Liên Xô – Nhà nước phong kiến trá hình

sovietunion.gif

Nguyên bản tiếng Nga 

Tác giả Anatoly Tille

Phạm Nguyên Trường dịch

Lời nói đầu cho lần xuất bản thứ hai

Phủ nhận những sự kiện “HIỂN NHIÊN” là một việc cực kì khó. Càng khó phủ nhận các “HỌC GIẢ CÓ UY TÍN”. Đã hàng ngàn năm, có hàng triệu người nhìn thấy mặt trời mọc và lặn, nghĩa là quay xung quanh trái đất. Hệ địa tâm của Ptolemy-Aristotle là hiển nhiên và vì vậy mà trở thành bất di bất dịch. Kopernik, nhà bác học thiên tài, phủ nhận hệ thống đó nhưng sinh thời đã không cho công bố phát minh của mình. Tác phẩm của ông bị nguyền rủa. Năm mươi năm sau ngày ông mất, Giordano Bruno phải chết trên dàn hoả thiêu. Năm mươi năm sau nữa, Galilei phải sám hối vì “sai lầm” trước toà án giáo hội. Hàng nghìn nhà bác học, kể cả các nhà thiên văn học, đã phủ nhận sự kiện trái đất quay quanh mặt trời.   

Toàn thế giới, hàng triệu người đã nhìn thấy người ta “xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô”. Ngay cả những kẻ thù không đội trời chung với Liên Xô cũng đã từng chiến đấu cho chủ nghĩa xã hội. Còn một số người, thí dụ G. Orwell, nhìn thấy những khía cạnh ghê tởm của chế độ đó thì lại cho rằng chủ nghĩa xã hội là một xã hội ghê tởm. Chủ nghĩa xã hội hiện diện trên các băng rôn, biểu ngữ, trong các nghị quyết đại hội Đảng [1] , trong các kế hoạch và trong lòng nhiệt tình của quần chúng trên các công trường xây dựng vĩ đại, trong các trước tác của các học giả, các nhà văn, các thước phim vân vân và vân vân. Chưa nói đến các chuyên gia phương Tây.

Nhưng tại sao Liên Xô, dù đã có những hi sinh vô bờ bến, vẫn không những không vượt được, mà đơn giản là còn không đuổi kịp được các nước tư bản về năng suất lao động, mặc dù theo Marx thì chủ nghĩa xã hội là hình thái xã hội cao hơn? Câu trả lời có thể tìm được, vấn đề là không ai hỏi cả! Mà câu trả lời chỉ đơn giản là: tại nước Nga đã có một chế độ xã hội chủ nghĩa về hình thức, phong kiến về nội dung. Đấy chính là nội dung của cuốn sách này.

Hoá ra cuốn sách này bao quát toàn bộ lịch sử của nước Nga Xô viết, nghĩa là từ năm 1917 cho đến khi nó cáo chung, dù khi chắp bút tôi không nghĩ như thế (tôi không thế nào tưởng tượng nổi sự tan rã của Liên Xô). Chưa hề có một cuốn sách nào tương tự như thế về lịch sử nhà nước Xô viết và hệ thống luật pháp của nó và tôi nghĩ còn lâu mới có một cuốn như thế. Đã mười hai năm trôi qua kể từ lần xuất bản đầu tiên cuốn sách của tôi nhưng vẫn chưa thấy có vẻ gì là người ta có ý định thảo luận vấn đề cả. Đơn giản là không ai.

Đúng hơn là tôi không viết cuốn sách mà là nghiên cứu chế độ của nước Nga, như người ta nói lúc đó, một cách bí mật, ngay cả với vợ mình (không phải là tôi không tin mà không muốn làm vợ con lo lắng), dù không có một chút hi vọng nào về việc xuất bản. Vì vậy mà tôi không lo kiểm duyệt, kể cả sự tự kiểm duyệt nữa. Liệu tôi có thoả mãn được trí tò mò của mình khi cố gắng tìm hiểu cái chế độ điên rồ, trong đó mọi sự đều được đặt lộn ngược từ chân lên đầu, cái chế độ mà phi lí là đặc điểm chủ yếu?

Tất nhiên là sẽ có người viết những cuốn sách như thế, nhưng đấy là những cuốn sách post factum, nghĩa là nhìn từ tương lai về quá khứ. Còn tôi viết trong hiện tại, về cái hiện tồn. Tôi viết trong vòng mấy năm, ngày nào tôi cũng thu thập tài liệu, thu thập các văn bản pháp qui, các hoạt động lập pháp và quan sát cách người ta áp dụng luật pháp trong đời sống. Sau này làm sẽ khó hơn nhiều. Vì vậy cuốn sách này vẫn là độc nhất vô nhị. Có thể nói một cách chắc chắn rằng đây là cuốn tư liệu về thời đại. Vì vậy tôi không sửa chữa, cũng không viết thêm, cũng không bình luận về những sự thay đổi về sau. Cuốn sách này là tấm bia tưởng niệm về lịch sử nước Nga. “Cải tổ” và “công khai” đã tạo điều kiện cho việc xuất bản cuốn sách vào năm 1992, dưới cái tên: “LUẬT PHÁP CỦA SỰ PHI LÍ. Luật pháp phong kiến-xã hội chủ nghĩa” với số lượng in rất ít, hiện nay không thể nào tìm được nữa (trong thư viện mang tên Lenin và thư viện lịch sử thì có). 

Các sự kiện về sau được trình bày trong cuốn sách của tôi: Cuộc cách mạng tội ác vĩ đại ở nước Nga. Mafia nắm quyền được xuất bản ở Mĩ năm 2003. Các nhà xuất bản ở Nga “thời công khai hoá” không chịu in tác phẩm này.
Trong lần xuất bản thứ nhất tôi đã mắc sai lầm mà đa số người đã từng mắc phải, đấy là đánh đồng tư tưởng cộng sản với cái chế độ ăn thịt người tự gọi mình là chế độ cộng sản. Nếu tất cả các tôn giáo đều hứa hẹn thiên đường sau khi chết để đền bù cho những khổ đau trên mặt đất thì tư tưởng cộng sản, một tư tưởng có trước cả Thiên chúa giáo, chính là ước mơ xây dựng một xã hội công bằng ngay trên thế gian này. Vì vậy tư tưởng cộng sản là bất diệt, giống như tất cả các tôn giáo khác, ít nhất nó cũng đáng được tôn trọng. Vì vậy lần xuất bản này tôi đã loại bỏ chương viết về chủ nghĩa Marx. Tôi cũng cắt giảm một ít và thay đổi bố cục so với lần xuất bản thứ nhất. Điều chủ yếu là việc phân tích chế độ của nhà nước Liên Xô và lịch sử từ năm 1917 đến năm 1990 là không thay đổi.

Tôi đã nghiên cứu và mô tả cái chế độ đương thời với mình. Nhưng về mặt nào đó cuốn sách đã trở thành tài liệu về quá khứ. Tôi nói “mặt nào đó” như một lời cảnh báo cho tương lai. 

Phần I. Lời nói đầu

Chương 1. Nói về cuốn sách

“… Nhận thức một cách khoa học về hệ thống của chúng ta là bất khả. Mọi việc đều bị che dấu, bị xoá nhoà. Và lạ lùng nhất là không ai cần hiểu cả. Nó đặc biệt không cần thiết đối với giới phê bình của xã hội chúng ta.”

Zinoviev

Đây không phải là cuốn chính luận (như kiểu Cương lĩnh của Đảng Cộng sản Liên Xô của Khrushchev [2] ) mà là một tài liệu nghiên cứu khoa học, tuy nhiên tôi muốn rằng nó phải dễ hiểu và hấp dẫn không chỉ đối với các nhà Luật học-Xô viết học mà còn hấp dẫn đối với tất cả những ai quan tâm đến các vấn đề của xã hội đương đại và các xu hướng phát triển của nó. 

Nhưng nếu tôi công nhận phát biểu của Zinoviev thì liệu tôi có thể coi tác phẩm của mình là có tính khoa học được không? Xin được giải thích: khoa học nghiên cứu các sự kiện, nhưng trong hệ thống của chúng ta, tất cả các dữ kiện liên quan đến đời sống xã hội đều hoặc là các tài liệu mật hoặc là đã bị xuyên tạc đến mức khó mà rút ra từ đó được các kết luận khả dĩ. Lấy thí dụ lĩnh vực kinh tế: các số liệu do Tổng cục Thống kê công bố nói chung đều là giả. Sau khi Stalin chết, người ta thông báo cho chúng ta biết rằng tất cả các số liệu về thành tích trong nông nghiệp đều là giả, sản lượng nông nghiệp chưa bao giờ đạt được mức năm 1914. Như thế có nghĩa là các số liệu được công bố sau này là đúng ư? Có mấy năm các số liệu về nông nghiệp hoàn toàn không được công bố. Nhưng nếu ta tìm được các số liệu đó thì sao? Vô ích, vì báo cáo láo diễn ra trong mọi lĩnh vực, mọi cấp, từ nông trang đến huyện rồi lên tỉnh. Lên nước cộng hoà và Tổng cục thống kê [3] . Nhưng nếu giả sử ta có thể biết được số lượng giao nộp của từng nông trang thì sao? Cũng vô ích: hàng chục năm liền báo chí đã từng đăng việc các nông trang, thí dụ, để hoàn thành sản lượng giao nộp, họ đã đi mua bơ của các cửa hàng rồi sau đó giao lại cho nhà nước. Như vậy là một sản phẩm đã được nộp và thống kê đến mấy lần [4] . Có một thời (chính xác là dưới thời Khrushchev) Larionov, bí thư tỉnh ủy Riazan, nơi chuyện giao nộp vượt quá “ngưỡng chấp nhận được”, đã phải tự sát. Không loại trừ khả năng là ông ta đã được “giúp đỡ” cả trong việc này nữa.

Trong lĩnh vực công nghiệp cũng xảy ra những chuyện tương tự, ở đây, bên cạnh báo cáo láo còn có cả việc “cấp hàng khống”: giám đốc xí nghiệp không thực hiện được kế hoạch được giao thoả thuận với giám đốc một xí nghiệp khác để vị này công nhận rằng ông ta đã cung cấp hàng cho xí nghiệp. Cũng có đủ hồ sơ cần thiết, người ta thực hiện cả việc thanh toán theo đường ngân hàng ..v.v.. và thế là cái sản phẩm không hề tồn tại này được đưa vào số liệu của Tổng cục thống kê. Việc “cấp hàng khống” thịnh hành đến mức chính phủ phải ra nghị định (Nghị định của Hội đồng bộ trưởng Liên Xô ngày 22 tháng 8 năm 1973) về việc phạt 7% giá trị “hàng hoá”, nếu bị phát hiện [5]

 . 
Xin hãy thử nghiên cứu nền kinh tế Liên Xô trên cơ sở các dữ liệu như thế! Thế mà một số nhà kinh tế học phương Tây vẫn tìm cách nghiên cứu được và một số người (dĩ nhiên là không phải tất cả) đã đưa ra được những đánh giá nói chung khá chính xác.

Chẳng nên nói một cách nghiêm túc về khoa học pháp lí của Liên Xô vì nó hoàn toàn phụ thuộc vào các quan điểm được áp đặt từ trên xuống và thay đổi một cách thường xuyên của Đảng và chẳng ăn nhập gì với cuộc sống hay có thể nói chỉ phản ánh được một phần rất nhỏ của đời sống. 

Thí dụ, tất cả các luật gia đều biết (đơn giản là biết) rằng tỉ lệ tội phạm ở nước ta ngày một gia tăng [6] . Nhưng điều này mâu thuẫn với luận điểm của chủ nghĩa Marx, luận điểm này khẳng định rằng tội phạm được sinh ra bởi các điều kiện xã hội của chế độ người bóc lột người. Trong chủ nghĩa xã hội các điều kiện xã hội của tội phạm không còn, vậy thì tội phạm phải giảm dần. Nếu nó phải giảm dần thì nhất định nó sẽ giảm dần, không thể nào khác được! Số liệu về tội phạm là tài liệu mật, mặc dù đáng ra nó phải là số liệu rất đáng thuyết phục về tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội. Các luật gia Xô viết chứng minh tỉ lệ tội phạm mỗi ngày một giảm như thế nào? Không có cách nào hoặc đưa ra định lí mà không cần chứng minh hoặc: “Tỉ lệ tội phạm và diễn biến của nó trong giai đoạn hiện nay (giai đoạn xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa cộng sản – tác giả) nói chung là giảm nhưng không đồng đều. Tỉ lệ tội phạm trong 20 năm qua đã giảm một phần ba so với giai đoạn trước chiến tranh. Cụ thể số người bị kết án trong 100 ngàn dân đã giảm 2 lần so với năm 1940, nếu so với năm 1928 thì giảm 3,8 lần. Số vụ án trong những năm 1963-1965 là thấp nhất trong 20 năm qua [7] ”. Và tác giả đưa ra kết luận về “thắng lợi vô cùng to lớn của nhà nước và xã hội Liên Xô trong việc khống chế tội phạm”!. Tác giả của những câu chuyện như thế đã được phong tiến sĩ luật học và năm 1985 được nhận huân chương quốc gia đấy!

 
Trong quá trình nghiên cứu của mình tôi sẽ dựa trên những sự kiện mình biết. Nhưng cần bao nhiêu sự kiện cho mỗi luận điểm? Một trăm? Một ngàn? Đó là điều bất khả nếu ta muốn có một cuốn sách với số trang in có thể chấp nhận được. Nhưng dù có dẫn ra cả ngàn sự kiện thì cũng không thuyết phục được một người “xã hội chủ nghĩa” phương Tây, nếu anh ta không muốn nhìn thẳng vào sự thật và không tha cho tôi tội “vu khống nhà nước Xô viết”.

Mấy triệu người đã chết vì đói trong những năm 1930-1933 do chính quyền cố tình tạo ra ở Ukraine? Xin hãy suy nghĩ những từ này: “nạn đói ởUkraine” – “vựa lúa của nước Nga”!. Một số nạn nhân của thảm hoạ vẫn còn sống, thế mà năm 1988 khi những người Canada gốc Ukraine đưa ra vấn đề này thì viên đại sứ Liên Xô đã nói một cách hằn học rằng đấy là những lời dối trá, kèm theo một tuyên bố có tính nhục mạ người Canada nữa. Còn chính phủ Canada thì nhẫn nhục chịu đựng. Chả lẽ cả dân tộcUkraine phải chết đi để bây giờ người ta buộc phải nghiến răng công nhận rằng đấy là do “điều kiện thời tiết [8]”. 

Trong giai đoạn “bán công khai” của Gorbachev, trên báo chí bắt đầu xuất hiện một vài chứng cứ về nạn đói ở Ukraine. Hồi kí của bà vợ goá của N. Bukharin nói rằng ông này có mặt ở Ukraine lúc đó và đã đưa “tất cả số tiền ông ta có” cho đám trẻ đói khát. Đấy là hiện tượng đặc thù của chế độ Xô viết: đầu tiên là tạo ra nạn đói rồi sau đó tổ chức “cứu trợ”, phát chẩn. Khi về Moskva, Bukharin đã kể lại chuyện này cho ông nhạc nghe và “gục xuống đi văng nức nở khóc” (Ngọn lửa nhỏ 1987, số 48). Xin nói thêm rằng N. Bukharin, người chiến sĩ đấu tranh cho sự nghiệp của giai cấp công nhân, lúc đó là ủy viên Bộ chính trị nghĩa là một nhà lãnh đạo cao cấp, một nhà báo nối tiếng, nhưng sau đó ông này đã không hề nói một lời nào về nạn đói ở Ukraine cả.

Trên báo chí người ra đã viết về cuộc bạo loạn ở Novotrerkassk, tuy rằng cách đây chưa lâu nói chuyện đó có thể bị đi tù như chơi. Nhưng tôi chưa được đọc những câu chuyện về các cuộc bạo loạn ở Temir-Tau, Trerkasư và nhiều địa phương khác.

Ở phương Tây đã có những tác phẩm chứng tỏ sự am tường của tác giả về hệ thống pháp luật Liên Xô. Dĩ nhiên là tầm bao quát của chúng rất rộng: từ ca ngợi cho đến thù địch. Nghiên cứu các kiến giải từ bên ngoài, từ những nhận thức pháp lí khác là rất hữu ích; các tác phẩm này giúp tôi nhìn rõ những điều mà trước đây tôi không nhận thấy trong hệ thống pháp lí “của mình”. Song những kiến giải “từ bên trong” vẫn chính xác hơn. Nhưng không có những tác phẩm như thế. Đa số các tác phẩm thuộc lĩnh vực luật pháp Liên Xô chỉ đơn giản là những lời biện hộ dối trá mà thôi. Chỉ viết về những vấn đề chuyên sâu mới có thể tránh được chuyện đó, nếu không thì tác phẩm khó lòng mà được xuất bản. Những tác phẩm của phương Tây viết về pháp luật của Liên Xô mà tôi biết thì hoặc là mô tả một cách tổng thể, nghĩa là đưa ra các nguyên lí và nguồn gốc hoặc là dẫn ra các định chế một cách giáo điều và tĩnh (cái mà trong luật học so sánh người ta gọi là “luật pháp sách vở”). Thực tiễn được trình bày trong sách vở Liên Xô chỉ là những tiêu bản và chẳng ăn nhập gì với thực tiễn cả. Mặc dù gần đây các luật sư phương Tây đã chú ý đến vấn đề xã hội học và các điều kiện vật chất của xã hội, nhưng tính cách giáo điều và sự bám víu vào lời văn vẫn còn “nằm trong máu” của họ.

Còn tôi lại muốn giới thiệu với độc giả một nền “pháp luật sống động giữa đời thường”, và trong điều kiện cho phép, với lịch sử, với sự vận động và phát triển của nó. Vì vậy bức tranh về pháp luật Liên Xô sẽ hoàn bị hơn nếu ta mô tả nó từ quan điểm duy vật mác-xít. Sự tương phản giữa lí thuyết và thực tiễn của “chủ nghĩa cộng sản khoa học” sẽ càng rõ ràng hơn.
Cuối cùng, bất cứ luật sư phương Tây nào, do cách tư duy và giáo dục, không phụ thuộc vào quan điểm chính trị và thái độ đối với chủ nghĩa xã hội và Liên Xô, đều coi pháp luật Liên Xô là một hệ thống, dù tốt dù xấu, nhưng là một hệ thống. Nhưng điều chính yếu, điều quyết định trong pháp luật Liên Xô lại là sự PHI LÍ, cái phi lí này, nói chung và trong từng tiểu tiết, lại bắt nguồn từ sự phi lí của toàn bộ hệ thống kinh tế-xã hội của đất nước.
Óc tưởng tượng của Swift, của Gogol, của Orwell sẽ chẳng là gì trước những chuyện tưởng như hoang đường diễn ra trong đời sống của xã hội Liên Xô.

Tất cả đều được đặt lộn ngược, tất cả đều thành “trồng cây chuối” hết. Không hiểu ý nghĩa của sự phi lí của hiện thực Liên Xô thì không nhận thấy chuyện lộn ngược đó: người có tư duy bình thường không thể lĩnh hội được. Khi tiếp xúc với sự phi lí, con người ta thường nghĩ rằng mình không hiểu một cái gì đó và đơn giản là anh ta sẽ cho qua.

Tất nhiên là sự phi lí tồn tại khắp nơi: chả lẽ việc suốt bốn mươi năm qua nước Mĩ dùng tiền của những người đóng thuế để nuôi các gián điệp Liên Xô không phải là chuyện phi lí ư? Chỉ mới gần đây người ta mới nhận thức được chuyện đó và đã có những cố gắng, tuy còn rụt rè và chưa đi đến đâu, nhằm thoát khỏi gánh nặng đó. Chả lẽ việc phương Tây tốn hàng núi tiền cho việc trang bị vũ khí nhằm chống lại kẻ thù tiềm tàng là các “nước xã hội chủ nghĩa” nhưng lại lao đến giúp đỡ khi các nước này rơi vào tình trạng tuyệt vọng (Etiopia, Ba Lan, Liên Xô) lại không phải là phi lí ư? Hay như trong những năm 1917-1922, khi phương Tây chi tiền để cứu những kẻ bắn giết và cướp bóc nhân dân và những kẻ nêu ra nhiệm vụ tiến hành cách mạng thế giới và tiêu diệt hết “bọn tư sản” lại không phải là phi lí ư?

Nhưng chỗ nào cũng thấy phi lí thì lại là một sự kiện đặc biệt, thế mà ở nước ta toàn bộ hệ thống là một sự phi lí và vì vậy được coi là bình thường.
Vì vậy đối với độc giả Liên Xô, tư tưởng chủ đạo của tác phẩm hoá ra lại là mới; sống trong sự phi lí, anh ta trở thành quen với nó, thí dụ anh ta đã quen với chế độ hộ khẩu, đã quen với việc hàng tháng, thậm chí hàng năm không được trả lương cho nên anh ta coi đấy là một sự bình thường. 

Mặc dù tình trạng đó có mặt khắp nơi, vẫn cần phải đưa ra ở đây một vài thí dụ ngõ hầu giúp độc giả làm quen với đời sống ở Liên Xô.

Trong giai đoạn, khi công cuộc “cải tổ” của Gorbachev đang diễn ra một cách quyết liệt nhất thì tại một nông trang ở tỉnh Iaroslav, giữa đêm hôm khuya khoắt, giám đốc nông trang dựng tất cả dậy để họp, ông ta chửi bới họ vì không biết làm việc, rồi xua ra khỏi văn phòng và nhảy lên bàn vừa múa vừa hát: “Ta là giám đốc! Ta là trời con!” Và chỉ đến khi ông ta giết chết hai nữ nông trang viên mọi người mới té ngửa ra là ông ta đã bị điên (Nước Nga Xô viết, ngày 16 tháng 7 năm 1989). Không chỉ tất cả các nông trang viên dưới quyền mà ban lãnh đạo huyện, thông qua các chỉ điểm của mình, trước đó cũng đã biết rõ tư cách của viên giám đốc này rồi. Vấn đề là tất cả, từ lãnh đạo đến tổ chức Đảng, chưa nói các nông trang viên lại coi đấy là điều bình thường! 

Sự kiện một kẻ độc đoán đứng đầu quốc gia lấy giầy đập lên giảng đàn của Liên Hiệp Quốc, làm vỡ cả kính trên chiếc bàn viết (chuyện này sau đó đã trở thành mốt của các cán bộ đủ mọi cấp) nói lên điều gì? Còn khi ông ta ra lệnh trồng ngô ở các tỉnh Arkhagensk và Vologod, hàng triệu người biết rõ rằng ngô không sống được ở đấy, rằng đấy là vứt tiền qua cửa sổ, là phí công toi, nhưng vẫn nhiệt tình, với cờ quạt, biểu ngữ trong tay và bài hát trên môi, lao vào thực hiện kế hoạch. Trong một đất nước bình thường chuyện đó có thể xảy ra được không?

Một người bình thường sẽ hiểu việc “thi đua xã hội chủ nghĩa nhằm hoàn thành vượt mức kế hoạch” giữa các nghĩa trang và các lò thiêu người như thế nào? Trong khi đó thỉnh thoảng người ta lại đưa tro của người quá cố cho thân nhân của họ trong những chiếc hộp giấy vì thiếu bình đựng di cốt! Còn may là không bị gói bằng báo Sự thật đấy! Trong nhà hộ sinh số 10 ở Moskva, xác trẻ sơ sinh có lúc còn bị xếp trong… toilet dành cho phụ sản nữa kia! (TV Moskva, tháng 11 năm 1989).

Nhưng đây, như người ta thường nói, chỉ là “chuyện vặt”. Ta hãy xem những chuyện lớn hơn, bắt đầu, như những người mác-xít đòi hỏi, từ hạ tầng cơ sở, nghĩa là từ lĩnh vực kinh tế. 

Nga là nước nông nghiệp; những cánh đồng rộng lớn với những vùng khí hậu khác nhau đã giúp chúng ta xuất khẩu lúa mì cả ngàn năm nay, thế mà giờ đây chúng ta “đã biến nước Mĩ thành người cung cấp nông sản cho chúng ta”, Canada và Australia cũng chịu chung số phận. Cuộc khủng hoảng thường trực trong lĩnh vực nông nghiệp được giải thích là do thời tiết không thuận lợi [9] , người ta còn phát minh ra một công thức đầy trí tuệ như sau: “Nước Nga nằm trong vùng rủi ro về nông nghiệp”, tuồng như sau Cách mạng Tháng Mười, khí hậu ở Nga đã thay đổi vậy. Nông dân phải ra thành phố mua bánh mì! Liên Xô mua ngũ cốc chủ yếu để chăn nuôi, trong khi điều 1541 Bộ luật hình sự Cộng hoà xã hội chủ nghĩa liên bang Nga lại qui định hình phạt tội mua bánh mì, bột mì và các sản phẩm khác làm từ bột mì để chăn nuôi gia súc, gia cầm đến 3 năm tù giam, kèm theo việc tịch thu gia súc, gia cầm nữa.

Thức ăn cho gia súc lúc nào cũng thiếu. Nhà văn B. Mogiaev kể một hiện tượng như sau: cỏ không được cắt, héo đi và thối rữa, trong khi đó người ta lại thực hiện kế hoạch chuẩn bị thức ăn cho gia súc bằng… cành bạch dương! Những cành bạch dương vẫn thường vang lên trong thi ca bị bẻ… Công nhân bẻ, sinh viên và học sinh cũng bẻ… Các cháu học sinh tốt nghiệp phổ thông không được thi vào đại học: nếu không bẻ đủ số lượng qui định thì không được nhận bằng tốt nghiệp (200 cành một người một ngày)… Dĩ nhiên là bò không ăn cành bạch dương, chúng không phải là người nên không ép được. Những cành bạch dương sẽ nằm đó, khô đi, năm sau bị người ta đem vứt… và lại bẻ tiếp cành mới! (Báo Văn học, 30 tháng 7 năm 1980).

Trong lĩnh vực công nghiệp tình hình cũng không khá hơn. Dưới đây là câu chuyện của ông Valov D., phó tổng biên tập tờ Sự thật dưới nhan đề “Phi lí bình phương”.

Nền kinh tế quốc dân được coi là theo kế hoạch; các kế hoạch kinh tế được soạn thảo và phê duyệt và đa số, không chỉ những người bình thường mà cả các nhà khoa học, đều tin như thế mặc dù chẳng có một kế hoạch nào cả. Lập kế hoạch cho một đất nước rộng lớn như nước ta là việc bất khả thi, có một sự phân bổ, gọi là kế hoạch, theo nguyên tắc “làm hơn năm ngoái”, nghĩa là nếu năm ngoái bạn thực hiện được 100% kế hoạch thì năm nay người ta sẽ giao cho bạn 102% và sẽ không thể nào chứng minh được rằng bạn không thể nào cố thêm được nữa. Vì vậy việc “lập kế hoạch” chỉ cản trở quá trình phát triển vì viên giám đốc có thể hoàn thành 120% kế hoạch sẽ che dấu khả năng của mình, nếu ông ta làm đúng khả năng thì năm sau bộ sẽ giao cho xí nghiệp đó 125%, chẳng cần biết sản phẩm có cần hay không. Chúng ta đã sản xuất được số lượng máy kéo gần gấp 5 lần nước Mĩ (chất lượng dĩ nhiên là khủng khiếp rồi) thế mà người ta vẫn tiếp tục xây dựng một nhà máy khổng lồ (bao giờ nhà máy sau cũng lớn hơn nhà máy trước) chuyên về máy kéo nữa ở Elabug. Khi đã quăng vào đấy hàng triệu đồng người ta mới chợt tỉnh ngộ. Bây giờ phải cải tạo nó thành nhà máy sản xuất ô tô. Với sự trợ giúp của các chuyên gia nước ngoài.

Theo G. Arbatov thì vào năm 1989 nước Mĩ giầu nứt đố đổ vách chỉ sản xuất có 6 quả tên lửa hành trình, trong khi Liên Xô, một nước phải xin Mĩ bố thí, lại sản xuất những 120 quả! Tháng 11 năm 1991, Gorbachev nói ở Irkusk rằng chúng ta sản xuất được 64 ngàn xe tăng, nhiều hơn tất cả các nước khác cộng lại. Không dùng vào việc gì và bây giờ phải chi tiền để phá hủy! Thật kì lạ, ngài Tổng thống biết chuyện đó từ khi nào vậy?
Bây giờ xin được chuyển sang các công việc quốc gia. Chủ tịch một đất nước vĩ đại, “người bạn chiến đấu trung thành của Lenin và Stalin”, tức là đồng chí M. Kalinin, người vẫn thường xuyên tiếp các lãnh tụ và đại sứ nước ngoài, thường xuyên trao huân huy chương, ban hành luật lệ, trong khi vợ ông lại ngồi trong trại cải tạo. Người đứng đầu Đảng Cộng sản Liên Xô trực tiếp hạ lệnh như thế. Sau mấy năm khổ sai, bà được chuyển sang công việc “nhẹ nhàng” hơn, tức là giết rận trong quần áo của tù nhân tại nhà tắm trại giam (Ngọn lửa nhỏ, năm 1988, số 13). Chuyện đó có thể xảy ra ở đâu, ngoài “đất nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên” của chúng ta?

Trong lĩnh vực tinh thần, khoa học và văn học thì mức độ phi lí có thể làm người ta cười đến vỡ bụng: tất cả các vấn đề đều được các quan chức ngu dốt và thiếu hiểu biết trong bộ máy của Ban chấp hành trung ương quyết định. Nếu những kẻ xảo trá như Lysenko chui vào được cấp đó thì chúng có thể cấm bất kì ý tưởng khoa học chân chính nào, đồng thời những điều nhảm nhí nhất lại được chúng tôn thành đỉnh cao của trí tuệ loài người. Lysenko đã tìm mọi cách để tuyên bố rằng môn di truyền học (học thuyết Mendel-Weismann-Morgan) là phản khoa học. Đã sao, các nhà dân chủ phương Tây có thể hỏi, phương Tây chúng tôi cũng thiếu gì những thằng đểu và những thằng ngu? Nhưng nếu ở phương Tây người ta có thể đem chúng ra chế giễu thì ở ta hoàn toàn không có chuyện đấu tranh tư tưởng. Các tư tưởng được Ban chấp hành trung ương phê duyệt chính là chân lí, chỉ được phổ biến các tư tưởng đó; người có tư tưởng sai lầm sẽ bị giết, tư tưởng bị bác bỏ. Các viện và các phòng thí nghiệm về di truyền bị giải tán, các nhà di truyền học lỗi lạc cùng với nhà di truyền học thiên tài của thế kỉ chúng ta là N. Vavilov bị xử bắn hoặc chết trong các trại cải tạo. Khoa di truyền đã bị đẩy lùi đến hàng chục năm. Học thuyết tương đối của Einstein và môn điều khiển học cũng bị coi là phản động và dối trá. Không thể tìm được tên các môn khoa học này trong cuốn bách khoa toàn thư Xô viết dày hàng chục tập.

Liên Xô là nước đầu tiên sản xuất và sử dụng trong tác chiến vũ khí tên lửa. Đầu tiên loại vũ khí này được một nhóm gọi là Nhóm nghiên cứu động cơ phản lực (NCĐCPL), do Sander đứng đầu, thiết kế; họ làm việc này trong thời gian rảnh rỗi (ta gọi là “tự nguyện”). Họ tự gọi đùa mình là nhóm kĩ sư làm việc không công. Trên cơ sở đó, một viện nghiên cứu chuyên ngành được thành lập, thế rồi vì bị vu khống, tất cả đều bị bắt, những người lãnh đạo (Langemak và mấy người nữa) bị xử bắn, những người khác (trong đó có Korolev, người sau này trở thành tổng công trình sư các tầu du hành vũ trụ nổi tiếng) phải vào trại giam, chỉ sau khi xảy ra chiến tranh với Đức, khi Hồng quân, “một đội quân huyền thoại, bách chiến bách thắng” đã chạy về gần đến Moskva, họ mới được chuyển đến các trại đặc biệt dành cho tù nhân có thể tham gia công tác nghiên cứu-thiết kế trong lĩnh vực quân sự (xem cuốn Trong vòng tròn đầu tiên của Solzhenitsyn). Chúng ta đã trọng dụng hiền tài như thế đấy [10] ! Tupolev, tổng công trình sư những chiếc máy bay nổi tiếng một thời, cũng không tránh khỏi cảnh tù đầy.

