỹ vào đồng bằng Mississippi trong giai đoạn lịch sử tiếp theo.

Những thành quả ngoại giao ngoạn mục nêu trên bắt nguồn từ những chính sách khôn khéo của chính phủ Mỹ, đứng đầu là G. Washington. Chính phủ Washington đã biết tận dụng mâu thuẫn trong quan hệ quốc tế đương thời, trước hết là sự xung đột lợi ích giữa Anh với Tây Ban Nha về vấn đề thuộc địa, để đem lại ưu thế cho mình trong cuộc đấu tranh giành quyền lợi giữa các cường quốc, kết hợp với việc sử dụng biện pháp bạo lực cần thiết đối với người da đỏ. Mặt khác, áp lực của cư dân miền Tây khiến chính phủ phải có những quyết sách hiệu quả nhằm đáp ứng nguyện vọng của họ, nếu không muốn tình trạng Liên bang rơi vào bất ổn.

2.2. Vấn đề lãnh thổ Floridas

Floridas 23 là lãnh thổ nằm phía Đông Nam nước Mỹ, tiếp giáp các tiểu bang miền Nam, thông với lãnh thổ Louisiana ở phía Tây bằng con sông Mississippi. Floridas được xem như “nòng súng lục ép chặt cửa sông Mississippi” [78, tr. 59], là nơi kiểm soát lối ra vào đối với tàu thuyền xuất phát từ phía Nam nước Mỹ, như vùng Pearl, Perdido và Chattahoochee. Bán đảo Đông Florida kéo dài tới vùng biển Caribbean, án ngữ con đường thuỷ huyết mạch từ hải cảng New Orleans ra vịnh Mexico phía Đông Nam Liên bang Mỹ.

Sau “thời kỳ của những khám phá lớn”, các cường quốc châu Âu bắt đầu quá trình thuộc địa hóa châu Mỹ. Trong số các cường quốc này, Tây Ban Nha là quốc gia tiên phong đặt chân lên vùng đất Tân thế giới. Năm 1492, theo gót chân nhà thám hiểm C. Columbus, người Tây Ban Nha đến định cư trên các hòn đảo thuộc vùng biển Caribbean. Họ từng bước chinh phục người da đỏ, biến các vùng đất chiếm được thành “khu vườn riêng” để khai thác thương mại. Sang thế kỷ XVI, bằng các cuộc thám hiểm do quốc vương bảo trợ, thực dân Tây Ban Nha đẩy mạnh quá trình xâm chiếm đại lục châu Mỹ.

Trong thời gian 1539 – 1541, đoàn thám hiểm do Hernando de Soto dẫn đầu, đặt chân lên bán đảo Floridas và vượt qua miền Đông Nam nước Mỹ ngày nay tới tận vùng Mississippi để tìm kiếm kho báu. Từ thời điểm này trở đi, vùng đất Floridas nằm dưới sự kiểm soát của Vương triều Madrid.

Trong cuộc Chiến tranh Bảy năm (1756 – 1763), Anh đánh bại Pháp, buộc Pháp ký kết hòa ước Paris (1763). Do là đồng minh với Pháp trong cuộc chiến nên Tây Ban Nha phải chấp nhận tổn thất. Theo đó, vùng đất Floridas được nhượng lại cho Anh. Dưới sự cai quản của chính quyền London, năm 1764, Floridas được phân chia thành Tây Florida và Đông Florida với mốc phân giới là Apalachicola. Đến năm 1783, tận dụng việc thực dân Anh bận tập trung đối phó với Cuộc chiến tranh giành độc lập của nhân dân thuộc địa Bắc Mỹ, Tây Ban Nha dùng vũ lực tái chiếm lãnh thổ Floridas.

Về phía Mỹ, những thập niên đầu của nền cộng hòa, giới cầm quyền Mỹ đã “để mắt” tới lãnh thổ Floridas. Năm 1800, trước tin đồn nước Pháp vận động hành lang buộc Tây Ban Nha nhượng lãnh thổ Louisiana, điều mà lúc bấy giờ công luận Mỹ tin rằng Floridas là một bộ phận nằm trong lãnh thổ Louisiana nên giới cầm quyền Mỹ đặt ra vấn đề mua Floridas. Năm 1803, trong quá trình đàm phán “Thương vụ Louisiana”, Tổng thống Mỹ – T. Jefferson cố gắng đạt thoả thuận mua Floridas hơn là Louisiana, song bất thành. “Thương vụ Louisiana” kết thúc, Floridas nằm ngoài biên giới nước Mỹ.

Điều cần chú ý là kể từ sau “Thương vụ quý tộc”, nước Mỹ ngày càng bành trướng mạnh mẽ. Tình hình này gây nên mối lo ngại đối với chính quyền Tây Ban Nha ở Floridas. Do vậy, Toàn quyền Tây Ban Nha, Vincente Folch, kêu gọi mẫu quốc gia tăng sức mạnh ở lãnh thổ Floridas để vừa kiềm tỏa nền thương mại nước Mỹ vừa tạo ra “bức tường” an toàn bảo vệ “châu Mỹ thuộc Tây Ban Nha” ở phía Nam. Dưới nhãn quan của Vincente Folch:

“Sự hiện diện của cường quốc ở Floridas, Tây Ban Nha ngăn chặn nước Mỹ tham gia vào việc lưu thông hàng hải, thương mại và liên lạc trên bờ biển phía bắc của vịnh Mexico. Floridas cũng tước đi nhiều dòng sông lớn mà chảy xuyên qua những khu định cư của kiều dân Mỹ và bắt buộc nền thương mại của cư dân Mỹ phụ thuộc vào ý chí của Tây Ban Nha. Với vị trí này, Floridas sẽ có uy lực lớn đối với các bộ lạc da đỏ hùng mạnh đang sinh sống trên phần lãnh thổ Liên bang Mỹ. Việc chiếm giữ Baton Rouge ở vùng lãnh thổ Mississippi sẽ là một trở ngại lớn đối với chính phủ Mỹ ở vùng lãnh thổ này; thêm vào đó, việc chiếm khu vực này sẽ tạo điều kiện theo dõi, nắm quyền kiểm soát và ngăn chặn tất cả chiến dịch quân sự của Mỹ chống lại các tỉnh Nueva Espana (Tây Ban Nha mới)” [130, tr. 254].

Hơn nữa, vị trí Floridas đối với “toàn bộ vùng biên giới phía Nam của nước Mỹ từ Đại Tây Dương đến sông Mississippi là cửa ngõ để tiến hành những cuộc tấn công đối với các quốc gia bên ngoài” [130, tr. 254]. Do bận tham chiến với tư cách là đồng minh của Pháp 24 nên những ý định của Toàn quyền Tây Ban Nha tại Floridas không được mẫu quốc đáp ứng. Hệ quả là sự cai trị của Tây Ban Nha ở vùng lãnh thổ Floridas suy yếu. Tình trạng đó dẫn đến việc các nô lệ trong các đồn điền phía Nam của Liên bang trốn sang Floridas để định cư. Các nô lệ trốn thoát phối hợp với những băng cướp người da đỏ thường xuyên đột kích vào vùng lãnh thổ phía Nam để quấy nhiễu cướp bóc tài sản của người Mỹ da trắng. Sự quấy nhiễu của người da đỏ làm cho tình hình an ninh vùng Đông Nam nước Mỹ trở nên bất ổn. 

Nhận thấy tầm quan trọng chiến lược an ninh đối với quốc gia cũng như nắm bắt sự suy yếu của chính quyền Tây Ban Nha tại Floridas, chính quyền Mỹ đẩy mạnh các hoạt động nhằm giành lấy Floridas. Ngày 24-2-1804, được sự hậu thuẫn của Quốc hội, Tổng thống T. Jefferson thông qua Đạo luật Di động (Mobile Act). Đạo luật này cho phép người đứng đầu cơ quan hành pháp Mỹ thôn tính và thiết lập quận mới, bao gồm cả “bờ biển, con sông và kênh của vịnh và sông của Mobile” [111, tr. 102], nằm trong quyền pháp lý của Tây Ban Nha. Song, đạo luật này vấp phải sự phản ứng quyết liệt từ phía Công sứ Tây Ban Nha ở Washington nên T. Jefferson từ bỏ ý định. Thay vào đó, người đứng đầu Nhà Trắng thiết lập hải cảng dành cho quận mới ở đồn Stoddert, nằm trên sông Mobile thuộc địa phận nước Mỹ.

Tiếp theo Đạo luật Mobile, tháng 4-1804, Nhà Trắng cử J. Monroe với tư cách là đại diện ngoại giao đặc biệt của Chính phủ Mỹ đến Madrid nhằm hỗ trợ Charles Pinckney, Công sứ Mỹ tại đây, để đàm phán với chính phủ Tây Ban Nha về lãnh thổ Floridas. Trong quá trình đàm phán, các đại diện Chính phủ Mỹ luôn khẳng định chủ quyền của mình đối với lãnh thổ Tây Florida, tính từ phía Tây Perdido, như là bộ phận nằm trong ranh giới lãnh thổ Louisiana. Họ cũng cố gắng mua phần còn lại của lãnh thổ Floridas, tức Đông Florida. Thế nhưng, mọi nỗ lực của phái đoàn Mỹ trở nên vô hiệu, bởi Tây Ban Nha tại thời điểm này được sự “trợ lực” của Napoleon, khước từ bất cứ nhượng bộ nào.

Có một thực tế lịch sử là, tại châu Âu, từ tháng 5-1803 trở đi, cuộcchiến tranh giữa Anh và Pháp tái diễn trở lại. Để huy động kinh phí phục vụ chiến tranh chống Anh, ngay sau khi đăng quang ngôi vị Hoàng đế (12-1804), Napoleon I dùng sức mạnh để ép buộc chư hầu, Tây Ban Nha, bán lãnh thổ Floridas. Với tư cách trung gian, Hoàng đế nước Pháp đề nghị Vương triều Madrid nhượng Floridas, chấp nhận đường ranh giới thỏa hiệp ở Texas đối với Mỹ, đổi lại Tây Ban Nha sẽ nhận được 7.000.000 $ [111, tr. 103]. Trước ý định này của Pháp và Tây Ban Nha, Tổng thống Mỹ đề nghị Quốc hội thông qua ngân khoản 2.000.000 $ để tiến hành đàm phán. Khi các cuộc thương lượng chưa đi đến hồi kết thì tình hình châu Âu thay đổi. Những thắng lợi của quân đội Pháp trước Áo trong trận Ulm và Austerlitz (12-1805) khiến áp lực về tài chính đối với Napoleon I suy giảm. Điều này làm cho đại diện ngoại giao nước Pháp cắt đứt các cuộc thương lượng với Mỹ vào tháng 7-1806. 

Trong một diễn biến lịch sử khác, với sự thảm bại của hải quân Pháp trong trận thủy chiến Trafalgar (10-1805), nhất là khi không thể đổ bộ lên đất Anh, Napoleon I sử dụng biện pháp mới trong cuộc chiến chống Anh. Ngày 21-11-1806, Hoàng đế nước Pháp ban hành Sắc lệnh Berlin nhằm thiết lập “hệ thống lục địa”. Mục đích của hệ thống này là cô lập nước Anh về mặt kinh tế.

Thông qua “hệ thống lục địa”, Napoleon I muốn nước Mỹ là “vật bổ sung hữu ích”. Với quan điểm như vậy, tháng 1-1808, Hoàng đế nước Pháp gửi công hàm cho chính phủ Mỹ với lời hứa hẹn: “Trong trường hợp nước Mỹ tham gia liên minh với Pháp và tuyên bố chiến tranh chống Anh, Napoleon sẵn sàng “can thiệp vào triều đình Tây Ban Nha nhượng lãnh thổ Floridas cho nước Mỹ” [111, tr. 103].

Thế nhưng, tình thế xoay chuyển nhanh chóng,vào cuối năm đó, do vua Charles IV từ chối tiếp tục tham gia “hệ thống lục địa” nên hoàng đến Napoleon I quyết định xâm chiếm Tây Ban Nha, phế truất ngôi vua, sau đó đưa người anh cả của mình, Joseph Bonaparte lên ngai vàng, đồng thời chống lại việc trao trả Floridas cho Mỹ. Phản ứng trước sự kiện này, giới cầm quyền Mỹ cắt đứt quan hệ với bất cứ chính phủ nào đại diện cho Tây Ban Nha. Do đó, những kế hoạch giành lấy Floridas của Tổng thống T.Jefferson trước khi rời khỏi nhiệm sở (3-1809) bị phá sản.

Điều cần chú ý là, trong thập niên đầu của thế kỷ XIX, giới chức Tây Ban Nha ở Floridas khuyến khích cư dân Mỹ nhập cư vào Tây Florida. Bị hấp dẫn bởi đất đai màu mỡ và giá rẻ, một lượng lớn người Mỹ di cư đến Tây Florida với kỳ vọng giành lại tài sản đã mất do các băng cướp người da đỏ gây nên hoặc bắt đầu tái xây dựng cơ nghiệp sau khi bị phá sản ở Mỹ. Họ định cư trên dải đất rộng với nhiều thành phần khác nhau. Cư dân Mỹ ở Tây Florida mua hàng hóa từ bên ngoài và sản xuất các mặt hàng cung ứng cho thị trường nội địa bằng việc vận chuyển trên những con sông như: Chattahoochee, Pearl, Perdido, Tombighee, chảy qua địa phận Floridas để ra đại dương. Giới chức Tây Ban Nha đánh thuế cao đối với các mặt hàng vận chuyển trên sông và ngăn cấm kiều dân Mỹ trung chuyển vũ khí và đạn dược. Điều này làm nảy sinh mâu thuẫn giữa kiều dân Mỹ và nhà cầm quyền địa phương.

Nắm bắt mâu thuẫn trên đây, ngay khi vừa mới kế nhiệm chức vụ tổng thống của T. Jefferson (3-1809), J. Madison chỉ thị cho Ngoại trưởng, Robert Smith, gửi các đại diện ngoại giao đến Tây Florida nhằm đẩy mạnh hoạt động khơi sâu sự rạn nứt của hai bên, đồng thời tuyên truyền trong kiều dân Mỹ rằng: “Trong trường hợp có sự chia cắt chính trị khỏi mẫu quốc (Tây Ban Nha – TG) thì sự gia nhập của cư dân Tây Florida [vào Liên bang] sẽ phù hợp với những tình cảm và chính sách của nước Mỹ” [83, tr. 111]. Tháng 9-1810, khi các cuộc cách mạng đang làm rung chuyển “châu Mỹ thuộc Tây Ban Nha”, dưới sự kích động của các đại diện ngoại giao của Mỹ, tại Tây Floridas, một cuộc nổi dậy do cư dân Mỹ tiến hành chống lại nhà cầm quyền địa phương nổ ra. Những người nổi dậy chiếm lấy hải cảng Baton Rouge, tuyên bố Tây Florida là quốc gia cộng hòa độc lập và yêu cầu Nhà Trắng sáp nhập vùng lãnh thổ này. Phản ứng trước “sự kiện Tây Florida”, ngày 27-10-1810, người đứng đầu Nhà Trắng, một mặt tái khẳng định chủ quyền của Mỹ đối với Floridas, tính từ phía Tây Perdido như là một phần nằm trong lãnh thổ Louisiana; mặt khác, chỉ thị cho Thống đốc lãnh thổ Louisiana, W.C. Claiborne, nắm lấy lãnh thổ Tây Florida trên danh nghĩa là chủ quyền của Mỹ mà không sử dụng vũ lực chống lại quân đội Tây Ban Nha. Tháng 12 cùng năm, quân đội Mỹ đánh chiếm lấy lãnh thổ này ở phía đông con sông Pearl.

Hành động chiếm đóng lãnh thổ Tây Florida của giới cầm quyền Washington gây nên phản ứng khác nhau trong Quốc hội Liên bang. Thượng nghị sĩ Outerbridge Horsey (tiểu bang Delaware) nhìn nhận biện pháp của Tổng thống như là một âm mưu đẩy nước Mỹ vào cuộc chiến tranh chống Anh. Trái với quan điểm của nghị sĩ tiểu bang Delaware, Henry Clay (tiểu bang Kentucky) dựa vào tình hình Tây Florida, cho rằng: “Tình trạng lộn xộn xuất phát từ sự bất lực của chính quyền Tây Ban Nha trong việc duy trì quyền lực của nó và trước nguy cơ lãnh thổ này chuyển sang chủ quyền của cường quốc khác nên chúng ta (nước Mỹ – TG) phải có quyền đối với những nguyên tắc tự bảo vệ mang tính bất biến để nắm lấy Tây Florida. Nguyên tắc duy nhất này, độc lập dưới bất kì danh nghĩa nào, sẽ đảm bảo sự chiếm đóng của chúng ta đối với Tây Florida” [130, tr. 261]. 

Trong khi sự chiếm đóng Tây Floridas gây ra tranh cãi dẫn đến bất hòa trong nội bộ chính giới Mỹ thì động thái này cũng vấp phải sự phản ứng quyết liệt từ phía các cường quốc châu Âu, nhất là Anh. Trong công hàm gửi đến Ngoại trưởng Mỹ, Công sứ Anh ở Washington bày tỏ thái độ rằng:

“Liệu nước Mỹ có xứng đáng với sự rộng lượng của một quốc gia tự dohay không, điều liên quan đến bổn phận nước Mỹ phải hành động tại thời điểm này là tôn trọng các quyền của một dân tộc dũng cảm đang tiến hành cuộc đấu tranh cao cả giành lấy tự do cho họ (Tây Ban Nha – TG) – có phải nước Mỹ đã không hành động nhân danh quốc gia đã từng tuyên bố mối quan hệ láng giềng tốt đẹp và thân thiện, điều vốn tồn tại giữa Mỹ và Tây Ban Nha, [nước Anh] đề nghị một cách đơn giản hỗ trợ họ tiêu diệt kẻ thù chung (ám chỉ nước Pháp – TG) cho cả hai hơn là can thiệp để giành lấy vùng lãnh thổ từ một cường quốc thân thiện và tại thời điểm này phải chăng bất lợi cho Tây Ban Nha ?” [130, tr. 263-264].

Động thái kế tiếp là cả Anh và Tây Ban Nha chuẩn bị đưa quân chiếm đóng Đông Florida.

