biên dịch: hongsonvh
Đế quốc Ottoman là một đế quốc tiền thân của nước Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay, nó tồn tại từ 27 tháng 7năm 1299 tới ngày 29 tháng 10 năm 1923.Ở đỉnh cao quyền lực của mình, trong thế kỷ 16 và 17, đế quốc Ottoman đã kiểm soát một vùng lãnh thổ rộng lớn từ đông nam châu Âu, tới phía Tây Nam châu Á và Bắc Phi. Đế quốc Ottoman gồm có 29 tỉnh và rất nhiều nước chư hầu, một vài nước trong số đó sau này bị sát nhập hoàn toàn vào đế quốc, trong khi những nước khác lại có những quyền tự chủ ở mức độ khác nhau trong khoảng thời gian kéo dài hàng thế kỷ.
Với Constantinople – Istanbul ngày nay là thành phố thủ đô và kiểm soát vùng đất rộng lớn xung quanh phía đông Địa Trung Hải trong thời cai trị của Hoàng đế Suleiman Magnificent ( cai trị từ năm 1520-1566), đế quốc Ottoman trở thành trung tâm của sự tương tác giữa thế giới phương Đông và phương Tây trong sáu thế kỷ.
Đế quốc Ottoman đã kết thúc như là một nhà nước theo chế độ quân chủ vào ngày 1 Tháng 11 năm 1922 và chính thức kết thúc như một nhà nước về mặt pháp lý vào ngày 24 Tháng Bảy năm 1923, theo Hiệp ước Lausanne. Nhà nước Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ, đã chính thức được khai sinh vào ngày 29 tháng 10 năm 1923 và trở thành một trong các quốc gia kế thừa của đế quốc Ottoman như là một phần của điều ước quốc tế này.
Theo dòng thời gian
1299: Osman I thành lập một vương quốc nhỏ bé độc lập khỏi Nhà Seljuk của Rum – Đế quốc Ottoman.
1317: Osman I bao vây thành phố Bursa.
1326: Osman I mất. Con trai ông là Orhan I lên nối ngôi.
1326: Bursa thất thủ về tay Ottoman, Orhan I chọn nó làm thủ đô của đế quốc Ottoman.
1331: Quân Thổ Ottoman chiếm thành Nicaea, đổi tên nó là İznik
1334: Đoàn Thập tự chinh đánh bại một nhóm cướp biển Thổ Nhĩ Kỳ tại Vịnh Edremit.
1359: Orhan mất, Murad I lên ngôi.
Murad I
1383: Bey Murad I xưng làm hoàng đế sultan của Đế quốc Ottoman.
1388: Quân Ottoman bị quân Serbia đánh bại trong trận Plocnik.
1389: Murad I đánh bại quân Serbia do hoàng tử Lazar chỉ huy trong trận Kosovo.
1396: Bayezid I đánh bại quân Thập tự chinh trong trận Nicopolis.
1405: Trận Ankara, đế quốc Timurid do Timur chỉ huy đánh thắng quân Thổ Ottoman, bắt bỏ tù sultan Bayezid I. Đế quốc Ottoman bị đứt quãng.
1413 – 1421: Xây dựng lại đế quốc Ottoman.
1421: Mehmed I mất, Murad II lên nối ngôi.
1430: Murad II xâm chiếm Salonika.
1432: Mehmed II ra đời
Murad II
1434: Xây dựng Thánh đường Hồi giáo Muradiye tại Erdine.
1439: Trận chiến Smederevo
1444: Murad II truyền ngôi cho con trai là Mehmed II, sau đó ông đánh bại liên minh các nước Tây Âu trong trận Varna.
1444: Do trong nước có mâu thuẫn, Murad quay trở lại nắm quyền
1448: Trận Kosovo lần thứ nhì: Murad II đánh bại quân Hungary do tướng János Hunyadi chỉ huy.
1451: Murad II mất tại Erdine, Mehmed II lên ngôi lần hai.
Cực thịnh (1453-1683)
1453: Sultan Mehmed II chiếm thành phố Constantinople của Đế quốc Byzantine, hoàng đế Thiên chúa giáo Byzantine Constantine XI tử thương. Đế quốc Hy Lạp Byzantine rơi vào tay Ottoman, Mehmed II xưng Caesar (hoàng đế) La Mã.
Mehmed II
1461: Mehmed II tiêu diệt đế quốc Trabzon.
1462: Mehmed II bắt đầu xây Cung điện Topkapi.
1473: Trận Otlukbeli
1475: Mehmed II chiếm thành Caffa.
3 tháng 5, 1481: Mehmed II mất. Con trai ông là Bayezid II lên kế vị.
1483: Đổi tên Constantinople thành Istanbul.
1499: Trận Zonchio
Bayezid II
1512: Bayezid II thoái vị, Selim I lên ngôi.
1514: Selim I đánh cho quân Ba Tư đại bại tại trận Chaldiran
1517: Khalip chính thức trở thành danh hiệu của các vua Ottoman.
1520: Selim I mất, Suleyman I lên ngôi.
1521: Sultan Suleyman I xâm chiếm Beograd.
1529: Cuộc bao vây thành Viên.
Khoảng 1530-1650: Vương quốc Nữ giới.
1541: Suleyman I chiếm Budapest.
1547: Xâm chiếm hầu hết Hungary. Hungary bị chia cắt, một phần thuộc về Ferdinand I của Đức.
Suleyman I
1566: Suleyman I mất, Selim II lên nối ngôi
1569: Dập tắt vụ cháy lớn Istanbul.
1569: Chiến dịch Indonesia
1570: Xâm lăng Yemen.
1571: Đế chế Ottoman chiếm đảo Síp.
1571: Đại Hãn Krym Devlet Giray tấn công Moskva.
1571: Hải quân Tây Ban Nha và Venezia đánh bại Ottoman tại Lepanto.
1574: Chiếm lại Tunisia từ tay Tây Ban Nha.
Selim II
1574: Selim II mất, Murad III lên nối ngôi.
1578: Quân Ottoman xâm lược Ba Tư.
1609: Ahmed I bắt đầu cho xây dựng Thánh đường Xanh.
1622: Chiến tranh Ottoman-Iran (1622-1639) bùng nổ.
1623: Mustafa I bị lật đổ, Murad IV nối ngôi.
Murad IV
1635: Murad IV xâm lăng Lưỡng Hà.
1638: Cuộc bao vây Bagdad – quân Ottoman chiếm được Bagdad từ tay người Ba Tư.
1639: Kí hòa ước với Ba Tư.
1648: Mehmed IV lên nắm quyền.
1656-khoảng 1676: Các cải cách của các tể tướng thuộc dòng họ Köprülü.
1683: Bao vây Wien lần thứ hai.
Mehmed IV
1686: Hungary bị quân Habsburg tấn công và chiếm đóng dần dần.
1687: Mehmed IV bị hạ bệ, em là Suleyman II nối ngôi.
1687: Trận Mohács.
1688: Beograd rơi vào tay quân Habsburg
1690: Quân Ottoman chiếm lại Beograd
Suleyman II
1691: Trận Slankamen
1695: Trận Zenta
1699: Ottoman nhượng Hungary cho đế quốc La Mã Thần thánh châu Âu theo hiệp ước Karlowitz.
1711: Quân đội của Ahmed III đánh cho Pyotr Đại đế của Nga đại bại tại trận Pruth.
1718: Ký kết hiệp định Passarowitz.
1757: Osman III mất, Mustafa III lên nối ngôi
Mustafa III
1768: Chiến tranh Nga-Thổ Nhĩ Kỳ bùng nổ
1770: Khởi nghĩa Orlov
1774: Mustafa III mất, em là Abdul Hamid I lên nối ngôi.
1789: Selim III lên ngôi, một nhà cải cách lớn.
Selim III
1807: Selim III bị truất phế.
23 tháng 4, 1813: Cuộc khởi nghĩa Serbia lần thứ hai: Dân Serbia nổi dậy.
1821: Cuộc chiến tranh giành độc lập Hy Lạp bắt đầu.
Suy vong (1828-1908)
1830: Thực dân Pháp xâm chiếm Algérie.
21 tháng 7, 1832: Thành lập Vương quốc Hy Lạp.
1839: Abdul Mejid I đề xướng kế hoạch cải tổ Tanzimat.
4 tháng 10, 1853: Chiến tranh vùng Krym, đế quốc Ottoman cùng với đồng minh Đế quốc Anh, Đệ nhị đế chế (Pháp) và Vương quốc Sardinia đánh bại Đế quốc Nga.
5 tháng 2, 1862: Các công quốc Moldavia, Wallachia và Transylvania thống nhất dưới nhà nước Romania tự trị.
24 tháng 4, 1877: Chiến tranh Nga-Thổ Nhĩ Kỳ (1877-1878) bùng nổ.
3 tháng 3, 1878: Hiệp ước San Stefano đã được ký kết giữa Ottoman và Nga. Romania và Serbia độc lập. Công quốc Bulgaria độc lập trên danh nghĩa Ottoman bảo hộ.
4 tháng 6, 1878: Anh chiếm đảo Síp.
1881: Quân Pháp đô hộ Tunis.
1882: Quân Anh chiếm Ai Cập.
6 tháng 9, 1885: Tỉnh Đông Rumelia được nhượng cho Bulgaria.
Tan rã (1908-1922)
1908: Bosnia được nhượng lại cho đế quốc Áo-Hung.
5 tháng 10, 1908: Bulgaria hoàn toàn độc lập.
1909: Cuộc cách mạng của nhóm thanh niên Thổ lật đổ sultan Abdul Hamid II, đưa em ông là Mehmed V lên ngôi. Những thanh niên này hiện đại hóa nước Thổ.
1912: Quân Ý xâm lược Libya. Đế chế Ottoman chấm dứt 340 năm cai quản Bắc Phi.
28 tháng 11, 1912: Chiến tranh Balkan I:Albania tuyên bố độc lập.
17 tháng 5, 1913: Mất hầu hết lãnh thổ ở Châu Âu.
Mehmed V
2 tháng 8, 1914: Đế chế Ottoman tham gia Thế chiến I, thuộc phe liên minh Trung tâm.
1918: Đế quốc Ottoman bại trận. Các hiệp ước hòa bình sau thế chiến I làm đế quốc này tan rã. Các nước phe Entente thắng trận xâm lược Thổ Nhĩ Kỳ.
1919 – 1922: Cuộc chiến tranh giành độc lập Thổ Nhĩ Kỳ: Nhân dân Thổ vùng dậy chống lại ách thống trị của Entente.
1922: Cách mạng Thổ toàn thắng, phe Entente phải rời bỏ Thổ Nhĩ Kỳ. Đế quốc Ottoman cáo chung, những người cách mạng thành lập nước Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ
Quá trình hình thành và phát triển của Đế quốc Ottoman
Đây là thời kỳ bắt đầu với sự suy yếu của Vương quốc Hồi giáo Seljuq Rum trong đầu thế kỷ 14 và kết thúc với sự suy vong của Đế quốc Byzantine và sự sụp đổ của thành phố Constantinople vào ngày 29 tháng 5 năm 1453.
Sự nổi lên của Đế quốc Ottoman tương quan với sự suy tàn của đế quốc Đông La Mã, tạo ra cuộc chuyển giao quyền lực từ một xã hội Kitô giáo châu Âu sangmột xã hội bị ảnh hưởng Hồi giáo. Sự khởi đầu của giai đoạn này được đặc trưng bởi các cuộc chiến tranh Byzantine-Ottoman kéo dài đến một thế kỷ rưỡi. Trong thời gian này, Đế quốc Ottoman đã giành được quyền kiểm soát ở cả hai vùng đất Anatolia và Balkan.
Ngay sau khi thành lập beylik Anatolian ( Đế quốc Ottoman tại Anatoly ), một số tiểu quốc gốc Thổ Nhĩ Kỳ đã thống nhất với Đế quốc Ottoman để chống lại Đế quốc Byzantine. Đây cũng là khoảng thờimà người ta chứng kiến sự thất bại của vương quốc Hồi giáo Rum Thổ nhĩ kỳtrước quân Mông Cổ trong thế kỷ 14 và được tiếp theo sau bởi sự phát triển của Đế quốc Ottoman (khoảng từ29 Tháng 5, 1453 – 11 / 12 tháng 9 năm 1683) – theo một số nhà sử học thì đây là một khoảng thời gian được gọi là Pax Ottomana-khoảng thời gian ổn định kinh tế và xã hội tại các tỉnh bị chinh phục của Đế quốc Ottoman.
Vùng Anatolia trước khi sự cai trị của Ottoman
Nguồn gốc của Đế quốc Ottoman có thể được truy ngược trở lại vào cuối thế kỷ 11, khi một vài bộ tộc Hồi giáo có nguồn gốc Turk và là những người sống du canh du cư được gọi là Beylik, bắt đầu được thành lập ở các phần khác nhau của xứ Anatolia. Vai trò chính của họ là để bảo vệ khu vực biên giới của người Thổ Seljuq với Đế quốc Byzantine, một vai trò được tăng cường bởi sự di cư của rất nhiều người Thổ Nhĩ Kỳ từ Tiểu Á. Tuy nhiên, đến năm 1073 và nhất làsau chiến thắng của Vương quốc Hồi giáo Seljuq Rum trước Đế quốc Byzantine trong trận Manzikert, tiểu quốc Beyliks đã tìm kiếm một cơ hội để chiếm đoạt chủ quyền của người Thổ Seljuq và tuyên bố chủ quyền của họ một cách công khai.
Trong khi đế quốc Byzantine vẫn tiếp tục tồn tại trong gần bốn thế kỷ nữa (sau trận Manzikert ) và các cuộc Thập Tự Chinh cũng gây ra sự xuy yếu cho chính Đế quốc này, chiến thắng ở Manzikert đã báo hiệu sự bắt đầu của quyền uy của các bộ tộc gốc Beylik trong vùng Anatolia. Sự suy yếu tiếp theo của Đế quốc Byzantine và sự cạnh tranh về mặt chính trị giữa Vương quốc Hồi giáo Seljuq Rum và Fatimids ở Ai Cập và Nam Syria là những yếu tố chính giúp cho các bộ tộc Beylik tận dụng lợi thế của tình hình và thống nhất các bộ tộc của họ lại.
Trong số các bộ tộc Beylik có một bộ tộc được gọi là Söğüt, được thành lập và dẫn dắt bởi Ertuğrul, định cư tại thung lũng sông Sakarya. Khi Ertuğrul qua đời năm 1281, Osman -con trai của ông đã trở thành người kế nhiệm ông. Ngay sau đó, Osman tuyên bố mình là một Sultan và thành lập triều đại Ottoman, trở thành vua đầu tiên của Đế quốc Ottoman trong năm 1299.
Đế quốc Ottoman dưới sự cai trị của Osman I
Triều đại Osman I đánh dấu sự khởi đầu chính thức của sự cai trị của Đế quốc Ottoman vốn kéo dài trong sáu thế kỷ. Năm 1265 Sogut-thành phố của Byzantine đã thất thủ trước Osman I. Đây là thành phố đầu tiên trong rất nhiều thành phố và làng mạc của Đế quốc Byzantine đã bị chiếm bởi ngườiOttoman Thổ Nhĩ Kỳ trong suốt những năm 1300 và 1310. Osman cũng đã chinh phục một số tiểu vương quốcvà các bộ tộc Thổ Nhĩ Kỳ gần đó. Trong cuối những năm 1310 Osman I đã cho bao vây một số pháo đài quan trọng của người Byzantine.
Thành phố Yenişehir đã bị chiếm và ngay lập tức nó đã trở thành một căn cứ để người Thổ Nhĩ Kỳ có thể bao vây Prousas (Bursa) và Nicaea (Iznik)-các thành phố lớn nhất của Đế quốc Byzantine ở Anatolia. Bursa đã thất thủ vào năm 1326, chỉ trước khi Osman chết có vài ngày.
Thời kỳ trị vì của Orhan I
Orhan I-là con trai của Osman đã chinh phục thành phố Nicaea vào năm 1331 và Nicomedia năm 1337 và thành lập thủ đô tại Bursa. Trong triều đại của Orhan, đế quốc Ottoman đã được tổ chức thành một nhà nước thực sự với một đồng tiền mới, chính phủ và quân đội được hiện đại hóa.