Những nhà văn, nhà thơ, đạo diễn và nghệ sĩ bất tài nhưng “sẵn sàng ăn theo nói leo” nhận được những mức nhuận bút cao ngất trời, họ còn được huân huy chương, giải thưởng và các danh hiệu cao quí nữa. Sau khi Brezhnev đã treo lên mình đủ loại huân chương (kể cả huân chương “Chiến thắng”) và đủ loại huy chương (kể cả huy chương mang tên Marx vì những đóng góp to lớn trong lĩnh vực xã hội học), ông ta lại nảy ra ý muốn lưu danh thiên cổ trong cả lĩnh vực văn học nữa. Mấy cuốn hồi kí của ông ta do một bọn văn nô chắp bút liền được tuyên bố các kiệt tác văn chương. Nhà văn Trakovsky còn kêu gọi các văn sĩ học tập văn phong của… Brezhnev nữa! Các cuốn sách này được dựng thành phim và kịch, cái nào cũng được giải thưởng và được ca ngợi hết mức. Đáng tiếc là Brezhnev đã chết ngay sau đó, nếu không thể nào chúng ta cũng được xem vở opera, mà chắc chắn một nhạc sĩ nào đó đã viết xong rồi. Tất nhiên là ngay sau khi ông ta chết thì tất cả những kiệt tác văn chương cùng với bức tượng “vinh danh chiến công” của ông ta tại Đất Nhỏ đều được vứt vào sọt rác.

Thế nhưng số phận của các nghệ sĩ thực tài, nói chung, đều đáng buồn cả. Gumilev, Oreshin, Svetaeva, Akhmatova, Mikhoels, Pasternak, Solzhenitsyn, Brodsky … danh sách dài lắm, không thể nào kể ra hết được, người bị giết, người bị đi đày, người bị đàn áp… Tờ Moskva buổi chiều, trong bài “Một nền văn chương bị hành quyết” dẫn ra danh sách 98 nhà văn ở Moskva bị giết (Moskva buổi chiều, ngày 12 tháng 11 năm 1988), trên toàn Liên Xô con số là gần 300, tuy rằng chưa ai có số liệu đầy đủ.

Dư luận rộng rãi đã biết viện sĩ Andrey Sakharov, ông bị đi đầy ở Gorki mà không qua một phiên toà, một vụ xử án nào… Các đồng nghiệp-viện sĩ đã hành động ra sao? Họ đã phản đối chứ? Không phải thế! Họ đã lên án ông một các đểu giả nhất! Ngay tại kì họp của “các đại biểu nhân dân” thời “đổi mới” người ta cũng không cho Sakharov nói, người ta đã bịt miệng, đã chẹn họng ông… 

Đấy chỉ vài nét chấm phá về cuộc sống đầy phi lí của chúng ta. Tôi không biết liệu độc giả có nhận thấy sự va chạm giữa những cái phi lí đó với pháp luật, mặc dù chúng có liên hệ trực tiếp với các lĩnh vực khác?

Nếu bạn là một người làm thơ; những bài thơ tình ái, không liên quan gì đến chính trị. Nhưng nếu “Đảng” coi đấy là những bài thơ có hại thì cả tác giả, cả thơ đều phải bị tiêu diệt. Nhưng làm sao bảo vệ một cách hợp pháp? Nếu có một người dũng cảm dám làm chuyện đó thì anh ta cũng chịu chung số phận với bạn. Nếu có một người tỏ lòng thương hại thì cũng không có ai biết. 

Nếu bạn được lệnh đi bẻ cành bạch dương cho những con bò khốn khổ thì bạn sẽ đi mặc dù biết rằng đấy là việc làm hoàn toàn vô nghĩa và ngu xuẩn. Bạn không có phương tiện phản đối một cách hợp pháp, phản đối một cách ngấm ngầm cũng không được nốt. Còn phản đối bất hợp pháp thì bạn sẽ bị bỏ tù ngay.

Nếu môn di truyền học (điều khiển học, thuyết tương đối ..v..v..) bị “Đảng” coi là giả khoa học và tiêu diệt mà bạn lại là một chuyên gia trong lĩnh vực di truyền thì xin hãy cám ơn số phận vì người ta chưa bắn bạn mà chỉ bắt bạn đi quét rác thôi. Có bộ luật nào hay tổ chức nhà nước nào đủ sức bảo vệ bạn không?

Nếu bạn là giám đốc một nhà máy và bạn biết rõ rằng đang cho ra một loại sản phẩm chẳng ai cần, một loại sản phẩm đã chất đống trong các nhà kho và các bãi rác rồi thì bạn vẫn sẽ tiếp tục sản xuất vì kế hoạch là luật, phải thực hiện (sản xuất của chúng ta là như thế) “bằng mọi giá”! 

Cuối cùng, nếu bạn là chủ tịch, người nắm chức vụ cao nhất… Nhưng nếu vợ bạn bị người ta vu khống, trong đó có tội gián điệp và khủng bố rồi tống vào tù, cho đi giết rận. Luật nào của quốc gia có thể cứu bà ấy?
Không hiểu điều này thì không thể hiểu được luật pháp Liên Xô, nó chính là luật pháp của sự phi lí. 

Điều phi lí lớn nhất của xã hội Liên Xô là luật pháp thời nông nô được khoác lên mình hình thức xã hội chủ nghĩa. Những người nông nô xây dựng chủ nghĩa xã hội tối tăm. Người ta kêu gọi công dân với xiềng ở chân và còng số tám trên tay bay đến những chân trời tươi sáng.
Không hiểu điều đó thì không thể hiểu được nước Nga.

[1]Tất cả các từ “Đảng” trong cuốn sách này đều chỉ Đảng Cộng sản. BT[2]“Trong mười năm tới (1961-1970) Liên Xô, trong quá trình xây dựng cơ sở vật chất của chủ nghĩa cộng sản, sẽ vượt Mĩ, nước tư bản mạnh nhất và giầu có nhất, về số lượng sản phẩm trên đầu người… Như vậy là tại Liên Xô đã xây dựng xong chủ nghĩa cộng sản…” Cương lĩnh thứ III của Đảng Cộng sản Liên Xô. Thông qua tại đại hội XXII, năm 1961.
[3]Cục trưởng cục thống kê bị bắt vì báo cáo láo theo chỉ thị của bí thư tỉnh ủy. Ông này đã trả lời điều tra viên như sau: “Nếu tôi không làm thế thì bây giờ sẽ có một cục trưởng khác ngồi ở đây” (Tin tức, ngày 27 tháng 12 năm 1986). Từ đó: “… thông tin chính xác về kinh tế thì ngay Bộ chính trị cũng không có” (Ngọn lửa nhỏ, 1988, số 46).
[4]Nông trường Novopokrovsky (tỉnh Kuban) 5 năm sản xuất được 2,4 ngàn tấn sữa, nhưng giao nộp tới .. 4,2 ngàn tấn! Cứ ba xí nghiệp thì có một báo cáo láo (Sự thật, ngày 26 tháng 3 năm 1990). Năm năm cải tổ! Nhưng như thế không có nghĩa là các xí nghiệp còn lại không báo cáo láo.
[5]“Hiện nay tất cả các công tố viên đều đang đấu tranh với hiện tượng vi phạm kỉ luật tài chính rất thịnh hành này (tạp chí Pháp chế Liên Xô, năm 1985, số 12, trang 49). Xin nói thêm rằng theo luật thì đây không phải là vi phạm kỉ luật tài chính mà là tội hình sự – điều 152 bộ luật hình sự Cộng hoà xã hội chủ nghĩa liên bang Nga.
[6]Điều này được toà án tối cao Liên Xô công nhận vào năm 1986, khi toà án ghi nhận “sự gia tăng một cách đáng ngạc nhiên” (Báo Văn học, ngày 17 tháng 12 năm 1986). Các số liệu cụ thể chỉ được công bố từ năm 1988.
[7]N. Kuznesova. Tội ác và tình trạng phạm tội. Bản tóm tắt luận án. M., năm 1968, trang 2. Như đã thấy người ta nói về tình trạng phạm tội, nhưng lại dẫn ra số liệu về сác vụ án, thêm nữa so sánh được lấy từ những năm 1963-1965, là lúc theo chỉ thị của Khrushchev người ta đã ngưng việc bắt bớ và đưa ra toà hàng loạt mà chuyyển các tội phạm cho các xí nghiệp và tổ chức xã hội “bảo lãnh”.
[8]R. Konkvest trong tác phẩm Mùa buồn (London, 1988) đã trình bày lịch sử vụ diệt chủng được tổ chức bởi lãnh đạo Đảng Cộng sản. Ông chỉ ra rằng người ta đã đi từ phủ nhận một cách quyết liệt và hoàn toàn nạn đói (kể cả những người theo tư tưởng tự do ở phương Tây được “tận mắt chứng kiến” như Bernard Shaw) ở Liên Xô đến việc công nhận một cách không chính thức.
[9]Tiếu lâm: Bốn khó khăn của nông nghiệp Nga: mùa đông, mùa xuân, mùa hè, mùa thu.
[10]Tháng 12 năm 1991 (sau nửa thế kỉ) công lao của nhóm NCĐCPL mới được ghi nhận. Chính Gorbachev đã trao huân chương… cho các goá phụ!

Chương 2. Luật học

 Phân tích một cách cụ thể khoa học “xã hội chủ nghĩa” về nhà nước và pháp luật, trong đó khoa học đóng vai trò chủ đạo trong một cuốn sách giành cho đông đảo độc giả là một việc làm không cần thiết, hơn nữa đối với việc ban hành luật và thực tiễn pháp lí, nó cũng không có vai trò đáng kể gì.

Thế thì tại sao lại phải nói về nó? Có hai lí do: thứ nhất, trong điều kiện hiện nay, luật pháp của tất cả các nước đều bị chính trị hóa, sự kiện này ai cũng rõ từ lâu; trong các nước “xã hội chủ nghĩa”, hệ tư tưởng mác-xít lê-nin-nit lại là cơ sở nhận thức pháp lí của các luật sư [1] . Thứ hai, kiến thức pháp luật là một phần không thể thiếu trong công tác tuyên truyền một cách có hệ thống và có định hướng của Đảng, có ảnh hưởng đến nhận thức pháp lí của nhân dân, của chính các nhà lãnh đạo, các viên chức Đảng, nhà nước và của cả bộ máy tư pháp nữa. 

Đặc điểm chủ yếu của nền luật học “xã hội chủ nghĩa” là tính vô nguyên tắc. Điều này xuất phát từ nguyên tắc “tính Đảng của khoa học”, một nguyên tắc được tuyên truyền và bảo vệ mọi lúc mọi nơi, nghĩa là người ta phải tuân theo “đường lối của Đảng” dù nó có biến hóa thế nào cũng mặc. 

Vì vậy mà tất cả các nhà khoa học, không trừ một ai, đều phải thay đổi quan điểm của mình mỗi khi có lệnh, nếu họ còn muốn giữ ghế trong khoa học. Sự thay đổi một cách đột ngột “đức tin” đã thành hiện tượng thường nhật đến nỗi không ai ngạc nhiên, cũng không ai phản đối nữa. Người không phải là bò, người có thể thay đổi quan điểm. Nhưng nếu ngày hôm qua một nhà khoa học còn đang tận tuỵ “phân tích những đặc thù của chủ nghĩa xã hội phát triển” mà hôm nay có lệnh từ Ban chấp hành trung ương: “Để chủ nghĩa xã hội phát triển lại!”, phải phê bình “luận điểm” này một cách quyết liệt nhất, thì đấy rõ ràng là bồi bút rồi.

Ở nước ta chân lí không sinh ra từ các cuộc tranh luận vì “đường lối của Đảng” là bất khả tư nghị. Sau khi được sự ủng hộ của Ban Chấp hành Trung ương, một kẻ xảo trá là Lysenko không cần tranh luận với nhà bác học thiên tài Vavilov và các nhà di truyền học khác. Hắn đã dùng KGB đè bẹp họ về mặt tinh thần rồi thủ tiêu về mặt thể xác là xong.

Đấy là các môn khoa học tự nhiên, nơi dường như kết quả các cuộc thí nghiệm tự nó đã có thể chứng minh đâu là chân lí, còn các gien di truyền thì nhìn thấy được dưới kính hiển vi… Nhưng nếu Ban chấp hành trung ương bảo rằng di truyền học và điều khiển học là khoa học tư sản thì không ai còn được có ý kiến gì nữa. Nói gì đến triết học, kinh tế học và luật học?

Trong tất cả các tác phẩm người ta đều nhấn mạnh nguyên tắc Đảng là nguyên tắc chủ yếu của nền khoa học của chúng ta. “Đây là nguyên tắc chung (!) của nền luật học mác-xít lê-nin-nit, là phẩm chất không thể tách rời của nó [2] ”. Nguyên tắc Đảng đòi hỏi người ta phải ủng hộ vô điều kiện kiện ý chí đã trở thành luật pháp của Đảng, dù trên thực tế nó có là phản dân cũng mặc. Chưa bao giờ các luật sư Liên Xô lại ca ngợi tính pháp lí xã hội chủ nghĩa và nền dân chủ “đã đâm hoa kết trái dưới ánh sáng của hiến pháp Stalin” như trong các năm 1937-1938, khi mà chỉ ở Moskva đã có 800 người bị bắn mỗi ngày (tư liệu của nhà báo A. Miltrakov).

Lòng trung thành, khi đã được đưa đến mức cuồng tín, thì dù có phi đạo đức vẫn có thể được thông cảm. Nhưng đằng này lại là “đường lối của Đảng”, giống như mọi đường lối, nó luôn luôn thay đổi mà lại thay đổi một cách bất ngờ nhất, đôi khi theo hướng hoàn toàn ngược lại (thí dụ chuyển từ “chủ nghĩa cộng sản thời chiến” sang “chính sách kinh tế mới”; hay trong giai đoạn “đổi mới”: chuyển từ việc hợp nhất tất cả các hình thức sở hữu xã hội chủ nghĩa thành hình thức duy nhất, hình thức sở hữu toàn dân thành “phi nhà nước hóa”, thành tư hữu). Có một câu chuyện tiếu lâm: anh ta là một người cộng sản kiên định, nếu có dao động thì cũng dao động cùng với đường lối của Đảng!

Sự bốc thơm luật pháp và chính sách pháp luật hiện hành đã vượt mọi biên giới của sự xấu hổ. Luật pháp Liên Xô là “hiện thân của lí tưởng và quan niệm của nhân dân lao động về tính pháp lí, sự công bằng và nhân đạo [3] ”, các luật sư nổi tiếng đã viết trong một công trình tập thể như vậy đấy. Đấy là trong một đất nước, nơi hàng triệu người đã chết đằng sau dây kẽm gai trại cải tạo, nơi người ta cố tình gây ra nạn đói làm chết hàng triệu người, còn những người nông dân đói khát thì bị bắn chỉ vì đã mót những bông lúa còn sót lại sau vụ thu hoạch (đằng nào cũng cày lấp đi) theo luật ban hành ngày 7 tháng 8 năm 1932 (gọi là luật 7/8 – ND). Nơi một số dân tộc (người Tatar ở Krưm, người Đức sống ở vùng Volga, người Thổ Nhĩ Kì, người Meskhetin v.v.) bị coi là tội phạm và bị trừng phạt theo luật hình sự và lưu đầy, hiện nay họ vẫn chưa được khôi phục đầy đủ mọi quyền lợi, chưa được đền bù về tài sản và những đau khổ mà họ đã phải chịu đựng? Nơi bính lính dùng xẻng phạt ngang người các thiếu nữ trẻ (Tbilisi, 1989), bắn vào dân chúng tay không một tấc sắt (Bacu – 1990, Vinhius, Riga – 1991)? Không có một luật sư “nổi tiếng” nào và chưa bao giờ họ đứng lên phản đối những vụ vi phạm quyền con người hay tham gia vào phong trào bảo vệ quyền con người. V. Kudriadsev, người đứng đầu ngành luật học hiện nay, cũng như người tiền nhiệm của ông ta và Trkhikvadze, trưởng ban quyền con người thuộc trường đại học luật, cũng như Alekseev S., chủ tịch ủy ban giám sát hiến pháp chưa lần nào phát biểu bảo vệ người đồng liêu trong Viện hàn lâm khoa học là viện sĩ A. Sakharov, cũng như chưa từng đứng lên phản đối những vụ giết người hàng loạt nói trên. Họ luôn đứng ở hàng đầu, cả dưới thời Stalin, cũng như thời Khrushchev và Brezhnev, bây giờ họ vẫn bảo vệ được những chiếc ghế của mình. Họ là những người đầu tiên lên tiếng tụng ca đường lối mới và lên án những vi phạm trong giai đoạn trước đó. Chính họ lại là những người đại diện cho nền khoa học Liên Xô trong các hội nghị quốc tế, báo chí phương Tây sẵn sàng dành chỗ để cho họ đưa ra các thông tin giả mạo. 

V. Trkhivadze đã công bố tại Cộng hòa liên bang Đức một bài báo về bước ngoặt theo hướng sự thật của khoa luật học Liên Xô [4] . Tất nhiên là sau 70 năm dối trá thì một bước ngoặt có thể gọi là “kịp thời” nếu thực sự có một bước ngoặt như thế [5] . Đơn giản là đường lối đã thay đổi và các luật sư cũng quay theo hướng đã định, họ sám hối vì những điều dối trá cũ và tiếp tục sáng tác ra những điều dối trá mới.

Đương nhiên sẽ xuất hiện câu hỏi, ai đã cản trở toàn bộ ngành khoa học và chính tác giả bài báo thực hiện “bước ngoặt” một cách sớm hơn? Câu trả lời của ông ta là: A. Vyshinsky [6] ! Dù đã quá quen với sự trắng trợn vô liêm xỉ của các luật sư của chúng ta, tôi cũng không kiềm chế được thái độ khinh bỉ khi đọc bài báo đó vì tác giả của nó đã có hành động giống hệt như một con lừa đang đá vào một con sư tử đã chết, tội lỗi của mình lại đổ cho A.

Vyshinsky! Không có điều kiện phân tích toàn bộ bài báo, chỉ xin dẫn một thí dụ: Trkhivadze tố cáo Vyshinsky trong việc đàn áp các nhà khoa học, trong đó có G. Gurvich và A. Stalgevich. Trên thực tế thì vào năm 1949, theo lệnh của Stalin người ta đã tiến hành một chiến dịch bẩn thỉu nhằm đàn áp người Do Thái trong tất cả các lĩnh vực khoa học và văn hóa, người Do Thái bị đuổi khỏi các công sở và bị bắt giữ nhân danh cuộc “đấu tranh với chủ nghĩa thế giới”. Chính viên đại tá dũng cảm của chúng ta nằm trong số các luật sư mở màn chiến dịch, nổ súng vào “những người theo chủ nghĩa thế giới” và đã gọi G. Gurvich, I. Levin, M. Strogovich và A. Stalgevich là những kẻ phá hoại chủ chốt. Ban biên tập tờ báoOsteuropa, nơi công bố những bài báo xuyên tạc của V. Trkhivadze lại không cho tôi nói lên sự thật về vấn đề này.

Nền luật học Xô Viết luôn luôn bám sát “đường lối của Đảng” và lấy làm tự hào về điều đó. Về mặt này thì không có bước ngoặt nào trong giai đoạn “cải tổ” cả, đơn giản là “đường lối của Đảng” đã rẽ sang hướng khác. Trong giai đoạn “cải tổ” nguyên tắc bốc thơm sự anh minh của Đảng vẫn được tuân thủ một cách tuyệt đối.

Ngày 8 tháng 4 năm 1989 (một ngày trước khi xảy ra sự kiện “ngày chủ nhật đẫm máu” ở Tbilisi) M. Gorbachev kí một nghị định phản động về việc sửa đổi luật về tội phạm quốc gia. Điều 111 của nghị định này: “Lăng mạ và làm mất uy tín của các cơ quan nhà nước và tổ chức xã hội” kinh tởm đến mức sau đó đã xảy ra một chuyện vô tiền khoáng hậu: “đa số dễ bảo” của Xô viết Tối cao Liên Xô đã không thông qua nghị định. Thế mà ngay sau khi công bố, hai giáo sư đã lập tức đồng thanh ca ngợi nghị định. Mặc dù có ghi nhận một vài thiếu sót, mà theo họ là có thể khắc phục được sau khi có hướng dẫn, nhưng nói chung, tướng N. Dagorodnikov (luật hình sự) coi nghị định là “tiến bộ”, còn tướng N. Strutrkov (luật trại cải tạo) thì khẳng định một cách không xấu hổ rằng mục đích của nghị định là “bảo đảm về mặt luật pháp quá trình dân chủ hóa và công khai hóa [7] ”!

Một thí dụ nữa về tính vô nguyên tắc trong thời gian gần đây, đấy là thái độ đối với “nhà nước pháp quyền”. Cái học thuyết tư sản này đã bị các học giả của chúng ta nguyền rủa bằng đủ thứ từ ngữ vì theo lời họ thì bọn phát xít rất thích lí thuyết này [8] . Nhưng năm 1988, có lệnh từ Ban chấp hành trung ương và ông S. Alekseev, người vừa được nói đến ở trên, đã vội reo lên với lòng nhiệt tình vốn có và nhấn mạnh bằng những chữ to đùng rằng “việc Đảng Cộng sản Liên Xô thi hành đường lối thiết lập nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là THỜI CƠ VÀNG CỦA LUẬT PHÁP[9] !”. Không ở đâu và không có ai nhắc lại rằng trước đó ý tưởng về nhà nước pháp quyền đã bị chửi bới một cách không thương tiếc, còn hôm nay thì phê bình nó là việc bất khả thi. Vấn đề lương tâm (không phải là khái niệm pháp lí) chưa bao giờ được các luật sư của chúng ta thảo luận.

Chuyện gì đã xảy ra sau khi Đảng Cộng sản Liên Xô giải thể? Không có gì hết. Vấn đề là các “chỉ thị” từ nay sẽ xuất phát từ một hệ thống khác. Đơn giản là Văn phòng Tổng thống trong các phòng làm việc cũ, tòa nhà cũ, trên Quảng trường Cũ đã thế chỗ Ban chấp hành trung ương Đảng. 

Từ hàng thế kỉ nay khoa học được xây dựng trên cơ sở nghiên cứu các sự kiện và các nhà khoa học rút ra kết luận. Nước ta thì khác: khởi thủy là “một kết luận về mặt lí thuyết”, sau đó mới thu thập sự kiện, mà không phải lúc nào cũng thế. Hiện nay toàn thế giới phải bàng hoàng về mức sống của những người lao động Liên Xô. Ban lãnh đạo của cái đất nước vĩ đại này phải xin viện trợ lương thực khẩn cấp của ngay cả nước Luxemburg, một nước chỉ nhỏ bằng một phần mười tám tỉnh Moskva, thế mà trong danh mục thư viện mang tên Lenin tôi tìm thấy gần 200 luận án về “nâng cao một cách liên tục mức sống của nhân dân Liên Xô”. Sách và báo thì không thể nào đếm hết được. Một người tên là S. Rotan đã dùng đề tài “Công bằng xã hội và luật lao động Liên Xô” để làm luận án tiến sĩ, trong đó anh ta chứng minh luận điểm của F. Engels rằng trong chủ nghĩa tư bản diễn ra quá trình phân hóa giai cấp còn trong chủ nghĩa xã hội thì sẽ có công bằng xã hội. Lúc đó, nhờ “công khai” mà báo chí đầy các bài, một mặt, viết về các giai tầng đang hình thành, về các triệu phú, các băng đảng, và mặt khác là sự khốn cùng của nhân dân. Tôi đã hỏi tác giả luận án rằng anh ta đã nghiên cứu những gì để rút ra kết luận như thế? Không trả lời được. Tôi đã nhấn mạnh rằng nghiên cứu sinh đã không đưa được một sự kiện nào để chứng minh luận điểm của mình. Không một sự kiện nào hết! Nhưng những người phản biện là Lifsis, Kondratiev, Nikitinsky, như vốn phải thế, đã nhiệt liệt ca ngợi bản luận án và Hội đồng khoa học của Viện luật pháp Liên Xô đã nhất trí phong học vị tiến sĩ luật học cho tác giả luận án! Làm sao khác được? Ai cho phép anh ta bác bỏ Engels? 

Vì các nhà khoa học phải tuân theo các chỉ thị của Đảng, bất kể việc nó có phù hợp với thực tiễn hay không, cho nên dối trá đã trở thành nguyên tăc căn bản của khoa học. Nếu lí thuyết mác-xít khẳng định rằng trong chủ nghĩa tư bản diễn ra quá trình bần cùng hóa người lao động và tội ác phát triển thì dù sự kiện có như thế nào đi nữa, các nhà khoa học Liên Xô vẫn phải chứng minh như thế, tất cả những điều khẳng định của họ, dù có dựa vào các sự kiện và đứng vững “trên nền sự kiện” thì vẫn chỉ là những câu chữ mang tính quảng cáo và mị dân.

Trên thực tế họ đã tiến hành việc chọn lọc các sự kiện và rút ra các kết luận dối trá, mâu thuẫn với thực tiễn. Nếu như thế vẫn chưa đủ thì họ sẽ bóp méo và xuyên tạc các sự kiện, sẽ đưa ra đủ điều bịa đặt dưới dạng sự kiện, thí dụ điều bịa đặt là ở “Liên Xô dân chủ đang giữ thế thượng phong” [10] . 

Xin xem xét ngành tội phạm học, một ngành vừa kỉ niệm 30 năm ngày thành lập (1989). Trước năm 1989 số liệu về tội phạm là thuộc loại tuyệt mật. Khoa học nào có thể tồn tại nếu không có dữ kiện? Mà cần gì phải có dữ kiện nếu khoa học của chúng ta dựa trên chủ nghĩa không tưởng của Marx và Engels, theo đó, tội ác sinh ra trong lòng chủ nghĩa tư bản còn trong chủ nghĩa xã hội thì nó sẽ biến mất? Tất cả các “nhà tội phạm học” đã “chứng minh” được như thế.

Chuyên nghiên cứu về tội phạm, dù không có số liệu thống kê, họ không thể không biết điều mà ai cũng biết: tội ác đang gia tăng. Nhưng để phục vụ “lí thuyết” họ đã đánh tráo số liệu và vì vậy mà đã nói dối một cách ngang nhiên. V. Kudriadsev, người đứng đầu ngành luật học Liên Xô, tại Hội nghị VI về tội phạm học của Liên Hiệp Quốc đã thuyết phục cộng đồng thế giới rằng: 1. tội phạm ở Liên Xô đang giảm dần; 2. nguy cơ xã hội cho việc nảy sinh tội ác đang giảm dần; 3. không còn tội phạm có tổ chức [11]. Ông ta đã nói dối những ba lần, hoàn toàn ngược lại! Xin nhắc lại, ông ta không lầm, ông ta cố tình nói dối!

Chính vì sự dối trá đó, chính vì màn khói thả ra xung quang bè lũ mafia cảnh sát đó, mà vào năm 1985 một nhóm các “nhà tội phạm học” đứng đầu là V. Kudriadsev đã được Huân chương quốc gia đấy!

Năm 1986 Tòa án tối cao Liên Xô đã công nhận (không có số liệu!) rằng tội phạm ở nước ta gia tăng “một cách đáng lo ngại”, nhưng trong cuốn sách giáo khoa dành cho các trường luật học xuất bản năm 1988, do các giáo sư B. Korbeinikov, N. Kuznesova và G. Minkovsky chủ biên, người ta vẫn khẳng định, hệt như ba mươi năm trước rằng tội phạm ở Liên Xô là “tàn dư của quá khứ” và “thuộc vào những hiện tượng đang chết dần; nguyên nhân của nó đang bị loại bỏ một cách không thể đảo ngược được [12] ”.

Các nhà bác học cũng có thể lầm, ngoài ra không phải ai cũng làm được như G. Bruno, nghĩa là lên giàn hỏa thiêu vì tư tưởng của mình (nhà bác học vĩ đại Galilei đã từ bỏ học thuyết của mình khi trực diện với tòa án giáo hội), nhưng các “nhà tội phạm học” Liên Xô đã biến việc dối trá hiển nhiên thành một nghề. Để độc giả không nghĩ rằng những điều dẫn ra bên trên chỉ là vụ báo thù của một người cạnh tranh tấm huân chương, xin dẫn ra ở đây lời sám hối của một trong những người đồng nhận giải: “Xa rời sự thật, che dấu và xuyên tạc đã xảy ra trong cuộc đấu tranh chống lại tội ác, mà không chỉ diễn ra trong hoạt động thực tiễn, nó diễn ra cả trong lí thuyết, trong ngành tội phạm học nữa. Không có gì là thật (!), cả trong việc đánh giá cũng như giải thích nguyên nhân của tội ác [13] ”. Hoàn toàn đúng, chỉ có điều “người sám hối” không viết trước tên mình “Người được huân chương quốc gia” mà thôi.

Để làm hài lòng Đảng, người ta đã chế ra những huyền thoại chẳng ăn nhập gì thực tế, nào là mức sống của nhân dân Liên Xô ngày càng được cải thiện, nào là tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội, nào là không còn người bóc lột người, không còn thất nghiệp, pháp luật được tôn trọng, chính quyền do dân làm chủ v.v. và v.v… Những huyền thoại đó đã sụp đổ chưa? Đa số được lặp lại theo một công thức khác: “Vâng, đã có sai lầm, đã xa rời sự thật, nhưng hiện nay… hiện nay chúng ta đã cải tổ rồi”.

Nói về cơ sở lí luận của pháp luật Liên Xô thì cần và chỉ cần xét câu hỏi quan trọng nhất, đấy là khái niệm luật pháp.

Không đi sâu vào các phương án dài dòng, tất cả các định nghĩa về luật pháp có thể rút lại thành hai: 1. luật pháp là ý chí của giai cấp thống trị về kinh tế [14] ; 2. luật pháp là tập hợp tất cả các qui phạm do nhà nước áp đặt và thể hiện ý chí của giai cấp thống trị về kinh tế [15] .

“Các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác-Lênin” không quan tâm nhiều đến vấn đề luật pháp, một vài nhận xét về vấn đề này sau đó được phân tích một cách cực kì cẩn thận và tán rộng mãi ra. Định nghĩa đầu tiên được rút ra từ “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” do K. Marx và F. Engels viết. Đấy không phải là định nghĩa, các tác giả chỉ lên án giai cấp tư sản đã biến ý chí của mình thành luật pháp mà thôi. Từ đó những người mác-xít liền rút ra kết luận rằng tất cả luật pháp đều là ý chí của giai cấp thống trị.

Định nghĩa thứ hai là của A. Vyshinsky (ông ta từ chối tác quyền), định nghĩa này đã ngự trị trong khoa học trong thời gian mà chính Vyshinsky còn cầm đầu ngành này [16] .

Sự khác nhau của các định nghĩa chỉ là sự nhấn mạnh: cái thứ nhất nhấn mạnh ý chí, cái thứ hai nhấn mạnh qui phạm [17] . Không thể nói rằng cách nhấn mạnh không có ý nghĩa: định nghĩa thứ nhất coi trọng trước hết ý chí của giai cấp thống trị, định nghĩa thứ hai nhấn mạnh rằng pháp luật là hình thức thể hiện ý chí, nhưng trong bất kì trường hợp nào luật pháp xã hội chủ nghĩa cũng “luôn luôn thể hiện quyền lợi của nhân dân lao động và ý chí của nhà nước, người đại diện cho những quyền lợi đó [18] ”.

Nhưng nhân dân lao động, kể cả các đảng viên may lắm thì biết được từ 5 đến 10% các tài liệu pháp qui là cùng (chưa nói đến các chỉ thị mật). Thế thì ai đưa ra “ý chí của Đảng”? Chúng ta đã thấy Ban chấp hành trung ương (là nói các ủy viên chứ không phải bộ máy) không làm việc đó. Còn lại Bộ chính trị. Từ đây có thể thấy rằng ý chí của Đảng và của nhân dân có thể chỉ do một người nói ra mà thôi, người ấy chính là lãnh tụ. Dưới thời Stalin đã thế, thời Khrushchev, rồi đến Brezhnev cũng là như thế.

Nếu chúng ta giả định rằng lãnh tụ có thể thể hiện được ý chí của nhân dân lao động thì hóa ra đạo luật ngày 7 tháng 8 năm 1932, những người mót lúa, mót khoai bị bắn theo đạo luật này; biên bản năm 1934 về việc trấn áp “bọn khủng bố” mà không cần đưa ra xét xử; chỉ thị ngày 26 tháng 6 năm 1940 về trách nhiệm hình sự nếu không có mặt tại vị trí làm việc trong vòng 20 phút và những đạo luật khắc nghiệt khác đều được ban hành theo ý chí và vì quyền lợi của nhân dân cả. 