Trước các động thái từ phía các cường quốc châu Âu, đồng thời dự tính “kịch bản” nước Anh biến Floridas trở thành bàn đạp tấn công trực diện từ phía Nam đất nước trong một cuộc chiến tranh với Anh mà theo dự tính của chính giới Mỹ sẽ không thể tránh khỏi 26, ngày 15-1-1811, Quốc hội Liên bang thông qua nghị quyết, nêu rõ:

“Trên cơ sở những tình huống mới xảy ra của Tây Ban Nha và các vùng đất phụ thuộc nó; xem xét sự tác động đến vận mệnh lãnh thổ nằm kề phía Nam biên giới nước Mỹ có lẽ liên quan đến an ninh, hòa bình và thương mại của họ: do đó,

Trên cơ sở quyết định của Thượng viện và Hạ viện Liên bang, Quốc hội cho rằng, căn cứ những tình huống tồn tại của cuộc khủng hoảng, Mỹ cảm thấy lo lắng nghiêm trọng trước việc bất kì phần lãnh thổ nào được tuyên bố (Đông Florida) chuyển sang chủ quyền của cường quốc hải ngoại khác; rằng sự quan tâm đúng mức về an ninh của Mỹ, dựa trên những tình huống khẩn cấp, thúc đẩy Mỹ chiếm giữ tạm thời vùng lãnh thổ được tuyên bố; đồng thời trong cùng thời gian, Mỹ tuyên bố vùng lãnh thổ còn lại là vấn đề đàm phán trong tương lai” [100, tr. 27-28].

Quốc hội còn trao quyền cho Tổng thống J. Madison chiếm lãnh thổ Floridas, tính từ phía Đông Perdido, trước khả năng giới chức Tây Ban Nha từ bỏ vị trí hoặc để ngăn cản sự chiếm đóng của cường quốc hải ngoại. Với nghị quyết “không chuyển nhượng” này, chính giới Mỹ đặt ra nền tảng lý luận đầu tiên cho quá trình phi thực dân hóa ở Tây bán cầu, trước hết là lục địa Bắc Mỹ. Tư tưởng này, đến năm 1823 được Tổng thống Mỹ James Monroe phát triển thành một nguyên tắc cấu thành trong học thuyết Monroe – nguyên tắc phi thực dân hóa.

Khi cuộc chiến tranh giữa Mỹ và Anh đang tiếp diễn, năm 1813, lực lượng quân đội Mỹ ở “mặt trận Tây Nam” do tướng Andrew Jackson chỉ huy, tấn công vào các pháo đài phòng thủ của Tây Ban Nha ở Mobile và Pensacola. Hệ quả là, khi cuộc chiến tranh Anh – Mỹ kết thúc (1814), trên thực tế, quân đội Mỹ kiểm soát phần lớn lãnh thổ Tây Florida.

Ngay khi Hiệp ước hòa bình Ghent giữa Mỹ và Anh vừa có hiệu lực (24-12-1814), Hoàng đế Tây Ban Nha – Ferdinand VII, không chỉ khẩn khoản yêu cầu các cường quốc châu Âu hỗ trợ trong việc duy trì sự chiếm đóng ở Floridas và tái khẳng định chủ quyền đối với lãnh thổ Louisiana mà còn đề nghị nước Anh làm trung gian hòa giải trong các cuộc thương lượng về vấn đề Floridas. Đáp lại quan điểm này, các cường quốc châu Âu từ chối khéo léo rằng: “Châu Âu bị kiệt quệ bởi chiến tranh nên cần thời gian để tái thiết” [78,
tr. 60]. Mặt khác, trong quan hệ giữa Mỹ – Anh trong nửa sau thập niên đầu tiên thế kỷ XIX, nước Anh bị ràng buộc bởi hiệp định Rush – Bagot 27 với cam kết: “Nước Anh từ bỏ bất cứ chương trình nào nhằm chống lại sự mở rộng lãnh thổ nước Mỹ ở đồng bằng Mississippi” [65, tr. 189]. Quan điểm này được cụ thể hóa trong công hàm, ngày 11-11-1817, gửi cho công sứ Anh -Bagot, ở  Washington, R. Castlereagh, Ngoại trưởng Anh tuyên bố: “Chính sách công khai và thực sự của nước Anh trong tình hình thế giới hiện tại là tránh sự xung đột … trong trường hợp có thể, nhằm bảo vệ cho các quốc gia sự bình yên lâu dài” [65, tr. 189].

Cuối cùng, do không nhận được sự hậu thuẫn từ phía các cường quốc châu Âu, vương triều Madrid buộc phải cử công sứ Louis de Onis đến Washington đàm phán với “tâm trạng không thể kiểm soát lãnh thổ Floridas lâu hơn” [78, tr. 60].

Một điều cũng cần chú ý là, các cuộc thương lượng về vấn đề Floridas bắt đầu khởi động thì tại Mỹ Latinh, phong trào đấu tranh giành độc lập của mọi tầng lớp nhân dân ở đây đang cuồn cuộn dâng cao. Nhiều nơi giành thắng lợi bước đầu, dẫn đến sự ra đời hàng loạt chính quyền cách mạng, như Chile, Braxin, Colombia, Mexico, Peru, Venezuela v.v… Các chính phủ này gửi công hàm ngoại giao đến Washington yêu cầu được công nhận địa vị hợp pháp quốc tế từ phía Nhà Trắng. Động thái đó làm cho nội các James Monroe, người kế nhiệm J. Madison, đối mặt tình thế nan giải. Bởi trong trường hợp chính giới Mỹ từ chối công nhận các chính quyền cách mạng Mỹ Latinh thì sẽ làm suy giảm ý chí đấu tranh của họ; xa hơn nữa, nước Mỹ để mất thị trường thương mại Mỹ latinh vào tay Anh. Còn trong trường hợp chính giới Mỹ hành động vội vã sẽ khiến cho Tây Ban Nha có lý do tuyên bố chiến tranh với Mỹ.

Một cuộc chiến với vương triều Madrid lúc này đồng nghĩa với toàn bộ chế độ quân chủ châu Âu, vốn không thiện cảm với chế độ dân chủ, đồng thời còn tạo ra cơ hội cho chính quyền quốc gia này khước từ việc đàm phán với Mỹ về vấn đề lãnh thổ Florida bằng con đường hòa bình.

Tại Washington, Louis de Onis tiến hành đàm phán với đại diện chính quyền Mỹ là Ngoại trưởng John Quincy Adams. Trong quá trình thương lượng, thái độ của L. Onis “muốn tái khẳng định chủ quyền của Tây Ban Nha đối với vùng Floridas. Sự chiếm đóng của Mỹ tại Tây Florida đi ngược lại quyền lợi của vương triều Madrid” [78, tr. 61]. Ngoài ra, L. Onis bày tỏ ý định chiếm lại Louisiana, bởi lẽ quan điểm của Tây Ban Nha là “thương vụ Louisiana là bất hợp pháp vì Napoleon đã vi phạm các điều khoản nhượng lại vùng đất mà ông ta (Napoleon) không được quyền bán cho bên thứ ba (Mỹ)”

[78, tr. 61]. Đáp lại quan điểm của L. Onis, Ngoại trưởng Mỹ cho rằng: “Hoa Kỳ và Bắc Mỹ đồng nhất với nhau về mặt địa lý” [34, tr. 41]. “Sự đồng nhất với nhau về mặt địa lý” có nghĩa là không gian lãnh thổ của Mỹ không chỉ bao gồm Floridas và Louisiana mà cả toàn bộ Bắc Mỹ. Sự chiếm đóng của Mỹ ở những vùng đất trên không trái với luật pháp của Tây Ban Nha và là tất yếu. Theo nhãn quan của giới cầm quyền Washington, việc Mỹ chiếm đóng vùng Louisiana và Tây Florida phù hợp với ý chỉ của Thượng đế, bởi vì nước Mỹ có nhiệm vụ khai hóa văn minh ở vùng đất “man rợ” này.

Trong khi hai bên đang thương lượng thì tình hình diễn ra những thay đổi. Mùa thu năm 1817, tại hòn đảo Amelia (gần tiểu bang Georgia, Đông Florida), vốn được xem là dinh lũy của những “kẻ cướp biển” đến từ các chính phủ cách mạng Mỹ latinh, một thủ lĩnh xuất xứ ở Mexico, Luis Aury, chiếm giữ Amelia và tuyên bố rằng: “Đông Florida thuộc về chính phủ cách mạng Mexico” [83, tr. 115], tính từ thời điểm này trở đi. Động thái đó cho phép người đứng đầu Nhà Trắng thực thi “nghị quyết không chuyển nhượng” (1-1811), nghĩa là chiếm giữ bất cứ phần lãnh thổ nào thuộc Floridas trong trường hợp cường quốc bên ngoài hành động. Thêm vào đó, trong cùng thời gian, những bộ lạc da đỏ Creek và Seminole thường xuyên tấn công vào các khu định cư của người da trắng ở vùng biên giới phía Nam, thảm sát kiều dân Mỹ ở Apalachicola, sau đó bỏ trốn sang lãnh thổ Floridas của Tây Ban Nha.

Điều này cho thấy chính quyền Tây Ban Nha “bỏ ngỏ” Hiệp ước Pinckney (1795) và bất lực trong việc trấn áp thổ dân da đỏ.

Trước tình trạng trên, với mục đích lập lại “trật tự” ở miền Đông Nam đất nước, vào tháng 12-1817, Tổng thống J. Monroe một mặt phái quân đội chiếm đảo Amelia, tiểu trừ “những kẻ cướp biển”; mặt khác ủy nhiệm cho Bộ trưởng Chiến tranh, John Calhoun, cử tướng Andrew Jackson “thực thi những biện pháp cần thiết” [69, tr. 226] nhằm chặn đứng mọi cuộc đột kích của người da đỏ. Những đợt tấn công của A. Jackson, vừa đẩy lùi các cuộc đột kích của cư dân bản địa, vừa tạo điều kiện cho Mỹ xâm nhập sâu vào lãnh thổ Floridas. Kết quả, quân đội Mỹ đã chiếm giữ các đồn Marks và Pensacola từ tay người Tây Ban Nha ở Đông Florida, trừng trị hai thương gia mang quốc tịch Anh đã làm “lái súng” cho thổ dân da đỏ.

Những hành động của tướng A. Jackson nhận được sự tán thưởng của dư luận trong nước. Họ cho rằng: “Hành động của Jackson được biện minh bằng luật pháp của quốc gia, điều luật chiến tranh và những nguyên tắc bất biến của việc trả đũa và tự vệ; và chúng ta chấp nhận tư tưởng mạnh mẽ của vị tướng Mỹ, người trừng phạt ngay tức khắc đối với những kẻ tấn công và những thủ phạm chống lại sự nhân đạo và quyền lợi của quốc gia chúng ta và dạy cho những sứ thần ngoại quốc rằng nước Mỹ không thể bị xúc phạm bởi những gián điệp, kẻ phản bội và những kẻ phiêu lưu phi pháp” [64, tr. 170-171].

Cùng với biện pháp quân sự, trong công hàm ngoại giao ngày 28-11-1818, gửi Quốc vương Tây Ban Nha, Chính phủ Mỹ nêu rõ: “Cuộc viễn chinh quân sự của tướng Andrew Jackson vào lãnh thổ Floridas của Tây Ban Nha là một hành động tự vệ của Mỹ”, đồng thời giải thích nguyên nhân của tình trạng này là do “Tây Ban Nha, bằng cách che chở cho những người da đỏ chống đối và những nô lệ bỏ trốn, đã chính thức hỗ trợ những cuộc tấn công của họ chống lại nước Mỹ” [47, tr. 408].

Với thái độ cứng rắn từ phía Mỹ, Chính quyền Madrid không có phản ứng. Điều này có nghĩa, Tây Ban Nha bất lực hoàn toàn trong việc cai quản Floridas. Hơn nữa, vào cuối thập kỷ 10 (thế kỷ XIX), tình hình nội bộ và thuộc địa xảy ra theo chiều hướng bất lợi cho Vương triều Madrid. Ở trong nước, phong trào cách mạng dân chủ diễn ra mạnh mẽ. Ở thuộc địa, ngọn lửa đấu tranh chống ách thống trị của chủ nghĩa thực dân Tây Ban Nha bùng phát dữ dội, đặc biệt là khu vực Mỹ Latinh. Do vậy vấn đề đặt ra là, chính quyền Tây Ban Nha cần phải có thời gian và tập trung binh lực để đối phó tình hình mới nảy sinh.

Trong bối cảnh đó, chính quyền Mỹ gia tăng sức ép đối với đại diện Tây Ban Nha trong cuộc thương lượng về “vấn đề Floridas”. Trong tình thế bắt buộc, L. Onis chấp thuận ký kết một bản hiệp ước về “vấn đề Floridas”. Ngày 22-2-1819, tại Washington, đại diện chính quyền Mỹ, J.Q. Adams ký kết với đại diện chính quyền Tây Ban Nha, L. Onis, một bản hiệp ước về “vấn đề Floridas”, được gọi là Hiệp ước Adams – Onis hay Hiệp ước Xuyên lục địa. 

Theo Hiệp ước này, nước Mỹ mua lại xứ Floridas của Tây Ban Nha với giá 5.000.000 $. Ngoài khoản tiền bồi thường của Mỹ cho vương quốc Tây Ban Nha, Hiệp ước còn ghi rõ:

“… Vương quốc Tây Ban Nha nhượng cho Mỹ toàn bộ tài sản, chủ quyền và các vùng lãnh thổ thuộc chủ quyền vương quốc nằm ở phía Đông dòng sông Mississippi, được biết đến với tên gọi Đông và Tây Florida. Ngay cả các hòn đảo kề cận thuộc chủ quyền của quốc vương, tất cả các vùng đất và quảng trường, dinh thự công cộng, pháo đài, chiến hào và lâu đài khác mà không thuộc tài sản cá nhân; văn thư và tài liệu lưu trữ có đề cập trực tiếp đến tài sản và chủ quyền của quốc vương, đều nằm trong quy định của điều khoản này. Các văn thư và tài liệu lưu trữ này được bàn giao cho Giáo đoàn, quan chức văn phòng của Mỹ, và có trách nhiệm đối với chúng (Điều 2 )…; Cư dân định cư trong vùng lãnh thổ nhượng cho Mỹ được đảm bảo tự do hoạt động tín ngưỡng mà không vấp phải sự cản trở nào và những cư dân muốn ra khỏi vùng tự trị Tây Ban Nha có quyền bán, hoặc xuất khẩu tài sản của họ bất cứ thời gian nào mà không bị ràng buộc bất kỳ trách nhiệm nào (Điều 5); Cư dân định cư ở vùng lãnh thổ thuộc quyền Tây Ban Nha nhượng lại cho Mỹ theo hiệp ước, có quyền gia nhập nước Mỹ, miễn là tán thành các nguyên tắc của Hiến pháp liên bang, và sẽ được hưởng các đặc quyền, đặc lợi và được bảo vệ như công dân Mỹ (Điều 6); Viên chức, quân đội Tây Ban Nha ở vùng lãnh thổ nhượng cho Mỹ buộc phải rút khỏi, kể cả những tài sản trên vùng lãnh thổ này, trong vòng sáu tháng sau khi trao đổi thoả thuận của hiệp ước (Điều 7)…” [136].

Hiệp ước còn quy định đường ranh giới phía Tây Nam giữa Mỹ và vùng lãnh thổ của Tây Ban Nha kiểm soát theo sông Sabine. Tây Ban Nha từ bỏ yêu sách lãnh thổ Oregon.

Như vậy, với Hiệp ước Adams – Onis, Vương quốc Tây Ban Nha chấp nhận nhượng lại toàn bộ lãnh thổ Floridas cho nước Mỹ. Đây là một tổn thất không nhỏ đối với quốc gia này và là bước thụt lùi thứ hai của Tây Ban Nha trong chính sách kiềm tỏa sức mạnh bành trướng của Mỹ. Ngược lại, đối với nước Mỹ, việc vùng đất Floridas gia nhập vào lãnh thổ Mỹ làm cho đất nước này “có một bờ biển liên tục từ miền New Scotland ở phía Bắc xuống tới châu thổ sông Mississippi ở phía Nam” [2, tr. 73]. Ngoài ra, xứ Floridas góp phần làm thông suốt tuyến đường giao thông từ xứ Georgia đến xứ Louisiana. “Sự kiện Floridas” gia nhập vào lãnh thổ Liên bang, đối với dư luận Mỹ khẳng định một “sự thực hiển nhiên rằng, chủ quyền đối với những vùng lãnh thổ đó (Floridas – TG) là cần thiết đối với nền hòa bình và sự bình yên của nước Mỹ và rằng chúng ta sẽ sở hữu chúng bằng những phương tiện thân thiện hoặc đáng lên án nhất – bằng hiệp ước hoặc bằng vũ lực. Nước Mỹ phải là người trước tiên, và Tây Ban Nha hạnh phúc làm điều đó mà quyền lợi của quốc gia này thúc đẩy – đối với Floridas, mặc dù giá trị đối với chúng ta, nhưng thực sự trở thành gánh nặng đối với Tây Ban Nha” [83, tr. 118]; đồng thời được xem là “chiến thắng ngoại giao vĩ đại trong lịch sử nước Mỹ” [47,tr. 425]. Giống như lần trước, trong “vấn đề Floridas”, chính phủ Mỹ khôn khéo tận dụng mọi khó khăn của đối phương, mà cụ thể là Tây Ban Nha đang vấp phải, để mở rộng lãnh thổ. Sự thành công trong việc thôn tính Floridas tạo cho nước Mỹ một “lực đẩy” cần thiết trong quá trình tìm kiếm vị thế mới ở Tây bán cầu.

3. Chính sách của Mỹ đối với Anh ở khu vực Tây Bắc, lãnh thổ Oregon, Texas và California

3.1. Vấn đề khu vực Tây Bắc

Tây Bắc 28 là khu vực nằm phía Nam Ngũ Đại Hồ (Great Lakes), vốn là địa bàn sinh sống lâu đời của các bộ lạc da đỏ, như: Shawnee, Kickkapoo, Sauk, Fox, Potawatomi, Ottawa, Iowa, Miami và Peoria, vốn phong phú lâm sản quý (gỗ, lông thú) mang lại giá trị lợi nhuận cao. Đây là lãnh thổ có nhiều con sông (Ohio, St.Lawrence) nối liền với Ngũ Đại Hồ chảy qua lãnh thổ Canada để ra Đại Tây Dương nên thuận tiện cho giao thông đường thủy. Dưới thời thuộc địa, chính quyền mẫu quốc duy trì sự hiện diện ở Tây Bắc bằng các đồn bốt quân sự (Detroit, Michilimackinac, Niagara và Oswego) dọc theo Ngũ Đại Hồ nhằm bảo vệ hoạt động buôn bán lông thú của các thương gia Anh đang sinh sống tại Canada. Bên cạnh người Anh, số ít người Mỹ cũng đến đây buôn bán với người da đỏ. Ngay khi nước Mỹ vừa mới giành độc lập (1783), dân định cư lũ lượt kéo đến các vùng lãnh thổ Tây Bắc nhằm tìm kiếm đất đai. 