Orhan kết hôn Theodora, con gái của hoàng tử Byzantine-John VI Cantacuzenus. Năm 1346, Orhan công khai ủng hộ John VI trong việc lật đổ hoàng đế John V Palaeologus. Khi John VI đã trở thành đồng hoàng đế (1347-1354), ông cho phép Orhan tấn công bán đảo Gallipoli nơi mà Đế quốc Ottoman đã có được thànhlũy đầu tiên của họ ở châu Âu. Orhan quyết định theo đuổi cuộc chiến chống lại châu Âu, người Thổ Nhĩ Kỳ ở Anatolia được cho định cư ở trong và xung quanh vùng Gallipoli để đảm bảo rằng vùng này sẽ trở thành một bàn đạp cho các hoạt động quân sự ở Thrace chống lại các Đế quốc Byzantines và Bulgaria. Hầu hết phía đông Thrace bị tràn ngập bởi lực lượng của Đế quốc Ottoman chỉ trong vòng một thập kỷ và được đặt dưới sự kiểm soát của Orhan một cách bền vững bằng các chính sách thực dân khốc liệt. Cuộc chinh phục Thracia đã đặt vào tay đế quốc Ottoman một bước tiến mang tính chiến lược trên tất cả các tuyến đường bộ kết nối chủ yếu từ Constantinople đến biên giới của vùng Balkan, tạo điều kiện thuận lợi cho việc mở rộng hoạt độngquân sự của họ. Ngoài ra, kiểm soát được những tuyến đường trong vùng Thrace sẽ làm cho Byzantium bị cô lập trên bộ và làm cho nó không thể có những liên hệ trực tiếp với bất kỳ đồng minh tiềm năng nào của nó trong khu vực Balkan hoặc ở Tây Âu. Hoàng đế Byzantine John V đã buộc phải ký một hiệp ước bất lợi trước Orhan năm 1356 đểcông nhận sự mất mát của vùng Thracia của Đế quốc Byzantine.
Đế quốc Ottoman trong thời kỳ của Murad I
Chẳng bao lâu sau cái chết của Orhan trong năm 1360, Murad I trở thành Quốc vương của đế quốc Ottoman.
Adrianople, 1365-1369
Cuộc tấn công lớn đầu tiên của Murad là trận Adrianople. Thành phố Adrianople là trung tâm quân sự, hành chính và kinh tếquan trọng nhất của Byzantine ở Thrace. Bằng cách chuyển thủ đô của mình từ Bursa trong Anatolia tới Adrianople- thành phố mới giành được và ông đã đổi tên nó thành Edirne, Murad báo hiệu ý định của mình rằng sẽ tiếp tục mở rộng Đế quốc Ottoman tại châu Âu.
Trước khi sảy ra sự sụp đổ của Adrianople, hầu hết người châu Âu đều coi sự hiện diện của Đế quốc Ottoman trong vùng Thrace như chỉ đơn thuần là một sựkhó chịu mới nhất trong một chuỗi dài các sự kiện hỗn loạn tại khu vựcphía Nam vùng Balkan. Sau khi Murad lập Edirne làm thủ đô của mình, họ mới nhận ra rằng người Ottoman có ý định ở lại châu Âu một cách lâu dài.
Các quốc gia vùng Balkan ngay lập tức cảm thấy sợ hãi bởi những cuộc chinh phục của Đế quốc Ottoman ở Thrace. Byzantium, Bulgaria và Serbia đã khôngđược chuẩn bị tốt để đối phó với mối đe dọa. Lãnh thổ của Đế quốc Byzantium bị phân mảnh chủ yếu ở giữa thủ đô Constantinople và các vùng đất của nó ởquanh Thracia, ngay lập tức thành phố Thessaloniki và các vùng xung quanh của nó đã bị bao vây và Morea ở trong vùng Peloponnese cũng chịu số phận như vậy. Liên hệ giữa Constantinople và hai khu vực khác chỉ có thể qua phương tiện tầu bè bằng một tuyến đường biển mong manh thông qua eo biển Dardanellesđược giữ mở bởi các Đô thành cường quốc hàng hải của Ý như Venice và Genoa. Đế quốc Byzantine bị suy yếu vì không còn sở hữu các nguồn lực để đánh bại Murad I và việc phối hợp hành động với những phần còn lại của Đế quốc Byzantines vốn thường bị chia rẽ bởi các cuộc nội chiến là điều không thể. Sự tồn tại của chính bản thân thành phố Constantinople phụ thuộc vào bức tường phòng thủ huyền thoại của nó, vì thiếu một lực lượng hải quân ( không thể tấn côngConstantinople từ mặt đất liền mà chỉ có thể tấn công từ hướng biển vì các bức tường thành ở đó yếu hơn )nên Murad đành phải chấp nhận các điều khoản trong Hiệp ước năm 1356 và cho phép thành phố được sống sót.
Bulgaria dưới thời Sa hoàng Ivan Aleksandur đã suy giảm. Để củng cốnhiều nhất có thể quyền lực của mình như là các vùng lãnh thổ của Đế quốc, ông đãchia lãnh thổ Bulgaria thành ba phần được giao cho các con trai của ông. Sự gắn kết của Bulgaria đã bị tan vỡ hơn nữa trong những năm 1350 đã có sự tranh giành dẫn đến chiến tranh giữa các con trai của ông – Vidin, Ivan Stratsimir, Aleksandur-những người nắm giữ một phần đất nước Ivan người con trai duy nhất còn sống sót của người vợ đầu tiên của ông, Ivan Shishman-sản phẩm của cuộc hôn nhân thứ hai của Sa hoàng Aleksandur và người kế nhiệm được chỉ định bởi chính Sa hoàng. Ngoài những vấn đề nội bộ, Bulgaria cũng tiếp tục bị tê liệt bởi các cuộc tấn công của người Hungary. Năm 1365 Louis vua-Hungary xâm lược và chiếm giữtỉnh Vidin, Stratsimir-viên thống đốc của tỉnh này bị tống vào tù. Bất chấpviệc bị mất đồng thời hầu hết các tỉnh của Bun-ga-ri ở vùng Thracia vào tay Murad I, Ivan Aleksandur lại chỉ tập trung sự quan tâm của mình vào người Hungary ở trong tỉnh Vidin. Ông đã thành lập một liên minh chống lại họ với Dobrudzhan-thủ lĩnh của Dobrotitsa và Voievod Vladislav I Vlaicu của Wallachia ( từ Voievod trong ngôn ngữ của người Balkan cũng là thủ lĩnh, bác nào đã xem phim Petko Voievod chưa nhỉ). Mặc dù người Hungary đã bị đẩy lùi và Stratsimir đã khôi phục lại được vị trí của mình, sự chia rẽ của Bulgaria lại trởlên trầm trọng hơn so với trước đây. Stratsimir tự tuyên bố mình chính là Sa hoàng của “đế quốc” Vidin trong năm 1370 và Dobrotitsatrên thực tế được công nhận là một bạo chúa độc lập ở Dobrudzha. Những nỗ lực của Bulgaria đã bị lãng phí vào những mục tiêu ít quan trọng ở trong nước và chon sai kẻ thù chính yếu ( về sau thì chính bản thân Hungary cũng phải chịu sức ép từ Đế quốc Ottoman – các quốc gia Balkan mới đoàn kết lại nhưng lúc này đã quá muộn ).
Đầu tiên là người Serbia bị mất kiểm soát tại các tỉnh thuộc Hy Lạp như Thessaly và Epiros( các tỉnh này trước đây là của đế quốc Đông La Mã, khi Byzantine xuống dốc những bộ tộc người Nam Slav như Serbia tràn xuống chiếm quyền kiểm soát) cũng nhưvùng Albania mà Dušan đã nắm giữ. Một loạt các công quốc nhỏ độc lập xuất hiện ở miền tây và miền nam Macedonia, trong khi đó người Hungary lại tiếp tục lấn sâu hơn vào đất Serbia từ phía bắc. Uros chỉ còn nắm giữ được những vùng đất trung tâm của Serbia, nơi mà các quý tộc mặc dù đã trở nên mạnh mẽ hơn so với vị hoàng tử của họ, nhưng nói chung họ vẫn trung thành với ông ta. Những vùng đất trung tâm bao gồm: Các vùng đất phía Tây, bao gồm cả Montenegro (Zeta), vùng đất phía Nam, nắm giữ bởi Jovan Uglješa ởSerres, bao gồm tất cả vùng phía đông của Macedonia, vùng đất trung tâm của người Serbia, kéo dài từ phía nam sông Danube vào trung tâm Macedonia, được đồng điều hành bởi Uros và vị quý tộc Secbia Mrnjavcevic Vukasin hùng mạnh, người đóng đô tại thủ phủ Prilep ở Macedonia. Không thể thống nhất nổi người Serbia, các vùng đất được hợp nhất một cách lỏng lẻo của Uros đã bị tàn phá bởi các cuộc nội chiến liên tục giữa các quý tộc trong khu vực và ngày càng làm cho Serbia dễ bị tổn thương từ mối đe dọa ngày càng tăng của Đế quốc Ottoman.
Gallipoli, 1366
Vào năm 1370 Murad kiểm soát hầu hết tất cả các vùng đất ở Thrace, qua đó đưa ông ta tiếp xúc trực tiếp với Bulgaria và vùng đất phía đông nam của Serbia được cai trị bởi Uglješa. Uglješa-vị thủ lĩnh Serbia hùng mạnh nhất trong khu vực, đã không thành công trong việc cố gắng để tạo lập một liên minh của các quốc gia Balkan để chống lại Đế quốc Ottoman vào năm 1371. Byzantium vì rất dễ bị tổn thương bởi người Thổ Nhĩ Kỳ do nguồn cung cấp thực phẩm của nó đều phải đi qua các vùng đất chiếm đóng nên đã từ chối hợp tác. Bulgaria sau cái chết của Ivan Aleksandur đầu năm đó, đã chính thức bị chia thành “đế quốc” của Vidin được cai trị bởi Stratsimir (1370-1396) và người kế nhiệm trực tiếp của Sa hoàng Aleksandur-Ivan Shishman (1371-1395), người cai trị vùng trung tâm Bulgaria từ Turnovo. Do trẻ tuổi (Sa hoàng Ivan Shishman ) và nắm giữ ngai vàng của mình một cách không chắc chắn, bị đe dọa bởi Stratsimir và có thể bị áp lực bởi người Thổ Nhĩ Kỳ, Shishman không thể có đủ năng lực để tham gia vào liên minh của Uglješa. Trong các bojar Serbia ở các địa phương, chỉ có Vukašin-người bảo hộ cho Uros và cũng là anh trai của Uglješa là nỗ lực tham gia vào liên minh này. Những người khác hoặc không nhận ra sự nguy hiểm của Đế quốc Ottoman hoặc từ chối tham gia vì sợ rằng các đối thủ của họ ở địa phương sẽ tấn công đánh lén vào thành lũy của họ khi họ đang ở trong liên minh.
Trận chiến Maritsa năm 1371
Trận chiến Maritsa đã diễn ra tại con sông Maritsa gần làng Chernomen vào ngày 26 tháng 9 năm 1371 giữaviên trung úy của vua Murad là Lala Shahin Pasha và lực lượng người Serbia có số lượng đông đến khoảng 70.000 người dưới sự chỉ huy của thủ lĩnh SerbiaVukašin Mrnjavčević của Prilep và người anh emtrai của ông-lãnh chúa Uglješa . Lãnh chúa Uglješa muốn tổ chức một cuộc tấn công bất ngờ vào Edirne-thành phố thủ đô của Đế quốc Ottoman , trong khi Murad I đang ở Tiểu Á. Quân đội Ottoman ít hơn nhiều, nhưng có chiến thuật vượt trội (đột kích vào trại của Liên minh vào ban đêm), Sahin Pasa đã đánh bại quân đội Kitô giáo và giết cả Vukašin lẫn Uglješa. Macedonia và một phần của Hy Lạp rơi vào quyền kiểm soát của Đế quốc Ottoman sau trận chiến này. CảUglješa và Vukašin đều thiệt mạng trong cuộc tàn sát. Vì vậy, chiến thắng áp đảo của Đế quốc Ottoman Thổ Nhĩ Kỳ còn được coi là cuộc tháo chạy (hoặc tànphá quân đội) của người Serbia.
Hậu quả của trận chiến Ormenion là Đế quốc Ottomantăng cường tổ chức các cuộc đột kích sâu hơn vào Serbia và Bulgaria. Tầm cỡ của chiến thắng này và các cuộc tấn công không ngừng vào vùng đất của mình thuyết phục Sa hoàng ShishmanBun-ga-ri ở Turnovo cảm thấy cần thiết phải xích lại gần với Đế quốcOttoman. Chậm nhất là vào năm 1376 Shishman đã chấp nhận làm chư hầu cho Murad I và gửi chị em gái của mình làm “vợ” của vua Thổ ở hậu cung tạiEdirne. Sự quy phục này đã không ngăn chặn được các cuộc đột kích liên tục của Đế quốc Ottoman vào sâu bên trong nội địa và cướp bóc vùng biên giới củaShishman. Đối với Byzantium, Hoàng đế John V đã dứt khoát chấp nhận làm chư hầu của Đế quốc Ottoman ngay sau khi trận chiến kết thúc, mở cửa cho sự can thiệp trực tiếp của Murad I vào tình hình chính trị trong nước của Byzantine.
Bước tiến của Đế quốc Ottoman sau trận chiến Maritsa năm 1371
Philadelphia thất thủ năm 1378
Bulgaria và Serbia đã có được một thời gian nghỉ ngơi ngắn ngủi trong khoảng những năm 1370 và 1380 khi các vấn đề phát sinh tại Anatolia và việc tăng cường can thiệp vào vấn đề chính trị của Byzantium đã làm cho Murad phải bận tâm. Tại Serbia, thời gian lặng sóng cho phép “bojar” của người Serbia ở phía bắc-Hoàng tử Lazar Hrebeljanovic (1371-1389) với sự hỗ trợ của mạnh mẽ các quý tộc ở Macedonia và Montenegrô và sự ủng hộ của Trưởng giáo của Nhà thờ Chính thống của Serbia ở Pec để củng cố quyền kiểm soát vùng đất trung tâm của Serbia. Hầu hết các thủ lĩnh địa phương của người Serbia ở Macedonia, bao gồm cả Marko, đã chấp nhận làm chư hầu của Murad để bảo vệ địa vị của họ và nhiều người trong số họ đã mang những đội quân người Serbia đi để phục vụ trong quân đội của Đế quốc Ottoman tại vùng Anatolia để chiến đấu với các đối thủ người Thổ Nhĩ Kỳ của ông.
Dubravnica năm 1381
Giữa những năm 1380 Murad lại một lần nữa tập trung sự chú ý của ông vào khu vực Balkan. Vì Shishman – chư hầu Bun-ga-ri của ông đang bận tâm vào một cuộc chiến tranh với Voievod Dan I của Wallachia (khoảng 1383-1386) trong 1385 Murad đã chiếm lấy thành phố Sofia ( nay là thủ đô của Bulgary ), Thành phố cuối cùng còn lại của Bun-ga-ri ở phía Nam dãy núi Balkan, mở hướng tới vị trí chiến lược Nis, trạm cuối cung ở phía bắc con đường quan trọng nối liền Vardar-Morava.
Trận Savra năm 1385
Trận Savra nổ ra vào ngày 18 tháng Chín năm 1385 giữa Đế quốc Ottoman và lực lượng quân đội Serbia. Đế quốc Ottoman đã giành chiến thắng và hầu hết các Lãnh chúa Serbia và An-ba-ni ở địa phương đã trở thành chư hầu (của Đế quốc Ottoman).
Trận Plocnik năm 1386
Việc Murad chiếm được Nis vào năm 1386 có lẽ đã buộc Lazar của Serbia phải chấp nhận làm chư hầu của Đế quốc Ottoman ngay sau đó. Trong khi ông tiếnsâu hơn vàophía bắc miền trung khu vực Balkan, Murad cũng có một lực lượng nữa di chuyển về phía tây dọc theo ” đèo Ingatia” và tiến vào Macedonia, buộcmột loạt các thủ lĩnh địa phương ở đó phải làm chư hầu-những người cho đến trước thời gian đó đã thoát khỏi số phận này. Một đội quân tiến đến bờ biển Adriatic của An-ba-ni vào năm 1385. Một đạo quân khác chiếm thành phố Thessaloniki trong năm 1387. Sự nguy hiểm đối với nền độc lập của các quốc giaKitô giáo vùng Balkan đã bị báo động một cách ngày càng rõ ràng.
Khi những vấn đề ở vùng Anatoli đã buộc Murad phải rời khỏi khu vực Balkan vào năm 1387, bản thân người Serbia và chư hầu Bun-ga-ri đã cố gắng cắt đứt liên hệ của họ với ông. Lazar đã hình thành một liên minh với Tvrtko I của Bosnia và Stratsimir của Vidin. Sau khi ông từ chối một yêu cầu của Đế quốcOttoman rằng ông phải thực hiện các nghĩa vụ chư hầu của mình một cách vĩnh viễn, quân đội của Đế quốc đã được cử đi để tấn công ông. Lazar và Tvrtko đã giáp mặt người Thổ Nhĩ Kỳ và đánh bại họ tại trận Plocnik, phía tây của Nis. Chiến thắng của các hoàng tử Kitô giáo đã khuyến khích Shishmanchấm dứt làm chư hầucho người Ottoman và tái khẳng định sự độc lập Bun-ga-ri.
