tác giả hongsonvh
Có thể nói rằng việc quận công William xứ Normandy vượt biển chinh phục nước Anh là một trong những nguyên nhân xảy ra cuộc chiến tranh trăm năm giữa Anh và Pháp vài thế kỷ sau, nhưng ta cứ từ từ xem con tằm nó nhả tơ như thế nào.Để biết lý do tại sao ông ta lại mang quân đi chinh phục nước Anh ta phải quay về trước đó độ hơn 1 thế kỷ để thấy sự thành lập của Công quốc Normandy.
Như ở phần nói ở phần trước vua Alfred vĩ đại người Anh ( người Saxon) đã cho xây dựng hệ thống thành lũy liên hoàn và đội quân cơ động tinh nhuệ và đánh bại mọi cuộc tấn công ăn cướp của người Viking, người Viking bị bắt buộc tràn sang bờ biển lục địa châu Âu, họ liền đổ bộ vào bờ biển nước Pháp nơi có vùng duyên hải kéo dài và phòng thủ yếu ớt, nhà vua Pháp đã phải nộp tiền chuộc nhiều lần nhưng toán Viking này ra đi thì toán khác lại kéo đến, đỉnh cao là cuộc vây hãm Paris năm 885-886 của khoảng 3 -> 4 vạn chiến binh Viking và gần 1 nghìn tầu chiến ( đã đề cập đến ở trang 3), mặc dù trận công phá Paris thất bại, người Viking vẫn đi thuyền đánh phá loanh quanh mà không chịu rút ra biển, một thủ lĩnh Viking tên là Rollo (870 – c. 932) quyết định cho quân của mình đổ bộ lên bờ và chiếm đóng thành phố Ruen bên bờ sông Sein của nước Pháp. Vua Pháp lúc đó là Charles Béo mang quân đến để đẩy lui quân xâm lược nhưng ông này thường thua trận nhiều hơn là thắng. Sau gần 30 năm đánh qua đánh lại thì Charles Béo và Rollo quyết định đàn phán hòa bình theo điều ước Treaty of Saint-Clair-sur-Epte năm 911. Theo điều ước này vua pháp tấn phong thủ lĩnh Rollo làm Quận Công ( hàng loạt các thủ lĩnh cỡ nhỏ khác thì làm bá tước, nam tước vv và vv ) và thái ấp được phong của ông ta chính là vùng Normandy ngày nay và gả con gái ( em gái) cho ông ta, đổi lại từ lúc này Rollo phải chở thành chư hầu của nước Pháp, gia nhập đạo Gia tô và có trách nhiệm đánh đuổi bất cứ người Viking nào bén mảng đến bờ biển của nước Pháp
Sơ lược những sự kiện trọng đại ở vùng Normandy và nước Anh từ lúc quận công Rollo lên cầm quyền cho đến hết thế kỷ 13
Năm 911. Điều ước Treaty of Saint-Clair-sur-Epte được ký kết, Rollo thủ lĩnh người Viking trở thành quận công xứ Normandy
Năm 931. Rollo chết và được thừa kế bởi con trai ông ta-Wiliam I Trường kiếm ( Longsword)
Năm 941. Wiliam I Trường kiếm chết và được thừa kế bởi con trai ông ta-Richard Dũng cảm (Richard Fearless)
Năm 996. Richard Dũng cảm chết và được thừa kế bởi con trai ông ta- Richard Tốt bụng ( Richard the good)
Năm 1017. Người lính đánh thuê người Norman xuất hiện ở miền Nam Ytalia
Năm 1026. Richard Tốt bụng chết và được thừa kế bởi con trai ông ta- Richard III
Năm 1027. Richard III chết và được thừa kế bởi em trai ông ta- Robert the Magnificent
Năm 1028. William the Conqueror chào đời
Năm 1035. Robert the Magnificent chết và được thừa kế bởi William II-người con ngoài giá thú của ông ta
Năm 1041. Trận chiến Monte Maggiore. Lính đánh thuê nổi loạn người Italo-Norman ( người Norman đánh thuê tại Ytalia cho triều đình Byzantine) đánh bại quân đội của Đế quốc Byzantine
Năm 1047. Quận công William đánh bại quân nổi loạn người Norman
Năm 1053. Trận Civitate. Quân đội Apilian-Norman đánh bại quân đội của Giáo Hoàng
Năm 1054. Trận Mortemer. Người Norman đánh bại đội quân xâm lược của người Pháp dưới sự chỉ huy của vua Henry I và Geoffrey xứ Anjou
Năm 1057. Trận Varaville. Người Norman đánh tan tác đội hậu quân của vua Henry I và Geoffrey xứ Anjou
Năm 1060. Người Norman bắt đầu xâm chiếm đảo Sicily
Năm 1066 ngày 28 tháng 9. Quận công Wiliam bắt đầu xâm lược nước Anh
Năm 1060. Người Norman bắt đầu xâm chiếm đảo Sicily
Năm 1066 ngày 28 tháng 9. Quận công Wiliam xâm lược nước Anh
Năm 1066 ngày 14 tháng 10. Trận Hastings. Vua Harolf của nước Anh bị đánh bại bởi Quận công Wiliam
Năm 1066 ngày 25 tháng 10. Quận công Wiliam lên ngôi vua nước Anh tại Westminster Abbey
Năm 1070. Cuộc nổi dậy lớn cuối cùng ở nước Anh bị dập tắt
Năm 1071. Người Norman chiến thành phố Bari ( thuộc sở hữu của Byzantine lúc đó)
Năm 1072. Người Norman chiến thành phố Palermo, thủ phủ của Sicily ( thuộc sở hữu của Byzantine lúc đó)
Năm 1079. William bị đánh bại bởi Robert-con trai của ông ta ở Geberoi
Năm 1081. Trận Durazzo. Quân đội Italo-Norman dưới sự chỉ huy của Robert Guiscard và con trai ông ta-Bohemond xứ Taranto, đã đánh bại quân đội Byzantine.
Năm 1087 Ngày 9 tháng 9. Vua William I ( của nước Anh và cũng là William II của Normandy) qua đời. William Rufus thừa kế ngai vàng nước Anh như là William II. Robert trở thành quận công xứ Normandy
Năm 1091. Quá trình xâm lược Sicily của người Norman đã hoàn tất
Năm 1097. Trận Dorylaeum. Quân thập tự chinh lần thứ nhất bao gồm cả quân đội Italo-Norman dưới sự chỉ huy của Bohemond, đã đánh bại quân Thổ nhĩ kỳ bằng một cuộc tấn công bất ngờ của đội hình hình cột thứ 2
Năm 1098. Bohemond chiếm được thành phố Antioch
Năm 1100. Bohemond trở thành Hoàng tử của Antioch. William II bị giết ở New Forest. Người em trai Henry trở thành vua của Anh quốc
Năm1106. Trận Tinchebrai. Henry I đánh bại bỏ tù anh trai của ông ta-Robert xứ Normandy
Năm 1118. Trận Alencon Henry I bị đánh bại bởi Geoffrey xứ Anju khi tìm cách bỏ chạy khỏi lâu đài của mình
Năm 1119. Trận Bremule Henry I đánh bại đội quânm xâm lược của vua Pháp-Lui VI
Năm 1124. Trận Bourgtherouile, các hiệp sỹ cận vệ của Henry I đánh bại quân nổi loạn của Waleran xứ Meulan
Năm 1132. Trận Nocera. Roger II của Sicily bị đánh bại bởi quân nổi loạn Apulian-Norman
Năm 1135. Henry I chết. Nội chiến nổ ra tại nước Anh giữa Stephen-cháu trai của Henry và Mathilda-con gái của ông ta ( vẫn là Henry )
Năm 1138. Trận Standar ( Northallerton). Quân đội của Stephen đánh bại quân đội Scotland của vua David I
Năm 1141. Trận Lincoln. Robert xứ Gloucester và quân nổi loạn đến để giải vây cho thành phố ( nơi mà Mathilda bị bao vây), đánh bại và bắt sống Stephen. Trao đổi Stephen lấy Robert khi mà ông này bị bắt khi cố thoát khỏi Winchester cuối năm đó
Năm 1148. Một tỉnh của người Norman được thành lập tại Bắc Phi
Năm 1154. Vua Stephen chết. Henry II thừa kế ngôi vua-ông này là con trai của Mathilda và Geoffrey, công tước xứ Anjou ( đây chính là dòng họ Plantagenet-một người Pháp, còn đến đây dòng họ của William the Conqueror không còn làm vua nước Anh nữa)
Năm 1160. Tỉnh Norman ở Bắc Phi bị xóa sổ
Năm 1189. Henry II của nước Anh chết và được thừa kế bởi con trai ông ta Richard I ( Lionheart – Risa Sư tử tâm)
Năm 1190. Vua Risa bị bắt giam
Năm 1194. Vua Risa được trả tiền chuộc và được phóng thích. Vương quốc Italia-Sicily của người Norman bị thất thủ vào tay của Hoàng Đế La Mã thánh thần Henry IV ( Hoàng đế Đức-Áo)
Năm 1199. Vua Risa Sư tử tâm chết khi đang vây lâu đài Chalus tại nước Pháp. Ông được thừa kế bởi em trai-Hoàng tử John, gã hoàng tử đểu cáng trong chuyện dân gian Robin Hood hoặc tiểu thuyết Ivanhoe của Anh
Năm 1204. Vùng Normandy thất thủ và rơi vào tay vua Philip của Pháp quốc
Năm 1287. Cảng Lattakieh, cứ điểm cuối cùng của công quốc Antioch rơi vào tay người Hồi giáo. Đến đây thì có thể nói hậu duệ của Quận công Rollo không còn kiểm soát một vùng đất nào ở châu Âu nữa
William the Conqueror ( Guillaume le Conquérant từ năm 1028 -> Ngày 09 tháng 9 1087), còn được gọi là William I của Anh quốc ( 1er Guillaume d’Angleterre ) và William II của Normandy ( Guillaume II de Normandie ), là vị vua Norman đầu tiên của nước Anh kể từ Giáng sinh năm 1066 cho đến khi ông chết. Ông cũng là Công tước của Normandy từ ngày 03 tháng 7 năm 1035 cho đến ngày ông qua đời. Trước khi ông tiến hành cuộc chinh phục của mình vào nước Anh, ông được gọi là William the Bastard – thằng con hoang ( Guillaume le Bâtard ) vì là một người con ngoài giá thú.
Để thực hiện yêu cầu của mình đối với vương miện Anh, William tiến hành xâm lược nước Anh vào năm 1066, ông dẫn đầu một đội quân gồm người Norman , Breton , Fleming và Pháp (từ Paris và Île-de-France ) và đánh bại lực lượng quân đội Anh dưới sự huy của vua Harold Godwinson tại trận Hastings và tiến hành đàn áp các cuộc nổi dậy của người Anh tiếp theo trong cuộc chinh phục của người Norman. Trong thời gian trị vì ông đã đưa văn hóa Pháp Norman vào nước Anh và ông có ảnh hưởng nhiều đến quá trình phát triển của nước Anh vào thời Trung cổ. Chi tiết của các ảnh hưởng và mức độ của nó vẫn còn là vấn đề gây tranh cãi cho các học giả trong nhiều thế kỷ. Ngoài những thay đổi rõ ràng từ giai cấp cai trị, triều đại của ông cũng tiến hành xây dựng hàng loạt các pháo đài, tạo ra những thay đổi trong ngôn ngữ của người Anh , thay đổi trong các tầng lớp cấp cao trong xã hội và nhà thờ, và thậm chí chấp nhận một số khía cạnh của cải cách giáo hội theo xu hướng lục địa châu Âu.
Tuổi trẻ
William được sinh ra trong năm 1027 hoặc năm 1028 tại lâu đài Château de Falaise ở hạt Falaise, Normandy – nước Pháp. William là con trai duy nhất của Robert I, Công tước xứ Normandy , cũng như là cháu trai của hoàng hậu Anh-Emma xứ Normandy, vợ của vua Ethelred Unready và sau đó của vua Knud Đại đế . Mặc dù là một người con ngoài giá thú, cha của ông lại chọn ông làm người thừa kế Normandy. Mẹ ông – bà Herleva là con gái của Fulbert của Falaise, người sau này đã tiếp tục kết hôn và có hai con trai nữa với Herluin de Conteville. Và hai người anh em cùng mẹ khác bố của ông là, Odo xứ Bayeux và Robert-bá tước xứ Mortain , William cũng có một em gái-Adelaide xứ Normandy, một người con của Robert.