Nhiều thế hệ các cán bộ Đảng, cán bộ nhà nước, các luật sư và dĩ nhiên là toàn thể nhân dân đã được giáo dục trên tinh thần như thế đấy.

Vì vậy, nếu pháp luật cấm sử dụng lao động trẻ em, nhưng “anh hai” ở Uzbekistan hay Mondavia (dĩ nhiên là đã thỏa thuận với tỉnh ủy và trung ương rồi) cho rằng điều kiện kinh tế đòi hỏi các cháu tham gia vào việc thu hoạch bông hay thuốc lá thì ông ta sẽ ra chỉ thị và theo ý chí của ông ta, các cháu bé sẽ phải làm việc từ sáng đến tối dưới cái nắng chói chang, trên những cánh đồng đầy thuốc trừ sâu và sau đó thì nằm ngủ ngay trên mặt đất, trong những cái lều dành cho cừu. Ai dám chống lại “ý chí của Đảng”? Ông viện trưởng viện kiểm sát, cũng là một Đảng ủy viên ư? Thật khó có thể coi đấy là đề nghị nghiêm túc. Các cháu bé ư? Các cháu còn yếu đuối lắm. Cha mẹ các cháu ư? Họ cũng sợ hãi và vô quyền như con em mình mà thôi.

Còn vấn đề xây dựng “nhà nước pháp quyền”, vấn đề “thời cơ vàng” của nó thì sao? Câu trả lời rất đơn giản: chính cách đặt vấn đề về việc xây dựng “nhà nước pháp quyền” đã chứng tỏ rằng nước ta chưa có nhà nước pháp quyền, còn thời hạn xây dựng nó thì chưa được xác định, dù chỉ là một cách tương đối.

Dù sao mặc lòng, tôi hi vọng rằng độc giả đã hiểu vì sao chúng ta phải xem xét tình hình ngành luật học Liên Xô. Trong đó có cả vấn đề như là khái niệm luật pháp vì nó phản ánh lên thực tế cuộc sống. Nói đến quan hệ của giai cấp thống trị đối với luật pháp và tinh thần thượng tôn pháp luật là điều phi lí: một mặt đấy là sự miệt thị và khinh thường pháp luật, coi thường cả các nguyên tắc pháp lí và tinh thần thượng tôn pháp luật lẫn các điều luật cụ thể, thứ hai, đấy là sự tin tưởng mù quáng vào sức mạnh toàn năng của luật pháp. Mâu thuẫn này có vẻ như đã tự loại trừ nhau, nhưng nó lại là mâu thuẫn xuyên suốt lịch sử Liên Xô, kể từ các “sắc lệnh Tháng Mười”, “tình trạng khẩn cấp” cho đến quá trình “cải tổ” rất được lòng những người có tư tưởng tự do ở phương Tây hiện nay.

Với ý định “cải tạo chủ nghĩa xã hội”, Gorbachev đã thực hiện những hoạt động lập pháp, phải nói là sôi động, nhưng nói chung vô ích, thậm chí có hại. Một trong những biểu hiện của sự thiếu hiểu biết là “luật chống uống rượu” với những biện pháp cấm đoán nghiêm ngặt và tăng giá đột xuất các loại nước uống có cồn. Trước khi Gorbachev chấp chính tình hình tiêu thụ rượu đã ở mức báo động. Cảnh nghiện ngập xảy ra không chỉ trên đường phố, trong gia đình mà còn ngay tại nơi làm việc. Gorbachev tin rằng chỉ cần đưa ra luật lệ là vấn đề nghiện rượu sẽ được giải quyết. Kết quả: kinh tế và tài chính rơi vào khủng hoảng vì 1/5 ngân sách là từ rượu, việc nấu rượu lậu và đầu cơ rượu, nạn sử dụng ma túy và các chất gây nghiện khác gia tăng, thậm chí lan sang cả trẻ em và cuối cùng là nạn nghiện rượu càng tăng thêm!

Mặt khác, thí dụ, điều 30 luật liên bang, Bộ luật chủ yếu về lao động viết: “Cấm làm việc trong ngày nghỉ”. Nhưng ai để ý đến bộ luật liên bang này?

Trong số rất nhiều luật lệ được ban hành theo sáng kiến của Gorbachev thì luật về xí nghiệp quốc doanh (liên hiệp xí nghiệp) và luật về hợp tác xã là những bộ luật chủ yếu để thực hiện công cuộc “cải cách kinh tế” do ông ta khởi xướng. Chất lượng các bộ luật này thấp đến nỗi không đáng phê bình vì cả hai bộ luật đều không phải là các văn bản pháp qui mà chỉ là các tuyên bố chung chung. Tư tưởng chủ yếu của đạo luật thứ nhất là sự tự chủ của các xí nghiệp, nhưng sự phụ thuộc của chúng vào các bộ chủ quản thì vẫn được giữ nguyên. Tư tưởng chủ yếu của đạo luật thứ hai là sự phát triển tự do của các hợp tác xã, nhưng lại không có sự bảo đảm nào cho cả hợp tác xã lẫn người tiêu dùng. Kết quả: luật về xí nghiệp “không hoạt động”; còn hợp tác xã cũng không hình thành được vì đã bị bộ máy bóp chết từ trong trứng nước, nhưng cái bộ máy này lại không quên nhận tiền hối lộ khi cho đăng kí hoặc cấp cho trụ sở và các “dịch vụ” khác; điều này đã được người ta nói tới ngay trên diễn đàn của Xô viết Tối cao Liên Xô. Sau đó Tổng thống lại ra nghị định cho phép công an và KGB tiến hành kiểm tra và khám xét các hợp tác xã mà không cần Viện kiểm sát phê chuẩn. Người ta không nhận thấy một tí dấu vết nào của kiến thức về pháp luật của Gorbachev trên các đạo luật này.

Khoa học xã hội chủ nghĩa cho rằng pháp luật thể hiện ý chí của giai cấp thống trị, do “Đảng” xác lập, còn “Đảng” lại cho rằng có thể giải quyết mọi vấn đề của xã hội bằng cách ban hành các đạo luât. Hiện tượng này được nhà văn A. Zinoviev mô tả một cách tuyệt vời như sau: “Một khi quyết định đã được thông qua thì đối với lãnh đạo vấn đề đã được giải quyết. Họ coi việc thông qua quyết định về việc giải quyết vấn đề là sự giải quyết của chính vấn đề”.

Luật pháp chỉ là một phương tiện (chưa phải là chủ yếu) để thực thi đường lối của “Đảng” và không phải là hình thức thể hiện ý chí duy nhất của nó (thế mới có chuyện bóc lột một cách phi nhân trẻ em trên những cánh đồng trồng bông). “Đảng” coi tất cả mọi yêu cầu của mình, dưới bất kì hình thức nào, đều là bắt buộc đối với mọi thần dân, nhưng lại không bắt buộc đối với Đảng. Lenin đã nói rất đúng rằng chuyên chính vô sản là quyền lực không bị giới hạn bởi bất kì đạo luật nào. 

Vì vậy đối với tất cả các cấp chính quyền (ngay cả ủy ban hành chính xã hay đúng ra phải nói nhất là đối với các ủy ban hành chính xã) tuân thủ luật pháp không phải là điều bắt buộc. Hiến pháp hay chỉ thị của “anh hai”, cái nào cao hơn không bao giờ được đặt ra đối với ông chủ tịch ủy ban xã. Chúng ta thường nghe các cấp lãnh đạo nói: “chúng ta không được câu nệ”, “không được bám vào lời văn của luật pháp”, “đây là trường hợp ngoại lệ”… Nhưng nếu ở một cấp nào đó luật pháp không phải là bắt buộc thì nó sẽ trở thành không bắt buộc ở khắp mọi cấp và đối với mọi người, thế là xuất hiện tình trạng vô luật pháp khắp mọi nơi, và chính nó đã bóp chết nền kinh tế Liên Xô. “Kế hoạch là luật”, các nhà lãnh đạo Đảng nói như thế trên các diễn đàn đại hội, nhưng không một xí nghiệp, không một nông trang nào thực hiện được kế hoạch, cả về số lượng lẫn chất lượng. Những tiếng gào thét và kêu gọi lập lại trật tự và kỉ cương cứ ngày một yếu dần. 

Chỉ còn hi vọng vào dùi cui và súng máy. Nhưng nếu có thể dùng những thứ đó để khôi phục trật tự trên đường phố thì lại không thể dùng chúng để lập kỉ cương trong sản xuất.

[1]J. L. Konstantinenko đã viết về chuyện này. Ông cũng ghi nhận rằng các luật sư “xã hội chủ nghĩa” sử dụng phương pháp so sánh như là vũ khí trong cuộc đấu tranh tư tưởng và họ coi nhiệm vụ của mình là chứng minh tính tưu việt của nhà nước và pháp quyền xã hội chủ nghĩa”. J.-L.Konstantinesco. Traite de Droit Compare, t.2, Paris, 1974, p. 30-34.
[2]“Học thuyết Mác-Lenin về nhà nước và pháp luật, tập 4, Pháp luật xã hội chủ nghĩa” M., 1973, trang 9. Đây là tác phẩm tập thể về nhà nước và pháp luật lớn nhất trong lịch sử Liên Xô, nó giữ vị trí đặc biệt vì là ý kiến của các “lí thuyết gia” nổi tiếng nhất và có bằng cấp cao nhất. Nhiều trích dẫn sẽ được lấy từ tác phẩm này, nhưng vì tên của nó quá dài nên sau này sẽ viết tắt là MLVNNPL.   
[3] MLVNNPL.  tập 4, М., 1973. trang 9
[4]V. Cchikvadze, Der Umbruch und die Entwicklung der sowietischen Rechtswissenschafl Osteuropas: Recht, 1990.H.2.
[5]S Alekseev ghi nhận những khuyết tật sau đây của nền luật học Liên Xô: a/ đánh mất vị trí của một nền khoa học chân chính; b/ biện hộ cho nhà nước Xô viết và pháp lí Xô viết; c/ giáo điều; d/ nền đạo đức không thuận lợi (Pháp luật Liên Xô, 1989, số 5, trang 76). Và sám hối: “… những đánh giá mang tính tiêu cực như thế này liên quan một cách vô điều kiện đến tất cả những gì mà tác giả những dòng này đã viết”. Nói phải củ cải cũng nghe.
[6]V. Cchikvadze. Der schädliche Elnfluss von A. Vyshinskji in der sowietischen Rechtswissenchaft Osteuropas: Recht, 1989, H.2.
[7]Báo Tin tức, ngày 15 tháng 4 1989
[8] Lí thuyết vê nhà nước pháp quyền “không có giá trị về mặt lí luận, không thực hiện được trên thực tế… chỉ có giá trị tuyên truyền. Các xu hướng quân phiệt và phục thù, khôi phục lại lực lượng phát xít – đấy chính là sự thật nấp sau khái niệm “nhà nước pháp quyền”. MLVNNPL, tập 1, M., năm 1971, trang. 9.
“Khái niệm nhà nước pháp quyền phát xít là “một gói lựu đạn” nhằm, một mặt, chống lại giai cấp công nhân Đức, và mặt khác, chống lại phong trào công nhân thế giới và đội tiên phong của nó là nhà nước Liên Xô. Khái niệm nhà nước pháp quyền hiện đại cũng nhằm theo đuổi mục đích đó”.Phê bình lí luật pháp quyền tư sản hiện đại. M., 1969, trang 266.
“Lí thuyết về nhà nước pháp quyền” chứa đầy tư tưởng chống cộng, nhằm đối lập nhà nước xã hội chủ nghĩa như là nhà nước “vô luật pháp” với nhà nước tư sản “pháp quyền”. Nó được sử dụng để bảo vệ chủ nghĩa thực dân mới. Lí thuyết về nhà nước và pháp luật. Chủ biên S. S. Alekseev, M., 1985, trang 457.
[9]S. Alekseev. Nhà nước pháp quyền – số phận của chủ nghĩa xã hội. М., 1988, trang 72. 
[10]Tôi đùa. Trích dẫn này lấy từ cuốn sách giáo khoa: Lí thuyết về nhà nước và pháp luật thời chế độ khủng bố của Stalin (М., 1949, trang 44), trong đó đã “vạch mặt” các nhà khoa học phương Tây, các nhà khoa học “tư sản”, “tay sai của chủ nghĩa đế quốc”. Tôi chỉ chuyển địa chỉ thành các nhà khoa học Liên Xô mà thôi.
[11]V. Kudriavsev, Các xu hướng tội phạm và cuộc đấu tranh với nó ở Liên Xô. М., 1988. trang 8 
[12]Tội phạm học. М., 1988, trang 63-64  
[13]Tư pháp Liên Xô, 1989, Số З. trang 9
[14]S. Alekseev, Lí thuyết chung về pháp luật, Т. 1., М., 1981, trang 104
[15]MLVNNPL, tập 1, M., trang 348
[16]А. Vyshinsky. Marx và vấn đề nhà nước và pháp luật. М., 1938, trang 36-37 
[17]I. Sabo (Hungaria) phê phán khoa luật pháp Liên xô là qui phạm hóa (I. Szabo. The Notion of Law. Acta juridica, tập 18 (3-4) 1976, trang 263-272. Không có cơ sở để đưa ra phê phán như thế vì nội dung của các qui phạm được xác định bởi giai cấp thống trị chứ không phải bởi tiêu chuẩn tối thượng.
[18]MLVNNPL, tập 4, M., trang 348

Phần II Cơ chế cai trị của chế độ phong kiến

Chương 3. Thể chế xã hội của “đất nước xã hội chủ nghĩa”

Sở hữu là vấn đề quan trọng nhất trong lí thuyết của Marx. Trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, K. Marx và F. Engels tuyên bố: “Những người cộng sản có thể tuyên bố học thuyết của mình bằng một câu thôi: bãi bỏ tư hữu”.

Các luật gia Xô viết nhận thức vấn đề sở hữu như thế nào? Họ luôn bắt đầu bằng việc tẩy chay “các lí thuyết tư sản bịp bợm”: “Các quan điểm tư sản về sở hữu”, ông O. Ioffe, một luật gia Xô viết (hiện nay là luật gia Mĩ) nổi tiếng viết: “đã xuyên tạc thực tế và mâu thuẫn với các quan hệ thực tế trong xã hội tư bản… Chúng chỉ nhằm một mục đích duy nhất là “lừa mị” người lao động, làm cho họ không nhận thức được quyền lợi giai cấp và cuộc đấu tranh giai cấp, tuyên truyền “tư tưởng” hòa bình giữa các giai cấp” và “sự đồng thuận xã hội! [1] ” Cứ như là “người lao động” ở đó suốt ngày chỉ làm mỗi một việc là nghiên cứu các quan điểm tư sản về sở hữu vậy!

Vậy thì các luật gia Xô viết giảng giải cho người lao động các quan hệ sở hữu tồn tại trên thực tế như thế nào? Họ giảng như sau: “Mâu thuẫn căn bản với quyền sở hữu tư nhân … là quyền sở hữu được xác lập trong chế độ xã hội chủ nghĩa [2] ”. “Mâu thuẫn căn bản” thì tốt rồi, nhưng bản chất của nó là gì? Tài sản quốc gia “trong nhà nước Liên Xô là thuộc về tập thể quần chúng đông đảo nhất, thuộc về toàn thể nhân dân Xô viết [3] ”. Tài sản quốc gia “là biểu hiện sự thống nhất giữa sự lãnh đạo chính trị và lãnh đạo kinh tế đối với xã hội của nhà nước Liên Xô, nó vừa là tổ chức chính trị vừa thực hiện các chức năng kinh tế”. Ngoài những câu nói mang tính mị dân ra, bạn đọc có thấy tư liệu sản xuất thuộc về một người cụ thể nào không?

Xin chuyển sang một hình thức sở hữu “xã hội chủ nghĩa” khác, đấy là nông trang – hợp tác xã: “Đây là tài sản của một nhóm người: nó thuộc về nông trang hay tập thể lao động cụ thể nào đó… những người chủ sở hữu có toàn quyền định đoạt đối với tài sản thuộc sở hữu của nông trang hay các tổ chức tập thể và liên hiệp các tập thể đó [4] ”. Thật là một sự dối trá vô liêm sỉ! Dối trá một cách hiển nhiên vì không một ai trong đất nước chúng ta, kể cả các nhà khoa học và các luật sư, lại không biết rằng các nông trang viên chẳng có quyền định đoạt bất cứ việc gì, từ bầu chủ tịch nông trang, cho đến tài khoản trong ngân hàng cũng như máy móc và gia súc, gia cầm… Hãy xem ông chủ tịch nông trang tên là Vagin, ủy viên Ban chấp hành trung ương nói: “Suốt hàng chục năm trời, chúng ta đã làm mọi cách để người nông dân không còn là người chủ nông trang nữa… Và trong đa số trường hợp thì đã có kết quả… Tại sao sự quan tâm tới tài sản của nông trang lại giảm, chưa nói là đã mất hoàn toàn? Tài sản đó không phải là của họ, thực ra nó đã trở thành của nhà nước. Các hành động tự tiện đối với nông trang diễn ra ngay trước mắt người lao động. Thế mà chúng ta lại luôn luôn nói đến dân chủ ở cơ sở, dân chủ trong các nông trang”… Chuyện này được viết trên tờ Sự thật ngày 26 tháng 1 năm 1987.

Báo chí thường nói đến chuyện mùa màng bị bỏ không được thu hoạch, dưa hấu thì bị máy kéo nghiến nát, cà chua chín thì bị cày tung lên, như vậy là các nông trang viên cố tình phá hoại tài sản của chính mình! Thật là điên rồ!!! Nhưng ở nước ta người ta không nghĩ như thế, người ta đã quen với chuyện ấy rồi! Nhưng chả lẽ các nông trang viên không thể họp nhau lại và quyết định thu hoạch tất cả những thứ sắp thối rữa ấy và chia nhau, ép thành nước quả hay ngâm muối, hoặc đưa vào nhà trẻ được ư? Ai cho phép làm như thế? Chẳng cần phép tắc gì thì đã sao? Khi đó người ta sẽ khởi tố vụ án hình sự… đấy là một vụ ăn cắp tài sản xã hội chủ nghĩa! Tự mình ăn cắp tài sản của mình! Vagin nói đúng, nông trang viên không có một tài sản nào cả. Cần phải nói thêm rằng quân chiếm đóng Đức không giải tán các nông trang và nông trường, họ không đụng chạm đến các tổ chức này. Vì sao lại không? Vì họ cũng là những người xã hội chủ nghĩa, chỉ thêm mỗi chữ “dân tộc” mà thôi…

Sở hữu nhà nước là gì? “Không một kẻ hữu sinh hữu tử nào biết đấy là cái gì”, một người tham gia “bàn tròn” đã nói như thế (Báo Văn học, ngày 3 tháng 6 năm 1987). Các nhà khoa học dĩ nhiên là cũng không biết, nhưng họ không thèm tìm hiểu gì hết. Trong rất nhiều bài phát biểu, Gorbachev đã cố gắng thuyết phục công nhân và nông dân rằng họ là chủ. Nhưng việc tự nhủ rằng “ta đẹp, ta dễ thương” như các nhà tâm lí học vẫn khuyên những người thiếu tự tin với việc đẩy các thợ mỏ vào hầm lò với những điều kiện lao động không thể tưởng tượng nổi là hai việc hoàn toàn khác nhau. Đấy là lí do vì sao tất cả các cố gắng nhằm nâng cao sự quan tâm của người lao động đối với kết qủa công việc, thí dụ như phong trào thi đua hay “khoán sản”… đều thất bại.

Chủ nghĩa Marx dạy rằng quyền lực chính trị nằm trong tay những người nắm giữ tư liệu sản xuất. Tư liệu sản xuất thuộc về nhà nước nghĩa là thế nào? Nhà nước bao gồm các cơ quan quyền lực, các tổng cục, tòa án, bộ quốc phòng… Phương tiện sản xuất có nằm trong tay quân đội hay KGB không? Rõ ràng là không. Hay nó nằm trong tay cơ quan quyền lực cao nhất tức là Đại hội đại biểu nhân dân? Nhưng đây chỉ là một nhóm người, tụ họp với nhau trong một thời gian, chỉ có tài sản riêng của từng người là thuộc về họ mà thôi. Hay nó là của Hội đồng bộ trưởng? Nhưng đây cũng là một cơ quan chỉ họp một năm bốn lần…

Dù có xem xét các cơ quan quyền lực như thế nào đi nữa, chúng ta cũng không thể nào tìm được người chủ thực sự của các nhà máy, các phương tiện vận tải, hầm mỏ, đất đai. Như vậy là tài sản nhà nước là tài sản vô chủ. Có thể rút ra kết luận như thế nếu ta phải chứng kiến cảnh lãng phí, thí dụ trong khi lương thực thực phẩm thường xuyên thiếu hụt thì một nửa rau quả, thịt và ngũ cốc bị để cho thối rữa ngoài đồng… Máy móc, thiết bị nhập khẩu bằng ngoại tệ đi vay của các nhà tư bản bị để cho han gỉ ngoài sân…

Nhưng vô chủ thì có thể lấy! Thí dụ trong các xí nghiệp giày của chúng ta, sản phẩm hỏng chiếm đến 90%. Đốt hết là xong. Nhưng nếu người công nhân (ông chủ) cầm về một đôi giày phải đem đi đốt đó thì anh ta sẽ bị kỉ luật (mức độ phụ thuộc vào giá trị đôi giày, từ kỉ luật hành chính cho đến khởi tố vụ án hình sự).

Không thể tìm được người chủ thực sự: không có một người như thế trên thực tế! Chỉ có thể tìm được câu trả lời nếu chúng ta từ bỏ lối ngụy biện của Marx và Engels: “Loại bỏ tư hữu tức là chủ nghĩa cộng sản” (hay chủ nghĩa xã hội thì cũng thế) và trở về với đế chế của người Inca, người Maia và châu Âu thời phong kiến.

Trong đế chế của người Inca, tài sản chủ yếu, tức là đất đai, nằm trong tay ai? Chúng ta không thể tìm được người chủ cụ thể. Về danh nghĩa đất đai thuộc về thủ lĩnh, trên thực tế nó là của mọi người hoặc chẳng của ai. Người nông dân giao nộp một phần sản phẩm cho trưởng xóm, người này giữ lại một phần, còn lại thì nộp lên xã v.v… Vì vậy mà ông J. Mariátegui, người sáng lập Đảng cộng sản Peru, mới gọi đế chế Inca là cộng sản chủ nghĩa.   

Đất đai thời trung cổ ở châu Âu nằm trong tay ai? Lúc đó chưa có khái niệm sở hữu nói chung, hay như đôi khi người ta vẫn nói, sở hữu “bị phân tán [5] ”: nhà vua là chủ nhân trên danh nghĩa tất cả đất đai, nhưng ông ta chỉ làm chủ thực sự thái ấp của mình, phần đất đai còn lại được giao cho các chư hầu với hai tên gọi là Feod và Benefisi. “Feod không nhất thiết phải là một khu đất mà nhà vua giao cho chư hầu để thưởng công, đấy có thể là động sản hay một khoản có mang lại thu nhập. Thí dụ, nhà vua có thể cho chư hầu quyền thu tô [6] ”. Feod cũng có thể là một chức vụ (thí dụ quan tòa), chức vụ này có thể đem bán hoặc được thừa kế. Những chư hầu kia lại đem phần đất của mình chia cho các chư hầu bên dưới và trở thành lãnh chúa của những người này. Và cứ thế xuống đến bên dưới, có khá nhiều tầng nấc.

Dưới chế độ “phân tán” về sở hữu như thế, mỗi một lãnh chúa được “giữ” phần lãnh thổ của mình với điều kiện là ông ta phải trung thành với nhà vua và nộp một phần thu nhập mà các nông dân và chư hầu bên dưới đã cống nạp cho ông ta.

Nông dân (hay công xã) không phải là người chủ ruộng đất, anh ta không được quyền bán hay cho phần đất đang canh tác, nhưng địa chủ cũng không có quyền trục xuất anh ta (mặc dù, thí dụ ở Anh đã xảy ra tình trạng này, khi “cừu ăn thịt người”), vì người nông dân cũng coi ruộng đất ấy là “của mình”.

Mặc dù cho đến năm 1861, ở Nga đã có một tầng lớp đông đảo những người người nông dân tự do có sở hữu ruộng đất, nhưng chế độ cầm quyền lúc đó, theo đúng học thuyết của Marx, phải được coi là chế độ chiếm nô [7] . Lực lượng sản xuất chủ yếu, tức là nông dân, là tài sản của địa chủ, nông dân bị đem ra bán buôn và bán lẻ, cùng với đất đai hoặc đem đi nơi khác, chẳng khác gì người ta mua bán gia súc.

Cùng với việc bãi bỏ chế độ nông nô vào năm 1861, tình hình ở Nga đã thay đổi một cách cơ bản. Thế nhưng các nhà xã hội học Liên Xô lại khẳng định: “Cuộc cải cách do chính phủ quí tộc-địa chủ và chủ nô tiến hành đã để lại tàn dư của chế độ phong kiến-chiếm nô trong một thời gian dài, đặc điểm chủ yếu của nó là giữ nguyên chế độ chiếm hữu ruộng đất của địa chủ [8] ”

Khoa học Xô viết hiện đại, dựa trên các tác phẩm của Lenin, định nghĩa chế độ phong kiến như thế nào? Trước hết, đấy là “Sở hữu phong kiến, là sự độc quyền về sở hữu của giai cấp thống trị (phong kiến) đối với tư liệu sản xuất chủ yếu là đất đai, nghĩa là sở hữu của các tầng lớp phong kiến nói chung hay quyền sở hữu tối thượng của nhà nước; trong đó quyền sở hữu đất đai liên quan mật thiết với sự thống trị đối với nông dân, lực lượng sản xuất trực tiếp. Thứ hai, “Người nông dân có thể tự do sản xuất trên mảnh ruộng mà ông chủ về danh nghĩa đã chia cho anh ta. Từ đó địa chủ có quyền chiếm đoạt giá trị thặng dư của nông dân, nghĩa là quyền thu tô [9] , dưới dạng lao dịch hoặc thu bằng hiện vật hay bằng tiền [10] ”.

Lenin chỉ rõ rằng cưỡng bức lao động phi kinh tế là đặc điểm quan trọng nhất của chế độ phong kiến. Sau khi bãi bỏ chế độ chiếm nô thì việc cưỡng bức được thực hiện như thế nào? Trước hết là bằng các biện pháp hành chính-cảnh sát: đấy là hệ thống căn cước, gắn chặt từng thành viên của giai tầng (nông dân, thị dân) vào một địa phương nhất định, họ không được tự ý đi khỏi địa phương, không được tự do đi lại, không được tự do lựa chọn chỗ ở. Trong làng thì có chế độ công xã bao cấp hoàn toàn, mỗi người phải chịu trách nhiệm cho tất cả và tất cả chịu trách nhiệm cho từng người. Địa chủ có quyền giữ gìn an ninh trật tự, tòa án khu vực có quyền trừng phạt về thể xác. Mặc dù trong các thành phố quan hệ tư bản đã hình thành nhưng hệ thống căn cước, đặc quyền đặc lợi và những hạn chế tức là các tàn dư của chế độ phong kiến vẫn hiện diện. Đấy là lí do đưa đến cuộc cách mạng năm 1905, một số hạn chế sau đó đã bị bãi bỏ, nhưng những đặc trưng cơ bản của các quan hệ kinh tế, như chúng ta sẽ thấy, vẫn còn cho đến tận ngày nay.

Cách mạng “xã hội chủ nghĩa” tháng Mười hứa hẹn ruộng đất cho nông dân, nhà máy cho công nhân, hòa bình cho nhân loại. Nhưng đất đai và nhà máy đã ngay lập tức trở thành tài sản độc quyền của nhà nước. Tất cả các tính chất cơ bản của chế độ phong kiến vẫn được giữ nguyên, không có một chút thay đổi nào. Chế độ lao dịch và nộp tô cố định được “chính sách cộng sản thời chiến” thay bằng trưng thu lương thực, một sự cướp bóc trắng trợn, người ta tịch thu không chỉ phần lương thực thừa mà lấy hết. Sản xuất trở thành vô nghĩa, thu hoạch giảm đi trông thấy. Đói. Những người Bolshevik đổ cho là tại phá hoại, hạn hán, chiến tranh và tăng cường đàn áp nông dân hơn nữa, thế là xảy ra các cuộc bạo loạn và những vụ đàn áp khốc liệt chưa từng có. Công nghiệp cũng suy sụp vì nó được những người không có chuyên môn và không quan tâm đến kết quả lãnh đạo. Đến lượt công nhân bãi công và nổi loạn.

Sau cuộc khởi nghĩa ở Kronstadt, một cuộc khởi nghĩa bị đàn áp bởi một lực lượng quân sự đông gấp mười lần, trong đó có cả các đại biểu đại hội X của Đảng “cộng sản”, Lenin, một nhà chính trị thông minh và khôn léo đã hiểu rõ sự cáo chung không thể nào tránh được của “chủ nghĩa cộng sản thời chiến” và tuyên bố chuyển sang “chính sách kinh tế mới” (NEP), có nghĩa là cho phép áp dụng chủ nghĩa tư bản ở thành phố (tư bản nhà nước) và đặc biệt là ở nông thôn và trong lĩnh vực thương mại. Ngay sau đó, trong khoảng ba bốn năm, tình hình đất nước đã thay đổi hẳn. Nhưng đồng thời cũng xuất hiện một tầng lớp dân cư độc lập, điều này không phù hợp với bản chất của chính quyền toàn trị và chế độ phong kiến.

Chính quyền lại thấy cần phải nô dịch người lao động, nhưng phải thực hiện việc đó dưới một hình thức mới, hình thức “xã hội chủ nghĩa”. Bây giờ người ta mới rõ rằng Stalin đã thực hiện nhiều tư tưởng của Trotsky, trong đó có tư tưởng lao động khổ sai dưới dạng các “quân đoàn sản xuất” (làm chúng ta nhớ đến “mặt trận lao động” ở Đức và nước Campuchia [11] ). Tại đại hội III Công đoàn toàn Nga, Trotsky nói: “Có đúng là lao động khổ sai luôn luôn có năng suất thấp hay không? Câu trả lời của tôi: đấy là thành kiến tầm thường và đáng thương hại của chủ nghĩa tự do”. Phát triển thêm ý này, tại Đại hội IX Đảng Cộng sản Liên Xô, ông ta nói rằng mỗi người phải tự coi mình là người lính của đội quân lao động, người trốn tránh lao động bị coi là đào ngũ với tất cả những hậu quả của nó.

Sau giai đoạn lùi tạm thời vì sợ bị mất quyền lực, Đảng bắt đầu đưa ra chính sách “Bước ngoặt vĩ đại”, tức là kế hoạch công nghiệp hóa đất nước trên cơ sở cướp bóc tầng lớp nông dân. Để làm việc đó cần phải thủ tiêu một tầng lớp đã trở nên tương đối độc lập, đấy là giai cấp nông dân. Việc này được thực hiện dưới khẩu hiệu “hợp tác hóa toàn diện và tiêu diệt giai cấp địa chủ”. Mặc dù trên lời nói thì đấy là tiêu diệt về mặt kinh tế tầng lớp địa chủ, nhưng trên thực tế lại là việc tiêu diệt một cách có kế hoạch (chính thế! người ta đưa ra cả chỉ tiêu cho từng địa phương) về mặt thể xác tầng lớp trung lưu (và không chỉ trung lưu), những người đã trót tin vào khẩu hiệu của Bukharin: “Hãy làm giầu đi!”. Không có sự phân chia rõ ràng giữa người giầu và người nghèo, các “lãnh tụ” địa phương thường lợi dụng việc này để báo ân trả oán bằng cách đưa những người họ ghét vào tầng lớp “địa chủ” hoặc “tay sai địa chủ” là xong. Tài sản của địa chủ bị tịch thu và đem chia cho người “nghèo”, cũng là một cách khuyến khích người ta tố cáo “địa chủ”. Tất cả những chuyện đó được mô tả, được thu thập trong bộ hồ sơ lưu trữ của tỉnh ủy tỉnhSmolensk, được viết rất cụ thể trong cuốn sách với nhan đề: Mùa tang tóccủa Robert Conquest. 