Trận Bileća năm 1388
Murad trở về từ Anatolia trong năm 1388 và phát động một chiến dịch chớp nhoáng nhằm vào những nhà cai trị của Bun-ga-ri là Shishman và Stratsimir, những người này đã nhanh chóng lại phải quay lại làm chư hầu cho ông. Sau đó, ông yêu cầu Lazar phải chấp nhận làm chư hầu của mình và tỏ lòng tôn kính. Tự tin vì chiến thắng tại Plocnik, hoàng tử Serbia đã từ chối và quay sang yêu cầu Tvrtko của Bosnia và Vuk Brankovic-con rể của ông ta và là những nhà cai trị độc lập ở miền bắc Macedonia và Kosovo viện trợ chống lại một cuộc tấn công trả đũa của Đế quốc Ottoman.
Trận Bileća diễn ra ngày 27 tháng 8 năm 1388 diễn ra giữa người Bosnia dưới sự chỉ huy của Vlatko Vuković và Vuk Brankovic với đội quân của Đế quốc Ottoman do Lala Sahine Pasa chỉ huy. Quân đội của người Bosnia đã đánh bại quân Thổ và tạm thời chặn dưngd bước tiến của Đế quốc Ottoman vào Bosnia
Trận Kosovo năm 1389 (*)
Trận Kosovo (hay Trận Amselfeld) diễn ra vào ngày 28 tháng 6 năm 1389, khi mà Đế quốc Serbia và các đồng minh chống lại Đế quốc Ottoman của người Thổ Nhĩ Kỳ. Quân Serbia thất bại nặng nề, và cả vua Serbia là Lazar Hrebeljanović lẫn vua Thổ Nhĩ Kỳ là Murad I đều bỏ mạng trên trận tiền.
Chiến thắng tại Kosovo đã củng cố cuộc chinh phạt xứ Bulgaria của Đế quốc Ottoman. Sức mạnh quân sự của Serbia suy thoái và quân Ottoman đã phá tan cuộc kháng cự dũng mãnh nhất đối với cuộc chinh phạt vùng Balkan của họ.[16] Tuy nhiên, sau chiến thắng này vua Thổ Nhĩ Kỳ là Bayezid I đã làm hòa với người Serbia, đem lại cho họ những điều khoản dễ dãi.
Các thống kê đáng tin cậy về trận chiến này rất hiếm, tuy vậy so sánh với các trận chiến đương thời (như Trận Angora hay Trận Nikopolis) có thể tái hiện lại một cách tương đối. Tuy thất bại nhưng trận đánh tại Kosovo đã trở nên niềm tự hào dân tộc của nhân dân Serbia
Chuẩn bị
Sau thất bại trong trận Bileca và trận Plocnik của Đế quốc Ottoman, vua Thổ Nhĩ Kỳ là Murad I tập trung quân tại Philippoupolis (Plovdiv) vào mùa xuân năm 1389, và đến Ihtiman sau ba ngày hành quân. Từ đây, quân đội băng qua Velbužd (Kyustendil) và Kratovo. Mặc dù dài hơn con đường qua Sofia và thung lũng Nišava, tiến thẳng đến lãnh địa của Lazar, con đường này tiến đến Kosovo, một vùng đất có vị trí chiến lược quan trọng, một trong những giao điểm văn hóa thương mại quan trọng ở bán đảo Balkan. Từ Kosovo, quân của Murad I có thể tấn công cả lãnh địa của Lazar lẫn Vuk, hay tiến xuống Ý. Trú quân ở Kosovo một thời gian, Murad tiến quân qua Kumanovo, Preševo và Gnjilane tới Priština, đến nơi vào 14 tháng 6.
Không có nhiều thông tin về sự chuẩn bị của Lazar, có thể cho rằng ông tập trung quân ở gần Niš, có thể ở bên bờ phải Južna Morava. Quân đội của ông dường như vẫn ở đây khi ông nghe tin Murad tiến đến Velbužd, nhờ đó ông cũng tiến qua Prokuplje đến Kosovo. Lazar, với quân đội Cơ Đốc giáo gồm người Bulgari, Croat, Albani, Ba Lan, và Hungary, cũng như người Serb chạm trán với quân Murad tại Kosovo. Đây là lựa chọn tối ưu của Lazar cho quyết chiến điểm vì ở đây có thể kiểm soát được mọi đường tiến quân của Murad I
Thành phần quân đội
Không có số liệu chính xác về quân số, đặc biệt là các nguồn sau đó thường cố phóng đại quân số, thậm chí đến hàng trăm ngàn binh sĩ.
Quân đội của vua Murad I có thể trong khoảng 27.000-40.000 người . Dự đoán có khoảng 40.000 lính, có thể có 2.000-5.000 Janissary (ngự lâm quân – tiếng Thổ),[20] 2.500 kỵ vệ binh của vua Murad, 6.000 sipahi (thiết kỵ), 20.000 azap (bộ binh hạng nhẹ) và akinci (khinh kỵ) và 8.000 quân của các chư hầu.[17] Quân đội của vua Lazar có thể vào khoảng 12.000-30.000 lính. Ước tính có 25.000 quân, trong đó gồm 15.000 quân của vua Lazar và 5.000 của Vuk, và 5.000 của Vlatko’s. Trong đó, có vài nghìn kỵ binh, nhưng có lẽ chỉ có vài trăm mặc toàn giáp sắt.
Cả hai quân đội đều có lính nước ngoài, quân Serbia có một số quân Croatia của ban[21] Ivan Paližna, có thể là một phần của quân Bosnia, trong khi quân Thổ Nhĩ Kỳ được trợ giúp bởi một quý tộc Serbia tên là Konstantin Dejanović. Điều này đã dẫn tới nhiều kết luận khác nhau về quân số của liên minh này.
“… .Quân giặc rất là đông. Nếu bây giờ toàn bộ quân ta biến thành muối thì thậm chí còn không đủ mặn cho bữa trưa của giặc”
Bố trí quân đội
Hai đoàn quân giao chiến tại cánh đồng Kosovo. Quân đội Ottoman do vua Murad I dẫn đầy, cùng với hoàng tử Bayezid ở cánh phải, hoàng tử Yakub ở cánh trái. Khoảng 1.000 cung thủ ở hàng đầu hai cánh, đằng sau là azap (bộ binh nhẹ) và akinci (khinh kỵ); ở hàng đầu trung quân là janissary (ngự lâm quân), đằng sau là Murad, bao quanh bởi kỵ vệ binh; cuối cùng, hậu cần ở cánh được phòng vệ bởi một số quân nhỏ.
Quân Serbia có vua Lazar ở trung quân, Vuk ở cánh phải, Vlatko ở cánh trái. Tiền quân Serbia có kỵ binh hạng nặng và kỵ binh bắn cung ở hai sườn, với bộ binh ở phía sau. Khi đứng song song, cách bố trí của cả hai quân đội đều không cân đối, trung quân Serbia lấn sang trung quân Ottoman
“Khi cơn thác tên bắn xuống đầu quân Serbia những người đứng bất động như những dãy núi sắt, họ tiến về phía trước, cuồn cuộn và rền vang như biển cả”
Bắt đầu
Trận chiến mở màn khi cung thủ Ottoman bắn vào kỵ binh Serb đang tấn công. Sau khi xếp quân theo hình chữ V, kỵ binh Serb chọc thủng được cánh trái quân Ottoman, nhưng thất bại tại trung tâm và cánh phải.
Quân Thổ phản công
Người Serb có được lợi thế ban đầu sau đợt tấn công đầu tiên, đánh thiệt hại nặng cánh trái quân Thổ do Yakub Celebi chỉ huy. Khi đợt tấn công của kỵ binh kết thúc, khinh kỵ và khinh binh Ottoman chiếm ưu thế trong đợt phản công và áo giáp nặng nề của người Serb trở thành một gánh nặng. Ở trung quân, quân Serb đánh bật quân Ottoman lại với chỉ quân của Bayezid đã cầm chân được quân của Vlatko Vuković. Quân Ottoman, khi phản công, đã đẩy lùi quân Serb, và đã đánh bại họ trong ngày hôm đó. Bayezid I, người lên ngôi ngay sau trận chiến, đã có biệt danh Sấm sét ở đây, sau khi lãnh đạo một cuộc phản công quyết định. Cuối trận chiến, chiến thuật quân sự của quân Ottoman đã giúp họ thắng trận.
Cái chết của Murad
Dựa trên ghi chép lịch sử của Thổ Nhĩ Kỳ, người ta tin rằng vua Murad I đã bị Miloš Obilić – một quý tộc Serbia, ám hại, anh ta đã giả vờ chết, và giết chết vua Thổ khi ông đi trên chiến trường sau khi kết thúc trận đánh. Ngược lại, các nguồn của người Serbia tuyên bố rằng ông đã bị Miloš Obilić ám sát, khi anh ta vào doanh trại quân Thổ với lý do và người đào ngũ, trước khi quỳ xuống trước mặt Murad, anh ta đâm vào bụng ông và giết chết ông. Murad là vị vua nhà Ottoman duy nhất tử trận. Miloš Obilić ngay sau đó bị cận vệ quân của vua nhà Ottoman giết chết. Hoàng tử con trưởng của Murad, Bayezid, ngay lập tức hay tin về cái chết của vua cha, và trong khi trận chiến vẫn đang còn quyết liệt, gọi em mình là Yakub đến và nói với ông rằng vua cha truyền gặp hai người. Khi Yakub đến nơi, ông bị siết cổ đến chết, cái chết của ông khiến cho Bayezid là người kế vị hợp pháp duy nhất.
Lăng mộ của vua Murad I vẫn còn đến ngày nay, ở một góc của chiến trường. Mặc dù không ở trong tình trạng tốt, những nó không bị làm hư hỏng hay phá hủy – bất chấp hàng thế kỷ thù địch giữa người Thổ Nhĩ Kỳ và người Serbia.
Sau trận đánh
Góa phụ Kosovo, tranh của Uroš Predić
Trận Kosovo là một chiến thắng quan trọng của Đế quốc Ottoman. Tuy nhiên, quân đội Ottoman lại rút lui và người Serbia vẫn kiểm soát một phần Kosovo. Trong khi cả hai bên đều tổn thất, thiệt hại nghiêm trọng về phía Serbia đã dẫn đến sự suy sụp thực sự của người Serbia với nhiều, nhưng không phải tất cả, các lãnh chúa phong kiến Serbia triều cống hay cung cấp quân đội cho Đế quốc Ottoman.
Theo sau trận chiến, với cái chết của vua Lazar của người Serbia, Bayezid thiết lập một liên minh chặt chẽ với con trai của Lazar là Stefan. Bayezid kết hôn với em gái của Stefan, và cuộc hôn nhân này khiến Stefan trở thành một đồng minh trung thành của Bayezid, đóng góp cho Bayezid những đội quân quan trọng trong các chiến dịch quân sự của ông sau này, trong số đó có cả trận Nicopolis, cuộc Thập tự chinh lớn cuối cùng ở thời kì Trung Cổ.
Trận Kosovo tiếp tục được xem là một cột mốc trong sự định hình và kiến thiết dân tộc Serbia, cho dù đây là trận chiến giữa Quân đội Ottoman ở Thổ Nhĩ Kỳ với liên minh các quốc gia Cơ Đốc giáo ở châu Âu. Trận Kosovo mãi mãi là biểu tượng của tinh thần yêu nước Serbia và khát vọng độc lập qua hàng thế kỷ dưới quyền thống trị của Đế quốc Ottoman, và điều đó có nghĩa là trong cái nhìn của dân tộc Serbia, đây vẫn là một chứng cớ quan trọng trong Chiến tranh Kosovo và lời tuyên bố độc lập khỏi Serbia vào tháng 1 năm 2008 của Kosovo. Ngược lại với tuyên bố độc lập này, người Serb cho rằng, một phần là do trận Kosovo, rằng Kosovo vẫn là một bộ phận quan trọng và không thể tách rời của Serbia.
Trận Nikopolis năm 1396 (*)
Trận Nikopolis nổ ra vào ngày 25 tháng 9 năm 1396, trong trận này, Đế quốc Ottoman và Serbia đánh cho liên minh Hungary, Đế quốc La Mã Thần thánh, Pháp, Wallachia, Ba Lan và Vương quốc Anh, Vương quốc Scotland, Liên minh Thụy Sĩ cũ, Cộng hòa Venezia, Cộng hòa Genoa và Các hiệp sĩ thánh Gioan đại bại gần pháo đài Nikopolis (nay là Nikopolis, Bulgaria) tại sông Donau. Trận này cũng được xem là Cuộc Thập tự chinh Nikopolis, cuộc thập tự chinh lớn cuối cùng ở thời kì Trung Cổ. Trận đánh cũng thỉnh thoảng được xem là đã nổ ra ngày 28 tháng 9 năm 1396. Sau khi quân Thập tự không thể hạ nổi phòng tuyến của người Ottoman, Sultan Bayezid I đã đánh úp họ. Cho dù đắt giá, đây là một chiến thắng toàn diện và vẻ vang của Đế quốc Ottoman, với phần lớn Thập Tự Quân bị loại khỏi vòng chiến. Trong khi nhiều binh sĩ Thập tự bị chết đuối khi tháo chạy, rất nhiều binh sĩ khác bị bắt làm tù binh (trong đó có cả Thống chế Pháp là Jean Le Maingre nhưng ông được trao trả sau thảm bại). Nhà viết sử biên niên Jean Froissait đã nhận xét rằng, từ thảm họa Roncesvalles tới thời điểm đó, chưa bao giờ quân đội Thiên chúa giáo chịu thương vong nặng nề như vậy.
Đại thắng này đã củng cố thế lực của Đế quốc Ottoman ở miền Đông Nam Âu và gia tăng thanh thế của Bayezid I. Thắng lớn, ông được người Hồi giáo nhìn nhận như là một ghazi (“thần binh”). Không những gây cho người châu Âu càng kinh sợ người Ottoman hơn, thắng lợi vang dội này mang lại uy thế cho Đế quốc Ottoman trong thế giới Hồi giáo.[12] Vốn đang vây hãm kinh thành Constantinopolis của Đế quốc Đông La Mã, bằng đại thắng Nicopolis ông không những nắm chắc vùng Balkan mà còn xóa tan mọi hy vọng giải nguy cho Constantinopolis của người Tây Âu. Đối với nước Pháp, thất bại này trở thành một thảm họa cho họ, với tổn thất nặng nề của quân tinh nhuệ Pháp.
Trận Ankara năm 1402 (*)
Tranh của Stanisław Chlebowski, Hoàng đế Bayezid bị Timur tống giam, 1878, miêu tả cảnh Timur bắt giữ Bayezid
Trận Ankara hay Trận Angora, diễn ra vào ngày 20 tháng 7, 1402, tại cánh đồng Çubuk (gần Ankara) giữa quân Ottoman của sultan Beyazid I và quân Mông Cổ-Thổ Nhĩ Kỳ của hoàng đế Timur của Đế quốc Timur. Trận đánh kết thúc với thảm bại của quân đội Ottoman
Là lãnh tụ của quân Mông Cổ-Thổ Nhĩ Kỳ, Timur là người thống trị châu Á mạnh nhất kể từ thời Thành Cát Tư Hãn. Ông xuất thân từ một chi của một gia đình quý tộc Thổ Nhĩ Kỳ nhỏ ở Turkestan và qua những cuộc chiến không ngừng nghỉ, ông cố phục hồi lại Đế quốc Mông Cổ.
Timur đã chinh phạt các vương quốc Gruzia và Armenia năm 1390, mở rộng đế chế của mình đến biên giới của Đế quốc Ottoman. Hai thế lực nhanh chóng giao tranh trực diện. Sultan Đế quốc Ottoman là Beyazid I đòi một tiểu vương Thổ Nhĩ Kỳ phải triều cống, người đã phục tùng Timur và bị đe dọa xâm lược. Timur cho rằng hành động này là một sự xúc phạm đối với bản thân mình và năm 1400 tiến hành cướp phá một thành phố Ottoman là Sebaste (ngày nay là Sivas). Beyazid đã bị một đòn đau và khi Timur tấn công Tiểu Á từ phía Đông, Beyazid triệu tập quân của mình và đe dọa quân Timur ở gần Ankara. Trận chiến này nói chung là đỉnh điểm trong những năm Timur và Beyazid gửi cho nhau những bức thư xúc phạm đối thủ.
Quân số hai bên khá tương đồn. Kể cả những người chứng kiến tận mắt cho rằng đội quân của Timur lên đến hơn 1 triệu người, quân số thực tế có lẽ vào khoảng 200.000 lính. Trong khi quân Bayezid cũng tương đương với quân Timur, đa phần là bộ binh và có 20.000 kỵ binh Serbia do Hoàng tử Stefan Lazarevic chỉ huy. Quân Timur hầu hết được bao quanh bởi vài con voi Ấn Độ
Trận chiến bắt đầu với một cuộc tổng tấn công của quân Ottoman, bị phản công bằng một cơn mưa tên từ kỵ binh bắn cung của Timur. Vài nghìn quân bị giết và nhiều lính đầu hàng Timur. Trong trận chiến, nguồn nước cung cấp cho cả hai quân đội, Cubuk Creek bắt nguồn từ một con hồ chứa nước nhỏ ở gần thị trấn Cubuk do quân Timur chiếm giữ, khiến cho quân Ottoman không còn nước. Trận chiến cuối cùng diễn ra trên đồi Catal, bao quát thung lũng Cubuk. Quân đội Ottoman, khát và mệt mỏi, mặc dù Bayezid đã chạy được đến dãy núi gần đó với vài trăm quân ky. Tuy vậy, Timur có những dãy núi bao quyanh và vượt trội về quân số so với Bayezid, nên nhanh chóng bắt được ông ta. Quân đội Ottoman vẫn đủ mạnh khi bắt đầu, nhưng sau đó người Tatar và người Sihahi từ các vương quốc Tiểu Á bở lại Bayezid rồi đầu hàng quân Timur, phá vỡ hai sườn của quân Ottoman.