William là một người con không hợp pháp và điều này ảnh hưởng đến giai đoạn đầu của cuộc đời ông. Khi còn bé, cuộc sống của ông luôn bị nguy hiểm bởi những người nghĩ rằng họ có quyền thừa kế hợp pháp hơn ông. Một nỗ lực để giết chết William xảy ra khi ông ngủ tại một lâu đài ở Vaudreuil, khi những kẻ giết người đã giết nhầm đứa trẻ ngủ cạnh William. Tuy nhiên, khi cha ông qua đời, ông được công nhận là người thừa kế . Sau đó trong phần còn lại của cuộc đời ông, kẻ thù của ông luôn gọi ông là “William the Bastard-thằng con hoang” và chế giễu ông là con trai của con gái một người thợ thuộc da và các cư dân của thành phố Alençon vốn bị ông bao vây đã treo các tấm da thú trên các bức tường thành phố để chế nhạo ông.
Làm Công tước của xứ Normandy
Theo di chúc của cha mình, William đã thừa kế ông ta như là Công tước của Normandy ở lúc bảy tuổi trong năm 1035. Âm mưu của các quý tộc Norman đối thủ của William là để cướp ngôi báu của ông đã làm ông bị thiệt mạng mất ba người giám hộ, dù Bá tước Alan III của Britanny, người giám hộ sau đó của ông đã không làm được gì, tuy nhiên William đã được sự hỗ trợ của vua Henry I của nước Pháp. Ông đã phong tước hiệp sĩ cho Henry ở tuổi 15. Vào lúc William 19 tuổi, ông đã thành công trong việc đối phó với mối đe dọa từ các cuộc nổi loạn và xâm lược. Với sự giúp đỡ của Henry ( vua Pháp ), cuối cùng William đã lấy lại được quyền kiểm soát bằng cách đánh bại phiến quân Normandy của thủ lĩnh người Norman ở Caen trong trận Val-es-Dunes tại năm 1047, và có được thỏa thuận ngừng chiến với sự hậu thuẫn của Giáo Hội Công Giáo. Chống lại sự sắp đặt của Giáo hoàng Leo IX , William kết hôn với Matilda của Flander năm 1053 tại nhà thờ Notre-Dame thuộc hạt Eu – Normandy ( Seine-Maritime ). Vào lúc đó William khoảng 24 tuổi và Matilda khoảng 22. William được cho là đã được một người chồng trung thành và yêu thương vợ. Cuộc hôn nhân của họ có bốn người con trai và sáu con gái. Trong sự hối cải cho của việc kết hôn là họ hàng (họ là anh em họ xa), William tặng cho Giáo Hội nhà thờ thánh St Stephen (Abbaye-aux-Hommes ) và Matilda tặng cho Giáo Hội nhà thờ Holy Trinity (Abbaye aux Dames ).
Cảm thấy bị đe dọa bởi sự ép ngày càng gia tăng của người Norman từ kết quả của cuộc hôn nhân của William, Henry I của nước Pháp đã cố gắng xâm nhập vào Normandy hai lần ( năm 1054 và 1057) nhưng không thành công. Là một chỉ huy có sức quấn hút William đã thu hút được sự hỗ trợ mạnh mẽ từ người Normandy, bao gồm cả sự trung thành của những người anh em cùng mẹ khác cha như Odo xứ Bayeux và Robert-bá tước xứ Mortain, những người đã đóng vai trò rất quan trọng trong cuộc sống của ông. Sau đó, ông được hưởng lợi từ sự suy yếu thế lực cạnh tranh sau cái chết của Henry I và của Geoffrey II xứ Anjou vào năm 1060. Năm 1062 William xâm chiếm và nắm quyền kiểm soát của các quận vùng Maine vốn là thái ấp của quận công Anjou.
Yêu cầu kế thừa ngôi vị vua nước Anh
Sau cái chết của Edward Confessor-vua nước Anh, người không có con, ngôi vua nước Anh là sự tranh chấp quyết liệt của ba người đòi thừa kế William; Harold Godwinson-Bá tước hùng mạnh mẽ của xứ Wex.s.e.x, vua Harald III của Na Uy-còn được gọi là Harald Hardrada. William có yêu cầu ngai vị thông qua Emma-bà cô tuyệt vời của mình (vợ của Ethelred và mẹ của Edward). William cũng lý luận rằng Edward, người dành phần lớn cuộc đời của ông khi sống lưu vong tại Normandy khi người Đan Mạch chiếm đóng nước Anh, đã hứa nhường ngôi báu cho ông khi ông đến thăm ông ta ( Edward ) ở London năm 1052. Hơn nữa, William cho rằng Harold đã cam kết trung thành với ông trong năm 1064: William đã cứu Harold, lúc đó đang đắm tàu ở Ponthieu và họ đã cùng nhau đánh bại Conan II, Công tước xứ Brittany . Nhân dịp này William đã phong tước hiệp sĩ cho Harold…
Tuy nhiên, trong tháng 1 năm 1066, theo di chúc cuối cùng của Edward và theo sự bầu chọn của Witenagemot , Harold Godwinson đã được đội vương miện bởi Đức Tổng-Giám-mục Aldred.
Người Norman xâm lược
Trong khi đó, William gửi yêu cầu về ngôi báu nước Anh lên Đức Giáo Hoàng Alexander II , người đã cấp cho ông ta một sự hỗ trợ về mặt Tôn giáo. Sau đó, William đã tổ chức một hội đồng quân sự tại Lillebonne và trong tháng 1 đã bắt đầu bắt tập hợp một cách công khai một đội quân ở Normandy. Với lời hứa hẹn về đất đai và các và các chức tước ở Anh, ông đã tập hợp được ở Dives-sur-Mer một hạm đội xâm lược lớn, được cho là có 696 chiếc tầu. Hạm đội này có thể chuyên chở được một đội quân xâm lược trong đó bao gồm cả các toán quân nhở người Pháp và các vùng lãnh thổ chính của William ở Normandy và Maine, số lượng lớn lính đánh thuê, các đồng minh và lính tình nguyện từ Anh, phía đông bắc nước Pháp và Flanders, cùng với một số lượng nhỏ những người từ các vùng khác của nước Pháp và từ các thuộc địa Norman ở miền nam Italy. Ở Anh, Harold đã cho tập hợp một đội quân lớn trên bờ biển phía nam và một đội tàu để bảo vệ kênh English Channel.
Tình cờ ngẩu nhiên cho William, ông đã bị trì hoãn tám tháng bởi gió không thuận lợi. William đã cố gắng để giữ cho quân đội của mình không bị tan rã trong thời gian chờ đợi, nhưng quân đội của Harold đã bị ran rã do suy giảm nguồn cung cấp và xuống tinh thần. Với việc thu hoạch mùa vụ đã đến, ông cho giải tán quân đội của mình vào ngày 8 tháng 9 năm 1066. Harold cũng hợp nhất các tàu của mình ở London làm cho English Channel không có bảo vệ. Sau đó, khi một tin tức rằng đối thủ khác đến để cướp ngôi, Harald III của Na Uy cùng đồng minh là Tostig Godwinson, đã đổ bộ mười dặm cách York 10 dặm. Harold cho di chuyển quân đội của mình đến chỗ đó và sau một ngày chiến đấu, ngày 4 tháng 30 Harol đã đánh bại Harald và Tostig ngày 25 tháng 9.
Ngày 12 tháng 9 hướng gió mà William cần đã quay lại và ông cho hạm đội của mình xuất phát. Một cơn bão thổi lên và hạm đội đã buộc phải tạm trú ở Saint-Valery-sur-Somme và một lần nữa lại chờ đợi gió đổi chiều. Vào ngày 27 tháng 9 hạm đội Norman cuối cùng giong được buồm và đổ bộ vào nước Anh ở Pevensey Bay ( thuộc vùng Suss.e.x ) vào ngày 28 tháng 9. Sau đó William chuyển đến Hastings-một vài dặm về phía đông, nơi ông đã cho xây dựng một pháo đài thô sơ bằng gỗ để làm căn cứ hoạt động. Từ đó, ông đã tàn phá các vùng đất miền duyên hải và đợi Harold quay chở lại từ phía bắc.
William đã chọn Hastings vì nó ở phần cuối của một bán đảo dài hai bên sườn có những đầm lầy không thể đi qua. Trận chiến sẽ xảy ra trên eo đất này. William cùng cho xây dựng cùng lúc một pháo đài ở Hastings để bảo vệ phía sau lưng của mình để chống lại khả năng có một hạm đội của Harold xuất hiện từ London. Sau khi cho quân đội của mình đổ bộ, William ít quan tâm đến việc đào ngũ và có thể đã phải chờ đợi trong các cơn bão của mùa đông và tiến hành đột kích vào khu vực xung quanh để kiếm cỏ cho ngựa và bắt đầu một chiến dịch vào mùa xuân. Harold đã cho cho do thám khu vực miền Nam nước Anh một thời gian và đánh giá cao sự cần thiết phải ngay lập tức chiếm lấy eo đất này
Trận Hastings ( sẽ được bày trình ở một phần riêng)
Hành quân tới London
Trong hai tuần ( sau trận Hastings ), William đã chờ một sự đầu hàng chính thức của vua Anh, nhưng hội nghị Witenagemot tuyên bố Edgar Ætheling trẻ tuổi làm vua thay vì ông ta mặc dù không có lễ đăng quang. Như vậy, mục tiêu tiếp theo của William là London, và để tiến được đó ông sẽ vượt qua các vùng lãnh thổ quan trọng như Kent, Dover và Canterbury và làm lan truyền sự sợ hãi vào cư dân Anh ở dọc đường. Tuy nhiên, tại trước cổng thành London, William đã bị đẩy lui trở lại London Bridge , và ông quyết định tiến quân về phía tây và tấn công một cách dữ dội từ phía tây bắc London. Sau khi nhận được quân tiếp viện từ lục địa, William vượt qua sông Thames ở Wallingford và ông buộc Đức Tổng-Giám-mục Stigand phải đầu hàng (một trong những thủ lãnh đạo ủng hộ Edgar) vào đầu tháng Mười Hai. William đến được Berkhamsted một vài ngày sau khi cá nhân Ætheling chấp nhận từ bỏ vương miện vua Anh và các quý tộc Saxon của nước Anh đã kiệt sức và quyết định đầu hàng một cách dứt khoát. Mặc dù sau đó William đã được hoan nghênh là vua của Anh quốc, ông đã yêu cầu một lễ đăng quang tại London. Được tấn phong làm William I, ông chính thức đăng quang vào ngày Giáng Sinh năm 1066 tại Westminster Abbey và buổi lễ được tổ chức bởi Đức Tổng-Giám-mục Aldred. Buổi lễ không diễn ra một cách hòa bình. Khi Aldred hỏi giáo đoàn “Liệu bạn có chấp nhận vị hoàng tử này là vua của bạn”, họ trả lời với nhiều tiếng la hét. Lính Norman đóng quân ở bên ngoài cho rằng người Anh đang nổi loạn liền châm lửa đốt các ngôi nhà lân cận. Một nhà thầy tu người Norman sau này đã viết “Khi ngọn lửa lan nhanh, những người trong nhà thờ trở nên lộn xộn và đám đông trong số họ vội vàng lao ra bên ngoài, một số cố gắng để dập tắt lửa, những người khác tìm cơ hội để đi cướp bóc. “
Đối với William I, những điều tồi tệ nhất đến từ Northumbria nhưng chúng cũng không làm lung lay nổi chế độ của ông. Năm 1068, dưới sự lãnh đạo của Edgar Ætheling cả Mercia và Northumbria đều cùng nổi dậy. William có thể trấn áp được cuộc nổi dậy này, nhưng Edgar đã chạy trốn đến Scotland, nơi Malcolm III của Scotland bảo vệ ông. Hơn nữa, Malcolm đã cưới Margaret-em gái của Edgar để tạo sự cân bằng quyền lực giữa người Anh và William. Trong thời gian này, người Northumbria nổi dậy và bao vây York. Sau đó, Edgar cầu viện binh từ ngưo Đan Mạch, những người đã đổ bộ xuống từ một hạm đội lớn tại Northumbria, tuyên bố vương miện nước Anh phải thuộc về Sweyn II-vua của họ . Người Scotland cũng tham gia vào các cuộc nổi dậy. Quân nổi dậy dễ dàng chiếm thành phố York và pháo đài của nó. Tuy nhiên, William đã có thể kìm chân họ ở Lincoln. Sau khi đối phó với một loạt các cuộc nổi dậy mới ở miền tây Mercia, Exeter, Dorset và Somerset, William đánh bại kẻ thù của ông ở phía bắc tại trận đánh quyết định ở sông Aire, chiếm lấy York trong khi ép được quân đội Đan Mạch phải xuống tầu của họ để về nước.