Tình trạng này ngày càng phổ biến, nhất là sau khi chính quyền Mỹ ban hành Sắc lệnh Tây Bắc (1787). Tháng 7-1788, dưới sự bảo trợ của Công ty Điền địa Ohio, một đoàn người Mỹ đã ngược dòng sông Ohio đến định cư ở đây và thành lập thị trấn Marietta. Chỉ hai năm sau (1790), Marietta trở thành địa điểm sầm uất với nhiều nhà thờ, trường học mọc lên và dân số đông đúc hàng ngàn người. Tương tự như vậy, các thị trấn Cincinatti, Cleverland lần lượt xuất hiện theo dòng thời gian.

Theo điều 1 của Hiệp ước hòa bình Paris (3-9-1783), nước Anh công nhận Mỹ là các tiểu bang tự do, có chủ quyền và độc lập, đồng thời “từ bỏ tất cả các yêu sách đối với chính phủ (Mỹ), quyền sở hữu và quyền lợi về mặt 28 Khu vực Tây Bắc của nước Mỹ khi mới lập quốc. Ngày nay nó thuộc phạm vi các tiểu bang Ohio, Pensynvalnia, New York, Michigan và Indiana (xem phụ lục 5.4).lãnh thổ tương ứng” [91, tr. 13]. Chính quyền London còn cam kết thực hiện hiệp ước trong thời gian sớm nhất.

Trên thực tế, trái với cam kết, nước Anh tiếp tục sự hiện diện, sở hữu các đồn bốt quân sự và thương điếm trong vùng lãnh thổ Tây Bắc. Điều này bắt nguồn từ việc kinh doanh lông thú của thương gia Canada tại đây mang lại lợi nhuận lớn, do vậy họ sợ rằng khi Hiệp ước Paris có hiệu lực, nước Anh sẽ không còn bảo vệ công việc làm ăn của họ trước sự phá hoại của thổ dân da đỏ và người Mỹ. Do vậy, ngay khi Hiệp định Paris còn chưa ráo mực, giới thương nhân gây sức ép với chính quyền London giữ nguyên trạng như trước năm 1783. Trước áp lực đó, một ngày trước khi vua Anh – George III, phê chuẩn chính thức Hiệp ước Paris (8-4-1784), chính phủ London ra lệnh cho toàn quyền Canada không chuyển giao các đồn bốt quân sự Tây Bắc cho phía Mỹ. Đến năm 1786, Sắc lệnh mới của Hoàng gia Anh chỉ thị chính quyền thuộc địa tại Canada sử dụng quân đội chiếm các đồn bốt quân sự mà nước Mỹ sở hữu trên địa bàn này.

Điều cần chú ý là, từ việc chiếm đóng trở lại các đồn bốt quân sự, nước Anh phát triển uy thế ra toàn bộ vùng Tây Bắc dựa trên cơ sở chính sách thân thiện với các bộ lạc da đỏ, vốn đồng minh với Anh trong cuộc Chiến tranh Bảy năm (1756 – 1763). Chính sách này được thực hiện thông qua việc người Anh cung cấp rượu mạnh, trang bị súng hỏa mai, đạn dược, thuốc nhuộm cho thổ dân da đỏ. Mục đích của chính sách này là, chính quyền London một mặt muốn tập hợp các bộ lạc da đỏ thành một quốc gia đệm chống lại sự bành trướng của người Mỹ da trắng vùng biên cương, kiềm tỏa sức mạnh của nước Mỹ; mặt khác bảo vệ các hoạt động buôn bán lông thú và tạo hành lang an toàn cho thuộc địa Canada ở phía Bắc.

Dưới sự hậu thuẫn của Anh, các bộ lạc da đỏ thường xuyên tấn công, cướp bóc các khu định cư của người Mỹ da trắng. Tiến thêm bước nữa, năm 1792, Công sứ Anh tại Philadelphia, George Hammond, đề nghị chính quyền Mỹ dành riêng lãnh thổ Tây Bắc cho việc thiết lập “quốc gia của người da đỏ” và cấm người da trắng xâm nhập vào đây. Hệ quả là quan hệ Mỹ – Anh trở nên căng thẳng. Tình hình này được đẩy lên đến đỉnh điểm khi vào ngày 8- 6-1793, Thủ tướng Grenville ban hành Sắc lệnh Hội đồng (Order in Council) cho phép hải quân Anh bắt giữ thương thuyền trung lập mang quốc tịch Mỹ đang vận chuyển hàng hóa trên vùng biển Caribbean mà di chuyển đến hải cảng thuộc địa của nước Pháp. Cho đến ngày 1-3-1794, tức chưa đầy một năm Sắc lệnh Hội đồng có hiệu lực, lực lượng hải quân Anh đã bắt giữ khoảng 250 thương thuyền Mỹ [89, tr. 63].

Động thái trên cùng với âm mưu của người Anh ở lãnh thổ Tây Bắc gây nên sự phẫn nộ đối với dư luận Mỹ. Khắp mọi nơi trên lãnh thổ quốc gia đã xuất hiện tâm lý bài xích, thù địch nước Anh. Tại Charleston, đám đông với thái độ giận dữ đã đập vỡ bức tượng Thủ tướng William Pitt, vốn được xây dựng dưới thời thuộc địa. Tại hải cảng Norfolk và Baltimore, dân chúng tấn công các thủy thủ mang quốc tịch Anh. Hàng ngàn người có tinh thần yêu nước tình nguyện tòng quân, hàng loạt pháo đài được dựng lên nhằm chuẩn bị cho cuộc chiến đấu chống lại quân đội Anh.

Sự phẫn nộ của dư luận Mỹ lan nhanh đến Quốc hội. Tại đây đang diễn ra cuộc tranh luận gay gắt giữa các đảng phái về phương thức đối phó với nước Anh. Một bên là Đảng Cộng hòa do Ngoại trưởng T. Jefferson đứng đầu, chủ trương chiến tranh, đình chỉ hoàn toàn việc nhập khẩu các sản phẩm do Anh sản xuất. Điều này có nghĩa, nước Mỹ đoạn tuyệt quan hệ thương mại với Anh. Bên kia là đảng Liên bang do Bộ trưởng Ngân khố, A. Hamilton đứng đầu, chủ trương tiếp tục giữ quan hệ hữu hảo với nước Anh về mọi mặt. Theo lập luận của ông: “Nguồn tài chính của Mỹ chủ yếu là thuế nhập khẩu, chiếm 1/4 thu nhập của Mỹ, mà Mỹ nhập khẩu khoảng 90% từ Anh” [28, tr. 27]. 

Nguồn thu này có thể biến mất nếu sự thù địch tiếp diễn hoặc chiến tranh với Anh xảy ra. Một khi nguồn tài chính bị thiếu hụt sẽ dẫn đến nguy cơ sụp đổ quốc gia. Mặt khác, các nghị sĩ thuộc đảng Liên bang đại diện cho các thương gia vùng New England, vốn dựa chủ yếu vào hoạt động kinh doanh với nước Anh nên lo ngại về khả năng quan hệ căng thẳng kéo dài sẽ làm phá sản các dự án kinh doanh của họ. Do vậy, quan điểm của đảng Liên bang là đàm phán hòa bình với Anh.

Vấn đề đặt ra là, trên cương vị Tổng thổng, G. Washington phải có biện pháp ngoại giao như thế nào để cứu đất nước khỏi tình thế khó khăn. Xuất phát từ tình hình đất nước vừa mới thoát ra khỏi chiến tranh, rất cần thời gian hòa bình để tái thiết, đồng thời do đảng Liên bang đang chiếm ưu thế trong Quốc hội, G. Washington lựa chọn giải pháp đàm phán với nước Anh. Ngày 16-4-1794, G. Washington cử John Jay, Chánh án Toà án tối cao Liên bang, đến London để tiến hành thương lượng. Mục đích của chuyến đi của J. Jay là thuyết phục nước Anh chấp nhận một số nội dung sau: “1. Từ bỏ sự chiếm đóng quân sự ở vùng Tây Bắc; 2. Thả các thương thuyền bị Anh bắt giữ bất hợp pháp; 3. Công nhận và tôn trọng đặc quyền trung lập của Mỹ” [95, tr. 278].

Để tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc đàm phán với Anh sắp tới, G. Washington còn quyết định tiến hành trấn áp các bộ lạc da đỏ ở lãnh thổ Tây Bắc, bởi địa bàn này có nhiều cư dân Mỹ luôn hướng về Chính phủ trung ương để cầu cứu mỗi khi bị người da đỏ tấn công. Do vậy, để ràng buộc mối trung thành của cư dân miền Tây đối với Liên bang thì Chính phủ phải đẩy lùi, tiến tới đánh bại thổ dân da đỏ. Với mục đích đó, Tổng thống cử tướng Anthony Wayne, một vị tướng xuất sắc trong cách mạng, chỉ huy đạo quân tiến vào vùng Tây Bắc. Nhờ quân sĩ được huấn luyện tốt và tổ chức chặt chẽ, đạo quân của A. Wayne nhanh chóng đánh bại hoàn toàn sự kháng cự của các bộ lạc da đỏ trong trận Fallen Timber (20-8-1794). Thắng lợi này buộc các bộ lạc da đỏ cam kết không quấy phá các khu định cư, đồng thời nhường thêm nhiều đất đai phía Bắc sông Ohio cho người da trắng.

Tại London, những cuộc đàm phán giữa J.Jay và chính phủ Anh kéo dài. Lúc đầu, chính phủ Anh không chịu nhượng bộ đối với Mỹ. Tuy nhiên, lúc này tại châu Âu, mầm mống liên minh các quốc gia trung lập vũ trang đang từng bước hình thành, do Thụy Điển và Đan Mạch 29 cầm đầu [64, tr. 76]. Nước Anh dự tính Mỹ có thể tham gia vào tổ chức này nhằm chống lại việc bắt giữ thương thuyền trung lập, làm tổn hại quyền lợi trên mặt biển của Anh. Mặt khác, trong cùng thời gian, nước Anh đang “hợp lực” liên minh phong kiến châu Âu hòng đập tan nước Pháp cách mạng. Như vậy, nếu Anh tiếp tục căng thẳng với Mỹ sẽ đẩy quốc gia này xích lại gần hơn với nước Pháp. Một cuộc chiến với Mỹ xảy ra đồng thời phía bên kia bờ đại dương là điều bất lợi cho chính quyền London.

Trong bối cảnh đó, nước Anh chấp nhận một sự nhượng bộ với Mỹ. Ngày 19-11-1794, tại London, đại diện chính phủ Mỹ, John Jay kí với chính phủ Anh bản hiệp ước mà sau này mang tên Hiệp ước Jay. Theo đó, “Nước Anh sẽ rút bỏ toàn bộ quân đội và binh lính ra khỏi các đồn bốt và các địa điểm nằm trong biên giới mà được ấn định bởi hiệp ước hòa bình với Mỹ. Việc rút quân sẽ diễn ra trước ngày 1-6-1796… Trong cùng thời gian, nước Mỹ mở rộng vùng định cư của họ tới bất cứ phần lãnh thổ nào nằm trong đường biên giới đã quy định tùy theo ý muốn của Mỹ… Tất cả cư dân và thương gia, nằm trong những khu vực hoặc pháp lý của các đồn bốt, sẽ được hưởng [tự do], không bị quấy nhiễu, tất cả tài sản dưới mọi hình thức sẽ được bảo vệ tại đây…” [91, tr. 26-27].

Mặc dù Hiệp ước Jay mang lại quyền lợi cho đảng Liên bang song nó vấp phải sự chống đối kịch liệt của các nghị sĩ đảng Cộng hòa. Đối với họ, hiệp ước này dường như là sự phản bội. Bản thân J. Jay bị kết án là “kẻ phản bội” và hình nộm của ông bị treo cổ khắp nước Mỹ. Công chúng Mỹ xem nó như “Hiệp định chết tiệt” [59, tr. 228]. Bất chấp sự phản đối gay gắt của đảng Cộng hòa, Quốc hội Mỹ bỏ phiếu thông qua hiệp ước.

Điều quan trọng trên hết là, với việc kí Hiệp ước Jay, nước Mỹ đã loại bỏ sự hiện diện của Anh tại Tây Bắc, buộc các bộ lạc da đỏ phải quy phục Chính quyền Liên bang, mang lại sự đảm bảo an ninh quốc gia. Hiệp ước này mở ra cơ hội cho cư dân Mỹ bành trướng về phía Tây Bắc trong thời gian sắp tới. Đồng thời, Hiệp ước Jay cũng loại bỏ nguy cơ một cuộc chiến tranh không cần thiết với Anh, một cường quốc có tiềm lực quân sự hàng đầu thế giới lúc bấy giờ. Điều này giúp nước Mỹ có điều kiện kéo dài thêm thời gian hòa bình để xây dựng đất nước. Việc giải quyết lãnh thổ Tây Bắc cũng tạo đà cho chính quyền Mỹ tiến hành đàm phán với Tây Ban Nha về lãnh thổ Tây Nam một cách thuận lợi. Chỉ một năm sau (1795), với Hiệp ước Pinckney, Mỹ đã loại bỏ hoàn toàn thế lực Tây Ban Nha ra khỏi vùng lãnh thổ Tây Nam.

3.2. Vấn đề lãnh thổ Oregon

Oregon là lãnh thổ nằm rìa phía Tây Bắc lục địa Bắc Mỹ, với đường ranh giới tự nhiên được xác định như sau: phía Bắc là vĩ tuyến 54040’ Bắc – giáp với lãnh thổ Alaska (lúc bấy giờ thuộc Nga); phía Nam là vĩ tuyến 420 Bắc – tiếp giáp với lãnh thổ California mà trước năm 1821 thuộc Tây Ban Nha còn sau thời điểm này thuộc Mexico; phía Đông là dãy núi Rocky; phía Tây giáp với Thái Bình Dương 30. Dải đất Oregon có hệ thống sông ngòi chằng chịt với dòng sông Columbia là tuyến đường thủy huyết mạch trong việc trung chuyển hàng hóa từ vùng nội địa ra Thái Bình Dương và ngược lại. Eo biển Juan de Fuca được xem là “cửa ngõ” đi đến châu Á. Chủ nhân của lãnh thổ Oregon là các bộ lạc da đỏ, như: Tingit, Haida, Kwaikiut, Salish, Flatheads và Nez Perces. Ngoài ra, trên vùng lãnh thổ Oregon hoang sơ có nhiều muông thú sinh sống. 

Cho đến cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX, Oregon là lãnh thổ mà có tới 4 quốc gia cùng ra tuyên bố có chủ quyền, gồm Tây Ban Nha, Anh, Nga và Mỹ. Trong khi cơ sở chủ quyền của Tây Ban Nha đối với lãnh thổ Oregon là dựa vào chuyến hành trình khám phá Thái Bình Dương vào năm 1513 của nhà hàng hải Balboa, khi ông tuyên bố rằng tất cả các vùng lãnh thổ tiếp giáp với Thái Bình Dương là thuộc Vương triều Madrid [134, tr. 400]; thì cơ sở chủ quyền của Anh là dựa vào chuyến thám hiểm đầu tiên dọc theo bờ biển xứ Oregon vào năm 1579 của Francis Draker. Gần hai trăm năm sau, chủ quyền của Anh đối với Oregon được khẳng định vững chắc hơn bằng các chuyến thám hiểm của James Cook và George Vancouver. Năm 1778, nhà hàng hải J. Cook thám hiểm vùng duyên hải phía Tây Bắc lục địa Bắc Mỹ, kéo dài tới tận Alaska. Năm 1792, G. Vancouver, người phụ tá J. Cook, tiến hành khảo sát toàn bộ lãnh thổ Oregon. Trong chuyến đi này, G. Vancouver đặt chân lên hòn đảo mà ngày nay mang tên ông, phát hiện Puget Sound và vẽ bản đồ xứ  Oregon. Chậm hơn so với hai cường quốc trên, vào nửa cuối thế kỷ XVIII, nhà thám hiểm mang quốc tịch Đan Mạch phục vụ cho triều đình Nga hoàng, Victus Bering, vượt qua eo biển cực bắc bán cầu – điểm nối liền hai lục địa châu Á và châu Mỹ 31, đặt chân lên vùng đất Alaska. Theo sau sự kiện này, V. Bering tuyên bố vùng đất Alaska nằm dưới chủ quyền của Nga, đồng thời thiết lập các thương điếm để buôn bán và săn bắt lông thú dọc theo duyên hải từ Alaska đến tận phía Nam California. Cũng vào thời gian nói trên, vừa mới ra đời sau cuộc chiến tranh chống thực dân Anh, nước Mỹ tuyên bố đặt xứ sở Oregon nằm trong phạm vi cương vực của mình. Cơ sở chủ quyền của Mỹ là dựa vào chuyến thám hiểm của thuyền trưởng Robert Gray đến dòng sông Columbia vào tháng 4-1792. Tiếp theo sau đó, với sự thành công “Thương vụ Louisiana” (1803), chính quyền Mỹ một mặt cử Lewis và Clark thám hiểm vùng Viễn Tây; mặt khác khẳng định “Oregon là sự nối liền tự nhiên với lãnh thổ Louisiana nên nước Mỹ có quyền mở rộng tự nhiên của mình đến Thái Bình Dương” [83, tr. 151].

Theo sau việc tuyên bố chủ quyền, các quốc gia đều nhận thấy giá trị lợi nhuận thương mại trong việc buôn bán da thú ở Oregon tương đối lớn nên đẩy mạnh hoạt động khai thác, nhất là Anh và Mỹ. Người Anh thiết lập nhiều cơ sở buôn bán da thú ở các khu vực xung quanh vịnh Hudson với “đại bản doanh” là đồn Vancouver, phía bắc con sông Columbia. Công việc buôn bán của Anh tại đây do công ty Hudson Bay đảm nhận. Trong khi đó, hoạt động khai thác lông thú của Mỹ nằm dưới quyền kiểm soát của công ty lông thú Thái Bình Dương do thương gia John Jacob Astor điều khiển. Năm 1811, công ty  này thiết lập thương điếm với tên gọi Astoria, gần cửa sông Columbia. Do cùng khai thác trên một địa bàn, sự va chạm về quyền lợi giữa hai công ty xảy ra là điều tất yếu. Song điều may mắn với công ty Hudson Bay, năm 1812, cuộc chiến tranh giữa Anh – Mỹ nổ ra làm phá sản hoạt động kinh doanh của công ty lông thú Thái Bình Dương, buộc Astor bán phần lớn cổ phần cho phía Anh. 