Các quốc gia châu Âu, ban đầu, ủng hộ cuộc xâm lược của đế quốc Timur và người Genova đã treo cờ của Mông Cổ trên các bức tường thành Galata để ủng hộ Timur. Tuy vậy, vài tháng sau khi Đế quốc Ottoman bại trận tại Tiểu Á, nỗi lo sợ trở thành mục tiêu tiếp theo sớm thu hút sự chú ý của người dân Châu Âu.
Là thảm bại của quân đội Ottoman, trận Ankara có hiệu quả tức thời đối với nền chính trị Balkan, khi đó Đế quốc Ottoman đang nắm quyền chủ động. Do cuộc xâm lược của Timurid, cuộc vây hãm Constantinople bị chấm dứt và quân Ottoman rút khỏi Balkan để đương đầu với mối đa dọa mới.
Sự kiện này đã chia rẽ Đế quốc Ottoman thành nhiều phe phái vì các con trai của Beyazid vẫn còn sống và tự do sau khi chính ông ta bị bắt. Phần lớn người Thổ Nhĩ Kỳ Ottoman chạy trốn đến châu Âu. Điều này dẫn đến cuộc nội chiến giữa bốn người con trai của Bayezid. Sự suy yếu tạm thời của Ottoman làm sự sụp đổ của Đế quốc Byzantine và cuộc xâm lược Balkan của chậm lại một thời gian.
Sultan Mehmed II (*)
Mehmed II (Tiếng Thổ Ottoman: Mehmet) là vị Sultan thứ bảy của đế quốc Ottoman trong một thời gian ngắn từ năm 1444 tới tháng 9 năm 1446, và sau đó là từ tháng 2 năm 1451 tới 1481. Ở tuổi 21, ông chinh phạt Constantinopolis, dẫn tới sự sụp đổ của Đế quốc Đông La Mã. Mehmet tiếp tục chinh chiến ở châu Á, thống nhất lại Tiểu Á, và mở rộng lãnh thổ tới Beograd ở châu Âu. Sau đó, ông hợp nhất chính sách trị dân cũ của Đông La Mã với chính sách trị dân của nhà Ottoman. Mehmet II không được xem là vị vua người dân tộc Turk đầu tiên của Constantinopolis, nhưng không lạ gì vì trước ông, Leo IV người Khazar, theo đạo Thiên Chúa, là Hoàng đế La Mã trên danh nghĩa. Ngoài Thổ Nhĩ Kỳ, ông còn nói được các tiếng Ả Rập, Hy Lạp, Ba Tư, Serbia, Ý,…
Thiếu thời
Mehmed II là con trai thứ ba của Murad II (1404 – 1451), vị vua thứ sáu của Đế quốc Ottoman. Ngay từ nhỏ, Mehmed đã là một đứa trẻ khỏe mạnh và lanh lợi, trong khi đó những người anh trước của ông thường hay gầy yếu bệnh tật. Vì vậy, dù mẹ của Mehmed, Huma Hatun chỉ là một nữ nô, Mehmed lại được cha đặc biệt thương yêu và tin tưởng, chính Murad đã lấy tên cha mình là vua Mehmed I (1413-1420) để đặt cho con trai mình, với mong muốn đứa trẻ sau này sẽ làm nên nghiệp lớn như người ông nội của nó.[4] Khi Mehmed vừa bập bẹ biết nói thì Murad đã vời các thầy giáo giỏi nhất nước vào làm gia sư cho con trai mình. Tiếp theo, Murad II sắp xếp cho Mehmed vào học một trường học đặc biệt ở nội cung, đó cũng là nơi học của con cháu của các nhà quý tộc hoặc những đứa trẻ thông minh lanh lợi, con của các tù binh. Việc này nhằm giúp cho Mehmed kết giao với những người bạn tài năng để sau này họ sẽ giúp đỡ ông làm nên nghiệp lớn. Đồng thời, khi bắt đầu trưởng thành thì Mehmed được vua cha cử đi làm tổng trấn tỉnh Manisa tại Tiểu Á để học tập kinh nghiệm trị quốc.
Trị vì lần đầu (1444 – 1446)
Năm 1444, Murad II đã cảm thấy quá mệt mỏi với các công việc triều chính và chiến tranh nên quyết định về phủ Manisa an hưởng tuổi già, và truyền ngôi cho Mehmed. Về phần vua con, được sự giúp đỡ của các thầy học và các đại thần, ông dần dần đã nắm được cách trị vì đất nước. Nhưng giữa lúc đó thì một sự biến quan trọng xảy ra: vua Władysław III của Ba Lan và Hungary gây chiến. Ông này trước đây đã phát động Thập tự chinh đánh bại quân Ottoman và kí hòa ước Segedin với Murad, nay nhân cơ hội Mehmed còn nhỏ tuổi liền cất binh, xé bỏ hòa ước Segedin, lấy cớ là hòa ước này do Władysław ký với Murad và khi Murad đã thoái vị thì nó không còn hiệu lực nữa. Được cộng hòa Venezia, Giáo hoàng, hoàng đế Đông La Mã và một số thế lực châu Âu khác ủng hộ, Władysław III đã tổ chức được một cuộc Thập tự chinh lớn. Thập tự quân nhanh chóng tiến sâu vào lãnh thổ Ottoman và áp sát trọng trấn Varna nằm trên bờ Hắc Hải. Đồng thời, một số quan lại địa phương cũng nhân cơ hội tuyên bố độc lập.
Trước tình hình đó, Mehmed buộc phải vội vã phi ngựa tới phủ Manisa mời vua cha về chấp chính. Sau đó, Murad II đã xuất quân đánh tan tác đạo Thập tự quân tại trận Varna (1444), Władysław III cũng tử trận. Mối họa xâm lược bị đẩy lùi. Sang năm sau, Murad II lại trao quyền cho vua con rồi quay về Manisa.
Tuy nhiên, một bộ phận Cấm vệ quân Janissary lại nổi loạn, tỏ ý không phục ấu chúa và đòi Murad quay trở lại ngôi vị. Không còn cách nào khác, tháng 5 năm 1446 Mehmed II lại phải đích thân ra Manisa mời vua cha về lên ngôi thêm một lần nữa.
Khoảng thời gian chuẩn bị tích cực cho việc kế ngôi (1446 – 1451)
Sau hai cuộc phong ba nói trên, Mehmed cảm thấy rất rõ là với trình độ hiện có của mình, việc cai trị một tỉnh nhỏ thì được chứ cai trị một đất nước rộng lớn thì rõ ràng là ông chưa đủ sức. Vì vậy, sau đó ông đã ra sức học hỏi thêm kiến thức và chăm chỉ làm việc để bồi dưỡng kinh nghiệm cho mình.
Trong thời gian này, Mehmed đọc rất nhiều truyện ký về Alexandros Đại đế cũng như các tướng lĩnh La Mã nổi tiếng để từ đó rút ra kinh nghiệm về cách trị quốc cũng như các tri thức quân sự , chiến thuật, chiến lược, hậu cần… Ông cũng ra sức học thêm nhiều ngôn ngữ, ví dụ tiếng Ả Rập, Hy Lạp, Ba Tư, Serbia, Ý v.v… vì ông ý thức rõ rằng, quốc gia Ottoman nằm giáp giới giữa châu Âu và châu Á nên tình hình dân tộc và ngôn ngữ ở khu vực này khá đa dạng và phức tạp. Ngoài ra ông cũng rất yêu thích thi ca, thuộc lòng các bài thơ cổ Hy Lạp, La Mã, Ba Tư, bản thân Mehmed cũng là một nhà thơ. Mehmed còn là một người làm vườn giỏi, ông thường thư giãn bằng cách trồng tỉa vườn hoa và vườn cây ăn quả ở nội cung.
Triết học cũng thu hút niềm yêu thích của Mehmed, nhất là triết học Aristotle và triết học Khắc kỉ (Stoicism). Dần dần, sau năm năm, Mehmed từ một thiếu niên còn rất ngây thơ đã trở thành một thanh niên tài năng có học vấn rất uyên bác.
Trị vì lần thứ hai (1451 – 1481)
Ngày 18 tháng 2 năm 1451, Murad II lâm bệnh và qua đời tại Edirne. Mehmed hay tin, lập tức cùng những người thân tín phi ngựa bất kể ngày đêm đến thủ đô, chấm dứt bổn phận của tổng trấn Manisa. Ngày 18 tháng 2 năm 1451, ông lên ngôi ở Edirne, trở thành vua thứ bảy của đế quốc Ottoman. Ngay ngày hôm đó, Mehmed đã hạ lệnh giết chết một người em trai cùng cha khác mẹ mới tám tháng tuổi của mình vì người em trai này, con của Murad II với một công chúa người Serbia, là một kẻ thù tiềm tàng trong việc tranh ngôi của Mehmed II. Vài năm sau ông còn ra một chiếu thư mà khiến ai cũng rùng mình, quy định rằng các hoàng đế nhà Ottoman có quyền giết chết các anh em của mình để duy trì hoàng vị và an ninh quốc gia.[4] Đây cũng là cơ sở cho các cuộc nồi da xáo thịt trong hoàng tộc Osman sau này. Từ đó, Mehmed hoàn toàn thay đổi cá tính, từ một con người nho nhã nhu nhược trở thành kẻ quyết tâm dùng cường quyền để mở rộng và củng cố nền thống trị của mình.
Mở rộng bờ cõi
xem bài Sự thất thủ Constantinopolis
Một trong những mục tiêu đầu tiên mà Mehmed II nhắm tới chính là lãnh thổ của Đế quốc Đông La Mã, lúc này chỉ còn kinh đô Constantinopolis và một số vùng phụ cận nhỏ xung quanh. Tới lúc Mehmed II lên ngôi, đế quốc Ottoman đã có lãnh thổ hết sức to lớn nằm vắt ngang châu Âu và châu Á. Tuy nhiên, tại trung tâm của đế quốc vẫn tồn tại lãnh thổ chưa chịu khuất phục của người Byzantine. Sự tồn tại này của chẳng khác chi một cây đinh đóng chặt vào ngay giữa quả tim của đế quốc. Vì vậy các vua nhà Ottoman đã từng nhiều lần có ý đồ nhổ bỏ chiếc đinh này khỏi lãnh thổ của mình. Ông cố của Mehmed là Bayezid I (1389 – 1402) đã từng mấy lần đem quân vây đánh Constantinopolis. Cha của Mehmed là Murad II cũng đã từng có lần bao vây ngôi thành suốt hai tháng. Nhưng vì địa thế hiểm trở cũng như sự vững chãi của các tường thành mà tất cả những nỗ lực này đều không thành công. Nay Mehmed II một lần nữa chuẩn bị lực lượng vây đánh Constantinopolis, quyết tâm hoàn tất sự nghiệp dang dở của các bậc tổ phụ. Vì vậy không ngạc nhiên khi Mehmed rất khát khao làm chủ được Constantinopolis và biến nó thành thủ đô của Hồi giáo, điều này thể hiện qua hai câu nói:
“Trẫm chỉ có một mong muốn duy nhất. Hãy tặng Constantinopolis cho trẫm.”—Mehmed II,
“Thời đại hiện nay đã thay đổi rồi, ta muốn đi từ phía Đông sang phía Tây, cũng giống như trước kia người Tây phương đi đến Đông phương. Trên thế giới này chỉ có thể có một đế quốc, chỉ có thể có một tôn giáo, chỉ có thể có một vương quốc. Muốn thực hiện được sự liên hệ đó thì trên đời này không có địa phương nào thích hợp hơn là Constantinopolis.”—Mehmed II
Năm 1451, Mehmed ráo riết củng cố hải quân Ottoman, và chuẩn bị cuộc chinh phạt Constantinopolis. Ở eo biển Bosporus chật hẹp, trước kia Bayezid I đã xây thành Anadoluhisarı ở phần châu Á; Mehmed dựng nên một ngôi thành vững chắc hơn, Rumelihisarı ở phần châu Âu, thế là ông hoàn toàn làm chủ eo biển Bosporus. Để xây ngôi thành này, Mehmet hạ lệnh đánh thuế lên những chiếc thuyền chạy trong phạm vi tầm ngắm của đại bác họ. Một tàu thuỷ Venezia đòi ông phải ngưng làm việc đó, bị bắn và chìm nghỉm.
Ngày 6 tháng 4 năm 1453, Mehmed II và quân đội bắt đầu vây thành Constantinopolis. Ngày 29 tháng 5 năm 1453, Mehmed và quân đội đến sát chân thành nhưng đã gặp phải sự kháng cự mạnh mẽ của quân hoàng đế Constantinus XI. Nhưng với ưu thế quá vượt trội về quân số cũng như trang bị, sau những cuộc giao chiến khốc liệt, quân Ottoman cuối cùng cũng tràn được vào thành.[5] Tuyệt vọng, hoàng đế Constantinus XI thốt lên: “Thành đã mất thì ta còn sống làm gì nữa!” rồi xông thẳng vào biển quân Ottoman và hy sinh. Thế là thành Constantinopolis thất thủ. Quân Ottoman tàn phá ngôi thành và bắt 6000 người làm nô lệ. Nhưng sau đó, Mehmed thiên đô về Constantinopolis. Ngày 30 tháng 5 năm 1453, Mehmed chuyển đại thánh đường St. Sophia thành một Hagia Sophia, một thánh đường Hồi giáo, và bắt đầu xây dựng tân đô của Đế quốc.
Sau chiến thắng Constantinopolis, Mehmed II xưng hiệu “Hoàng đế La Mã” (Kayser-i Rûm), dù điều này không được công nhận bởi các vương quốc Tây Âu, giáo hội Chính thống giáo Hy Lạp hay các cộng đồng người Hy Lạp khác. 10 năm sau khi chinh phạt thành Constantinopolis, Sultan Mehmed II thân hành đến di tích thành cũ Troia và tuyên bố rằng ông đã rửa hận cho người thành Troia bằng việc chinh phạt người Hy Lạp – ở đây chỉ người Đông La Mã.
Chinh chiến ở châu Á
Cuộc chinh phạt Constantinopolis khiến cho Mehmed II chuyển sự chú ý của mình sang phía đông. Trước đó, ông cố của Mehmed là Bayezid I đã thống nhất được Tiểu Á, nhưng cuộc tấn công của Đế quốc Timur đã phá nát Vương quốc Ottoman và khiến các vương quốc của người Thổ Nhĩ Kỳ ở miền Đông bán đảo Tiểu Á ly khai trở lại. Chính vì vậy, Mehmed II quyết tâm hoàn tất sự nghiệp dang dở của các bậc tổ phụ. Trước hết, ông chinh phạt các xứ của người Thổ, sau đó tiến lên phía Bắc và tiêu diệt Đế quốc Trebizond của người Đông La Mã vào năm 1461. Tiếp theo, Mehmed lại đánh nhau với xứ Ak Konyulu (hay còn được gọi là White Sheep) đang thống trị khu vực Đông Tiểu Á và Armenia. Lúc bấy giờ, với mục đích giảm nhẹ áp lực của Đế quốc Ottoman lên các thuộc địa của mình tại bán đảo Balkan, Cộng hòa Venezia đã xúi giục vua Ak Konyulu là Uzun Hasan gây chiến với Mehmed, đồng thời viện trợ vũ khí cho Hasan. Để đối phó với Hasan, Mehmed II đã phải huy động một đạo quân hùng mạnh với rất nhiều nhân lực và vật lực của toàn đế quốc, ngay cả hai người con trai là Mustafa và Bayezid cùng với quan chưởng ấn cũng trực tiếp tham gia chiến đấu.[4] Cuối cùng, quân Ottoman đại thắng trong trận Otlukbeli năm 1473.
Đến đây, Mehmed II đã nắm được quyền kiểm soát toàn bộ vùng Tiểu Á, đồng thời xây dựng vùng này thành khu vực trung tâm của đế quốc Ottoman và cả nhà nước Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ sau này. Thật vậy, những chiến thắng quân sự liên tiếp của Đế quốc Ottoman đã biến người Thổ Nhĩ Kỳ từ một ngoại tộc thành dân tộc chủ thể của Tiểu Á. Có thể nói, việc chinh phạt của Mehmed tại châu Á đã xúc tiến cho sự thành hình của dân tộc Thổ Nhĩ Kỳ hiện đại.[4]
Chinh chiến ở châu Âu
Tiếp đó, năm 1460 Mehmed II lại xua quân xâm chiếm lãnh địa của người Đông La Mã ở châu Âu là Morea trên bán đảo Peloponnese. Đến năm sau, Mehmed lại xâm chiếm Đế quốc Trebizond ở châu Á. Kết quả là hai lãnh địa cuối cùng của người Đông La Mã đều nằm dưới sự cai trị của Đế quốc Ottoman. Cuộc chinh phạt Constantinopolis đã đem lại niềm vinh dự và thanh thế lớn cho người Thổ Nhĩ Kỳ.