William sau đó đã tàn phá vùng Northumbria ở giữa sông Humber và Tees với những gì được mô tả như tàn phá một cách tàn bạo miền Bắc nước Anh. Việc tàn phá này bao gồm đốt cháy các khu rừng, nhà cửa và thậm chí cả các công cụ để trồng trọt và các cánh đồng. Sau khi bị triệt hạ, đất đai ở khu này không thể phục hồi trong hơn 100 năm. Vùng này hoàn toàn bị triệt hạ và bị mất quyền tự trị truyền thống của nó ở trong nước Anh. Tuy nhiên có thể có thể nói biện pháp này đã ngăn chặn được các cuộc nổi loạn trong tương lai, làm cho người Anh trở thành biết vâng lời. Sau đó đích thân nhà vua Đan Mạch lên tầu mang theo quân đội của mình để khởi động lại một cuộc chiến tranh mới, nhưng William đã chặn đứng mối đe dọa này bằng một khoản tiền vàng lớn. Năm 1071, William đánh bại cuộc nổi loạn cuối cùng của phía Bắc bằng một thiết bị cầu phao và chế phục được Đảo Ely, nơi người Đan Mạch đang chiếm đóng. Năm 1072, ông xâm lược Scotland, đánh bại Malcolm-lúc vừa mới xâm chiếm miền Bắc nước Anh. William và Malcolm đã đồng ý ký kết Hiệp ước hòa bình Abernethy và Malcolm đã phải giao-Duncan con trai mình làm con tin để đổi lấy bình. Năm 1074, Edgar Ætheling hoàn toàn quy hàng William.
Trong năm 1075, với sự vắng mặt của William, cuộc nổi dậy của các Bá tước đã được kiểm soát một cách thành công bởi Odo. Năm 1080, William gửi những người anh cùng mẹ khác cha với mình là Odo và Robert tấn công Northumbria và Scotland. Cuối cùng khi Đức Giáo Hoàng đã phải lên tiếng phản đối rằng người Norman đã ngược đãi người Anh ( Saxon ) một cách quá mức. Trước khi dẹp yên các cuộc nổi loạn, William đã hoà giải với nhà thờ Anh, tuy nhiên sau đó ông lại bức hại nó một cách mãnh liệt ( nhà thờ có tiền của, bức hại nhà thờ để lấy tiền của ).
Sự cai trị của William ở Anh
Các sự kiện
Như sẽ tạo thói quen cho con cháu của ông, William dành nhiều thời gian của mình (11 năm, kể từ năm 1072) ở Normandy và đưa ra các phán quyết thông qua các writ ( người được ủy quyền) của ông. Trên danh nghĩa vẫn là một nước chư hầu và phải trung thành một cách hoàn toàn với vua Pháp, xứ Normandy đột nhiên trở nên là một thế lực trong khu vực, và làm các công tước Pháp khác phản ứng bằng cách liên tục tấn công vào công quốc (Normandy). Khi William tập trung vào việc chinh phục xứ Brittany (xứ Brittany của nước Pháp chứ không phải nước Anh ) thì vua Pháp Philip I có lời khiển trách ông ta. Một hiệp ước được ký kết sau một cuộc xâm lược của ông vào xứ Brittany bị hủy bỏ trong năm 1076 và William đính hôn Constance với Breton-con trai của Công tước Hoel và là Alan IV của xứ Brittany trong tương lai. Đám cưới diễn ra trong năm 1086, sau khi Alan kế thừa ngai vị Constance đã chết mà không có con một vài năm sau đó.
Robert-con trai lớn tuổi của William, tức giận với một trò đùa của Henry và William Rufus- những người anh em của ông đã dội nước bẩn vào ông ta, ông này (Robert ) đã tiến hành những gì mà sau đó đã trở thành một cuộc nổi loạn quy mô lớn của mình chống lại người cha. Chỉ với hỗ trợ quân sự bổ sung của vua Philip, William mới có thể đối đầu được với Robert, người sau đó đóng Tổng hành dinh tại Flander. Trong trận chiến năm 1079, William đã bị ngã ngựa và bị thương bởi Robert, người chỉ hạ thanh kiếm của mình xuống sau khi nhận ra ông ta. William bối rối quay trở lại Rouen và từ bỏ chuyến chinh phạt. Năm 1080, Matilda dàn hòa cho hai người và phục hồi quyền thừa kế của Robert.
Odo ( người anh cùng mẹ khác cha của William ) gây ra quá nhiều rắc rối cho William và đã bị bỏ tù năm 1082, rồi bị tịch thu toàn bộ của mình ở Anh và bị cắt bỏ tất cả các tước vị trong hoàng gia, nhưng vẫn được giữ danh hiệu tôn giáo của mình. Năm 1083, Matilda chết và William trở thành độc tôn trong các lãnh địa của mình.
Các cải cách của William the Conqueror
William khởi xướng nhiều thay đổi lớn. Ông tăng thêm chức năng của các shire (khu vực hành chính tự trị) truyền thống của Anh, mà ông đặt dưới quyền quản lý của Trung ương; ông giảm quyền lực của Bá tước bằng cách hạn chế họ ở trong một phần của một shire. Tất cả các chức năng hành chính của chính phủ của ông vẫn đặt ở các thị trấn cụ thể của Anh, ngoại trừ bản thân các tòa án chính và chúng dần dần được bổ sung, các cơ quan quyền lực này của Anh đã trở nên tinh vi nhất ở châu Âu. Năm 1085, để xác định mức độ mở rộng của lãnh địa mới của mình và cải thiện việc thu thuế, William giao nhiệm vụ cho các cố vấn của mình biên soạn quấn sách Domesday, quấn này được xuất bản năm 1086. Cuốn sách là một cuộc khảo sát năng lực sản xuất của Anh tương tự như một điều tra dân số hiện đại.
William cũng đã ra lệnh cho xây dựng nhiều lâu đài, hệ thống tháp canh phòng thủ, trong đó có nền móng của Tháp London ( tháp trắng ), được xây dựng trên khắp nước Anh. Những hệ thống này đảm bảo ngăn chặn hiệu quả rất nhiều cuộc nổi dậy của người dân Anh hoặc những người không được kế vị nổi loạn.
Cuộc chinh phục của ông cũng đã dẫn tới dùng tiếng Pháp (đặc biệt, nhưng không chỉ là ngôn ngữ Pháp-Norman ) để thay thế tiếng Anh vốn là ngôn ngữ của tầng lớp thống trị trong gần 300 năm. Trong khi trong năm 1066 ít hơn 30% số chủ sở hữu không có cái bằng tiếng Anh tên, thì vào năm 1207 con số này đã tăng lên hơn 80% với những cái tên Pháp như William, Robert và Richard là phổ biến nhất. Hơn nữa, văn hóa Anglo-Saxon bản địa của nước Anh đã hoà quyện làm một với văn hóa Norman do đó một nền văn hóa mới-Anglo-Norman ra đời.
William được cho là đã loại bỏ các tầng lớp quý tộc bản địa trong ít nhất là bốn năm. Ông đã tước đoạt một cách có hệ thống tài sản của những quý tộc người Anh ( người Saxon ) hoặc người Norman chống đối hoặc những người đã chết mà không có di chúc. Do đó, các tài sản và các chức danh danh tiếng nhất của giới quý tộc đã được giao cho các quý tộc Norman. Nhiều quý tộc Anh đã bỏ trốn sang Flanders và Scotland, những người khác có thể đã được bán thành nô lệ ở nước ngoài. Một số trốn thoát để gia nhập đội vệ binh Varangian Guard của đế quốc Byzantine và tiếp tục chiến đấu với người Norman ở Sicily. Mặc dù ban đầu William cho phép các lãnh chúa người Anh được giữ đất đai của họ nếu họ chịu quy thuận, nhưng vào năm 1070, giới quý tộc bản địa đã không còn chiếm một phần lớn ruộng đất của nước Anh và năm 1086 họ chỉ duy trì kiểm soát có 8% diện tích đất ban đầu mà họ nắm giữ . Hơn 4.000 lãnh chúa người Anh đã bị mất đất đai của họ và bị thay thế, chỉ có hai lãnh chúa người Anh còn giá trị nào đó còn sót laị. Tuy nhiên, đối với các quý tộc Norman mới, William giao cho họ từng phần đất Anh đã được chia thửa, phân phát một cách rộng rãi cho những người này,để đảm bảo không ai thử âm mưu chống lại ông mà không bị nguy hiểm đến tài sản của mình trong thời buổi vẫn còn nhiều bất ổn sau cuộc xâm lược vào nước Anh. Hiệu quả là điều này đã củng cố vị trí chính trị nổi bật của William như là một quốc vương.
Sử gia thời Trung cổ William xứ Malmesbury nói rằng nhà vua cũng cho tịch thu và bỏ hoang nhiều dặm đất (của 36 giáo xứ ), biến nó thành khu vực rừng New Forest của hoàng gia để thưởng thức thú săn bắn của mình. Tuy nhiên, các sử gia hiện đại đã kết luận rằng việc xua đuổi dân để lập rừng New Forest có nhiều phóng đại. Hầu hết các vùng đất của rừng New Forest rất khó để canh tác nông nghiệp và các nhà khảo cổ học và nghiên cứu địa lý đã chỉ ra rằng các rừng New Forest này rất thưa thớt và chỉ có một khả năng sử lý là biến chúng thành một khu rừng hoàng gia.
Cái chết của William the Conqueror
Năm 1087 ở Pháp William tấn công Mantes (ở khoảng 30 dặm [50 km] về phía tây của Paris), và bao vây thị trấn. Tuy nhiên, ông đã ngã ngựa, bị chấn thương vùng bụng gây ra tử vong. Trên giường bệnh William chia thừa kế tài sản của ông cho các con trai của mình, kết quả là lại làm dấy lên sự xung đột giữa bọn họ . Mặc dù William cũng không muốn lắm nhưng Robert-người con trai cả đã từng chiến đấu chống lại ông đã nhận được quyền thừa kế Công quốc Normandy, như là Robert II. William Rufus (con trai thứ ba của ông) kế vị ngôi vua nước Anh như là William II. Henry-con trai út của William nhận được 5.000 pound bạc, khoản tiền được dùng để mua đất. Ông này sau đó trở thành vua Henry I của Anh sau khi William II qua đời mà không có con cái gì. Trong khi còn nằm trên giường bệnh, William ân xá cho nhiều đối thủ chính trị của ông bao gồm cả Odo.
William qua đời ở tuổi 59 tại Convent of St Gervais ở Rouen, thành phố thủ phủ của vùng Normandy, vào ngày 09 tháng 9 năm 1087. William đã được chôn tại Abbaye aux-Hommes và sau này ông đã được dựng tượng tại Caen, Normandy.
Harold Godwinson
Harold Godwinson (hoặc Harold II ) ( tiếng Anh : Harold Gōdwines sunu ) ( năm 1022 – ngày 14 tháng 10 năm 1066) là vị vua Anglo-Saxon cuối cùng của nước Anh. Harold trị vì từ 6 tháng 1 năm 1066 cho đến khi ông chết trong trận Hastings, ngày 14 tháng 10 của năm đó, trong cuộc chiến đấu để ngăn chặn cuộc xâm lược của người Norman do William the Conqueror chỉ huy trong cuộc chinh phục của người Norman vào nước Anh. Harold là một trong ba vị vua của nước Anh đã chết trong chiến trận, các vị vua kia là Richard Lionheart ( Risa Sư tử tâm ) và Richard III ( hai vị vua sau đều là giòng Plantagenet).