Để tránh bị đàn áp và nạn đói, người ta phải chạy từ nông thôn ra thành thị. Nạn đói vì thế lại càng dữ dội hơn, hệ thống tem phiếu được đem ra áp dụng. Trong bốn năm công nghiệp hóa, dân số thành phố tăng từ 28 lên 40 triệu người. Để ngăn chặn việc chạy ra thành phố và buộc người nông dân vào ruộng đất, hệ thống căn cước được đem ra áp dụng. Nếu năm 1930 trong Bách khoa toàn thư nhỏ của Liên Xô còn viết rằng căn cước là “phương tiện chủ yếu của cảnh sát và chính sách áp bức trong chế độ gọi là nhà nước cảnh sát”, thì trong các năm 1931-1932 tất cả dân thành thị đều được cấp căn cước. Cũng giống như thời nô lệ và giai đoạn hậu cải cách, nông dân không được cấp căn cước, nhưng họ không thể sống trong thành phố nếu không có căn cước. Tình trạng bất bình đẳng công khai giữa các giai tầng như thế kéo dài cho đến khi Nikita Khrushchev lên ngôi, ông ta đã “làm phúc” cấp cho nông dân thẻ căn cước, nhưng điều đó cũng không thay đổi được vị thế của họ. Stalin đã bắt chước hệ thống căn cước thời Sa hoàng mà không biết rằng có căn cước hay không có căn cước không phải là vấn đề khi cần “đăng kí” tạm trú. Hệ thống căn cước đã biến người công nhân thành một loại “nông nô”, buộc anh ta vào một chỗ, không khác gì buộc người nông dân vào làng quê. Trong giấy căn cước có những khoản như đã đi tù bao nhiêu năm, xuất thân nông dân ..v.v.. Mặc dù có một người đã viết rằng “nông dân không có căn cước, trên thực tế họ bị buộc chặt vào đất đai, trở thành nô lệ của hợp tác xã hay nông trang” (Ngọn lửa nhỏ, năm 1989, số 17), nhưng khi có căn cước địa vị của họ cũng hoàn toàn không thay đổi. Còn công nhân và viên chức cũng chẳng khác gì những người nông nô: bị cột chặt vào chỗ làm, không có quyền tự do đi lại, họ buộc phải chấp nhận các điều kiện tại chỗ, dù nó có xấu thế nào cũng mặc. Để người lao động chấp nhận tất cả những chuyện đó cần phải có một vụ “Đàn áp lớn”. Bắn giết và trại cải tạo là thành phần thiết yếu của “trật tự mới” chứ không phải là ước muốn trái khóay của Stalin mà nhiều học giả mô tả như một kẻ bị bệnh tâm thần, trật tự mới về hình thức chính là sự biện hộ cho vụ đàn áp.

Bây giờ ta sẽ cùng xem xét những đặc trưng của chủ nghĩa phong kiến trong điều kiện của nhà nước Xô viết hiện đại. Đặc trưng thứ nhất: sở hữu độc quyền của nhà nước đối với các phương tiện sản xuất, kể cả đất đai. Đất đai và công xưởng không phải là sở hữu của những người làm việc tại đó. Đấy là điều không phải bàn cãi. Tất cả báo chí và các bài diễn văn của các lãnh tụ, kể cả Gorbachev, đều chứa đầy những lời kêu gọi đưa công nhân và nông dân thành người làm chủ, chỉ điều đó đã chứng tỏ việc công nhận sự ghẻ lạnh của người lao động đối với các phương tiện sản xuất rồi. Các nhà thông thái của Ban chấp hành trung ương đã nghĩ ra những hình thức pháp lí mới làm cho công nông có ảo tưởng rằng họ có quyền sở hữu như “thuê” và “khoán”. Thế là theo luật, nông trang viên có thể thuê đất không phải là sở hữu của nông trang, cũng như thuê tài sản như gia súc và máy móc là tài sản của nông trang cũng có nghĩa là tài sản của chính nông trang viên đó. Hóa ra anh ta thuê tài sản của chính mình. Trên thực tế anh ta là nông nô, nhưng lao dịch được thay bằng địa tô.

Đặc trưng thứ hai của chế độ phong kiến là việc chia cho người nông dân mảnh ruộng, mảnh vườn riêng (ở Việt Nam gọi là đất phần trăm – ND). Địa chủ cũng đã từng trả công cho người nông dân bằng những mảnh đất như thế và trong nhiều năm nó chính là phương tiện sống duy nhất của “chế độ hợp tác xã”. Sự khác nhau cơ bản với thời kì trước cách mạng là lao dịch và địa tô đã tăng lên khủng khiếp, còn mảnh ruộng riêng thì lại giảm đi đáng kể. Người nông nô hay sau này là người nông dân tự do có phần ruộng riêng đủ lớn để làm ra số lúa mì đủ làm thức ăn chủ yếu của người Nga. Mảnh ruộng riêng ngày nay chỉ đủ để trồng khoai tây và rau mà thôi. Chỉ một ít gia đình có khả năng nuôi bò (một con), mà đôi khi còn cần nông trang giúp đỡ nữa. Người nông dân Trung Á đã rơi vào hoàn cảnh gần với nô lệ: tất cả ruộng đất đều trồng bông hoặc thuốc lá, ruộng riêng bị thu hồi hết, đồn điền nằm sát nhà riêng của họ. Một cây ăn quả cũng không có đất để trồng. Nông dân bị cai đánh đập, bị nhốt vào nhà giam, không được trả công v.v… Kêu trời trời chẳng thấu.

Tuy về mặt pháp lí là người tự do, nhưng người nông dân hoàn toàn phụ thuộc vào chủ tịch nông trường hay nông trang (hiện nay nông trang và nông trường gần như là một). Chưa nói những thời kì mà chỉ vì không hoàn thành số ngày công tối thiểu, nông dân có thể bị bỏ tù, ban lãnh đạo có thể viện dẫn đủ mọi lí do để cắt bớt mảnh ruộng đã chia cho nông dân, nghĩa là tước của anh ta phương tiện kiếm sống; người nông dân không có phương tiện vận tải, không có rừng, không có nơi cắt cỏ và nhiều thứ khác cần thiết cho cuộc sống của anh ta và gia đình anh ta; tất cả đều nằm trong tay địa chủ, gọi là giám đốc hay chủ tịch thì cũng thế mà thôi[12] .

Ở thành thị tính chất phong kiến không thể hiện rõ như thế. Trong từng xí nghiệp quan hệ giữa giám đốc và công nhân, như Lenin đã chỉ rõ, mang đặc điểm tư bản nhà nước. Nhưng quan hệ trong công nghiệp không thể gọi là tư bản chủ nghĩa được vì không có thị trường sức lao động, không có thị trường nói chung và không có cạnh tranh.

Về mặt lí thuyết, người công nhân được tự do đi lại trong khu vực mà anh ta đã đăng kí hộ khẩu và thẻ căn cước và có thể chuyển từ xí nghiệp này sang xí nghiệp khác, nhưng trong điều kiện mà nhà nước độc quyền quyết định về tiền lương và điều kiện lao động thì việc di chuyển không phải lúc nào cũng có ý nghĩa. Nhưng trên thực tế lại tồn tại một loạt các biện pháp, chúng ta sẽ nói tới sau, nhằm cản trở sự di chuyển (thuật ngữ Xô viết gọi là “sự luân chuyển” cán bộ, một việc thường bị ngăn chặn).

Điều 16 hiến pháp Liên Xô viết: “Kinh tế Liên Xô là một tổ hợp kinh tế quốc dân thống nhất, bao gồm tất cả các khâu từ sản xuất, phân phối và trao đổi trên toàn lãnh thổ quốc gia”. Nhưng điều đó chẳng ăn nhập gì với thực tế cả. Sự tương đồng đến kinh ngạc giữa hệ thống kinh tế “xã hội chủ nghĩa” và thời trung cổ thể hiện ở chỗ cả hai đều không có thị trường thống nhất. Hàng năm, đặc biệt là giai đoạn thu hoạch, trên báo chí lại xuất hiện các tin tức về việc cảnh sát ngăn chặn việc vận chuyển ra ngoài khu vực số lương thực, thực phẩm được sản xuất hoặc mua bán hợp pháp ra khỏi khu vực [13] . Hơn nữa, người ta còn tịch thu toàn bộ số tiền mà tổ chức đã bán số hàng hóa được đưa từ nơi khác tới và chỉ cấp cho họ biên lai để số tiền này không được đưa ra khỏi khu vực. Giai đoạn “cải tổ” không tạo ra bất kì thay đổi nào trong lĩnh vực này, hơn thế nữa, nhiều nước cộng hòa, trong đó có Cộng hòa xã hội chủ nghĩa liên bang Nga còn đòi phải có tiền tệ riêng. Mục đích là để ngăn chặn việc mua hàng của các nước cộng hòa khác.

Trong giai đoạn “mọi người đều muốn độc lập” và “chuyển sang kinh tế thị trường” trạm hải quan được thiết lập không chỉ giữa các nước cộng hòa mà ngay cả trên của ngõ của từng thành phố. 

Trước khi kết thúc việc mô tả hệ thống kinh tế xã hội, chúng ta, theo đúng truyền thống mác-xít, phải xem xét vị trí của các giai cấp và các quan hệ của họ với nhau, xem xét quan hệ sản xuất vốn là hạ tầng cơ sở của xã hội, quyết định tất cả các hình thức của nhận thức xã hội, trong đó có luật pháp [14] .

Như vậy là phương tiện sản xuất trong xã hội “xã hội chủ nghĩa” mà thực chất là chế độ phong kiến nằm trong tay toàn bộ giai cấp với một hệ thống tầng nấc vô cùng phức tạp. Trong chế độ phong kiến, với hình thức sở hữu phân tán, mỗi lãnh chúa chỉ “nắm” phần thái ấp của mình, ông ta có toàn quyền đối với tài sản và dân chúng dưới quyền, nhưng lại phụ thuộc vào vương hầu bên dưới. Hệ thống phong kiến là một hệ thống tất cả phụ thuộc vào nhau, vì hoàng đế (Tổng bí thư) cũng lệ thuộc vào các chư hầu của mình. Họ thống nhất với nhau trong cố gắng bóc lột một cách tối đa người lao động, những người bị ép buộc, bằng những biện pháp cả kinh tế lẫn phi kinh tế, phải sản xuất vì với phương thức sản xuất như thế không ai còn quan tâm đến kết quả công việc nữa. Số lượng và chất lượng lao động thấp hơn so với phương thức tư bản chủ nghĩa. Đấy là lí do vì sao các chế độ bạo ngược (“cộng sản”, theo cách nói của Mariátegui) của người Inca, Maia, các nhà nước trung cổ, chiếm nô của Nga, Liên Xô – “nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới”, Trung Quốc,Campuchia, Rumania ..v.v.. lại giống nhau đến như thế. Không có nước “xã hội chủ nghĩa” nào có năng suất lao động và mức sống của người dân cao hơn các nước tư bản chủ nghĩa phát triển. Không thể giải thích được điều đó từ quan điểm mác-xít, nếu coi đấy là các nước xã hội chủ nghĩa, nhưng lại có thể giải thích một cách dễ dàng nếu cho rằng “những người cộng sản” đã quay ngược bánh xe lịch sử để trở về chế độ phong kiến. 

Các lãnh chúa địa phương có ảnh hưởng lớn nhất, dĩ nhiên là một cách tương đối bởi vì các bá tước cấp bộ lại có cấp hàm cao hơn “anh hai” các địa phương. Mỗi vùng lãnh thổ Liên Xô đều nằm dưới quyền lãnh đạo của bí thư Đảng ủy khu vực (huyện, tỉnh, nước cộng hòa ..v.v..), những người từ lâu đã được gọi một cách bán chính thức là “anh hai” (trước đây, họ, kể cả Stalin, đều được gọi là một cách không chính thức là “ông chủ [15]”). Về mặt hình thức thì “anh hai” khu vực là do các ủy viên ban chấp hành Đảng ủy khu vực đó bầu nhưng trên thực tế ông ta nhận được lãnh thổ từ tay quan trên (“anh hai” cấp trên) và có trách nhiệm “trung thành” phục vụ[16] . Mỗi “anh hai” lại đưa người của mình vào các vị trí then chốt y như hệ thống thời Sa hoàng [17] . Các “thái ấp” khác: bộ, tổng cục, xí nghiệp, vụ, viện, “công đoàn” và các “tổ chức xã hội” khác cũng hoạt động theo sơ đồ tương tự.

Lãnh chúa có trách nhiệm ủng hộ vương tôn của mình trong cuộc đấu tranh chống lại kẻ thù: giữa họ với nhau thường xuyên xảy những cuộc “chiến tranh” ầm ĩ, tuy bên ngoài ít người thấy, không chỉ để giành vị trí cao hơn mà còn để giữ các “thái ấp” đã chiếm được. Trong điều kiện chế độ “xã hội chủ nghĩa”, những âm mưu chống lại chính hoàng đế như vụ đảo chính bất thành của Molotov, Malenkov và Shepilov chống Khrushchev và vụ đảo chính thành công của Brezhnev, ít khi xảy ra vì rất nguy hiểm, chúng thường bắt đầu bằng các đòn tấn công mang tính thăm dò vào “tay chân thân tín” (như trong triều đại của các vương công, chúng ta thường nói “hắn là người của Rashidov”, “hắn là người của Grishin” ..v..v..)

Cuộc khủng hoảng kinh tế và chính trị dười thời Brezhnev đã bắt đầu đe dọa nghiêm trọng đến vị thế của giai cấp cầm quyền. KGB đã nhìn thấy rõ vấn đề này hơn ai hết [18] , người đứng đầu KGB bao giờ cũng là mối đe dọa lớn nhất đối với Tổng bí thư, đấy là lí do vì sao một kẻ gian hùng như Stalin lại thường xuyên thay người đứng đầu KGB đến như thế. KGB bắt đầu tấn công “người của Brezhnev” trước. Giám đốc rạp xiếc quốc gia là Kolevatov và một diễn viên xiếc, hỗn danh là “Tzigane” (tôi không nhớ tên người này, anh ta đã “chết” trong tù), đều là bạn thân của Galina Brezhneva, bị bắt. Vụ bắt giữ nhất định phải được Andropov, lúc đó là chủ tịch KGB cho phép. Thật không hiểu nổi vì sao ông ta lại có thể vô can, nhưng người phó của ông ta là Svigun đã phải “tự sát”.

Việc điều tra vụ tham nhũng ở Uzbekistan bắt đầu rất lâu trước khi có “cải tổ”, đây là đòn giáng vào Rashidov, một trong những đồ đệ trung thành của Brezhnev. Lúc đó “người của Rashidov” là Ađưlov, anh hùng lao động xã hội chủ nghĩa, đại biểu Đại hội XXVI, đứng đầu một tổ hợp nông nghiệp, một lãnh chúa có cả nhà tù ngầm để nhốt những kẻ cứng đầu, mặc dù cảnh sát quốc gia vẫn đứng gác trước tất cả các đường ra lối vào “thái ấp” của hắn. Đôi khi hắn còn dùng gậy đánh đập nô lệ. Những người phản đối đã phải hi sinh cả tự do và tính mạng: có người biến mất không để lại dấu vết gì, có cả những vụ án mạng bí ẩn… Khủng bố được thực hiện với sự “trợ giúp” của các cơ quan bảo vệ pháp luật: dựng lên các vụ án hình sự với những nhân chứng giả không phải là vấn đề khó đối với hắn… Hắn còn có cả những chỗ ăn chơi dành riêng cho mình và cho khách: nhà tắm hơi, nàng hầu, đủ cả. Sau khi hắn ta bị bắt, đài báo đã viết, đã nói rất nhiều về chuyện này, nhưng nay thì không thấy đả động đến nữa. Trong thời đại “khôi phục tính pháp chế”, hắn ta phải ngồi tù mấy năm mà vẫn chưa được đưa ra xét xử…

Bây giờ xin được đi ra ngoài đề một chút.

Như tôi đã nói từ đầu, tôi đang viết một công trình khoa học, dựa trên các sự kiện đã được công bố. Nhưng ở đây xin được chia sẻ với độc giả quan sát cá nhân mà tôi không có cách nào khẳng định rằng nó đúng hay sai. Trong ngày Brezhnev chết (trùng với “Ngày công an”, đó là ngày phát huân huy chương, rượu vang chảy thành sông) tôi vô tình có mặt ở Bộ nội vụ. Tôi thấy người ta kéo ngoài hành lang những thùng rượu Cô-nhắc và rượu vang, những thùng kẹo chocolate và hoa, trong các phòng làm việc không khí rất vui vẻ… Bất thình lình một lời đồn truyền đi khắp Bộ: cô điện báo viên nghe thấy thông tin là Brezhnev bị bắn chết trong khi đi săn! Nhưng một lúc sau thì lời đồn bị bác bỏ, người ta thông báo rằng Brezhnev đã chết. Không khí nhộn nhịp trước lễ liền biến thành sự buồn đau trước một đám tang…

Ai nghĩ thế nào thì tùy, nhưng cô điện báo viên của Bộ nội vụ không thể bịa ra và loan tin như thế được. Cô ta sẽ phải trả một cái giá cực đắt. Sau này những lời đồn đại như thế vẫn được người ta rỉ tai nhau. Sức khỏe của Brezhnev vốn không được tốt, ông ta có thể chết mà không cần ai “giúp đỡ”, nhưng không nghi ngờ gì rằng đã đến lúc phải loại bỏ ông ta và chỉ có “người của Andropov” làm được việc đó mà thôi. Điều đặc biệt là chính Andropov đã ngồi vào chiếc ngai trống. Còn về các kết luận y khoa thì chúng ta đã thấy nhiều và biết rằng các tài năng y học của chúng ta có thể kí bất cứ thứ gì.

Hết phần ngoài đề.

Trách nhiệm thứ hai của lãnh chúa là cung ứng về mặt vật chất cho vương tôn. Cái mà hiện nay người ta gọi là tham nhũng (trong tất cả các nước “xã hội chủ nghĩa” đều có các vụ tham nhũng ở cấp cao nhất bị phát hiện: Ceausescu, Zhivkov, Honecker..) thực ra chỉ là sự cống nạp bình thường dưới chế độ phong kiến mà trong điều kiện dối trá về tư tưởng người ta đã cố tình che dấu đi. Giáo sư M. Vaslensky đã nghiên cứu rất kĩ thu nhập ngầm của tầng lớp cán bộ (nomenclature), nhưng thực ra chẳng cần làm như thế, ai mà chả biết lương không phải là khoản thu nhập chủ yếu của họ, cống nạp của cấp dưới là chính.

Tài sản ăn cướp của nhân dân là nguồn lợi đầu tiên: cửa hàng, nhà ăn thì cân điêu, tính gian; xí nghiệp thì cho ra sản phẩm kém chất lượng và ăn cắp v.v… [19]

Có thể đặt câu hỏi: chuyện đó có thể xảy ra trong một lĩnh vực trong khi đạo đức cộng sản giữ thế thượng phong trong các lĩnh vực khác được không? Câu hỏi này dĩ nhiên là chỉ để nghe cho vui mà thôi.

Xin hỏi câu thứ hai: Trung ương có biết không? Không nói đến thư từ và khiếu kiện của người lao động: theo truyền thống, Ban chấp hành trung ương không trả lời các tố cáo loại đó, chúng được chuyển cho cấp dưới và trở lại chính người bị tố cáo. Nhưng KGB, lĩnh vực nào họ cũng có hàng ngàn người, cả chính thức lẫn không chính thức, họ có chỉ điểm trong từng hợp tác xã, từng cơ quan, xí nghiệp, từng khu nhà tập thể, chả lẽ cũng không biết? Nếu biết thì họ phải báo cáo cấp trên? Câu hỏi không cần trả lời.

Nếu Tregubov nhận “cống phẩm” của giám đốc các cửa hàng thì liệu Grishin, bí thư Moskva, ủy viên Bộ chính trị, có thể không hay biết gì được không? Tregubov có thể “ăn” một mình tất cả “cống phẩm” hay không?

Cả thế giới đều biết câu chuyện về viên kim cương do Aliev, Bí thư thứ nhất Azerbaizhan, tặng Brezhnev. Bộ sưu tập súng dĩ nhiên cũng không phải do ông ta bỏ tiền mua.

Tất cả các “thái ấp”, kể cả các trường đại học và Viện hàn lâm đều phải “cống nạp”. Không nước phương Tây nào có nhiều hiệu trưởng, trưởng khoa, giáo sư, phó giáo sư bị kết án vì tham nhũng và các tội lỗi khác như nước ta. Gersen đã từng gọi chế độ nhà nước ở Nga là sự tùy tiện bị nạn đút lót khống chế, nhưng ngày xưa các vị giáo sư không “ăn” của đút. Trong “chế độ xã hội chủ nghĩa” họ đã “ăn”. Thu nhập của hiệu trưởng không phải chỉ là tổng cộng những món đút lót khi tiếp nhận sinh viên và khi phát bằng tốt nghiệp; các mối “liên hệ” cũng có vai trò rất to lớn: hiệu trưởng tất nhiên là không lấy tiền đút lót của con “bí thư” khi nhập học, nhưng theo nguyên lí “anh giúp tôi thì tôi giúp anh”, ông ta sẽ được “bí thư ưu ái trong việc phân phối căn hộ, được đưa vào đoàn cán bộ đi công tác nước ngoài, được phong các danh hiệu cao quí ..v.v.. Không trước thì sau, đều là lợi ích vật chất cả. Nhưng đây là những hành động phi pháp. Hiệu trưởng không thể làm như thế nếu không có sự cộng tác của các nhân viên: ông ta không thể tự hỏi và cho con “bí thư” điểm cao được. Không phải vị giáo sư nào cũng đồng ý làm như thế. Cho nên mỗi người lãnh đạo đều có một nhóm những kẻ thân cận, đều có “người của mình” cả (bây giờ họ được gọi là “mafia”), ông ta sẽ thưởng cho họ bằng tiền mặt hoặc bằng chức danh, bằng cấp [20] . Dĩ nhiên là không thể che giấu hết được, những người còn tin theo lí tưởng hoặc đơn giản là ghen ăn ghét ở sẽ kiện cáo. Vì vậy tất cả các “mafia” đều phải có bộ máy an ninh, có cơ quan tình báo và phương tiện trấn áp. Trong các cơ quan nghiên cứu và các trường đại học, đuổi khỏi cơ quan được coi là vũ khí chủ yếu vì tìm được việc tương tự là rất khó (nhất là ở các tỉnh): những điều được ghi vào lí lịch sẽ theo đi khắp nơi và chẳng có ông hiệu trưởng nào lại thích có thêm “một chiến sĩ đấu tranh cho lẽ phải” ở cơ quan mình. “Các tổ chức khoa học thật không khác gì chỗ của bọn lục lâm thảo khấu: sau khi cướp bóc thì chúng cho đi” (Tin tức, ngày 24 tháng 3 năm 1990).

Chuyện đó xảy ra trong tất cả các cơ quan của Đảng và nhà nước, trong các lĩnh vực từ kinh tế đến khoa học và văn hóa [21] . Một bài báo trên tờ “Ngọn lửa nhỏ” mang tên: “Nhóm, BĂNG ĐẢNG, HỆ THỐNG”  

Chuyện đó xảy với tất cả những người nông nô được cho đi nước ngoài: những người làm việc trong các tổ chức quốc tế! Dù người Mĩ trả lương cho họ thì chính phủ Liên Xô cũng thu lại phần lớn số tiền họ đã nhận. Các vận động viên thể dục dụng cụ chỉ được nhận có 1% tiền thưởng mà thôi! 

Như vậy là nạn tham nhũng xói mòn nước Nga, từ chính phủ cho đến ban quản lí khu nhà ở tập thể, người ta giả vờ đấu tranh với nó, nhưng nó là bản chất của chế độ và vì vậy mà không gì có thể tiêu diệt được. Thu nhập chính thức của các quan chức là rất thấp. Nó được bổ sung thêm bằng “lót tay”, từ cấp chính phủ cho đến viên cảnh sát giao thông. Trong lĩnh vực sản xuất thì đồng lương của người lao động không đủ nuôi sống gia đình. Người ta buộc phải ăn cắp để sống. 

Bây giờ là lúc chúng ta tổng kết những điều đã trình bày bên trên. Trước hết xin bắt đầu từ hòn đá tảng của chủ nghĩa Marx, từ sở hữu tư liệu sản xuất: Hi vọng rằng tôi đã thuyết phục được độc giả về sự thiếu vắng một người chủ cụ thể, rằng tài sản không phải là của nhân dân, không phải là của công nhân và nông dân, công nhân vẫn là vô sản không có tư liệu sản xuất, còn nông dân, sau khi bị tịch thu ruộng đất, cũng đã trở thành vô sản. Tư liệu sản xuất bị phân tán và mang đặc trưng phong kiến. Có thể tưởng tượng tài sản như một cái bánh lớn bị các tầng nấc của bộ máy quan liêu xâu xé, cấp bậc càng cao thì miếng bánh càng lớn.

Nếu trong chế độ tư bản người chủ sở hữu thu lợi nhuận một cách công khai, thì ở đây, thu nhập của tầng lớp cán bộ dưới dạng “cống nạp”, “hụi chết”, “lót tay”, “phong bì” lại là khoản thu nhập ngầm, phi pháp và bị coi là tham nhũng. Đấy chính là lí do vì sao tham nhũng đã trở thành hiện tượng phổ biến trong tất cả các nước “xã hội chủ nghĩa”.

Việc cướp bóc nhân dân cũng mang tính nước đôi: lương trả cho công nhân và nông dân chỉ bằng một phần mười ở Mĩ. Mặt khác, người tiêu dùng còn bị cướp bóc ngay từ quầy hàng nhỏ nhất: cân điêu và tính gian, còn người công nhân thì phải “cắt” một phần tiền lương cho đội trưởng, vì trái ngược với lí thuyết, lương của anh ta không tỉ lệ thuận với công sức bỏ ra, cũng không phụ thuộc vào trình độ và tay nghề của anh ta mà phụ thuộc vào nhiệm vụ được giao, vào cách đánh giá và tiền thưởng, tất cả đều do đội trưởng quyết định. Nhân viên bán hàng phải nộp một phần cho giám đốc cửa hàng, đội trưởng thì nộp cho xưởng trưởng và cứ thế, những con suối nhỏ này sẽ hòa vào dòng sông lớn. Theo đánh giá của tôi, qua các vụ án hình sự, thì mỗi “thái ấp” phải đưa lên “trên” hai phần ba “doanh số” thu được.

Người ta có thể phản bác bằng cách nói rằng nhà nước luôn luôn đấu tranh chống lại tệ tham nhũng và dẫn ra những vụ án với các hình phạt nghiêm khắc. Nhưng đấy chỉ là những tình tiết gay cấn của “các cuộc chiến tranh giữa các thái ấp” với nhau mà thôi. Những vụ tố cáo ồn ào (sau đó thì bị cho “chìm xuồng”) ở Uzberkistan, Moldavia, Tadgikistan và các khu vực khác trong giai đoạn “cải tổ” của Gorbachev tạo cho người ta cảm tưởng đang diễn ra quá trình “thay máu”. Nhưng người ta cố tình che dấu sự kiện là việc điều tra các vụ tham nhũng ở Uzbekistan và ngay cả ở Moskva đã được bắt đầu từ thời còn Brezhnev. Ban chấp hành trung ương có biết trước khi có các vụ điều tra đó không? Gorbachev đã nói: “Các cán bộ liên bang, trong đó có cả cán bộ thuộc Ban chấp hành trung ương, đã đến Uzbekistan nhiều lần, họ không thể không biết những chuyện xảy ra ở đây. Quần chúng nhân dân nước cộng hòa đã viết đơn tố cáo đến tận các cơ quan trung ương. Nhưng tất cả những tín hiệu báo động đó đã không được xem xét một cách nghiêm túc [22] ”. Tại sao? Gorbachev không đặt câu hỏi như thế và hơn nữa, không định trả lời. 

Ông ta không nói đến số phận của những người viết đơn tố cáo [23] . Ông ta không kể việc đón tiếp các phái viên của trung ương đã diễn ra như thế nào: khắp nơi (kể cả ở Sevastopol, nơi ông ta từng giữ chức bí thư) đều được trang hoàng lộng lẫy, bàn tiệc và bàn bi-gia, bể bơi và phòng tắm hơi với các em chân dài, váy ngắn, tất cả đều là tiền nhà nước [24] .

Báo chí thời “cải tổ” mô tả rất rõ các thủ đoạn của tướng Trurbanov [25] , con rể Brezhnev (dĩ nhiên là sau khi Brezhnev đã chết). Làn sóng tố cáo lan rộng khắp Uzbekistan, Tadgikistan và một số nước cộng hòa Trung Á khác trong những năm 1980 đã để lộ ra những tài sản khổng lồ của các “bí thư” tỉnh, huyện được các điều tra viên phát hiện: hàng triệu rub, hàng chục cân vàng và nhiều đồ vật giá trị khác v.v… Họ còn dấu được bao nhiêu? Nhưng Trurbanov không nộp vào công quĩ một xu nào [26] .

Việc tố cáo đã dẫn đến một loạt vụ tự sát. Có phải là những vụ tự sát thực sự không? Svigun và vợ chồng Shelokov và một số người khác đã biết quá nhiều. Ngay tòa án “công khai-đóng” của chúng ta cũng không thể xét xử được [27] .

Bộ trưởng bộ nội vụ Uzbekistan và một loạt cán bộ của Bộ này cũng đã tự sát.

Bốn ủy viên trung ương, chủ tịch Hội đồng bộ trưởng và một loạt bí thư tỉnh ủy, rất nhiều bí thư huyện ủy và cán bộ đã bị bắt.

Sau Stalin, chúa tể nào mới lên cũng chê bai giai đoạn trước đó (“sùng bái cá nhân”, sau đó là giai đoạn “duy ý chí”, rồi đến “giai đoạn trì trệ”) và tuyên bố “trở lại với các nguyên tắc của Lenin” và “trong sạch hóa”, mặc dù về thực chất thì chẳng có gì thay đổi cả, mà thay đổi làm sao được [28]. Stalin là người thông minh: căm thù Lenin nhưng lại luôn luôn tôn vinh ông ta, bằng cách đó tôn vinh chính mình, người kế tục sự nghiệp của Lenin.

Cơ cấu phong kiến của chế độ “xã hội chủ nghĩa” càng trở nên rõ ràng hơn khi trên báo chí của chúng ta càng ngày càng xuất hiện những thuật ngữ gợi cho người ta nhớ lại chế độ nông nô, lao dịch, địa tô… Cái mà hiện nay được gọi là “nomenclature” (tạm dịch: cán bộ), “giai cấp mới” chính là giai cấp quí tộc thời hiện đại [29] .

 “Càng ngày càng có nhiều gia đình mà tất cả các thành viên của nó đều giữ các chức vụ cao đã không còn là bí mật nữa” (Nước Nga Xô viết, ngày 5 tháng 2 năm 1988).

Có thể dẫn ra nhiều thí dụ về việc hình thành các giai tầng cán bộ cha truyền con nối (trong ngành ngoại giao, trong lĩnh vực công tác Đảng và công tác đoàn, trong lĩnh vực báo chí v.v.)

“Cán bộ” (Nomenclature) là một giai tầng ổn định. Đấy không chỉ là các chức vụ mà là một giai cấp của các công chức, rất khó thâm nhập nhưng đã thâm nhập vào rồi thì sẽ được ở lại vĩnh viễn. Xin đọc dẫn chứng của tờSự thật, cơ quan ngôn luận của Đảng: “Chui vào tầng lớp nomenclature quả là công việc thiên nan vạn nan. Ít khi có chỗ trống. Chỉ khi xảy ra những sự kiện động trời thì thủ trưởng một đơn vị nào đó mới bị hạ tầng công tác để bồi dưỡng thêm”. Ngay từ xưa việc phong và tước danh hiệu “quí tộc [30] (“tước hết quyền sở hữu tài sản”) cũng đã từng xảy ra.

Tính chất chiếm nô của cơ cấu giai cấp trong chế độ “xã hội chủ nghĩa” và quan hệ giữa các ông chủ đối với con người cũng chẳng khác gì quan hệ đối với tài sản của họ, chẳng khác gì quan hệ với những người nông nô, thể hiện rõ nhất trong việc cho đi nước ngoài. Người ta đã dựng lên “bức tường ô nhục” ở Berlin, kéo hàng ngàn cây số dây thép gai, bắn thẳng vào những người bỏ chạy… Nhưng chỉ cần Hungary mở cửa biên giới cho người Đông Đức ra đi là một trong những chế độ vững chắc nhất (do sự chống đỡ từ cả hai phía), chế độ “xã hội chủ nghĩa” sụp đổ ngay lập tức.