Quân Ottoman tiến về Đông Âu, tới cửa ngõ Beograd và bắt đầu nỗ lực đánh chiếm thành phố này từ tay Đại tướng Janós Hunyadi trong Cuộc vây hãm Beograd năm 1456. Các võ tướng Hungary giữ được thành, quân Ottoman phải triệt binh với tổn thất nặng nề. Dù vậy, cuối cùng thì người Thổ cũng chiếm được hầu hết Serbia.
Năm sau (1463), sau một cuộc tranh chấp về cống vật của vương quốc Bosnia, Mehmed đã chinh phạt Bosnia và nhanh chóng toàn thắng, vua cuối cùng của Bosnia là Stjepan Tomasevic bại vong.
Ông cũng gây chiến với chư hầu cũ của mình là vương công Vlad III Dracula xứ Wallachia. Năm 1462 Mehmed II đã gặt hái thảm bại khi bị Vlad tấn công trong cuộc tấn công ban đêm. Thế rồi, Mehmed chuyển sang giúp đỡ anh trai Vlad là Radu để trả thù cho những thất bại của quân đội Ottoman trên mặt trận. Với sự hỗ trợ của người Thổ, Radu nhanh chóng tước đoạt lãnh địa Wallachia trong cùng năm đó và buộc Vlad phải chạy trốn khỏi Wallachia.
Năm 1475, quân Ottoman giao chiến với Moldavia và bị Vương công Stefan III đánh tan tành trong trận Vaslui. Tuy nhiên đến năm 1476 Mehmed trả được thù khi tiêu diệt gần như hoàn toàn quân đội ít ỏi của Moldavia trong trận Valea Albă. Tiếp đó ông tiến quân đến Suceava và cướp bóc, tàn phá thủ phủ của vùng này, mặc dù sau đó ông đã thất bại trong việc đánh chiếm lâu đài Suceava và pháo đài Piatra Neamţ. Đúng lúc đó thì một trận dịch bùng lên trong hàng ngũ quân Ottoman, đồng thời với nguồn nước trở nên thiếu hụt và Vương công Stefan III lại nhận được 3 vạn viện binh do cựu thù của Mehmed, Vlad III Dracula chỉ huy. Mehmed II buộc phải bỏ dở chiến dịch và quân đội Ottoman triệt thoái.
Năm 1480, Mehmed II chinh phạt bán đảo Ý, để thực hiện mưu đồ “thống nhất Đế quốc La Mã cổ đại” của Mehmed. Thoạt đầu, quân Ottoman dễ dàng đánh chiếm thành phố Otranto vào năm 1480, nhưng ngay năm sau (1481) quân đội của Giáo hoàng đã đoạt lại vùng này sau khi Mehmed qua đời.
Trong những năm 1443 – 1468, Đế quốc Ottoman phải đối phó với cuộc khởi nghĩa của nhân dân Albania do Skanderbeg lãnh đạo. Skanderbeg nguyên là một nhà quý tộc Albania và là đại diện của nhà Ottoman tại Albania dưới thời Murad II. Nhưng thay vì phục vụ cho sultan, Skanderbeg đã vùng lên khởi nghĩa và cố gắng lôi kéo lực lượng của các hoàng thân Albania yêu nước, nhắm cùng đấu tranh chống lại ách đô hộ của nhà Ottoman. Cuộc khởi nghĩa này đã ngăn trở mưu đồ tấn công vào bán đảo Ý của Đế quốc Ottoman trong suốt một thời gian dài.
Kết quả
Những cuộc chiến của Mehmed II tại châu Âu chứng tỏ sự hiện diện của người Thổ ở đó không phải là nhất thời. Dưới thời Mehmed II, quân Ottoman chưa thể chiếm ưu thế trội hơn hẳn quân các nước vùng Balkan, nhưng cuộc chiến hãy còn tiếp diễn.
Kết quả của các cuộc chinh phạt trên là Mehmed đã nắm trong tay một Đế quốc Ottoman hết sức rộng lớn, gồm 28 tỉnh ở châu Âu và 21 tỉnh ở châu Á, bao trùm các phần đất của Hy Lạp, Thổ Nhĩ Kỳ, Bulgaria, Albania, Armenia và một phần Ukraina. Đến cuối đời, Mehmet bắt đầu sử dụng danh xưng “chúa tể của hai đất và hai biển” (hai đất là Tiểu Á và Romania, hai biển là Aegean và Hắc Hải).
Mehmed II sở dĩ có thể liên tục chiến thắng trên chiến trường, một phần là vì các đối thủ của ông là những thế lực phong kiến cát cứ hoặc các vương triều già nua đang suy sụp, nhưng cũng là nhờ ông có những biện pháp cai trị đất nước và quản lý quân đội rất hữu hiệu. Trong mọi sự vụ, ông luôn cực lực bài trừ thái độ lề mề chậm chạp, thiếu khí thế của các quan chức và luôn chú ý đến hiệu quả thực tế của công việc. Ông đã hợp nhất chính sách trị dân cũ của hoàng đế Đông La Mã với chính sách trị dân của hoàng đế Thổ Nhĩ Kỳ. Mehmed còn viết một cuốn sách tổng hợp các học thuyết chính trị ở Đông La Mã và trong sách này, thuật ngữ ‘chính trị’ được dịch sang tiếng Ả Rập như “siyasah”.
Ngay trong năm đầu tiên cai trị, Mehmed II đã bắt tay vào cải tổ các cơ quan của triều đình, đặc biệt là ngân khố của quốc gia. Ông ra lệnh cho các quan viên thu thuế phải kiểm tra kỹ lưỡng sổ sách, rồi lại phái người đến kiểm tra các sổ sách này thêm một lần nữa. Bất cứ quan viên nào để sổ sách không rõ ràng đều bị cách chức chờ xét xử. Các cơ quan triều đình và địa phương cũng được cải tổ sâu rộng. Mehmet quy định ba cơ quan: Phủ Thái tể, Văn phòng Tài vụ Đại thần và Văn phòng Chánh án Tối cao đều có quyền lấy danh nghĩa hoàng đế để ra các mệnh lệnh về hành chính, tài chính và tôn giáo. Tất cả những điều lệ về triều phục, địa vị, đãi ngộ,… của các quan viên đều được quy định chặt chẽ và ghi chép trong sách Nghi lễ.
Lúc này, triều đình Ottoman chia các quan chức ra làm hai loại: Nhân viên Nội đình bao gồm các sở Nội, Đốc sát, Tài chính, Đại sảnh, Tiểu sảnh chuyên lo việc sinh hoạt của hoàng đế và sinh hoạt trong cung, đảm nhiệm bởi các thái giám mặc áo dài trắng; nhân viên Ngoại đình gồm cố vấn của hoàng đế, thị vệ và các nhân viên triều đình chuyên lo việc sự vụ đất nước. Ở Trung ương gọi là hội nghị Quốc vụ, thành viên gồm cả tể tướng, chánh án Tối cao, tài chính Đại thần và thư ký Quốc vụ. Cơ quan này sẽ họp bàn với vua trong vòng mấy tiếng đồng hồ vào mỗi thứ bảy, chủ nhật, thứ hai và thứ ba hàng tuần. Còn ở sự vụ ở địa phương, bao gồm cả việc trưng binh trong thời chiến sẽ do những viên tổng trấn đảm nhiệm.
Về quân sự, Mehmed II cũng tiến hành nhiều cải cách. Dưới triều của ông, quân đội Ottoman mới được chia làm bộ binh (Akincis), kỵ binh và hải quân.
Bộ binh là nòng cốt của quân đội Ottoman. Trong chiến đấu, bộ binh cùng gươm và cung tên tác chiến cùng với kỵ binh, hoặc tập hợp thành các đội pháo binh để công phá thành lũy. Kỵ binh rất được Mehmed quan tâm, vì thời bấy giờ tác chiến chủ yếu dựa vào kỵ binh. Số kỵ binh do các lãnh chúa phong kiến cung cấp cho quân đội. Ngoài ra, Mehmed cũng tổ chức một đội kỵ binh thường trực, tuyển mộ từ Cấm vệ quân hoặc những người hầu.
Hải quân Ottoman mãi tới thời sultan Mehmed II mới được xem là một lực lượng chính quy, và nó bắt đầu phát triển mạnh mẽ cũng vào thời của ông. Mehmed đã bắt đầu cho xây dựng một số xưởng đóng thuyền chiến trên các cảnh ven bờ biển để gia tăng số lượng hải thuyền của đế quốc. Nguyên nhân của việc này là nhằm hoàn thành việc vây hãm, cô lập Constantinopolis và khống chế hải lộ trên biển Đen và biển Aegean. Kết quả, trong một thời gian ngắn Ottoman đã có một lực lượng hải quân to lớn gồm ba bốn trăm chiếc thuyền, đủ sức đương đầu với các hạm đội Tây Ban Nha, Pháp và cộng hòa Venezia đương thời. Trong trận Constantinopolis, hải quân Ottoman đã đóng một vai trò rất quan trọng.
Mehmed II đã ban bố bộ luật đầu tiên của đế quốc Ottoman. Bộ luật này đã xác định nghĩa vụ của người nông dân đối với lãnh chúa phong kiến, đồng thời xác định chế độ phân phối ruộng đất phong kiến của đế quốc.
Thân phận người nông dân: theo bộ luật, người nông dân phải đóng đủ thứ tô thuế nặng nề cho lãnh chúa, đồng thời còn phải đi phu tải lương cho chúa phong kiến và làm việc bảy ngày không công trên đất của chúa phong kiến hàng năm. Nếu người nông dân để ruộng đất bỏ hoang trong một năm thì chúa phong kiến có quyền tịch thu nhà cửa ruộng đất của họ, đồng thời đánh thuế nặng trên phần đất này để bù vào tổn thất của mình. Tất cả những điều này có mục đích là buộc chặt người nông dân với ruộng đất.
Phân chia ruộng đất: ruộng đất được chia làm 3 loại: của Giáo hội, của quốc gia và của tư nhân. Trong đó ruộng đất của quốc gia là lớn nhất. Ruộng của quốc gia lại được chia làm 3 loại nhỏ. Loại thứ nhất là ruộng của hoàng gia và các đại thần, mỗi năm thu nhập vào khoảng 10 vạn akche (đơn vị tiền tệ Ottoman, thời đó 1 akche mua được 7 kg bột mì). Số ruộng hai loại kia được cấp phát cho các địa chủ bậc trung (thu nhập hằng năm từ 2 vạn – 10 vạn akche) và bậc nhỏ (thu nhập hằng năm 2000 – 1 vạn akche), tính tổng cộng có chừng 1 vạn địa chủ loại này. Các lãnh chúa phong kiến có nghĩa vụ phải nộp thuế và cống phẩm cho vua, trưng tập kỵ binh (trong thời chiến) và phải vâng theo mệnh lệnh của vua. Số lãnh chúa này tạo nên nền tảng thống trị của đế quốc.
Có một điều đáng chú ý là thái độ của Mehmed II đối với tôn giáo rất là khoan dung và rộng rãi so với nhiều bậc đế vương cùng thời. Ông đã chấp nhận Chính thống giáo Đông phương, cho phép cho các giáo trưởng Thiên Chúa giáo truyền đạo ở Thổ Nhĩ Kỳ.
Ông đối xử rất khoan hồng với giáo dân và giáo hội Thiên Chúa giáo tại Constantinopolis và trên toàn đế quốc. Mehmed II cho phép cộng đồng Thiên Chúa giáo được tự trị ở Constantinopolis, và ông bổ nhiệm một cựu giáo trưởng Constantinopolis có quan điểm bất đồng với hoàng đế Constantinus XI làm tổng giám mục của thành phố. Sau khi quân Ottoman chiếm Constantinopolis, tất nhiên là nhiều thánh đường Thiên Chúa giáo bị phá bỏ hoặc đổi thành thánh đường Hồi giáo (ví dụ đại thánh đường St. Sophia nổi tiếng ở Constantinopolis đã bị đổi thành thánh đường Hồi giáo Hagia Sophia), nhưng phần lớn những thánh đường Thiên Chúa giáo khác vẫn tồn tại. Dưới sự lãnh đạo của tổng giám mục, họ có quyền tự trị về mặt tôn giáo, văn hóa và có một hệ thống pháp luật riêng (tất nhiên là họ vẫn phải tuân theo một số luật chung của đế quốc Ottoman). Thậm chí họ còn khỏi phải đi binh dịch và được phép mở trường học riêng để dạy bằng ngôn ngữ dân tộc. Tuy nhiên ông chỉ cho phép các tín đồ Chính thống giáo Đông phương được sống ở Constantinopolis, trục xuất di dân đến từ Genova và Venezia cũng như các tín đồ Hồi giáo và Do Thái giáo ra khỏi thành phố này.
Về sau, Mehmed cũng cho phép giáo hội Thiên Chúa giáo của người Armenia, giáo hội Do Thái giáo của người Do Thái và giáo hội Hy Lạp cũng được hoạt động tự do trong khuôn khổ pháp luật của đế quốc Ottoman. Tất cả các giáo hội này được gọi là millet, (tạm dịch là tập đoàn hoặc dân tộc có tín ngưỡng đặc thù trong đế quốc Ottoman) mỗi millet do một lãnh tụ đứng đầu, có trách nhiệm trưng thu thuế cho hoàng đế Ottoman và đảm bảo các giáo dân biết giữ pháp luật và trung thành với triều đình Osman. Các millet ngoài việc chịu chung nghĩa vụ binh dịch, thuế má, tất cả phần còn lại đều được Mehmed cho phép tự trị. Những giáo dân trong millet khi phạm tội cũng chỉ bị xét xử trong các tòa án riêng của millet và chỉ chịu phạt theo luật riêng của millet, trừ những tội có dính đến trị an và hình sự thì phải bị trừng trị theo luật chung của đế quốc. Chính miệng ông đã nói với lãnh thụ người Serbia rằng:
“Bên cạnh một nhà thờ Hồi giáo, đều phải xây dựng một nhà thờ Thiên Chúa giáo, dân chúng của ông có thể cầu nguyện trong nhà thờ.” —Mehmed II
Mehmed cũng đã tuyển mộ đội tân binh đến từ Devshirme. Trong đội quân này có nhiều giáo dân Thiên Chúa giáo trẻ tuổi. Đội quân này được chia làm 2 nhóm: các lính tráng có đủ tư cách nhất sẽ được phục vụ nhà vua trong cung điện; những người kém tài hơn nhưng có thể lực tốt thì sẽ được gia nhập toán Cấm vệ quân janissary của vua.
Ngay từ thời niên thiếu, Mehmed II đã bộc lộ một sự yêu thích đặc biệt về văn học và nghệ thuật. Sau này khi lên làm vua, ông mời nhiều danh họa Ý, người theo chủ nghĩa nhân văn và nhà triết học Hy Lạp đến cung điện, nói đúng hơn là chung quanh Mehmed thường tụ tập rất nhiều văn nhân học giả, cùng nhau bàn chuyện quốc sự hay làm thơ, vẽ tranh. Mehmed II cũng đã sáng tác một tập thơ thể hiện tình yêu thiên nhiên tha thiết và miêu tả những khung cảnh hoành tráng trên chiến trường. Đặc biệt, Mehmed đã phá vỡ thông lệ “không sùng bái hình nộm” của đạo Hồi, mà mời nhiều danh họa nổi tiếng ở Ý về vẽ chân dung cho ông. Một trong số họ chính là họa sĩ Gentile Bellini người Venezia, đã vẽ một bức chân dung nổi tiếng của Mehmet II. ông đã ra lệnh sưu tập nhiều bức danh họa nổi tiếng của đế quốc Đông La Mã cũng như những bức họa nổi tiếng khác trên thế giới. Đáng chú ý, trong số những bức họa được triều đình Ottoman cất giữ từ thời Mehmet II trở đi, có nhiều bức họa đời nhà Minh của Trung Quốc đương thờ.
Giáo dục cũng là một mặt được Mehmed II quan tâm. Ông đã đầu tư xây dựng nhiều thư viện, trường học… tại kinh đô mới Constantinopolis. Chỉ riêng tại thánh đường Hồi giáo The Conqueror, Mehmed đã cho dựng lên bốn trường cao đẳng kinh văn xung quanh. Đồng thời ông cũng cho xây một trường học nội cung mới tại địa điểm của cung vua cũ ở Constantinopolis, nhằm đào tạo những quan viên được huấn luyện bài bản về mặt hành chính, bù đắp vào nhu cầu ngày càng tăng về các quan chức hành chính do cương thổ đế quốc càng lúc càng mở rộng. Học sinh chủ yếu là các tù binh 10-15 tuổi hoặc các thanh thiếu niên ở các giáo khu Thiên Chúa giáo. Chương trình học kéo dài 10-12 năm, bao gồm các môn như ngữ văn, văn học, nhạc, pháp luật, thần học, quân sự, toán, triết học, quản lý học và quản lý hành chính, thuế vụ, tài chính… Những học sinh nào không qua được các kỳ kiểm tra sẽ bị đuổi học ngay. Bản thân Mehmed cũng thường đến thăm hỏi tiến độ học tập của các học sinh trong trường.