Nguồn gốc gia đình
Harold là một con trai của Godwin-Bá tước hùng mạnh xứ Wess.e.x và vợ của ông là Gytha Thorkelsdóttir,
Godwin và Gytha có nhiều con cái, những người con trai đặc biệt là Sweyn, Harold, Tostig, Gyrth và Leofwine và một người con gái-Edith xứ Wess.e.x (năm 1029-1075), người đã trở thành Hoàng hậu của vua Edward the Confessor.
Một nhà quý tộc mạnh mẽ
Như là kết quả của cuộc hôn nhân của chị gái của mình với nhà vua, Harold-người con trai thứ hai của Godwin, trở thành Bá tước Đông Anglia năm 1045. Harold phải đi sống lưu vong cùng cha mình năm 1051, nhưng đã giúp ông lấy lại vị trí của mình một năm sau đó. Khi Godwin chết trong năm 1053 Harold đã thừa kế ông làm Bá tước xứ Wess.e.x (một tỉnh ở thời điểm đó bao gồm các vùng phía Nam của nước Anh). Sự kiện này làm cho ông ta chở thành nhân vật có quyền lực nhất ở nước Anh chỉ sau có nhà vua.
Năm 1058, Harold cũng đã trở thành Bá tước xứ Hereford và thay thế người cha quá cố của mình để trở thành thủ lĩnh của phe chống đối các ảnh hưởng ngày càng tăng của người Norman ở Anh sau khi phục hồi lại được ngôi vua của Anh cho nhà vua Edward the Confessor (1042-1066), người đã có hơn 25 năm sống lưu vong ở Normandy. Ông đã đạt được vinh quang trong một loạt các chiến dịch (1062-1063) khi chống lại Llywelyn ap Gruffydd của Gwynedd, người cai trị xứ Wales. Cuộc xung đột này đã kết thúc với thất bại hoàn toàn của Gruffydd và ông này đã bị giết chết bởi chính quân đội của ông ta trong năm 1063.
Trong năm 1064, dường như Harold bị đắm tàu ở Ponthieu. Có nhiều sự suy đoán về chuyến đi này. Theo các tài liệu sớm nhất người Norman ngay sau cuộc chinh phục ghi lại rằng ở một khoảng thời gian trước đó, Robert, Tổng-Giám-Mục Canterbury đã được gửi bởi vị vua không có con nối dõi để bổ nhiệm William xứ Normandy làm người thừa kế về đằng bên ngoại của Edward và nói rằng ngay sau đó Harold đã gửi đến lời thề trung thành ( với William ). Các nhà học giả đã không đồng ý với độ tin cậy của câu chuyện này. Ít nhất là dường như William đã tin rằng ông được kế, nhưng cũng có thể William đã bị nhầm lẫn hoặc có thể do cả hai người ( đều bị nhầm), bởi vì lúc đó việc thừa kế ngôi vua Anh không được xác định bởi vị vua đang trị vì. Thay vào đó, Witenagemot- một đội ngũ những danh nhân hàng đầu của vương quốc sẽ được triệu tập sau khi nhà vua từ trần để chọn một người kế nhiệm. Các ứng xử khác của Edward không phù hợp với những gì ông đã hứa, chẳng hạn như những nỗ lực của ông để gọi lại cháu trai của ông-Edward Kẻ bị lưu đầy, con trai của vua Edmund Ironside, từ Hungary về năm 1057. Sau đó các sử gia Norman đưa ra một cách giải thích khác cho cuộc hành trình Harold, rằng ông đang tìm cách giải thoát cho các thành viên của gia đình người bị bắt làm con tin từ cuộc lưu đầy của Godwin năm 1051, hoặc thậm chí rằng ông đã chỉ đơn giản là đang đi dọc theo bờ biển của nước Anh và đánh bắt cá, họ phải dong buồm ra khỏi Englisg Chanel vì một cơn bão bất ngờ. Có sự nhất trí chung rằng ông đã rời khỏi Bosham và bị gió thổi lạc hướng đi rồi phải đổ bộ xuống bờ biển Ponthieu, nơi ông bị bắt giữ làm con tin bởi Công tước Guy. Công tước William đến đó ngay lập tức và ra lệnh cho Guy giải Harold qua chỗ ông ta. Dường như sau đó Harold đi cùng với William để chiến đấu chống lại Conan II, Công tước xứ Brittany-kẻ thù của William . Trong khi tiến vào Brittany, ngang qua tu viện kiên cố Mont St Michel, Harold được ghi lại là đã giải cứu hai binh sĩ của William từ cát lún. Họ theo đuổi Conan từ Dol de Bretagne đến Rennes và cuối cùng là đến Dinan, nơi ông này đầu hàng và giao chiếc chìa khóa của chiếc pháo đài trên mũi của một ngọn giáo. William đã cho Harold xem các đồ binh giáp và các hiệp sỹ của ông ta. Các tài liệu của Tapestry Bayeux và các nguồn Norman khác sau đó ghi lại rằng Harold đã thề trước các chứng tích thiêng liêng và trước William rằng sẽ hỗ trợ việc ông này lên ngôi vua nước Anh. Sau cái chết của Harold, người Norman đã ngay lập tức cáo buộc rằng khi nhận vương miện nước Anh, Harold đã tự phản bội lời thề của mình.
Do Tostig đã cho tăng gấp đôi thuế má một cách bất công vào năm 1065 và điều này đe dọa gây ra một cuộc nội chiến trong nước Anh, Harold đã hỗ trợ người Northumbrian nổi dậy chống lại Tostig-anh trai của ông và thay thế ông ta bằng Morcar. Sự kiện này củng cố việc chấp nhận ông như là người kế nhiệm Edward, nhưng đã làm chia gia đình ông một cách chết người và đẩy Tostig sang liên minh với vua Harald Hardrada của Na Uy .
Hôn nhân và con cái
Ở tuổi khoảng 25 Harold kết hôn với Edith Swannesha và có ít nhất sáu người con với bà ta. Cuộc hôn nhân này được chấp nhận rộng rãi bởi các giáo dân, mặc dù Edith bị coi chỉ là tình nhân của Harold bởi các giáo sĩ. Con cái của họ đã không bị coi là ngoài giá thú.
Theo Orderic Vitalis, Harold đã từng đính hôn với Adeliza-con gái của William, Công tước xứ Normandy, sau này là William the Conqueror, vì thế mà bà này đã không bao giờ lấy chồng nữa.
Vào tháng 1 năm 1066, Harold kết hôn với Edith (hoặc Ealdgyth), con gái của Ælfgar-Bá tước xứ Mercia và là quả phụ của hoàng tử xứ Wales ap Gruffydd Llywelyn-một kẻ thù của người Anh. Edith có hai con trai – có thể là sinh đôi tên là Harold và Ulf (sinh c. Tháng 11 năm 1066), cả hai đều sống sót đến khi trưởng thành và có lẽ đã phải sống cuộc sống lưu vong.
Sau khi chồng bà qua đời, người ta nói rằng hoàng hậu đã tị nạn ở chỗ người anh em mình, Edwin-Bá tước xứ Mercia và Morcar xứ Northumbria nhưng cả hai người này ban đầu chấp nhận chung sống hòa bình với quân xâm lược sau đó lại nổi loạn và bị mất cả cuộc sống lẫn đất đai của họ, còn Aldith có thể lại phải chạy trốn ra nước ngoài. Godwine và Edmund-hai con trai của Harold chạy sang Ireland và sau đó chiếm lấy Devon nhưng bị đánh bại bởi Brian của Brittany.
Cai trị như là vua của nước Anh
Vào cuối 1065, vua Edward the Confessor ốm nặng và rơi vào hôn mê mà không nói rõ rằng ông muốn ai kế vị. Ngày 05 tháng 1 năm 1066, theo quấn sách sửVita Ædwardi Regis, ông qua đời, nhưng trước khi chết ông lấy lại được ý thức trong một khoảng khắc ngắn ngủi và trao vợ góa của ông và vương quốc dưới sự bảo vệ “của Harold.” Đoạn tài liệu này cũng ghi chép một cách mơ hồ, tương tự như quấn Tapestry Bayeux, chỉ đơn giản mô tả rằng Edward chỉ vào một người đàn ông mà ông nghĩ rằng đó là Harold. Khi Witenagemot được triệu tập vào ngày hôm sau, họ chọn Harold làm người thừa kế và tổ chức lễ đăng quang ngay sau ngày 6 tháng Giêng, rất có thể buổi lễ đã được tổ chức tại Westminster Abbey , tuy nhiên không còn có bằng chứng để xác nhận điều này. Mặc dù các nguồn tài liệu của Norman sau đó cố mô tả rằng lễ đăng quang này được tổ chức một cách nhanh chóng, nhưng dường như nó được tiến hành bởi tất cả quý tộc của nước Anh đang có mặt tại Westminster để dự lễ Hiển Linh chứ không phải vì Harold cố gắng tìm cách tiếm ngôi vị.
Vào đầu tháng Giêng 1066, khi nghe rằng Harold đã lên ngôi vua, William-Công tước xứ Normandy ngay lập tức bắt đầu kế hoạch xâm lược bằng cách xây dựng một hạm đội gồm 700 tàu chiến và tàu vận tải tại Dives-sur-Mer trên bờ biển Normandy. Ban đầu, William không có được sự hỗ trợ cho cuộc xâm lược, nhưng khi ông này tuyên bố rằng Harold đã tuyên thệ trước các di tích thiêng liêng để hỗ trợ cho yêu cầu về ngai vàng của ông ta (William ) sau khi bị đắm tàu ở Ponthieu, William đã được phước lành của Giáo Hội và nhiê nhà quý tộc kéo đến để tham gia vào cuộc phục của ông. Phán đoán về cuộc xâm lược, Harold cho tập hợp quân của ông ở trên đảo Wight, nhưng do gió không thuận lợi nên hạm đội xâm lược vẫn ở lại cảng. Ngày 08 tháng 9 vì cạn nguồn cung cấp nên Harold phải giải tán quân đội và ông trở về London. Cùng ngày Hardrada Harald của Na Uy, người cũng tuyên bố đòi sở hữu vương miện nước Anh cùng với Tostig đã tiến hành một cuộc xâm lược và đổ bộ hạm đội của mình xuống sông Tyne.
Lúc này mục tiêu của cuộc xâm lược là thành phố Yorkshire, Harald Hardrada và Tostig đánh bại các bá tước người Anh-Edwin xứ Mercia và Morcar xứ Northumbria tại trận Fulford ở gần York vào ngày 20 tháng Chín. Họ đã lần lượt bị đánh bại và bị giết bởi quân đội của Harold năm ngày sau đó tại trận Stamford Bridge, Harold đã dẫn quân của mình về phía bắc trong một cuộc hành quân bốn ngày từ London và bắt gặp họ một cách bất ngờ. Theo Snorri Sturluson, trước khi trận đánh nổ ra có một người đàn ông dũng cảm cưỡi ngựa đến gặp Harald Hardrada và Tostig và nói với Tostig rằng sẽ trả lại lãnh địa bá tước cho ông ta nếu ông ta chịu rời bỏ Harald Hardrada. Khi Tostig hỏi Harold anh trai của ông sẽ sẵn sàng cho Harald Hardrada những thứ gì để ông ta chấm dứt những rắc rối của mình, người kỵ sĩ trả lời rằng ông sẽ cho Hardrada 7 tấc đất ( foot) vì ông này cao hơn những người đàn ông khác. Harald Hardrada rất có ấn tượng về người kỵ sĩ và hỏi Tostig tên của người đó, Tostig trả lời rằng người kỵ sĩ không ai khác mà chính là Harold Godwinson. Theo Henry xứ Huntingdon, thì Harold trả lời ” 6 tấc đất hoặc là nhiều hơn nữa nếu như hắn muốn, vì dường như là hắn cao hơn so với hầu hết mọi người “. Tuy nhiên câu chuyện này dường như chỉ là truyền thuyết.
Tostig Godwinson (anh/ em trai của vua Harold)
Tuổi trẻ
Tostig là con trai thứ ba của Godwin-Bá tước xứ Wes.s.e.x và Kent, và Gytha (mất năm 1053) với vợ là con gái của Thorgils Sprakaleg. Năm 1051, ông kết hôn với Judith, con gái của Bá tước Baldwin IV, em gái cùng cha khác mẹ của Baldwin V xứ Flanders và là dì của Matilda-người kết hôn với William the Conqueror. Quấn sách Domesday ghi 26 làng mạc, thị trấn được nắm giữ bởi bá tước Tostig tạo thành Manor của Hougun.