Chủ nghĩa Marx, thiết lập cơ sở lí luận của mình trên cơ sở loại bỏ sở hữu tư nhân đối với tư liệu sản xuất, đã bỏ quên vấn đề phân phối. Chính từ đây hệ thống bóc lột thời trung cổ đã tái xuất hiện, đấy là hệ thống bóc lột của nhà nước, người chủ tập thể tài sản, người có quyền phân phối và giữ lại cho mình phần to nhất, đã tiến hành bóc lột nhân dân lao động. Nhưng nếu trong chế độ chiếm nô địa vị người nô lệ chỉ ngang hàng với súc vật thì chủ nô phải quan tâm đến sức khỏe của nô lệ như quan tâm đến sức khỏe bò ngựa vậy. Phần lớn địa chủ hiểu rằng không được thịt những con gà mái sai trứng và vì vậy họ cũng bóc lột nông dân một cách có giới hạn.

Trong nền kinh tế “xã hội chủ nghĩa”, phương tiện sản xuất cũng như con người là vô chủ. Hôm nay tôi là giám đốc xí nghiệp, nếu tôi có thể vắt kiệt được xí nghiệp, cả sức người và máy móc, thì tôi sẽ được lên bộ, còn sau đó thì “sống chết mặc bay”. Đấy chính là nguyên nhân của tình trạng phi nhân của quá trình sản xuất và toàn bộ chế độ, chẳng ai quan tâm đến kết quả công việc, năng suất lao động vì thế mà thấp và nền kinh tế nhất định sẽ đổ nát.

Việc không ai quan tâm đến kết quả công việc nhất định sẽ sinh ra năng suất thấp, chất lượng kém và kỉ luật lao động không cao. Đến lượt nó, lại cần áp dụng những biện pháp ép buộc phi kinh tế và đàn áp.
Đã có nhiều “mô hình” sản xuất “xã hội chủ nghĩa” được đem ra thử nghiệm: độc lập và tự chủ của các tập thể ở Nam Tư, các binh đoàn lao động ở Campuchia, chính sách tương tự như NEP ở Hungary (với vốn vay khá lớn của các nhà tư bản) và tất cả đều kết thúc bằng sự phá sản của chính nền kinh tế.

Vì vậy tất cả các cuộc “cải tổ” đều có một kết cục chung: thất bại. Đây là một hệ thống không thể cải tổ, sửa chữa hay cải tiến được. Năm năm “cải tổ” ở Liên Xô chỉ đưa nền kinh tế đến tình trạng tồi tệ hơn mà thôi. Điều đáng ngạc nhiên là có nhiều nhà kinh tế học nghiêm túc, chưa nói dân thường, tin vào “cải tổ”, “cải cách” của Gorbachev (bây giờ là Yeltsin).

Như vậy là chúng ta đã đi đến kết luận rằng quyền sở hữu phương tiện sản xuất và quan hệ sản xuất trong chế độ “xã hội chủ nghĩa” mang tính chất đặc thù của chế độ phong kiến. Nhưng khác với chế độ phong kiến cổ đại và trung cổ, chế độ phong kiến hiện nay có thượng tầng kiến trúc không phù hợp với hạ tầng cơ sở [31] . Lúc đó sự thống trị và bị trị theo đẳng cấp được biện hộ bởi tôn giáo và điều chỉnh bởi pháp luật. Trong thế giới hiện đại, sau các cuộc cách mạng tư sản và những lời tuyên bố về sự bình đẳng của tất cả mọi người trước Thượng đế và pháp luật việc biện hộ cho sự bất bình đẳng phong kiến đã trở thành bất khả thi. Người ta buộc phải dựng lên thượng tầng kiến trúc được tô điểm bằng khái niệm dân chủ và pháp luật xã hội chủ nghĩa. Nô lệ được tuyên bố là giai cấp thống trị! Còn các ông chủ thì thành “đầy tớ của nhân dân”! Đồ cống nạp của lãnh chúa và tay sai bị trừng trị theo luật hình sự cho nên đã trở thành bí mật. Tài sản phải che dấu, các lâu đài phải nấp sau những hàng rào rêu phong, có lính canh bên ngoài. Trước Raisa Maksimovna (phu nhân Gorbachev – ND) không bà vợ một ủy viên Bộ chính trị nào dám xuất hiện công khai với trang phục đắt tiền và kim cương. Sự giản dị bề ngoài của các lãnh tụ đã đạt đến giới hạn của sự phi lí: tất cả đều mặc một cách đơn điệu và xấu.

Chính sự không tương thích một cách toàn diện giữa hình thức và nội dung, giữa cuộc sống và hệ tư tưởng, giữa lời nói và việc làm là nguyên nhân của tình trạng lưỡng nan của chế độ xã hội “xã hội chủ nghĩa”.

Số phận đã an bài rằng đây là cuốn sách viết về quá khứ. Từ quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử ta có thể đánh giá các quá trình đang diễn ra trong nước như thế nào? Tôi cho rằng đấy là giai đoạn chuyển tiếp từ chế độ phong kiến sang chế độ tư bản. Nhưng đây là cuộc cách mạng từ trên xuống cho nên chứa đầy mâu thuẫn và không nhất quán. Một số vương tôn, chủ yếu là các cán bộ Đảng và lãnh tụ của họ là Gorbachev muốn giữ lại cái chế độ đã được mô tả bên trên dưới dạng “đổi mới”, nhưng chính sách của họ chỉ dẫn đến sự phá sản về kinh tế và chính trị mà thôi. Một số khác (các bộ trưởng, những người hoạt động trong lĩnh vực kinh tế, tổ hợp công nghiệp toàn liên bang) lại muốn lợi dụng vị thế của mình, tư bản hóa “vương quốc” của mình, biến chúng thành tài sản riêng, thành tài sản có thể thừa kế được. Họ thành lập trong các bộ và trên cơ sở các xí nghiệp những “tập đoàn”, những “công ty cổ phần”, thị trường chứng khoán, xí nghiệp liên doanh (liên doanh với tư bản nước ngoài để được ngoại tệ mạnh) và trở thành các tổng giám đốc, thành viên hội đồng quản trị, cổ đông. Nhóm thứ ba là những người ra khỏi bộ máy để tham gia vào lĩnh vực kinh tế tư nhân, họ lợi dụng những mối liên hệ sẵn có để rút tiền nhà nước. Một thí dụ điển hình: A. Leontiev, cựu bí thư tỉnh Truvashi, thành lập “Trung tâm sáng kiến kinh doanh và nghệ thuật”. Ngân hàng nhà nước cho ông ta vay ngay 9 triệu rub, còn Ủy ban hành chính thành phố thì cấp ông ta một số lượng lớn lương thực và thực phẩm dành bán cho dân chúng. “Trung tâm” đưa toàn bộ lương thực, thực phẩm vào kho đợi ngày “tự do hóa” (nghĩa là lên giá cả chục lần) giá cả. Kết quả là Leontiev thu lợi hành chục lần mà chẳng phải bỏ ra xu nào. (Tin tức, ngày 25 tháng 12 năm 1991).

Đã xuất hiện những nhà tư sản kiểu mới, nói chung còn rất trẻ (20-30 tuổi), thí dụ như Sterligov, chủ tịch “Câu lạc bộ triệu phú” do chính anh ta thành lập. Anh ta đã kể câu chuyện nguồn gốc tài sản của mình như sau: thất nghiệp, không một xu dính túi, đến con chó Alisa, do người khác tặng cho, cũng chẳng có gì mà nuôi. Làm gì? Thế rồi trong đầu bỗng lóe lên ý nghĩ: mở sở giao dịch! Nói là làm. Anh ta mở một sở giao dịch và gọi nó là Alisa, tức là tên con chó cưng của anh ta. Hiện nay đây đã là một hệ thống các sở giao dịch, có cả vốn của tư bản nước ngoài nữa. Như lời anh ta khẳng định thì Sterligov, viên tướng KGB, ông nội anh ta, chẳng có liên hệ gì với Alisa cả. 

Không có nước nào mà số lượng các sở giao dịch buôn bán “không khí” lại nhiều như nước ta. Hàng hóa của các xí nghiệp quốc doanh trước đây được Bộ nội thương phân phối miễn phí thì nay được đẩy qua các sở giao dịch với giá trên trời. Các nhà buôn tất nhiên sẽ thu được hàng triệu rub, một phần lợi nhuận tất nhiên là được chia lại cho giám đốc các xí nghiệp quốc doanh mua bán các thứ hàng hóa này. Các sở giao dịch chỉ làm cho giá cả tăng cao và lạm phát chứ chẳng mang lại cho nhân dân và nền kinh tế một tí lợi ích nào. Sản xuất thành ra không có lợi vì không đem lại siêu lợi nhuận, sản phẩm sụt giảm đến 15-20% một năm.

Đa số các tổ chức như vậy là do mafia thành lập, họ đã lợi dụng cơ hội này để rửa tiền kiếm được bằng cách bảo kê, đầu cơ, buôn lậu ngoại tệ, buôn bán ma túy. Nhưng họ lại không thành lập các xí nghiệp sản xuất vì các xí nghiệp này không mang lại lợi nhuận nhanh chóng, cho nên toàn bộ các hoạt động sôi nổi được báo chí “độc lập” coi là quá trình “chuyển tiếp sang nền kinh tế thị trường” chỉ làm cho cuộc khủng hoảng kinh tế càng thêm sâu sắc và đất nước ngày càng lụn bại thêm.

Nhưng phần đông cán bộ (nomenclature) lại gắn bó cuộc sống của mình với nền kinh tế cũ cho nên họ đồng thanh phê phán “thị trường” và kiên quyết chống lại “tư nhân hóa”.

Giữa các nhóm nói trên đã xuất hiện những mâu thuẫn không thể dung hòa. Sản xuất càng đình đốn và sự phân hóa xã hội càng diễn ra nhanh chóng hơn. Tất cả mọi gánh nặng như tăng giá, lạm phát đều đổ dồn lên vai người lao động.

Sự phát triển sẽ diễn ra như thế nào? Thật khó trở thành nhà tiên tri. Nhưng theo tôi việc “phục hồi” có nhiều khả năng xảy ra hơn việc “xây dựng” chủ nghĩa tư bản trong cái đất nước (dù không phải là riêng biệt) phong kiến đã tan hoang này.

Chỉ còn hi vọng vào các nhà tư bản! Thật tội nghiệp cho ông Marx!

Còn 9 kì nữa

[1]О. Ioff. Luật dân sự Liên Xô. М., 1967, trang 371. Lúc đó “đấu tranh giai cấp” đã không còn hợp thời nữa. Hiện nay chính Gorbachev đang tuyên truyền cho các giá trị toàn nhân loại. Các nhà khoa học Liên Xô lập tức quay sang phía đó và họ sẽ còn quay như thế nhiều lần nữa.
[2]Xem bên trên.

[3]Tác phẩm đã dẫn, trang 394

[4]Tác phẩm đã dẫn, trang 420, 394. Các luật sư, các nhà kinh tế học, các triết gia và các “nhà xã hội học” khác gần như sao chép nguyên văn như thế.

[5] “Trong thời Trung cổ, ở châu Âu chưa có khái niệm sở hữu từ saisine hay gewere không phải là sở hữu theo đúng nghĩa mà chỉ là sử dụng trong một thời gian dài… Người sử dụng canh tác khoảng đất trong nhiều năm cũng như vương hầu mà người đó phải nộp tô đều có quyền ngang nhau khi nói: “ruộng của tôi”. М. Blok. Biện hộ lịch sử, М., 1986, trang 176-177

[6]Lịch sử thời Trung cổ, Tập 1, 1938, trang 163

[7]Lenin khẳng định rằng chế độ nông nô ở Nga “chẳng khác gì chế độ nô lệ” (toàn tập, tập 39, trang 70). Không thể hiểu vì sao các nhà khoa học Xô viết không chịu công nhận chế độ chiếm nô ở Nga. Theo tôi, năm 1861 ở Nga mới diễn ra việc xóa bỏ chế độ nô lệ và thành lập chế độ phong kiến.  

[8]Lịch sử nhà nước và luật pháp Liên Xô, phần I, M., 1972, trang 480. Tương tự như thế trong Lịch sử nhà nước và luật pháp Liên Xô, phần I, M., 1985, trang 210 và trong tất cả các cuốn sách giáo khoa khác..v.v..

[9]Chế độ lao dịch là nông dân phải làm ruộng cho chúa đất. Ghi chú của tác giả.   
[10]Bách khoa toàn thư Liên Xô, in lần thứ 3, tập 27, trang 283-284. Tất cả các vấn đề trong bách khoa toàn thư Liên Xô đều được xác định theo quan điểm chính thống của khoa học Xô viết. Mặc dù qua điểm này thường thay đổi một cách căn bản nhưng định nghĩa chế độ phong kiến thì chưa có thay đổi lớn nào.

[11]Đức Quốc xã và nước Campuchia Dân chủ của Khmer Đỏ. BT

[12]“Áp lực của chính quyền không nằm dưới bất kì sự kiểm soát nào đã bóp chết lòng tự trọng, lòng dũng cảm và niềm tin vào công lí của nông trang viên. Khai trừ ra khỏi nông trang, quịt tiền lương và tiền thưởng, cắt bớt đất phần trăm là những biện pháp “giáo dục” thường được áp dụng” (Tin tức, ngày 1 tháng 6 năm 1987). Đây là thí dụ điển hình về công tác phê bình hiện đại, dù ở nông thôn vẫn chẳng hề có thay đổi gì cả.  

[13]Xin dẫn một vài thí dụ: ủy ban nhân dân tỉnh Belgorod (quyết định số 403 ngày 27 tháng 8 năm 1981) đã cấm “đưa khoai tây, các loại cây có củ, hành… ra khỏi tỉnh”. Tula, Estonia, Moldavia cũng có những quyết định tương tự (Tin tức ngày 26 tháng 9 năm 1981). Một người tên là N. Kuzmin đi từ tỉnh Rostov sang tỉnh Voronezh mua khoa tây. Tại biên giới hai tỉnh, trên đường trở về anh ta bị giữ lại và buộc phải bán số khoa tây mua được với giá 65 rub, trong khi trước đó anh ta phải trả những 125 rub. Báo Sự thật ngày 14 tháng 7 năm 1986 đã đưa tin về một số trường hợp tương tự. Nhân dân các nước cộng hòa miền Nam phàn nàn: “chúng tôi bị cấm đưa ra khỏi khu vực sản phẩm dư thừa”. Cảnh sát khu Kurdai tỉnh Dzambul buộc dân chúng phải bỏ hành đang chuyên chở xuống..v.v… Năm 1990 các hợp tác xã tiêu thụ đã chịu nhiều thiệt hại: không được đưa hàng hóa đi, nhưng lại không tiêu thụ được tại địa phương.  

[14]Bên cạnh quan hệ kinh tế chủ đạo, chủ nghĩa Marx còn công nhận cái gọi là “thành phần kinh tế”, nghĩa là các quan hệ kinh tế tồn tại song song với quan hệ kinh tế chủ đạo. Không có điều kiện phân tích toàn bộ vấn đề này ở đây. Nhưng trong nền kinh tế “xã hội chủ nghĩa” Liên Xô thành phần kinh tế chiếm nô đóng vai trò quan trọng. Chúng ta đã thấy người ta sử dụng lao động nô lệ trước hết trong các trại giam và trong quân đội như đã chứng minh sau đây. Nhưng còn việc sử dụng lao động nô lệ trực tiếp và buôn bán nô lệ, báo chí Liên Xô ít nói đến hiện tượng này. Hiện tượng này diễn ra chủ yếu ở Trung Á và vùng Kavkaz, nơi người ta bắt “những kẻ lang thang, không nhà” và biến họ thành nô lệ. Người ta tra tấn, đánh đập, giết hại và buôn bán những kẻ bị bắt mà không hề bị trừng trị. Xin đọc bài báo “Săn bắt nô lệ” trên tờ Tin tức Moskva, số 42, năm 1991.

[15]Ngoài “ông chủ tối cao” ở Moskva còn có (đôi chỗ hiện nay vẫn còn) các chúa tể địa phương nữa. Đấy là các ông chủ ở địa phương hoặc nước cộng hòa. Ngay sau khi được bầu ông ta liền được coi là “thánh sống”, hiện thân của luật pháp, công bằng và dĩ nhiên cả thông thái nữa, mặc dù đôi khi tính háo danh và thói kiêu căng đã làm mờ lí trí của ông ta” (tờ Ngọn lửa nhỏ, năm 1988, số 40, trang 22). “Tôi là chủ ở đây! Bí thư thứ nhất thường nói như thế. Tôi nói thế nào thì làm thế!”. Và khi người của ông ta phạm tội thì ông ta “cấm các cơ quan bảo vệ pháp luật điều tra. Công an và cán bộ viện kiểm sát định phản đối, nhưng A. Ilenko không thèm nghe, ông ta không cho họ nói và đuổi ra khỏi phòng (Sự thật, ngày 2 tháng 2 năm 1987). Xin lưu ý đến ngày tháng (cải tổ) và thái độ của “anh hai” đối với các cơ quan bảo vệ pháp luật.  

[16]Khi lưu trú trong khách sạn của tỉnh ủy tôi đã được chứng kiến cảnh thay “anh hai”: buổi chiều các phái viên trung ương tới; trong khi đó “anh hai” vẫn còn đang dự họp tại một thị xã trong tỉnh. Thứ bảy, mặc dù là ngày nghỉ, các tỉnh ủy viên được triệu tập gấp, tại cuộc họp người ta tuyên đọc đơn xin từ chức của “anh hai” để về hưu, “đề nghị” được thông qua và người ta “bầu ngay” bí thư mới do các phái viên đề nghị.  

[17]“Nuôi” là hệ thống đảm bảo đời sống cho các quan chức của nước Nga phong kiến, cho đến tận giữa thế kỉ XVI, trong đó các quan chức địa phương được nuôi bằng sưu thuế năng nề. Việc quản lí rất tùy tiện, quan chức thường cưỡng bức và ăn cướp. Hệ thống này tự đánh mất uy tín và bị bãi bỏ trong quá trình tập quyền hóa của nhà nước dưới thời Sa hoàng Ivan IV.   
[18]Báo chí đã nhiều lần nói rằng KGB đã lập kế hoạch “cải tổ” từ giữa những năm 1970.   
[19]R. Gaipov, “Anh hai” tỉnh Kashkadarin nước cộng hòa Uzbekistan “vặt” dân chúng như người ta vặt lá cây vậy… Có thể nói một cách không quá rằng tất cả các cơ quan, các tổ chức, các nông trang, nông trại, các cơ quan Đảng và chính quyền đều bị tê liệt vì tham nhũng. Gaipov trực tiếp chỉ đạo việc mua bán các chức vụ từ khu vực, thị xã cho đến tỉnh. Ông ta còn nhận hối lộ thường xuyên, gọi là “thuế”… Gaipov đã có một khối lượng tài sản vô cùng lớn… quyền lực của ông ta không chịu bất kì sự kiểm soát nào (Ngọn lửa nhỏ, năm 1989, số 2, trang 27). “Mạng lưới tham nhũng rộng khắp, sự bất lương của các cơ quan kiểm tra từ trên xuống dưới đã tạo ra tình hình, khi mà quyền lực kinh tế và ngay cả quyền lực chính trị của cả các khu vực, các tỉnh, các nước cộng hòa trở thành phương tiện của các tập đoàn tội phạm. Giới tinh hoa nắm quyền giầu lên mỗi ngày. Trong khi quần chúng nhân dân thì sống trong cảnh nghèo khổ, chịu đựng. Nói cũng chẳng ích gì (báo đã dẫn, trang 28).

[20]“Người lãnh đạo khôn khéo tạo ra xung quanh mình một nhóm những kẻ không ra gì. Mọi người còn nhớ thời khi người ta lựa các lãnh đạo cấp cao theo nguyên tắc trung thành với cá nhân, biết cách nịnh hót” (Sự thật, ngày 21 tháng 1 năm 1987. Trong làn sóng tố cáo hiện nay người ta thường sử dụng động từ ở thời quá khứ mặc dù chưa có gì thay đổi cả. 
[21]N. Petrov, nghệ sĩ đàn Piano nổi tiếng viết về cảnh các nhạc sĩ được Công ty ca nhạc cho đi biểu diễn ở châu Âu và Mĩ như sau: “Đừng có quên những người đã giúp đỡ mình! Hệ thống đưa và nhận hối lộ trên cửa sau của Công ty lúc nào cũng hoạt động cả, một kẻ đi lên và một người đi xuống cầu thang, họ chuyển cho nhau túi đựng quà! Cổng sau, nơi làm nên tên tuổi, nơi quyết định số phận con người muôn năm!” N. Petrov còn mô tả chi tiết biện pháp cướp bóc các nghệ sĩ của Công ty ca nhạc. Theo đó, nếu một nghệ sĩ có tên tuổi nhận thù lao ở nước ngoài là 3.000USD thì Công ty chỉ để lại cho anh ta 800USD thôi, nhưng Sviatislav Rikhter được thù lao những 300.000USD thì ông cũng chỉ được giữ lại 800USD mà thôi. Nhưng đây là phần “cắt”

chính thức, người nghệ sĩ còn phải “nuôi” bộ máy của Công ty nữa, lấy từ phần thù lao còn lại của nghệ sĩ (Ngọn lửa nhỏ, năm 1989, số 43).

[22]М. Gorbachev. Báo cáo chính trị của Ban chấp hành trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô tại đại hội XXVII. Nhà xuất bản chính trị, М., 1986, trang 103

[23]Một số trường hợp đã được báo chí nói tới ngay từ thời Brezhnev. Thí dụ ở Moldavia, cô giáo L, mẹ của 4 đứa trẻ, Đảng viên, ủy viên ban chấp hành Đảng bộ xã phê bình “anh hai” của huyện về việc bao che cho những tên ăn cắp. Cô ta lập tức bị kết tội… đốt nhà hàng xóm! Tại tòa, người ta đề nghị cô chứng minh rằng mình không đốt nhà! Năm 1968, tòa án tối caoMoldavia kết án cô giáo L. một năm rưỡi tù giam. Sau này, khi vụ giả mạo bị phát hiện (dĩ nhiên là cô giáo đã hết hạn tù rồi) thì viện trưởng viện kiểm sát huyện chỉ bị phê bình, điều tra viên thì bị cảnh cáo, nhưng ngay sau đó anh ta lại được giấy khen, có kèm theo cả tiền thưởng nữa (Sự thật, ngày 12 tháng 10 năm 1971). Sau khi bắt đầu “cải tổ” những câu chuyện như thế tràn ngập tất cả các mặt báo. Không thể nào liệt kê hết được, chỉ xin dẫn ra một vài thí dụ. Năm 1980, thày giáo tên là Dilmukhametov (Uzbekistan) viết đơn lên Viện kiểm sát Liên Xô, tố cáo những kẻ nhận hối lộ và bao che một số tội ác nghiêm trọng. Ông gửi đơn vào tháng 9 thì tháng 12 bị khởi tố hình sự (tội vu khống). Dilmukhametov đến Moskva, nhưng một nhóm cảnh sát đặc nhiệm đã bắt ông tại đây và áp giải ngay về quê. Tháng 8 năm 1981 ông bị kết án 5 năm tù giam. tòa án Tối cao Liên Xô không bác bỏ bản án! Năm 1983 Dimukhametov được ân xá nhưng mãi đến năm 1985 mới được minh oan. Thế mà công tố viên tỉnh Fergan chỉ bị cảnh cáo (Báo Văn học, ngày 18 tháng 9 năm 1985).

Thế mà đây lại là những vụ kết thúc có hậu đấy. Nhiều người đã phải trả giá bằng chính mạng sống của mình, thí dụ như chuyên viên của tỉnh Đảng bộ Trardgoy, ông này bị một viên đại tá công an tổ chức ám sát. Công an ở đó làm cả việc… ăn cướp. Một cán bộ của ban chấp hành trung ương Tadgikistan nói rằng “các đây chưa lâu người ta có thể bắt tù bất kì ai” (Sự thật, ngày 28 tháng 1 năm 1987)

[24]“Đằng sau những cánh cửa sổ đóng kín của những phòng ngủ rộng và tối, các cán bộ tha hồ say sưa, những vụ tự thiêu của những người phụ nữ bị làm nhục không phải là chuyện hiếm (chỉ trong nửa đầu năm 1988 tại tỉnh Surkhadarin đã có 16 cô gái tự thiêu (Lao động, ngày 12 tháng 1 năm 1989). Xin lưu ý! Đây đã là năm thứ 3 sau “cách mạng tháng tư” và “cải tổ rồi”!
[25]“Sau khi về nhà trên phố Shusev, ông ta (Trarbanov) khinh ngạc phát hiện ra trong túi áo, trong hộp đựng quả, trong cặp và trong va li những tờ tiền mới tinh, ông ta không thể nhớ đã nhận của những ai và khi nào nữa. Trong đầu Iuri Mikhailovik tất cả đều quay cuồng: những bộ tướng phục, rượu, tiếng nói cười, những khuôn mặt Á châu, tiền và tiếng chân duyệt binh. Ông xếp tiền vào ngăn bàn làm việc, chính ông cũng không biết sẽ làm gì với những nắm tiền vẫn còn kêu sột soạt đó” (Ngọn lửa nhỏ, 1989)  

[26]Vụ xử một số cán bộ Bộ nội vụ Uzbekistan và Trurbanov đã gây ra nhiều phản ứng vì một loạt điều bất bình thường, không thể kể hết ra đây được. Vai trò “anh cả” của Trurbanov không được làm rõ. .. Người ta đã nói rằng phiên tòa sẽ diễn ra công khai và sẽ được báo chí đưa tin rộng rãi, nhưng trên thực tế là phiên tòa kín, chỉ những người có thẻ đặc biệt mới được vào… Bản án được tuyên cũng tạo cảm giác ngạc nhiên không kém, và điều đặc biệt là những công bố đơn điệu được chuẩn bị kĩ trên tờSự thật (ngày 21 tháng 1 năm 1989) và những tờ báo trung ương khác về tính hợp pháp của phiên tòa.  

[27]Thứ trưởng Bộ nội vụ Uzbekistan bị bắn chết trong bệnh viện ngày 17 tháng 5 năm 1985 bởi 3 viên đạn vào đầu! Viên thứ nhất phá vỡ hàm, viên thứ hai vào gáy, thế mà sau đó ông “còn đủ sức” tự bắn một phát nữa vào thái dương! Đúng là kỉ lục Ginness! Liệu đây có thể gọi là một vụ tự sát được không? Thế mà các điều tra viên không thèm tìm hiểu xem, tại sao ông ta lại có súng lục trong khi nằm viện.

[28]V. Oleinik, điều tra viên về các vụ án đặc biệt nghiêm trọng của Viện kiểm sát Liên Xô đã phải xin thôi việc sau khi Xô viết Tối cao bổ nhiệm lãnh đạo mới của Viện kiểm sát vào năm 1989. Trong một bài trả lời phỏng vấn khá dài, ông ta nói rằng trong khi điều tra các vụ có liên quan đến cán bộ thương nghiệp ở Moskva “các mối liên hệ của các nghi can với các bộ Đảng, chính quyền đều bị khoanh lại” (nói một cách khác các điều tra viên không được lần theo dấu vết “quà cáp” được đưa lên các cấp lãnh đạo cao nhất). Theo lời ông ta thì hiện tượng Treguboie (trên kia đã nói rằng Treguboie từng là lãnh đạo ngành thương nghiệp Moskva) ”được củng cố và vẫn tồn tại cho đến nay, nhưng từ cuối năm 1987 trên thực tế các vụ điều tra về nạn trộm cắp và hối lộ trong ngành thương nghiệp đã chấm dứt”. Ông cũng nói rằng hiện nay giá cho một chiếc ghế, cho việc thăng quan tiến chức, cho việc cấp vốn… đã tăng lên. “Một số kẻ nhận hối lộ ở cấp cao tiếp tục thăng tiến”. V. Oleinik kể về những vụ điều tra việc ăn hối lộ, trộm cắp và báo cáo láo ở Uzbekistan như sau: “Hóa ra đấy là một cuộc tranh giành quyền lực. Một số người bị thóa mạ là những kẻ ăn hối lộ, nghiện hút, ăn cắp. Những người kiên định bị đưa vào xà lim chẳng khác gì thời trung cổ và bị hành hạ… Tôi tin rằng không ít người vô tội đã bị kết án oan. Hiếm có người nào được minh oan. Tình hình ở Krasnodar, ở Azerbaizhan, ở Kazakhsatn và ngay ở Moskva thì cũng tương tự” (Sự kiện và bình luận, năm 1989, số 50). Bài trả lời phỏng vấn của một người thạo tin cho ta biết: 1/ nhiều vụ án chỉ là những cuộc chiến tranh giữa các tập đoàn phong kiến để giành quyền lực và thái ấp; 2/ dấu vết dẫn đến các cấp lãnh đạo cao nhất thường bị “khoanh” lại; 3/ trong giai đoạn “cải tổ” tình hình cũng vẫn như cũ.  

[29]“Giai tầng mới sống tách biệt ra bằng những rào cản xã hội, ngày càng có nhiều đặc quyền đặc lợi, còn trong nhận thức xã hội thì thay vì bác bỏ và phản đối thì lại xuất hiện tâm lí theo đuôi, bắt chước và lợi dụng”/báo Nước Nga Xô Viết, ngày 15 tháng 11 năm 1987).

[30]Bãi bỏ Ban chấp hành trung ương cũng không thay đổi được gì. 70% đến 100% thái ấp vẫn nằm trong tay tầng lớp cán bộ cũ, từ Yeltsin cho đến các “anh hai” khu vực.

[31]Xin nhắc nhở những người mác-xít chính họ đã sùi bọt mép chứng minh rằng thượng tầng kiến trúc ở Nam Tư, Trung Quốc và Campuchia không phù hợp với hạ tầng cơ sở.

Chương 4. Chế độ nhà nước

Nước Nga vĩ đại kết đoàn liên bang bền vững của các nước cộng hòa tự do.

 (Quốc ca Liên Xô)

Điều 70 hiến pháp Liên Xô tuyên bố rằng Liên Xô là “một nhà nước thống nhất được thành lập theo nguyên tắc liên bang xã hội chủ nghĩa, trên cơ sở quyền tự quyết và tự nguyện liên kết của các nước Cộng hòa Xô viết Xã hội chủ nghĩa bình đẳng với nhau về quyền lợi và nghĩa vụ”.

Xin bắt đầu bằng nguyên tắc “tự quyết” và “tự nguyện”. Trước hết chúng ta cùng xem xét Sắc lệnh về hòa bình, một trong những sắc lệnh quan trọng nhất trong số các “sắc lệnh Tháng Mười”, niềm tự hào của ngành tuyên truyền và khoa học pháp lí Liên Xô (nhưng không được trích dẫn!).

Sắc lệnh này do chính Lenin viết, rất đáng lưu ý và đáng được phổ biến. Sắc lệnh này đưa ra định nghĩa về sự chiếm đóng như sau: “… đấy là bất kì một sự liên kết nào của một sắc tộc nhỏ và yếu vào một nhà nước lớn và mạnh mà không có sự đồng ý và mong ước, được thể hiện một cách rõ ràng, chính xác và tự nguyện của sắc tộc ấy, dù sự liên kết đó được thực hiện khi nào, dù dân tộc liên kết hay bị kìm giữ bằng vũ lực có phát triển hay lạc hậu đến đâu”. Và đây là các điều kiện của sự tự quyết: “Nếu một dân tộc nào đó bị giữ trong biên giới của một nhà nước bằng vũ lực, nếu dân tộc đó, trái với ước nguyện của họ, dù ước nguyện này được thể hiện trên báo chí, trong các cuộc hội nghị, trong các nghị quyết của các đảng phái và các cuộc khởi nghĩa chống lại ách áp bức dân tộc, không được quyền biểu quyết một cách tự do, với điều kiện rút toàn bộ quân đội của nước sát nhập hay nói chung là nước lớn hơn, để giải quyết, mà không bị bất cứ áp lực nào, vấn đề hình thức nhà nước thì việc sát nhập được coi là chiếm đóng nghĩa là bằng xâm lược và đàn áp!”.

