Vương quốc của người Frank

481to814FrankEmpire

Tác giả : hongsonvh

Vào thời kỳ xuy vong của đế chế La Mã, các tỉnh của đê chế ở xứ Gaul và vùng sông Rine luôn bị tràn ngập bởi những bộ lạc người Germany, lý do có thể là do cuộc sống du canh du cư hoặc do sức ép của người Hun từ vùng Trung Á ( Người Hun bị Tần Thủy Hoàng xây Trường Thành rồi Hán Quang võ Đế đánh đuổi không tràn xuống phía Nam, nên đã tràn ngược lên phía Bắc làm một số bộ lạc người German phải di cư vào vùng của người La Mã). Có lẽ ngay từ trước khi họ bắt đầu di cư từ quê hương của họ ở miền bắc châu Âu, bản thân người German đã có ít nhiều khác biệt trong cả ngôn ngữ và tập quán. Tuy nhiên có hai nhóm chính của chủng người này đó là người German phương Tây– như người Saxon, Suevi, Frank và Alemanni – họ là những nông dân, sống trong những khu định cư lâu dài và trong các làng mạc được tạo nên bởi những túp lều nguyên thủy bằng gỗ và tự nuôi sống mình bằng canh tác nông nghiệp. Người German ở phía Đông như người Lombard, Vandals và Goth – chủ yếu sống bằng du mục cưỡi ngựa và chăn nuôi gia súc. Nhà sử gia La Mã Publius Cornelius Tacitus (55-120 AD) đã mô tả những người German là những người đàn ông cao lớn với mái tóc màu đỏ hoặc vàngvà đôi mắt xanh dữ dội và là những người thích chiến tranh, thích tiệc yến hoang dã và thiếu kiên nhẫn và là những người cực kỳ yêu tự do – họ đóng một phần quan trọng trong sự phát triển của nền văn minh phương Tây. Dù là du canh du cư hay định cư,tất cả các bộ lạc German đều coi chiến tranh là điều cần thiết để thay thế cho cuộc sống mục hay các mùa vụ nông nghiệp.

Về tôn giáo họ không có chùa chiền và nhà thờ mà thường thờ phụng và hiến tế cho các vị thần linh thiêng của họ trong các lùm cây. Các vị thần chính mà họ thờ phụng là Tiu, Wodan, Thor vàFreya, sau này trở thành tên của các ngày trong một tuần của người châu Âu, đó là thứ ba, thứ tư, thứ năm và thứ sáu. Khi họ xâm nhập vào đế chế La Mã, người Germany đã chuyển đổi theo Thiên chúa giáo. Có rất ít các thông tin nói về các quy mô của sự chuyển đổi tôn giáohoặc những lý do cho sự thành công nhanh chóng của họ,nhưng dần dần từ những tôn giáo man rợ ngoại giáo họ đã chuyển sang đức tin Thiên chúa giáo – hoặc theo trường phái Rome chính thống hoặc theo các biến thể của Ki tô tà giáo ( Christianity Arianism) mà coi Chúa Kitô là không thực sự thiêng liêng và điều này đã khuấy động những can qua lớn trong Giáo Hội. ( trích từ dịch từ quấn Medieval Armies and Weapons in Western Europe trang 14)

Như vậy theo quấn sách này thì những tộc người Saxon, Suevi, Frank, Lombard, Vandals và Goth … đều xuất phát từ các bộ tộc người German ở Bắc Âu tràn xuống rồi lại bị người Hun đẩy về phía Tây. Có vẻ như là người Vandal là những người đầu tiên trong chủng tộc German ùa vào biên giới của đế chế La Mã ( ở cả phía Đông và phía Tây) nhưng vì Đông đế chế còn quá mạnh nên họ phải dạt về phía tây, tiếp đó là người Visigoth và Ostrogoth. Ban đầu những bộ tộc này ở nhờ đất của Rome, đi lính là làm phên dậu cho triều đình Rome nhưng khi thấy triều đình Rome quá nhu nhược thì họ cũng tiếm quyền luôn, không những vậy các tộc người này còn luôn đánh lẫn nhau để tranh giành ảnh hưởng. Người Vandal bị người Visigoth đánh bại và xua sang tận Bắc phi, người Ostrogoth dưới sự lãnh đạo của Theodoric cũng ra sức khuynh đảo Rome. Vào những năm 30 của thế kỷ thứ 6 SCN Hoàng Đế Justinian của Đế chế Đông La Mã cử danh tướng Belisarius mang quân về phía Tây đánh bại các rợ Vandal, Visigoth và Ostrogoth rồi thu hồi lại cương thổ của đế chế. Nhưng sau khi Hoàng Đế Justinian qua đời thì bởi nhiều lý do biên giới của Đế chế dần bị thu hẹp lại như ban đầu.

Vào lúc này bố trí của các bộ tộc thuộc chủng người German ở phía Tây Âu là như sau. Phía xứ Gaul – thuộc quyền kiểm soát của Đế chế la mã – cho tới phía tây của sông Rhine là các tộc người Visigoth, Frank, Burgundy… những tộc người ít nhiều bị ảnh hưởng của nền văn minh La Mã. Ở phía Đông sông Rhine (nơi mà bàn tay của Đế chế không thể với tới ) là tộc người Saxon, đây là tộc người vẫn còn man rợ, phải mất nhiều thế kỷ sau đó Hoàng đế Charlemagne mới thuần phục được các bộ tộc người này.

Như vậy ta có thể thấy rằng những người Frank là thuộc chủng tộc German, Người Frank ban đầu là những nhóm bộ lạc lỏng lẻo thuộc chủng tộc German chiếm giữ các vùng đất của phía Bắcsông Rhine kéo dài từ vùng Mayence đến biển Bắc.Họ luôn luôn thành công trong việc chống lại các đợt tiến công của người La Mã trong thế kỷ thứ 2 và 3 và cuối cùng đã bắt đầu những cuộc di cư dữ dội xuống phía Nam mà cuối cùng đã tạo thành những quốc gia Hà Lan, Bỉ và miền bắc nước Đức sau này. Nhiều người trong số họ đã tự nguyện ra nhập đội ngũ quân đội La Mã như các lực lượng đồng minh và tạo thành một bức tường thành giữa xứ Gaul và đám ngườiman rợ hung dữ cuối cùng đổ xuống từ phía Bắc. Vào những thời khắc cuối cùng của Đế chế Tây La Mã, họ đã xâm chiếm Gaul. Họ không thực sự cần phải di chuyển (vì lúc này họ đã định cư tại xứ này từ lâu), thay vào đó họ chỉ mở rộng lãnh thổ của mình và họ cũng không bao giờ bị mất liên lạc với quê hương của họ ở bên ngoài sông Rhine. Trong số những vương quốc của người thuộc chủng German được thành lập trên tàn tích của đế quốc Tây La Mã chỉ có vương quốc Frank là duy nhất tồn tại được. Nó cũng là nguồn gốc của hai quốc gia quan trọng nhất châu Âu: Pháp và Đức. Cái tên Frank đến từ từ “ thẳng thắn“ ( Có thể còn có nghĩa là “dũng cảm” ) mặc dù đặc điểm của người Frank thủa ban đầu thực sự rất khác xa so với người dân Pháp hiện đại.Vào ngày nay nước Đức vẫn có một tỉnh có tên là Franconia, và một thành phố trực thuộc được gọi là Frankfurt ( pháo đài của người Frank).

Clovis I của triều đại Merovingian

Clovis (C. 466-511) là Vua đầu tiên của người Frank người đã thống nhất tất cả các Bộ tộc Frank theo sự cai trị của ông. Ông cũng là vị vua người Công giáo chính thống đầu tiên cai trị xứ Gaul (Pháp). Ông là con trai của Childeric I và Basina. Năm 481, khi ông mười lăm tuổi, ông kế vị cha mình.Bộ tộc Salian Frank là một trong hai bộ tộc Frank chiếm đóng khu vực phía Tây của vùng hạ Rhine, Trung tâm của họ ở một khu vực được gọi là Toxandria, vùng ở giữa Meuse và Scheldt (Nay là Hà Lan và Bỉ). Căn cứ của Clovis ở phía tây nam của vùng này, xung quanh Tournai và Cambrai dọc theo biên giới hiện đại giữa Pháp và Bỉ. Clovis đã chinh phục các vương quốc Salian Frank láng giềng và tự lập làm vua duy nhất của của người Frank Salian trước khi chết. Ngôi nhà thờ nhỏ nơi mà ông được rửa tội bây giờ có tên là Saint-Remi, và một bức tượng ông được rửa tội bởi Saint Remigius có thể còn ở đó. Clovis và vợ là Clotilde được chôn trong Nhà thờ St Genevieve (St Pierre) ở Paris. Một phần quan trọng trong di sản của Clovis là ông đã làm xuy giảm sức mạnh của người La Mã khi đánh bại lực lượng họ ( dưới sự chỉ huy của Syagrius) trong trận đánh nổi tiếng – trận Soisson.

Clovis chuyển đổi sang Công giáo La Mã, đây là điều khác với với những thủ lĩnh người Goth khác thường theo Công giáo Arian (một nhánh Công giáo nhưng bị coi là theo tà thuyết) đang cai trị xứ Gaul lúc đó, là do sự xúi giục của vợ ông – Clotilde – một công chúa người Goth – Burgundi theo Công giáo. Ông được rửa tội tại một nhà thờ nhỏ ở trong hoặc gần vị trí của Nhà thờ chính xứ Rheims, nơi mà hầu hết vua Pháp trong tương lai sẽ đăng quang. Hành động này có tầm quan trọng rất to lớn trong lịch sử của phương Tây và Trung Âu nói chung về sau đó, và cũng tạo điều kiện cho Clovis mở rộng lãnh địa của ông ra gần như tất cả những tỉnh của La Mã thuộc vùng Gaul cổ xưa (tương đương với nước Pháp hiện đại). Ông được coi là người sáng lập Triều đại Merovingian, triều đại cai trị vương quốc Frank trong hai thế kỷ tiếp theo.

Thống nhất các bộ tộc Frank

Năm 486, với sự giúp đỡ của Ragnachar, Clovis đánh bại Syagrius, toàn quyền cuối cùng của Đế quốc La Mã ở phía bắc xứ Gaul, người đang cai trị khu vực xung quanh Soissons – ngày nay là vùng Picardie. Chiến thắng tại Soissons đã mở rộng cương thổ của người Frank đến hầu hết các khu vực phía bắc của Loire. Sau này, Clovis tiến hành một liên minh với người Ostrogoth (Đông Goth) qua hôn nhân bằng việc gả chị gái của mình – Audofleda cho nhà vua của họ, Theodoric the Great. Vào năm 491 ông lại tiếp tục thu được thắng lợi trước những nhóm nhỏ người Thuringian ở phía đông của vùng lãnh thổ của người Frank. Sau đó, với sự giúp đỡ của các vua Frank chư hầu khác ông suýt đánh bại người Alamanni (cũng là một tộc trong chủng người German) trong Trận Tolbiac.

Vua Công Giáo

Clovis trước đó đã cưới một công chúa Burgundy theo Công giáo tên là Clotilde (493) và theo Gregory of Tours, dường như là kết quả của chiến thắng của ông tại Tolbiac (truyền thống được đặt ra từ năm 496), ông đã theo đức tin của vợ. Ông chuyển đổi sang thờ chính thống Kitô Chúa Ba Ngôi khác với những vị vua người Đức khác cùng thời với ông, chẳng hạn như những vua người Visigoth (Tây Goth) và người Vandal, những người này chuyển từ dị giáo sang Kitô giáo Arian (bị Kitô giáo chính thống cho là tà đạo). Nó ( Thiên Chúa giáo Ba Ngôi) cũng đảm bảo cho ông được sự ủng hộ của các tầng lớp quý tộc Công giáo Gallo-Roman trong những chiến dịch sau này của ông nhằm vào những người Visigoth, để đẩy họ ra khỏi miền nam xứ Gaul năm 507 (việc ông xâm lược các vương quốc khác của Visigoth cũng tương đương với việc ông thành trừng dị giáo -> được sự ủng hộ của nhà thờ -> ông liên tục thắng trận).

Clovis được rửa tội tại Rheim vào Giáng sinh 496, 498 hoặc 506 bởi Saint Remigius. Việc Clovis chuyển sang Công giáo La mã đã tăng cường mối liên kết giữa đa số dân cư theo Công giáo với bản thân ông ta. Tuy nhiên Bernard Bachrach (một nhà viết sử) đã lập luận rằng sự chuyển đổi này đã làm ông bị xa lánh bởi các vua chư hầu người Frank khác và làm suy yếu vị thế quân sự của ông trong vài năm tiếp theo
Mặc dù ông đã đánh một trận tại Dijon trong năm 500, Clovis đã không thành công trong việc chinh phục vương quốc Burgundian. Có vẻ như bằng cách nào đó ông đã có được sự hỗ trợ của Arvernian trong những năm tiếp theo, với sự giúp đỡ của họ ông đã đánh bại vương quốc Toulouse của người Visigoth trong Trận Vouillé (507) và loại bỏ hoàn toàn quyền lực của người Visigoth ở Gaul và đẩy họ đến Hispania và Septimania (sau đó vương quốc của người Visigoth đã bị người Moor tiêu diệt ); Các trận chiến tiếp theo mang thêm phần lớn vùng Aquitaine vào vương quốc của Clovis. Sau đó ông lập Paris làm thủ đô của mình và thành lập một tu viện dành riêng cho các Thánh Peter và Paul ở bờ phía nam của sông Seine. Sau đó nó được đổi tên thành Sainte-Geneviève Abbey để vinh danh vị thánh bảo trợ của Paris.
Theo Gregory of Tours ( nhà viết sử đương thời), sau Trận Vouillé, Hoàng đế Byzantine Anastasius I, đã ban cho Clovis danh hiệu consul. Từ tên củaClovis không còn xuất hiện trong consular lists, có thể ông đã được ban cho chức suffect consulship.

Các chiến dịch của Clovis

Gregory of Tours ghi lại hàng loạt các chiến dịch của Clovis sau chiến thắng của ông tại Vouillé để loại bỏ các vua Frank khác bao gồm Sigobert the Lame và con trai Chlodoric – Chararic, một vị vua của Salian Frankb – Ragnachar vùng Cambrai (người giúp Clovis đánh bại Toàn quyền La Mã ở Gaul – Syagrius), anh trai của ông này Ricchar và một người anh nữa của họ – Rignomer vùng Le Mans.

Đôi nét về quân đội của người Frank ở thời của triều đại Merovingian

Lĩnh vực quân sự ở thời nàycó một thay đổi rất lớn so với thời trước đó (thời La Mã), đó là sự mai một đi của các chiến thuật quân sự tinh tế của người Hy Lạp và La Mã và không có bất kỳ một sự cải tiến đáng kể nào về kỹ thuật quân sự. Quân đội của nhà Merovingian bao gồm tất cả những nam giới người Frank, những người phải tự lo lấy vũ khí và trang thiết bị cho mình.