Năm 1814, sau khi cuộc chiến tranh kết thúc, Anh và Mỹ đều ra tuyên bố mạnh mẽ đòi độc quyền làm chủ xứ Oregon. Cả hai bên đều không chịu sự nhượng bộ. Nhằm giải quyết tình trạng này, ngày 20-8-1818, tại London, Công sứ Mỹ – Richard Rush ký với chính quyền Anh một bản hiệp định, theo đó “không một đường ranh giới nào được thiết lập ở phía Tây dãy Rocky và trong 10 năm tới, vùng Oregon sẽ được mở ra cho những người định cư và giao thông hàng hải của cả hai quốc gia” [47, tr.408]. Mặt khác, trong cùng thời gian, cả Mỹ và Anh gia tăng áp lực đối với Tây Ban Nha và Nga trong việc từ bỏ chủ quyền đối với Oregon. Bằng Hiệp ước Adams – Onis (1819), Vương triều Madrid đồng ý không đòi làm chủ vùng đất nằm ở phía Bắc vĩ tuyến 420 Bắc, tức xứ Oregon. Còn Sa hoàng Nga cũng cam kết với công sứ Mỹ và Anh là không đòi chiếm hữu đất đai ở phía Nam vĩ tuyến 54040’ Bắc. 

Như vậy, đến đầu thập niên 20 (XIX), Anh và Mỹ trở thành hai quốc gia còn lại được tự do tiến hành những kế hoạch cùng chiếm xứ Oregon.

Trong suốt những năm 20, Anh và Mỹ tiếp tục đẩy mạnh khai thác lãnh thổ Oregon. Thông qua hoạt động của công ty Hudson Bay, người Anh sử dụng dòng sông Columbia để trung chuyển hàng hóa vào vùng nội địa Bắc Mỹ. Nhiều địa điểm buôn bán lông thú của người Anh cũng được thiết lập ven sông. Ngược lại, Quốc hội Mỹ với lý do bảo vệ việc buôn bán lông thú của các thương gia tránh khỏi sự báo hại của thổ dân da đỏ đã tiến hành xây dựng nhiều hệ thống đồn bốt ở Oregon. Hệ quả là, sự va chạm quyền lợi giữa Mỹ và Anh về việc sử dụng lãnh thổ Oregon nảy sinh và tất yếu là hai bên đã tiến hành thương lượng nhằm giải quyết vấn đề Oregon.

Trong các cuộc đàm phán diễn ra vào các năm 1824 và 1826, hai bên đi đến một thoả thuận tạm thời, lấy đường vĩ tuyến 490 Bắc làm mốc phân đôi vùng lãnh thổ Oregon. Theo đó, “nước Mỹ nắm giữ cửa sông Columbia và nhiều hải cảng ở bán đảo Olympic; nước Anh nắm giữ eo biển Juan de Fuca, Puget Sound và quyền hàng hải trên sông Columbia” [78, tr. 86]. Tuy nhiên, sự phân chia lãnh thổ như trên khó lòng đem lại sự chấp thuận của hai bên. Bởi nước Mỹ nhận thấy giá trị thương mại của Puget Sound quá lớn nên khó nhường nó cho bất cứ ai. Mặt khác, công ty Hudson Bay gia tăng sức ép với Chính phủ London là phải chiếm giữ đồng bằng và dòng sông Columbia. Kết quả, ngày 6-8-1827, Anh và Mỹ ra tuyên bố tiếp tục gia hạn hiệp ước năm 1818, tức cùng sở hữu vùng Oregon trong thời hạn 10 năm nữa [95, tr. 480].

Có một thực tế lịch sử là, để biến Oregon thành lãnh thổ tự túc lương thực, người đứng đầu công ty Hudson Bay, John McLoughlin chủ trương, ngoài việc buôn bán lông thú, còn khuyến khích nhân viên và cư dân bản địa tận dụng thổ nhưỡng và đất đai màu mỡ để đẩy mạnh các hoạt động canh tác nông nghiệp xung quanh các thương điếm. Các đồn điền trồng lúa, vườn cây ăn quả mọc lên khắp Vancouver, Colville và đồng bằng Willamette phía Nam con sông Columbia. Chẳng bao lâu sau, những cánh đồng phì nhiêu, trang trại quy mô lớn trải đều xứ Oregon. Năm 1828, một trong số nhiều thương gia Mỹ – Jedediah S. Smith, ghé thăm Vancouver nhận thấy ở đây có sự phong phú về ngũ cốc, rau quả và gia súc. Kết quả, sau khi trở về miền Đông, J. Smith đánh thức mối lưu tâm dân chúng Mỹ về lãnh thổ Oregon với viễn cảnh “thiên đường cho việc sản xuất nông nghiệp”.

Trong khi đó, nhóm thương gia buôn bán lông thú Mỹ ở vùng Viễn Tây do William Asley chỉ huy, tiến hành khai phá những vùng đất giàu tiềm năng lông thú, nơi mà ngày nay gọi là Wyoming. Để thu nhiều lợi nhuận, W. Asley thuê nhân viên riêng đi tìm hiểu và khai thác những vùng có nguồn lông thú. Hoạt động này một mặt nâng cao sản lượng lông thú săn bắt được; mặt khác tạo ra cơ hội cho nhiều nhân viên của W. Asley tỏa đi khắp nơi. Họ đi qua nhiều đồng bằng rộng lớn, núi đá ghồ ghề, vùng vịnh lớn, phát hiện nhiều dòng sông, tìm ra những tuyến đường giao thông xuyên qua các dãy núi cao. Trong bối cảnh như vậy, một nhân viên của Asley tìm ra South Pass, một khe nứt lớn phía bên dưới dãy Rocky vốn án ngữ con đường từ miền Đông sang Viễn Tây, phát hiện ra hồ nước mặn lớn (Great Salt Lake). Bắt đầu từ thời điểm này, những tuyến đường mòn (trails) nối miền Đông nước Mỹ với lãnh thổ Oregon dần được khai mở.

Nối gót chân các thương gia, với sứ mạng truyền bá kinh “Phúc âm”, các giáo sĩ thừa sai thuộc giáo phái Trưởng lão (Prebyterian), Giám lý (Methodist) và Tin lành (Protestant) đến xứ sở Oregon để cải đạo thổ dân da đỏ. Năm 1836, Hội đồng các ủy viên truyền giáo hải ngoại Mỹ (The American Board of Commissioners for Foreign Missions) phái hai mục sư: Marcus Whitman và Henry Spalding đến Vancouver truyền đạo. Họ thiết lập trung tâm truyền giáo ở Waiilatpu, hiện nay thuộc Walla Walla (tiểu bang Washington). Bên cạnh hoạt động mục vụ, các giáo sĩ còn viết thư gửi về miền Đông nước Mỹ, trong đó mô tả cảnh tượng “đất đai phì nhiêu, khí hậu, rừng cây và việc đánh cá hồi ở xứ Oregon” [134, tr. 403]. Hoạt động kinh tế và truyền giáo, về mặt khách quan, góp phần đánh thức sự lưu tâm của người dân Mỹ đương thời về lãnh thổ Oregon.

Những tin tức về đất đai màu mỡ cùng với việc phát hiện ra những con đường mòn tiến về vùng Viễn Tây đến các tiểu bang miền Đông trong bối cảnh tình trạng đất đai ở đây kém phì nhiêu, năng suất không cao; đồng thời, do hậu quả của cuộc khủng hoảng tài chính năm 1837, nhiều người thất nghiệp và nảy sinh tâm lý chán nản. Điều này kích thích cư dân rời bỏ miền Đông, nơi đất đai không còn đem lại năng suất cao trong sản xuất nông nghiệp. “Cơn sốt Oregon” (Oregon fever) đang dâng cao. Những đoàn người gồm các nhà buôn, người đào vàng và nhà thầu khoán liên tiếp rời bỏ các trang trại và làng mạc ven biển, đi tới vùng đất màu mỡ ở phía Tây nhằm tìm kiếm cơ hội mới. Họ tìm các địa điểm định cư mới, lập xóm làng và khai khẩn đất đai. Cùng đi với họ là các thầy thuốc, luật sư, chủ cửa hàng, các nhà truyền giáo và ngay cả các nhà chính trị. Dòng người tiến về phía Tây dẫn tới sự phân chia những vùng lãnh thổ cũ, hoạch định nên những đường biên giới mới. Đó là những vùng biên cương mà như nhà xã hội học, Jackson Turner miêu tả “là điểm gặp gỡ giữa những con người hoang dã và con người văn minh” [25, tr. 90]. Kết quả, vào đầu thập niên 40 của thế kỷ XIX, có hàng nghìn người Mỹ đến định cư ở Oregon, đa phần là đồng bằng Willamette.

Theo thống kê vào năm 1845, số người da trắng quốc tịch Mỹ sinh sống ở lãnh thổ Oregon vượt quá 5000 người [59, tr. 350]. Những người dân lập nghiệp, một mặt bày tỏ thái độ không hài lòng về việc cả Anh và Mỹ cùng làm chủ xứ Oregon; mặt khác tiến hành bầu cử các viên chức địa phương tham gia các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp lâm thời nhằm hướng đến việc tổ chức lãnh thổ giống như Liên bang Mỹ. Nói cách khác, họ muốn thoát khỏi sự lệ thuộc của Anh và Oregon phải là một phần lãnh thổ của Mỹ [134, tr. 404].

Hoạt động cư dân Mỹ ở Oregon lôi cuốn sự chú ý của giới cầm quyền Mỹ. Năm 1835, tức tám năm sau tuyên bố năm 1827, người đứng đầu Nhà Trắng tại thời điểm này – A. Jackson, cử William A. Slacum đến vùng Viễn Tây để thám sát điều kiện tự nhiên con sông Columbia và “thu thập tất cả thông tin… mà có lẽ chứng nhận sự hữu ích hoặc mang lại quyền lợi đối với Chính phủ”. Bản báo cáo của W. Slacum chẳng những trình bày tiềm năng thương mại và nông nghiệp của khu vực này, thúc đẩy chính phủ Mỹ không được từ bỏ hai con sông Columbia và Puget Sound; mà còn phát động những cuộc tranh luận dai dẳng trong Quốc hội Liên bang về vấn đề Oregon kể từ năm 1837 trở đi. Nhiều nghị sĩ đề nghị thông qua các đạo luật hoặc nghị quyết khẳng định chủ quyền tối cao của Mỹ đối với lãnh thổ Oregon. Tiêu biểu cho quan điểm này là Thượng nghị sĩ Lewis F. Linn (tiểu bang Missouri). Ông khẳng định: “Chủ quyền của Mỹ đối với Oregon là nằm ngoài tranh chấp”; đồng thời “đòi hỏi mở rộng luật pháp Mỹ cho công dân Mỹ định cư ở Oregon
và bảo vệ quân sự đối với con đường mòn di cư; đề nghị trợ cấp 640 acre đất cho mỗi người đàn ông da trắng sinh sống ở Oregon mà canh tác và sử dụng trong vòng 5 năm liên tục” [111, tr. 210]. Song, quan điểm này không được cơ quan lập pháp Mỹ lưu tâm.

Như trên đã trình bày, do cùng khai thác trên lãnh thổ Oregon nên sự va chạm giữa Anh và Mỹ là điều không tránh khỏi. Do vậy, để giải quyết tình trạng này, hai bên muốn có giải pháp phân chia lãnh thổ Oregon. Với lý do như vậy, một lần nữa, vào năm 1842, bên lề cuộc đàm phán ở Washington về việc giải quyết tranh chấp biên giới tại Maine, giữa đại diện ngoại giao Anh – Hầu tước Ashburton với Ngoại trưởng Mỹ tại thời điểm này là Daniel Webster, phái đoàn Anh đưa ra quan điểm phân chia lãnh thổ Oregon nằm tại con sông Columbia. Tuy nhiên, chủ trương này không nhận được sự tán thành của phái đoàn Mỹ vì lý do: mặc dù có quyền lợi ở phía Nam sông Columbia song người Mỹ còn muốn nới rộng phạm vi hoạt động của mình lên phía Bắc, nơi gắn liền với quyền lợi của Anh. Họ muốn đường ranh giới phân chia lãnh thổ Oregon nằm ở vĩ tuyến 490 Bắc. Mục đích sâu xa của Mỹ là muốn có một hải cảng ở vùng Viễn Tây nối liền với Thái Bình Dương, cụ thể là eo Juan de Fuca. Cơ sở của những lập luận của phái đoàn Mỹ xuất phát từ những chuyến khảo sát của giới hải quân về lãnh thổ Oregon, trong đó họ nhận thấy: “từ phía Nam con sông Columbia, bờ biển Oregon với sự lởm chởm, nhiều đá sỏi, hoang vu không thuận lợi cho việc xây dựng hải cảng có thể sử dụng được,
thậm chí cả đối với những thương thuyền có trọng tải nhỏ nhất” [83, tr. 152]. Một bản báo cáo khác của trung úy hải quân, Charles Wilkes, gửi chính phủ Mỹ vào tháng 6-1842, cũng có quan điểm tương tự. C. Wilkes còn đề xuất ý định thiết lập một hải cảng ở phía Bắc con sông Columbia. Sở dĩ nhu cầu về một hải cảng ở Thái Bình Dương được đặt ra vào thời điểm này là do vào cuối thập niên 30, đầu thập niên 40, tần suất trao đổi mậu dịch giữa thương gia vùng New England và miền Tây với thị trường phương Đông, nhất là Trung Quốc, ngày càng gia tăng. Các thương gia đòi hỏi chính phủ thiết lập hải cảng ở bờ biển phía Tây nhằm biến nó thành “trạm dừng chân” cho các thương thuyền Mỹ xuất phát từ nội địa, tiếp nhiên liệu, bốc dỡ hàng hóa để vận chuyển sang buôn bán ở thị trường Trung Quốc.

Những quan điểm của phái đoàn Mỹ về việc phân chia lãnh thổ Oregon ở vĩ tuyến 490 Bắc không nhận được sự tán thành của phái đoàn Anh. Trước ình thế đó, được sự hậu thuẫn của Tổng thống Mỹ – John Tyler, phái đoàn Mỹ đưa ra giải pháp thỏa hiệp. Theo đó, “nước Mỹ đồng ý phương án của chính phủ London trong trường hợp nước Anh thuyết phục Mexico nhượng cho Mỹ lãnh thổ California, bao gồm hải cảng San Francisco. Khi đó, nhu cầu về hải cảng tại Thái Bình Dương được đáp ứng, nước Mỹ sẽ không còn đòi hỏi giành lấy hải cảng ở eo Juan de Fuca; và có thể chấp nhận hiệp ước phân chia lãnh thổ Oregon ở con sông Columbia” [83, tr. 153]. Nói cách khác, nước Mỹ chấp nhận từ bỏ quyền lợi ở phía Bắc sông Columbia.

Tin tức về kế hoạch tay ba cùng với cuộc đàm phán giữa Ashburton và Webster về lãnh thổ Oregon lâm vào “ngõ cụt” gây nên sự phẫn nộ của dư luận miền Tây nước Mỹ. Nhiều hội nghị về Oregon được tổ chức trên toàn miền Tây đòi hỏi chiếm đóng ngay lập tức đối với toàn bộ lãnh thổ Oregon. Tháng 4-1843, hội nghị về Oregon tổ chức ở Cincinnati, tuyên bố rằng: “Cuộc đàm phán với tin đồn về việc từ bỏ bất cứ phần đất nào ở Oregon để đổi lấy California là sự nguy hiểm đối với nền hòa bình và khước từ đối với học thuyết Monroe” [83, tr. 155].

Tiến thêm bước nữa, tháng 7-1843, những nhân vật có tư tưởng bành trướng ở miền Tây triệu tập hội nghị toàn quốc ở Cincinnati, nhấn mạnh “lợi ích của Mỹ đối với lãnh thổ Oregon, từ vĩ tuyến 420 đến 54040’ Bắc là điều chắc chắn và nhiệm vụ cấp bách trước mắt của chính phủ Liên bang là mở rộng các đạo luật của Mỹ đối với vùng lãnh thổ được tuyên bố” [83, tr. 154]; đồng thời yêu cầu chính phủ Mỹ xây dựng các cứ điểm quân sự từ dòng sông Missouri đến Thái Bình Dương và điều động lực lượng hải quân tối tân tới Oregon để bảo vệ lãnh thổ và công dân Mỹ. Áp lực của các phần tử miền Tây khiến tổng thống J. Tyler trong thông điệp Liên bang thường niên đọc trước Quốc hội (12-1843), thừa nhận: “Nước Mỹ luôn cho rằng lợi ích của mình có quan hệ với toàn bộ vùng lãnh thổ ven bờ biển Thái Bình Dương, nằm trong giới hạn 420 và 54040’ vĩ độ Bắc” [115, tr. 599].

Thời gian sau đó, chủ quyền lãnh thổ Oregon trở thành “chương trình nghị sự” của một số đảng phái chính trị trong chiến dịch vận động bầu cử tổng thống năm 1844. Tại đại hội của Đảng Dân chủ diễn ra ở Baltimore, những nghị sĩ có tư tưởng bành trướng một mặt đưa ra cương lĩnh, khẳng định: “chủ quyền của Mỹ đối với toàn bộ lãnh thổ Oregon là rõ ràng và không nghi ngờ; rằng không một tấc đất trong lãnh thổ này nhượng cho Anh hoặc bất cứ cường quốc nào; rằng việc tái chiếm Oregon và việc tái sáp nhập Texas tại
thời điểm thích hợp nhất là những mục tiêu của người Mỹ” [83, tr. 155]; mặt khác đề cử James Knox Polk, người có tư tưởng bành trướng, làm ứng cử viên tranh cử chức vụ tổng thống. Khẩu hiệu tranh cử của J.K. Polk là “54040’ hoặc chiến đấu” [95, tr. 481].