Tuyệt vời!

Nhưng nếu xem xét toàn bộ lịch sử xây dựng Liên bang các nước Cộng hòa Xô viết Xã hội chủ nghĩa từ quan điểm của tài liệu lịch sử này thì ta có thể nói một cách tự tin rằng đấy là lịch sử của các cuộc chiếm đóng, nghĩa là bằng xâm lược và bạo lực; quyền tự quyết của các dân tộc và liên kết tự nguyện của các nước cộng hòa chưa bao giờ xảy ra cả. Ngay từ năm 1919, tại đại hội VIII của Đảng, Piatakov đã yêu cầu từ bỏ khẩu hiệu quyền tự quyết của các dân tộc: “Liệu chúng ta có cho phép quần chúng lao động Ukraine toàn quyền quyết định hình thức nhà nước của giai cấp vô sản và nông dân Ukraine không? Tất nhiên là không!”. Và trong cương lĩnh của Đảng do đại hội thông qua đã không còn từ “tự quyết” nữa.
Trên thực tế “quyền tự quyết dân tộc” và “liên kết tự nguyện” được thực hiện như thế nào? Có rất nhiều sách báo và tài liệu về vấn đề này. Ở đây không có điều kiện mô tả những bước thăng trầm, những âm mưu của các giai cấp và chủng tộc, những bi hài kịch và những trò hề, những vụ đàn áp khi các dân tộc muốn thể hiện ý chí của mình, và đấy cũng không phải nhiệm vụ của cuốn sách này. Chỉ xin xem xét khía cạnh pháp lí của vấn đề.
Xin bắt đầu từ tên gọi: Cộng hòa xã hội chủ nghĩa liên bang Nga (RSFSR), cái tên dùng để chỉ liên bang Nga, nhà nước lớn nhất trên lãnh thổ Liên Xô nghĩa là đế chế Nga mà Lenin đã có lần gọi là “nhà tù của các dân tộc”. Cách mạng khơi lại ước vọng tự nhiên của các dân tộc: trốn khỏi nhà tù. Và chính ở đây người ta thấy sự mềm dẻo thiên tài của Lenin. Trong khi “Bạch vệ” bám chặt khái niệm “thống nhất, không thể nào chia cắt” làm cho nhân dân oán hận thì Lenin lại theo đuổi mục đích ấy với những khẩu hiệu về quyền tự quyết. Đầu tiên ông lựa chọn hình thức tự trị, nhưng sau này, khi thấy các lực li tâm quá lớn, ông chuyển sang thành lập các nước cộng hòa liên bang “độc lập”.
Từ năm 1918 đến năm 1922 trong nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa liên bang Nga có hơn 20 nước và tỉnh tự trị được thành lập [1] . Tiêu chí dân tộc trong các khu vực tự trị này được xác định một cách rất tương đối. Ngày 30 tháng 4 năm 1918 đại hội Xô viết Turkestan (dĩ nhiên là do những người Bolshevik tổ chức và lãnh đạo), một đơn vị hành chính của nước Nga Sa hoàng có nhiều sắc dân sinh sống, tuyên bố thành lập nước cộng hòa tự trị Turkestan. Hiện nay trên vùng lãnh thổ này có đến bốn nước cộng hòa liên bang. Chẳng bao lâu sau chính quyền Xô viết đã bị lật đổ, chính quyền này chỉ được tái lập sau một cuộc chiến tranh đẫm máu.
Sau Turkestan, đến lượt các nước cộng hòa tự trị khác (Bashkirskaia, Tartarskaia, Công xã lao động Karelskaia, Công xã lao động Đức vùngVolga…) được thành lập theo các nghị định của Ban chấp hành trung ương Cộng hòa xã hội chủ nghĩa liên bang Nga, nghĩa là theo các quyết định của cơ quan hành pháp Nga. Không ai hỏi ý kiến của nhân dân hết.
Cuối năm 1918, đầu năm 1919 đại hội các Xô viết ở Litva, Latvi, Estonia và Bạch Nga tuyên bố thành lập các nước cộng hòa và thông qua hiến pháp tương tự như hiến pháp Cộng hòa xã hội chủ nghĩa liên bang Nga. Ngày 25 tháng 12 năm 1918, Ban chấp hành trung ương Cộng hòa xã hội chủ nghĩa liên bang Nga thông qua các nghị định của Hội đồng dân ủy Cộng hòa liên bang Nga về việc công nhận nền độc lập của các nước cộng hòa vùng Baltic, nhưng bản chất pháp lí của mối quan hệ của các nước này với Cộng hòa xã hội chủ nghĩa liên bang Nga thì lại không được xác định. Chính quyền Xô viết ở Baltic không tồn tại được lâu. Những người Bolshevik bị đánh bật khỏi khu vực và mặc dù không muốn nhưng họ buộc phải công nhận nền độc lập của các nước đó, lần này thì công nhận thật sự. Tình hình Phần Lan cũng tương tự như thế, các đội quân của Toibo Antikainen đã cố gắng thiết lập chính quyền Xô viết tại đây bằng một cuộc chiến đẫm máu nhưng đã chịu thất bại, cuối cùng Cộng hòa xã hội chủ nghĩa liên bang Nga phải công nhận nền độc lập của Phần Lan.
Các nước cộng hòa “độc lập” kí với nhau các “hiệp định” xác định sự thống nhất về hải quan, thuế vụ, giao thông và bưu chính v.v… Nhưng năm 1921, khi Stalin chuẩn bị dự thảo nghị định về việc liên kết các nước cộng hòa trên cơ sở tự trị thì bị Lenin kịch liệt phê phán và đề nghị thành lập liên bang. Ngày 30 tháng 12 năm 1922, đại hội lần thứ nhất Xô viết Liên Xô tuyên bố thành lập Liên bang các nước cộng hòa xô viết xã hội chủ nghĩa gồm bốn nước: Nga, Ukraine, Bạch Nga và Ngoại Kavkaz. Tại vùng Ngoại Kavkaz có rất nhiều dân tộc và sắc dân sinh sống cho nên không thể coi Cộng hòa Ngoại Kavkaz là được thành lập trên cơ sở dân tộc được. Ý kiến của nhân dân không những không được ai hỏi tới mà sau đó họ còn chiến đấu một cách tuyệt vọng cho nền độc lập của mình. Các cuộc khởi nghĩa đã bị lực lượng vũ trang, có sự trợ giúp của các đảng viên Bolshevik địa phương, đàn áp một cách khốc liệt.
“Thể hiện ý chí của nhân dân”, Ban chấp hành trung ương (cơ quan hành pháp) Turkestan và đại hội các xô viết của Bukhara và Khorezma (1924) đã quyết định thành lập hai nước cộng hòa liên bang là Uzbekistan và Turkmenistan và hai nước cộng hòa tự trị là Tadgikistan và Kirgidia.
Hiến pháp Liên Xô năm 1936 ghi nhận sự tồn tại của 10 nước cộng hòa trong liên bang.
Năm 1939, Hitler và Stalin, hiện Xô viết tối cao Liên Xô đã công nhận như thế, quyết định chia nhau châu Âu. Trên bản đồ phân chia vào ngày 28 tháng 9 năm 1939 Stalin đã đặt bút kí bên trên Hitler, chữ kí này dài đến 58 centimet. Sau khi phái đoàn của Ribentrov trở về từ Moskva, Hitler đã reo lên: “Toàn thế giới đã nằm trong túi ta”. Nếu Stalin không reo lên như thế thì cũng không nghi ngờ gì rằng ông ta lập tức bắt tay vào hành động.
Sau khi chia Ba Lan, Stalin nhắm ngay tới Phần Lan. Ngày 21 tháng 3 năm 1940 Xô viết Tối cao Liên Xô ra nghị định chuyển nước cộng hòa tự trị Karel thành nước cộng hòa liên bang Karel – Phần Lan. Nhưng ngày 16 tháng 7 năm 1956, Xô viết Tối cao Liên Xô “sau khi xem xét nguyện vọng của người lao động (?), sau khi xem xét thành phần dân tộc, sự thống nhất về kinh tế và các mối liên kết chặt chẽ với Cộng hòa xã hội chủ nghĩa liên bang Nga” (những chuyện này không có hồi năm 1940?) đã quyết định chuyển nước cộng hòa này thành nước cộng hòa tự trị nằm trong thành phần Cộng hòa xã hội chủ nghĩa liên bang Nga.
Lịch sử nhập rồi tách các nước cộng hòa vùng Baltic và nước cộng hòaMoldavia thì ai cũng biết, chẳng cần nói thêm ở đây.
Tuy vậy, không thể không nói đến số phận của một vài dân tộc: Chủ tịch đoàn Xô viết Tối cao Liên Xô ngày 7 tháng 9 năm 1941 đã ra nghị quyết chia “nước cộng hòa của người Đức vùng Volga” cho hai tỉnh Saratov và Stalingrad, còn chính người Đức sống ở đấy thì bị trừng phạt như các tội phạm hình sự, không thông qua tòa án, bằng cách lưu đày đến các trại cải tạo và lao động khổ sai ở Sibiri và Kazakhstan. Một phần ba đã chết trên đường lưu đầy. Người Đức là dân tộc đầu tiên, trong đó có cả người già, phụ nữ và trẻ con còn ẳm ngửa, bị tuyên bố là tội phạm. Hiến pháp và các văn bản pháp qui khác đã bị vi phạm một cách trắng trợn nhất. Thí dụ, hiến pháp ghi nhận rằng lãnh thổ của các nước cộng hòa liên bang không thể bị thay đổi khi chưa có sự thỏa thuận của các nước này, trong khi đó Cộng hòa xã hội chủ nghĩa liên bang Nga không đưa ra bất kì văn bản nào về việc chia cắt đã nói ở trên. Cần nói thêm rằng năm mươi năm sau, mặc dù về danh nghĩa, người Đức đã được phục hồi, nhưng các văn bản cũ thì vẫn chưa bị hủy bỏ và nước cộng hòa của người Đức thì chưa được tái lập.
Hiện nay người ta đã chính thức công nhận rằng nhiều dân tộc, trong đó có người Đức, người Tatar ở Krưm, người Triều Tiên, người Thổ Nhĩ Kì, người Meskhetin, người Tretren, người Ingush… đã bị đối xử một cách vô cùng bất công. Chưa một người nào trong số họ được đền bù cho số tài sản bị cướp giật và những đau khổ mà họ phải chịu đựng. Hơn thế nữa, nhiều người còn bị ngăn cản, không được trở về quê hương bản quán. Lí do được đưa ra: “hoàn cảnh thực tế”, sự phản đối của dân chúng địa phương v.v.. Thế mà sau khi người Mekhetin ở Pergan bị giết hại, buộc phải đưa họ đi nơi khác thì lại tìm được đất và nhà cho họ ở các tỉnh miền Bắc nước Nga, có ai hỏi ý kiến dân địa phương không? Tại sao không đưa họ trở về quê hương bản quán?
Các nhà bình luận hiện nay thích nói rằng biên giới giữa các nước cộng hòa được hoạch định một cách tùy tiện, không tính đến quyền lợi của các dân tộc, theo kiểu “lấy tẩu thuốc vẽ lên bản đồ”. Đúng như thế. “Chính sách dân tộc của Đảng cộng sản theo đường lối của Lenin và Stalin” luôn luôn là chính sách đế quốc chủ nghĩa, dựa trên nguyên tắc “chia để trị”. Lenin, Stalin và những người kế tục họ, kể cả Gorbachev va Yeltsin, đều không tôn trọng ý chí của nhân dân. Các đường biên giới được tính toán kĩ để sao cho các dân tộc luôn luôn mâu thuẫn, không thể liên kết với nhau được, sao cho chính quyền trung ương luôn luôn có thể đóng vai người phán xử cuối cùng. Chính vì thế mà tỉnh Nogornưi Karabakh với tuyệt đại đa số dân chúng là người Armenia lại bị tách khỏi Armenia và đưa vào lãnh thổ Azebaigian, còn tỉnh Nakhitrevan thì lại bị tách khỏi Azerbaigian. Cuộc xung đột ở Karabach có thể đã được giải quyết dưới thời Gorbachev, nhưng ông ta không muốn như thế.
Các nước cộng hòa liên bang chưa bao giờ được độc lập. Các viên toàn quyền đều được bổ nhiệm từ Moskva. Như sẽ được chứng minh sau đây, bộ máy trung ương tập quyền của Đảng đã đóng vai trò của chính phủ. Tại tất cả các nước cộng hòa đều diễn ra quá trình Nga hóa, người Nga tràn ngập khắp nơi, sự đồng hóa diễn ra cả bằng vũ lực nữa. Thí dụ tại các nước vùng Baltic việc đồng hóa được thực hiện bằng cách đưa vào đấy các đơn vị quân đội và xây dựng những xí nghiệp to lớn một cách không cần thiết rồi sau đó phải “mời” các chuyên gia từ Nga sang. Tôi còn nhớ rất rõ những người lãnh đạo gốc Latvi-Litva “dân tộc chủ nghĩa”, phản đối cách làm đó, đã bị đàn áp như thế nào.
Những điều đã trình bày cũng đủ để độc giả hiểu rằng không làm gì có chuyện liên bang, liên hiệp gì hết. Liên Xô là một nhà nước trung ương tập quyền, một đế chế phong kiến cuối cùng trên hành tinh chúng ta.
Gorbachev, bằng việc giảm bớt quyền lực và đàn áp, đã khơi mào cho quá trình tan rã Liên Xô. Nhưng ông ta vẫn có ý định đè bẹp tinh thần dân tộc bằng các biện pháp cũ. Cách làm thật đơn giản: khi một nước cộng hòa nào đó có ý định đòi được tự chủ thì ngay lập tức sẽ xuất hiện xung đột sắc tộc (tại Moldavia xung đột xảy ra ở các tỉnh Tiraspol và Gagauzia, tại Armenia thì xảy ra ở Karabach, tại Grudia thì xảy ra ở Abkhazia và Nam Osetia v.v…) hoặc là những vụ thanh toán lẫn nhau giữa các dân tộc đã từng sống đoàn kết bên nhau hàng chục năm trời. Ta sẽ xem xét một cách kĩ hơn các sự kiện ở Azerbaigian, nơi xảy ra các vụ giết hại ngườiArmenia một cách “bất ngờ”. Rất nhiều người già, phụ nữ và trẻ em bị giết hại môt cách cực kì dã man ở Sumgaite. Không phải vô tình mà tôi đưa chữ bất ngờ vào ngoặc kép: trước đó người ta đã biết rằng sẽ xảy ra những vụ giết người, chính quyền đã được thông báo và đã bảo đảm sẽ bảo vệ người Armenia… Sau vụ chém giết báo chí chính thức đã viết về “những tên tổ chức” và sự trừng phạt không thể tránh khỏi. Nhưng sau đó thì “không tìm thấy” bọn chúng. Một vài kẻ a dua bị trừng phạt rất nhẹ (so với tội lỗi của chúng). Trong khi đó lại có thông tin rằng đấy là do lực lượng Alfa, một lực lượng chuyên về phá hoại và giết người, của KGB thực hiện. Sau đó là vụ tương tự về tính chất nhưng lớn hơn rất nhiều về số nạn nhân đã xảy ra ở Baku. Lần này không những người ta đã biết trước các vụ cướp bóc và giết người mà còn kịp đưa cả quân đội tới, nhưng hóa ra cũng giống như ở Varsava ngày nào, quân đội đã án binh bất động cho đến khi vụ chém giết chấm dứt. Gorbachev tuyên bố tình trạng khẩn cấp và đưa bộ đội vào Baku khi trong thành phố đã không còn một người Armenia nào nữa. Binh lính nổ súng vào bất kì người nào họ gặp, hàng trăm dân thường thiệt mạng trong khi binh lính không hề hấn gì cả. Chỉ cần đọc các nghị định thời đó là thấy ngay ý nghĩa của các sự kiện: cấm bãi công, giải tán các tổ chức xã hội, cấm mít tinh v.v… Báo chí lại viết về “những kẻ tổ chức” các vụ bạo loạn, nhưng rồi vẫn không tìm ra. Vấn đề là ai sẽ tìm, họ tự đi tìm mình à [2] ?
Thế mà việc ban bố tình trạng khẩn cấp và vụ đàn áp phong trào dân tộc như thế lại được các nước phương Tây tỏ ra “thông cảm” đấy.
Cho đến nay người ta vẫn chưa tìm được những kẻ tổ chức các vụ giết người hàng loạt ở Tbilisi, các vụ bắn vào thường dân ở Vinhius và Riga… Cũng như mọi khi, Gorbachev không “biết gì hết”. Những người trao cho ông ta huân chương hòa bình Nobel cũng không biết gì hết.
Gorbachev còn định sử dụng cả các biện pháp chính trị nhằm ngăn chặn các xu hướng li tâm của các nước cộng hòa. Theo “con đường của Lenin”, ông ta có ý định trói tay các nước cộng hòa và buộc họ phải kí một hiệp định liên bang mới.
Nhưng ngay lúc đó đã xảy ra cuộc đảo chính tháng 8 năm 1991 do những người thân cận nhất, những chiến hữu của ông ta thực hiện. Không ai biết cuộc đảo chính diễn ra như thế nào, Gorbachev đóng vai trò gì? Tất cả đều mờ mịt, phiên tòa đã bị hoãn đi hoãn lại nhiều lần và bây giờ thì không ai biết nó có diễn ra hay không.
Trong khi đó tổng thống B. Yetsin của nước Nga vì muốn tước quyền lực của Gorbachev đã giải tán luôn Liên Xô.
Ba người: Yeltsin, Kravtruk và Shushkevik, không cho quốc hội biết, cũng chẳng cần các nước cộng hòa khác, đã tự tuyên bố giải thể Liên Xô và thành lập Cộng đồng các quốc gia độc lập. Theo quan điểm pháp lí thì đây rõ ràng là một cuộc đảo chính và theo đúng tinh thần của điều 1 bộ luật hình sự thì họ đã mắc tội “Phản bội tổ quốc”… vì đã làm phương hại đến sự toàn vẹn lãnh thổ của Liên Xô.
Anatoly Sharansky bị xử 15 năm tù theo điều khoản này, hình như ông bị giam mười năm rồi được thả dưới áp lực dư luận quốc tế. Tất cả các báo đều đưa tin về phiên tòa này, thế mà cá nhân tôi không thấy ông ta có những hành động cụ thể nào. Theo những gì tôi biết thì ông ta chuyển ra nước ngoài tin tức về những người Do Thái muốn đi ra nước ngoài. Không hiểu Sharansky hay những người cản trở người Do Thái đi ra nước ngoài, mặc dù nước ta đã kí Tuyên ngôn nhân quyền, làm phương hại đất nước nhiều hơn. Dù sao mặc lòng, hoạt động của ông ta không thể nào so sánh được với “âm mưu của bè lũ tam nhân”, những kẻ đã xóa sổ Liên Xô và tước quyền của Tổng thống được bầu một cách hợp pháp. Xin nhắc lại rằng lúc đó nhân dân lao động đã thể hiện “ý chí” của mình bằng cách nói “có” với Liên Xô, dù rằng cách hỏi có hơi đáng ngờ.
Tiếp theo sẽ là gì? Thật khó dự đoán, trước hết là vì chính sách đối nội và đối ngoại của người đứng đầu nhà nước và chính phủ Yeltsin là không thể dự đoán được (“quốc hội” và chủ tịch của nó thì chẳng cần nói làm gì). Nói chung, ông ta sẽ tiếp tục đường lối của Gorbachev, một đường lối đã làm Liên Xô tan rã. Khi nói với các nước cộng hòa: “Có khả năng đến đâu thì độc lập đến đấy”, ông ta đã kích động “phong trào” đòi độc lập của các khu tự trị, thậm chí một số vùng cũng đòi được độc lập. Các cuộc xung đột sắc tộc tiếp tục được kích hoạt, đấy chính là cách làm cho nhân dân xao lãng khỏi những khó khăn kinh tế. Trong khi ông bộ trưởng ngoại giao đi vãn hồi hòa bình ở Nam Tư thì bộ trưởng bộ quốc phòng lại phát cho các bên tham chiến ở Kavkaz xe tăng, máy bay lên thẳng và bệ phóng hỏa tiễn Grad có kèm cả tên lửa. Nắm trong tay một đội quân đông nhất thế giới và quân đội đang còn phục tùng “trung ương”, hoàn toàn đủ sức quét sạch các bên tham chiến thì họ lại lậy van người ta đưa đội quân “mũ nồi xanh” của Liên Hiệp Quốc vào…
Tóm lại, có thể nói rằng Liên bang các nước cộng hòa xô viết xã hội chủ nghĩa không phải là một liên bang mà là một nhà nước tập quyền, không phải là nhà nước Xô viết vì các Xô viết chẳng có quyền hành gì, cũng không phải là xã hội chủ nghĩa mà là một nhà nước phong kiến, không phải là những nước cộng hòa mà là những nước quân chủ chuyên chế tuyệt đối (các công quốc chư

hầu). 

Chương 5. Đảng Cộng sản
Từ lâu người ta đã biết rằng cái gọi là “Đảng cộng sản” thực chất là một tổ chức nhà nước, được quốc tế công nhận: Tổng bí thư Đảng, dù không nắm giữ chức vụ nhà nước nào, vẫn cứ thay mặt nhà nước kí các hiệp định, ông ta cũng được đón tiếp như nguyên thủ quốc gia [3] .
Hiến pháp Cộng hòa xã hội chủ nghĩa liên bang Nga năm 1918 (hiến pháp “Lenin”) và tương tự như thế, hiến pháp năm 1924 không nói đến Đảng và không xác định vị trí của Đảng trong hệ thống nhà nước, mặc dù ngay lập tức Đảng đã nhảy vào vị trí lãnh đạo chính phủ. Hiến pháp Liên Xô năm 1936 (hiến pháp “Stalin” đúng hơn phải gọi là hiến pháp “Bukharin”) hay “Hiến pháp của chủ nghĩa xã hội” coi Đảng là “hạt nhân lãnh đạo tất cả các tổ chức của nhân dân lao động, cũng như các tổ chức xã hội và nhà nước”, nhưng đặc điểm này được ghi ở điều 126 chương 6, sau khi đã liệt kê một loạt tổ chức xã hội khác. Hiến pháp “Brezhnev” năm 1977 [4] đã đưa ngay đặc điểm này vào điều 6, các tổ chức xã hội khác được liệt kê trong điều 7, như vậy là vai trò của Đảng trong hệ thống chính quyền đã được nhấn mạnh thêm.
Nghịch lí là ở chỗ Đảng cộng sản đã thôi tồn tại ở Liên Xô từ rất lâu rồi. Lenin, người thành lập ra nó đã tiêu diệt nó ngay sau khi Cách mạng Tháng Mười thành công. Đảng cộng sản, “một Đảng kiểu mới” ngay từ khi mới thành lập đã đặt ra cho mình mục đích giành chính quyền và toàn bộ tổ chức “của những người cách mạng chuyên nghiệp” được xây dựng để phục vụ mục đích này. Đảng là liên minh chính trị của những người đồng quan điểm. Nhưng sự thống nhất quan điểm của số đông chỉ có thể xác định khi từng người có điều kiện thể hiện quan điểm của mình. Không bao giờ có sự thống nhất tuyệt đối, nhưng nhờ thảo luận mà có thể xác định được một quan điểm chung. Trước cách mạng, đôi khi Lenin đã phải chiến đấu chống lại đa số trong Đảng, có lúc ông phải một mình chống chọi lại tất cả, ông từng chia tách Đảng, nhưng quan điểm của mình thì kiên quyết bảo vệ đến cùng. Nhưng tại đại hội X (1921) Lenin cho thông qua nghị quyết “Về sự thống nhất của Đảng” và sau đó mọi hoạt động bè phái đều bị coi là bất hợp pháp. Từ đó trở đi sự thống nhất về tư tưởng được quyết định từ bên trên, toàn Đảng phục tùng trung ương, tuân theo một cây gậy chỉ huy của trung ương. Trước khi chiếm được chính quyền, Plekhanov đã nói rằng những người Bolshevik lèo lái ban chấp hành trung ương, buộc toàn Đảng phải lệ thuộc vào ban chấp hành. Sau khi giành được chính quyền thì điều đó càng trở nên ràng hơn. Mặc dù đến tận năm 1927, trong giai đoạn diễn ra các cuộc đấu tranh giành quyền lực sau khi Lenin qua đời, sự bất đồng về tư tưởng và hoạt động bè phái vẫn thường xảy ra, nhưng những người có tư tưởng như thế luôn luôn bị đàn áp bằng những biện pháp khủng bố khốc liệt nhất. Sau giai đoạn này thì các Đảng viên buộc phải tuân thủ một cách vô điều kiện “đường lối chung của Đảng” dù đường lối ấy có vặn vẹo thế nào cũng mặc. Dù có xảy ra những bước ngoặt đột ngột đến mức nào, Đảng viên cũng phải ủng hộ và vận động quần chúng ủng hộ đường lối của Đảng và thực hiện các mệnh lệnh của trung ương như những người lính thực thụ. Chính vì lí do đó mà nhiều nhà lãnh đạo thường tự nhận: “Tôi là người chiến sĩ của Đảng”.
“Đảng cộng sản” chưa ở đâu và chưa bao giờ là “Đảng của giai cấp công nhân” như nó thường tự tuyên bố. Quyền lãnh đạo Đảng luôn luôn nằm trong tay tầng lớp trí thức phi giai cấp và những kẻ phiêu lưu [5] .
Sau khi giành được chính quyền thì số lượng những kẻ phiêu lưu và háo danh chui vào Đảng lại càng nhiều hơn. Trong khi đó “Đảng” vẫn cố gắng giữ nguyên cái hình thức bên ngoài “là đội tiên phong của giai cấp công nhân” bằng cách xuyên tạc các số liệu (cán bộ Đảng và các bộ trưởng cũng được coi là công nhân nếu họ đã từng làm lao động chân tay một thời gian) và cố ý kết nạp các Đảng viên là công nhân. Công nhân nói chung chẳng thích thú gì với chuyện vào Đảng thì được kết nạp một cách dễ dàng, trong khi trí thức thì bị hạn chế [6] .
Đa số Đảng viên công nhân chỉ có tính chất trang trí cho các báo cáo, họ không có bất cứ vai trò gì. Dưới thời Gorbachev, khi tư tưởng đã tương đối cởi mở hơn thì chính công nhân lại là những người ra khỏi Đảng trước, vận động họ vào Đảng là việc cực kì khó khăn [7] .
Vì không có chuyện thống nhất về tư tưởng cho nên trở thành Đảng viên cũng có nghĩa là phải tuân thủ kỉ luật Đảng như một người lính. Nếu Đảng quyết rằng phải trồng ngô ở Estonia hay ở tỉnh Vologod, nơi, ngay một người không hiểu gì về nông nghiệp cũng biết rằng ngô không thể nào sinh sôi nảy nở được thì Đảng viên vẫn phải bảo đảm kế hoạch gieo trồng, dù biết rằng làm như thế là có tội với dân, với nước. Nếu “Đảng” đem quân vào Hungaria, Tiệp Khắc hay Afghanistan thì tất cả Đảng viên đều phải ủng hộ. Nếu hôm qua chủ nghĩa Hitler còn là “kẻ thù không đội trời chung” mà hôm nay Đảng ra lệnh không coi nó là kẻ thù thì tất cả Đảng viên phải không coi nó là kẻ thù. Ngày mai nó lại có thể trở thành kẻ thù nhưng nếu anh gọi nó là kẻ thù trong ngày hôm nay thì có nghĩa là anh “chống lại quan điểm của Đảng” đấy.
Đối với một số người thì vào Đảng là bắt buộc. Không cứ phải là công chức, thí dụ, nếu bạn muốn làm việc trong lĩnh vực lô gích học, tâm lí học, triết học và những ngành “khoa học xã hội” khác thì vào Đảng là yêu cầu bắt buộc.
Không phải Đảng viên cũng có thể leo lên các chức vụ cao (thí dụ như Lysenko, chủ tịch Viện hàn lâm khoa học nông nghiệp), nhưng bị khai trừ khỏi Đảng không chỉ đồng nghĩa với việc xóa tên khỏi tầng lớp “cán bộ (nomenclature) hay mất công ăn việc làm mà cuộc sống còn bị nhiều sất bất sang bang nữa. Vì vậy việc bảo vệ sự thống nhất quan điểm của Đảng, bảo vệ kỉ luật Đảng là một vũ khí cực kì lợi hại.
Đa số quần chúng đảng viên chẳng có ảnh hưởng gì đến “đường lối, chính sách của Đảng”. Về thực chất Đảng chỉ là bộ máy của Đảng, là tầng lớp “nomenclature”. Đấy cũng là bộ máy nhà nước. Điều đáng lưu ý là bộ máy của Đảng không bao giờ được nhắc tới trong điều lệ Đảng. Lần đầu tiên nó được nhắc tới trong điều lệ được thông qua năm 1986: “Trong ban chấp hành trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô, ban chấp hành trung ương Đảng các nước cộng hòa, trong ban chấp hành Đảng bộ các khu, các tỉnh, thành phố, huyện sẽ thành lập bộ máy của Đảng để tổ chức và kiểm tra việc thực hiện các nghị quyết của Đảng và giúp đỡ các tổ chức cấp dưới”. Công thức được dẫn ra bên trên không thể hiện được vai trò thực sự của bộ máy Đảng. Xin lưu ý sự kiện sau đây: Ban chấp hành trung ương, theo điều lệ, là một cơ quan lãnh đạo tập thể gồm hàng trăm ủy viên chính thức và ủy viên dự khuyết. Nghĩa là tất cả các nghị quyết phải được thông qua tại các phiên họp toàn thể. Nhưng đa số các nghị quyết của Ban chấp hành trung ương, nghị quyết liên tịch giữa Ban chấp hành trung ương và Hội đồng bộ trưởng và các cơ quan khác (nhất là trong “giai đoạn cải tổ”) được thông qua bên ngoài hội nghị. Ban chấp hành trung ương nào ra nghị quyết? Tất nhiên là bộ máy của Ban chấp hành chuẩn bị dự thảo, còn Tổng bí thư, đấy là nói khi ông này có quyền lực tuyệt đối, sẽ quyết định hoặc tiến hành thảo luận trong Bộ chính trị hay Ban bí thư. Người ta chỉ lấy danh nghĩa Ban chấp hành để công bố nghị quyết mà thôi.
“Tập trung dân chủ” được coi là nguyên tắc xây dựng Đảng, tất cả các chức vụ, từ dưới lên trên, đều được bầu và chịu trách nhiệm trước tổ chức Đảng bầu ra mình. Trên thực tế tất cả cán bộ Đảng đều do cấp trên cử và chỉ chịu trách nhiệm trước cấp trên mà thôi.
Không phải đại hội Đảng bầu ra Ban chấp hành trung ương mà là Ban chấp hành trung ương lựa chọn đại biểu dự đại hội. Bộ máy Ban chấp hành trung ương (đa số cán bộ của bộ máy không phải là ủy viên trung ương) “lựa chọn” các ủy viên trung ương, các ủy viên Ban bí thư, các ủy viên trung ương các nước cộng hòa, ủy viên Đảng ủy các khu vực và các tỉnh Đảng bộ. Vì phụ thuộc vào bộ máy của Ban chấp hành trung ương, cơ quan quản lí tất cả các cán bộ lãnh đạo, nên “nomenclature” phải tìm mọi cách chiều chuộng các cán bộ từ cấp trưởng phòng hay thậm chí các chuyên viên của trung ương trở đi, cũng từ đó nảy sinh hiện tượng các “viên chức của trung ương có thể hành hạ ủy viên ban chấp hành khu vực, ủy viên thị ủy hay tỉnh ủy. Cần phải nhắc lại rằng bộ máy là để phục vụ các cơ quan dân cử và thực hiện các nghị quyết của các cơ quan này chứ không phải ngược lại”, đấy là lời của M. Gorbachev, một người hiểu rõ hơn ai hết công việc của bộ máy (báo cáo về chuyến đi của M. Gorbachev đến Tashken. Báo Tin tức, ngày 10 tháng 4 năm 1988). Nhưng nếu phải “nhắc lại” thì cũng có nghĩa là người ta đã quên. Họ đã quên là vì thực tế công tác của bộ máy trái ngược hoàn toàn với lí thuyết. Mặc dù đại hội XXVIII của Đảng Cộng sản Liên Xô (liệu nó có phải là đại hội cuối cùng không?) có vẻ dân chủ hơn các đại hội trước, nhưng nó vẫn là đại hội của bộ máy chứ không phải của các Đảng viên.
Ông A. Iakovlev, ủy viên Bộ chính trị, đã nêu lên đặc trưng của hệ thống hiện nay là: “một nền kinh tế trì trệ, phản dân chủ một cách trắng trợn, quan liêu và tham nhũng. Các cơ quan của Đảng trên thực tế đã thay thế tất cả các tổ chức khác, nhưng lại không chịu bất kì trách nhiệm về kinh tế hay pháp lí nào về các chỉ thị và nghị quyết của mình” (Sự thật, ngày 23 tháng 6 năm 1990). 