Các binh sỹ người Frank thường không được huấn luyện, vũ khí của họ theo nhưđược tìm hiểu thì khá là đơn giản nhưng nhiều khi cũng rất dị dạng tuy nhiên cũng khá là tốn kém (so với thời đó). Vũ khí của họ thường tương tự như của những bộ tộc người man rợ khác. Những người giàu nhất trong số họ được trang bịmột chiếc mũ chiến bằng sắt, một tấm giáp che ngực, nhưng nói chung là đa số họ không có áo giáp – ngoại trừnhững đồ binh giáp cướp đượctừ các binh sĩ La Mã – hoặc họ cảm thấy khinh bỉ việc mặc áo giáp và cho đó là biểu hiện của sự hèn nhát. Phần chính của cơ thể của họ thường được bảo vệ bởi một lá chắn bằng gỗ tròn hoặc hình bầu dục trong như trong thời man rợ. Trong chiếc lá chắn thường có một chiếc núm nhô ra phía trước. Chiếc núm của chiếc khiên có dạng một chiếc chảo tròn và sâuđược làm bằng sắt và được cố định vào mặt trước của tấm lá chắn, hình dạng của nó giống như một chiếc mũ sắt

Tuy nhiên, người Frank cũng rất sớm có các loại vũ khí tấn công riêng biệt của mình. Đầu tiên trong số này là một chiếc rìu ( búa ) trận mà họ gọi là francisqua.Chiếc búa trận này có thể đượcđược sử dụng trong trong cận chiến nhưng cũng có thể được ném ởtầm hiệu lực khá lớn và rất hiệu quả trong việc tàn sát đối phương – một cú ném búa có thể làm bẹp một tấm lá chắn và dễ dàng giết chết một chiến binh. Do đó, người Anh Điêng – thổ dân da đỏ ở BắcMỹ đã vô tình bắt chước người Frankkhi họphóng chiếc tomahawk (chiếc búa trận – theo tiếng của người da đỏ )với sự khéo léo và chính xác một cách chết người của mình vàokẻ thù của mình. Chiếc francisqua có rất nhiều biến thể về hình dạng. Một số có một cái lưỡi dài và hẹp, hơi cong ở mặt bên ngoài của nó và sâu rỗng ở bên trong.Một số loại khác lại cócái đục trên nửa phần bên kia của chiếc búa trông rất giống với lưỡi dao của người thợ mộc.Loại khác thì lại hơi rỗng, nhỏ và dài,tỷ lệ với kích thước của chúng; loại khác nữa có một cái lưỡi rộng và một chiếc cán ngắn.Câu hỏi là liệu loại bipennis – búa đôiđầu rìu – có tạo ra lợi thế lớncho người Frank,mặc dù nó đã được quy cho là như vậy.Những binh sỹ người Frank ở thời đầu cũng đã chiến đấu với một ngọn thương được gọi là framea. Đây là một vũ khíchủ yếu là vũ khí của những người mounted, và về cơ bản nó khôngbất kỳ điểm khác biệt nào so với các ngọn thương được dùng bởi các kỵ sỹvào lúc đó. Nó được làm từ một thanh gỗ và một đầu nhọn bằng kim loại được cắm vào đầu của thanh gỗ này. Đầu kim loại có rất nhiều hình dạng: hình tam giác, kéo dài,thép gai, lá hoặc hình thoi.

Người Frank cũng có nhiều ngọn lao hạng nhẹ để phóng đi.Một trong những mũi lao có độ nguy hiểm rất cao được gọi là angon.Hoàn toàn tương tự như loại laopilum của người Roman, đó là một loại lao móc– dài khoảng sáu ft. Nó có một cái cổ dài và mảnh mai làm bằng sắt được gắn trên một cây gỗ. Gần phầnmũi nhọn, nó có hai ngạnh sắt hoặc lưỡi dao cong nhỏ ở mỗi bên. Angon là một vũ khí chết người và gây ra những vết thương khủng khiếp;khi cắm được nó vàotrong phần thịt mềm của kẻ thù thì nó chỉ có thể được lấy ra với rất nhiều khó khăn, đau đớn và nguy hiểm. Đối phương có thể ngăn chặn các cú đánh bằng chiếclá chắn của mình, nhưng nếu chiếc angon vẫn bị cắm vào chiếc lá chắn của mình, các lao móc kéotrên mặt đất, gây lúng túng và làm suy yếu và tước đi khả năng phòng thủ của đối phương. Người Frank thời ban đầu cũng dùng một con dao lớn (Trung quốc gọi là khoái đao) có một lưỡi sắc dài hai mươi inch đượcgọi là scramasax. Họ cũng còn có một loại kiếm lớn hơn – khoảng ba mươi hoặc ba mươi hai inches-một loại vũ khí được đặc quyền dành cho những người chỉ huy, những người có một vị trí chính thứcvà là những quân nhân thiện chiến. Chiếc scramasax có dạng,rộng, thẳng, đao hai lưỡi nhọn sắc tại mũi.Nó có rất ngắn qua thanh, kẹp thẳng, và một nhỏ,đập túi bụi hơi sưng. cán kiếm có thể được trang trí bằngkhảm làm việc trong đồng, và vũ khí được giữ trong một kim loại,gỗ, hoặc cầm vỏ kiếm da. Các chiến binh Frank đời đầu chiến đấuchủ yếu như là những lính bộ binh và chỉ có những viên chỉ huy và những người giàu nhất trong số các chiến binh và các vệ sĩ của họ mới được vung vinh trên lưng ngựa.

Quân đội của nhà Merovingian được điều khiển theo các tậpquán của chủng người German. Nó không hẳn là một quân đội mà nó thực sự là một băng nhóm củanhững chiến binh vô tổ chức, có số lượng chắc chắn không quá đông, kém kỷ luật,có sức chiến đấu không quá cao và những người này sẽ chiến đấu theo mệnhlệnh của vua. Trong nửa sau củathế kỷ thứ 7việc điều hành binh sỹ thường được giao cho các chỉ huy cấp cao, những người được gọi là graven (bá tước) và herzogen (công tước). Tình trạng của các chiến binh dường như đã thay đổi một cách trực tiếp do mức độ ảnh hưởng của La Mã trên lãnh thổ của họ.Trường hợp các truyền thống La Mã đã được gần như lòai người sỉ nhục, cácchiến binh đã nắm giữ một vị trí danh dự và nhanh chóng trở thànhtầng lớp quý tộc. Nơi mà văn hóa La Mã đã để lại một điểm không thể xóa nhòa là các chiến binh ban đầu ở cấp thấp đã nhận được không nhiều ngoài thực phẩm và quần áo từlãnh chúa của họ. Tuynhiên tình trạng của các chiến binh Frank được cải thiện dần trong các thế kỷ thứ 7 và thứ 8. Cải thiện này một phần là do sự cực kỳđơn giảncủachính phủ của người German. Không cósự phân biệt giữa phục vụ công chúng và cho tư nhân. Những người giữ ngựa của các chỉ huycũng như những người giữ ngựa cho những thành viên của một nhóm mà nhà vua nhận sự cố vấn của họ hàng ngày. Người giữ vũ khí được hưởng lợi ích từ vị trí của mình như là một thành viên trong gia tộc. Quân đội không được huy động thường xuyên mà được huy động theo nhu cầu cho một chiến dịch nào đó.

Vương quốc được tạo lậpbởi lòng trung thành của cá nhân các chiến binh quý tộc với nhà vua của họ và khả năngcủa các nhà quý tộc trong việc chỉ huy và điều hành những người trung thành của họ. Không có ý tưởng về lòng trung thành với quốc gia, với Roman res publica (công chúng La Mã ) duy trì các phúc lợicông. Các nhà vua Merovingian và sau đó là Carolingian về cơ bản vẫn là các nhà lãnh đạo chiến tranh. Nhà vua và các sỹ quan của ông ta thực sự là một nhóm bạn bè cá nhân những người bị ràng buộc với nhau bằng lòng trung thành, một phiên bản comitatus cũ của chủng ngườiGerman. Khi quá yếu hoặc không được lòng dânvị vua sẽ không thể giữ đươc lòng trung thành, các bá tước có xu hướngtrở nên nổi loạn hay độc lập. Biên giới phía nam của vương quốc Merovingiansbị đe dọa bởi một kẻ thù khủng khiếp, những kẻ chinh phục người Hồi giáoxuất hiện vào thế kỷ thứ 8.

Tranh vẽ thời phục hưng tả cảnh Clovis dạy cháu trai mình phóng búa trận – một trong những kỹ năng chiến đấu của người Frank –

Những năm sau đó và cái chết của Clovis

Ngay trước khi chết, Clovis yêu cầu hội đồng giám mục xứ Gaul phải tiến hành hội họp ở Orléans để cải cách giáo hội và tạo ra một liên kết mạnh mẽ giữa Hoàng gia và các giám mục Công giáo. Đây là Hội đồng Công giáo Đầu tiên của Orléans ( the First Council of Orléans). Ba mươi ba vị giám mục đã ủng hộ và thông qua ba mươi mốt điều luật về nhiệm vụ và nghĩa vụ của các cá nhân, quyền hạn của nơi tôn nghiêm và kỷ luật của Giáo Hội. Các điều luật được áp dụng một cách bình đẳng đối với người Frank và người La Mã, sự bình đẳng lần đầu tiên được thiết lập giữa kẻ chiến thắng và người bị chinh phục. ( Đây là điều hơn hẳn của nhà nước sơ khai của người Frank so với nhà nước La Mã trước đó – khi họ coi chỉ có người tự do mới có quyền công dân còn người nô lệ chỉ là các công cụ biết nói ).

Theo truyền thống Clovis I được cho là đã chết vào ngày 27 tháng 11 năm 511, tuy nhiên những tài liệu từ Liber Pontificalis cho thấy rằng ông vẫn còn sống trong năm 513. Sau khi chết, xác của ông được bảo quản tại Nhà thờ Saint Denis gần Paris.

Sau khi ông chết quyền quản lý vương quốc của Clovis được phân chia cho bốn người con trai của ông: Theuderic, Chlodomer, Childebert, và Clotaire. Sự phân vùng này tạo ra các đơn vị chính trị mới của của vương quốc là Rheims, Orléans, Paris và Soissons và cuối cùng đã tạo ra sự chia rẽ và thành bốn vương quốc của người Frank: Aquitaine, Neustria, Burgundy và Austrasia cho đến khi kết thúc triều đại Merovingian (năm 751).


Bản đồ vương quốc của người Frank sau cái chết của vua Clovis

Di sản của Clovis

Clovis được nhớ tới bởi đã tạo ra ba thành tựu chính:

  1. Thống nhất các bộ tộc Frank trong vùng lãnh thổ của mình,
  2. Cuộc chinh phục của ông tại xứ Gaul và
  3. Chuyển đổi của ông sang niềm tin Kitô giáo.

Bằng hành động đầu tiên, ông đảm bảo cho cuộc sống của người dân của mình ở trong biên giới xứ Gaul, một điều mà không một vị vua chư hầu nào có thể thực hiện được. Bằng hành động thứ hai, ông đặt nền móng cho một nhà nước – quốc gia sau đó: nước Pháp. Cuối cùng, với hành động thứ ba, ông tự làm cho mình chở thành đồng minh của giáo hoàng và chở thành người bảo vệ của người dân, những người chủ yếu là theo Công giáo.

Tể tướng Charles Martel – người bảo vệ các vương quốc Frank trước nạn hồng thủy Hồi giáo và người sáng lập ra một vương triều mới của người Frank – vương triều Carolingian

Charles Martel có biệt hiệu là Charles the Hammer (cái búa ), là một nhà lãnh đạo quân sự và chính trị của vương quốc Frank, người giữ chức quan tể tướng ( Mayor of the Palace dịch sát nghĩa là – Điện tiền Chỉ huy xứ – nhưng thực chất là chức quan to nhất trong cung vua -> tạm dịch là Tể tướng) dưới thời vua Merovingian, ông là người cai trị trên thực tế trong khoảng năm 737 đến cuối cuộc đời ông, với các tước hiệu Công tước và Hoàng tử của vương quốc Frank. Năm 739, ông được đề nghị ban cho danh hiệu Consul từ Đức Giáo Hoàng nhưng ông đã từ chối. Ông được nhớ tới như là người chiến thắng trong Trận Tour năm 732, tại trận này ông đã đánh bại một cuộc xâm l.ư.ợ.c của người Hồi giáo (từ phía Tây Ban Nha sang) và chặn đứng việc mở rộng về phía bắc của Hồi giáo ở phía Tây Âu.

Là một vị tướng cực kỳ thông minh ông chỉ bị thua có một trận chiến trong sự nghiệp của mình ( Trận Cologne). Ông là một trong những nhân vật tiêu biểu của thời Trung cổ, và là người thực sự khuếch trương chế độ phong kiến và đặt nền móng cho Đế chế Carolingian. Ông cũng là ông nội của Hoàng Đế Charlemagne.

Sinh ra và lớn lên

Martel được sinh ra ở Heristal (ngày nay là nước Bỉ), là con trai ngoài giá thú của Tể tướng, công tước Pépin II và bà vợ lẽ của ông – Alpaida. Câu chuyện sau đây kể về Charles và nguồn gốc cái tên của ông ta: năm 676, Pépin và vợ là bà Plectrude đang nói chuyện riêng với nhau thì họ bị chen ngang bởi một sứ giả người đưa tin rằng người tình của Tể tướng – bà Alpaida – đã sinh được một cậu con trai ở Herstal. Nhận được tin này và sợ nó sẽ kích động sự phẫn nộ của Plectrude, ông ta quyết định không công bố trực tiếp thông tin này mà thay vào đó ông nói: ” Nhà vua muôn năm, nó là một carl “. (Carl – cậu con trai) nhưng sau đó Pépin thấy vẻ thận trọng của bà vợ liền chối bỏ luôn tin nhắn này và nói như sau: ” carl, có phải không? Hãy gọi nó như vậy ” và theo truyền thuyết này thì đứa trẻ được đặt tên là” Carl “. Ở các nước nói tiếng Gemarny ông (cậu bé con) được biết đến như Karl Martell. Bà Alpaida sau này cũng sinh cho Pépin một người con khác – Childebrand ( câu chuyện này cũng hơi giống chuyện Tào Tháo khi bé bị gọi là Tào A man hé hé)

Tranh giành quyền lực

Các vương quốc của người Frank tại thời điểm cái chết của Tể tướng Pépin của Heristal. Lưu ý rằng vùng Aquitaine (màu vàng) nằm bên ngoài quyền lực của Arnulfing và Neustria cùng với Burgundy (màu hồng) thống nhất để chống lại Arnulfing như là một cơ quan quyền lực cao nhất. Chỉ có Austrasia (màu xanh) là ủng hộ chế độ Tể tướng Arnulfing, Tể tướng đầu tiên là Theudoald sau đó là Charles. Lưu ý rằng các công quốc của người Đức ở phía đông sông Rhine trên thực tế là ở ngoài quyền kiểm soát của vương quốc Frank vào lúc này.