Để nâng cao chất lượng giáo dục, Mehmed II không ngại tốn kém, cho vời nhiều học giả nổi tiếng trong giới Hồi giáo cũng như tại châu Âu thời đó về giảng dạy tại các ngôi trường của Ottoman. Có dạo, khi ông vời được một nhà thiên văn nổi tiếng người Trung Á về thủ đô Constantinopolis, ngay lập tức tại ngoại ô Constantinopolis liền tiến hành xây dựng một ngôi trường lớn về toán học và một đài thiên văn bên cạnh.
Qua đời
Giống như nhiều vị đế vương khác, trong thời kỳ cai trị của mình Mehmed II luôn luôn phải đối phó với những cuộc đấu tranh quyền lực trong triều đình. Đặc biệt nghiêm trọng, năm 1472 các đại thần phản loạn từng tổ chức âm mưu phế bỏ Mehmed để lập Cem, một đứa con nhỏ của ông lên ngôi, nhưng may mắn thay âm mưu bị phát hiện và những người dính líu đều bị trừng phạt. Vì vậy, từ một vị vua cởi mở, ưa kết giao, Mehmed II về cuối đời trở nên hết sức đa nghi. Ông đã sắp xếp rất nhiều biện pháp nhằm bảo vệ sự an toàn của bản thân. Ví dụ ông không cho bất kỳ ai mang vũ khí khi vào cung, kể cả những cận vệ của ông cũng phải vào tay không. Khi ăn ông không bao giờ ngồi chung bàn với người khác, và món ăn nào ông cũng bắt thuộc hạ nếm thử, khi biết không có độc ông mới ăn. Ông cũng xây dựng rất nhiều cụm bố phòng quanh cung điện. Để đề phòng bị giết hại khi tắm, ông đã đặt nhiều thiết bị phòng vệ chung quanh nhà tắm, và các cửa vào nhà tắm chỉ có thể từ trong mở ra, người ngoài không vào được. Cánh cửa cuối cùng còn lắp đặt máy bắn tên tự động.
Theo “Thập đại tùng thư”, đề phòng kỹ như vậy Mehmed vẫn chết do bị ám sát. Cụ thể, Mehmed II bị sát hại tại Hunkârçayiri gần Gebze, Constantinopolis ngày 3 tháng 5 năm 1481 lúc mới 52 tuổi, được tin là do bị các thái y gốc Do Thái đầu độc, còn kẻ chủ mưu là thái tử Bayezid, do Bayezid quá nông nóng kế thừa vương vị. Tình cảnh chết của ông rất thê thảm, cả mũi và miệng đều trào máu. Tương truyền trong thời gian này ông đang điều động binh mã đến miền Bắc Tiểu Á để chuẩn bị một cuộc viễn chinh, nhưng cái chết bất ngờ của ông đã khiến nó cùng với Mehmed vĩnh viễn nằm sâu dưới ba tấc đất.
Bayezid II
Vua Bayezid sinh ở Dimetoka ngày 3 tháng 12 năm 1448. Ông là con của Mehmed II. Thân mẫu ông là Mukrime Hatun. Bayezid là một con người dũng cảm, mộ đạo và điềm tĩnh. Giống tất cả các hoàng tử của đế quốc Ottoman, Bayezid được giáo dục bởi nhiều danh nhân thời đó. Ông là vị vua thứ 8 của Đế quốc Ottoman đã trị vì từ 1481 đến 1512
Ông mới 7 tuổi khi trở thành tỉnh trưởng Amasya, một trung tâm văn hóa và học vấn kể từ thời nhà Seljuk. Thành phố này là một nơi lí tưởng để dạy dỗ cho thái tử.
Vua Bayezid II mộ đạo và rất giỏi về văn học. Ông mời nhiều thi sĩ nổi tiếng đến cung điện. Ông là một vị vua nhân ái và vì vậy ông hay giúp đỡ người nghèo. Ông nói giỏi tiếng Ả Rập và Ba Tư, sau đó, ông còn tìm hiểu về tiếng địa phương Catagay và Uygur. Ngoài ra, ông còn học về triết học và toán học. Triều đại ông ghi dấu ấn thắng lợi của Ottoman trong cuộc chiến với Venezia trong các năm 1499-1503. Ngày 24 tháng 4 năm 1512 ông bị con trai là Selim I lật đổ. Bayeizd II mất một tháng sau đó, ngày 26 tháng 5 năm 1512
Selim I
Selim I ( 1465 – 1512) là vị vua thứ 9 của đế quốc Ottoman, trị vì từ năm 1512 đến 1520. Ông là một vị vua tài ba trong lịch sử Thổ Nhĩ Kỳ, người đã sát nhập vùng Trung Đông vào đế quốc của mình sau một loạt chinh chiến. Vì tính khí tàn bạo, ông có ngoại hiệu là Yavuz Sultan Selim, dịch là Selim the Stern trong tiếng Anh, và tạm dịch là ‘Selim Hà khắc’
Selim chào đời năm 1465 tại Amasya, là con trai của Bayezid II (1481-1512) và là cháu nội của Mehmed II (1444-46 rồi 1451-81). Mẹ của Selim là Aysha Hatun. Selim được mô tả là một con người cao to, và rất giỏi về cưỡi ngựa và đánh kiếm. Thuở nhỏ, ông theo học Mevlana Abdulhalim, một nhà giáo có tiếng ở kinh thành. Dưới triều đại Bayezid II, Selim được vua cha phong làm quan Tổng trấn Trabzon. Tại đây, ông được học hỏi thêm về phương pháp cai trị cũng như hệ thống quân sự của nhà nước phong kiến Ottoman.
Thấy nước Gruzia láng giếng có nhiều hoạt động chống lại nhà Ottoman, Selim đã ba lần ra quân đánh nước này. Quân Ottomani toàn thắng, và chiếm giữ Kars, Erzurum và Artvin (1508). Hầu hết người Gruzia sống ở các vùng đất này đều cải đạo Hồi.
Năm 1502, Ismail I sáng lập nhà Safavid ở Ba Tư. Ismail I vốn là một người theo hệ phái Shia của đạo Hồi, đã tiến hành xâm lấn lãnh thổ đồng thời truyền bá Shia vào Ottoman thuộc hệ phái Sunni.[2] Hay tin, Bayezid II cho quan quân đi đánh dẹp, nhưng không nổi. Thậm tệ nhất là khi tể tướng của triều đình Ottoman là Ali Pasha chết trong khi dẹp giặc.
Thấy sự yếu kém của nhà vua, các quan quyết định phế Bayezid và thay vào đó là con thứ của vua, Ahmed, người mà họ tin sẽ là một vị vua mạnh mẽ hơn. Tuy nhiên, cuộc chiến tranh giành quyền kế vị bùng nổ giữa Ahmed và Selim. Kết quả là Selim, với sự giúp đỡ của toán Cấm vệ quân Janissary, giành chiến thắng, còn Ahmed bại vong. Sau đó, các quan dự định mời con thứ sáu của vua là Korkut lên ngôi, nhưng toán Janissary từ chối. Ngày 25 tháng 4 năm 1512, Bayezid ban chiếu thoái vị và truyền ngôi cho Selim. Thế là ông lên ngôi, trở thành vua thứ 9 của nhà Ottoman. Ngay lập tức, ông xử tử các anh em của mình, và cả các con của họ.
Sultan Selim I có tham vọng xâm chiếm vùng Trung Đông và tiếp tục những cuộc chinh phạt của ông nội là sultan Mehmed II.
Thoạt đầu, ông cất quân xâm lược Đế quốc Ba Tư, để ngăn chặn sự truyền bá giáo phái Shia vào lãnh thổ Ottoman. Sultan Selim I và vua Ismail I nhà Safavid đã gửi nhau nhiều tối hậu thư.
Ngày 23 tháng 8 năm 1514, hai vua thân chinh đối nhau trong trận Chaldiran nổi tiếng. Selim – với 60.000 – 212.000 quân, đã đại phá 312.000 – 40.000 quân của Ismail. Ismail bị thương, và vợ của vua này bị bắt làm con tin. Sau đó, quân đội Ottoman tạm thời chiếm Tabriz, kinh đô của đế quốc Ba Tư.
Selim Yavuz qua đời tại Corlu, Erdine năm 1520, hưởng thọ 55 tuổi, ở ngôi 8 năm. Tương truyền trong thời gian này ông đang chuẩn bị chinh phạt đảo Rhodes ở Hy Lạp.
Nghe tin vua cha qua đời, quan Tổng trấn Manisa là Suleiman 25 tuổi lên thay, xây dựng đất nước hùng mạnh. Đó là vua Suleiman I.
Suleiman I (*)
Suleiman I ( 1494 – 1566) là vị Sultan thứ 10 và trị vì lâu dài nhất của đế quốc Ottoman, từ năm 1520 đến khi qua đời năm 1566. Ông được biết đến ở phương Tây với cái tên Suleiman Đại đế, cái tên bắt nguồn từ công cuộc tái xây dựng hệ thống pháp luật nhà Ottoman của ông.
Suleiman I trở thành một vị vua lỗi lạc của châu Âu vào thế kỷ 16, là người làm nên sự tột đỉnh vinh quang của nền quân sự, chính trị và kinh tế của đế quốc Ottoman. Ông phát động 13 cuộc chiến tranh và thường thân chinh cầm quân trên chiến trường. Ông đã mở đầu triều đại mình với cuộc chinh phạt thành Beograd vào ngày 30 tháng 8 năm 1521. Ông tiếp tục chinh phạt các vùng đất Ki-tô giáo như Ródos và phần lớn Hungary, cho đến khi vây hãm Viên thất bại năm 1529. Ông còn thôn tính phần lớn vùng Trung Đông trong các cuộc chiến với Ba Tư, và một phần lãnh thổ rộng lớn ở Bắc Phi xa về phía Tây đến tận xứ Algérie. Dưới triều đại ông, Hải quân Ottoman làm chủ phần lớn các vùng biển từ Địa Trung Hải tới Biển Đỏ và Vịnh Ba Tư.
Suleiman đích thân cải tổ lại luật pháp về xã hội, giáo dục, thuế má và hình phạt đối với kẻ phạm tội. Bộ luật của ông (được gọi là Kanun) được triều đình Ottoman áp dụng trong nhiều thế kỷ sau đó. Không những là một thi sĩ và một thợ kim hoàn; ông còn là một nhà bảo trợ lớn của nền nghệ thuật, chính ông đã góp phần quan trọng trong việc tạo nên một thời kì vàng son của nền mỹ thuật, văn học và kiến trúc của đế quốc Ottoman. Suleiman nói được 4 thứ tiếng: Ba Tư, Ả Rập, Serbia và Chagatay (nguồn gốc cổ nhất của tiếng Thổ Nhĩ Kỳ).
Suleiman đã phá vỡ truyền thống vốn có của đế quốc khi ông cưới Roxelana, một phi tần trong hậu cung và phong bà làm Hürrem Sultan; những âm mưu trong triều và quyền lực lớn khiến cho bà trở nên nổi danh. Con trai của Suleiman và Roxelana là Selim II lên kế vị năm 1566, khi ông qua đời sau 46 năm trị vì.
Thiếu thời
Suleiman ra đời khoảng ngày 6 tháng 11 năm 1494 tại Trabzon dọc theo bờ biển Hắc Hải. Mẹ ông là Thái hậu (Valide Sultan) Ayşe Hafsa Sultan tức Hafsa Hatun Sultan, qua đời năm 1534. Khi lên 7 tuổi, ông được học về khoa học, lịch sử, ngữ văn, thần học và sách lược quân sự trong các phòng học ở Hoàng cung Topkapı tại Constantinopolis. Suleiman kết bạn với Ibrahim, một nô lệ sau được phong làm Tể tướng (Vezir-i Azam).
Năm 17 tuổi, ông được cử đi làm Tổng đốc thành Kaffa (Theodosia) rồi thành Sarukhan (Manisa), và sống tại Erdine trong một thời gian ngắn. Sau khi vua cha Selim I qua đời, Suleiman về kinh đô Constantinopolis và lên ngôi, trở thành vị Sultan thứ 10 của đế quốc Ottoman. Công sứ Venezia là Bartolomeo Contarini đã miêu tả về ông:
“Ông đã 25 tuổi, dáng người cao, nhưng rắn rỏi, và thanh tú. Cổ ông hơi cao, khuôn mặt gầy gò với chiếc mũi diều hâu. Ông có chút ria mép và một bộ râu quai nón hẹp; tuy thế mà khuôn mặt ông rất dễ nhìn, mặc dù da ông gần như tái nhợt. Ông được tung hô là Chúa thượng uyên bác, học rộng, và cả triều thần đều hy vọng ông sẽ là một minh quân. Khăn quấn trên đầu ông phải nói là rất lớn.” —Bartolomeo Contarini
Nhiều sử gia cho rằng thuở nhỏ Suleiman thán phục Alexandros Đại đế. Sau này, ông đã noi theo sự nghiệp lẫy lừng của Alexandros Đại đế bằng những cuộc chinh phạt ở châu Á, châu Âu và cả châu Phi.
Mở mang bờ cõi
Khi Suleiman I lên ngôi, cả châu Âu đều thở phào nhẹ nhõm do nghĩ rằng vị Sultan mới là người uyên thâm, trầm lặng và ưa chuộng hòa bình. Tuy nhiên, họ đã nhầm : tuy thông thái và trầm tĩnh nhưng Suleiman I không phải là một ông vua hiếu hòa. Với chủ trương mở mang bờ cõi, ông đã trở thành kẻ thù nguy hiểm nhất của phương Tây
Chiến tranh ở châu Âu
Sự lên ngôi của Suleiman I đã mở đầu cho thời kỳ hoàng kim của đế quốc Ottoman. Sau khi lên ngôi, Suleiman I bắt đầu một loạt cuộc chinh phạt, bao gồm việc dẹp cuộc nổi loạn của quan Tổng trấn thành Damascus do triều Ottoman lập nên năm 1521. Ban đầu, ông quyết định chiếm Beograd từ vương quốc Hungary. Trước kia, ông cố Suleiman I là Mehmed II đã vây hãm Beograd nhưng bị đánh bại. Việc đánh chiếm Beograd có ý nghĩa rất quan trọng trong công cuộc chinh phạt Hungary, thế lực mạnh cuối cùng ở vùng Balkan còn đối địch với đế quốc Ottoman sau khi các thế lực Đông La Mã, Bungary và Serbia bị tiêu diệt. Năm 1521, Suleiman bắt đầu xâm lược Hungary và lệnh cho hải quân Ottoman vây hãm Beograd. Pháo binh Ottoman từ một hòn đảo trên sông Donau ngày đêm nã pháo dữ dội vào thành phố. Cuộc chiến đấu rõ ràng là không cân sức: trong khi đối phương Ottoman thì có quân số đông đảo và hoả lực rõ ràng trội hơn quá nhiều thì quân thủ thành chỉ có 700 binh sĩ, đồng thời họ còn không nhận được tiếp viện từ Triều đình Hungary. Cuối cùng Beograd rơi vào tay quân Ottoman vào ngày 21 tháng 8 năm 1521.
Tin tức về sự thất thủ của Beograd – một thành lũy quan trọng của các thế lực Kitô giáo – nhanh chóng lan khắp châu Âu. Đại sứ đế quốc La Mã Thần thánh tại Constantinopolis viết:
“Việc Beograd bị quân Ottoman chiếm là ngọn nguồn của mọi bi kịch xảy ra với Hungary sau đó. Nó dẫn đến cái chết của vua Lajos, đến việc thành Buda thất thủ, việc xứ Transylvania bị chiếm đóng, sự hủy diệt của một vương quốc phồn thịnh và nỗi sợ hãi của các quốc gia lân cận rằng họ có thể cũng sẽ chịu một số phận tương tự…”
Con đường tiến vào Hungary và Áo rộng mở, nhưng Suleiman lại chuyển tầm nhìn sang đảo Ródos ở miền đông Địa Trung Hải, nơi hoạt động của các Hiệp sĩ Cứu tế, hoạt động như cướp biển của họ gần Tiểu Á và vùng Levant đã là một vấn đề nhức nhối đối với người Ottoman trong nhiều năm. Mùa hè năm 1522, thấy mình có khả năng lãnh đạo hải quân mà ông thừa hưởng từ cha, Suleiman phái một hạm đội gồm 400 chiến thuyền, phần mình thì dẫn 10 vạn quân vượt Tiểu Á để đến vùng đối diện đảo Ródos. Sau 5 tháng vây hãm với nhiều trận đánh khốc liệt, Ródos đầu hàng. Các Hiệp sĩ đảo Ródos được Sultan Suleiman I cho phép rút lui yên bình khỏi đây. Họ thiết lập một căn cứ mới ở đảo Malta sau đó.