Bá tước của xứ Northumbria
Năm 1051, Tostig và cha của ông bị trục xuất khỏi nước Anh nhưng họ lại quay trở lại trong năm 1052. Ba năm sau đó trong năm 1055, Tostig trở thành Bá tước Northumbria sau cái chết của bá tước Siward.
Tostig dường như đã gặp một số khó khăn khi quản lý Northumbria. Ông không bao giờ thân thiện được với tầng lớp quý tộc ở Northumbrian, họ là hậu duệ của các Viking người Đan Mạch và những nạn nhân người Anglo Saxon của cuộc xâm lược cuối cùng của người Bắc Âu. Tostig được cho là đã nặng tay với những người chống đối lại sự cai trị của mình, bao gồm cả các vụ trừ khử một số thành viên trong các gia tộc hàng đầu của Northumbrian. Vào cuối năm 1063 hoặc đầu 1064, Tostig đã cho ám sát Gamal-con trai của Orm và Ulf-con trai của Dolfin, bị khi họ đến thăm ông trong để tiến hành đàn phán. Ngoài ra quấnEdwardi Vita cũng nói rằng ông này đã “đà áp [các những người Northumbrians] với cái ách nặng nề của “sự cai trị của ông.
Ông cũng thường xuyên vắng mặt tại triều đình của Vua Edward ở phía nam và có thể thấy ông cũng thiếu nhiệt tình trong việc chỉ huy để chống lại các đợt đột kích của người Scot. Vua của họ là một người bạn cá nhân của Tostig và Tostig rất lạ là dường như không muốn tuyển mộ binh lính địa phương để chống lại họ. Ông muốn sử dụng một lực lượng mạnh mẽ bao gồm lính đánh thuê người Đan Mạch làm lực lượng chính của ông, một chính sách tốn kém và gây bất mãn (chỉ huy của lực lượng lính đánh thuê này sau đó đã bị tàn sát bởi quân phiến loạn). Những thành kiến về mặt địa phương có thể cũng đã đóng một phần. Tostig là người đến từ miền nam nước Anh, một nền văn hóa khác biệt một cách rõ rệt với phía bắc, mà đã không có một bá tước miền Nam nào cai trị ở đó trong một thời gian dài. Vào năm 1063, nền chính trị địa phương của Northumbria vẫn còn chìm trong sự lúng túng, danh tiếng của ông dường như bị xuy giảm mạnh. Nhiều người trong số các cư dân của Northumbria là người Đan Mạch, những người thường phải trả ít thuế hơn so với các thành phần khác của nước Anh. Tuy nhiên, khi cuộc chiến tại xứ Wales nổ ra, Tostig là một chỉ huy quan trọng trong cuộc chiến khi tấn công từ phía bắc, trong khi Harold-anh trai của ông lại hành quân từ phía nam.
Tostig Godwinson bị truất quyền bởi Harold-anh trai của ông và các thegns của Northumbria
Ngày 03 tháng 10 năm 1065, các thegns ( các khu quân sự được tổ chức bởi người Saxon) của Yorkshire và các phần còn lại của Yorkshire tiến xuống York và chiếm đóng thành phố. Họ giết những người ủng hộ và các chỉ huy quân sự của Tostig, rồi sau đó tuyên bố loại Tostig ra ngoài vòng pháp luật vì những hành động bất hợp pháp của ông ta và chọn Morcar-em trai của Edwin, Bá tước xứ Mercia là bá tước của họ. Các phiến quân miền Bắc đã hành quân về phía nam để tăng áp lực với vua Edward về trường hợp của họ với. Họ được tham gia bởi Earl Edwin và lực lượng của ông này tại Northampton. Ở đó, họ đã được trả lời bởi Bá tước Harold, người được gửi đến bởi vua Edward để thương lượng với họ và do đó đã không mang theo lực lượng của mình. Sau khi Harold, vào lúc này đã trở thành cánh tay phải của nhà vua, đã nói với các phiến quân tại Northampton rằng ông nhận thấy Tostig sẽ không thể được tiếp tục cai trị ở Northumbria. Khi ông trở lại Oxford, nơi mà các hội đồng hoàng gia đang họp mặt vào ngày 28 tháng 10, ông đã có thể đạt được quyết tâm của mình.
Lưu vong và nổi loạn
Harold Godwinson thuyết phục vua Edward the Confessor đồng ý với các yêu cầu của các phiến quân. Tostig bị đặt ra ngoài vòng pháp luật một thời gian ngắn sau đó, có thể là trong đầu tháng 11, bởi vì ông đã từ chối chấp nhận bị kiểm soát bởi Edward. Sự kiện này dẫn đến một sự đối đầu chết người và tình trạng thù địch giữa hai anh em nhà Godwinsons. Tại một cuộc họp của nhà vua và trước hội đồng của ông ta, Tostig công khai cáo buộc rằng Harold đã kích động các cuộc nổi loạn. Harold lúc này quan tâm đến việc thống nhất nước Anh để đối mặt với mối đe dọa nghiêm trọng từ William xứ Normandy, người đã công khai tuyên bố ý định của mình để lấy ngôi vua Anh. Khả năng là Harold đã cho lưu đày em trai của mình để đảm bảo hòa bình và sự trung thành ở phía bắc. Tuy nhiên Tostig vẫn còn hoài nghi và âm mưu trả thù.
Tostig đã xuống tàu cùng với gia đình và một số thegns trung thành và quy phục người anh rể của minh-Bá tước Baldwin V. Ông thậm chí đã cố gắng để tạo thành một liên minh với William. Baldwin cung cấp cho ông ta một hạm đội và ông đã đổ bộ xuống đảo Wight trong tháng 5 năm 1066, nơi ông ta thu thập tiền bạc và các đồ hậu cần. Ông đã đột kích vào các bờ biển ở xa như Sandwich nhưng đã buộc phải rút lui khi vua Harold điều động lục quân và hải quân đến ứng cứu. Ông chuyển về phía bắc và sau một nỗ lực không thành công để có kích động Gyrth-anh trai của ông tham gia với mình, ông đã đột kích vào Norfolk và Lincolnshire. Các Bá tước Edwin và Morcar đã đánh bại ông ta một cách triệt để, bị người của mình bỏ rơi, ông đã trốn sang Scotland đê gặp người bạn chí thân của mình-vua Malcolm III của Scotland . Tostig đã dành mùa hè năm 1066 ở Scotland.
Ông đã bắt liên lạc với vua Harald III Hardrada của Na Uy và thuyết phục ông này tiến hành xâm lược nước Anh. Theo các câu truyện dân gian của Bắc Âu thì ông khởi hành đi Na Uy và đã tạo được ấn tượng rất tốt đẹp với vua Na Uy và triều đình của ông này, ông ( Tostig) đã cố gắng để tạo ảnh hưởng một cách quyết định đến Harald-người lúc này không tỏ ra nhiệt tình lắm trong việc huy động binh lính để chiếm ngôi vị nước Anh, vì ông này ( Harald III) cũng đang sa vào một cuộc chiến kéo dài bất phân thắng bại với người Đan Mạch. Với viện binh của Hardrada, Tostig dong buồm đến Humber và đánh bại Morcar và Edwin tại Gate Fulford. Sau đó với sự xuất hiện bất thình lình của vua Harold, Tostig và Harald III đều bị giết chết trong trận Stamford Bridge
Địa điểm Trận đánh
Không có ngôi làng nào ở Stamford Bridge trong năm 1066 và ngay cả trong năm 1086 khi quấn sách Domesday được biên soạn. Cái tên này được đặt và mô tả qua các địa điểm trên sông Derwent được bắt nguồn từ một sự kết hợp của một chiếc pháo đài đá cũ nát và một cây cầu. Tại vị trí của ngôi làng hiện nay, trong lòng sông có một vệt đá lộ ra trên đó dòng sông chảy như một thác nước nhỏ. Ở chỗ có mực nước thấp nhất người ta có thể dễ dàng vượt qua con sông vào thời điểm đó bởi lội bộ hoặc bằng cưỡi ngựa.
Harald Hardrada III của Nauy, người Viking cuối cùng
Harald Sigurdsson (1015 – 25 tháng 9 năm 1066), sau đó nhận danh hiệu Hardrada là vua của Na Uy từ năm 1047 cho đến năm 1066. Ông cũng tự tuyên bố là vua của Đan Mạch cho đến năm 1064, sau khi thường xuyên bị đánh bại bởi quân đội của vua Sweyn củaĐan Mạch và buộc ông phải rời khỏi đất nước này. Nhiều chi tiết về cuộc sống của ông được ghi chép trong quấn Heimskringla và các nguồn Iceland khác. Trong số những nguồn tài liệu tiếng Anh, ông thường nhớ bởi cuộc xâm lược của ông vào nước Anh năm 1066. Cái chết của Harald thường được ghi nhận là sự kết thúc của thời đại Viking.
Nguồn gốc dòng họ, cuộc sống ban đầu và lang thang ở phía Đông
Harald là em út trong số ba người anh em cùng cha khác mẹ của Vua Olaf II do Asta Gudbrandsdatter sinh ra. Cha ông-Sigurd Syr là người chồng thứ hai của Asta. Theo các nguồn tư liệu từ Iceland, đặc biệt là quấn Heimskringla, công bố rằng Sigurd, giống như cha của Olaf, là chắt của vua Harald I Na Uy (theo quấn phả hệ Harald Fairhair). Tuy nhiên, nhiều học giả hiện đại cho rằng tổ tiên của Harald, cùng với các phần khác của phả hệ Fairhair, được sáng tạo ra và phản ánh kỳ vọng về chính trị xã hội trong thời gian của các tác giả hơn là phản ánh những sự kiện lịch sử thực tế.
Harald đã tham chiến ở phe của Olaf, trong trận Stiklestad trong năm1030. Mặc dù bị thương, ông vẫn cố gắng tẩu thoát và rời Na Uy để lưu vong. Ông đã thành lập một băng nhóm các chiến binh trong số những người cùng bị lưu đày như là kết quả từ cái chết của Olaf.
Năm 1031 Harald cùng người của ông đến Kievan Rus , nơi mà họ phục vụ trong quân đội của Yaroslav I Wise-Đại công tước của Rus, người có vợ là Ingigerd-vốn cũng là một họ hàng xa của Harald. Harald được cho là đã tham gia vào chiến dịch của Đại Hoàng tử Yaroslav chống lại người Ba Lan và được bổ nhiệm làm đồng chỉ huy lực lượng quân đội. Một khoảng thời gian sau đó, Harald và đoàn tùy tùng khoảng năm trăm chiến binh chuyển đến Constantinople, thủ đô của Đế chế Byzantine, nơi mà chậm nhất là từ năm 1034 đã có một đội vệ binh hoàng gia ưu tú bao gồm chủ yếu là những chiến binh đến tư vùng Scandinavia Rus và họ được gọi là Lực lượng Vệ binh Varangian . Harald phục vụ trong lực lượng vệ binh cho đến 1042. Trong một cuốn sách Strategikonviết bằng tiếng Hy Lạp trong thập kỷ 1070 bởi Kekaumenos, Harald được mô tả là “con trai của vua Varangia” và được cho là đã chiến đấu rất dũng cảm trong các chiến dịch của Byzantine ở Sicily và Bulgaria và rằng Hoàng đế bổ nhiệm ông đầu tiên làm thủ lĩnh của manglabites , hoặc thành viên của một phần đặc biệt của vệ sĩ cá nhân của Hoàng đế, và sau đó là spatharocandidate ( tiếng Hy Lạp : σπαθαροκανδιδᾶτος .) Có vẻ như ông có thể đã bị cầm tù trong một thời gian theo lệnh của Hoàng hậu Zoe với tội biển thủ công quỹ, nhưng đã được phóng thích hoặc trốn thoát khỏi nhà tù trong dịp lễ đăng quang của Hoàng đế mới Constantine IX.