Tháng 714, Pépin của Heristal chết. Trước khi chết, ông đã, với sự thúc giục của vợ ông – Plectrude, chỉ định Theudoald, cháu trai được sinh ra bởi con trai của họ – Grimoald, làm người thừa kế mọi quyền lực của mình. Điều này đã ngay lập tức bị phản đối bởi các nhà quý tộc vì Theudoald mới là một đứa trẻ chỉ có tám tuổi. Để ngăn chặn tình trạng bất ổn này và sợ rằng Charles sẽ ngay lập tức sử dụng lợi thế riêng của mình, Plectrude bắt ông bỏ tù tại Cologne nơi là thủ đô của bà ta. Việc này ngăn cản một cuộc nổi dậy nhân danh ông ở Austrasia chứ không phải là ở Neustria.

Nội chiến từ năm 715-> 718

Năm 715, các quý tộc Neustrian công bố Ragenfrid làm Tể tướng ( Mayor of the Palace ) tạm thời của họ và dường như được sự ủng hộ của Dagobert III, vị vua trẻ tuổi, người trên lý thuyết có những quyền hạn về mặt pháp lý để lựa chọn một vị Tể tướng, mặc dù thời gian này triều đại Merovingian đã hầu như mất quyền hạn này.

Người Austrasians cũng không ủng hộ lâu dài một người phụ nữ và đứa con trai nhỏ của bà ta. Trước cuối năm đó Charles Martel đã trốn thoát khỏi nhà tù và đã được bầu làm Tể tướng bởi các nhà quý tộc của vương quốc đó (Charles Martel là Tể tướng của vương quốc Austrasia ). Vương quốc Neustrians đã tấn công vương quốc Austrasia và các nhà quý tộc chờ đợi một người đàn ông mạnh mẽ để lãnh đạo họ chống lại các cuộc tấn công của người anh em của họ ( Aquitaine, Neustria, Burgundy và Austrasia là bốn vương quốc tách ra từ vương quốc Frank của Clovis). Năm đó, Dagobert qua đời và người Neustrians tuyên bố Chilperic II lên làm vua mà không có sự hỗ trợ của phần còn lại của những người Frank.

Năm 717, Chilperic và Ragenfrid (Tể tướng và vua của vương quốc Neustrian) cùng nhau dẫn một đội quân tấn công vào Austrasia. Người Neustrians liên minh với một lực lượng xâm lược dưới sự chỉ huy của Radbod, vua của FRISIANS và giao chiến với Charles trong trận chiến ở gần Cologne, thành phố lúc này vẫn nằm trong sự quản lý của Plectrude. Charles có rất ít thời gian để tập hợp những người của mình hoặc để chuẩn bị chiến đấu và kết quả đây là thất bại duy nhất của cuộc đời của ông. Theo các nhà sử học Strauss và Gustave, Martel đã chiến đấu một trận tuyệt vời nhưng ông nhận ra rằng ông không thể thắng vì binh lực quá kém so với đối phương và phải rút lui. Trong thực tế, ông đã phải chạy trốn khỏi chiến trường ngay sau khi ông nhận ra rằng ông không hề có thời gian hoặc đủ người để chiến thắng, nên ông đã cho rút lui đến vùng núi của Eifel để tập hợp người người của mình và huấn luyện họ. Chilperic và Ragenfrid sau đó quay sang vây đối thủ khác của họ trong thành phố và chiếm lấy kho bạc của nó. Kết quả là Chilperic và Ragenfrid đã được công nhận làm vua và Tể tướng ở cả hai vương quốc của người Frank. Plectrude đã đầu hàng thay mặt cho Theudoald.

Thiên tài quân sự

Tuy nhiên tại thời điểm này diễn biến của các sự kiện bắt đầu có lợi cho Charles. Có được sự chuẩn bị thích hợp, ông đã chỉ huy quân đội của mình chiến thắng một trận ở gần Malmedy và thu hồi nó trở về thành một tỉnh của mình và trong trận kế tiếp – Trận Amblève, chỉ có một ít quân của đối phương thoát chết nhưng hoặc phải đầu hàng hoặc phải bỏ chạy. Một số điều đáng chú ý về trận chiến này, trong đó Charles thiết lập các chiến thuật quân sự cho phần còn lại của sự nghiệp của mình: Đầu tiên, ông ta xuất hiện ở nơi kẻ thù của mình ít nhất dự kiến, trong khi họ đạt được thắng lợi và hành quân nhà và có ít quân hơn ông ta. Ông cũng tấn công vào lúc ít được mong đợi nhất ví dụ: vào buổi trưa các khi đội quân vào thời ấy theo truyền thống thường đang nghỉ ngơi (ngủ trưa ?). Cuối cùng, ông tấn công họ theo những cách mà họ ít nhất dự kiến nhất, ví dụ như bằng cách giả vờ rút lui để thu hút đối thủ của ông vào bẫy. Chiến thuật giả vờ rút lui lúc này không được biết đến ở Tây Âu vào thời điểm đó, nó là một chiến thuật truyền thống của phương Đông nó đòi hỏi nhiều hơn nữa về tính kỷ luật của quân đội và các tính toán chính xác về mặt thời gian của các chỉ huy của họ. Charles trong trận chiến này đã bắt đầu thể hiện tài năng quân sự của mình và có thể cũng bắt đầu đánh dấu sự cai trị của ông. Kết quả là hàng loạt các chiến thắng liên tục kéo dài cho đến khi ông chết.

Mùa xuân 717, Charles trở lại vương quốc Neustria với một đội quân và khẳng định ưu thế của mình tại chiến thắng trong Trận Vincy ở gần Cambrai. Ông đuổi vua Chilperic và Tể tướng của ông ta chạy trốn đến Paris, trước khi quay trở lại để đối phó với Plectrude ở Cologne. Ông chiếm lấy thành phố của bà này và cho phân tán người ủng hộ bà ta. Tuy nhiên, ông cho phép cả hai Plectrude và Theudoald trẻ tuổi được sống và đối xử với họ với lòng nhân bất thường ở những người ở thời Dark Ages, lòng thương xót đối với một cựu cai ngục, hoặc một đối thủ tiềm năng là rất hiếm (cũng có thể là các nhà sử gia đã vì quá hâm mộ ông mà nói vậy thôi? ). Ngày sau thành công này, ông tuyên bố Clotaire IV là vua của Austrasia để đối lập với Chilperic và lật đổ Tổng-giám-mục của Rheims -Rigobert, và thay thế ông ta bằng Milo, một người ủng hộ ông suốt đời.

Củng cố quyền lực

Sau khi chinh phục toàn bộ xứ Austrasia, Ông hành quân chống lại Radbod và đẩy ông này trở lại lãnh thổ của mình, thậm chí buộc ông này phải dâng vùng đất Tây Frisia (Sau này là Hà Lan). Ông cũng đã đẩy người Saxon trở lại vùng Weser và do đó bảo đảm biên giới của vương quốc của mình đương nhiên là trên danh nghĩa của vị vua mới – Clotaire. Năm 718, Chilperic đáp lại Charles bằng cách liên minh với Odo Đại đế (hay còn gọi là Eudes) công tước xứ Aquitaine, người đã tự tách ra độc lập trong cuộc nội chiến vào năm 715, nhưng họ đã một lần nữa bị đánh bại tại trận Soissons bởi Charles. Nhà vua Chilperic chạy trốn với cùng với đồng minh của mình là công tước xứ Aquitaine về phía nam sông Loire và Ragenfrid trốn sang Angers. Ngay sau khi Clotaire IV chết, Odo đã bỏ Chilperic và đầu hàng vua Charles để được công nhận về lãnh địa công tước của mình, đồng thời cũng công nhận quyền lực của Charles trên tất cả các vùng đất của người Frank cũng như khẳng định tính chính đáng về mặt pháp luật của chức Tể tướng Hoàng gia của mình trên tất cả các vương quốc của Frank (năm 718 ).

Các cuộc chiến tranh bên ngoài địa giới xứ sở của người Frank năm 718-732

Những năm về sau hàng loạt các xung đột đã nổ ra. Giữa 718 và 723, Charles đã bảo vệ được quyền lực của mình qua một loạt các chiến thắng: ông đã giành được sự trung thành của một số giám mục và các linh mục quan trọng (bằng cách quyên góp đất và tiền bạc cho Giáo Hộ La Mã), Ông đã chinh phục các xứBavaria và Alemannia và ông cũng đã đánh bại những người ngoại đạo Saxons. ( Vì không thể tràn về phía Tây người Saxon đã tràn về phía Nam vượt biển sang nước Anh và kết quả là ra đời vương quốc của người Anglo-Saxon – việc này ta sẽ bàn sau)

Thống nhất được các vương quốc của người Frank dưới sự lãnh đạo của mình, Charles đã quyết định trừng phạt người Saxons, lúc này vẫn là những bộ tộc man rợ đã từng xâm lược vương quốc Austrasia. Do đó vào cuối năm 718, ông đã tấn công vào các xứ Weser, Lippe, và Ruhr. Ông đã đánh bại họ trong trận Teutoburg Forest. Năm 719, Charles chiếm giữ Tây Frisia mà không có bất kỳ sự kháng cự đáng kể nào từ FRISIANS, người được chọn làm đối tượng (để giết mổ) của người Frank nhưng đã chiếm quyền kiểm soát sau cái chết của Pippin. Mặc dù Charles không hề tin tưởng vào những người ngoại đạo, nhưng người cai trị của họ – Aldegisel (thủ lĩnh của người Saxon) – chấp nhận chuyển sang Thiên chúa giáo và Charles gửi Willibrord – giám mục của Utrecht, được gọi là “Tông Đồ tông đồ của FRISIANS” để chuyển người dân sang theo Thiên chúa giáo. Charles cũng đã làm nhiều việc để hỗ trợ cho Winfrid, người sau này được phong là Saint Boniface – “Tông Đồ của người Đức”


Bản đồ vương quốc của người Frank và các xứ sở lân cận, phía Đông man các xứ Alamania và Barvaria bị sát nhập vào vương quốc của người Frank trong thời của Charles Martel, phía Đông bắc là xứ sở của người Saxon (nước Đức ngày nay) sau bị người cháu của ông là Charlemagne (Charles Đại đế ) sát nhập vào vương quốc của người Frank, phía Nam giáp vương quốc của người Lombard (nước Ý ngày nay) cũng bị Charlemagne đánh bại và tặng cho Giáo hoàng La Mã, phía tây là vương quốc của người Visigoth ( Tây Ban Nha ngày nay ) bị người Hồi giáo Moor tiêu diệt.

Khi Chilperic II qua đời vào năm sau (720), Charles chỉ định người thừa kế ông là con trai của Dagobert III lên làm vua Theuderic IV của vương quốc Neustrian, người mà lúc đó vẫn còn là một trẻ vị thành niên và ở ngôi từ năm 720-> 737. Charles bây giờ chỉ định các vị vua người mà ông sẽ phục vụ, Rois fainéants (Hoàng tộc của người Frank ) chỉ còn là những con rối trong tay của ông; vào cuối triều đại của ông, họ đã quá trở nên vô dụng khiến ông phát chán mà không buồn bận tâm chỉ định một ông vua nữa. Vào lúc này Charles lại hành quân chống lại người Saxon. Sau đó người Neustrians lại nổi dậy theo Ragenfrid, người lúc này được giữ lại hạt Anjou. Họ đã dễ dàng bị đánh bại (724), nhưng Ragenfrid giao con trai của ông làm con tin để được giữ lại hạt Anjou của mình. Sự kiện này đã kết thúc các cuộc nội chiến trong triều đại Charles.

Sáu năm tiếp theo ông dành toàn bộ của mình để duy trì thế lực của người Frankish trên các vùng đất của các bộ lạc chư hầu Đức. Từ các năm 720 -> 723, Charles đã chiến đấu ở Bavaria, nơi công tước Agilolfing đang dần dần phát triển thành một tiểu vương độc lập, lúc đó ông ta đã liên minh với Liutprand của xứ Lombard. Ông bắt ép xứ Alemanni phải đi cùng phe với ông ta và Công tước Hugbert phải giao nộp quyền hành cho người Frank. Trong giữa các năm 725 -> 728, ông lại tiến vào Bavaria khi mà mối quan hệ về lãnh địa dường như trở nên căng thẳng. Trong chiến dịch đầu tiên của mình, ông đã mang về công chúa Swanachild Agilolfing, người dường như đã trở thành vợ lẽ của ông. Năm 730, ông hành quân chống lại Lantfrid, Công tước của Alemannia, người muốn trở thành một vương công độc lập và giết chết ông này trong một trận chiến. Ông ta bắt Alemanni phải quy phục trước quyền bá chủ của vương quốc Frank và không chỉ định một Lantfrid kế vị. Như vậy miền nam nước Đức một lần nữa trở thành một phần của vương quốc Franki, cũng như miền bắc nước Đức trong những năm đầu tiên của triều đại Charles.

Nhưng vào năm 731, để đảm bảo an toàn cho vương quốc của mình, Charles bắt đầu chuẩn bị chống chọi với các cơn bão sắp đến từ phía nam và phía tây.

Năm 721, Tiểu vương của xứ Córdoba đã tập hợp một đội quân mạnh mẽ từ Morocco, Yemen, và Syria để chinh phục xứ Aquitaine, công quốc lớn ở phía tây nam của xứ Gaul SVG, thuộc chủ quyền của vương quốc Frank, nhưng trong thực tế đã trở nên gần như độc lập hoàn toàn trong tay của Odo Đại đế – Công tước Aquitaine, vì các vị vua Merovingian bị mất hết quyền lực. Người Hồi giáo xâm lược bao vây thành phố Toulouse, thành phố quan trọng nhất của Aquitaine và Odo (còn gọi là Eudes, hoặc Eudo) ngay lập tức phải rời đi để tìm sự giúp đỡ. Ông trở lại sau ba tháng trước khi thành phố đầu hàng và đánh bại kẻ xâm lược người Hồi giáo vào ngày 09 tháng 6 năm 721, vào những gì mà bây giờ được gọi là Trận Toulouse. Chiến thắng quan trọng có được cơ bản là từ kết quả của một sự chuyển động theo kiểu cổ điển bao quanh bởi các lực lượng của Odo. (Sau khi ban đầu đã Odo bỏ chạy, người Hồi giáo trở nên quá tự tin và đang nhẽ phải duy trì lực lượng phòng thủ mạnh mẽ xung quanh vùng bên ngoài doanh trại của họ và liên tục tiến hành trinh sát, họ đã không làm gì) Như vậy khi Odo trở về ông ta đã có thể phát động một cuộc tấn công gần như hoàn toàn bất ngờ vào các lực lượng bao vây, phân tán họ ra tại cuộc tấn công đầu tiên và tiếp tục tàn sát các đơn vị đang nghỉ ngơi hoặc là bỏ chạy mà không có vũ khí hoặc áo giáp.