Đã hình thành một hệ thống cấp bậc nghiêm ngặt với những đặc quyền đặc lợi được xác định một cách cũng rất nghiêm ngặt, mỗi người trong số họ bám lấy đặc quyền đặc lợi này còn chặt hơn những ông nghị viên Nga ngày xưa bám vào chiếc ghế trong nghị viện. Tất cả, không trừ một ai, từ anh chuyên viên khu ủy cho đến anh cán bộ trung ương.
Tuy vậy cũng không được coi thường vai trò của các ủy viên trung ương. Tuy không thật chính xác về mặt lịch sử, nhưng ta có thể so sánh Ban chấp hành trung ương với nghị viện của nước Nga xưa. Các ủy viên ban chấp hành (không kể những cô thợ vắt sữa hay những anh thợ tiện chỉ làm nhiệm vụ trang trí) đều nắm giữ các chức vụ quan trọng trong hệ thống quản lí nhà nước: Bí thư Ban chấp hành của các nước cộng hòa liên bang, bí thư tỉnh ủy, bộ trưởng, lãnh đạo KGB, lãnh đạo Bộ quốc phòng… Mỗi một Tổng bí thư mới đều tiến hành thay đổi thành phần Ban chấp hành, đều đưa “người của mình” vào để có thể tạo ra một đa số ngoan ngoãn ủng hộ mình. Ban chấp hành chưa bao giờ đóng vai trò quan trọng trong các cuộc “đảo chính cung đình”, các cuộc đảo chính bao giờ cũng được thực hiện trong Bộ chính trị, nhưng kết quả lại cần phải được hội nghị Ban chấp hành ủng hộ.
Tổng bí thư của tất cả các “nước xã hội chủ nghĩa”, không phụ thuộc vào chức vụ trong bộ máy nhà nước, là người có quyền lực cao nhất. Trên thực tế quyền lực này còn độc đoán và rộng hơn quyền lực của Sa hoàng. Vì vậy, nên coi chính quyền ở Liên Xô và các nước “xã hội chủ nghĩa” khác là nhà nước quân chủ chuyên chế, độc tài, chứ không phải là nước cộng hòa hay liên bang các nước cộng hòa gì cả. Hình thức chính quyền như thế cũng phù hợp với, theo đúng lí thuyết mác-xít về nhà nước và pháp luật, quan hệ sản xuất phong kiến và các quan hệ đặc thù khác của xã hội phong kiến.
Nguyên tắc “tôn sùng lãnh tụ” một cách công khai của Đảng phát xít của Hitler được che đậy bằng nguyên tắc “tập trung dân chủ” trong các nước “xã hội chủ nghĩa”, song sự tương đồng của các Đảng ấy rõ ràng đến nỗi chẳng cần mất thì giờ xem xét làm gì [8] .
Mặc dù về danh nghĩa thì tất các các cơ quan của Đảng, kể cả tổng bí thư đều do Đảng viên bầu, nhưng trong hệ thống bầu cử nhiều tầng nấc như thế, các ứng cử viên do cấp trên lựa chọn bao giờ cũng trúng cử, ngay cả khi tổ chức bỏ phiếu kín. Stalin chỉ có mấy “phiếu chống” mà số “chống” lại nhiều hơn Kirov, là Kirov và hai phần ba đại biểu đại hội XVII, đại hội được gọi là “Đại hội của những người chiến thắng”, đã mất mạng rồi! Stalin quả là một người đùa ác!
Trong các nhà nước phong kiến quyền lực của nhà vua được hỗ trợ bởi tôn giáo: hoàng đế là thiên tử, là con trời. Trong các “nước xã hội chủ nghĩa” lãnh tụ cũng được thần thánh hóa, ông ta được coi là người có trí tuệ siêu việt, thông thái không ai bằng, không có lĩnh vực hoạt động nào mà ông ta không thông hiểu, không có lĩnh vực nào mà những lời giáo huấn của ông ta không được đem ra áp dụng như những chân lí cuối cùng. Việc thần thánh hóa Lenin bắt đầu ngay từ khi ông ta còn sống. Một người mới thoát nạn mù chữ là Khrushchev cũng sẵn lòng đưa ra các giáo huấn cho các nhà văn và các nghệ sĩ, đa số những người này (ít nhất là về mặt công khai) đã ngoan ngoãn chấp nhận những lời giáo huấn đó. Nếu cả Stalin, cả Khrushchev lẫn Brezhnev (chưa nói đến Trernenko), trước khi giữ chức tổng bí thư đều chưa có gì chứng tỏ là những nhà thông thái siêu quần (Trotsky còn coi Stalin là “một sự tầm thường vĩ đại”) thì ngay sau khi lên chức, từng lời họ nói, thực chất là do các chuyên viên như Burlatsky viết, đều được nghiên cứu trong “hệ thống các trường Đảng”, được thảo luận trong các hội nghị và hội thảo khoa học, được hàng triệu các tuyên truyền viên, cổ động viên đem ra truyền bá chẳng khác gì các lời phán truyền của thượng đế.
Chưa nói đến con người “bất tử” là Lenin, một người được đặt trong Lăng giữa Hồng trường cho toàn dân chiêm ngưỡng, không ai đủ sức tính hết được các chức tước và danh vị của Stalin: Lãnh tụ của toàn thể loài người tiến bộ, Người cha, người thày và người bạn, Nhà bác học vĩ đại nhất của mọi dân tộc và mọi thời đại, Người cầm quân vĩ đại nhất của mọi dân tộc và mọi thời đại vân vân và vân vân… Ngay cả Brezhnev, một người chỉ mới đeo lon đại tá phụ trách chính trị và chưa từng chỉ huy ngay cả một đại đội cũng thành… “người cầm quân vĩ đại” như thường. Tôi không hiểu đối với đất nước thì giữa việc tặng cho Brezhnev huân chương “Chiến công” (trái với tiêu chí của Huân chương này) và tước danh hiệu này sau khi ông ta chết, điều nào nhục nhã hơn. Cả hai việc đều có đóng góp của Gorbachev.
Ở phương Tây, khi thấy các nước “xã hội chủ nghĩa” coi các lãnh tụ quá cố chẳng khác gì những người còn sống, lúc thì đưa lên tận mây xanh, lúc thì chửi rủa hết lời, người ta nói rằng các nước này có quá nhiều “tử khí”. Kể cũng có cơ sở.
Thái độ đó không hoàn toàn là đặc điểm dân tộc của người Nga. “Những người cầm lái vĩ đại” như Mao Trạch Đông, Kim Nhật Thành, Fidel Castro, Hồ Chí Minh, Enver Hoxha, Tito và nhiều người khác đã và đang được được đối xử như thế [9] .
Thần thánh hóa lãnh tụ là hiện tượng gắn bó hữu cơ với hệ thống nơi một cá nhân độc chiếm quyền lực suốt đời. Nếu không thế thì trong điều kiện hiện nay không thể nào lí giải nổi cái sự tham quyền cố vị đến chết như thế. Chủ nghĩa vô thần cộng sản và thần thánh hóa là hai xu hướng loại trừ nhau. Quan điểm của “chủ nghĩa duy vật lịch sử”, bản chất của chế độ kinh tế hay quyền lực nhà nước không thể giải thích được hiện tượng này vì “nhân dân là người làm ra lịch sử”, họ cũng là người lựa chọn ra lãnh tụ. Dĩ nhiên lãnh tụ phải là người thể hiện được trí tuệ của nhân dân. Ngay Trernenko thì cũng vậy thôi [10] .
Tất nhiên điều đó cũng không loại trừ được các cuộc đảo chính cung đình, và cũng giống như thời các Pharaoh, lãnh tụ bị lật đổ (hay quá cố) sẽ bị đem ra “đấu tố”, sẽ bị ấn xuống tận bùn đen, tượng của ông ta sẽ bị đập phá, tên tuổi sẽ bị xóa khỏi bảng vàng bia đá.
Nhưng khi còn tại vị thì ông ta là thượng đế, là vua!
Sự thần thánh hóa còn lan sang cả các thành viên gia đình nữa. Trên tờ tạp chí Triều Tiên từng có bài viết về con trai Kim Nhật Thành với nhan đề: “Một trí tuệ bí ẩn”, trong đó có những câu như: “Nhà lãnh đạo thiên tài Kim Jong Il, người đại diện cho trí tuệ của dân tộc và sự thông thái của nhân loại…” v.v… Ceauşescu được gắn các danh hiệu: “Thiên tài vùng Karpat”, “Ánh thái dương”…, còn vợ ông ta thì được gọi là: “Người mẹ của nướcRumania”, “Nhà bác học vĩ

đại”..v.v.. 

Một số người có thể phản bác bằng cách nói rằng thời quân chủ ngai vàng được thừa kế, nhưng lời phản bác như thế không có mấy giá trị: trong thời kì đầu của chế độ phong kiến việc bầu vua chúa không phải là chuyện hiếm. Ngoài ra việc thừa kế cũng đã được rục rịch chuẩn bị rồi: Ceauşescu đang chuẩn bị cho con trai tên là Nika tiếp thu ngai vàng, ở Bắc Triều Tiên công việc chuẩn bị như thế cũng đang được tiến hành.
Tất nhiên là cần phải nói đến các sự kiện năm 1989, khi các chế độ ở Đông Âu bắt đầu sụp đổ, còn Liên Xô thì lung lay.
Gốc rễ của nó là sự sụp đổ, sự phá sản của hệ thống kinh tế phong kiến trong điều kiện của nền kinh tế phát triển trên toàn thế giới. Chỉ nhờ sự giàu có đặc biệt và sức mạnh quân sự của Liên Xô, các chế độ thối nát đó mới tồn tại được, nhưng bây giờ thì chính nền kinh tế tập trung quan liêu của Liên Xô cũng cáo chung rồi.
Giai cấp cầm quyền buộc phải cải tổ. Nhưng họ cũng không thể nào khắc phục được những mâu thuẫn không thể dung hòa: Liên Xô, Hungary, Ba Lan muốn dùng tư bản nước ngoài để khôi phục lại nền kinh tề đã tan hoang, như vậy họ buộc phải chấp nhận ở một mức độ nào đó tư bản tư nhân, tư nhân hóa và thị trường. Gorbachev định làm như Lenin đã làm năm 1922: tạm thời lùi một bước để bảo toàn giai cấp cầm quyền, nhưng hiện nay thì không thể làm thế được nữa. Có thể vá một miếng vải còn tốt, nhưng khi miếng vải đã nát thì chỉ không còn chỗ nào mà bám nữa.
Thị trường “xã hội chủ nghĩa” là không khả thi. Giai cấp cầm quyền và chế độ của nó sống dựa vào “sở hữu xã hội chủ nghĩa”, hình thức sở hữu này chỉ dẫn đến đói nghèo, suy kiệt, năm năm “cải tổ” và tình trạng kinh tế ngày càng xấu đi của Liên Xô đã cho ta thấy rõ điều đó; thủ tiêu hình thức sở hữu này cũng có nghĩa là giai cấp cầm quyền và chế độ của nó sẽ tiêu vong. Gorbachev cố gắng thực hiện một chính sách “có căn nhắc và hài hòa” (ông ta rất thích nói như thế), để làm sao chó sói thì no mà cừu thì còn nguyên, nhưng hóa ra chỉ làm cho cả hai phía cùng tức giận mà thôi.
Các cuộc cải cách của ông ta là nhằm củng cố chế độ chứ không phải là tháo dỡ nó. Ngay cả chính sách đối ngoại hòa bình của ông ta cũng là do sự phá sản về kinh tế mà ra, khủng hoảng kinh tế không cho phép giữ nguyên bộ máy quân sự khổng lồ như cũ. Sự bất mãn và nguy cơ từ phía bộ máy của Đảng được Gorbachev dung hòa bằng cách làm cho nó ít phụ thuộc vào Bộ chính trị và Ban chấp hành trung ương, đồng thời lại cố gắng giữ quyền lãnh đạo cho nó cả trong Đảng lẫn trong các cơ quan chính quyền.
Cơ cấu các tổ chức Đảng ở địa phương là bản sao cơ cấu ở trung ương: Khi còn được cấp trên ủng hộ thì bí thư khu vực cũng có quyền lực không hạn chế đối với địa hạt của mình. 

Cải cách của Gorbachev có mang lại thay đổi hay không? Đầu tiên, với khẩu hiệu “Tất cả chính quyền về tay Xô viết!”, Gorbachev kiên quyết chuyển các chức năng quản lí nhà nước từ các cơ quan Đảng sang các cơ quan chính quyền, các cơ quan Đảng chỉ làm nhiệm vụ chính trị, chỉ thực hiện chức năng định hướng, không còn chịu trách nhiệm về kinh tế và quản lí kinh tế nữa. Các cán bộ Đảng không còn phải kiêm nhiệm chức vụ trong các cơ quan nhà nước nữa. Nhưng sau đó, dưới áp lực của bộ máy của Đảng, Gorbachev đã thay đổi đường lối và chuyển sang hình thức kết hợp các chức vụ Đảng với chức vụ quản lí nhà nước, thí dụ bí thư huyện ủy kiêm luôn chức vụ chủ tịch huyện, bí thư tỉnh ủy thì kiêm chủ tịch tỉnh v.v… [11] Vì vậy khi Đảng cộng sản bị giải tán thì tầng lớp “nomenclature” vẫn giữ nguyên được chức vụ.
“Tất cả vẫn y nguyên, lời của ông bí thư vẫn là luật, vẫn không được bàn cãi mà phải thực hiện bằng mọi giá, nếu anh không thực hiện thì sẽ có nhiều chuyện lôi thôi. Như người ta nói, những kẻ “lên bằng đầu gối” đã mất giá khá nhiều, nhưng đây là nói trong các cơ quan dân cử và ở những thành phố lớn. Còn ở ngoại vi (chỉ cần cách thủ đô chừng hai trăm cây số thôi) thì thời gian như đã ngừng trôi. Mọi sự không vâng lời, mọi sự phản đối đều bị đàn áp một cách khốc liệt, bộ máy quyền lực vẫn hoạt động trong chế độ đàn áp, chưa có gì thay đổi cả… Nếu một người trước đây từng là bí thư, thì nay ông ta còn là chủ tịch Hội đồng nữa. Pháo đài quyền lực không hạn chế chỉ thêm mạnh hơn mà thôi! Điều 6 đã bị loại bỏ, thế cũng là đáng mừng rồi, nhưng nếu chú ý một chút thì ta sẽ thấy: hầu như tất cả các bí thư đều tự động trở thành chủ tịch Xô viết khu vực” (Tin tức, ngày 8 tháng 6 năm 1990).

Còn 8 kì nữa

[1]Sau cách mạng đã diễn ra quá trình hình thành “các nước cộng hòa độc lập” đầy hỗn loạn tại các tỉnh, các huyện, các thành phố. Không nói đến nước Cộng hòa viễn đông nổi danh, ngay tại thị trấn Kirsanov thuộc tỉnhTambov cũng thành lập nước cộng hòa với chính phủ riêng. Thậm chí một số tập thể cũng tự tuyên bố là nước cộng hòa. Những “nước” này chẳng có liên quan gì với quyền dân tộc tự quyết hết.
[2]Hiện nay người ta biết rằng vụ này được thực hiện theo lệnh của Gorbachev, viện sĩ Primakov chỉ đạo, còn bộ trưởng quốc phòng Iazov thì trực tiếp chỉ huy.
[3]Có thể thấy bức tranh tượng trưng này trong những buổi quốc tang ở Moskva: Dẫn đầu đoàn đại biểu đón các vị khách nước ngoài là Andropov (sau này là Trernenko, sau đó nữa là Gorbachev), phía sau là Kosưgin, người đứng đầu chính phủ, cuối cùng mới đến ông Kuznetsov, người đứng đầu cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Bức tranh này thể hiện chính xác quan hệ giữa các cơ quan quyền lực nhà nước Liên Xô.
[4]Hóa ra tổng bí thư nào cũng muốn giữ ghế đến cuối đời, mà điều đó phải được ghi trong hiến pháp thì mới thực sự an tâm. Khrushchev đã thành lập ủy ban soạn thảo, nhưng chưa kịp công bố hiến pháp thì đã bị lật. Công việc được Brezhnev hoàn thành. Andropov và Trenenko thì không có thời gian. Gorbachev cũng định làm hiến pháp, công việc vừa bắt đầu thì ông ta bị lật.

[5]Lòng căm thù của lãnh đạo Đảng đối với tầng lớp trí thức chân chính là đặc trưng xuyên suốt trong toàn bộ lịch sử Đảng. Lenin, Trotsky, Stalin, Khrushchev đều săn đuổi tầng lớp trí thức. Chuyện đó đã xảy ra trong giai đoạn cách mạng, trong cuộc nội chiến và trong những năm 1930-1940. Kedrov, nhân viên an ninh được ca ngợi hiện nay đã tiêu diệt toàn bộ giới trí thức tỉnh Vologda, sau khi chiếm các nước vùng Baltic, Tây Ucraine, Bạch Nga và Moldavia, nhiều giáo sư, bác sĩ, luật sư v.v… bị đầy và bị giết hại ở Siberia. Khi bà M. Andreeva (vợ Gorky) phàn nàn về những vụ bắt giữ giới trí thức thì Lenin (ngày 18 tháng 9 năm 1919) đã trả lời: “Không bắt thì thật có tội…” và nhân vụ bắt giữ nhà văn Korolenko, Lenin viết: “Những “tài năng” kiểu đó có ngồi tù vài tuần cũng không sao… Lực lượng trí thức của công nhân và nông dân sẽ phát triển và lớn mạnh trong cuộc đấu tranh lật đổ giai cấp tư sản và bè lũ tay sai, những tên trí thức, đấy tớ tư bản nhưng lại cho rằng mình là trí tuệ của dân tộc, trên thực tế đây không phải là đầu óc mà là bã đậu”. Hiện nay thì “trí thức” được lãnh đạo Đảng coi là một từ đáng khinh.

[6]“Chúng tôi được giao “kế hoạch” kết nạp 3 người vào dự bị… “Tiêu chuẩn” kết nạp cán bộ khoa học kĩ thuật là: cứ 4 công nhân thì một cán bộ khoa học kĩ thật” (Sự thật, ngày 15 tháng 1 năm 1988). “Cải tổ” đã được 3 năm.
[7]Trong khu vực mang tên Dzerjinsky ở Moskva 47% số người ra khỏi Đảng vào năm 1989 là công nhân, trong khi tỉ lệ công nhân vào Đảng là 17% (Báo Moskva buổi chiều ngày 19 tháng 12 năm 1989)
[8]Xem: A. Unger. Tо Totalitarian Party. Party and People In Nazi Germanyand Soviet Russia, L,

1974.
[9]“Bài hát về đại tá Kim Nhật Thành”, “Đồng chí Kim Nhật Thành là mặt trời của nhân loại” (có những câu như sau: “Lãnh tụ vĩ đại Kim Nhật Thành, người là mặt trời của đất nước Triều Tiên, ngọn hải đăng của loài người, nhà tư tưởng lớn thời nay, anh hùng huyền thoại muôn đời, nhà chiến lược thiên tài của cách mạng…”. Đấy là nội dung tờ tạp chí Triều Tiên in bằng tiếng Nga (số 4 năm 1984). Trong đó còn có: “Trường ca về chiến công cách mạng vĩ đại của lãnh tụ kính yêu”v.v…
[10]Không thể không ghi nhận qui luật này, nhưng ở nước ta thì không được nói. Cách đây mấy năm, giáo sư Makhnenko thuộc trường đại học hàm thụ luật ở Moskva bắt đầu công khai phát triển ý tưởng rằng “sùng bái cá nhân” là qui luật của tất cả các nước “xã hội chủ nghĩa”. Dĩ nhiên là ông bị phản đối kịch liệt, không luật sư-đồng nghiệp nào ủng hộ ông. Giáo sư Makhnenko tự sát, ông chỉ để lại mảnh giấy với dòng chữ: “Chán nói dối quá rồi!”
[11]“Trong các tỉnh và các khu, bí thư thứ nhất vẫn là vua, là trời. Ông ta quyết định chính sách kinh tế, mức độ công khai và dân chủ và điều đáng ngại nhất là chính ông ta quyết định tốc độ thay đổi” (Tin tức, ngày 21 tháng 3 năm 1990)

Chương 6. Hệ thống đòn bẩy

 
Khi tiến hành tổng kết và phát triển lí luận của Lenin về cơ chế thực hiện chuyên chính vô sản, Stalin chỉ rõ rằng lực lượng lãnh đạo, tức là Đảng cộng sản sử dụng các “đòn bẩy” để “thực hiện công việc hàng ngày của chuyên chính vô sản” nghĩa là lãnh đạo quần chúng. Stalin liệt kê hệ thống “đòn bẩy” đó theo thứ tự như sau: công đoàn, Xô viết, hợp tác xã đủ mọi loại, đoàn thanh niên [1] . Tất cả các tổ chức này về mặt hình thức, do điều 6 của Hiến pháp Liên Xô, đã không phải là các tổ chức độc lập. Tuy nhiên điều này cũng như việc loại bỏ nó sau này đã không có nhiều ý nghĩa vì “Không một quyết định quan trọng nào của các tổ chức quần chúng mà không có sự lãnh đạo của Đảng [2] ”, ngoài ra, Đảng còn cử người của mình nắm giữ tất cả các chức vụ lãnh đạo trong các tổ chức nói trên.
Về mặt hình thức thì ban lãnh đạo tất cả các tổ chức đó đều được bầu, nhưng trên thực tế thì những người đứng đầu các tổ chức này là các cán bộ được Đảng chỉ định. Thí dụ, ứng cử viên vào chức chủ tịch nông trang (về mặt lí thuyết nông trang là một loại hợp tác xã) phải được 22 cấp duyệt (!), bất kì cấp nào cũng có quyền phủ quyết (tất nhiên ý kiến của “bí thư” là quyết định) và chỉ sau khi tất cả các cấp này đã đồng ý thì ứng viên mới được đưa ra cho nông trang viên bầu, thường là không phải trong các đại hội toàn thể mà là trong hội nghị cốt cán. Việc thất cử gần như không bao giờ xảy ra, dù đôi khi cũng có một vài ngoại lệ.
Tại Tòa bảo hiến, để khẳng định tính hợp pháp nghị định của Yeltsin về việc cấm Đảng cộng sản, những người đại diện cho ông ta đã chứng minh rằng Đảng không phải là tổ chức xã hội mà là một cơ cấu của bộ máy nhà nước. Đúng như thế, nhưng hệ thống nhà nước Liên Xô còn bao gồm tất cả các “đòn bẩy” mà Stalin đã nói tới, trước hết là công đoàn, một cơ cấu chưa bao giờ là tổ chức xã hội cả.
Tại phiên tòa người ta cũng chỉ ra rằng Đảng Cộng sản Liên Xô là một tổ chức tội phạm. Cũng đúng, nhưng Tòa bảo hiến không phải là nơi thảo luận vấn đề đó. Tội chống lại nhân loại, tội diệt chủng của “Đảng cộng sản” không hề nhỏ hơn tội của “Đảng xã hội chủ nghĩa quốc gia” (gọi tắt là Đảng Quốc xã, tức Đảng phát-xít tại Đức– ND) và vì vậy nó phải được xét xử tại Tòa án quốc tế ở Nürnberg.
Là Đảng viên, những người lãnh đạo tất cả các “đòn bẩy” đều phải nghe theo “bí thư” đồng cấp, đều phải chấp hành kỉ luật Đảng và vì vậy mà không có bất cứ một sự độc lập nào. Chưa nói đến việc khai trừ, ngay cả hình thức kỉ luật như “phê bình nghiêm khắc” cũng có thể làm người ta mất việc. Các viên chức trong bộ máy nhà nước như luật sư, kiểm sát viên, cán bộ công đoàn… đều như thế cả.
Công đoàn
Công đoàn là tổ chức thối tha nhất, giả dối nhất ở Liên Xô (không kể KGB, một tổ chức mà ai cũng biết), mặc dù chứng minh rằng nó là tổ chức như thế là việc không dễ. Nhưng không phải vô tình mà Stalin đưa “công đoàn” vào vị trí đầu tiên.
Trái với các nguyên tắc tổ chức công đoàn trên thế giới, “công đoàn” Liên Xô không phải là tổ chức kinh tế mà là một tổ chức chính trị, một phần của hệ thống chính trị của nhà nước. 

“Công đoàn (liên minh những người cùng nghề nghiệp) ở Liên Xô là một tổ chức quần chúng liên kết tất cả công nhân và viên chức trên cơ sở tự nguyện… Công đoàn Liên Xô thực hiện công tác của mình dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô, giúp Đảng động viên quần chúng trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa cộng sản [3] ”.
Trái với tên gọi của nó, “công đoàn” Liên Xô không phải là tổ chức nghề nghiệp mà được tổ chức theo xí nghiệp: tất cả công nhân viên chức của cơ quan hay xí nghiệp đều là thành viên của một tổ chức công đoàn, dù họ có làm nghề gì cũng vậy, vì vậy, về mặt tổ chức các “công đoàn” Liên Xô không thể bảo vệ quyền lợi của những người làm cùng một nghề [4] .
Vì nhiệm vụ chủ yếu là “động viên quần chúng” thực hiện các nhiệm vụ chính trị của Đảng nên “công đoàn” chưa bao giờ và cũng không bao giờ bảo vệ được quyền lợi của người lao động. Hơn thế nữa, đã trở thành truyền thống, những đạo luật có mục đích nô dịch người lao động kinh tởm nhất bao giờ cũng được thông qua với sự đồng ý của ban lãnh đạo cao nhất của tổ chức công đoàn, thí dụ nghị quyết liên tịch của Hội đồng dân ủy, Ban chấp hành trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô (b), Ban chấp hành trung ương các công đoàn Liên Xô ngày 26 tháng 6 năm 1940 vê việc khởi tố hình sự nếu không có mặt tại chỗ làm việc trong vòng 20 phút mà không có lí do chính đáng! “Công đoàn” đã lên tiếng ca ngợi và giúp áp dụng cái đạo luật tàn ác này cũng như đạo luật về trách nhiệm hình sự nếu tự ý bỏ việc và nhiều đạo luật khác.
Sự đê tiện của tổ chức này chính là thể hiện trong sự mâu thuẫn hoàn toàn giữa bộ mặt của nó và những nhiệm vụ mà nó công khai tuyên bố với bản chất thật sự của nó. Tất cả mọi phương tiện sản xuất: nhà máy, công trường, đất đai, phương tiện giao thông đều là của nhà nước, nghĩa là của “Đảng”. Như vậy nhà nước chính là người sử dụng lao động. Nhưng “công đoàn”, ngay cả theo lí thuyết cộng sản, cũng chỉ là một “đòn bẩy” của Đảng, nghĩa là một phần của bộ máy nhà nước và vì vậy mà nó không thể có mục đích bảo vệ người làm thuê. Tư tưởng của Trotsky về việc “nhà nước hóa tổ chức công đoàn” cũng như nhiều tư tưởng khác của ông ta đã được Stalin đem ra áp dụng. “Công đoàn” của các nước “xã hội chủ nghĩa” khác, do cơ cấu kinh tế của xã hội, cũng được xây dựng và hoạt động y hệt các “công đoàn” ở Liên Xô. Đấy là khác biệt quan trọng nhất giữa chế độ phong kiến hiện đại và chế độ phong kiến thời trung cổ, thời trung cổ nhà nước không khuyến khích nô nông thành lập công đoàn. Khi nâng cốc trong những bữa tiệc sang trọng được tổ chức bằng tiền của những nông nô và nô lệ đói khát, bị bóc lột đến tàn tệ ở nước ta, các “nhà dân chủ” phương Tây chỉ tròng thêm vào cổ họ một gánh nặng nữa mà thôi. Họ đang chúc phúc và biện hộ cho sự tồn tại của cái tổ chức công-đoàn-dối trá. Lậy trời cho một kẻ nào đó trong số “các chiến sĩ đấu tranh cho quyền lợi người lao động” ấy bị chết nghẹn với những chiếc bánh mì kẹp trứng cá hồi đen, món ăn mà họ nỡ giằng khỏi tay các cháu bé mồ côi! 

Tháng 12 năm 1989, trong thời gian tố cáo những vụ tham nhũng của các “Đảng viên Đảng cộng sản” Đông Đức, người ta mới được biết rằng, Tisch, lãnh tụ công đoàn nước này, có những khu săn bắn riêng, và một tòa lâu đài mà tầng hầm của nó chứa đầy rượu vang và thực phẩm của các nước phương Tây. Khi ông ta đi săn thì gia nhân phục vụ lên đến 35 người. Có khác gì những cuộc đi săn của các bá tước ngày xưa? Hẳn các nhà lãnh đạo Tổ chức lao động thế giới (ILO) và lãnh đạo công đoàn các nước phương Tây đã hiểu được mức sống của người lao động Đông Đức trong các buổi tiếp tân của Tisch. Có thể đến một lúc nào đó chúng ta cũng biết được mức sống của các “lãnh tụ công đoàn” của chúng ta. Lúc đó liệu những nhà lãnh đạo ILO, những người vẫn ủng hộ nó có xấu hổ không? Chưa chắc.
Tất cả những ý định thành lập công đoàn độc lập đều bị đàn áp ngay từ trong trứng nước. Trong các nước “xã hội chủ nghĩa” cuộc đấu tranh của công nhân nhằm cải thiện điều kiện lao động đều bị coi là đấu tranh chính trị nhằm chống lại chế độ, dĩ nhiên bản chất của nó là như thế. Chuyện đó đã diễn ra ở Ba Lan, sau một cuộc đấu tranh quyết liệt, “Công đoàn đoàn kết” đã được tồn tại song song với “công đoàn quốc doanh” và sau đó thì giành được chính quyền. Bộ máy của Đảng luôn luôn coi “công đoàn quốc doanh” là cơ quan loại hai cho nên người ta thường cử đến đó các cán bộ đã bị kỉ luật [5] . Thí dụ như Shelepin, người đã tham gia vào vụ đảo chính Brezhnev bất thành, dù trước đó đã giữ những chức vụ quan trọng kể cả chủ tịch KGB, được cử ngay làm chủ tịch ban chấp hành công đoàn toàn liên bang. Việc “bầu” các chức vụ công đoàn thấp nhất cũng chỉ mang tính tượng trưng, thực ra họ đã được bộ máy Đảng “cử” cho dân “bầu” rồi [6] .