Trong năm 1042, Harald yêu cầu sự cho phép của hoàng đế để được trở về quê hương của mình nhưng đã bị từ chối. Tuy nhiên, theo nhận định của Kekaumenos “, ông đã bí mật trốn về và cai trị đất nước mình thay mặt cho Olaf- ông anh trai”. Có khả năng là tiền mà Hardrada kiếm được trong khi phục vụ ở Constantinople cho phép ông ta tài trợ cho yêu cầu về vương miện Na Uy của ông ta: một số nguồn tài liệu của Scandinavia sau đó lưu ý rằng ngoài các chiến lợi phẩm quan trọng của trận chiến mà ông giữ lại, Harald đã tham gia ba lần trong polutasvarf , một thuật ngữ ngụ ý hoặc là một sự cướp bóc kho bạc hoàng gia sau cái chết của Hoàng đế, hoặc có thể Hoàng đế mới giải tiền bạc cho các Varangians để đảm bảo lòng trung thành của họ. Harald đã có mặt tại Constantinople qua các triều đại của Romanos III, Michael IV và Michael V và do đó có lẽ ông đã có ba cơ hội để có thêm các thu nhập ngoài các khoản thu hợp pháp của mình, thực ra sự giàu có rộng lớn (với Yaroslav của Rus ông làm nhiệm vụ như là người cho tài sản của ông này). Mặc dù vậy, Kekaumenos vẫn khen ngợi việc “lòng trung thành và tình yêu” của Hardrada với đế quốc.
Năm 1045, ông quay lại Rus, nơi ông ở lại hai hoặc ba năm trước khi quay trở về Scandinavia, Harald lập gia đình với Elisabeth, con gái của Yaroslav và cháu gái của vua Olof Skötkonung của Thụy Điển (gọi tắt theo tiếng Scandinavia là Ellisif). Các nguồn thông tin cho rằng họ đã đính hôn trước khi khởi hành nhưng Yaroslav từ chối xác nhận việc kết hôn cho đến khi Harald có được những thành công đặc biệt. Trong thời gian ông phục vụ cho đế quốc Byzantine, Harald đã viết một bài thơ tình gửi cho Elisabeth, trích dẫn nhiều những hành động anh hùng của mình và phàn nàn rằng “một cô gái có mái tóc vàng không thích tôi”. ( bác này lính mà tính nhà quan he he)
Vươn đến ngai vàng của Na Uy
Trong Harald vắng mặt, ngôi vua của Na Uy được trao cho Magnus Tốt bụng-con trai ngoài giá thú của Olaf II. Khi Harald quay về, ông cảm thấy yêu cầu ngôi vị của mình có sức mạnh hơn của Magnus và hai người đến gần một cuộc chiến. Tuy nhiên các cố vấn của Magnus can gián vị vua trẻ tuổi không nên chống lại người chú của mình và một sự thỏa hiệp đã đạt được rằng là Harald sẽ cùng cai trị với Magnus, và Harald sẽ chia sẻ một nửa sự giàu có của mình với Magnus. Chưa đầy một năm sau, năm 1047 Magnus chết ( khả năng là Harald đã mua chuộc cố vấn của Magnus và…) và Harald trở thành vị vua duy nhất của Na Uy.
Có được quyền lực độc nhất ở Na Uy, sau đó Harald lại tìm kiếm việc chiếm ngôi vị vua Đan Mạch cho chính mình. Tuy nhiên trong nỗ lực này, ông đã bị phản đối bởi một bá tước tên là Einar Tambarskjelve, ” thủ lĩnh của các nông dân ở tất cả các huyện thuộc vùng Trondheim”. Harald đã trừ khử Einar, việc này có tác động tiêu cực đến hình ảnh của chính bản thân ông. Sau khi giết Einar, Harald bắt tay vào nhiều chiến dịch chống lại vua Đan Mạch Svein Ulfsson , không ai trong số họ có một chiến thắng quyết định. Nhà nghiên cứu thời nay Karen Larsen nhận xét rằng “không có nền tảng cho một sự sát nhập giữa hai vương quốc và không nhu cầu này trong nhân dân”. Sau mười lăm năm chiến đấu, cuối cùng Harald cũng đã từ bỏ cố gắng chinh phục Đan Mạch và ông cùng với Svein đã đồng ý đi đến một cuộc ngưng chiến vĩnh viễn.
Các chiến dịch Đan Mạch của Harald không được lòng dân ở quê nhà, đáng chú ý nhất trong vùng Trøndelag ở phía bắc, và điều này được thể hiện trong ” dân chúng ở một số huyện phẫn nộ về sự tăng thuế “. Harald đã đối xử với những người phản đối mình một cách tàn bạo. Sử gia Sturluson cho rằng “một số nông dân bị bỏ tù. Một số khác bị đánh đập thành thương tật, một số khác nữa mất mạng và rất nhiều người bị tịch thu toàn bộ tài sản của họ”. Harald duy trì kiểm soát vương quốc của mình qua việc sử dụng Hird, một quân đội thường trực được duy trì bởi lãnh chúa Na Uy. Đóng góp của Harald vào chế độ quân chủ-tập quyền của Na Uy là việc thực thi một chính sách mà chỉ mình nhà vua mới có quyền giữ lại một Hird, do đó đã cắt bỏ thế lực của các lãnh chúa địa phương.
Cuộc xâm lược vào nước Anh
Với thỏa thuận ngừng bắn và việc công nhận rằng ông sẽ không bao giờ tái chinh phục Đan Mạch, Harald chuyển sự chú ý của mình đến Anh. Những năm đầu thập kỷ 1040, nước Anh thuộc sự cai trị của Harthacnut-con trai của Cnut Đại đế. Harald dựa trên một tuyên bố về sự truyền ngôi của Anh trong một thỏa thuận được cho là được thực hiện bởi Magnus và Harthacnut, nói rằng nếu một trong hai người chết đi thì người kia sẽ thừa kế ngai vàng và vùng đất của người đã chết. Khi Harthacnut chết, Magnus nhận lấy vương miện của Đan Mạch, nhưng không tăng sức ép về yêu cầu của mình với nước Anh, làm cho Edward the Confessor chiếm lại được ngôi. Yêu cầu về ngai vàng này là rất yếu thế, và Harald sẽ không có khả năng theo đuổi nó một cách độc lập. Ông gây sức ép để làm như vậy bởi Bá tước Tostig Godwinson-anh trai của vua Harold Godwinson nước Anh. Tostig đã cam kết hỗ trợ sự của mình với Harald và nói, “Nếu ngài muốn có được quyền sở hữu nước Anh, thì tôi có thể mang nó đến cho ngài và hầu hết các thủ lĩnh ở Anh sẽ ở bên ngài và hỗ trợ ngài”.
Trong tháng 9 năm 1066, Harald đổ bộ xuống miền Bắc nước Anh với một lực lượng khoảng 15.000 người và 300 tầu longship. Bá tước Tostig đi cùng với ông ta. Ở trận Fulford cách hai dặm (3 km) về phía nam của York, ngày 20 tháng 9, ông đã giành được một thắng lợi lớn khi chiến đấu với lực lượng của Anh đầu tiên mà ông gặp. Tin rằng vua Harold đang chuẩn bị để đầu hàng và người Anh sẽ chấp nhận yêu cầu lên ngôi của mình, Harald chỉ mang khoảng hai phần ba quân đội của mình đi theo để thu thập cống từ người dân địa phương, họ chỉ mang theo vũ khí và chỉ mặc áo giáp nhẹ và để lại phần còn lại ở chỗ các con tàu của mình. Tuy nhiên, Harold Godwinson đã không chuẩn đê bị từ bỏ ngai vàng của mình và ở cây cầu của làng Stamford Bridge, ngoại ô thành phố York vào ngày 25 tháng 9 năm 1066, lực lượng của hai bên đã gặp nhau và một trận chiến đã được bắt đầu.
Trận Stamford Bridge
Thời gian: ngày 25 tháng chín năm 1066
Địa điểm: Tại Stamford Bridge, phía Đông của Yorkshire
Kết quả: Quân đội Anh chiến thắng quyết định
Các bên tham chiến
Vương quốc Anh
Chỉ huy : Harold Godwinson
Lực lượng : Xấp xỉ 15.000 người
Tổn thất : Xấp xỉ 5.000 người
Vương quốc Na Uy
Chỉ huy : Harald Hardrada
Tostig Godwinson
Lực lượng : 9.000 người
300 tầu chiến
Tổn thất : 8.000 người
Như đã nói ở phần trên Harald Hardrada-vua đã tập hợp một hạm đội gồm 300 chiếc tàu, có thể mang theo khoảng 15.000 quân, để xâm chiếm nước Anh. Đến ngoài khơi bờ biển Anh trong tháng 9, ông có sự gia nhập của lực lượng mới được tuyển dụng bởi Tostig Godwinson ở Flanders và Scotland. Trong cuối mùa hè năm 1066, đạo quân xâm lược đã đi ngược lên Humber và đốt cháy thị trấn Scarborough trước khi tiến vào thành phố York. Bên ngoài thành phố họ đánh bại một quân đội miền bắc nước Anh được dẫn đầu bởi Edwin-Bá tước xứ Mercia và anh trai của ông-Morcar, Bá tước xứ Northumbria tại trận Fulford, ngày 20 tháng 9. Sau chiến thắng này họ đã nhận được sự đầu hàng của thành phố York. Sau một thời gian ngắn chiếm thành phố và chuyển các con tin cùng đồ cung cấp từ các thành phố trở về tàu của họ tại Riccall. Họ đã chấp nhận trao hòa bình cho Northumbrians để đổi lấy sự hỗ trợ của họ ( người Northumbrian ) cho việc đòi hỏi ngai vàng của Harald và yêu cầu phải gửi nhiều con tin hơn nữa từ toàn bộ vùng Yorkshire.
Vào thời gian này vua Harold đang ở miền nam nước Anh, để chặn đứng một cuộc xâm lược từ nước Pháp bởi William, Công tước xứ Normandy, một ứng cử viên cho ngôi cua nước Anh. Khi nghe tin về cuộc xâm lược của Na Uy, ông tiến lên phía Bắc với một vận tốc như bão táp cùng với nhiều thegn ( các khu quân sự ) mà ông có thể tập hợp được, đi suốt ngày và đêm. Ông đã hành quân từ London đến Yorkshire, một khoảng cách khoảng 185 dặm chỉ trong bốn ngày, điều này cho phép ông ta có tấn công người Na Uy một cách hoàn toàn bất ngờ. Được rằng người Northumbrians được lệnh phải gửi thêm các con tin và bổ sung đồ cung cấp cho người Na Uy tại Stamford Bridge, Harold vội vã về đi qua York để tấn công họ tại làng Stamford Bridge nơi hai bên chạm trán nhau vào ngày 25 tháng 9. Cho đến khi quân đội Anh tiến vào, những kẻ xâm lược vẫn không biết đang có sự hiện diện của một đội quân thù địch ở tại bất cứ nơi nào trong các vùng lân cận.
Trong truyền thuyết Heimskringla về Harald III của Na Uy, được viết khoảng năm 1225, Snorri Sturluson đã mô tả sự sắp xếp của quân đội Na Uy. Snorri cũng tuyên bố rằng người Na Uy đã để lại áo giáp dạng lưới sắt của họ ở tại các con tàu và do đó đã phải chiến đấu chỉ với lá chắn, giáo và mũ sắt.
Địa điểm Trận đánh
Không có ngôi làng nào ở Stamford Bridge trong năm 1066 và ngay cả trong năm 1086 khi quấn sách Domesday được biên soạn. Cái tên này được đặt và mô tả một địa điểm vượt sông Derwent được bắt nguồn từ một sự kết hợp của một chiếc pháo đài đá cũ nát và một cây cầu. Tại vị trí của ngôi làng hiện nay, trong lòng sông có một vệt đá lộ ra trên đó dòng sông chảy như một thác nước nhỏ. Ở chỗ có mực nước thấp nhất người ta có thể dễ dàng vượt qua con sông vào thời điểm đó bởi đi bộ hoặc bằng cưỡi ngựa.
Một dặm về phía nam dọc theo sông Derwent tại Scoreby là một thị trấn được xây dựng từ thế kỷ thứ tư La Mã được biết đến như là Derventio. Thị trấn này kéo dài 2,5 dặm dọc theo một con đường đông / tây từ thời La Mã. Thị trấn này nằm cả các bờ phía phía đông và phía tây của con sông, hai bờ của nó được kết nối một cây cầu được xây dựng thẳng theo tuyến đường La Mã. Không có bằng chứng khảo cổ cho thấy một cây cầu La Mã được xây dựng tại hoặc gần địa điểm hiện tại của Stamford Bridge.