Do tình hình tại Iberia, Martel tin rằng ông cần một đội quân thường trực (virtually fulltime army) -một đội quân mà ông có thể đào tạo một cách kỹ lưỡng, như là một cốt lõi gồm những cựu binh người Frank và họ sẽ được tăng cường với các lính nghĩa vụ thông thường được tuyển mộ trong thời gian chiến tranh. (trong thời kỳ Đầu Trung Cổ, Quân đội chỉ có thể được tập trung sau khi cây lương thực đã được gieo trồng và trước thời gian thu hoạch – hé hé cũng giống các bác nhà ta tranh thủ thời gian đợi thu hoạch lên HN tham gia đội quân …) Việc đào tạo các loại bộ binh có thể chịu đựng được các đợt tấn công của kỵ binh hạng nặng của Hồi giáo, Charles cần phải sử dụng họ quanh năm, và ông cần phải trả tiền cho họ để các gia đình của họ có thể mua thực phẩm mà họ sẽ kiếm được nếu không phải tập trung trong quân đội. Để có được tiền ông cho thu giữ đất đai và tài sản của nhà thờ và sử dụng các quỹ của Giáo hội để trả lương cho binh sĩ của mình.Vẫn Charles người đã giành được sự hỗ trợ của Giáo Hội bằng cách quyên góp đất đai cho nó nay lại thu giữ một số tài sản của nó vào các năm 724 -> 732. Tất nhiên các quan chức của Giáo hội đã cực kỳ phẫn nộ, và trong một thời gian dài dường như là Charles thậm chí có thể bị tuyệt giao bởi Giáo hội vì các hành động của mình. Nhưng sau đó một cuộc xâm lược ghê ghớm đang sắp xảy ra.

Sự kiện thành Tours

Nhà sử gia Paul K. Davis có viết trong quấn 100 trận chiến quyết định “sau khi Eudes bị đánh bại, ông quay sang sông Rhine để củng cố biên giới phía đông bắc của mình – nhưng trong năm 725 người Hồi giáo đã chuyển hướng hoạt động về phía nam ở Acquitane.” Martel sau đó tập trung sự chú ý của mình vào Umayyads ( quân đội Hồi giáo) cho hầu như phần còn lại của cuộc đời mình. Thật vậy, 12 năm sau đó khi ông đã ba lần cứu xứ Gaul từ các cuộc xâm lược của Umayyad, Antonio Santosuosso ( nhà sử gia) đã lưu ý khi ông tiêu diệt một đội quân của Umayyad được gửi đến để củng cố cho các lực lượng xâm lược trong chiến dịch năm 735, “Charles Martel lại một lần nữa cứu (nước Pháp và châu Âu) ” Người ta đã lưu ý rằng Charles Martel đã có thể tiếp tục theo đuổi các cuộc chiến tranh chống lại người Saxon – nhưng ông đã quyết định để chuẩn bị cho những gì ông nghĩ là một mối nguy hiểm lớn hơn nhiều.

Một điều quan trọng cần lưu ý là tại thời điểm đó người Hồi giáo không biết về sức mạnh thực sự của người Frank, bởi vì nếu biết họ đã có thể xây dựng một đội quân thực sự thay cho một lũ man rợ điển hình đã thống trị châu Âu sau sự sụp đổ của Rome. Họ coi người Frank cũng chi như các bộ lạc German và không quá quan tâm về họ. Các nhà viết sử Ả Rập ở thời đại đó cho thấy rằng nhận thức của Ả Rập về người Franks như là một thế lực quân sự đang trỗi dậy chỉ đến sau trận Tour khi vị Caliph ( Giáo trưởng của người Hồi giáo) thể hiện cú sốc về thất bại thảm khốc mà quân đội của ông ta nhận được.

Chi tiết về trận Tours

Trận Tours (October 10, 732) còn được gọi là Trận Poitiers là một trận chiến xảy ra ở một địa điểm giữa các thành phố Poitiers và Tours, nằm ở phía bắc-trung tâm nước Pháp, gần ngôi làng Moussais-la-Bataille, khoảng 20 km (12 dặm) về phía đông bắc của Poitiers. Vị trí của trận chiến ở gần biên giới giữa vương quốc Frank và công quốc Aquitaine. Trận đọ sức giữa lực lượng kết hợp của người Frank và Burgundy dưới sự chỉ huy của tể tướng Charles Martel chống lại một đội quân Hồi giáo của Umayyad dưới sự chỉ huy của Abdul Rahman Al Ghafiqi – Tướng toàn quyền vùng al-Andalus. Người Frank đã chiến thắng, “Abdul Rahman Al Ghafiqi đã bị giết chết và sau đó Charles mở rộng quyền lực của mình ở phía nam. Các nhà viết sử thế kỷ IX đã giải thích kết quả của cuộc chiến như là một phán xử của Thiên Chúa mang lại ân huệ cho người Công giáo, Các thông tin chi tiết của trận đánh, bao gồm cả vị trí chính xác của nó và số lượng chính xác binh lính đôi bên không thể được xác định một cách chính xác từ các ghi chép còn sót lại. Một điều đáng chú ý là quân Frank thắng trận mà không hề có lực lượng kỵ binh.

Bối cảnh

Trận Tours xảy ra 23 năm sau khi Umayyad bắt đầu các cuộc chinh phục ở châu Âu mà đầu tiên là cuộc xâm lược vào Vương quốc Visigoth theo Công giáo trên Bán đảo Iberia trong năm 711. Sau đó là các cuộc viễn chinh quân sự vào vùng lãnh thổ của người Frank ở xứ Gaul, các tỉnh cũ của Đế quốc La Mã. Các chiến dịch quân sự đã làm cho Umayyad chiếm được các thành phố phía bắc của các công quốc Aquitaine và Burgundy, bao gồm một trận tấn công lớn vào thành phố Bordeaux và một nữa vào Autun. Chiến thắng của Charles được nhiều người cho là đã chặn đứng bước tiến về phía bắc của lực lượng Umayyad từ Bán đảo Iberia và có bảo vệ cho Kitô giáo ở châu Âu trong một thời gian khi mà luật lệ của Hồi giáo đã được ban bố ở các phần còn lại của các đế chế La Mã và Ba Tư trước đây.

Hầu hết các sử gia cho rằng hai đội quân đã gặp nhau ở giữa các con sông Clain và Vienne ở giã vùng Tours và Poitiers. Số lượng binh lính trong từng đội quân không biết đến một cách chính xác. Tài liệu tiếng Latinh của các nhà sử học người Ả rập – Moor năm 754 mô tả trận đánh cụ thể lớn hơn bất kỳ nguồn tài liệu Latin hoặc Ả Rập nào khác, nói rằng “người Austrasia [lực lượng Frank] có số binh lính đông hơn và được vũ trang tốt hơn do vậy đã giết được Abd ar-Rahman ” thông tin này được sự đồng tình của nhiều sử gia Ả Rập và Hồi giáo. Tuy nhiên, hầu hết tất cả các nguồn tin phương Tây đã không chấp nhận như vậy và họ ước tính người Frank có khoảng 30.000, ít hơn một nửa lực lượng Hồi giáo. Các nhà sử gia hiện đại ước tính về lực lượng có thể huy động tại chỗ và số lượng mà Martel có thể mang tới từ vương quốc của mình cùng với lực lượng được tăng cường trong quá trình chiến dịch không thể vượt quá 30.000 nghìn, còn lực lượng Hồi giáo nếu tính tổng số, kể cả các lực lượng đi cướp phá ở nơi khác đã kịp gia nhập vào lực lượng chính trước trận tours có thể lên đến 80.000 người hoặc nhiều hơn. Còn về số thương vong của đôi bên, đã có rất nhiều số liệu trái ngược nhau nhưng các nhà nghiên cứu hiện đại đưa ra một con số ước đoán tương đối hợp lý, khoảng 1.500 người chết ở bên phía người Frank và 12.000 ở phía người Hồi giáo.

Người Moor là ai?

Bước tiến của người Hồi giáo từ xứ sở Hispania

Quân đội Umayyad, dưới sự chỉ huy của Al-Malik ibn Samh al-Khawlani, Thống đốc al-Andalus (nay là xứ Aldalucia của TBN), tràn qua Septimania vào năm 719 sau khi quét sạch đối thủ của mình trên Bán đảo Iberia. Al-Samh lập thủ đô của mình vào năm 720 tại thành phố Narbonne, mà người Moor gọi là Arbūna. Với chiếc cảng quá an toàn của Narbonne, Umayyad nhanh chóng chinh phục các thành phố lớn như Alet, Béziers, Agde, Lodève, Maguelonne và Nîmes của người Visigothic mà không gặp một sự kháng cự đáng kể nào.

Các chiến dịch của Umayyad vào Aquitaine phải chịu thất bại tạm thời tại Trận Toulouse (721), Khi Công tước Odo của Aquitaine (Còn gọi là Eudes Đại Đế) đã phá vỡ cuộc bao vây vào Toulouse, bất ngờ tấn công vào Lực lượng của Al-Malik ibn Samh và giết và làm bị thương rất nhiều ngườI Hồi giáo trong đó có cả chính Tổng đốc Al- Malik ibn Samh. Thất bại này đã không chặn được các cuộc xâm lược của lực lượng Hồi giáo người Moor vào xứ Gaul cũ của Rome, họ tiếp tục chiếm đóng và đặt tổng hành dinh ở thành phố Narbonne để được thuận tiện cho việc cung cấp bằng đường biển và tấn công về phía đông trong những năm 720 khi xâm nhập vào thành phố Autun thuộc công quốc Burgundy trong năm 725.

Bị đe dọa bởi cả Umayyad ở phía nam và người Frank ở phía bắc, trong năm 730 Odo liên minh với đô đốc Berber Ả rập – Uthman ibn Naissa, được gọi là “Munuza” bởi người Frank, vị phó vương của vùng mà sau này là Catalonia. Khi đó để đánh dấu sự liên minh, Uthman đã cưới Lampade con gái của Odo và các cuộc tấn công của người Moor trên toàn rặng núi Pyrenees, biên giới phía nam của Odo đã chấm dứt. Tuy nhiên, năm tiếp theo, Uthman nổi dậy chống lại thống đốc al-Andalus – Abd-al-Rahman, người đã nhanh chóng nghiền nát cuộc nổi dậy và hướng sự chú ý của mình vài Odo. Abd-al-Rahman đã đưa một lực lượng rất lớn của các kỵ binh nặng Ả Rập và kỵ binh nhẹ Berber, cộng với bộ binh từ tất cả các tỉnh của Tiểu vương Hồi giáo, trong nỗ lực của Umayyad để làm một cuộc chinh phục châu Âu từ phía bắc của rặng núi Pyrenees. Công tước Odo (được gọi là Vua bởi một số người), thu thập quân đội của mình tại Bordeaux, nhưng đã bị đánh bại, và Bordeaux bị cướp bóc. Việc tàn sát các Kitô hữu tại Trận sông Garonne rõ ràng là khủng khiếp; Những kỵ binh của Umayyad sau đó hoàn toàn tàn phá một phần của xứ Gaul, các nhà viết sử riêng của họ nói với các Giáo hữu đạo Hồi rằng ” binh lính đã vượt qua các ngọn núi, dẫm lên trên mặt đất gồ ghề và mức độ, cướp bóc vào đất nước của người Frank và phá hủy tất cả bằng những thanh kiếm, đến nỗi khi Eudo đến để giao chiến đấu với họ ở sông Garonne, ông ta đã phải bỏ chạy. “

Kêu gọi sự chi viện của người Frank

Odo kêu gọi người Frank chi viện, mà Charles Martel chỉ chấp nhận sau khi Odo đã đồng ý thuần phục trước người Frank.
Hơn nữa, Umayyad dường như không tiến hành trinh sát lên phía bắc để tìm hiểu về kẻ thù tiềm năng, vì nếu họ đã làm thì chắc chắn họ sẽ phải lưu ý tới Charles Martel như là một lực lượng được tính đến trong các ghi chép của họ, vì sự thống trị toàn diện của ông tại châu Âu từ năm 717: điều này có thể đã cảnh báo cho Umayyad rằng một quyền lực thực sự được dẫn đầu bởi một vị tướng tài năng đang vùng lên trong đống tro tàn của Đế quốc La Mã phương Tây.

Tiến tới Loire

Năm 732, lực lượng tiên phong của Umayyad đã tiến tới phía bắc Sông Loire và đã ở vào tình huống quá tải trong việc cung cấp cho một quân đội quá lớn của họ. Về cơ bản, họ có thể dễ dàng tiêu diệt tất cả những kháng cự trong một phần của xứ Gaul, quân đội xâm lược đã tách ra một số lực lượng để tiến hành tấn công cướp phá các làng mạc người Frank ở bên bờ sông trong khi lực lượng chính của họ tiến lên với tốc độ chậm hơn.

Các đợt tấn công của Umayyad xảy ra quá muộn vào thời điểm cuối năm vì khả năng nhiều người và ngựa cần thiết được dùng để canh tác vụ mùa nông nghiệp, do đó trước khi họ tiến quân họ đã phải chờ đợi cho đến khi các cánh đồng lúa mì của người Frank sắp đến mùa thu hoạch và sau đó cho đến khi một số lượng hợp lý ngũ cốc đã được gặt đập và được cất trữ. Xa hơn nữa về phía bắc vụ mùa được thu hoạch muộn hơn và trong khi những binh lính xâm lược có thể giết gia súc vật, nuôi để làm thức ăn thì ngựa nghẽo của họ không thể ăn thịt mà chúng cần được cung cấp cở và ngũ cốc. Cho chúng gặm cỏ mỗi ngày thì quá lâu và việc thẩm vấn người bản địa để tìm nơi cất giữ lương thực là không thực sự hiệu quả vì cả hai bên không có một ngôn ngữ chung.

Một lời giải thích tại sao quân đội của Odo ( quận công vùng Aquitaine ) đã bị đánh bại dễ dàng như vậy tại Bordeaux và tại Trận sông Garonne sau khi đã giành được chiến thăngd 11 năm trước tại Trận Toulouse là rất đơn giản. Tại Toulouse, Odo cố gắng mở một cuộc tấn công bất ngờ cơ bản chống lại một kẻ thù quá tự kiêu và không chuẩn bị tốt cho trận chiến, tất cả các công trình phòng thủ có mục đích nhắm trặn các cuộc tấn công từ bên trong ra (tư thành phố Toulouse), trong khi ông ta lại triển khai tấn công từ bên ngoài vào. Các lực lượng chủ yếu của Umayyad là bộ binh, kỵ binh và họ đã không có một cơ hội để huy động lực lượng để đối mặt với ông ta trong một trận đánh mở. Như Herman của Carinthia viết trong một bản dịch của ông về một lịch sử của al-Andalus, Odo đã cố gắng bao vây rất thành công khi những kẻ tấn công đã hoàn toàn chiếm thế bất ngờ – và kết quả là một trận tàn sát trong sự hỗn loạn của các lực lượng Hồi giáo.