Thấy quan hệ giữa Hungary và đế quốc Ottoman trở nên xấu hơn, Suleiman I tiếp tục chiến dịch ở Đông Âu và vào ngày 29 tháng 8 năm 1526, ông đánh bại vua Lajos II của Hungary (1506 – 1526) trong trận đánh quyết định tại Mohács, Quân đội Hungary bị hủy hoại, còn bản thân vua Lajos II Jagiellon cũng tử vong. Lajos II là vị vua độc lập cuối cùng của xứ Hungary và Bohemia. Thảm bại tại Mohács sau cùng là cái chết của Lajos khiến cho sức kháng cự của Hungary nhanh chóng sụp đổ; và đế quốc Ottoman trở thành một cường quốc thống trị tại Đông Âu. Theo sử sách, khi trông thấy thi thể bất động của Lajos, Suleiman I đã tỏ thái độ thương cảm với ông vua xấu số:
“Ta vốn đem quân đội đến để chống lại hắn; nhưng ta không hề có ý muốn kết liễu cuộc đời của hắn trong khi hắn chỉ vừa mới cảm nhận được hương vị ngọt ngào của cuộc sống và của vương vị”.
Hôm sau Sultan viết vào nhật kí của ông:
“Trẫm ngự trên ngai cao, các đại thần (vizier) và chúa đất (bey) bái lạy, 2.000 tù binh bị thảm sát, mưa đổ như trút”.
Chiến thắng Mohacs được xem là thắng lợi lớn nhất của Suleiman I và có ảnh hưởng rất lớn đến châu Âu, do hiếm ai nghĩ rằng người Thổ sau khi chiếm được Beograd có thể thọc sâu vào Trung Âu đến vậy. Sau thắng lợi, vào ngày 10 tháng 9 năm 1526, ông chiếm được thành Buda (Ofen) mà không gặp phải bất kỳ một sự kháng cự nào. Ông lấy rất nhiều chiến lợi phẩm, trong đó có thư viện của vua Hungary Matthias Corvinus được xem là một trong những thư viện quý giá nhất thời ấy, và buộc quý tộc Hungary phải đầu hàng. Sultan kéo quân về đế đô Constantinopolis vào tháng 11 năm 1526 trong sự vẫy chào nồng nhiệt của thần dân, đánh dấu chiến bại của người Kitô giáo. Ông chỉ để lại một đồn binh duy nhất ở Petrovaradin. Với các chiến thắng Beograd, Ródos và Mohács và sự xâm nhập của quân Ottoman vào thế giới Kitô giáo, Suleiman I vững tin rằng ông là vị vua vĩ đại nhất thời ấy.. Nhưng dưới quyền Karl V và em là Ferdinand, Đại công tước Áo, triều đình Habsburg đã đoạt lại Buda (1527) và chiếm lĩnh Hungary. Kết quả là Suleiman I lại phải vượt thung lũng sông Donau, lấy lại Buda vào ngày 8 tháng 9 năm 1529. Mùa thu năm đó, ông xua 125000 quân Ottoman – Hungary chinh phạt nước Áo[25] và vây hãm kinh thành Viên từ tháng 9 đến tháng 10. Đó là chiến dịch quân sự tham vọng nhất của đế quốc Ottoman thời đó và cũng đánh dấu điểm xa nhất mà cường quốc này vươn tới Trung Âu. Nhưng rồi, chỉ với một đạo quân thủ thành chừng 16 nghìn binh sĩ đế quốc Áo khiến Suleiman nếm phải thất bại đầu tiên, và cũng từ đó gieo mối hận thù dai dẵng giữa hai nước, tồn tại mãi cho tới tận đầu thế kỷ 20. Vào ngày 16 tháng 10 năm 1529, mùa đông đến, Sultan phải rút quân khỏi Viên. Cuộc triệt binh này trở thành một thảm họa. Sau đó, vào năm 1532 Suleiman I cũng thử tấn công thành Viên lần thứ hai nhưng cũng không thành. Nguyên do của hai lần thất bại một phần lớn là vì thời tiết xấu nên quân đội Ottoman không thể đem đầy đủ thiết bị công thành cần thiết đến chiến trường.
Vào thập niên 1540 sự thay đổi của chiến sự ở Hungary đã khiến Suleiman I có thời cơ để trả thù cho chiến bại tại thành Viên. Một số quý tộc Hungary tôn Ferdinand, Đại công tước Áo (1519 – 1564) làm vua Hungary. Ferdinand là chồng của Anna Jagellonica, chị gái Lajos II, và một hiệp ước trước đó đã quy định nếu Lajos chết mà không có con nối dõi thì Ferdinand làm vua Hungary. Tuy nhiên, một bộ phận khác vẫn trung thành với nhà quý tộc János Szapolyai, người được Suleiman I ủng hộ nhưng các thế lực Ki-tô giáo châu Âu không công nhận.
Năm 1541 chiến tranh Ottoman-Habsburg lại nổ ra, Vương triều Habsburg xua quân tấn công Buda. Suleiman I phản công và nhanh chóng đánh đuổi được quân của Ferdinand, đế quốc La Mã Thần thánh lại để mất thêm nhiều thành trì khác và họ chỉ còn nắm giữ được miền bắc Hungary. Kết quả là Ferdinand và Karl buộc phải ký một hiệp ước 5 năm với đế quốc Ottoman, theo đó Ferdinand từ bỏ ngôi vua Hungary và phải triều cống hàng năm cho Sultan, với tư cách là một lãnh chúa trên lãnh thổ Hungary. Ngoài ra trong hiệp ước còn có điều khoản quy định người Ottoman không công nhận Karl là “Hoàng đế” mà chỉ là “Vua Tây Ban Nha”, còn Suleiman I mới là người danh chính ngôn thuận giữ tước hiệu cao quý “Hoàng đế La Mã” (Caesar).
Với việc các kẻ thù Âu châu liên tiếp bị đánh bại, đế quốc Ottoman nhanh chóng trở thành một liệt cường đáng sợ trên bức tranh chính trị châu Âu. Người ta gọi đế quốc này là “nỗi khiếp sợ của thế giới phương Tây”
Chiến tranh với nhà Safavid
Sau khi Suleiman kí Hiệp ước Constantinopolis với các kẻ thù châu Âu thì ông nhanh chóng chuyển chú ý của mình sang Ba Tư, do nhà Safavid thuộc hệ phái Shi’a trị vì. Có hai nguyên nhân trực tiếp châm ngòi cho cuộc chiến tranh Ottoman – Safavid: Thứ nhất, vua Tahmasp I của Ba Tư sai người ám sát Tổng đốc thành Bagdad – một người thân Thổ – và thay thế bằng một nhân vật thân Ba Tư. Thứ hai, Tổng đốc thành Bitlits làm phản và chạy về phe Ba Tư.
Ngay lập tức, năm 1533, Suleiman hạ lệnh cho Tể tướng Ibrahim Pasha xua quân tấn công Bitlits và sau đó lấy luôn cả Tabriz mà không gặp phải bất cứ sự kháng cự đáng kể nào. Sang năm sau, Suleiman hội quân với Ibrahim và đánh thẳng vào lãnh thổ Ba Tư, tuy nhiên Tahmasp không giao chiến trực diện với Suleiman mà áp dụng chiến thuật rút lui bảo toàn lực lượng, đồng thời cho quân quấy nhiễu các cánh quân Ottoman khiến cho cuộc tiến quân trở nên rất khó khăn.[34] Cuối cùng, năm 1535, thành Bagdad cũng đầu hàng và thừa nhận Suleiman I là minh chủ tối cao của thế giới Hồi giáo, truyền nhân của các khalip nhà Abbas.
Với quyết tâm đánh dứt điểm Ba Tư, Suleiman khởi xướng chiến dịch Ba Tư thứ nhì (1548 – 1549). Một lần nữa, Tahmasp lại áp dụng chiến thuật rút lui và quấy nhiễu, khiến quân đội Ottoman phải trải qua một mùa đông khó khăn tại dãy núi Kavkaz.[34] Suleiman buộc phải bỏ dở chiến dịch nhưng ông đã giành được (dù là tạm thời) các vùng đất Tabriz, Azerbaijan thuộc Ba Tư, Van và một phần Gruzia. Năm 1549, Suleiman I ca khúc khải hoàn trở về kinh đô Constantinopolis.
Đến năm 1553 Suleiman lại khởi xướng chiến dịch Ba Tư. Vốn đã mất Erzurum về tay con trai Tahmasp, Suleiman nhanh chóng phản công, đoạt lại Erzurum rồi vượt qua sông Euphrates và tàn phá một phần lãnh thổ Ba Tư. Vua Tahmasp I lại tiếp tục chiến thuật như trước và kết quả là chiến cuộc trở nên dằng co. Cuối cùng hai bên ký Hiệp ước Amasya (1555), trong đó Suleiman đồng ý trả lại Tabriz nhưng được giữ toàn bộ miền đông Tiểu Á, Lưỡng Hà, thành phố Bagdad và một phần duyên hải Vịnh Ba Tư. Ngoài ra Ba Tư và Ottoman cũng cam kết sẽ không bao giờ tấn công nhau nữa
Các chiến dịch ở Ấn Độ Dương và Ấn Độ
Ở Ấn Độ Dương, Suleiman I phát động vài chiến dịch nhằm đánh đuổi người Bồ Đào Nha ra khỏi khu vực này và thiết lập lại con đường giao thương với Ấn Độ. Năm 1538 quân Ottoman chiếm Aden và Yemen để biến nơi đây thành bàn đạp cho những cuộc đột kích vào các thuộc địa Bồ Đào Nha ở bờ biển phía Tây Ấn Độ. Trên đường đến Ấn Độ, hải quân Ottoman bị Bồ Đào Nha đánh bại trong cuộc vây hãm Diu vào tháng 9 năm 1538, nhưng sau đó họ rút về cố thủ tại Aden và củng cố hệ thống phòng ngự của họ tại đây với 100 khẩu pháo. Từ căn cứ này, Sulayman Pasha làm chủ toàn xứ Yemen, đồng thời chiếm giữ Sa’na. Tuy nhiên sau đó người dân Aden nổi dậy chống lại đế quốc Ottoman và cầu cứu kẻ thù của họ – Bồ Đào Nha, vì vậy người Bồ lại kiểm soát thành phố này cho đến khi nó bị Piri Reis chiếm lấy trong cuộc xâm chiếm Aden (1548).
Việc nắm vững quyền kiểm soát khu vực Biển Đỏ đã giúp Suleiman I phần nào giành được quyền khống chế con đường giao thương với Ấn Độ từ tay người Bồ Đào Nha và duy trì mối quan hệ giao thương ở mức độ đáng kể với Ấn Độ trong suốt thế kỷ 16.
Năm 1564, có phái bộ sứ thần xứ Aceh (Indonesia ngày nay) đến Ottoman và thỉnh cầu Suleiman giúp đỡ họ trong cuộc kháng chiến chống Bồ Đào Nha. Suleiman đã nhận lời và phát động Cuộc viễn chinh của Ottoman vào Aceh, việc này đã cung cấp sự ủng hộ về quân sự rất đáng kể cho những người Aceh.
Chiến tranh ở Bắc Phi và Địa Trung Hải
Trong khi đang dốc sức củng cố những vùng đất mới chiếm được, Suleiman I nhận được hung tin: thành Koroni ở Morea (Peloponnese hiện nay) bị mất vào tay của Andrea Doria, Đại Đô đốc Hải quân của hoàng đế Karl V. Sự hiện diện của hải quân Tây Ban Nha trên biển Địa Trung Hải làm cho Suleiman tỏ ra lo lắng. Ông xem đó là dấu hiệu cho thấy Karl muốn tranh đoạt quyền thống trị Địa Trung Hải với đế quốc Ottoman. Suleiman cũng nhận thấy rằng Hải quân Ottoman cần phải được tăng cường mạnh mẽ hơn nữa để đảm bảo ưu thế của người Thổ Nhĩ Kỳ tại khu vực này, vì vậy, ông bổ nhiệm Khair ad Din (còn được biết đến với tên gọi Barbaros Hayreddin Pasha) làm Đại Đô đốc Hải quân Ottoman. Barbaros nhanh chóng tiến hành việc tăng cường và xây dựng Hải quân Ottoman, đến mức khiến cho Hải quân Đế quốc này có số lượng ngang bằng với tất cả các nước Địa Trung Hải.] Năm 1535, Karl V đoạt lại Tunis, một thành trì quan trọng của Quân đội Ottoman. Vào năm 1536, chiến tranh với Cộng hòa Venezia nổ ra khiến Suleiman I phải chấp nhận liên minh với vua François I của Pháp nhằm cùng chống nhau với Karl V. Vào năm 1538, Barbaros Hayreddin đánh tan tác hải quân Tây Ban Nha trong trận đánh lừng lẫy tại Preveza. Các chiến thắng tại Preveza (1538) và Djerba (1565) sau đó khiến cho Đế quốc Ottoman vẫn duy trì quyền thống trị Địa Trung Hải suốt 33 năm cho đến khi diễn ra trận Lepanto năm 1571.
François I (trái) và Suleiman Đại đế (phải) đã khởi xướng liên minh Pháp-Ottoman vào thập niên 1530.
Phía đông Maroc và một phần lãnh thổ Bắc Phi bị sát nhập vào bản đồ Ottoman. Các quốc gia người Berber tại Tripolitania, Tunisia, và Algérie trở thành các tỉnh tự trị của đế quốc, đóng vai trò như một tiền đồn trong cuộc chiến chống Karl V – vị Hoàng đế đã thất bại trong mưu đồ đuổi quân Thổ Nhĩ Kỳ ra khỏi Tunisia năm 1541.[44] Những hoạt động của cướp biển người Berber tại Bắc Phi cũng được xem là một phần trong cuộc chiến chống lại hải quân Tây Ban Nha. Các hoạt động bành trướng của Suleiman I cũng giúp cho Hải quân Ottoman thống trị Địa Trung Hải trong một thời gian ngắn. Thậm chí, họ còn kiểm soát cả Biển Đỏ và Vịnh Ba Tư cho đến khi bị đế quốc Bồ Đào Nha đánh bại. Quân Bồ Đào Nha đã đánh chiếm Ormus (nằm trên Vịnh Hormuz) năm 1515 và tiếp tục tranh giành Aden (ngày nay là Yemen) với Triều đình Suleiman I.
Năm 1542, để chống lại kẻ thù chung khi đó là triều đại Habsburg, François I đã nối lại liên minh Ottoman-Pháp. Năm 1543, Suleiman hạ lệnh cho hải quân của Barbaros Hayreddin dẫn 100 chiến thuyền galley phối hợp với hải quân Pháp ở Tây Địa Trung Hải.[45] Barbaros trước tiên đem quân đánh phá bờ biển của Napoli và đảo Sicilia, trong khi đó François I thì biến cảng Toulon thành một căn cứ của hải quân Ottoman trên đất Pháp. Tiếp sau đó liên quân Ottoman-Pháp phối hợp đánh chiếm Nice – một thành phố của đế quốc La Mã Thần thánh. Nhưng đến năm 1544 liên minh giữa François I và Suleiman I tạm thời chấm dứt do François đã ký hòa ước với đế quốc La Mã Thần thánh. Vào năm 1547, triều đình Ottoman tái lập hoà bình với Giáo hoàng Phaolô V, Áo, Venezia và Pháp.
Sau khi Ródos thất thủ (1522), đảo Malta trở thành căn cứ mới của các Hiệp sĩ Cứu tế. Tại đây họ tiếp tục phát động những cuộc tấn công chống lại lực lượng hải quân Hồi giáo và điều này khiến cho người Thổ nổi giận. Trước tình hình đó, Suleiman I đưa một đạo quân gồm 4 vạn người đến đánh Malta (1565), nhằm loại trừ vĩnh viễn mối họa từ các Hiệp sĩ Cứu tế. Cuộc đại vây hãm Malta được quân Ottoman thực hiện trong suốt gần 4 tháng (18 – 5 đến 8 – 9 – 1565), và được mô tả hết sức sinh động trong các tranh tường của Matteo Perez d’Aleccio trong đại sảnh St. Michael và St. George. Kịch bản lặp lại gần giống chiến thắng của quân Ottoman tại Rodós trước kia khi hơn một nửa các hiệp sĩ tử trận tại Malta và gần như toàn bộ các pháo đài trên đảo bị phá hủy. Nhưng, Turgut Reis qua đời trong cuộc vây hãm và đến phút cuối hải quân Ottoman bị các hiệp sĩ và viện binh từ Tây Ban Nha đập tan, rồi phải rút khỏi Malta với 25 nghìn binh sĩ thiệt mạng.[47] Tuy Malta tồn tại, nhưng trong khi xứ Algérie (1529) và xứ Tripoli (1551), đều lọt vào tay Đế quốc Ottoman khi đó, sau này họ sẽ còn chiếm được xứ Síp (1571) và đoạt lại xứ Tunis (1574).