Điều cần nói thêm là, vấn đề lãnh thổ Oregon không chỉ là “chương trình nghị sự” trên chính trường mà còn hấp dẫn đối với dân chúng nước Mỹ, bởi trong thập niên 40, tư tưởng “Sứ mệnh bành trướng” trở nên thịnh hành, lan tỏa khắp trong xã hội Mỹ. Tinh thần thời đại được phản ánh qua hình ảnh nước Mỹ được ví như con trâu nước đi lang thang khắp các đồng bằng miền Viễn Tây của một luật sư tiểu bang New Jersey. Ông viết:

“Tôi bảo rằng hãy mở đường cho con trâu Mỹ còn non trẻ – nó chưa đủ đất đai; nó mong muốn có thêm đất để làm nơi nghỉ mát trong mùa hè; nó ước muốn có thêm đất để làm cánh đồng cỏ xinh tươi. Tôi bảo với bạn rằng chúng ta sẽ cho nó lãnh thổ Oregon để làm nơi nghỉ mát trong mùa hè, cho nó lãnh thổ Texas để làm đồng cỏ trong mùa đông. Giống như các chủng tộc khác, nó cũng cần muối, như vậy thì nó cần phải sử dụng hai đại dương – Thái Bình Dương oai hùng vĩ đại và Đại Tây Dương cuồn cuộn sóng sẽ là của nó” [85, tr. 529-530].

Với cương lĩnh hành động của đảng Dân chủ đáp ứng “khát vọng” của đa số dân chúng Mỹ, J.K. Polk trở thành “chủ nhân” Nhà Trắng. Trong diễn văn nhậm chức, ngày 4-3-1845, Tổng thống J.K. Polk tuyên bố: “Nhiệm vụ của tôi là khẳng định và duy trì bằng tất cả các phương tiện hiến pháp quyền lợi của nước Mỹ đối với vùng lãnh thổ nằm ở phía bên kia dãy Rocky. Chủ quyền của nước Mỹ đối với vùng lãnh thổ Oregon là rõ ràng và không nghi ngờ và dân tộc Mỹ sẵn sàng tiếp nhận chủ quyền bằng cách chiếm lấy vùng
lãnh thổ đó” [64, tr. 227].

Những ngôn từ và sự thể hiện trong diễn văn nhậm chức Tổng thống của J. K. Polk kích động sự tuyên chiến từ phía Anh. Phát ngôn của Polk giờ đây không phải là chính trị gia nhằm tranh thủ cử tri mà với tư cách Tổng thống, người đứng đầu một quốc gia. Đáp lại thông điệp của Polk, Tạp chí London Times (Anh) tuyên bố, tất cả công dân Anh “chuẩn bị để bảo vệ lấy chủ quyền đối với vùng lãnh thổ Oregon ở mức tối đa, cho dù bất cứ ở đâu nhân dân Anh cảm thấy bị thách thức nghiêm trọng” [83, tr. 156]. Không hiếu chiến như giới truyền thông, Ngoại trưởng Hoàng gia Anh, Aberdeen, coi diễn văn của Polk với thái độ ôn hòa, như một tuyên ngôn mang màu sắc chính trị. Trước Viện Dân biểu, Aberdeen nói: “Dưới quan điểm của chúng tôi, nước Anh có quyền rõ ràng và chắc chắn, bằng phúc lành của Thượng đế và với sự hỗ trợ của các bạn, những quyền lợi đó nước Anh sẵn sàng duy trì chủ quyền
đối với Oregon” [64, tr. 227-228].

Về phía Mỹ, do bị ràng buộc bởi cương lĩnh tranh cử tổng thống, J.K. Polk muốn giành lấy toàn bộ Oregon theo biện pháp cứng rắn, nghĩa là con đường chiến tranh. Song trước khi sử dụng biện pháp này, theo sự cố vấn của các vị tổng thống tiền nhiệm, ngày 12-7-1845, người đứng đầu Nhà Trắng chỉ thị Ngoại trưởng James Buchanan thông báo với Công sứ Anh ở Washington, Richard Pakenham, rằng: “nước Mỹ muốn phân đôi lãnh thổ Oregon ở vĩ tuyến 490 Bắc” [64, tr. 228]. Đây là lần thứ tư, nước Mỹ đưa ra đường ranh giới thỏa hiệp. Thế nhưng, do lo sợ sự bùng phát chủ nghĩa dân tộc ở phía bên kia đại dương, R. Pakenham khước từ quan điểm này, song không báo cáo nó với chính quyền London. Động thái này không làm hài lòng cơ quan ngoại giao Anh, trước hết là Ngoại trưởng Aberdeen, người muốn giải quyết vấn đề Oregon theo con đường thỏa hiệp.

Để cứu vãn tình thế, trong thời gian ngắn, Aberdeen gửi liên tiếp hai công hàm ngoại giao đến Mỹ, đề nghị chính quyền Washington tiến hành đàm phán thỏa hiệp, song J.K. Polk khước từ. Động thái của Polk khiến nhiều nghị sĩ trong Quốc hội liên tưởng đến cuộc chiến tranh với Anh sắp đến gần. Giải thích về hành động này, Polk nói:

Tôi chú ý đến nước Anh rằng con đường duy nhất để đối xử với John Bull 32 là nhìn thẳng vào mắt của John Bull nói rằng, tôi theo đuổi hành động đối xử với chiều hướng cứng rắn và táo bạo liên quan đến phần lãnh thổ ở Thái Bình Dương; rằng trong trường hợp Quốc hội từ chối hoặc lưỡng lự trong biện pháp đối phó với nước Anh thì ngay lập tức nước Anh trở nên kiêu căng và đưa ra nhiều điều hỏi hơn” [64, tr. 229].

Tiếp đến, theo chỉ thị của J.K. Polk, Ngoại trưởng J. Buchanan rút lui đề nghị trên và chính quyền Mỹ tiếp tục tuyên bố chủ quyền đối với toàn bộ lãnh thổ của Oregon. Trong thông điệp thường niên đọc trước Quốc hội Liên bang, ngày 2-12-1845, J.K. Polk đưa ra Hệ luận Polk (Polk Corollary) dựa trên cơ sở học thuyết Monroe (1823). Nội dung hệ luận Polk chẳng những xem: “Oregon là một phần lục địa Bắc Mỹ mà chủ quyền của Mỹ bây giờ vẫn hiện hữu” mà còn giải thích, rằng:

“Sự bành trướng mau chóng của các cuộc định cư của cư dân Mỹ tại các khu vực từ xưa tới nay chưa có người cư ngụ (ám chỉ Oregon – TG), thêm vào đó là các tiểu bang mới gia nhập vào Liên bang chúng ta, sự bành trướng của các nguyên tắc tự do và tính cách vĩ đại ngày càng gia tăng của quốc gia chúng ta, càng ngày làm cho các các cường quốc châu Âu phải lưu tâm, và gần đây một vài cường quốc đó đã có chủ trương tạo ra thế “cân bằng lực lượng” trên lục địa này để kiềm chế sự bành trướng của chúng ta. Hợp chúng quốc thành thật mong muốn duy trì những quan hệ tốt đẹp với tất cả các quốc gia, không thể yên lặng cho phép bất cứ một sự can thiệp nào của các cường quốc châu Âu vào lục địa Bắc Mỹ, và nếu có sự can thiệp tương tự nào mà được mưu tính thì Hợp chúng quốc sẵn sàng phản kháng bằng đủ mọi cách”.

Cư dân nước Mỹ không thể chứng kiến một cách thờ ơ các mưu toan của các cường quốc châu Âu can thiệp vào hành động độc lập của các quốc gia châu Mỹ… Điều đó không được phép áp dụng dưới bất cứ hình thức nào trên lục địa Bắc Mỹ và nhất là đối với Hợp chúng quốc. Chúng ta (nước Mỹ – TG) phải duy trì vĩnh cửu nguyên tắc nói rằng, chỉ có nhân dân lục địa Bắc Mỹ là có quyền quyết định sinh mệnh của bản thân mình. Nếu một khu vực nào trên lục địa này, đã được tạo thành một quốc gia độc lập; đề nghị gia nhập Liên bang thì việc đó sẽ là một vấn đề do họ và chúng ta quyết định, không có sự can thiệp của thế lực ngoại bang nào cả. Chúng ta không bao giờ bằng lòng cho các cường quốc châu Âu can thiệp để ngăn cản sự gia nhập Liên bang đó, viện lẽ rằng Liên bang đó sẽ làm mất thế “cân bằng lực lượng” mà các cường quốc châu Âu mong muốn duy trì trên lục địa này” [115, tr. 646-647].

Động thái cứng rắn của người đứng đầu Nhà Trắng đối với nước Anh gây nên sự tranh cãi gay gắt trong Quốc hội. Một bên là nhóm nghị sĩ thuộc miền Tây Bắc của đảng Dân chủ do Tổng thống Polk đứng đầu, muốn tiến hành chiến tranh với Anh để chiếm giữ toàn bộ lãnh thổ Oregon; bên kia là các nghị sĩ thuộc phái Whig thuộc vùng New England, đại diện cho các thương gia, chủ trương giải quyết vấn đề Oregon theo con đường hòa bình, tức là đàm phán với Anh. Bởi theo họ một khi cuộc chiến tranh xảy ra sẽ làm phá sản các dự án kinh doanh. Họ muốn đường ranh giới lãnh thổ Oregon nằm ở vĩ tuyến 490 Bắc. Với đường ranh giới này đồng nghĩa với một hải cảng giành cho nước Mỹ ở Thái Bình Dương. Thêm vào đó, tình hình nội bộ nước Mỹ xảy ra theo chiều hướng thuận lợi cho quan điểm hòa bình. Sau sự kiện Texas gia nhập vào Mỹ (12-1845) 33, các nghị sĩ miền Nam và Đông Bắc ủng hộ dự án thỏa hiệp về lãnh thổ Oregon. Họ không sẵn sàng tiến hành cuộc chiến tranh nguy hiểm với Anh bằng việc đòi hỏi đường ranh giới nằm phía trên vĩ tuyến 490. Nghị sĩ Jefferson Davis (tiểu bang Mississippi) cho rằng: “Việc sở hữu đường ranh giới ở vĩ tuyến 490, chúng ta sẽ có vùng lãnh thổ nông nghiệp, eo Juan de Fuca và Admiralty Inlet; đối với công việc kinh doanh và thể chể Mỹ, chúng ta có thể tự tin ở tương lai mà không chút sợ sệt” [83, tr. 158]. Mặt khác, vào đầu năm 1846, những động thái quân sự của binh lính Mexico ở biên giới Tây Nam có thể đẩy nước Mỹ bên bờ vực cuộc chiến tranh với quốc gia này. Như vậy, trong cùng một lúc, nước Mỹ có thể đối mặt cuộc chiến tranh cả từ hai phía, với Anh ở phía Bắc và Mexico ở phía Nam. Hầu hết các nghị sĩ Quốc hội không muốn điều này trở thành hiện thực. Họ gây áp lực buộc Tổng thống J.K. Polk phải thỏa hiệp với nước Anh về vấn đề Oregon.

J.K. Polk còn phải đương đầu với dư luận Mỹ về vấn đề Oregon. Những tin tức về khả năng nước Anh lợi dụng sự yếu kém trong việc quản lý California của Mexico để gây áp lực buộc quốc gia này chuyển nhượng vùng lãnh thổ này cho Anh. Cùng với đó, niềm tin vào “Sứ mệnh bành trướng”, nhiều người Mỹ chủ trương mở rộng lãnh thổ đến California, đặc  biệt là muốn thâu nạp hải cảng San Francisco trong biên giới Mỹ. Họ đã thúc giục Chính phủ thỏa hiệp với Anh. Theo họ, một thỏa hiệp với Anh về lãnh thổ Oregon sẽ làm suy giảm sức ép của Anh đối với Mexico trong việc giành lấy California.

Tạp chí Herald New York viết: “Nếu chúng ta (nước Mỹ – TG) giành được một phần California thì chúng ta phải từ bỏ một phần Oregon” [83, tr. 159]. Trước áp lực từ nhiều phía, Tổng thống J.K. Polk chấp nhận giải quyết lãnh thổ Oregon theo con đường hòa bình.

Trong khi đó, nhiều nhân tố tác động đến nước Anh khiến chính quyền London phải giải quyết theo biện pháp tương tự. Tại Oregon, dòng người Mỹ tiến đến xứ sở này ngày càng đông khiến công việc kinh doanh lông thú của Công ty Hudson Bay không còn mang lại lợi nhuận như trước. Năm 1845, Công ty này buộc phải di chuyển đại bản doanh từ sông Columbia ra đảo Vancouver. Mặt khác, Bản báo cáo của những điều tra viên thuộc Cơ quan Công binh hoàng gia và Hải quân hoàng gia khảo sát vị trí Oregon, gửi lên nội các Robert Peel, cho rằng nước Anh không thể phòng thủ khu vực này chống lại các cuộc tấn công của người Mỹ và cư dân Mỹ sẽ tràn ngập lãnh thổ Oregon là điều không tránh khỏi. Bản thân nước Anh lúc này cũng bị chao đảo trước phong trào đấu tranh đòi duy trì hoặc thủ tiêu đạo luật ngũ cốc; tình trạng mất mùa khoai tây trầm trọng báo hiệu trước nạn đói xảy ra trong thời gian tới. Điều quan trọng hơn là các nhà máy sản xuất vải ở Anh vốn phụ thuộc hoàn toàn vào nguồn cung cấp sợi thô từ phía Mỹ nên trong trường hợp tình trạng căng thẳng giữa Mỹ – Anh tiếp tục thì giới chủ xưởng lo sợ mất đi nguồn cung cấp nguyên liệu. Do đó, họ gây áp lực mạnh mẽ để buộc nội các Peel giải quyết vấn đề Oregon theo con đường thỏa hiệp.

Trong bối cảnh như vậy, cả chính phủ Mỹ và Anh chấp nhận thương thảo về vấn đề Oregon. Theo chỉ thị của Aberdeen, Công sứ R. Pakenham chuyển bản dự thảo hiệp ước về Oregon cho chính phủ Washington. Người Mỹ nhanh chóng chấp nhận đề nghị của Anh. Tại Washington, ngày 15-6- 1846, R. Pakenham kí với đại diện chính quyền Mỹ bản thoả ước về Oregon (Oregon Compromise). Theo bản thỏa ước này: xứ Oregon bị phân đôi lấy đường vĩ tuyến 490 Bắc làm mốc để chia cho hai nước. Đường vĩ tuyến 490 Bắc chạy từ Puget Sound đến tận Thái Bình Dương thông qua eo biển Juan de Fuca. Phần phía Nam vĩ tuyến 490 Bắc thuộc về nước Mỹ. Phần phía Bắc vĩ tuyến 490 Bắc, bao gồm cả đảo Vancouver thuộc về lãnh thổ Anh, sau này là Canada [95, tr. 482].

Với việc chính phủ Mỹ kí với Anh bản Thoả ước Oregon, đường biên giới của Mỹ chính thức được mở đến ven bờ Thái Bình Dương, góp phần làm cho lãnh thổ Mỹ mở rộng về phía Tây Bắc. Điều quan trọng, Thoả ước Oregon đã loại bỏ sự hiện diện của Anh, cường quốc châu Âu cuối cùng ở vùng Tây Bắc, phá vỡ sự kiềm toả của các thế lực cản trở sự lớn mạnh của nước Mỹ. Ngoài ra, vùng lãnh thổ Oregon với tiềm năng thương mại sẽ góp phần quan trọng trong việc phát triển kinh tế nước Mỹ ở những thập niên sau.

3.3. Vấn đề lãnh thổ Texas

Texas 34 là lãnh thổ nằm phía Tây Nam của Liên bang Mỹ, giáp ranh với nước Cộng hòa Mexico hiện nay. Trước thế kỷ XVI, Texas vốn là một bộ phận lãnh thổ nằm trong đế chế Aztec. Sau “thời kỳ của những khám phá lớn”, trong khoảng thời gian 1519 – 1521, đế chế Aztec hùng mạnh bị nhóm người Tây Ban Nha, dưới sự chỉ huy của Hernando Cortez khuất phục. Trong gần 300 năm tiếp theo, Texas là đơn vị hành chính thuộc Mexico nằm dưới sự cai trị của Tây Ban Nha. Thời thuộc địa, do là đơn vị hành chính nằm xa chính
quyền trung ương, Texas có rất ít người đến định cư. Chỉ có số ít người Tây Ban Nha giàu có làm chủ các đồn điền, trang trại. Họ sử dụng thổ dân da đỏ và người lai da đỏ làm việc trong các trang trại. Lãnh thổ Texas có các trung tâm truyền giáo của các tu sĩ và các đồn ải quân sự do quân đội Tây Ban Nha chiếm đóng. Dưới nhãn quan của chính quyền thuộc địa Tây Ban Nha, trong hai thập niên đầu tiên của thế kỷ XIX, Texas là “khu đệm” chống lại sự bành trướng của cư dân Mỹ, “vành đai” bảo vệ “châu Mỹ Tây Ban Nha” ở phía Nam. Tuy nhiên, đến tháng 1-1821, dưới tác động của chính phủ tự do ở “mẫu quốc” 35, chính quyền thuộc địa bản xứ ban hành chính sách khuyến khích cư dân Mỹ vào định cư ở Texas nhằm hướng đến việc xây dựng xứ sở này thịnh vượng. Kế hoạch này chưa trở thành hiện thực thì tình hình thay đổi. 

Dưới tác động của Cuộc Cách mạng tư sản Pháp năm 1789, nhất là lợi dụng sự suy yếu của chính quyền phong kiến Tây Ban Nha do bị quân đội Napoleon liên tiếp tấn công, nhân dân Mexico đứng dậy đấu tranh vũ trang để tự giải phóng mình. Năm 1810, dưới sự lãnh đạo của linh mục Miguel Hidalgo, nhân dân Mexico tiến hành khởi nghĩa lật đổ ách thống trị của thực dân Tây Ban Nha. Mặc dù bị thất bại ở buổi đầu, song cuộc đấu tranh nhân dân Mexico vẫn không ngừng tiếp diễn. Với sự đấu tranh bền bỉ, đến năm 1821, Mexico thoát khỏi sự cai trị của Tây Ban Nha. Hai năm sau, tức năm 1823, nước Cộng hòa Mexico ra đời. Texas là một quận thuộc tiểu bang Coahulia-Texas với vùng đồng bằng trù phú, thưa thớt dân cư và ít có quân đội đồn trú.