Tại Bordeaux, và một lần nữa tại Trận sông Garonne, lực lượng của Umayyad là kỵ binh chứ không phải là bộ binh và đã không bị tấn công bất ngờ có cơ hội để đánh một trận lớn dẫn đến sự hủy diệt của quân đội của Odo, hầu như tất cả đều bị giết với thiệt hại tối thiểu cho người Hồi giáo. Lực lượng của Odo giống như những quân đội khác ở châu Âu thời đó, thiếu dây đai ngựa do đó không có kỵ binh nặng. Hầu như tất cả các binh sĩ của họ là bộ binh. Kỵ binh hạng nặng Umayyad đã phá vỡ các binh sỹ Kitô giáo ở lớp đầu tiên trong đội hình của họ và sau đó tàn sát những người còn lại khi họ bị phân tán và bỏ chạy.

Lực lượng xâm lược tiếp tục tàn phá miền nam Gaul. Một động cơ có thể, như theo hậu nhân đời thứ hai của Fredegar, là vùng giàu có Abbey – Saint Martin thuộc Tours – khu l.ă.n.g tẩm nổi tiếng nhất và thiêng liêng nhất ở Tây Âu vào thời điểm đó. Khi nghe tin này Tể tướng Charles Martel của xứ Austrasia đã tập hợp quân đội của mình để tiến về phía nam, tránh xa những con đường cổ của xứ La Mã và hy vọng làm cho người Hồi giáo bị bất ngờ. Vì ông có ý định sử dụng đội hình phalanx, nên ông cảm thấy rất cần thiết phải lựa chọn chiến trường. Kế hoạch của ông là tìm một vùng có đồi cao tương đối bằng phẳng, cây cối rậm rạp, bố trí quân của mình ở đó và lực lượng Hồi giáo phải đến và đối mặt với lực lượng của ông ta – tất cả đều phụ thuộc vào yếu tố bất ngờ.

Theo như tất cả các bản thảo ghi chép lại thì lực lượng xâm lược đã hoàn toàn mất cảnh giác để tìm một lực lượng lớn, cũng xử lý và chuẩn bị cho trận chiến, với vùng đất cao, trực tiếp phản đối cuộc tấn công của họ trên lịch. Charles đã đạt được sự ngạc nhiên, ông hy vọng. Ông sau đó đã chọn để bắt đầu một trận chiến trong phòng thủ, gần giống như đội hình Falanx. Theo nguồn tin Ả Rập, người Frank đã lập lên trong một đội hình hình vuông lớn, với các cây và dốc lên để phá vỡ bất cứ trách kỵ binh

Trong bảy ngày, hai quân đội đối mặt nhau và chỉ tung ra những trận đụng độ nhỏ. Umayyads chờ đợi cho đến khi họ có đầy đủ lực lượng và họ đã có đủ (những toán quân kéo đi để đánh phá những làng mạc xung quanh Tours, nhưng họ vẫn rất lo lắng. Abd-al-Rahman mặc dù là một chỉ huy giỏi, đã để cho Charles mang được đến toàn bộ quân đội với đầy đủ sức mạnh và chọn được vị trí tốt cho trận đánh. Hơn nữa rất khó khăn cho Umayyad để dò xét quy mô của quân đội của đối phương của họ, vì Charles đã sử dụng các lùm cây và cánh rừng để làm cho lực lượng của ông có vẻ như lớn hơn thực tế. Như vậy, khi Abd-al-Rahman hội tụ được tất cả các cánh quân của mình và làm cho ông ta có một đội quân lớn hơn – nhưng việc này cũng làm cho Charles có thời gian để có được nhiều hơn nữa các lính bộ binh kỳ cựu của mình khi họ đến từ các tiền đồn của Vương quốc. Những lính bộ binh là tất cả hy vọng cho chiến thắng mà ông có. Họ dày dạn và chiến đấu cực kỳ ngoan cường, hầu hết trong số họ đã chiến đấu với ông trong nhiều năm, một số đã chiến đấu cùng ông từ năm 717. Hơn nữa, ông cũng được tăng cường bởi những người dân có vũ trang đến từ nhiều nơi, nhưng những người dân này thì như là không giá trị cho chiến đấu ngoại trừ việc đi thu thập thực phẩm và quấy rối người Hồi giáo. Không giống như những người lính bộ binh của ông, những người có cả kinh nghiệm chiến đấu và có kỷ luật nhà binh cao, những người dân vũ trang thì lại chẳng có gì cả và Charles không có ý định đặt niềm tin rằng họ sẽ đứng vững để chống lại các đợt tấn công bằng kỵ binh. (Hầu hết các nhà sử học trong nhiều thế kỷ qua đã tin người Frank bị thua thiệt về số lượng lúc bắt đầu trận chiến với tỷ lệ ít nhất là 2-1.) Charles đã đánh cược rằng cuối cùng Abd-al-Rahman sẽ cảm thấy bắt buộc phải chiến đấu và tiến lên để chiếm Tour. Không ai trong họ muốn tấn công trước (Charles & Abd-al-Rahman), nhưng rồi Abd-al-Rahman cuối cùng cảm thấy rằng cuối cùng mình buộc phải bao vây Tours, điều đó có nghĩa là phải đi qua quân đội của người Frank ở trên ngọn đồi ở phía trước của ông ta. Quyết định chờ đợi của Charles cuối cùng đã được chứng minh là rất quan trọng, vì nó buộc Umayyads phải vội vàng tiến ngược lên phía trên ngọn đồi, bị ngăn trở bởi the grade và các rừng cây, làm mất đi một phần lớn những lợi thế tự nhiên của một đợt tấn công kỵ binh.

Charles đã chuẩn bị cho cuộc đối đầu này từ Toulouse một thập kỷ trước. Ông cũng được lưu ý rằng nếu ông không thành công thì không còn một lực lượng Kitô giáo nào nữa có thể bảo vệ phương Tây Thiên chúa giáo. Nhưng Gibbon tin rằng, cũng như sử gia thời tiền hiện đại và hiện đại cho rằng Charles đã làm những gì tốt nhất khi ở trong một tình huống xấu. Mặc dù ít hơn và phụ thuộc vào bộ binh, lại không có kỵ binh nặng, Charles lại có một lực lượng là những lính bộ binh hạng nặng thiện chiến, những người đặt lòng tin vào ông một cách hoàn toàn. Hơn nữa, như sử gia Davis đã chỉ ra rằng những người lính bộ binh này được vũ trang rất đầy đủ, mỗi người mang đến có lẽ là £ 75 (độ 30 kg ) áo giáp sắt và khiên gỗ cho trận chiến. Trong đội hình phalanx, họ có thể chiến đấu tốt hơn để chống lại những đợt tấn công bằng kỵ binh so với cách nghĩ thông thường, đặc biệt là Charles đã có thể đảm bảo cho họ ở các vùng đất cao và cây cối để hỗ trợ hơn nữa cho họ trong việc chặn đứng những đợt tấn công kiểu như vậy. Charles cũng có những yếu tố bất ngờ khác ngoài việc chọn vị trí cho trận đánh. Đó là yếu tố bất ngờ để làm cho đối thủ của ông là hoàn toàn không biết gì về lực lượng của ông; Martel đã huấn luyện binh sỹ của mình trong một thập kỷ cho trận chiến này và cũng đã nhận biết được điểm mạnh và điểm yếu của đối thủ. May mắn cho Martel, các lực lượng của Tiểu vương Hồi giáo không biết gì về người Frank.

Người Frank có đủ quần áo để chống lại cái lạnh và có ưu thế địa hình. Người Ả Rập lại không chuẩn bị cho cái lạnh dữ dội của một mùa đông đang tới từ phía bắc châu Âu, mặc dù họ có lều trại mà người Frank lại không có, nhưng họ cũng không muốn tấn công vào một đội quân người Frank mà họ tin rằng có thể có một số lượng rất. Về cơ bản, Umayyads muốn người Frank tiến xuống và tạo ra một thế trận mở, trong khi người Frank lại hình thành lên một đội hình phòng thủ chặt trẽ và muốn người Hồi giáo đi ngược lên trên các ngọn đồi, vào các rừng cây và mất dần đi những lợi thế của lực lượng kỵ binh của họ. Đây là một ván bài chờ đợi mà Charles đã thắng cuộc: cuộc chiến bắt đầu vào ngày thứ bảy, khi mà Abd-al-Rahman không còn muốn trì hoãn cuộc chiến một cách vô thời hạn khi mùa đông đang tới gần.

Tấn công

Abd-al-Rahman tin vào các ưu thế chiến thuật của lực lượng kỵ binh của mình và tung họ ra tấn công rất nhiều lần. Thời gian này, số phân của Umayyads đã được đặt vào kỵ binh của họ, lực lượng được trang bị những ngọn trường thương – lances và kiếm sắc đã mang lại cho họ chiến thắng trong những trận chiến trước đó, là bất hợp lý.

Đây là một trong một số lần mà bộ binh thời trung cổ đứng lên để chống lại các đợt tấn công của kỵ binh, các binh sĩ Frank rất có kỷ luật đã chịu đựng được các cuộc tấn công, mặc dù theo các nguồn tin từ phía Ả Rập, các kỵ binh Ả Rập đã nhiều lần đột nhập vào bên trong đội hình hình vuông của người Frank. “Các kỵ binh Hồi giáo đã di chuyển và tấn công dữ dội vào các tiểu đoàn của người Frank, những người đã chiến đấu chống lại họ một cách dũng cảm và nhiều người của cả đôi bên đã ngã gục rồi chết”

Mặc dù vậy, người Frank đã không bị vỡ trận. Có vẻ là nhiều năm đào tạo mà Charles đã tiến hành bằng quỹ của Giáo Hội đã được thanh toán một cách xứng đáng. Những binh sỹ được đào tạo tốt của ông đã làm được những gì mà không người nào tại thời điểm đó lại nghĩ rằng họ có thể làm được: bộ binh chịu đựng những đợt tấn công của kỵ binh hạng nặng Umayyad. Paul Davis nói rằng cốt lõi của quân đội của Charles là một lực lượng bộ binh chuyên nghiệp có cả tính kỷ luật cao và cũng động lực cao ” họ đã tham gia nhiều chiến dịch với ông trên toàn cõi châu Âu” còn lực lượng dân binh vũ trang thì Charles về cơ bản sử dụng họ vào việc đột kích và quấy rối kẻ thù của mình đồng thời đi thu thập thực phẩm cho lực lượng bộ binh của mình. Các nhà sử gia người Mo – Ả Rập (Mozarabic Chronicle) trong năm 754 có viết:

“Và trong sự dữ dội của cuộc chiến những người đàn ông của miền Bắc có vẻ giống như một biển cả không thể lay chuyển, họ đứng một cách vững trãi, người này đứng sát vào người kia, tạo thành một bức tường thành bằng đá;. Và vung những thanh kiếm lớn của họ rồi chém xuống người Ả Rập. Lập nên một đội hình trước người của họ, người của xứ Austrasia đã làm tất cả. Những cánh tay không biết mệt mỏi của họ đã điều khiển những thanh kiếm đâm vào ngực của kẻ thù”

Điểm nóng chảy của cuộc chiến

Quân của người Umayyad đã đột nhập vào khối hình vuông để cố gắng giết chết Charles, nhưng các binh sỹ đã vây kín xung quanh ông ta và họ không thể bị phá vỡ. Khi trận chiến vẫn đang tiếp diễn – các nhà viết sử người Frank tuyên bố rằng – một toán quân đồn trú đã đánh tới doanh trại của Umayyad và đây chính là lực lượng do thám của người Frank – đe dọa các chiến lợi phẩm mà người Hồi giáo đã lấy từ Bordeaux. Một số các binh sĩ Umayyad cùng một lúc đã từ bỏ cuộc chiến và trở về trại để bảo vệ các chiến lợi phẩm của họ. Theo ghi chép của người Hồi giáo về trận đánh, trong khi cuộc chiến đang diễn ra vào ngày thứ hai (theo ghi chép của người Frank thì trận chiến chỉ kéo dài có một ngày) lực lượng trinh sát của người Franks được Charles tung ra bắt đầu tấn công các trại huấn luyện và cung cấp (bao gồm cả nô lệ và những đồ cướp bóc khác).

Charles được cho là đã gửi các lính trinh sát để gây ra sự hỗn loạn trong trại căn cứ Umayyad và thả tự do cho rất nhiều nô lệ như có thể với hy vọng là sẽ thu hút ra một phần lực lượng của kẻ thù của ông. Tính toán này đã thành công, khi có rất nhiều kỵ binh Umayyad quay trở về trại của họ. Với phần còn lại của quân đội Hồi giáo thì dường như cũng có một cuộc đầy đủ quy mô và ngay sau đó thì nó đã trở thành một cuộc tháo chạy thực sự. Cả các ghi chép của lịch sử phương Tây và Hồi giáo đều đồng ý rằng trong khi cố gắng để ngăn chặn sự vỡ trận, Abd-al-Rahman đã trở thành bị bao vây rồi dẫn tới cái chết của ông, và sau đó quân Umayyad rút lui hoàn toàn về trại của họ. “Tất cả các chiến binh đã chạy trốn trước kẻ thù” một nguồn tài liệu của người Ả Rập đã viết một cách thẳng thắn ” và nhiều người đã chết trong khi bỏ chạy “. Người Frank lại tiếp tục tập hợp thành đội hình phalanx của họ và nghỉ ngơi tại chỗ qua buổi đêm, tin rằng cuộc chiến sẽ tiếp tục vào lúc bình minh sáng hôm sau.

Ngày hôm sau

Ngày hôm sau, khi các lực lượng Umayyad đã không tiếp tục tham gia cuộc chiến, người Frank lo sợ rằng có một cuộc phục kích. Charles lúc đầu tiên rằng các lực lượng Umayyad đã cố gắng để thu hút quân của ông ta xuống đồi và vào trong một thế trận mở. Với chiến thuật này ông biết rằng mình sẽ phải trả bằng một giá rất đắt, Trong thực tế ông đã rèn luyện kỷ luật cho quân đội của mình trong nhiều năm rằng trong mọi trường không được hợp phá vỡ đội hình và tham gia vào một trận chiến mở. (Nếu xem Trận Hasting giữa người Anglô – Saxon và người Normandy thì ta sẽ thấy kết cục của lực lượng bộ binh khi bị thu hút vào thế trận mở của lực lượng kỵ binh thiết giáp hạng nặng) Chỉ sau khi trinh sát kỹ lưỡng các doanh trại của Umayyad bởi người Frank -.các ghi chép lịch sử của cả hai phía đều nói rằng các lực lượng Umayyad đã quay trở lại Xứ Iberia một cách vội vã đếm mức phải vất bỏ lại các lều trại và chỉ mang theo những gì cướp bóc được mà họ có thể – (lính trinh sát người Frank ) đã phát hiện ra rằng những người Hồi giáo đã rút lui trong đêm.