Trận chiến
Người Viking bị một bất lợi rất lớn. Quân đội của họ bị chia thành hai; với một số binh sĩ của họ ở phía tây sông Derwent và số lượng lớn khác lại ở phía đông. Họ không chờ đợi một đợt tấn công của người Anh và đó là một ngày ấm áp trái mùa vào cuối tháng chín, do đó, họ đã để lại binh giáp của họ phía sau tại chỗ các con tàu. Quân đội Anh đến và tiêu diệt sạch những người Viking lúc này đang chiến đấu một cách vô vọng ở phía tây của con sông. Vào lúc này một số lượng rất lớn quân Anh kéo đã đến, những người Viking ở phía tây đã hoặc bị giết hoặc phải vượt qua cây cầu để chạy trốn. Việc tiến quân của người Anh sau đó đã bị chặn lại bởi một điểm tắc nghẽn trên cây cầu. Có một câu chuyện dân gian như sau: đã có một tay rìu chiến khổng lồ người Bắc Âu (có thể được trang bị một rìu chiến kiểu Dane ) đã đứng chắn giữa cây cầu và một mình chặn toàn bô quân đội Saxon tại điểm hẹp nhất của cây cầu. Các sử gia người Anglo-Saxon nói rằng tay búa trận này đã cắt cổ khoảng độ 40 lính Anh. Người chiến binh này chỉ bị đánh bại khi một người lính Anh chui xuống dưới gầm cầu và đâm ngược ngọn giáo của mình qua chiếc sàn ghỗ của cây cầu .
Những trở ngại này đã cho phép một số lượng lớn các chiến binh Bắc Âu tạo thành một bức tường lá chắn để đối mặt với cuộc tấn công của người Anh. Quân của Harold cũng vượt qua cây cầu và tạo thành đội hình một dòng đơn đối diện với quân Bắc Âu, họ xiết chặt các lá chắn và tấn công. Mặc dù cuộc chiến đã diễn ra ác liệt trong nhiều giờ, người Na Uy vì đã bỏ áo giáp của họ phía sau nên dần dần họ đã rơi vào thế bất lợi. Cuối cùng, đội hình của quân Bắc Âu bắt đầu bị vỡ ra từng đoạn, điều này cho phép quân Anh tiến lên và phá vỡ bức tường lá chắn này của vùng Scandinavia. Bị tấn công bọc xườn cùng với việc các thủ lãnh của họ Hardrada và Tostig đã bị giết, quân đội Na Uy đã hầu như tan rã và bị tiêu diệt. Trong giai đoạn sau của trận đánh, người Na Uy được tăng cường thêm tiếp viện, những người đã ở lại phía sau để bảo vệ các tàu tại Ricall, do Eystein Orri, chồng chưa cưới của con gái Hardrada chỉ huy. Một số người của ông được cho là đã đổ gục và chết do kiệt sức khi chạy tới chiến trường. Những người này, không giống như các đồng đội của họ, được vũ trang đầy đủ cho một trận chiến. Đợt tấn công của họ được mô tả trong truyền thuyết của Na Uy là ” Storm of Orri – cơn bão của Orri “, họ có thể chặn của người Anh trong một thời gian ngắn, nhưng rồi họ cũng đã nhanh chóng bị áp đảo và Orri bị giết. Quân Na Uy bỏ chạy và người Anh đuổi theo, một số người Na Uy bỏ chạy và bị chết đuối dưới dòng sông. Vì có quá nhiều người đã chết trong một khu vực nhỏ bé như vậy nên người ta nói rằng ở đó vẫn còn nhiều xương trắng nằm rải rác tới 50 năm sau cuộc chiến.
Hậu quả của trận đánh
Vua Harold chấp nhận thỏa thuận ngừng chiến với những người Na Uy còn sống sót, bao gồm cả Olaf-con trai của Harald và Paul Thorfinnsson-Bá tước của Orkney. Họ được phép trở về nhà sau khi cam kết không bao giờ được tấn công nước Anh một lần nữa. Thiệt hại của Na Uy là quá khủng khiếp, chỉ có 24 tàu từ hạm đội hơn 300 được dùng để chở những người sống sót chở về. Họ rút về Orkney nơi họ trú qua mùa đông và vào mùa xuân Olaf trở về Na Uy. Vương quốc này sau đó đã được chia sẻ giữa ông và Magnus-anh trai của ông, người mà Harald đã để lại để cai trị trong lúc vắng mặt.
Ba ngày sau, vào ngày 28 Tháng 9, người Norman dưới sự chỉ huy của William the Conqueror đổ bộ lên bờ biển phía nam nước Anh. Vua Harold đã phải vội vã đưa đội quân mệt mỏi của ông về phía nam để ngăn chặn một cuộc xâm lược mới. Chưa đầy ba tuần sau trận Stamford Bridge, ngày 14 tháng 10, Harold đã bị đánh bại và bị giết chết tại trận Hastings và cuộc chinh phục của người Norman vào nước Anh đã bắt đầu và từ đây kết thúc kỷ nguyên của người Anglo-Saxon. Vì rất nhiều quý tộc lớn nhỏ của Anh chết trong các trận Stamford Bridge và Hastings cho nên rất khó khăn cho người Anglo-Saxons để chống lại các lãnh chúa mới người Norman của họ; và còn có nghĩa là không có một vị thủ lãnh tài ba, đứng lên tập hợp những người xung quanh để chống lại quân xâm lược.
Trận Hastings
Thời gian: Ngày 14 tháng 10 năm 1066
Địa điểm: Senlac Hill, gần làng Hastings, East Suss.e.x, nước Anh
Kết quả: Người Norman chiến thắng quyết định
Các bên Tham chiến
Người Norman,
Người Bretons, Flemings, Pháp, Poitevins, Angevin, Manceaux ( đánh thuê cho QC William)
Chỉ huy
William của Normandy ,
Odo của Bayeux
Binh lực
7000-8000 chiến binh
Tổn thất
Không có con số cụ thể nhưng tổn thất nặng
Người Anh ( Anglo-Saxon )
Chỉ huy
Harold Godwinson
Binh lực
7000-8000 chiến binh
Tổn thất
Rất nặng, vua Harold cùng các anh em của mình
và nhiều quý tộc Saxon đã tử trận.
Trận Hastings diễn ra vào ngày 14 tháng 10 năm 1066. Đó là chiến thắng quyết định của người Norman trong cuộc chinh phục nước Anh của người Norman, trận chiến đã nổ ra giữa quân đội Norman của Công tước William II xứ Normandy và quân đội của vua Harold II. Trận chiến đã nổ ra tại Senlac Hill, khoảng 6 dặm về phía tây bắc của thị trấn Hastings, gần East Sus.s.e.x ngày nay.
Theo truyền thuyết vua Harold II bị giết trong cuộc chiến vì ông đã bị bắn một mũi tên trúng vào mắt. Mặc dù người Anh vẫn tiếp tục kháng cự, trận này được xem là điểm quyết định mà tại đó William đã kiểm soát nước Anh và trở thành vị vua Norman đầu tiên như là vua William I của Anh quốc.
Như chúng ta đã biết ở phần trước Harold Godwinson, thuộc gia đình quyền lực nhất ở Anh, tuyên bố lên ngôi ngay sau cái chết của vua Edward the Confessor vào tháng Giêng năm 1066. Ông có sự hỗ trợ của Witenagemot-một hội đồng các quý tộc quý tộc Anglo-Saxon cho việc mình lên ngôi. Một số nguồn tin nói rằng Edward đã có lời hứa truyền ngôi cho người em họ của ông, William-Công tước của xứ Normandy, nhưng ông này lại quyết định truyền ngôi cho Harold khi nằm trên giường bệnh. Trong khi vua Edward the Confessor đã có một người cháu trai khá lớn tuổi, người có thể có đủ điều kiện để người kế nhiệm ông, nhưng ông này ( người cháu trai của vua Edward the Confessor) lại bị cho là quá trẻ.
Công tước William của Normandy đã thiết lập chính sách của mình với mình với nước Anh ( rình rập ngôi vua Anh) trong hơn 15 năm và việc lên ngôi vua của Harold như là một lời tuyên bố chiến tranh. Ông liền lên kế hoạch xâm lược nước Anh và chiếm lấy vương miện vua Anh. Quân đội Norman không đủ mạnh để chỉ mình nó tiến hành cuộc xâm lược, do đó các quý tộc ở xa tới tận miền Nam Italia cũng được triệu tập tại Caen-Normandy. Ở đó William hứa sẽ ban thưởng đất đai và chức tước cho những người theo mình và cho rằng chuyến đi đã được ủng hộ bởi Đức Giáo Hoàng. William tập hợp một hạm đội với số lượng 696 chiếc tàu, nếu con số này là chính xác thì nó sẽ chuyên chở một đội quân gồm hơn 20.000 người. Lực lượng này đã chờ đợi tại cảng qua mùa hè, được cho là vì thời tiết xấu và cũng rất có thể là từ nỗi sợ hãi về một trận đụng độ trên biển với hạm đội lớn của Anh. Họ cuối cùng khởi hành đi Anh sau khi các nguồn cung cấp hậu cần đã hết buộc Harold phải giải tán quân đội và nhiều tiếng Anh và tàu đã đắm do bão. Ngày 28 Tháng 9, 1066 William đã đổ bộ xuống một vị trí không chủ định tại Pevensey.
Vua Anh Harold II, người đã chờ đợi một cuộc xâm-lược của người Norman, đã vội vã đưa quân đội của mình về phía bắc để tấn công quân xâm lược Viking Na Uy dưới sự chỉ huy của vua Harald Hardråda và Tostig Godwinson (em trai của Harold). Ông đánh tan những kẻ xâm lược tại trận Stamford Bridge ở gần York . Sau khi nghe tin rằng lực lượng của công tước William đã đổ bộ vào đất Anh ông vội vã hành quân về phía nam để chặn đứng những kẻ xâm lược. Người em của ông, Bá tước Gyrth, yêu cầu nên hành quân chậm lại để có thể tập hợp thêm nhiều người khác, nhưng Harold xác định là để cho người dân của mình thấy rằng ông có thể bảo vệ vương quốc mới của mình chống lại kẻ xâm lược một cách kiên quyết. Ông rời London vào sáng ngày 12 tháng 10, tập hợp bất cứ lực lượng nào ông có thể có trên đường đi. Sau khi cắm trại ở Long Bennington ông đến Senlac Hill vào đêm ngày 13 tháng 10.
Harold triển khai lực lượng của ông, chắn ngang con đường từ Hastings đến London, trên Senlac Hill, khoảng 6 dặm (10 km) từ phía tây bắc của Hastings. Phía sau ông là rừng Anderida lớn ( Weald ) và ở phía trước mặt đất dốc xuống như độ dốc của bờ lũy xiên xuống, mà rồi lại dốc ngược lên ở phía đối diện-Telham Hill (phía quân Anh).
Quân đội Anh
Quân đội Anh đã chiến đấu hai trận đánh lớn khác nhau, trận Fulford Gate và trận Stamford Bridge, ba tuần trước khi nổ ra trận Hastings. Trận thứ hai đã dẫn đến sự hủy diệt của quân đội của vua Harald Hardråda, nhưng cũng đã làm bào mòn quân đội Anh-những người cũng rất xứng đáng giành chiến thắng ở trận Hastings.
Quân đội Anh gồm toàn bộ bộ binh. Có thể là một số trong số họ là những kỵ binh, nhưng một lần tại nơi chỉ định họ xuống ngựa để chiến đấu như những bộ binh. Cốt lõi của quân đội được tạo thành từ những quân nhân chuyên nghiệp phục vụ đủ thời gian gọi là Housecarls, những người này sẽ phục vụ suốt đời cho nhà vua. Binh giáp của họ bao gồm một chiếc mũ sắt hình nón, một chiếc á́o giá́p bằ̀ng lưới sắt và một chiếc lá chắn có hình chiếc diều. Vũ khí chính của họ là búa trận Đan Mạch có hai tay cầm, mặc dù mỗi người lính cũng có thể đã mang theo một thanh kiếm.
Đại bộ phận quân đội, được gọi là fyrd, bao gồm binh sĩ bán chuyên nghiệp của Anh lấy từ giới quý tộc chủ đất nhỏ. Những thegns là tầng lớp quý tộc nắm giữ đất của thời gian và được yêu cầu phải phục vụ với áo giáp và vũ khí của mình và trong một số ngày nhất định mỗi năm.