Noi theo Vương quốc Tây Ban Nha trước đây, Chính phủ cộng hòa Mexico ban hành đạo luật khuyến khích nhiều luồng di dân khác nhau đến sinh sống tại địa bàn Texas nhằm khai phá và mở mang lãnh thổ. Theo đó, mỗi người dân đến định cư ở Texas được mua 4.428 acre 36 đất đai với giá 200 $, trả dần trong 6 năm. Họ phải trở thành công dân Mexico, tín đồ Thiên chúa giáo La Mã và tuân thủ luật pháp của quốc gia sở tại.

Những tin tức đất đai giá rẻ ở Texas đến miền Nam nước Mỹ trong bối cảnh tình trạng đất đai bạc màu do canh tác cây bông. Thực trạng này cùng với cuộc khủng hoảng kinh tế xảy ra vào năm 1819, kích thích các tầng lớp nhân dân, nhất là giới chủ đồn điền, đẩy nhanh công việc tìm kiếm đất đai phì nhiêu ở miền Tây Nam để thuận tiện cho canh tác. Những chủ đồn điền lớn muốn kiếm nhiều đất đai hơn nữa nhằm phân phát cho con cái của họ trong khi vẫn muốn duy trì những điền trang rộng lớn của bản thân ở miền Nam nước Mỹ. 

Những điền chủ nhỏ cũng hy vọng thay đổi thân phận thông qua việc mua đất đai giá rẻ ở Texas. Tầng lớp chủ nô xem Texas là thị trường đầy tiềm năng mang lại lợi nhuận lớn thông qua sử dụng nhân công nô lệ da đen. Mặt khác, Texas là vùng đất hứa cho những người kém may mắn ở Mỹ. Năm 1823, nhà đương cục Mexico cấp giấy phép cho Stephen F. Austin, một thương gia Mỹ xuất thân từ Connecticut, dẫn theo 300 gia đình Mỹ vào Texas thiết lập khu định cư. Noi theo F. Austin, nhiều cư dân Mỹ khác cũng có hành động tương tự. Theo dòng thời gian, làn sóng kiều dân Mỹ nhập cư vào Texas ngày càng tăng. “Kiều dân (Mỹ – TG) định cư ở Texas tạo thành một cộng đồng độc lập, bảo lưu ngôn ngữ và văn hóa riêng của dân tộc và sống tách biệt với người Mexicans. Luật pháp Mexico yêu cầu cư dân Mỹ theo Thiên Chúa giáo La Mã, tuy vậy kiều dân ở đây vẫn duy trì đạo Tin lành. Hiến pháp Mexico ban hành cho phép nô lệ bất hợp pháp có quyền bình đẳng như với người khác. Do vậy, nhiều chủ nô mang theo nhiều nô lệ đến canh tác ở những đồn điền gần biên giới phía Nam nước Mỹ. Nói chung, chính phủ Mexico lúc đầu không lưu tâm đến thực trạng trên và cho phép nhà đương cục Texas bang giao với chính quyền Mỹ” [78, tr. 77]. Theo ước tính, đến năm 1836, con số người Mỹ da trắng
định cư tại Texas khoảng 30.000 người với 5.000 nô lệ da đen [65, tr. 218], lớn hơn số người Tây Ban Nha đến đây lập nghiệp trong 300 năm trước. Xét về mặt văn hóa, một cách khách quan, Texas là một “tiểu bang” nằm trong biên giới nước Mỹ. Đa phần người Mỹ sinh sống ở đây có thái độ miệt thị người bản xứ, tức người Mexico, vì nền văn hóa và chủng tộc thấp kém.

Phản ứng trước việc người Mỹ đến định cư ngày càng đông, năm 1827, một cuộc khởi nghĩa mang tính chất địa phương nổ ra ở Texas với tên gọi Fredonian. Cuộc khởi nghĩa đòi hỏi Chính phủ Mexico ban hành các biện pháp nhằm giảm thiểu tình trạng kiều dân Mỹ lấn chiếm đất đai tại đây. Để trấn an bộ phận nghĩa quân tham gia cuộc khởi nghĩa, năm 1830, Chính phủ Mexico thông qua hàng loạt đạo luật nhằm cản trở quá trình định cư của kiều dân Mỹ, như chống lại nhập cư, xóa bỏ chế độ nô lệ và đánh thuế cao đối vớihàng hóa Mỹ nhập vào Mexico. Năm 1831, Chính phủ Mexico xây dựng hàng loạt đồn bốt quân sự ở Texas nhằm ngăn chặn sự lan tràn của các khu định cư Mỹ, gây ra những thiệt hại đối với cư dân sinh sống tại đây. Do vậy, trong các năm 1832 và 1833, tại Texas, nhiều hội nghị của cư dân Mỹ được tổ chức đòi hỏi cơ quan lập pháp Mexico hủy bỏ các đạo luật đi ngược lại quyền lợi của họ, đòi Texas phải được tách ra khỏi tiểu bang Coahulia-Texas và trở thành tiểu bang độc lập nằm trong hệ thống Liên bang Mexico. Mặt khác, họ còn kêu gọi sự hỗ trợ từ phía chính quyền Mỹ.

Về phía Mỹ, sau khi thất bại trong việc giành lấy Texas trong Hiệp ước Adams – Onis (1819), dưới áp lực của cư dân miền Tây, chính giới Mỹ luôn “nhòm ngó” đến Texas. Bằng chứng là, năm 1825, Tổng thống Mỹ John Quincy Adams cử Công sứ Joel R. Poinsett đến Mexico để đàm phán mua lãnh thổ Texas với giá 1.000.000 $, song bất thành. Nối tiếp vị Tổng thống tiền nhiệm, Andrew Jackson cử Công sứ Anthony Butler đến thủ đô Mexico thương lượng với Chính phủ sở tại về Texas với mức giá 5.000.000 $. Công sứ Mỹ vừa gia tăng áp lực đối với chính quyền Mexico, vừa mua chuộc giới chức bản xứ; song sứ mạng của A. Butler cùng chung số phận như những lần trước.

 Có một thực tế lịch sử là, nền chính trị Mexico trong buổi đầu độc lập luôn đối mặt với tình trạng khủng hoảng với nhiều cuộc đảo chính liên tiếp xảy ra. Điều này xuất phát từ cuộc đấu tranh của các phe phái chính trị giữa một bên theo triết lý “chủ nghĩa liên bang” với chủ trương tán thành quyền tự trị dành cho các tiểu bang, giảm sự chi phối của chính quyền trung ương, đồng thời khuyến khích chính sách nhập cư người nước ngoài; bên kia theo triết lý “chế độ tập quyền trung ương” đòi hỏi quyền lực tập trung cao độ vào chính quyền trung ương để quản lý các vùng lãnh thổ khó kiểm soát, thủ tiêu quyền tự trị địa phương và không thân thiện với cư dân nhập cư. Hệ quả của cục diện này là việc đất nước chìm ngập trong nội chiến và hầu như chưa bao giờ có sự bình yên. Vì vậy, chính quyền trung ương cũng hiếm khi duy trì được bất cứ chính sách nào trong thời gian lâu dài. Trong bối cảnh như vậy, tháng 4-1834, bằng cuộc đảo chính quân sự, tướng Antonio Lopez de Santa Anna thiết lập ộc tài. Là nhân vật theo chủ nghĩa “tập quyền trung ương”, Santa Anna tước đi những quyền hạn mà “chủ nghĩa liên bang” đã trao cho tiểu bang Coahulia-Texas trước đây, khước từ cải cách, đồng thời xiết chặt sự cai trị đối với người Mỹ nhập cư. Những hành động chuyên quyền đó chẳng những đập tan ảo tưởng của cư dân Texas với hy vọng Chính phủ sở tại đáp ứng những yêu sách của họ, mà còn đẩy đại bộ phận cư dân ở đây ra khỏi nền cộng hòa Mexico. Khi Santa Anna điều động binh lính đến đóng quân trên địa bàn Texas, nỗi lo sợ của dân chúng trở thành hiện thực. Chẳng bao lâu sau, những cuộc đụng độ giữa cư dân Texas và binh lính Mexico liên tiếp xảy ra. 

Tình hình trở nên căng thẳng hơn khi vào năm 1835, Santa Anna điều đạo quân lên phía Bắc để trừng trị những kẻ phiến loạn. Phản ứng trước sự việc này, cư dân Texas một mặt tấn công vũ trang vào các đồn quân sự của Mexico ở Gonzales và San Antonio; mặt khác triệu tập cuộc họp ở San Felipe de Austin (3-11-1835) nhằm công bố “Tuyên ngôn chính nghĩa” (Declaration of Causes), dựng lên chính phủ lâm thời và bầu Sam Houston làm Tổng tư lệnh quân đội Texas. Một vài tháng sau, ngày 2-3-1836, Chính phủ lâm thời tuyên bố thành lập nền Cộng hòa Texas. Sự kiện Texas tuyên bố độc lập vấp phải sự phản ứng quyết liệt từ phía chính quyền trung ương. Đích thân tướng Santa Anna cầm đầu đạo quân tiến đến Texas để lập lại trật tự. Cuộc chiến đấu của cư dân Texas chống lại Chính phủ trung ương bắt đầu.

Do phần lớn cư dân Texas vốn có nguồn gốc từ miền Nam nước Mỹ nên cuộc đấu tranh của họ nhận được sự đồng cảm của dư luận Mỹ. Tháng 10- 1835, cư dân New Orleans thành lập tổ chức Ủy ban Texas (Texas Committee) nhằm tuyển mộ binh lính tình nguyện và quyên góp tài chính. Các thành phố khác ở những tiểu bang miền Bắc và miền Tây, như Boston, New York, Pittsburgh và Cincinnati triệu tập hội nghị với mục đích tương tự và tập hợp dân chúng thành các tiểu đội dưới danh nghĩa “dân di cư” phục vụ chiến đấu. Kết quả, có 3 đơn vị quân tình nguyện chiến đấu trong vòng hai tháng ở Texas. Ngoài ra, nhằm tranh thủ tối đa nguồn viện trợ, chính phủ cách mạng Texas còn cử các đại diện ngoại giao đặc biệt đến Mỹ kí kết các giao kèo đất đai với các nhà tư bản tài chính nhằm vay vốn để mua sắm khí giới. Chính nhờ một phần sự hậu thuẫn của nhân dân Mỹ, cuộc chiến đấu của nhân dân Texas giành được ưu thế. Ngày 21-4-1836, trong trận San Jacinto, quân đội Texas dưới sự chỉ huy của tướng Sam Houston đã bẻ gãy cuộc tấn công của quân đội Mexico, bắt sống Santa Anna. Sau trận này, quân đội Mexico buộc phải lui về phía bên kia bờ sông Rio Grande. Texas bảo vệ được nền độc lập. Sam Houston trở thành vị tổng thống đầu tiên của nền Cộng hòa Texas. 

Cần phải thấy rằng, ngay từ đầu dân chúng Texas không muốn xứ sở này tồn tại với tư cách quốc gia độc lập. Bản thân họ tự coi mình có dòng máu Anglo-Saxon và mong muốn Texas phải là một phần lãnh thổ của nước Mỹ. Hơn nữa, do không giành được sự công nhận độc lập từ phía Mexico nên họ cảm thấy nguy cơ xâm lược trở lại mang tính thường trực. Do đó, việc sáp nhập vào Liên bang là điều cần thiết. Cuối năm 1836, nhà đương cục Texas đề nghị Quốc hội Liên bang xin sáp nhập vào lãnh thổ Mỹ. “Sự kiện Texas” muốn gia nhập vào lãnh thổ Liên bang gây ra những phản ứng trái ngược từ phía chính giới Mỹ. Mặc dù với tư cách cá nhân mong muốn sáp nhập Texas, song người đứng đầu Nhà Trắng, Andrew Jackson tỏ ra khá dè dặt, không hành động vội vàng. Theo Tổng thống, trong trường hợp nước Mỹ sáp nhập Texas thì cuộc chiến với Mexico xảy ra là điều tất yếu. Ngoài ra, Tổng thống còn phải đối mặt với sự phản kháng của các nghị sĩ đảng Whig, bởi họ cáo buộc A. Jackson và S. Houston câu kết với cách mạng Texas để kết nạp một hoặc nhiều tiểu bang theo đảng Dân Chủ vào Liên bang.

Điều quan trọng trên hết, việc Texas đề nghị sáp nhập vào lãnh thổ Liên bang với những điều khoản công nhận chế độ sở hữu nô lệ, diễn ra trong bối cảnh vào thập niên 30 của thế kỷ XIX, phong trào đấu tranh đòi xóa bỏ nô lệ được đẩy lên cao. Lực lượng đấu tranh xóa bỏ nô lệ ở miền Bắc sợ rằng việc sáp nhập Texas sẽ tăng thêm từ 4 đến 5 tiểu bang nô lệ, làm mất đi sự cân bằng về mặt chính trị giữa các tiểu bang có nô lệ ở miền Nam với các tiểu bang không có nô lệ ở miền Bắc. Họ còn xem cách mạng Texas là “một phần âm mưu của giới chủ nô đang muốn nắm lấy quyền lực thông qua việc giành thêm nhiều lãnh thổ có nô lệ” [83, tr. 170]. Với quan điểm như vậy, các phần tử chống đối chế độ nô lệ cổ súy trên toàn miền Bắc phản đối việc sáp nhập Texas. Họ hô hào rằng: “Cư dân trên toàn miền Bắc, các bạn có cho phép điều này (tức sự kiện Texas xin sáp nhập Liên bang – TG) xảy ra hay không?” Các bạn có thừa nhận sự sỉ nhục trắng trợn này không; liên quan đến sự tội lỗi của chính bản thân các bạn và có lẽ nỗi kinh hoàng của chiến tranh trong việc thiết lập chế độ nô lệ ở một vùng đất tự do; và do đó đặt cổ của bạn và cổ của hậu thế dưới bàn chân những kẻ bạo ngược ở miền Nam trong nhiều thế kỷ sắp đến hay không ?” [83, tr. 170]. Phong trào đòi xóa bỏ nô lệ còn lôi cuốn sự vào cuộc của giới truyền thông. Ký giả William Lloyd Garrison, nhân vật chủ trương xóa bỏ chế độ nô lệ, trong tạp chí Người giải phóng (The Liberator), viết: “Texas là nơi gặp gỡ của những kẻ phạm pháp, phiêu lưu liều lĩnh và bản tính côn đồ vô luật pháp – cái rương an toàn đối với kẻ lừa đảo, cờ bạc, ăn trộm và kẻ lừa phỉnh với đủ mọi hạng. Đặc điểm nổi bật nhất của Texas là hành động đồi bại xấu xa. Không có điểm gì đồng nhất được tìm thấy giữa cư dân định cư ở đây ngoại trừ xu hướng mở rộng và duy trì hình thức kinh khủng nhất của chế độ nô lệ mà thế giới từng biết và sự gia tăng tội phạm” [64, tr. 242]. Đứng trước sức ép từ nhiều phía, người đứng đầu Nhà Trắng lo ngại việc sáp nhập sẽ dẫn đến khủng hoảng chính trị làm sụp đổ Liên bang. Do đó, Tổng thống khước từ đề nghị của nhà đương cục Texas. Song, một ngày trước khi từ nhiệm, ngày 3-3-1837, A. Jackson công nhận nền độc lập của Cộng hòa Texas.

Dưới nhãn quan của bộ phận dân cư Texas, sự công nhận của Tổng thống Mỹ là bước đi đầu tiên của việc sáp nhập vào lãnh thổ Liên bang. Ngày 4-8-1837, Memucan Hunt, Công sứ Texas ở Washington, tiếp tục gửi công hàm đến nội các Tổng thống Van Buren, người kế nhiệm A. Jackson, đề nghị được sáp nhập, song ý định này bất thành. Giải thích về hành động này, Ngoại trưởng Mỹ, John Forsyth nói: “Đề nghị của Hunt sẽ được dành cho sự xem xét trong tương lai, động thái đó (việc sáp nhập Texas vào Liên bang – TG) sẽ ngụ ý theo đuổi khuynh hướng tán thành cuộc xung đột giữa Texas với Mexico, điều đó khác hoàn toàn tinh thần hiệp ước thân thiện với Mexico và trái ngược chính sách nhất quán và sự thịnh vượng hiển nhiên của  nước Mỹ” [83, tr. 170-171]. Ngoài ra, nội các Van Buren còn bận đối phó vấn đề biên giới với Canada, cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1837 làm điêu đứng xã hội Mỹ, nhất là phong trào đấu tranh đòi xóa bỏ chế độ nô lệ vẫn đang còn tiếp diễn. Tháng 10-1838, Texas chính thức rút lui đề nghị sáp nhập và tiếp tục tồn tại dưới hình thức nhà nước độc lập.

Nền cộng hòa Texas ở buổi đầu độc lập đối mặt với muôn vàn khó khăn. Bên trong, ngân khố quốc gia trống rỗng, tình trạng nợ nần chồng chất. Bên ngoài, nguy cơ xâm lược trở lại của Mexico luôn rình rập. Để thoát khỏi thảm cảnh này, Chính phủ cộng hòa Texas gửi các đại diện ngoại giao đến các cường quốc châu Âu nhằm hi vọng giành lấy sự công nhận từ phía họ, đàm phán các hiệp ước thương mại và vay tiền phục vụ cho việc chấn hưng kinh tế. Nắm bắt được nguyện vọng của Chính phủ cộng hòa Texas, đồng thời lo lắng trước sự bành trướng lục địa của Mỹ ngày càng mạnh mẽ, nước Anh xem đây là cơ hội để gia tăng ảnh hưởng của mình đối với khu vực phía Nam nước Mỹ. Tại London, Công sứ Texas được chào đón với thái độ cởi mở và trọng thị. Tháng 11-1840, Chính phủ London công nhận nền độc lập Texas thông qua việc kí kết hiệp ước thương mại và thân thiện. Cùng với Anh, một số quốc gia châu Âu, như Bỉ, Hà Lan, Pháp cũng có hành động tương tự. Theo quan điểm của giới lãnh đạo nước Anh, việc công nhận nền độc lập của Texas nhằm các mục đích sau đây:

Thứ nhất, về chính trị, nước Cộng hòa Texas độc lập với đường ranh giới kéo dài tới Thái Bình Dương sẽ tạo thành bức tường ngăn chặn sự bành trướng xuống phương Nam của Mỹ. Điều này, một mặt sẽ đảm bảo sự an toàn cho các thuộc địa Anh ở vùng biển Caribbean; mặt khác tạo ra một quốc gia đối trọng với Mỹ nhằm cân bằng quyền lực ở Tây bán cầu. Một khi Texas mâu thuẫn với Mỹ thì nước Anh hoàn toàn rảnh tay để thách thức học thuyết Monroe của Mỹ với chủ trương bành trướng ở Tân thế giới nhằm biến nơi đây thành một đế quốc rộng lớn.