Theo những ghi chép của người đương thời

The Mozarabic Chronicle of 754 Mô tả trận đánh cụ thể lớn hơn bất kỳ một nguồn tài liệu Latin hoặc một nguồn Ả Rập nào khác. Nó nói về trận đánh đó

Trong khi Abd ar-Rahman truy đuổi Odo, ông quyết định phá hủy cướp bóc các cung điện của Tours và đốt cháy nhà thờ của nó. Tại đây ông phải đối mặt với vị Tể tướng của Austrasia tên là Charles, một người đàn ông đã chứng tỏ được rằng mình là một chiến binh trước các người của mình, đã được cầu viện bởi Odo. Sau khi mỗi bên đã đối mặt nhau và tung ra các cuộc tấn công thăm dò trong gần bảy ngày, họ cuối cùng cũng chuẩn bị đội hình chiến đấu và đã đánh nhau quyết liệt. Người miền Bắc vẫn là bất động như một bức tường, xích lại với nhau giống như một dòng sông băng ở các vùng tuyết lạnh. Trong nháy mắt, họ tiêu diệt những người Ả Rập bằng những thanh kiếm của họ. Người dân Austrasia với số lượng đông hơn và được vũ trang một cách khủng khiếp đã giết chết nhà vua – Abd ar-Rahman, khi họ tìm thấy ông và đâm vào ngực của ông. Nhưng đột nhiên, khi nhìn thấy vô số lều của người Ả Rập, người Frank tra thanh kiếm của họ vào vỏ và trì hoãn trận đánh cho đến ngày tiếp theo để màn đêm qua đi. Tiến lên từ doanh trại của mình vào lúc bình minh, những người châu Âu nhìn thấy những chiếc lều và tán của người Ả Rập tất cả vẫn được sắp xếp giống như khi chúng xuất hiện vào ngày hôm trước. Không biết rằng doanh trại đã trống rỗng và nghĩ rằng ở bên trong đó lực lượng Saracen đã sẵn sàng cho trận chiến, họ đã gửi trinh sát đi thăm dò và phát hiện ra rằng toàn bộ quân Ishmaelite đã bở đi. Họ (người Hồi giáo ) đã thực sự bỏ chạy một cách lặng lẽ vào ban đêm trong một đội hình chặt chẽ và quay trở lại đất nước của họ.

– Wolf (trans), Chronicle of 754, P. 145

Một quấn sách được viết trong thời của Charles Martel “ Continuations of Chronicle of Fredegar” có một bản tóm tắt cường điệu trận đánh:

Tể tướng Charles đã mạnh dạn ra lệnh cho đội hình chiến đấu của ông tiến lên chống lại họ [những người Ả Rập] và các chiến binh xông vào tấn công họ. Với sự trợ giúp của Chúa Kitô, ông đã đạp đổ các lều trại của họ và tăng tốc trận chiến để nghiền nát họ thành những nhóm nhỏ và tàn sát họ. Vua Abdirama đã bị giết chết, ông phá hủy [họ] đuổi quân đội ra xa, ông đã chiến đấu và chiến thắng. Như vậy là ông đã chiến thắng trước kẻ thù của mình.

– Fouracre, Continuations of Fredegar, P. 149

Phân tích chiến lược

Abd-al-Rahman là một tướng giỏi nhưng ông đã không làm hai việc mà ông ta nên làm. Gibbon đưa ra luận điểm rằng ông đã không tiến lên ngay lập tức để tấn công Charles Martel, bởi vì có lẽ ông ta đã rất ngạc nhiên khi thấy Charles xuất hiện tại Tours, Charles đã hành quân bằng những con đường nhỏ qua các ngọn núi và tránh những con đường lớn để bất ngờ cho quân Hồi giáo xâm lược và như vậy, Charles đã khôn ngoan chọn trước thời gian và địa điểm mà họ sẽ giao chiếm:

  • Abd-al-Rahman, hoặc giả định rằng người Frank sẽ không đến với sự trợ giúp các đối thủ Aquitanian của họ, hoặc không quan tâm và như vậy ông ta đã không thể đánh giá sức mạnh của họ trước khi cuộc chiến nổ ra.
  • Ông không thể trinh sát và quấy rối quân đội của người Frank nhưng Charles Martel lại làm được.

Có thể tiến hành một trong hai cách, ông ta nên tung lực lượng kỵ binh hạng nhẹ của mình ra và tàn phá vùng đất thấp của xứ Gaul và thu thập lại toàn bộ sức mạnh của mình để tấn công người Frank. Chiến lược này đã có thể vô hiệu hóa tất cả các lợi thế của Charles ở Tours:

  • Những kẻ xâm lược sẽ không phải mang gánh nặng về chiến lợi phẩm, đây là điểm đóng một vai trò rất lớn trong trận đánh.
  • Họ sẽ không bị mất một chiến binh nào trong các trận chiến mà họ chiến đấu trước trận Tours. (Mặc dù họ bị mất tương đối ít người khi chiếmAquitaine, họ có một số thương vong -. Tổn thất đáng phải xảy ra ở Tour)
  • Họ nên bỏ qua đối thủ yếu hơn như Odo, người mà họ có thể xử lý bất kỳ lúc nào họ muốn sau này, trong khi di chuyển cùng một lúc với lực lượng chiến đấu với sức mạnh thực sự ở châu Âu và ít nhất trên một phần chiến trường mà họ muốn.

Trong khi một số nhà sử học quân sự chỉ ra rằng để lại kẻ thù ở phía sau của bạn là điều thường không khôn ngoan, người Mông Cổ đã chứng minh rằng tấn công gián tiếp và bỏ qua những đối thủ yếu hơn để đầu tiên phải tiêu diệt những kẻ thù mạnh nhất là một trong những chiến thuật có hiệu quả một cách ấn tượng trong các cuộc xâm lược. Trong trường hợp này, những kẻ thù còn lại hầu như không còn nguy hiểm, vì vậy mà người Hồi giáo dễ dàng tiêu diệt họ. Đối thủ nguy hiểm thực sự của người Hồi giáo Moor chính là Charles và sự thất bại trong việc tiến hành trinh sát đầy đủ xứ Gaul là điều cực kỳ tai hại.

Theo Creasy, lựa chọn chiến thuật tốt nhất có thể của người Hồi giáo chỉ đơn giản là triệt thoái khỏi trận chiến, rút lui với với những chiến lợi phẩm của họ, chiếm đóng các thành phố đã đánh chiếm được ở miền nam xứ Gaul và quay trở lại giao chiến khi họ có thể buộc Charles phải di chuyển đến một chiến trường thích hợp hơn với họ, một nơi mà họ cóa thể tối đa hóa các lợi thế rất lớn của lực lượng kỵ binh thiết giáp của họ. Nếu là như vậy thì một kết cục hoàn toàn khác đi có thể đã ra, tuy nhiên lực lượng còn lại của người Hồi giáo vẫn còn được kiểm soát. Cả các nhà sử gia phương Tây và Hồi giáo đều đồng ý rằng cuộc chiến là cực kỳ dữ dội và rằng các kỵ binh hạng nặng của Umayyad đã đột nhập được vào đội hình hình vuông nhưng họ cũng đồng ý rằng người Frank trong đội hình vẫn còn kháng cự một cách mạnh mẽ.

Trong trường hợp người Hồi giáo tránh đối đầu trực tiếp mà tản ra đối phá miền Nam xứ Gaul, Charles sẽ không thể đứng yên trong khi vùng lãnh thổ của người Frank bị đe dọa. Ông sẽ phải đối mặt với quân đội Umayyad dù là sớm hay muộn và binh lính của ông sẽ tức giận bởi vùng Aquitaniasự bị tàn phá hoàn toàn và muốn lao lên để chiến đấu. Nhưng Sir Edward Creasy cũng lưu ý rằng,

khi chúng ta nhớ rằng Charles không có một quân đội thường trực (theo đúng nghĩa) và tinh thần độc lập của các chiến binh Frank, những người lính đầy nhiệt huyết đứng dưới lá cờ của ông ta, có vẻ như khả năng cao nhất có thể xảy ra là ông không thể tận dụng quyền lực của mình để áp dụng chính sách thận trọng – chỉ đúng và quan sát những kẻ xâm lược, và làm mòn mỏi sức mạnh của mình bằng cách trì hoãn trận đánh. Vì vậy, cực kỳ đáng sợ và sẽ xảy ra trên một vùng cực kỳ rộng lớn nếu các kỵ binh nhẹ của Saracen tiến hành tàn phá trên toàn bộ xứ Gaul, và không thể để hạn chế sự nhiệt tình hoặc sự phẫn nộ của người Frank. Thậm chí trong trường hợp nếu Charles có thể thuyết phục được những người lính của mình chỉ thận trọng đứng nhìn trong khi người Ả Rập tấn công và phá hủy nhiều và nhiều hơn nữa các thành phố, ông không thể giữ được một quân đội lại nữa khi thời gian thông thường của một cuộc chinh phạt hết hạn.

Về mặt chiến lược, và chiến thuật, Charles có thể đưa ra quyết định tốt nhất mà ông có thể là chờ đợi cho đến khi kẻ thù của mình ít nhất là bắt họ phải tấn công trước và sau đó là tiến quân một cách bí mật (lực lượng trinh sát – quấy rối ) để tấn công họ một cách bất ngờ tại một chiến trường mà ông ta lựa chọn. Có lẽ ông và người của mình đã không nhận ra mức độ nghiêm trọng của cuộc chiến mà họ đã tham gia, như nhà văn Matthew Bennett và đồng tác giả của mình, trongKỹ thuật chiến đấu của thế giới thời Trung Cổ (năm 2005) nói: “chỉ một vài trận đánh được ghi nhớ tới khoảng 1.000 năm sau khi […] nhưng trong trận Tours là một ngoại lệ […] Charles Martel đã đẩy lui một cuộc đột kích của người Hồi giáo mà nếu nó còn được tiếp tục thì rất có có thể nó sẽ chinh phục toàn bộ xứ Gaul “

Ý nghĩa lịch sử của trận Tours

Trận Tour mang lại cho Charles biệt danh “Martel” (“Hammer”), vì cách tàn nhẫn mà ông đã đối xử với kẻ thù của mình. Nhiều sử gia bao gồm cả Sir Edward Creasy, tin rằng nếu ông không thành công vào năm 737 khi đuổi các đội quân Hồi giáo khác ra khỏi các căn cứ của họ ở xưa Gaul sau khi họ một lần nữa cố gắng để có được một chỗ đứng ở châu Âu khi vượt qua Al-Andalus và có lẽ là sẽ tràn vào cả phần còn lại của Tây Âu. Gibbon thể hiện rõ ông tin rằng đội quân của Umayyad sẽ chinh phục từ Rome đến sông Rhine và thậm chí cả nước Anh mặc dù họ có con kênh nước Anh bảo vệ một cách dễ dàng nếu Martel không thắng thế. Creasy nói “chiến thắng vĩ đại của Charles Martel … đã chặn đứng sự chinh phục của người Ả Rập vào Tây Âu, giải cứu cho thế giới Thiên Chúa giáo khỏi Hồi giáo, [và] bảo tồn các di tích cổ và các manh nha của nền văn minh hiện đại” (nên nhớ rằng những kẻ xâm lược Ả Rập-Hồi giáo đã bắt buộc hầu hết dân cư ở Bắc Phi và Trung Đông phải cải đạo, mặc dù đây là một trong những cái nôi của Kitô giáo, và gần như hoàn toàn loại bỏ Zoroastrians ở Ba Tư và phá hủy các thư viện Hoàng gia Zoroastrian và rằng người Hồi giáo xâm lược sau này đã phá hủy hoặc tiêu hủy hàng ngàn nơi thờ cúng và học hành của Phật giáo và Hindu giáo trong tiểu lục địa Ấn Độ). Gibbon tin rằng số phận của Kitô giáo được quyết định trong trận chiến này được lặp lại bởi các sử gia khác bao gồm cả John B. Bury và rất được phổ biến trong hầu hết các nhà viết sử hiện đại. Nó có giảm đôi chút trong phong cách của các nhà viết sử trong thế kỷ XX, khi sử gia như Bernard Lewis kết luận rằng người Ả Rập ít có ý định chiếm miền bắc nước Pháp. Tuy nhiên gần đây nhiều nhà sử học có xu hướng một lần nữa xem trận Tour là một sự kiện rất quan trọng trong lịch sử của châu Âu và Kitô giáo. Tương tự như vậy có người chẳng hạn như William Watson vẫn tin rằng trận chiến này là một trong những thay đổi quan trọng trong lịch sử thế giới,

Các cuộc chiến tranh từ năm 732-> 737

Sau những chiến thắng của ông trong các năm 732 -> 735, Charles đã tiến hành tổ chức lại vương quốc Burgundy, ông thay thế các công tước và bá tước chống đối bằng những người ủng hộ trung thành với mình, do đó ông tăng cường nắm giữ quyền lực. Ông buộc phải xâm lược, do Radbod, công tước của FRISIANS (719-734), con trai của Công tước Aldegisel người đã chấp nhận các truyền giáo Willibrord và Boniface, để loại bỏ tư tưởng ly khai của Frisia trong năm 734. Trong năm đó, ông cho xử tội hàng loạt các công tước, những người đã trục xuất các nhà truyền đạo Kitô giáo, sau trận chiến Boarn và do đó hoàn toàn chinh phục các vùng này (ông cho phá hủy toàn bộ các ngôi đền dị giáo) và sau đó người dân đã được hưởng nền hòa bình trong vòng hai mươi năm.

Những thay đổi trong 735 sau cái chết của Odo Đại đế, người đã bị buộc phải thừa nhận, mặc dù có quyền sở hửu, các quyền chúa tể của Charles trong năm 719. Vì Charles muốn hợp nhât các lãnh địa dưới sự lãnh đạo trực tiếp của chính mình và ông đã tới đó để gợi ra sự tôn kính đúng đắn của người Aquitainian, nhưng giới quý tộc của xứ này đã tuyên bố con trai của Odo, Hunald của Aquitaine – là công tước sở hữu lãnh địa, người mà Charles đã chấp nhận khi các đội quân Umayyad lại tiến hành xâm chiếm vùng Provence vào năm tới, và Hunald cũng bị buộc phải thừa nhận Charles là chúa tể khi ông này không còn hy vọng để đẩy người Hồi giáo ra khỏi lãnh địa của mình một cách đơn độc.