Đối nội
Trong khi ở phương Tây, ông được gọi là Suleiman “Đại đế” thì thần dân Thổ Nhĩ Kỳ gọi ông là Kanuni Suleiman hay “Nhà làm luật”. Nhà sử học Lord Kinross nhận định:
“Suleiman không chỉ là nhà cầm quân tài ba, vị vua giỏi cầm gươm như cha và ông cố của mình. Ông khác với họ ở chỗ ông còn giỏi cả văn trị. Ông là một nhà làm luật vĩ đại, trong mắt của thần dân ông là một bậc đế vương có tâm hồn cao thượng và là một biểu tượng cao cả của công lý.” —Lord Kinross
Thật vậy, Suleiman I đã thực hiện một cuộc cải cách mạnh mẽ về luật pháp trong thời gian trị vì của mình, đổi mới bộ luật Ottoman vốn có từ thế kỷ 14. Tất nhiên, những phần mà ông có thể cải tổ được chỉ là Kanun bao gồm những vấn đề như hình pháp, ruộng đất và thuế;[50] và Thánh luật (Shari’ah) thì theo truyền thống Hồi giáo, Suleiman cũng không thể động tới được. Cụ thể, ông đã tập hợp tất cả những phán quyết và ý kiến của chín vị tiên quânđời trước, loại bỏ các phần trùng lặp và những chỉnh sửa những điều mâu thuẫn, đồng thời cũng khéo léo tránh động chạm đến những điều luật tối thượng của Hồi giáo. Cuối cùng, một bộ luật mới của đế quốc Ottoman mang tên là “Kanun-i Osmani” (Luật Ottoman) ra đời và nó đã tồn tại suốt hơn ba thế kỷ.
Trong bộ luật, ông đặc biệt chú ý cải thiện đời sống của các rayah (người không theo đạo Hồi), nhất là những rayah theo Ki-tô giáo đang phải làm việc trên lãnh địa của các Siphahi. Phần Kanune Rayah, hay “Luật Rayah” của ông đã điều chỉnh lại các khoản thuế đánh lên các rayah đồng thời cải thiện địa vị xã hội của họ. Theo luật của ông, các rayah này được đối xử tốt hơn trước rất nhiều, đến mức nhiều nông nô ở châu Âu đã sang Thổ Nhĩ Kỳ sống để được làm rayah. Đồng thời Suleiman cũng bảo vệ những người dân theo Do Thái giáo. Khoảng cuối năm 1553 hay 1554, theo sự đề nghị của bác sĩ và nha sĩ Moses Hamon, một người Tây Ban Nha theo Do Thái giáo được sultan sủng ái, Suleiman I đã ra chiếu chỉ tố cáo những tin đồn rằng việc người theo đạo Do Thái hay hiến tế người sống là những tin đồn vô căn cứ. Đồng thời, Suleiman I ban hành những luật lệ mới về hình pháp, quy định mức tiền phạt đối với một số tội đặc biệt, đồng thời bãi bỏ tử hình và hình phạt chặt tứ chi đối với một số tội khác. Ông cũng tiến hành cải cách thuế vụ, đánh thuế trên nhiều sản phẩm đa dạng ví dụ như lương thực, gia súc, mỏ, lợi nhuận từ các hoạt động giao dịch,… Đặc biệt những quan lại phạm tội sẽ bị Sultan tịch thu tài sản và ruộng đất.
Giáo dục cũng là một lãnh vực quan trọng mà ông rất quan tâm. Thời đó, các trường học đều do các thánh đường Hồi giáo tài trợ, nhờ đó các được miễn giảm phí khá nhiều so với các trường học châu Âu cùng thời.] Tại kinh đô Constantinopolis, Suleiman cho xây dựng thêm nhiều mekteb (trường tiểu học) dạy trẻ em viết, đọc và giáo lý Hồi giáo. Sau đó, các học sinh sẽ chọn vào học một trong tám Medrese (trường cao đẳng), nơi đó chúng sẽ được dạy các môn ngữ pháp, siêu hình, triết học, thiên văn và thuật chiêm tinh. Ở các medrese cấp cao hơn (trường đại học), những người tốt nghiệp sẽ trở thành các imam (tu sĩ Hồi giáo) hoặc thành các thầy giáo. Các trung tâm giáo dục thường được xây dựng xung quanh các sân nhỏ của các thánh đường Hồi giáo, ngoài ra còn những công trình khác như thư viện, căn tin trường học và phòng ăn tu viện, đài phun nước, nhà bếp và bệnh viện nhằm phục vụ cho các tầng lớp nhân dân.
Hai bà vợ của Suleiman I sinh hạ 8 người con trai, nhưng chỉ có 4 người còn sống qua thập niên 1550 là Mustafa, Selim, Bayezid, và Jihangir. Trong số họ, chỉ có Mustafa không phải là con Hürrem Sultan, nhưng lại là con của Gülbahar Sultan (“hoa hồng mùa xuân”) và có ưu thế hơn các con trai của Hürrem Sultan trong khả năng được thừa kế. Hürrem lo sợ khi Mustafa lên ngôi sẽ giết các con mình. Mustafa còn được xem là hoàng tử tài ba nhất, và được Tể tướng Pargalı İbrahim Pasha ủng hộ
Hürrem ít khi tham gia vào việc chọn thái tử. Dù là vợ Suleiman, bà không ra mặt can dự công việc như Hoàng hậu Anne Boleyn của Anh Quốc đương thời.Tuy nhiên, điều đó không ngăn cản Hürrem kiểm soát triều chính. Bởi đế quốc thiếu phương thức đúng đắn để chọn người kế vị, việc truyền ngôi thường gắn với cái chết của các hoàng tử tranh chấp ngôi báu nhằm tránh bạo loạn và bất ổn nội bộ. Vì thế, Hürrem lo sợ các con mình sẽ bị hành hình, và dùng cường quyền để loại trừ những người ủng hộ Mustafa.
Thế là, trong cuộc tranh giành quyền lực dường như là chủ mưu của Hürrem, Suleiman giết Ibrahim và phong con rể Hürrem là Rüstem Pasha làm Tể tướng. Năm 1552, khi Rüstem làm tổng chỉ huy trong chiến dịch phạt Ba Tư, âm mưu chống Mustafa bắt đầu. Rüstem sai một trong những cận thần của Suleiman báo cáo về triều đình, vì ông không thân chinh, rằng quân sĩ xem đây là thời điểm thích hợp để đưa hoàng tử Mustafa trẻ tuổi lên ngôi; đồng thời Rüstem tuyên truyền rằng Mustafa đã có ý đồ cướp ngôi. Khi nghe tin, Suleiman rất giận dữ vì tin rằng hoàng tử Mustafa muốn làm phản, và đến hè, khi quân Ottoman rút khỏi Ba Tư, ông triệu Mustafa đến lều ông tại thu lũng Ereğli để cho ông “có thể xử lý tội phạm rồi về kinh đô mà không chút lo sợ”.
Mustafa phải đối mặt với một sự lựa chọn: hoặc là phải đến lều của vua cha và chịu chết; hoặc là sẽ bị kết tội mưu phản nếu từ chối đến trình diện. Cuối cùng, Mustafa chấp nhận đến lều của cha, vì tin rằng các binh sĩ ủng hộ sẽ bảo vệ mình. Busbecq, người đã nghe một người chứng kiến kể lại, đã miêu tả về phút cuối của Mustafa. Khi Mustafa đến lều của cha, các thái giám của Suleiman tấn công Mustafa, và vị hoàng tử trẻ đã chống trả ác liệt. Thấy vậy, Suleiman từ trong buồng hé mặt ra quan sát cuộc giao đấu và “chỉ huy quyết liệt, dữ dằn nhìn các thái giám và nghiêm khắc quở trách sự chần chừ của họ. Thấy vậy, các thái giám chấn chỉnh lại tinh thần, vật Mustafa xuống đất và, thả dây cung xung quanh cổ anh ta, thế là anh ta bị siết cổ chết”.
Vài tháng sau, Jihangir qua đời, nguyên nhân được cho là do thương tiếc người anh khác mẹ Mustafa. Hai hoàng tử còn sống, Bayezid và Selim, đều là tổng trấn các tỉnh của đế quốc. Tuy nhiên, trong vòng vài năm hai anh em đánh lẫn nhau.[83] Với sự giúp đỡ của quân triều đình, Selim đánh bại Bayezid ở Konya năm 1559, khiến Bayezid cùng bốn người con sang Ba Tư lánh nạn. Suleiman cống cho vua Tahmasp I của Ba Tư một số lượng vàng lớn, đổi lại Tahmasp phải xử tử hoặc trao trả Bayezid. Cuối cùng, năm 1561 Tahmasp cho phép đao phủ Thổ thắt cổ Bayezid và 4 người con, mở đường cho Selim lên ngôi 7 năm sau. Ngày 1 tháng 5 năm 1566, Suleiman rời kinh thành Constantinopolis mà thân chinh đánh Hungary. Đến ngày 5/6 tháng 11 năm 1566, ông đột ngột qua đời trước khi quân Ottoman thắng trận Szigetvár ở Hungary
Theo Thomas Keightley, Đại đế Suleiman I là vị vua vĩ đại nhất của đế quốc Ottoman. Có người đã so sánh ông – một vị Hoàng đế tài ba trong thời gian chiến tranh và hoà bình – với Charlemagne. Dưới triều ông, quốc gia Ottoman trở thành một trong những cường quốc trên thế giới về mặt diện tích, tài chính và có sực mạnh quân sự vô địch. Các cuộc bành trướng của Suleiman đã giúp đế quốc kiểm soát được nhiều thành phố quan trọng và nổi tiếng của Hồi giáo: Mecca, Medina, Bagdad; phần lớn Bắc Phi và nhiều vùng đất rộng lớn tại bán đảo Balkan (ngày nay là một phần của Hungary, Croatia và Romania). Với việc ông thêm ngôi mộ của nhà tiên tri Muhammad tại Mecca vào Đế quốc của mình, ông đã xưng làm Padishah-i-Islam, tức “Hoàng đế của Hồi giáo”. Các cuộc chinh phạt của ông tại Balkan đã khiến người Thổ Ottoman trở thành một liệt cường đáng gờm trên cán cân quyền lực tại châu Âu. Đại sứ Busbecq đã nhận xét về “mối họa xâm lược của quân Thổ Nhĩ Kỳ” như sau:
“Về phía người Thổ Nhĩ Kỳ là một nguồn tài nguyên dồi dào của một đế quốc hùng mạnh, có sức mạnh không thể bị suy suyển, bách chiến bách thắng trong chiến tranh, dai sức với gian khổ, thống nhất, kỷ luật, cần kiệm và cẩn mật… Thử đoán xem chuyện gì sẽ xảy ra với chúng ta?… Khi người Thổ Nhĩ Kỳ đã kí hòa ước với Ba Tư thì họ sẽ lao thẳng vào cổ họng chúng ta với toàn bộ sức mạnh Đông phương; thật là một sự kém chuẩn bị mà chúng ta không dám nói…“
Thành tích của ông không chỉ được thể hiện trên mặt quân sự. Jean de Thévenot – nhà du hành người Pháp trong một thế kỷ sau đã chứng kiến “một nền tảng nông nghiệp vững chắc của đế quốc, đời sống tốt của người nông dân, sự dồi dào của nông sản và sự ưu việt của tổ chức chính quyền nhà Ottoman”. Những cải cách của Đại đế Suleiman I không những đã mang lại cho ông danh hiệu “Nhà làm luật” mà còn góp phần rất lớn cho sự trường tồn của đế quốc Ottoman sau khi Đại đế Suleiman I qua đời, một thành tựu mà “phải mất đến mấy đời vua sa đoạ sau mới phá hoại được”.
Dưới sự bảo trợ của ông, nghệ thuật, kiến trúc, văn học, triết học và thần học của đế quốc Ottoman cũng đạt đến thời kì hoàng kim. Ngày nay, đường chân trời ở Bosphorus, và nhiều thành phố của Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ, hoặc là từng thuộc đế quốc Ottoman xưa vẫn còn tồn tại những công trình kiến trúc tuyệt đẹp của Mimar Sinan. Một trong số đó là Thánh đường Hồi giáo Süleymaniye chính là nơi an nghỉ cuối cùng của Đại đế Suleiman I và Hürrem Sultan; họ được mai táng ở hai gian phòng khác nhau trong ngôi thánh đường này.
Ibrahim Pasha
Pargalı İbrahim Pasha là bạn thời nhỏ của Suleiman. Ibrahim xuất thân trong gia đình theo Chính Thống giáo Hy Lạp; thuở nhỏ được học ở trường học nội cung theo chế độ devshirme. Ibrahim được Sultan coi là người hộ vệ đắc lực, phong làm chỉ huy quân túc vệ Hoàng cung, sau đó được thăng làm Tể tướng năm 1523 và thống lĩnh toàn bộ quân đội. Suleiman cũng trao cho Ibrahim chức Chúa đất của các chúa đất (beylerbey) xứ Rumelia, cho Ibrahim quyền định đoạt tất cả miền đất thuộc Thổ Nhĩ Kỳ ở châu Âu, cũng như quyền điều động binh lính tại lãnh địa ấy trong thời chiến. Theo nhà chép sử thế kỷ 17, Ibrahim đã yêu cầu Suleiman không trao quá nhiều tự trị cho những vùng đất ấy vì lo sợ như vậy sẽ mất an ninh; ông trả lời rằng dưới quyền cai trị của ông, trong bất cứ trường hợp nào Ibrahim cũng không giờ bị phế bỏ. Vào năm 1524, Ahmed Pasha nổi dậy tại Ai Cập, Ibrahim Pasha đã ra quân đánh bại Ahmed Pasha năm 1525.
Vốn đế quốc rất rộng lớn nên Sultan khó thể tự mình gánh vác những trách nhiệm lớn, ông tin tưởng vào Ibrahim như thể vào chính ông vậy. Quyền hạn của Ibrahim trở nên gần như ngang bằng với Padishah. Nhưng về sau Ibrahim Pasha cũng đánh mất lòng tin của ông. Trong 13 năm làm Tể tướng, sự thăng tiến nhanh về quyền lực cũng như gia tài đồ sộ đã khiến cho Ibrahim có thêm nhiều kẻ thù trong số các quan triều đình. Bản báo cáo của Ibrahim với Suleiman về cuộc chiến chống Ba Tư cho thấy sự trơ tráo của Ibrahim: trong đó Ibrahim Pasha tự xưng làm serasker sultan, một việc khiến cho Suleiman cảm thấy mình đặc biệt bị sỉ nhục (ở Ba Tư, các quan Tổng đốc có thể được gọi là Sultan nhưng ở Thổ thì danh hiệu chỉ dành riêng cho Suleiman I).
Sự ngờ vực của Suleiman đối với Ibrahim càng tồi tệ hơn bởi mâu thuẫn giữa Tể tướng với quan “defterdar” (tương đương với Bộ trưởng Tài chính sau này) Iskender Chelebi. Mâu thuẫn này kết thúc với âm mưu ám hại Chelebi, và Ibrahim đã ra sức thuyết phục Suleiman khép viên đại thần này vào tội chết. Tuy nhiên, theo Kinross trong lời nói cuối cùng trước khi bị hành quyết Chelebi đã lên tiếng buộc tội Ibrahim mưu phản, còn tác giả André Cloth cũng cho biết trước khi bị hành quyết, Chelebi lên án Ibrahim cấu kết với người Ba Tư học lật đổ Sultan.
Chelebi bị xử giảo trong khu chợ ở Bagdad. Theo Cloth, đêm sau đó Sultan nằm mộng thấy một người bất hạnh kêu oan và dọa thắt cổ ông. Sultan hoảng hốt và nhanh chóng nghĩ rằng Chelebi vô tội và Ibrahim đã vu cáo defterdar. Mấy tuần sau Suleiman I nhớ lại những lời tố cáo của Chelebi trước khi chết và thấy rõ sự phản bội của Ibrahim. Vào ngày 15 tháng 3 năm 1536, như thường lệ, Sultan vời Ibrahim đến dùng bữa tối ở Hoàng cung Topkapi. Ông không hề tỏ thái độ nghi kỵ hay bạc đãi quan Tể tướng, mà theo các sử gia bữa ăn đã diễn ra yên tĩnh, như thể vua tôi sẽ gặp nhau vào sáng hôm sau. Ông cũng khuyên Ibrahim ngủ trong căn phòng gần đó, và nói rằng cái nệm thường ngày của Ibrahim đang chờ Tể tướng. Nhưng rồi, sáng hôm sau, cái xác không hồn của Ibrahim được tìm thấy ở cổng Hoàng cung. Người ta không rõ chuyện gì đã xảy ra trong đêm trước, nhưng những vết máu và mảnh áo rách vẫn còn trên tường, chứng tỏ Ibrahim đã chiến đấu dữ dội với các Thái giám điếc được phái tới để giết Tể tướng, buộc họ phải thắt cổ Ibrahim. Gia sản đồ sộ của quan Tể tướng đã bị Triều đình tịch biên.
(*) thông tin từ trang http://vi.wikipedia.org/