Thứ hai, về mặt kinh tế, do nền kinh tế nông nghiệp Texas phần lớn trồng cây bông – nguyên liệu chủ yếu phục vụ sản xuất vải, nên Chính phủ London hi vọng Texas sẽ giảm gánh nặng cho các nhà máy dệt Anh vốn phụ thuộc nguồn cung cấp sợi bông từ miền Nam nước Mỹ. Nguồn cung cấp này có thể bị phong tỏa do chính sách cấm vận hoặc chiến tranh xảy ra. Một Texas độc lập sẽ cung cấp nguyên liệu thô cho nhà máy Anh, đồng thời trở thành thị trường tiêu thụ các chế phẩm công nghiệp do Anh sản xuất ra. Những chế phẩm này được vận chuyển bằng thương thuyền mang quốc tịch Anh mà có thể tự do ra vào các hải cảng Texas hoàn toàn miễn thuế. Điều này góp phần suy yếu hàng rào thuế quan các tiểu bang miền Nam nước Mỹ, buộc Nhà Trắng phải bãi bỏ thuế bảo hộ mậu dịch chống lại hàng hóa Anh và quyền lợi của thương thuyền Anh.

Thứ ba, về văn hóa, là quốc gia tiên phong trong việc thủ tiêu chế độ nô lệ 37, nước Anh đang từng bước vận động chính giới các quốc gia khác trên khắp hành tinh từ bỏ chế độ này. Do đó, chính giới London tin rằng thông qua sự viện trợ về mặt tài chính cho Texas có thể thuyết phục nhà đương cục ở đây xóa bỏ chế độ nô lệ. Một khi thành công, những người chủ trương xóa bỏ nô lệ của Anh có thể bắt đầu tấn công vào mạn sườn dinh lũy chế độ nô lệ nước Mỹ – một viễn cảnh đe dọa sự tồn vong chủ đồn điền miền Nam. 

Nguy cơ Texas rơi vào tầm ảnh hưởng của Anh gây nên mối lo lắng đối với chính giới Mỹ. Bởi theo quan điểm của họ, nền độc lập Texas được sự hậu thuẫn của Anh sẽ là địa điểm ẩn náu những nô lệ bỏ trốn, đồng thời là nơi cất giữ hàng hóa phi pháp nhập cảng vào nước Mỹ. Hơn thế nữa, “tấm gương của một quốc gia độc lập, giải phóng chế độ nô lệ, có đường biên giới liền kề các tiểu bang miền Nam sẽ đe dọa làm đảo lộn cấu trúc xã hội ở đây, cũng như ngăn cản sự bành trướng của họ. Với sự giúp sức của Pháp và Anh, quốc gia này có lẽ mở rộng cương giới của nó bao gồm vùng lãnh thổ phía Tây rộng lớn đến Thái Bình Dương” [129, tr. 515].

Là người đứng đầu Nhà Trắng – đại diện quyền lợi cho giới chủ đồn điền miền Nam, John Tyler nhận thức rõ nguy cơ nói trên. Tháng 6-1843, Tổng thống chỉ thị Ngoại trưởng Abel P. Upshur gửi công hàm đến Chính phủ Cộng hòa Texas đề nghị đàm phán hiệp ước sáp nhập. Động thái này cũng nhận được sự “tiếp sức” của vị Tổng thống tiền nhiệm, A. Jackson. Với tư cách cá nhân, A. Jackson gửi lá thư thuyết phục Sam Houston chấp nhận sáp nhập vào Liên bang. Bức thư viết: “Bây giờ, người bạn tôn kính của tôi, bạn nhận thấy rằng Texas trong con mắt của nước Mỹ là cô dâu được trang điểm cho lễ cưới, nếu bị bỏ rơi thì cô ta sẽ đi kiếm người khác” [65, tr. 227]. Sau một thời gian do dự, Chính phủ cộng hòa Texas chấp nhận đàm phán với Mỹ.

Các cuộc đàm phán diễn ra nhanh chóng. Ngày 12-4-1844, Chính phủ Texas kí với Mỹ bản hiệp ước gia nhập Liên bang. Thế nhưng, bản hiệp ước này không được Thượng viện phê chuẩn do vấp phải sự chống đối quyết liệt của các nghị sĩ đảng Whig 38.

Trong cùng thời gian, do nắm bắt tin tức về việc Texas có ý định sáp nhập vào Mỹ, Ngoại trưởng Anh, Aberdeen có động thái ngoại giao phong tỏa sự bành trướng của Mỹ. Tháng 5-1844, Aberdeen đề nghị Anh, Pháp, Mexico, Texas và Mỹ tham gia kí kết văn kiện “đảm bảo nền độc lập và đường ranh giới của Texas” [64, tr. 246]. Aberdeen còn phát biểu công khai với cư dân Texas, rằng: “Nếu nước Mỹ khăng khăng giành lấy Texas thì nước Anh sẽ áp dụng biện pháp cực đoan cuối cùng trong việc ủng hộ Texas chống lại sự sáp nhập” [83, tr. 174]. Song đề nghị của Anh không được Pháp chấp nhận. Tiếp đến, tháng 1-1845, Chính phủ London đề nghị Mexico công nhận độc lập của Texas với điều kiện quốc gia này không chịu ảnh hưởng của bất cứ cường quốc nào.

Dư luận Mỹ cho rằng, những động thái ngoại giao của chính giới London là bằng chứng cho thấy nước Anh muốn đẩy Mỹ ra khỏi cuộc đua thôn tính Texas. Tình hình này xảy ra khi nước Mỹ đang trong cuộc vận động tranh cử tổng thống. Trong khi đảng Whig với chủ trương không sáp nhập Texas, đề cử Henry Clay làm ứng cử viên cho chức vụ tổng thống; thì tại đại hội của đảng Dân chủ diễn ra ở Baltimore, các nghị sĩ đại diện cho giới chủ đồn điền miền Nam cổ súy sự sáp nhập Texas. Họ quyết tâm không để mất Texas, bởi vì nếu điều này xảy ra thì họ bị tước đoạt lợi ích sống còn trong vấn đề nô lệ. Những nghị sĩ mang tư tưởng bành trướng hô hào: “Texas hoặc sụp đổ Liên bang” [64, tr. 245]. Là thành viên của Đảng Dân chủ, Ngoại trưởng John Calhoun 39 cũng cảnh báo: “Tôi xem sự sáp nhập [Texas] là vấn đề sống còn. Nếu bây giờ để mất thì Texas sẽ mất vĩnh viễn và rằng miền Nam sẽ cũng biến mất theo” [64, tr. 245]. Những nghị sĩ mang tư tưởng bành trướng đề cử James K. Polk làm ứng cử viên “chủ nhân Nhà Trắng”. Số phiếu ủng hộ là 15

Điều cần nhấn mạnh thêm, năm 1845, tư tưởng “Sứ mệnh bành trướng” tiếp tục lan tràn khắp xã hội Mỹ. Tinh thần thời đại được phản ánh trong bàixã luận đăng trên Tạp chí “Nước Mỹ và chủ nghĩa dân chủ”, ký giả O’ Sullivan đã biện luận cho việc ủng hộ sáp nhập Texas là phù hợp với ý chỉ Thượng đế. O’ Sullivan viết:

“Texas được sáp nhập vào nước Mỹ trong một trình tự quen thuộc của luật pháp chung vốn đang xoay vần vấn đề dân số ở phía Tây chúng ta. Sự liên kết với một tốc độ tăng trưởng dân số như thế đã trù định cho đất nước chúng ta trong vòng 100 năm tới sẽ có một tỷ lệ dân số khổng lồ khoảng 250 triệu người (nếu không nói quá), sự thật quá rõ ràng buộc chúng ta không thể bỏ qua việc bành trướng theo ý muốn để tìm kiếm nơi cư ngụ cho lục địa này. Texas được tách ra khỏi Mexico theo một loạt các sự kiện tự nhiên, bởi một quá trình hoàn toàn hợp pháp với lãnh địa riêng của nó, không ai có thể trách chúng ta; và trong quá trình này, mọi lời chê trách đều sai trái, xảo trá và nực cười chỉ tin vào Mexico. Việc sáp nhập vào nước Mỹ không chỉ là điều hiển nhiên mà nó còn là một việc làm tự nhiên, đúng đắn và hợp lý nhất trên thế giới – chỉ đáng ngạc nhiên là vẫn còn có những người trong số chúng ta nói là không nên” [59, tr.363].

Trong bối cảnh như vậy, Tổng thống sắp mãn nhiệm, J.Tyler đề nghị Quốc hội Liên bang thông qua Nghị quyết chung ủng hộ sáp nhập Texas theo tinh thần đa số phiếu. Lập tức, đề nghị này được Hạ viện và Thượng viện phê chuẩn. Ngày 1-3-1845, Nghị quyết chung có hiệu lực. Tinh thần của Nghị quyết này cũng được vị Tổng thống mới đắc cử, James K. Polk hưởng ứng. Trong diễn văn nhậm chức, J.K. Polk coi sự sáp nhập Texas nhằm hướng tới việc “xây dựng một phần của phe Liên bang và cùng hưởng với  chúng ta nền tự do mà Quốc hội đã bảo đảm và bảo vệ” [7, tr. 284]. Ngày 29-12-1845, người đứng đầu Nhà Trắng kí nghị quyết cuối cùng sáp nhập Texas, sau 9 năm tồn tại với tư cách quốc gia độc lập, vào lãnh thổ nước Mỹ.

Sự kiện Texas gia nhập vào nước Mỹ, xét về mặt tích cực, góp phần tăng diện tích không gian của đất nước với những vùng đất màu mỡ phục vụ cho việc sản xuất nông nghiệp mà trước hết là cây bông, đồng thời  làm phá sản hoàn toàn âm mưu của nước Anh trong việc thiết lập một quốc gia đệm phía Nam muốn kiềm tỏa sức mạnh của Mỹ. Song, xét về mặt tiêu cực, việc Texas nằm trong biên giới Mỹ đã tạo ra hố ngăn cách giữa một bên chống đối chế độ nô lệ và bên kia muốn duy trì chế độ này. Nói cách khác là làm tăng mâu thuẫn giữa các tiểu bang miền Nam với các tiểu bang miền Bắc. Trên bình diện quốc tế, sự kiện này đẩy quan hệ giữa Mỹ – Mexico vào tình trạng căng thẳng. Phản ứng trước sự việc này, chính phủ Mexico cho rằng “sự sáp nhập đó (Texas – TG) sẽ được coi như nguyên nhân của chiến tranh” [39, tr. 107] và tuyên bố cắt đứt quan hệ ngoại giao với Mỹ. Cùng với sự kiện California, việc sáp nhập Texas trở thành ngòi nổ làm bùng phát cuộc chiến tranh giữa Mỹ với Mexico (1846 – 1848).

3.4. Vấn đề lãnh thổ California

California 40 là lãnh thổ nằm phía Tây Nam nước Mỹ được giới hạn phía Đông giáp với lãnh thổ Louisiana và Texas, phía Tây giáp với Thái Bình Dương, phía Bắc giáp với lãnh thổ Oregon và phía Nam giáp với lãnh thổ nước cộng hòa Mexico. Lãnh thổ California với thủ phủ đặt tại Monterey, có nhiều đồi núi xen giữa những đồng bằng màu mỡ (Sacramento, San Joaquin), có hải cảng San Francisco và San Diego được xem là những đầu mối giao thông của vùng Viễn Tây, đồng thời là những“cửa ngõ”, “chìa khóa” đi ra Thái Bình Dương. Chủ nhân đầu tiên của lãnh thổ California là các bộ lạc da 40 Hiện nay là toàn bộ lãnh thổ của tiểu bang California, Utah và Arizona (xem phụ lục 5.6). đỏ định cư tại các đồng bằng ven theo đại dương. Họ có nền kinh tế và kỹ ơng đối đơn giản. Người da đỏ California có đời sống tinh thần phong phú và tôn giáo phức tạp, văn chương được truyền miệng qua những bài hát, câu chuyện, truyền thuyết từ đời này sang đời khác.

Kể từ thế kỷ XVI trở đi, California là bộ phận lãnh thổ của Mexico nằm dưới ách thống trị của thực dân Tây Ban Nha. Vào thế kỷ XVIII, nhiều giáo sĩ thừa sai đạo Thiên chúa thuộc dòng Franciscan mang quốc tịch Tây Ban Nha đến đây hành đạo. Họ thiết lập 21 trung tâm truyền giáo kéo dài từ San Diego đến phía Bắc San Francisco. Vây quanh các trung tâm này là các đồn ải do quân đội Tây Ban Nha chiếm đóng. Dưới thời thuộc địa, khác với các vùng lãnh thổ khác vốn thưa thớt dân cư, có nhiều người Tây Ban Nha giàu có đến lập nghiệp tại California. Họ bao chiếm những khu đất rộng lớn, chăn nuôi gia súc, canh tác nông nghiệp và sử dụng thổ dân da đỏ trong các đồn điền. Tầng lớp người da trắng ở đây sống biệt lập với thế giới bên ngoài. Dưới nhãn quan của chính quyền mẫu quốc, trong hai thập niên đầu thế kỷ XIX, California là khu đệm nhằm bảo vệ các vùng lãnh thổ phía Nam của Tây Ban Nha khỏi sự xâm nhập của các cường quốc, nhất là sự bành trướng của Anh và Nga từ phía Bắc.

Năm 1821, với thắng lợi cuộc đấu tranh chống thực dân Tây Ban Nha, nhân dân Mexico giành được độc lập và thiết lập chế độ cộng hòa. California trở thành đơn vị hành chính của Mexico với đa phần cư dân có dòng máu Tây Ban Nha định cư. Do nằm xa trung tâm quyền lực chính trị của đất nước nên sự quản lý của chính quyền trung ương hết sức lỏng lẽo, cùng với đó là sự bất mãn với chính sách cai trị của viên toàn quyền Mexico đang thực thi ở đây, nhất là tận dụng sự hỗn loạn chính trị của Mexico trong buổi đầu của nền cộng hòa, cư dân Tây Ban Nha nhiều lần nổi dậy khởi nghĩa. Theo thống kê trong thập niên 20 và 30 của thế kỷ XIX, đã có 10 cuộc khởi nghĩa nổ ra trên địa bàn này. Mục đích sâu xa của các cuộc khởi nghĩa là muốn tách California ra khỏi sự kiểm soát của Mexico và phát triển theo con đường riêng.

Cũng vào đầu thế kỷ XIX, người Mỹ có mối lưu tâm tới lãnh thổ California. Cụ thể là, trước khi Mexico giành độc lập, nhiều thương gia xâm nhập trái phép vào lãnh thổ này để tìm kiếm lông rái cá biển, săn bắt cá voi để buôn bán với thị trường Trung Quốc. Hoạt động này vẫn được tiếp diễn sau khi Mexico giành độc lập. Năm 1826, một thương gia Mỹ, Jedediah S. Smith, đặt chân đến vùng đất California. Theo sau ông, các thương gia buôn bán lông thú đi tiên phong trong việc khai phá những con đường mòn nối miền Đông với lãnh thổ California, xâm nhập vào đồng bằng phì nhiêu và dải đất ven
biển. Trong khi các thương gia buôn bán lông thú men theo đường bộ thì các thương gia buôn bán da và mỡ động vật có nguồn gốc từ vùng New England đến bằng đường biển. Vì phải mất từ hai đến ba năm để tích trữ hàng hóa, các
thương gia Mỹ vừa có điều kiện tìm hiểu phong tục, tập quán và thám sát bờ biển California, vừa trở thành đại diện tại các hải cảng để thu mua da sống và cất giữ mặt hàng này vào trong kho chờ thương thuyền công ty của họ vận chuyển về miền Đông. Vào thập niên 30 của thế kỷ XIX, các đại diện này trở thành những công dân Mỹ thường xuyên tại đây. Họ hòa nhập vào lối sống của người dân bản địa, như trở thành tín đồ Thiên Chúa giáo, cưới vợ Mexico, chấp nhận lối sống thực tại và đa phần trong số họ yêu thích cuộc sống ở California. Trong các bức thư, bài báo và tác phẩm văn học gửi về miền Đông, họ mô tả cuộc sống tốt đẹp, đề cao khí hậu trong lành, đất đai màu mỡ và vịnh San Francisco lộng lẫy. Trong tác phẩm nổi tiếng: “Hai năm trước khi trở thành thủy thủ” (Two Years before the Mast) xuất bản năm 1840,  Richard Henry Dana, ví California là “thiên đường của những con người khẩn hoang”  [83, tr. 176]. Mặt khác, họ còn nói rõ tình trạng quản lý kém hiệu quả, sự phòng thủ quân sự yếu kém của Chính phủ Mexico. Những tin tức này lan truyền về miền Đông trong bối cảnh cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1837 diễn ra khiến nhiều người mất việc làm. Điều này kích thích người dân rời bỏ miền Đông tiến về miền Tây, trong đó có California. Tình hình này tạo ra “cơn sốt California”. Theo dòng thời gian, số lượng người Mỹ đến định cư ngày càng nhiều. 

Trước tình hình đó, chính giới Mỹ bắt đầu có những động thái ngoại giao nhằm giành lấy California. Năm 1835, Tổng thống A. Jackson, cử Công sứ A. Butler, thương lượng với chính phủ Mexico. Theo đó, nước Mỹ đề nghị mua lãnh thổ phía Bắc California và vịnh San Francisco với giá 500.000 $ [83, tr. 177]. Năm 1837, với vai trò trung gian hòa giải cuộc xung đột giữa Mexico và Texas, A. Jackson đưa ra đề nghị mua lãnh thổ phía Bắc California, tính từ vĩ tuyến 380 Bắc trở đi, với giá 3.500.000 $ [83, tr. 177]. Những đề nghị đó lần lượt bị Chính phủ Mexico khước từ.

Như đã nói ở trên, cho đến cuối thập niên 30, đầu thập niên 40 của thế kỷ XIX, nhu cầu về một hải cảng ở Thái Bình Dương được đặt ra đối với nước Mỹ hết sức bức bách. Năm 1841, người kế nhiệm A. Jackson, Tổng thống Martin Van Buren cử trung úy hải quân Charles Wilkes thám sát những lãnh thổ giáp với Thái Bình Dương, trong đó có California. Trong bản báo cáo gửi lên chính quyền đương nhiệm, C. Wilkes bày tỏ sự ấn tượng với vịnh San Fancisco khi cho rằng, đó là “một trong những hải cảng tốt nhất mà không nơi nào trên thế giới sánh bằng” [111, tr. 241], đồng thời ông nhận thấy “khoảng trống quyền lực ở California” [129, tr. 509]. Tiếp đến, tháng 3-1844, Nhà Trắng cử Thomas Larkin, vốn là thương gia vùng New England đã sinh sống lâu năm tại đây, làm đại diện lãnh sự của Mỹ ở California.