Người Ả Rập lại tiếp tục tiến hành một cuộc xâm lược bằng đường biển dưới sự chỉ huy của con trai của Abdul Rahman. Họ đổ bộ xuống Narbonne vào năm 736 và di chuyển cùng một lúc để tăng cường cho Arles và tiến vào sâu trong nội địa. Charles tạm thời dừng các cuộc xung đột với Hunold và tấn công các pháo đài của Umayyad ở vùng Provençal. Năm 736, ông chiếm lại các vùng Montfrin và Avignon, Arles và Aix-en-Provence với sự trợ giúp của Liutprand, vua của người Lombard. Các xứ Nîmes, Agde và Béziers đang bị chiếm giữ bởi người Hồi giáo từ năm 725 đã lần lượt rơi vào tay ông và các pháo đài của họ đã bị phá hủy. Ông đã nghiền nát một đội quân của Umayyad ở Arles cũng như lực lượng đang phòng thủ trong thành phố và sau đó chiếm thành phố chính bằng một cuộc tấn công trực diện trực tiếp và cực kỳ tàn bạo và phá hủy nó thành bình địa để ngăn chặn việc sử dụng nó một lần nữa như là một thành trì cho các đội quân Umayyad.

Sau đó ông di chuyển nhanh chóng và đánh bại một đội quân Hồi giáo hùng mạnh ở bên ngoài Narbonnea sông Berre nhưng đã không thành công khi chiếm giữ thành phố. Các sử gia quân sự cho rằng ông có thể chiếm được thành phố này nếu ông sử dụng tất cả các nguồn lực của mình để làm như vậy, nhưng ông tin rằng cuộc sống của mình đã sắp kết thúc và ông có nhiều việc phải làm để chuẩn bị cho con trai của ông lên nắm quyền kiểm soát vương quốc của người Frank. Một cuộc tấn công trực tiếp từ phía trước như đã làm ở Arles, bằng việc sử dụng thang dây và máy công thành cộng với một vài máy bắn đá, chỉ đơn giản là không đủ để chiếm Narbonne nếu không chịu chấp nhận một thiệt hại khủng khiếp về nhân mạng cho người Frank – nòng cốt của quân đội mà Martel cảm thấy ông không thể mất đi. Ông quyết định bỏ đói thành phố vài năm, thời gian cần thiết để ông thiết lập chính quyền cho một đế chế mà người thừa kế của ông sẽ cai trị. Do đó ông rời Narbonne sau khi đã cô lập và bao vây nó và con trai của ông sẽ trở lại và chiếm nó cho người Thiên Chúa giáo.

Đáng chú ý về các chiến dịch này là Charles lần đầu tiên đã trang bị cho các kỵ binh nặng của mình với chiếc đai ngựa để tăng thêm sức mạnh cho các đội quân của mình. Khả năng của ông trong việc phối hợp các lực lượng bộ binh và kỵ binh dày dạn kinh nghiệm là vô song trong thời đại đó và cho phép ông ta đối mặt với quân xâm lược quân có số lượng vượt trội và rồi lại đánh bại họ một lần nữa và lại một lần nữa. Một số nhà sử học tin rằng trận chiến chống lại các lực lượng Hồi giáo chính tại Berre sông, gần Narbonne, đặc biệt là khi chiến thắng đối với Kitô giáo châu Âu sau trận Tour là cực kỳ quan trọng. Trong quấnBarbarians, Marauders, and Infidels, Antonio Santosuosso, Giáo sư danh dự môn lịch sử tại Đại học Western Ontario, và được coi là một chuyên gia về lịch sử trong thời kỳ tranh chấp, đưa ra một ý kiến hiện đại thú vị về Martel, trận Tour và các chiến dịch tiếp theo của ông khi tiếp tục đối đầu với người con trai Rahman tại các năm 736-737. Santosuosso đã trình bày một luận cứ thuyết phục rằng những chiến dịch sau đó để đánh bại đội quân xâm lược Hồi giáo ít nhất cũng quan trọng như trận Tour với ý nghĩa để bảo vệ thế giới Thiên Chúa giáo phương Tây và sự bảo tồn của Western monasticism, Các tu viện lúc đó có các trung tâm giáo dục mà cuối cùng chính nó đã đưa châu Âu ra khỏi thời kỳ Trung cổ. Ông cũng đưa ra một số phản biện có tính thuyết phục sau khi nghiên cứu lịch sử thế giới Ả Rập của thời kỳ này rằng những đội quân xâm lược được tung ra ý kiến bởi Caliph of Umayyad không chỉ để tàn phá cướp bóc Tours mà còn để bắt đầu cuộc chinh phục vào thế giới Thiên chúa giáo châu Âu và đưa nó vào trong tầm kiểm soát của nước hồi giáo ở Bán đảo Iberia.

Hơn nữa, không giống như cha của mình tại Tours, con trai của Rahman vào những năm 736->737 biết rằng người Frank là một sức mạnh thực sự và rằng cá nhân Charles Martel là một yếu tố cần được tính đến. Ông không có ý định cho phép Charles Martel chiếm lấy sự bất ngờ về khoảng thời gian và địa điểm của trận chiến như cha ông làm và thay vào đó tập trung vào chiếm giữ một phần đáng kể các vùng đồng bằng ven biển xung quanh Narbonne trong năm 736 và tiến hành gia cố cứ điểm Arles khi ông tiến sâu vào nội địa. Người Hồi giáo lên kế hoạch từ đó di chuyển từ thành phố này đến thành phố khác, củng cố thành cứ điểm khi họ rời khỏi và nếu Martel muốn ngăn chặn họ chiếm giữ việc một vùng đất lâu dài cho sự mở rộng của một vương quốc Hồi giáo, ông sẽ phải đến chỗ họ và không giống như cha mình – người con của Rahman biết được tại nơi nào sẽ xảy ra trận chiến. Tất cả đã được tiến hành như ông ta đã lên kế hoạch cho đến khi Martel kéo quân đến, và luôn luôn nhanh hơn so với quãng thời gian mà người Moor tin rằng ông cần có để huy động toàn bộ quân đội của mình. Tuy nhiên thật không may cho người con trai của Rahman, ông này lại phạm sai lầm khi đánh giá quá cao thời gian mà Martel cần có để phát triển kỵ binh nặng ngang bằng với lực lượng kỵ binh của người Hồi giáo. Quốc vương Hồi giáo tin rằng ông sẽ phải mất một thế hệ, nhưng Martel đã cố gắng phát triển lực lượng này chỉ trong năm năm ngắn ngủi. Lần này đã chuẩn bị sẵn sàng để đối mặt với thế trận hình phalanx của người Frank, thì người Hồi giáo lại hoàn toàn không chuẩn bị để đối mặt với một lực lượng hỗn hợp gồm kỵ binh nặng và bộ binh trong một đội hình phalanx. Do đó, Charles một lần nữa lại giành chiến thắng cho người Kitô giáo và ngăn chặn người Hồi giáo mở rộng ảnh hưởng vào châu Âu cũng như khóa chặt cánh cửa trước khả năng người Hồi giáo có thể làm được điều này. Những thất bại này cộng với những thất bại trước Leo ( Hoàng đế Bizantine ) ở Tiểu Á là những nỗ lực lớn cuối cùng để mở rộng Vương quốc Hồi giáo Umayyad trước sự thất bại của triều đại này tại Trận Zab, và làm tan nát Vương quốc Hồi giáo này mãi mãi, đặc biệt là sự hủy diệt hoàn toàn của quân đội Umayyad ở sông Berre gần Narbonne trong 737.

Những năm cuối đời

Năm 737, ở phần cuối của chiến dịch quân sự của ông ở Provence và Septimania, Nhà vua của người Frank – Theuderic IV đã chết. Martel tự đặt danh hiệu cho mình là maior Domus và princeps et dux Francorum, và ông đã không bổ nhiệm một vị vua mới và không ai nổi tiếng một. ngôi vua bị bỏ trống cho đến cái chết của Martel. Như nhà sử học Charles Oman nói (The Dark Ages, Trang 297) “, ông không quan tâm đến danh hiệu hoặc tấn phong miễn là sức mạnh thực sự đang nằm trong tay của ông”
Gibbon nói Charles Martel ” với chức vụ chỉ là một Tể tướng hoặc một Công tước của người Frank, nhưng ông xứng đáng để trở thành người cha của một thế hệ các vị vua mới” mà ông đã làm. Gibbon cũng nói về ông “trong mối nguy hiểm của quốc gia ông đã triệu tập được toàn bộ lực lượng của đất nước của mình bằng uy tím cá nhân của ông”

Khoảng bốn năm cuối cuộc đời của Charles tương đối là hòa bình hơn so với hầu hết của nó đã được và phần lớn thời gian của ông bây giờ là dùng để lên các kế hoạch và tổ chức cải cách hành chính để tạo ra một nhà nước hiệu quả hơn. Mặc dù vậy trong năm 738 đã ông buộc được người Saxon ở xứ Westfalen phải tỏ lòng tôn kính và khiếp sợ và trong năm 739 ông đã kiểm soát được một cuộc nổi dậy ở xứ Provence đây là một cuộc nổi loạn được lãnh đạo bởi Maurontus. Charles lên kế hoạch hội nhập các xứ ở xa trung tâm của đế chế của mình vào nhà thờ Frank. Ông dựng lên bốn giáo phận ở Bavaria (Salzburg, Regensbur,Freising và Passau) ông phái Boniface đến làm Tổng-giám-mục của họ và tất cả các đô thị ở phía đông sông Rhine của nước Đức khi mà ông này vẫn đóng đô tại Mainz. Tổng-giám-mục Boniface nằm dưới sự bảo hộ của ông từ năm 723; thực sự thì vị Tổng-giám-mục đã giải thích với người bạn cũ của mình – Daniel of Winchester – rằng nếu không có nó (sự bảo hộ của Charles Martel), ông không thể quản lý được các nhà thờ của mình và bảo vệ các giáo sĩ của mình, và cũng không ngăn chặn được sự xâm pham vào các nơi tôn thờ. Do đó Boniface cũng là người đã bảo vệ Charles một cách cương quyết nhất khi ông này quyết định chiếm các vùng đất của Giáo Hội để có nguồn tài trợ cho quân đội của mình trong những ngày đầu đến Tour, đây chính là một trong những gì ông phải làm để bảo vệ Kitô giáo. Năm 739, Đức Giáo Hoàng Gregory III cầu xin Charles viện trợ cho mình để chống lại Liutprand (vua của xứ Lombard), nhưng Charles đã miễn cưỡng để chống lại người đồng minh một thời của mình và bỏ qua những lời kêu gọi Giáo hoàng. Cái mà Đức Giáo hoàng muốn là cần có sự bảo vệ của người Frank, tuy rằng Martel đã không ra mặt chống lại đồng minh cũ của mình nhưng ông vẫn lập kế hoạch để cho con trai và cháu trai để sắp xếp lại các ranh giới chính trị ở nước Ý sao cho phù hợp với yêu cầu của Đức Giáo hoàng và bảo vệ nó.

Charles Martel qua đời vào ngày 22 tháng 10 năm 741 tại Quierzy-sur-Oise nơi mà ngày nay là tỉnh Aisne thuộc vùng Picardy của nước Pháp. Ông được chôn cất tại Nhà thờ Saint Denis tại Paris. Ông phân chia vùng lãnh thổ cho người con trai lớn của mình – Carloman một năm trước đó: đó là vùng Austrasia và Alemannia (với xứ Bayern như là một chư hầu), và chia cho người con thứ hai – Pippin lùn các xứ Neustria và Burgundy (với xứ Aquitaine như là một chư hầu) và người con nữa tên là Grifo (con vợ thứ) thì lại không được cái gì mặc dù một số nguồn tin cho biết ông đã dự định cho người con này một dải đất nằm giữa Neustria và Austrasia.
Legacy

Khi bắt đầu sự nghiệp của Charles Martel, ông đã có nhiều đối thủ nội bộ và cảm thấy sự cần thiết phải chỉ định vua thỉnh cầu của mình, Clotaire IV. Bằng cách kết thúc của mình, tuy nhiên, sự năng động của quyền cai trị ở Francia đã thay đổi, không có Meroving thánh là cần thiết, không cho quốc phòng và cũng không hợp pháp: Charles chia lĩnh vực của mình giữa các con trai của ông không phản đối (mặc dù ông bỏ qua người con trai Bernard). Ở giữa, ông củng cố nhà nước Frankish bởi luôn đánh bại, qua chiến thuật cao, các máy chủ của các quốc gia thù địch nước ngoài bao vây nó trên tất cả các bên, bao gồm các Saxons ngoại đạo, mà cháu trai của ông Charlemagne đầy đủ sẽ phục, và người Moor, mà ông dừng lại trên một con đường của sự thống trị lục địa.

Mặc dù ông không bao giờ quan tâm đến chức danh nhưng người con trai ông – Pippin cuối cùng đã yêu cầu với Đức Giáo Hoàng rằng “người muốn trở thành một nhà vua, thì hoặc là người đó phải có tước vị, hoặc là phải có quyền lực? – who should be King, he who has the title, or he who has the power?” Đức Giáo Hoàng lúc này phụ thuộc nhiều vào quân đội Frank để có thể độc lập khỏi quyền lực của các xứ Lombard và Byzantine (các Hoàng đế Byzantine vẫn coi mình là “Hoàng đế La Mã” hợp pháp duy nhất, và do đó là người cai trị của tất cả các tỉnh của đế chế cổ xưa, dù có được công nhận hay không) ngay lập tức tuyên bố rằng ông ta là “người có quyền lực” và ngay lập tức đăng quang cho Pippin.

Nhiều thập kỷ sau, năm 800, Pippin con trai của Charlemagne đã lên ngôi hoàng đế của Đức Giáo Hoàng, tiếp tục mở rộng các nguyên tắc của delegitimising quyền danh nghĩa của Hoàng đế Byzantine trong bán đảo Ý (mà thực sự nó bị thu nhỏ chỉ bao gồm ở Apulia và Calabria) và xứ Roman – Gaul cổ đại, bao gồm các tiền đồn ở Iberia Charlemagne đã thành lập tại xứ Marca Hispanica ở bên kia rặng Pyrenees, một vùng đất theo Kitô giáo mà nay người ta gọi là xứ Catalonia. Trong ngắn hạn, mặc dù các hoàng đế Byzantine tuyên bố quyền hành trên tất cả các vùng đất cũ của Đế quốc La Mã, như là một Hoàng đế La Mã hợp pháp nhưng điều này đơn giản là không thực tế. Phần lớn các vùng đất cũ của Đế quốc La Mã phương Tây nằm dưới sự cai trị của triều đại Carolingian, các hoàng đế Byzantine đã gần như không có quyền lực ở phương Tây từ thế kỷ thứ sáu, vì Charlemagne, một chính trị gia giỏi ên ông muốn để tránh xung đột với triều đình Constantinople. Một tổ chức duy nhất trong lịch sử đã được sinh ra: Đế chế La Mã Thần thánh (Holy Roman Empire). Voltaire (nhà văn có tư tưởng tiến bộm ở nước Pháp TK 17) đã nhạo báng danh hiệu này một cách chua chát về tính chất hợp pháp của nó và nói rằng Đế chế La Mã Thần thánh “không phải là Thánh, cũng không phải La Mã, mà cũng chẳng phải là một Đế chế”, nó tạo thành một sức mạnh to lớn về chính trị trong một thời gian, đặc biệt là dưới các triều đại Saxon và Salian và ở một mức độ thấp hơn và dòng họ Hohenstaufen (triều đình Hapsburg). Nó kéo dài cho đến năm 1806, và theo thời gian nó đã trở thành một vật vô giá trị. Mặc dù cháu trai của ông đã trở thành hoàng đế đầu tiên của “Đế chế” này, nhưng nó phần lớn được khai sinh trong thời gian trị vì của Charles Martel.