Hệ thống phòng thủ đáng gờm nhất của người Anh là bức tường lá chắn, trong đó tất cả mọi người ở hàng ngũ phía trước khóa lá chắn của họ với nhau. Trong giai đoạn đầu của trận đánh, các bức tường chắn tỏ ra là rất hiệu quả trong việc bảo vệ cho binh sỹ Anh-Saxon chống lại người Norman. Toàn bộ quân đội Anh đã chiếm các vị trí dọc theo các dòng xoáy, nếu thương vong làm giảm số lượng binh sỹ ở dòng phía trước thì các dòng phía sau sẽ di chuyển về phía trước để lấp đầy khoảng trống do những tử sỹ ở hàng trước để lại.
Quân đội Norman
Quân đội Norman được tạo thành từ các quý tộc, lính đánh thuê và quân đội từ Normandy (khoảng một nửa), Flanders, Britany (khoảng một phần ba) và Pháp (ngày nay Paris và Île-de-France ), với một số người đến từ xa như tận phía nam Italy. Kỵ binh của Norman được xem là lực lượng kỵ binh tốt nhất châu Âu. Họ được bọc thép và thường được trang bị một ngọn thương và một thanh kiếm. Như với tất cả các kỵ binh, họ nói chung có hiệu quả nhất trong việc tấn công các đội quân đã bắt đầu vỡ trận. Ngoài lính bắn nỏ ( thường chỉ được trang bị một chiếc mũ sắt), bộ binh Norman được bảo vệ bằng áo giáp lưới và trang bị giáo, kiếm và lá chắn … giống như các đối thủ người Anh của mình.
Con số rất lớn lính bắn nỏ trong quân đội của William phản ánh xu hướng trong quân đội châu Âu kết hợp các loại binh chủng khác nhau trên chiến trường. Cây nỏ là một loại vũ khí tương đối gọn nhẹ nhưng lại có hiệu quả cao trên chiến trường. Hastings là trận đánh nổi tiếng trong lịch sử vì lần đầu tiên những cây nỏ được sử dụng với số lượng lớn trong một trận đánh ở nước Anh.
Trận đánh
Do bị vỡ đội hình bức tường lá chắn nên khi quân Norman phản công, quân Anh bị thua, một số lính nghĩa vụ và hậu quân bỏ chạy còn đội lính tinh nhuệ cùng ở lại tử chiến với vua của họ
William dựa vào chiến thuật cơ bản với việc xếp các cung thủ ở phía trước và làm suy yếu đối phương bằng các trận mưa mũi tên, sau đó tung bộ binh ra cho những trận cận chiến đấu, đỉnh điểm là tấn công bằng kỵ binh và dùng nó để phá vỡ đội hình của quân Anh. Tuy nhiên, chiến thuật của ông đã không hiệu quả như theo kế hoạch. Quân của William tấn công vào quân Anh ngay sau khi họ đã sẵn sàng và hình thành lên. Các cung thủ Norman bắn rất nhiều loạt tên cầu vồng nhưng nhiều mũi tên đã chúng vào bức tường lá chắn và gây rất ít thương. Tin rằng người Anh đã bị thiệt hại nặng, William ra lệnh cho bộ binh của mình tấn công. Khi người Norman tấn công lên đồi, người Anh đã ném xuống bất cứ thứ gì họ có thể tìm thấy: đá, lao và chùy. Các cú đập bằng chùy đã gây thương vong nặng nề cho bộ binh của Norman, làm cho các đợt tấn công bị rối loạn.
Khi bộ binh Norman tiếp xúc với đội hình quân Anh, một trận đánh dữ dội khủng khiếp đã nổ ra. William dự đoán rằng người Anh đã nao núng, nhưng các mũi tên chỉ trúng vào các tấm khiên và gây ra những thiệt hại rất nhỏ và gần như tất cả các binh sĩ Anh vẫn đứng vững, bức tường lá chắn của họ còn nguyên vẹn. Kết quả là William đã ra lệnh kỵ binh của mình tấn công sớm hơn kế hoạch. Đối mặt với một bức tường của rìu, giáo và kiếm, nhiều con ngựa của các kỵ sỹ đã bị hoảng sợ mặc dù đã được đào tạo và luyện tập một cách cẩn thận. Sau một giờ giao tranh, phân đội người Breton bên cánh trái của William ( người Breton thuộc Pháp) đã chùn bước và bị vỡ đội hình hoàn toàn và bỏ chạy xuống chân đồi. Bị thương vong nặng nề và nhận ra họ sẽ nhanh chóng bị bọc sườn, các đơn vị Norman và Flemish rút lui cùng với người Bretons. Không thể cưỡng lại sự cám dỗ, nhiều người Anh đã phá vỡ hàng ngũ để lao theo truy kích đối phương, bao gồm hàng trăm fyrdmen ( lính nghĩa vụ) và cả Leofwyne và Gyrthe-những người anh em của Harold. Trong trận hỗn chiến sau đó, con ngựa của William đã bị giết chết khi ông đang cưỡi nó và ông đã bị ngã đổ xuống đất. Ban đầu, rất nhiều người trong số các binh sĩ của William nghĩ rằng ông đã bị giết chết và một cuộc tháo chạy lớn hơn thậm chí đã xảy ra sau đó. Chỉ sau khi ông đứng lên và ném chiếc mũ sắt khỏi đầu của mình thì William mới có thể tập hợp lại quân đội đang chạy trốn của mình ( để chứng minh là mình còn sống).
William và một nhóm các hiệp sĩ của ông đã thành công trong việc phản công vào quân Anh đang truy đuổi, bây giờ họ là những người không còn được bảo vệ bởi các bức tường chắn, và bị mất đi một số lượng lớn các fyrdmen. Nhiều người đã không nhận ra rằng người Norman đang phản công cho đến khi đã quá muộn, một số khác thì lại tranh nhau chạy ngược lên ngọn đồi để được an toàn. Những người anh em của Harold đã không may mắn, cái chết của họ đã tước đi của người Anh một nhà lãnh đạo thay thế sau cái chết của Harold. Hai bên lại tập hợp lại đội hình và sau đó là một thời gian tạm lắng xuống trên trận chiến. Cuộc chiến đã chuyển sang thế có lợi cho William kể từ khi người Anh mất đi sự che chở của bức tường chắn. Nếu không có một sự gắn kết của một đội hình có kỷ luật cao, thì các cá nhân và các nhóm nhỏ quân Anh lại trở thành các mục tiêu dễ dàng. William tung quân đội của mình và tấn công mạnh vào đội hình của người Anh một lần nữa và rất nhiều lính chuyên nghiệp Anh ( housecarls ) đã thiệt mạng.
Với một số lượng lớn các binh sỹ fyrdmen người Anh lúc này đang chiếm chỗ ở hàng phía trước (những housecarls- lính chuyên nghiệp đã tử trận quá nhiều), bức tường lá chắn vốn được duy trì một cách kỷ luật bởi những lính housecarls lúc này đã bắt đầu ngập ngừng và tạo ra một cơ hội cho William. Vào đầu trận chiến những trận mưa tên bắn vào quân Anh bởi lính cung thủ của William đã không tỏ ra có hiệu quả trước các tấm lá chắn của quân Anh. Mặc dù rất nhiều binh sỹ Anh ở hàng ngũ phía trước vẫn có lá chắn, William đã ra lệnh cho các cung thủ bắn cung của mình bắn cầu vồng qua bức tường lá chắn để các mũi tên bắn trúng vào các nhóm quân Anh đứng đằng sau. Các cung thủ đã lập tức thi hành và gặt hái được thành công lớn. Truyền thuyết nói rằng tại thời điểm này Harold bị trúng một mũi tên vào mắt. Nhiều binh sỹ Anh lúc này cảm thấy cực kỳ mệt mỏi. Quân đội của William đã tấn công một lần nữa và họ đã cố gắng để tạo những chiếc khe nhỏ trong các bức tường lá chắn. Họ đã khai thác các khoảng trống này và quân đội Anh bắt đầu tan rã. William và một số hiệp sĩ của ông ta đã vượt qua bức tường lá chắn và đâm chết nhà vua Anh ( lúc này bị thương nặng ở mắt). Vì nhà vua của họ cùng với rất nhiều nhà quý tộc đã chết, hàng trăm fyrdmen bỏ chạy khỏi bãi chiến trường. Các housecarls giữ lời thề của họ về sự trung thành với nhà vua và họ đã chiến đấu một cách dũng cảm cho đến khi tất cả đều bị giết.
Chỉ có một phần còn lại của lực lượng hậu quân Anh chạy được vào rừng. Một số chiến binh Norman đuổi theo người Anh, nhưng bị phục kích và tiêu diệt lúc hoàng hôn xuống khi họ chạy qua một con dốc bằng đất được gọi là, trong thế kỷ 12 ” Malfosse “, hoặc” chiếc mương xấu “. Vị trí có khả năng nhất của Malfosse ngày hôm nay có thể được xác định là Oakwood Gill -một con mương sâu bây giờ đi qua con đường A2100, phía bắc của bãi chiến trường. William và quân đội của mình nghỉ ngơi trong hai tuần ở gần Hastings, chờ các lãnh chúa người Anh để trao thư xin đầu hàng cho ông ta. Sau đó, sau khi ông nhận ra hy vọng của ông về sự đầu hàng của người Anh tại thời điểm đó là vô ích, ông bắt đầu tiến quân về London. Quân đội của ông bị xuy giảm nghiêm trọng trong tháng 11 bởi chứng bệnh kiết lỵ và bản thân William cũng bị bệnh nặng. Tuy nhiên, ông được tăng cường thêm một đội quân mới vượt qua eo biển Anh.
Trong khi đó tại London người Anh vội vàng tập hợp tàn quân và chọn Edgar Atheling-người vừa trẻ và vừa thiếu kinh nghiệm làm vua. Họ chọn ông bởi vì một vị vua yếu kém còn tốt hơn so với không có vị vua nào cả và không còn một người nào trong gia đình Godwinson làm ứng cử viên khả thi. Không lâu sau cuộc bầu chon của Edgar, Edwin và Morcar-các bá tước ở phía Bắc, rời thành phố London và mang quân chở về bá quốc của họ. Người ta suy đoán rằng họ coi cuộc chiến với William như là một cuộc tranh chấp giữa ông ta với Godwinson gia đình và hy vọng sẽ có hòa bình với quận công. Các thành viên khác của Hoàng gia Anh như Margaret và Cristina- chị em của Edgar cũng vội vàng nhổ trại và chạy về Chester-đất phong của họ để có sự an toàn.
William tiến qua Kent tàn phá Romney và tiếp nhận sự giao nộp Dover và lâu đài quan trọng của nó. Tại Dover, ông tạm dừng một tuần để tiếp nhận sự quy hàng của Canterbury vào ngày 29. Ông gửi sứ giả đến Winchester và họ đã nhận được sự đầu hàng của thành phố này từ hoàng hậu Eadgyth góa bụa. Từ Canterbury William tiến lên để chiếm Southwark. Sau khi bị cản trở trong một nỗ lực để vượt qua London Bridge, ông đã phá hủy thành phố. Lúc này ông tiếp cận thành phố theo một tuyến đường vòng quanh qua sông Thames ở Wallingford và tàn phá những vùng đất mà ông đã đi qua. Lực lượng Norman tiến về phía London từ phía bắc-tây cuối cùng đã đến được Berkhampstead vào cuối tháng 11 năm 1066.
Thông điệp đã được chuyển tiếp giữa các lực lượng của William và các cơ quan chức bị bao vây ở London. Cuối cùng người ta đã đồng ý rằng thành phố sẽ tránh khỏi bị tàn sát hơn nữa nếu Edgar thoái vị và William được công nhận là vua. Thỏa thuận này dường như đã được áp dụng đối với vua Edgar trẻ tuổi. Trong đầu tháng 12, Ansgar-tổng trấn của Middles.e.x. và Tổng-giám-mục của Canterbury và York đã phế truất Edgar Atheling đầu hàng Quận công William xứ Norman. William đón tiếp họ một cách ân cần và chấp nhận sự quy thuận của họ. Từ đây ông cho di chuyển lực lượng của mình về phía Romford và mang theo ông ta các con tin đáng giá. William lên ngôi vua vào ngày Giáng Sinh năm 1066 tại Westminster Abbey-từ đây bắt đầu kỷ Anglo-Norman ở nước Anh.