Những hoạt động của Mỹ làm gia tăng sự lo lắng đối với nước Anh. Năm 1839, trong bài báo công bố tại Anh với nhan đề California, Alexander Forbes, nhấn mạnh nguy cơ “làn sóng cư dân Bắc Mỹ đang tràn ngập lãnh thổ California” [129, tr. 508]. Để phá vỡ tình trạng đó, A. Forbes đề nghị Chính phủ Mexico thanh toán món nợ 50.000.000 $ mà quốc gia này vay mượn từ các nhà tài chính London trước đó bằng cách chuyển nhượng vùng lãnh thổ này cho nước Anh [129, tr. 508]. Ý tưởng này cũng nhận được sự hậu thuẫn của Thomas Simpson, người đứng đầu Công ty Hudson Bay. Một thời gian ngắn sau đó, Richard Pakenham, Công sứ Anh tại Washington, thúc đẩy chính giới London gia tăng sức mạnh hải quân ở Thái Bình Dương. 

Mặc dù trên thực tế nước Anh không có động thái hiện diện quân sự tại bờ biển Thái Bình Dương song tin đồn về nước Anh có tham vọng đối với California lan truyền khắp nước Mỹ, nhất là khi cuộc vận động ngoại giao quốc tế của chính giới London nhằm ngăn cản Texas sáp nhập vào Mỹ đứng trước nguy cơ phá sản vào cuối năm 1844. Bằng chứng là trong mùa hè và mùa thu năm 1845, Nhà Trắng liên tục nhận được công hàm từ đại diện lãnh sự Mỹ ở Liverpool nói rằng: “Nước Anh chưa bao giờ có ý định từ bỏ California” [83, tr. 182]; hoặc nước Anh sẽ công nhận nền độc lập của California trong trường hợp nó đồng ý không bao giờ sáp nhập vào lãnh thổ nước Mỹ. Ngoại trưởng Anh, Aberdeen cũng ra tuyên bố: “Nước Anh sẽ không hài lòng bởi chế độ bảo hộ của bất cứ cường quốc nào đối với California” [111, tr. 242].

Tình hình trên gây nên mối lo lắng đối với dư luận nước Mỹ. Tờ Người đưa tin New York (New York Courier) cho rằng: “Việc nước Anh có tham vọng sở hữu California dường như là mối bận tâm lớn nhất đối với cư dân Mỹ tương tự như mưu đồ của Nga đối với Ấn Độ” [64, tr. 253]. “Mối bận tâm” không chỉ thể hiện trong dư luận mà còn đối với chính giới Mỹ. Trong công hàm gửi T. Larkin, ngoại trưởng J. Buchanan viết: “Vận mệnh tương lai của vùng lãnh thổ này là vấn đề lo lắng đối với chính phủ và cư dân Mỹ. Do đó, Tổng thống không thể chứng kiến với thái độ thờ ơ trước việc chuyển nhượng California cho nước Anh hoặc bất cứ cường quốc châu Âu nào” [83, tr. 182]. 

Ngày 17-10-1845, Tổng thống J.K. Polk một mặt gửi công hàm chỉ thị T. Larkin tiến hành những hoạt động chống lại ảnh hưởng ngoại quốc mà cụ thể là nước Anh, kích động phong trào đấu tranh đòi ly khai của cư dân California và khuyến khích sáp nhập lãnh thổ này vào Mỹ; mặt khác cử John Slidell đến thủ đô Mexico tiến hành thương lượng hòa bình với Chính phủ sở tại về tương lai lãnh thổ California. Theo đó, nước Mỹ sẽ trả 25.000.000 $ nếu Mexico  California và New Mexico hoặc 5.000.000 $ cho phần phía Bắc lãnh thổ California, tính từ Monterey [111, tr. 245]. Ngoài ra, J.K. Polk còn điều động các chiếm hạm tới Thái Bình Dương với nhiệm vụ chiếm lấy hải cảng San Francisco một khi chiến tranh xảy ra. Tiếp đến, trong thông điệp Liên bang hàng năm đọc trước Quốc hội ngày 2-12-1845 (như đã trình bày ở mục 2.3.2), J.K.Polk đưa ra hệ luận Polk (Polk Collorary) dựa trên tuyên ngôn mà Tổng thống J. Monroe công bố gần một phần tư thế kỷ trước đó, cảnh báo các cường quốc châu Âu mà trước hết là Anh, rằng California không phải là đối tượng cho việc thực dân hóa của nước Anh, việc California tình nguyện gia nhập vào Liên bang là công việc riêng của cư dân ở đây mà không một cường quốc nào có thể can thiệp. Điều quan trọng trên hết, hệ luận Polk cho rằng, nước Mỹ sẽ không cho phép châu Âu can thiệp quá trình sáp nhập California vào nước Mỹ theo con đường hòa bình.

Trong khi đó, phái đoàn J. Slidell đến thủ đô Mexico trong bối cảnh Quốc hội Mỹ vừa mới thông qua Nghị quyết sáp nhập Texas vào Liên bang (1-3-1845). Điều này tạo nên làn sóng công phẫn của những người yêu nước Mexico vì họ xem đó là “sự trộm cắp một trong những tỉnh của họ” [59, tr. 370]. Quan điểm của những người Mexico chống Mỹ là từ chối đàm phán và đòi tiến hành chiến tranh. Do đó, khi nắm bắt tin tức về mục đích của phái đoàn Slidell, họ yêu cầu nhân dân toàn quốc biểu tình đòi lật đổ chính quyền José Herrera, vì sợ chế độ này sẽ bán toàn bộ lãnh thổ Mexico cho Mỹ. Ngay từ đầu, nội các J. Herrera đã có xu hướng muốn đàm phán với Mỹ song trước áp lực của quần chúng đã buộc phải khước từ. Chính phủ này đã sụp đổ không lâu sau đó. Nội các mới do Mariano Parecedes đứng đầu, vừa công kích chính phủ tiền nhiệm vì “đã cố tránh một cuộc chiến tranh vinh quang và cần thiết”, vừa từ chối đàm phán với phái đoàn Slidell. Tháng 4-1846, Slidell bị trục xuất khỏi lãnh thổ Mexico.

Hy vọng một giải pháp đàm phán hòa bình trong vấn đề California bị phá sản khiến J.K. Polk kết luận rằng chiến tranh là điều không tránh khỏi. Nói cách khác, việc sử dụng cây ô liu không còn hiệu nghiệm nên buộc nước Mỹ phải sử dụng thanh gươm. Báo chí miền Nam nước Mỹ ủng hộ ý định của Tổng thống. Một tờ báo ở New Orleans viết: “Nước Mỹ không còn lựa chọn con đường nào khác ngoài việc đạt được mục đích bằng con đường vũ trang” [83, tr. 182].

Ngày 13-1-1846, J.K. Polk ra lệnh tướng Zachary Taylor điều chuyển quân đội đến phía Bắc Rio Grande, nơi đang diễn ra tranh chấp giữa Texas vừa mới sáp nhập với Chính phủ Mexico, nhằm bảo vệ khu vực này trong trường hợp Mexico tấn công. Đáp lại, ngày 23-4-1846, Tổng thống Mexico, M. Parecedes tuyên bố “một cuộc chiến tranh phòng vệ” với nước Mỹ. Quan hệ Mỹ – Mexcio trở nên căng thẳng.

Trên thực tế, trong Quốc hội Liên bang bị phân hóa thành hai phái trong việc quyết định có nên tiến hành cuộc chiến với Mexico hay không ? Phái thứ nhất tập hợp trong Đảng Dân chủ đại diện cho chủ nô miền Nam, do Tổng thống J.K. Polk đứng đầu chủ trương dùng vũ lực đối với Mexico. Phái thứ hai bao gồm các nghị sĩ Đảng Whig ở miền Bắc phản đối chiến tranh. Bởi, họ nhìn thấy chiến tranh như là một âm mưu mở rộng chế độ nô lệ và đảm bảo quyền thống trị của miền Nam ở Liên bang.

Đầu tháng 5-1846, khi Tổng thống J.K.Polk đang cùng nội các tranh luận về việc tuyên chiến thì xung đột hai bên về vấn đề ranh giới của lãnh thổ mới sáp nhập xảy ra: nước Mỹ tuyên bố đường ranh giới giữa Texas và Mexico là sông Rio Grande, còn Mexico tuyên bố đường ranh giới đó nằm ở phía Bắc dọc sông Nueces [6, tr. 183]. Trong cùng thời gian, những cư dân Mỹ đang tràn ngập vùng lãnh thổ New Mexico và California, tuyên bố rằng: “Hợp Chúng quốc Hoa Kỳ có sứ mạng bành trướng mở rộng về phía Tây cho tới Thái Bình Dương” [6, tr. 183].

Những nỗ lực của Mỹ để mua vùng lãnh thổ New Mexico và California thất bại, và cuộc đụng độ giữa binh lính hai bên dọc theo sông Rio Grande thúc đẩy chính phủ Mỹ tuyên chiến. Việc tuyên chiến với Mexico được giới ngoại giao Mỹ ra sức cổ động. James Buchanan, Bộ trưởng Ngoại giao cho rằng: “Thượng đế giao cho chúng ta (Mỹ – TG) sứ mạng bảo vệ và khai hóa Mexico” [28, tr.115-116].

Tâm lý chiến tranh không chỉ dừng lại trong chính trường mà còn lan rộng ra khắp nước Mỹ. Hàng loạt cuộc tuần hành, mít-tinh ủng hộ chiến tranh diễn ra tại các thành phố lớn, như New York, Baltimore, Indianapolis và Philadelphia. Hàng nghìn người xin gia nhập đội quân tình nguyện. Sắc thái cuộc chiến được giới truyền thông đẩy lên cao hơn nữa bằng việc kích động dân chúng có sự “thèm muốn” với những mảnh đất New Mexico và California tươi đẹp hoặc những suy nghĩ về việc đẩy mạnh các hoạt động thương mại tới Thái Bình Dương. Tạp chí Illinois State Register, khi bàn tới California, đã đặt ra câu hỏi: “Liệu khu vườn xinh đẹp này còn phải ngủ quên trong sự phong phú hoang dại và vô dụng trong bao lâu nữa ?… Hàng đoàn người Mỹ năng động sẽ tràn vào những đồng cỏ màu mỡ và hứa hẹn ở đó. Tiếng rền máy móc của nền công nghiệp Anh – Mỹ sẽ vang lên tại các thung lũng đó, các thành phố sẽ tăng lên đến mức không đếm xuể” [62, tr. 189].

Trong bối cảnh như vậy, ngày 11-5-1846, trong Thông điệp đọc trước Quốc hội, Tổng thống J. Polk tuyên chiến, với lý do:

“Quân đội Mexico vượt qua đường biên giới Hợp chúng quốc và xâm nhập vào lãnh thổ của chúng ta (Mỹ – TG), làm đổ máu người Mỹ trên đất người Mỹ… Vì chiến tranh đã hiển nhiên và bất chấp mọi nỗ lực của chúng ta để tránh và vì hành động của Mexico mà có chiến tranh, chúng ta vì nhiệm vụ và lòng ái quốc phải đáp trả, vì danh dự, dân quyền và quyền lợi của xứ sở chúng ta để quyết thắng…

Để bảo vệ các dân quyền và phòng thủ xứ sở chúng ta sau này, tôi kêu gọi một hành động khẩn cấp của Quốc hội, công nhận có tình trạng chiến tranh và trao cho cơ quan hành pháp sử dụng mọi biện pháp theo đuổi cuộc chiến tranh này với tất cả nghị lực hầu chóng vãn hồi hòa bình” [91, tr. 187].

Hai ngày sau thông điệp chiến tranh của J.K.Polk, Thượng viện và Hạ viện 41 chấp nhận đề nghị của tổng thống. Chiến tranh Mỹ – Mexico chính thức bùng nổ. Bình luận về sự kiện này, nghị sĩ Charles Sumner (tiểu bang Massachusetts) tuyên bố rằng: “Cuộc sống của cư dân Mexico bị hiến tế cho sự nghiệp này (ám chỉ chiến tranh – TG); và vấn đề nội bộ mà nên được dành cho cuộc tranh luận lạnh lùng trong đất nước chúng ta đã bị chuyển hóa thành trận đánh trên chiến trường ở một vùng đất ngoại quốc” [82, tr.139]. 

Chiến tranh diễn ra trên nhiều mặt trận. Quân đội Mexico mặc dù số lượng đông hơn quân Mỹ và quen thuộc địa hình nhưng trang bị vũ khí lạc hậu, chỉ huy kém cỏi nên gặp phải bất lợi. Hơn nữa, khủng hoảng nội bộ thường xuyên xảy ra, ngân khố dành cho chiến tranh cạn kiệt. Trong khi đó,quân Mỹ với vũ khí tối tân, dưới sự chỉ huy  của các tướng lĩnh tài ba nên chiếm ưu thế ngay từ đầu. Trong tình thế như vậy, lực lượng quân đội Mexico nhanh chóng suy yếu. Sau hàng loạt trận đánh, ngày 17-9-1847, quân đội Mỹ chiếm được Thủ đô Mexico City. Do bị thất bại liên tiếp, ngày 2-2-1848, đại diện chính phủ Mexico ký với đại diện chính phủ Mỹ một bản hiệp định mang tên Guadalupe Hidalgo. Nội dung của hiệp định ghi rõ:

“1. Biên giới Mỹ – Mexico được ấn định ở Rio Grande, Mexico phải từ bỏ tất cả những vùng đất mà ngày nay thuộc các bang California, Nevada, Utah, Wyoming, Colorado, Texas, New Mexico và Arizona; 2. Người Mexico sống trên các vùng đất bị chiếm được tự do lưu lại hoặc trở về Mexico bất cứ lúc nào họ muốn mà không bị mất mát gì về nhân thân hay tài sản; 3. Hoa Kỳ phải trả cho Mexico 15.000.000 $ để đổi lấy vùng đất chiếm được; 4. Phía Mỹ đồng ý giải quyết mọi khiếu nại đòi bồi thường của người Mỹ đối với Chính phủ Mexico, khoản tiền này lên tới 3.000.000 $” [7, tr. 348-349].

Như vậy, khác với quá trình sáp nhập Louisiana, Floridas và Oregon bằng con đường hoà bình, thông qua đàm phán, sự sáp nhập Texas và California vào lãnh thổ Liên bang diễn ra bằng con đường chiến tranh. Trong quá trình mở rộng lãnh thổ, đây là lần đầu tiên chính giới Mỹ sử dụng vũ lực để sáp nhập lãnh thổ. Đây là một trong những cách thức để Chính phủ Mỹ hiện thực hoá học thuyết Monroe đối với khu vực Mỹ latinh. Sự thành công của Mỹ việc sáp nhập Texas và California một mặt đã gạt bỏ ảnh hưởng của Anh ở khu vực này, một quốc gia với tham vọng tạo ra vành đai ngăn cản sự bành trướng của Mỹ; nhưng mặt khác tạo ra sự đảo lộn trong lòng nước Mỹ mà trước hết là cuộc đấu tranh giữa một bên (miền Bắc) muốn xóa bỏ chế độ nô lệ da đen với bên kia (miền Nam) muốn duy trì chế độ này đang ngày càng gay gắt.

Với Hiệp định Guadalupe Hidalgo, nước Mỹ có thêm vùng lãnh thổ mới với diện tích 1,36 triệu km2. Đánh giá về thành tựu bành trướng lãnh thổ của nước Mỹ trong nhiệm kỳ của mình, Tổng thống J. Polk viết: “Thu được California, New Mexico, giải quyết vấn đề biên giới Oregon, sáp nhập Texas, làm cho lãnh thổ của chúng ta trải dài đến sông Grande. Tổng kết tất cả các thành tựu đó lại, xét ý nghĩa quan trọng của nó đối với việc thúc đẩy sự phồn vinh giàu mạnh của đất nước, thì bất cứ thành tựu nào từ khi chế định hiến pháp ra đời đến nay đều không thể so sánh nổi” [28, tr. 115].

Kết luận

Trên cơ sở những xung lực được nảy sinh bên trong, đồng thời muốn đảm bảo an ninh đất nước trước chính sách vây hãm ở bên ngoài, giai cấp tư sản Mỹ mà đứng đầu là các tổng thống nối tiếp nhau từ năm 1787 đến năm 1861 đã bắt tay vào việc loại bỏ ảnh hưởng các cường quốc châu Âu tại các lãnh thổ phụ cận. Bằng con đường ngoại giao “thương vụ”, nước Mỹ từng bước đẩy lùi sự hiện diện của Pháp ở Louisiana và Tây Ban Nha ở Floridas. 

Bằng con đường thương lượng, chính giới Mỹ lần lượt loại bỏ ảnh hưởng của Anh tại khu vực Tây Bắc, Tây Ban Nha ở khu vực Tây Nam, đồng thời buộc giới cầm quyền London phải phân đôi lãnh thổ Oregon. Bằng con đường chiến tranh, nước Mỹ tước đoạt của Mexico, quốc gia nằm ở phía Nam Liên bang, hai vùng lãnh thổ trù phú: Texas và California, trước nguy cơ vùng đất này rơi vào vòng kiểm soát của nước Anh. Điều cần nhấn mạnh, chính giới Mỹ đã tranh thủ mọi khó khăn của đối phương, đồng thời linh hoạt và uyển chuyển trong việc vận dụng các yếu tố: chính trị, quân sự và ngoại giao để loại bỏ ảnh hưởng từng cường quốc ở mỗi vùng lãnh thổ. Sự thành công này, một mặt thỏa mãn “cơn khát” đất đai của giai cấp tư sản Mỹ; mặt khác thu hẹp dần phạm vi thế lực của các cường quốc châu Âu tại Tây bán cầu. 

Nguồn bài đăng

Trả lời

Điền thông tin vào ô dưới đây hoặc nhấn vào một biểu tượng để đăng nhập:

WordPress.com Logo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản WordPress.com Đăng xuất /  Thay đổi )

Twitter picture

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Twitter Đăng xuất /  Thay đổi )

Facebook photo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Facebook Đăng xuất /  Thay đổi )

Connecting to %s