Reconquista ( tái chinh phục)

Mặc dù phải mất đến một, hai thập kỷ nữa người Frank mới đuổi được tất cả các đơn vị đồn trú của người Ả Rập ở Septimania và trên toàn dẫy Pyrenees, Charles Martel đã ngăn chặn được các cuộc xâm lược vào đất Pháp của các đợt thủy triều Hồi giáo, và bảo vệ được sự thống nhất của các vương quốc Frank dưới sự lãnh đạo của Martel, con trai của ông – Pippin Lùn và cháu trai của ông – Charlemagne đã tạo ra một sức mạnh của phương Tây để ngăn chặn Tiểu vương quốc Hồi giáo của xứ Córdoba lại tiếp tục mở rộng hơn qua dặng Pyrenees. Martel, người vào năm 732 đã trên bờ vực chọn lọc, thay vì được công nhận Giáo Hội như là người bảo vệ tối thượng của nó. Giáo hoàng Gregory II đã gửi cho ông nhiều hơn một lần các tin nhắn để yêu cầu được bảo vệ và viện trợ cho mình, và ông (Charles Martel ) vẫn tiếp tục cho đến khi chết để ngăn chặn những người Hồi giáo. Con trai của Martel – Pippin Lùn đã giữ lời hứa của cha mình, quay trở lại và tiếp tục cuộc bao vây vào thành phố Narbonne trong năm 759 và cháu trai của ông – Charlemagne đã lập nên vùng Marca Hispanicaở bên kia dặng Pyrenees, đây là một phần của vùng mà ngày nay là xứ Catalonia, chiếm lại Girona vào năm 785 và Barcelona vào năm 801. Đây là những vùng đất của nước Tây Ban Nha ngày nay và sau đó người ta đã gọi những chiến dịch này là “Các cuộc hành quân vào lãnh thổ của người Moor” của triều đại Carolingians, những người không chỉ tiến hành những cuộc hành quân để nắn gân người Hồi giáo ở Hispania mà còn là một trong những bước đầu tiên để thu hồi toàn bộ đất nước mình (lúc này người Frank được Giáo hoàng La Mã ủy quyền thu hồi lại các tỉnh cũ của Đế chế La Mã trước đây ). Chiến dịch này đã tạo nên một vùng đệm thường xuyên để chống lại người Hồi giáo và nó cũng trở thành một căn cứ được đặt tên là Pelayo cho nhà vua của xứ Asturias (từ năm 718-737, người đã bắt đầu cuộc chiến chống lại người Moors ở vùng núi Covadonga vào năm 722) và con cháu của mình, cho Reconquista cho đến khi tất cả những người Hồi giáo bị trục xuất khỏi bán đảo Iberia.

Di sản quân sự của Charles Martel

Bộ binh nặng và quân đội thường trực

Victor Davis Hanson lập luận rằng Charles Martel đã phát động “cuộc đấu tranh nghìn năm” giữa bộ binh hạng nặng Châu Âu và kỵ binh Hồi giáo. Tất nhiên, Martel cũng là cha đẻ của kỵ binh hạng nặng của châu Âu, khi ông tích hợp các đơn vị kỵ binh thiết giáp hạng nặng vào lực lượng của mình. Điều này tạo ra một quân đội thực sự và chiến thuật này sẽ còn tiếp tục được áp dụng trong thời gian còn lại của triều đại của ông và của con trai ông – Pépin Lùn – cho đến thời Cháu nội của ông – Hoàng Đế Charlemagne – ông này có một đội quân lớn nhất và tốt nhất trên thế giới kể từ thời đỉnh cao của Rome. Tương tự, những người Hồi giáo sử dụng bộ binh – quả thật vậy, trong trận Toulouse nhất của lực lượng bộ binh của họ là hạng nhẹ. Không phải đến khi Abdul Rahman Al Ghafiqi đưa một lực lượng rất lớn của gồm kị bịnh Ả Rập và Berber đến mà ông đã nhận có nhận thức đươc răng các tiểu vương quốc của Al-Andulus rằng các lực lượng Hồi giáo đã trở thành chủ yếu là kỵ binh.

Quân đội của Martel đã được biết đến chủ yếu là đội quân thường trực thường trực đầu tiên kể từ sự sụp đổ của Rome vào năm 476, ” và nòng cốt là lực lượng bộ binh hạng nặng dày dạn kinh nghiệm đã đứng vững vàng tại Tours. Các sỹ binh Frank phải mang đến 70 pound (khoảng hơn 30 kg) áo giáp, bao gồm cả lá chắn nặng nề bằng gỗ với một chiếc mũ sắt của mình. Đứng kề sát bên nhau và cũng cực kỳ có kỷ luật, họ đã không thể bị phá vỡ ở Tours. Martel đã lấy tiền và tài sản mà ông đã tịch thu từ nhà thờ và các quý tộc địa phương để cung cấp và huấn luyện cho lực lượng bộ binh của mình hàng năm trời. Đây là những cựu binh nòng cốt từng phục vụ với ông ta trên trong một thời gian dài và như Hanson nói, “cung cấp một nguồn cung cấp ổn định trong năm quân đáng tin cậy xung quanh.” Trong khi những nền văn minh khác của chủng người German chẳng hạn như người Visigoth hoặc Vandals, mặc dù họ có một truyền thống rất đáng tự hào về quân sự nhưng các bộ tộc trên lại chỉ có thể tập hợp được quân đội của mình ở ngoài vụ trồng trọt và thu hoạch, nhưng người Frank lại có khả năng tập hợp những người trong độ tuổi quân sự của mình bất cứ lúc nào trong năm,. Đó là Martel của việc tạo ra một hệ thống, theo đó ông có thể kêu gọi quân đội quanh năm mà đã cho các Carolingians đứng đầu và đội quân thường trực từ sự sụp đổ của Rome ở phía tây.

Trong tầm nhìn của mình, ông đã thấy những gì sẽ cần thiết cho quân đội của mình để có thể chiến đấu với một lực lượng lớn hơn và chiếm ưu thế về trang bị (các kỵ binh Hồi giáo đã được trang bị binh giáp của kỵ binh hạng nặng của các chiến binh Sassanid, đây là các trang bị tương đương của các hiệp sĩ châu Âu đời đầu có thể có) ông đã không tung một số ít ỏi kỵ binh được trang bị nghèo nàn của mình ra để chống lại lực lượng kỵ binh Hồi giáo mà sử dụng bộ binh của mình để chiến đấu trong một đội hình đã được sử dụng bởi Người Hy Lạp cổ đại để chịu được các đợt tấn công của đối phương hơn hẳn về số lượng và vũ khí với kỷ luật, lòng can đảm và sẵn sàng chết cho người chỉ huy của họ: đó là một đội hình phalanx. Ông đã đào tạo được lực lượng nòng cốt của mình liên tục quanh năm bằng cách sử dụng chủ yếu là các quỹ của Giáo Hội và một số tiền mà ông ta từ những ngày đầu tiên mình nhậm chức khi cha của ông qua đời. Và lực lượng nòng cốt gồm các cựu binh cực kỳ kỷ luật đã cùng ông chiến thắng tại trận Tours. Hanson nhấn mạnh rằng thành tựu lớn nhất củ Charles Martel là khả năng kiểm soát tổng thể quân đội của mình. Điều này tuyệt đối kỷ luật sắt lưu binh của mình từ số phận của rất nhiều binh – chẳng hạn như người Saxon ở trận Hastings – những người đã tự phá vỡ đội hình và đã bị tàn sát từng phần. Sau khi sử dụng lực lượng bộ binh là lực lượng chính tại Tours, ông lại tiếp tục nghiên cứu về lực lượng của kẻ thù và tiếp tục thích nghi với họ, ban đầu ông cho sử dụng những chiếc đai và yên thu hồi được từ con ngựa đã chết và áo giáp từ những kỵ binh đã chết để thành lập lực lượng kỵ binh hạng nặng của mình.

Chiến thuật nổi bật

Charles Martel giành được danh tiếng cho mình bởi những chiến thuật nổi bật, ông có khả năng thích ứng một cách nhanh chóng với thời cuộc bởi khả năng sử dụng những gì ông có và bằng cách kết hợp những ý tưởng và công nghệ mới. Kết quả là ông trở thành bất khả chiến bại từ 716 cho đến cuối đời khi phải chống lại một loạt các đối thủ, bao gồm các kỵ binh Hồi giáo (vào thời gian đó là tốt nhất thế giới) và người Saxon cực kỳ man rợ khốc liệt về biên giới của riêng mình-và tất cả điều này mặc dù hầu như luôn luôn được ít hơn. Ông là viên tướng duy nhất ở châu Âu trong thời Trung cổ sử dụng các kỹ thuật chiến đấu của phương Đông như chiến thuật vờ rút lui để nhử quân địch vào bẫy. Khả năng của ông để tấn công khi nào và nơi ông dự kiến ít nhất là huyền thoại. Quá trình phát triển của tinh thần thượng võ nổi tiếng của Pháp vẫn tiếp tục trong Chỉ dụ Pistres của cháu trai lớn của ông – một vị vua lớn và trùng tên với ông – Charles the Bald.

Không những vậy việc Charles Martel đánh bại người Hồi giáo đã tạo ra những chia rẽ quan trọng trong thế giới Hồi giáo làm cho Quốc vương của nước hồi giao không thể tổ chức một cuộc tấn công trong tất cả các ngày châu Âu thông qua lũy Iberia sau năm 750. Khả năng của ông là vẫn sẵn sàng đáp trả các thách thức này cho đến khi vương quốc của người Hồi giáo tự bị hủy hoại, được cho là đúng đắn bởi hầu hết các nhà sử học từ trước tới nay và là lý do tại sao Danteviết tên ông là một trong những “người bảo vệ đức tin” ở trên thiên đường . Sau năm 750, cánh cửa tiến vào Tây Âu của các tiểu vương quốc ở xứ Iberia vẫn nằm trong tay của Umayyads, nhưng hầu hết các phần lãnh thổ còn lại của thế giới Hồi giáo lại nằm dưới sự kiểm soát của triều đại Abbasids, làm cho một cuộc xâm l.ư.ợ.c tiếp theo vào châu Âu là không thể vì vấn đề hậu cần và đồng thời cũng vì hai đế chế của người Hồi giáo liên tục chiến đấu với nhau. Sự kiện này đã loại bỏ các cuộc xâm lược của người Hồi giáo vào châu Âu cho đến khi người Thổ Nhĩ Kỳ tiến thành các cuộc chinh phục vào Balkan khoảng một nửa thiên niên kỷ sau đó.

H. G. Wells nói về thất bại quyết định của người Hồi giáo trước Charles Martel trong quấn tóm tắt lịch sử thế giới của ông:

“Người Hồi giáo khi vượt qua dãy núi Pyrenees vào năm 720 đã phát hiện thấy một vương quốc của người Frank dưới sự cai trị thực tế của Charles Martel, Tể tướng của một hậu duệ đã thoái hóa của nhà vua Clovis, và đã phải nhận một thất bại quyết định trong trận Poitiers (732) với tất cả các lực lượng của nó. Sự kiện này làm cho Charles Martel chở thành vị chúa tể thực sự của châu Âu từ phía bắc của dãy Alps và dãy núi Pyrenees cho đến Hungary. “

John H. Haaren nói trong ” những nhân vật nổi tiếng của thời Trung cổ”

“Trận Poitiers là một trận chiến lich sử vì nó nên được coi là một trong những trận đánh quyết định của thế giới. Nó đã quyết định rằng người Kitô giáo chứ không phải người Hồi Giáo nắm được quyền lực ở châu Âu thời Trung cổ. Charles Martel là đặc biệt nổi tiếng là người anh hùng của cuộc chiến này. “

Cũng như ông, người cháu trai của ông – Charlemagne – trở nên nổi tiếng với những chiến thuật thần tốc và bất ngờ trong các chiến dịch của mình, Charles là một huyền thoại vì không bao giờ làm những gì mà kẻ thù của ông dự đoán trước được. Đó là khả năng tạo bất ngời và di chuyển nhanh hơn nhiều so với khả năng mà đối thủ của ông tin rằng ông có thể làm được – đây chính là đặc trưng của các chiến thuật quân sự của Charles Martel.

Một điều đáng chú ý là người phương Bắc (người Viking) đã không bao giờ bắt đầu cuộc tấn công vào châu Âu cho đến sau cái chết của cháu trai của Martel – Hoàng Đế Charlemagne. Họ (người phương Bắc) có đủ năng lực về hải quân để bắt đầu những cuộc tấn công ít nhất khoảng ba thế hệ trước đó nhưng họ đã không dám thách thức Charles Martel, con trai của ông – Pippin Lùn, hoặc cháu nội của ông – Charlemagne. Điều này có lẽ là một may mắn to lớn của ông, vì có lẽ sẽ ông sẽ không có đủ khả năng đẩy lùi cùng một lúc những người Viking, người Hồi giáo, người Saxons và những kẻ thù khác đã từng bị ông đánh bại trong cùng một lúc. Tuy nhiên, có điều đáng chú ý rằng dù có khả năng để làm như thế, (người Đan Mạch đã xây dựng hệ thống phòng thủ để tự bảo vệ trước các đợt phản công bằng đường bộ (của người Frank) và có khả năng họ đã khởi động hoạt động thương mại cùng với các cuộc tấn công trên biển của họ vào đầu triều đại Martel này), họ đã chọn để không phải thách thức với Charles Martel.

Trả lời

Điền thông tin vào ô dưới đây hoặc nhấn vào một biểu tượng để đăng nhập:

WordPress.com Logo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản WordPress.com Đăng xuất /  Thay đổi )

Twitter picture

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Twitter Đăng xuất /  Thay đổi )

Facebook photo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Facebook Đăng xuất /  Thay đổi )

Connecting to %s