Mặc dù chỉ được coi là công việc “loại hai” nhưng làm trong “công đoàn” lại rất có lợi về kinh tế vì tổ chức này nắm rất nhiều phương tiện: các xí nghiệp sản xuất, nhà an dưỡng, nhà nghỉ và cơ hội đi các nước tư bản ..v.v.. Vừa ngồi chưa ấm chỗ trên chiếc ghế chủ tịch các “công đoàn” Liên Xô là Shilaev đã “xơi” rồi. Nhưng ông ta “ăn dày” quá cho nên người ta buộc phải hạ bệ mà chẳng cần “công khai” cho ai biết. Shilaev được cử thay Shibaev. Gần đây thì Shilaev cũng bị bãi và Ianaev lên thay, không một tờ báo nào, kể cả tờ “Lao Động” của “công đoàn”, đứng ra giải thích cho người lao động rõ lí do của những vụ thuyên chuyển nói trên. Tất cả các cấp, từ ban chấp hành trung ương cho đến chủ tịch công đoàn bộ phận, đều là những kẻ bảo vệ hết lòng quyền lợi của bộ máy nhà nước và là những người đầu tiên đứng lên đàn áp công nhân [7] .
Thái độ của “công đoàn” thể hiện rõ nhất trong làn sóng bãi công của thợ thuyền những năm 1989-1990. Ở đâu họ cũng chống lại công nhân. Tháng 3 năm 1990 tại Moskva đã diễn ra đại hội (bất thường) của công đoàn ngành than. Thành phần tham dự gồm có những ai? Trong số 570 đại biểu có 123 thợ mỏ, 319 “cán bộ công đoàn”, 75 cán bộ Đảng v.v… Kết quả, như tờ Tin Tức ngày 1 tháng 4 năm 1990 viết, thành ra là “đại hội của các cán bộ Đảng và chủ doanh nghiệp” nên 70 công nhân đã lập tức bỏ đại hội.
Trong phóng sự “Cải tổ – 1988” có kể lại câu chuyện một cô thợ may làm đơn xin “công đoàn”

tỉnh trợ cấp ốm đau. Cô đã làm việc tại một xí nghiệp suốt 29 năm. Nhưng đơn của cô, như vẫn thường thấy, lại được gửi về chính xí nghiệp nơi cô công tác. Người ta đưa cô ra kiểm điểm và vì vậy mà bệnh của cô càng nặng thêm. Người phóng viên nói chuyện với chủ tịch công đoàn và hỏi: “Đã bao giờ công đoàn đứng ra bảo vệ công nhân chưa?”. “Không, tôi không biết nói thế nào. Nói chung công nhân không tiếp xúc với chúng tôi”, ông ta đã trả lời như thế đấy. (Báo Công nghiệp xã hội chủ nghĩa, ngày 2 tháng 9 năm 1988).
Xin nêu một trích dẫn nữa (chuyện xảy ra ở Moskva): “Công đoàn thành phố, sau nhiều năm không hoạt động, sau khi “liên kết” với chính quyền, công đoàn thành phố đã quên nhiệm vụ chính của mình là bảo vệ quyền lợi người lao động, họ quan tâm đến nhu cầu của lãnh đạo hơn là nhu cầu của công nhân” (Sự thật Moskva, ngày 22 tháng 1 năm 1987).
Đây chỉ là mấy thí dụ trong giai đoạn gọi là “cải tổ”.
Tất cả các cấp công đoàn, từ Ban chấp hành công đoàn trung ương, một tổ chức chỉ có nhiệm vụ thông qua các đạo luật chống lại công nhân, cho đến chủ tịch công đoàn bộ phận mà trách nhiệm là đưa những người công nhân hay phàn nàn vào “bệnh viện tâm thần”, chỉ phục vụ nhà nước chứ không phải công nhân.
Nhưng nếu như thế thì tại sao mọi người lao động đều là đoàn viên “công đoàn”? Tại sao số lượng đoàn viên công đoàn ở ta lại bằng số lượng đoàn viên công đoàn ở Mĩ và Trung Quốc cộng lại?
Tại phương Tây nhiều ông chủ không muốn có công đoàn trong xí nghiệp và không muốn công nhân của mình tham gia công đoàn. Vì vậy ILO bảo vệ quyền của công nhân là được tham gia công đoàn. Còn tại nước ta tham gia “công đoàn” là bắt buộc! ILO không đấu tranh chống lại hiện tượng như thế! Stalin, “người cha thân yêu của chúng ta” đã nghĩ ra một trò láu cá: Nghị quyết liên tịch ngày 28 tháng 12 năm 1938 của Hội đồng dân ủy, Ban chấp hàng trung ương Đảng cộng sản (b) và dĩ nhiên là cả Ban chấp hành trung ương các công đoàn nữa, qui định rằng những người không phải đoàn viên “công đoàn” chỉ được lĩnh một nửa trợ cấp nghỉ việc tạm thời! Một qui định chẳng dựa trên cơ sở kinh tế hay pháp lí nào vì phần đóng góp từ quĩ lương cho mỗi người lao động của từng xí nghiệp, cơ quan, kể cả hợp tác xã vào quĩ quốc gia là bằng nhau và không phụ thuộc vào việc người ấy có là đoàn viên “công đoàn” hay không.
Hiên nay tại nhiều nơi người ta đã cho phép thành lập các công đoàn tự do, nhưng đoàn viên các công đoàn này còn phải tham gia cả “công đoàn quốc doanh” nữa, “công đoàn quốc doanh” vẫn hoàn toàn yên tâm.
Tôi phải thú nhận rằng mình đã không hiểu được hậu quả của việc hủy bỏ đạo luật ban hành ngày 28 tháng 12 năm 1938. Trước đây tôi từng tin rằng sau khi đạo luật bị hủy bỏ thì chỉ còn các quan chức tham gia “công đoàn quốc doanh” mà thôi. Nhưng tôi đã lầm. Thực ra chưa mấy người hiểu, nhưng nguyên nhân chính không phải là đạo luật này. Tôi đã cố gắng trình bày sự kiện đó trong các bài giảng của mình, nhưng vô ích. “Công đoàn” của chúng ta luôn luôn làm công việc phân phối một số quyền lợi vật chất: những suất đi du lịch, an dưỡng, tiền thưởng, giấy khen, huy hiệu… Ngay cả khi đấy không phải là tiền hay hiện vật của công đoàn thì họ vẫn là một trong những người tham gia phân phối. Ban giám đốc cũng tham khảo ý kiến công đoàn mỗi khi phải sa thải vì giảm biên chế… Vì vậy các thính giả đã chia sẻ các ý kiến, thậm chí hoàn toàn đồng ý với quan niệm của tôi về “công đoàn”, nhưng họ… vẫn là đoàn viên như cũ.
Không phải vô tình mà Stalin đặt “công đoàn” ở vị trí thứ nhất. Không phải vô tình mà sau khi Đảng Cộng sản Liên Xô tan rã thì “công đoàn” là tổ chức duy nhất vẫn duy trì được một cách trọn vẹn và bất biến cơ cấu cũ.
Các Xô viết

Nhân dân thực hiện quyền lực của mình thông qua các Xô viết, điều 2 của hiến pháp viết như thế. Nhưng quyền lực của các Xô viết đã bị bãi bỏ ngay sau cách mạng “xã hội chủ nghĩa [8] ”.

Những người cộng sản không nhận được đa số phiếu trong cuộc bầu cử Hội đồng lập pháp tự do đầu tiên (và cuối cùng) và Hội đồng này đã bị giải tán bằng vũ lực. Đại diện các Đảng phái khác trong các Xô viết (dân chủ cánh tả, cộng sản cánh tả, vô chính phủ) bị phong tỏa và lần lượt bị gạt ra ngoài. Không phải là vô tình mà có một thời (thí dụ trong cuộc nổi dậy ở Kronstadt) khẩu hiệu “Xô viết không cộng sản” được dân chúng ủng hộ. Cộng sản nắm quyền lãnh đạo các Xô viết và tước luôn quyền lực của nó. Nếu Lenin nói rằng chính quyền địa phương ở các nước phương Tây chỉ làm mỗi một việc là “đánh bóng các chậu rửa mặt” thì các Xô viết địa phương của ta, những việc như thế cũng không có tiền. Sự vô quyền của các Xô viết được công nhận lần đầu tiên vào năm 1988. Tất cả báo chí Liên Xô được lệnh đồng thanh lên tiếng về vấn đề này, họ đặt lại khẩu hiệu, như trước cách mạng năm 1917: “Tất cả chính quyền về tay Xô viết[9] ”. Tại đại hội XXVIII Đảng Cộng sản Liên Xô, Gorbachev tuyên bố về việc kết hợp hai chức vụ Tổng thống và Tổng bí thư vì Xô viết không có quyền hành gì và ông ta có trách nhiệm chuyển quyền lực từ “Đảng” sang các Xô viết.
Đại biểu Xô viết cũng chẳng có quyền hành gì. Người ta càng thấy rõ hơn điều ấy, khi các đại biểu Xô viết Tối cao Liên Xô thời hậu cải tổ thông qua luật về đại biểu Xô viết, trong đó, cũng như các đạo luật trước đây, các đại biểu chẳng có một quyền gì ngoài quyền kiến nghị (các kiến nghị mà không ai có trách nhiệm phải đưa ra biểu quyết) và quyền chất vấn các quan chức nhưng cũng không có điều nào qui định rằng các quan chức bị chất vấn buộc phải trả lời cả. 

Như thế có nghĩa là các Xô viết chưa bao giờ nắm được quyền lực nhà nước và vì vậy không có cơ sở nào để coi Liên Xô là Liên bang các nước cộng hòa XÔ VIẾT.
Cho đến mãi tận thời gian gần đây các Xô viết chỉ đóng vai trò trang trí, vì, thí dụ Xô viết Tối cao Liên Xô chỉ họp một năm hai lần, mỗi lần cũng chỉ mấy ngày, để đồng thanh “thông qua” các quyết định của Chủ tịch đoàn hoặc các quyết định khác của “Đảng và chính phủ” mà thôi. Các Xô viết địa phương thường họp ba lần một năm. Chỉ nội việc đó cũng rõ là các cơ quan này chẳng có một chút ảnh hưởng nào đối với đời sống của đất nước mặc dù tất cả các nhà luật học, ngay cả dưới trào Stalin, đều nói rằng các Xô viết là cơ quan thể hiện ý chí của nhân dân.
Tất cả các học giả, không trừ một người nào, đều viết rằng các Xô viết được thành lập bằng “hệ thống bầu cử dân chủ nhất thế giới”. Ngay cả những cuộc bầu cử chỉ có một ứng cử viên cũng được coi là chứng cớ về sự thống nhất về chính trị và đạo đức giữa Đảng và nhân dân. Cả việc 98,99% cử tri tham gia bầu cử và ứng viên nhận được 99,99% số phiếu bầu cũng chứng tỏ như thế nốt. Cuộc “cải cách” chính trị của Gorbachev có mang lại thay đổi gì không? Quốc hội “lưỡng viện” chưa từng có từ trước tới nay và hệ thống bầu cử vẫn bảo đảm sự thống trị của bộ máy Đảng trong các Xô viết. Sự thay đổi lớn nhất là nhân dân có điều kiện, tuy rất hạn chế, đưa vào vài ứng viên và lần đầu tiên người ta có điều kiện bầu thực sự. Kết quả? 67,5% đại biểu Xô viết Tối cao Liên Xô, 78,6% đại biểu Xô viết Tối cao Cộng hòa liên bang Nga là các cán bộ Đảng, cán bộ quân đội v.v…, nghĩa là hệ thống bầu cử vẫn đảm bảo cho bộ máy của Đảng đa số “ngoan ngoãn” tuyệt đối, một đa số đủ sức “chặn họng” các diễn giả tiến bộ và thông qua các nghị quyết có lợi cho bộ máy của Đảng. Hơn 80% đại biểu Xô viết là Đảng viên, một tỉ lệ còn cao hơn cả thời Stalin.
Trong một số các nước “xã hội chủ nghĩa”, nơi các cuộc bầu cử thực sự được tiến hành, những người cộng sản thường thất bại, tất nhiên là không phải tất cả các nước đều như thế.
Các chức năng quản lí và sản xuất được rất nhiều tổ chức hành pháp thực hiện. Cơ quan cao nhất là chính phủ (chính phủ liên bang, chính phủ các nước cộng hòa liên bang, các nước cộng hòa tự trị) được gọi là Hội đồng bộ trưởng. Về mặt pháp lí, đây là chỗ hội họp của các bộ trưởng, các ủy ban và cơ quan ngang bộ khác. Trên thực tế một tổ chức bao gồm hơn một trăm thành viên như thế không thể hoat động được. Vì vậy ngay từ thời Lenin đã có hai Hội đồng dân ủy, được ghi trong hiến pháp, gọi là “Hội đồng dân ủy lớn” và “Hội đồng dân ủy nhỏ”. “Hội đồng lớn” ít khi họp, “Hội đồng nhỏ” là hội nghị của các bộ trưởng quan trọng nhất. Hiện nay Hội đồng bộ trưởng Liên Xô cũng chỉ họp toàn thể mỗi năm bốn lần. Thường thì đấy là các cuộc họp của “Chủ tịch đoàn Hội đồng bộ trưởng”, một cơ quan tương đương với “Hội đồng nhỏ” trong quá khứ. Nhưng cũng giống như Ban chấp hành trung ương Đảng, tất cả các nghị quyết đều do bộ máy chuẩn bị sẵn, Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng và chánh văn phòng chỉ làm nhiệm vụ kí duyệt [10] .
Các ủy ban địa phương cũng hoạt động tương tự như thế. Hầu như tất cả mọi việc đều do chủ tịch và các phó chủ tịch giải quyết theo thẩm quyền của mình. Các cuộc họp ủy ban chỉ có nhiệm vụ “thông qua” các quyết định đã được chuẩn bị sẵn mà thôi.
Các bộ và tổng cục chỉ là bộ máy trực thuộc bộ trưởng hay tổng cục trưởng (thí dụ chủ tịch KGB), các quyết định do bộ trưởng ban hành. Giúp việc cho bộ trưởng là cơ quan bộ.
Người đứng đầu các cơ quan trên được “bầu” từ các ủy viên các Đảng ủy tương ứng (bộ trưởng liên bang là ủy viên ban chấp hành trung ương, chủ tịch ủy ban huyện thì là ủy viên Đảng bộ huyện v.v…)
Các cơ quan hành chính được xây dựng theo nguyên tắc “lệ thuộc kép”: theo chiều dọc và theo chiều ngang (thí dụ phòng tài chính huyện chịu sự lãnh đạo theo chiều dọc của phòng tài chính tỉnh và theo chiều ngang chịu sự lãnh đạo của ủy ban hành chính huyện). Nguyên tắc này dường như cho phép kết hợp quyền lợi của trung ương (chiều dọc) và địa phương (chiều ngang). Trên thực tế đấy là “tam đầu chế” vì tất cả các cơ quan hành chính đều đặt dưới quyền lãnh đạo của bí thư Đảng ủy địa phương và đây mới là sự lãnh đạo chủ yếu.
Các cơ quan hành chính có vị trí và chức năng khác nhau. Các bộ và cơ quan ngang bộ của liên bang có số tài sản lớn đến nỗi họ không cần để ý đến chính phủ các nước cộng hòa chứ chưa nói tới các Xô viết địa phương. Các cơ quan hành chính địa phương trên thực tế không có cả phương tiện để giải quyết các vấn đề cấp bách và họ phải xin tiền của các xí nghiệp không nằm dưới quyền quản lí của mình. Chính quyền địa phương của ta không có tiền để đánh bóng ngay cả các chậu rửa mặt. Khẩu hiệu: “Làm cho Moskva trở thành thành phố cộng sản mẫu mực” đã bị nhiều người chế giễu. Trường học, bệnh viện (trừ các bệnh viện đặc biệt) nằm trong tình trạng khủng hoảng, giao thông trên đường phố, nhất là khi trời mưa, trở thành nguy hiểm vì có quá nhiều “ổ gà, ổ voi”, ống dẫn nước uống và nước nóng thì vỡ thường xuyên, các phương tiện giao thông công cộng chật cứng người, nhà máy xí nghiệp thải ra không khí hàng ngàn tấn chất thải và khí độc mỗi ngày, ngay cả hiện nay, sau thời kì “cải tổ” Xô viết Moskva cũng như các Xô viết khu vực cũng chẳng làm được gì để cải thiện tình hình.
Đoàn thanh niên và các tổ chức xã hội khác

Điều lệ Đảng viết rằng: “Đoàn thanh niên hoạt động dưới sự lãnh đạo của Đảng. Các tổ chức đoàn thanh niên địa phương hoạt động dưới sự lãnh đạo của các tổ chức Đảng tương ứng ở địa phương”. Điều lệ Đảng cũng xác định rằng đoàn vừa là trợ thủ đắc lực vừa là đội hậu bị của Đảng. Không phải vô tình mà nhiều nhà lãnh đạo KGB xuất thân từ các cán bộ đoàn: Shelepin, Semitrastnưi, Andropov và “sếp cảnh sát” Kriutrkov đều đi lên từ phong trào đoàn. Gorbachev cũng xuất thân từ phong trào đoàn, mặc dù hình như ông ta chưa phục vụ trực tiếp trong KGB nhưng ai cũng biết rằng ông ta là “người” của Andropov. Nhiều nhà lãnh đạo của các nước “xã hội chủ nghĩa” cũng “phấn đấu” theo con đường đó (thí dụ như E. Honecker và người kế nhiệm ông ta là E. Krenz ở Đông Đức)
Những năm gần đây đoàn thanh niên đã đánh mất vai trò của mình. Càng ngày càng có nhiều thanh niên rời bỏ hàng ngũ đoàn, một vài cố gắng cải tổ tổ chức đoàn đã được đưa ra nhằm bảo tồn vai trò của nó.
Ở Liên Xô có rất nhiều “tổ chức xã hội” và “các tổ chức thiện nguyện” được thành lập theo chỉ thị và vì quyền lợi của Đảng. Một số tổ chức đã tham gia thực hiện những nhiệm vụ quan trọng, thí dụ tổ chức gọi là DOSAAP, một tổ chức ủng hộ quân đội, không quân và hải quân, thực hiện việc “giáo dục tinh thần ái quốc”, nghĩa là làm công tác chuẩn bị cho thanh niên tham gia phục vụ quân đội.
Các tổ chức này chỉ có tính thiện nguyện giả tạo [11] , mặc dù ở phương Tây người ta thực sự tin như thế. Tất cả các tổ chức này đều là một phần của bộ máy nhà nước, là các “đòn bẩy” của bộ máy quyền lực, là các “thái ấp” loại ba của tầng lớp cán bộ quan liêu [12] .
Các cán bộ tay sai của Đảng đóng vai trò đại diện “xã hội Liên Xô” trong các hội nghị quốc tế, các tỷ phú Mĩ tổ chức những buổi tiếp tân để gặp gỡ những đại diện của “xã hội” trong những khách sạn sang trọng nhưng thực ra đấy vẫn chỉ là các quan chức nhà nước. Vì vậy mà “các tổ chức xã hội” chính thức, các “quĩ từ thiện” chỉ là một phần không thể tách rời của bộ máy nhà nước và có nhiệm vụ thực hiện các nhiệm vụ đối nội và đối ngoại dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Giữa những năm 80, lần đầu tiên sau 70 năm vắng bóng, đã bắt đầu xuất hiện các tổ chức và hiệp hội độc lập thực sự. Quan hệ của Đảng đối với các tổ chức này luôn luôn mang tính hai mặt: một mặt Đảng ủng hộ sáng kiến và dân chủ và vì vậy phải chấp nhận sự xuất hiện “từ bên dưới” của các tổ chức ấy. Các tổ chức đó, thí dụ như các mặt trận nhân dân trong các nước cộng hòa (Saiudis ở Litva chẳng hạn), lập tức trở thành các tổ chức mang tính quần chúng, có ảnh hưởng và uy tín rộng lớn. Nhưng người ta lại tạo ra những cản trở, cả bí mật và công khai, đối với hoạt động của các tổ chức đó. Mùa hè năm 1989, Mặt trận nhân dân Belaruskhông thể tổ chức hội nghị ở trong nước mà phải chuyển địa điểm sang Litva. Đồng thời các mặt trận “quốc tế” (có tư tưởng nước lớn) có mục đích trái ngươc với các mặt trận nhân dân cũng được khuyến khích thành lập.
Đã xuất hiện Đảng “xã hội chủ nghĩa – dân tộc” theo đúng nghĩa của từ này, thí dụ tổ chức gọi là “Pamiat” (“Trí nhớ”), Đảng cộng sản chính thức tuyên bố không liên quan đến tổ chức này. Nhưng sự ủng hộ của KGB thì không thể che dấu được, thí dụ chỉ có KGB ủng hộ thì họ mới có thể tổ chức các cuộc mít tinh tại Hồng trường mà thôi. Đã xuất hiện cả những tổ chức phát xít cũng như các tổ chức của những người vô chính phủ và bảo hoàng…
Tại các tỉnh, những tổ chức tự nguyện như thế thường bị đàn áp bằng các biện pháp như đánh đập, khám xét, bắt bớ, tịch thu tài sản, đưa vào nhà thương điên v.v… Tại các huyện thì hoạt động tự nguyện gần như không thể nào thực hiện được. Các nhà quan sát nước ngoài thường dựa vào tình hình ở Moskva và các tờ báo của trung ưong để đánh giá “cải tổ”, nhưng ở các “vùng sâu”, “vùng xa” người dân vẫn sống như cũ, ở đó chưa hề có thay đổi gì.

Xin nói sơ qua về các “quĩ”. Có thể chia các quĩ thành hai loại: một loại do nhà nước thành lập và tài trợ. Đấy là “Quĩ hòa bình”, “Quĩ văn hóa” (bà Gorbachev hoạt động tích cực trong quĩ này) kiếm tiền cho hoạt động của mình bằng các đóng góp “tự nguyện – bắt buộc” (thí dụ các xí nghiệp buộc nhân viên đóng góp một ngày lương). Hoạt động của các quĩ này chỉ mang tính cách “trình diễn”, nhân viên của các quĩ này được hưởng lương cao, có những “tiếp xúc quốc tế”, nghĩa là được đi nước ngoài bằng tiền của nhân dân. Không có quĩ nào trong số này công bố ngân sách hoạt động của mình.
Nhóm “quĩ” thứ hai được thành lập trên cơ sở tự nguyện (thí dụ để khôi phục các nhà thờ), nhưng khả năng đóng góp của nhân dân rất có hạn vì họ vừa nghèo vừa phải đóng góp cho biết bao quĩ khác rồi, nhà nước không bao giờ giúp đỡ các loại quĩ này.
Hợp tác xã
Hiện nay người ta đưa ra rất nhiều trích dẫn của Lenin về lợi ích của hợp tác xã (“Hợp tác xã là con đường tới chủ nghĩa cộng sản”), một tổ chức bị bóp nghẹt ngay khi sinh thời ông, với hi vọng rằng có thể dùng hợp tác xã để khôi phục nền kinh tế Liên Xô, nghĩa là trở về với kinh nghiệm của những năm 20. Phải nói rằng người ta đã ép buộc dân chúng vào hợp tác xã bằng những áp lực khác nhau. Lúc đó cửa hàng nhà nước cũng trống rỗng như bây giờ, còn cửa hàng hợp tác thì chỉ bán cho các xã viên của nó mà thôi. Thế là, thí dụ bạn muốn mua cho mình một cái quần thì bạn bắt buộc phải đóng cổ phần rồi nhận một cuốn sổ xã viên và sau đó thì đóng đầy đủ hội phí. 

Sau này, mặc dù nhiều hợp tác xã đã bị giải tán nhưng các xã viên không được hoàn trả số tiền và công sức đã đóng góp cho hợp tác xã và tất cả tài sản do xã viên tạo ra đã được chuyển vào tay bộ máy nhà nước. Thí dụ nghị định liên tịch Ban chấp hành trung ương và Hội đồng dân ủy Liên Xô ngày 17 tháng 10 năm 1937, dưới cái tên giả nhân giả nghĩa là “Về việc bảo toàn quĩ nhà ở và cải thiện công tác xây dựng nhà ở”, sau phần nói đầu với những lời phê bình dài dằng dặc dành cho các hợp tác xã, đã quyết định “Hủy bỏ các hợp tác xã về nhà ở [13] ..”. Các ngôi nhà của hợp tác xã liền trở thành nhà nhà nước mà các xã viên không được nhận một khoản bồi hoàn nào (thí dụ nếu tôi đã góp tiền xây dựng một căn hộ 2 buồng nhưng sống độc thân thì người ta sẽ thu lại một buồng và cho gia đình khác vào ở).
Thế mà trước cách mạng, tại nước Nga, mạng lưới các hợp tác xã tiêu thụ đã phát triển rộng khắp, có cả các công xã (đặc biệt là những đồ đệ của Lev Tolstoi), kể cả các hợp tác xã nông nghiệp nữa. Nhưng ngay sau cách mạng “xã hội chủ nghĩa” các hợp tác xã và công xã này đã bị giải tán, những người lãnh đạo và xã viên của nó thì bị đưa vào trại cải tạo hay nhà tù. Nguyên nhân chỉ có một: các hợp tác xã và công xã tự nguyên và tự chủ đó không thể trở thành “cánh tay của Đảng”.
Câu chuyện về việc tập thể hóa bằng vũ lực hồi những năm 1929-1932 đã được nhiều người biết. Sau hàng loạt cuộc khởi nghĩa, Stalin, với thói đạo đức giả của ông ta, đã cho công bố bài báo “Choáng váng vì thành công” mô tả bạo lực như là sự cố gắng quá mức của các chính quyền địa phương. Sau khi bài báo được công bố, người ta cho phép nông dân được ra hợp tác xã và một số người đã tận dụng cơ hội này để làm ăn riêng lẻ. Họ được trả lại một phần tài sản, nhưng chỉ được chia đất đai ở khu ngoại vi, rìa làng. Đây là lần cuối cùng, sau đó xã viên không còn được hoàn trả tài sản khi ra khỏi hợp tác xã nữa. Nhưng sau đó họ lại bị lùa vào nông trang hoặc nông trường, khi ra không những không được hoàn trả bất cứ thứ gì mà còn bị cắt xén cả đất phần trăm. Hiện nay vẫn như thế, nhưng hiện nay những người chạy khỏi nông thôn, chạy khỏi nông trang không còn tiếc gì, kể cả ngôi nhà của mình họ cũng không tiếc. Theo số liệu của E. Ligatrev thì trong mấy năm đầu “cải tổ” (1986-1987) đã có hơn một triệu nông dân Nga và Ukraine chạy khỏi nông thôn.
Phong trào hợp tác xã hiện nay vừa rất không ổn định vừa chứa đầy mâu thuẫn, và chịu đủ hình thức áp lực từ nhà nước cho đến quần chúng nhân dân. Các cơ quan nhà nước, trên lời nói thì ủng hộ các hợp tác xã nhưng trên thực tế lại tìm mọi cách cản trở trong khi cán bộ nhà nước tìm mọi cách để ăn hối lộ. Nhiều người núp bóng hợp tác xã để hoạt động kinh tế ngầm và rửa tiền, họ chỉ chăm bẵm cho lợi nhuận bằng cách nâng giá và đưa ra thị trường các hàng hóa kém chất lượng mà không chịu bất cứ trách nhiệm gì. Quần chúng nhân dân nói chung không ưa các hợp tác xã.
Luật lệ về hợp tác xã vừa mâu thuẫn vừa không rõ ràng và thay đổi thường xuyên, còn cán bộ địa phương thì chẳng coi luật lệ ra gì. Các nông trang tiếp tục là vật thí nghiệm, thực chất là người ta đang chuyển nông trang từ chế độ lao dịch sang chế độ địa tô.
Không thể dự đoán được số phận các hợp tác xã nhưng rõ ràng là chúng không thể cứu được nền kinh tế Liên Xô khỏi sự phá sản, chúng cũng không thể là “những cánh tay của Đảng” được, cho nên tôi có thể nói mà không sợ sai rằng nó cũng không thoát khỏi số phận của các hợp tác xã thời chính sách kinh tế mới.
Luật về xí nghiệp Cộng hòa liên bang Nga năm 1991 không nói tới hợp tác xã, việc đăng kí đã chấm dứt. Tờ Tin tức ngày 9 tháng 12 năm 1991 chạy hàng tít lớn: “Vụ cướp giật ngay trên quốc lộ. Kẻ cướp là nhà nước. Nạn nhân là các hợp tác xã xây dựng”.

Còn 7 kì nữa

[1]Stalin. Những vấn đề của chủ nghĩa Lenin. In lần thứ 11, М., 1952, trang 122-125

[2]Tác phẩm đã dẫn, trang 127

[3]Từ điển bách khoa, tập 3, М., 1955, trang 34

[4]Về mặt chức năng, có thể coi các “hội nghề nghiệp” như hội nhà văn, hội nhạc sĩ, hội nghệ sĩ .v..v.. là tổ chức công đoàn. Nhưng hội viên các hội này, nếu họ còn là thành viên các cơ quan thí dụ ban biên tập tạp chí, nhà hát… thì đồng thời họ cũng là đoàn viên công đoàn.  

[5]Một cán bộ Đảng than vãn: “Họ muốn đẩy tôi làm chủ tịch liên hiệp công đoàn… Hay vì tôi thường phê bình tổ chức công đoàn của chúng ta. Thế là họ kỉ luật tôi bằng cách bầu làm chủ tịch ủy ban địa phương (Nước Nga Xô viết, ngày 5 tháng 12 năm 1986).

[6]Bài trả lời phỏng vấn của V. Mishin, một cựu cán bộ đoàn, trên tờ Ngọn lửa nhỏ thật đáng quan tâm. Anh ta kể về việc đòi chức vụ mới sau khi thôi công tác đoàn mà không hề ngượng (anh ta không nghĩ rằng câu chuyện của mình thật đáng xấu hổ): “S. A. Shalaiev, chủ tịch Ban chấp hành Tổng liên đoàn lao động đề nghị tôi thử sức trong công tác công đoàn. Lãnh đạo Ban chấp hành trung uơng Đảng (“lãnh đạo” là tiếng lóng để chỉ người đứng đầu cơ quan như giám đốc, trưởng phòng; trong trường hợp này là để chỉ Gorbachev – tác giả) ủng hộ đề nghị đó và vấn đề được đưa lên hội nghị Ban chấp hành Tổng liên đoàn lao động, tôi được bầu làm thư kí…”
Rõ ràng là các đoàn viên công đoàn không hề được tham khảo ý kiến gì hết. Trong bài phỏng vấn này người ta còn hỏi Mishin: “Liệu công đoàn có phải là chỗ cho những cán bộ hưu trí và nó có còn tiếp tục bảo vệ các cơ quan địa phương không?”. Mishin đồng ý rằng công đoàn “cho đến thời gian gần đây vẫn là bến đỗ bình yên của những cán bộ Đảng đã đến tuổi nghĩ hưu hoặc “điểm đăng kí hộ khẩu” của những nhà lãnh đạo vô tích sự”. Ngay lập tức người chiến sĩ bảo vệ người lao động này tuyên bố phản đối các cuộc bãi công vì cho rằng “không phù hợp với pháp luật”. Anh ta thông báo rằng Ban chấp hành Tổng liên đàon lao động đã trình chính phủ đề nghị thông qua luật về bãi công. Ở đây anh ta đã nói hơi sai: theo qui định, Ban chấp hành trung ương giao cho các bộ phận tương ứng biên sạon dự thảo luật. Vì vậy Ban chấp hành Tổng liên đoàn chỉ thực hiện trách nhiệm là chuẩn bị dự thảo luật về bãi công mà thôi. Dĩ nhiên là thực chất đây là luật về cấm bãi công, vì tuy công nhận quyền bãi công nhưng bộ luật được Xô viết Tối cao thông quan lại đưa ra những điều kiện làm cho việc bãi công trở thành bất khả thi. Thí dụ, cấm bãi công mang tính chính trị, nhưng cuộc bãi công nào cũng có thể được coi là mang tính chính trị cả.

[7]Bộ chuyên sản xuất phân vô cơ Liên Xô đã đề nghị Bộ lao động cho phép tổ hợp “Apatit” được sử dụng lao động nữ trong các hầm mỏ apatit vô cùng độc hại. Xin trích tờ Tin tức, ngày 28 tháng 6 năm 1989: “Nhưng điều đáng ngạc nhiên là (tôi thấy chẳng có gì đáng ngạc nhiên cả –

tác giả) chủ tịch Ban chấp hành công đoàn ngành hóa và hóa dầu, V. Borodin, lại ủng hộ đề nghị này. Công đoàn, nhiệm vụ của nó là bảo vệ quyền lợi, sức khoẻ của người lao động lại ủng hộ đề nghị của lãnh đạo trong việc sử dụng lao động nữ trong những công việc năng nề và độc hại!”.   
[8]Antonov, đại biểu đại hội VIII (1919) của Đảng nói: ”… Chúng ta thấy các Xô viết đang chết dần chết mòn. Tại các địa phương đang diễn ra một quá trình mà cuối cùng chỉ còn lại các ủy ban hành chính mà thôi, các Xô viết đang bị loại bỏ, mà sự loại bỏ này rõ ràng là đi ngược lại hiến pháp. Đại hội VIII Đảng công nhân xã hội dân chủ Nga (b). Biên bản tốc kí. М., 1919, trang 172.  

[9]Bài báo trên tờ Tin tức ngày 3 tháng 6 năm 1988 có nhan đề: “Trả lại quyền lực cho các Xô viết!”. Các nhan đề như thế xuất hiện trên các tờ như Người cộng sản, Ngọn lửa nhỏ, Sự thật. Trong chiến dịch tranh cử thời cải tổ năm 1989 một ứng cử viên năm thứ 80 của “Chính quyền Xô viết” đưa vào cương lĩnh khẩu hiệu: “Trả lại cho các Xô viết quyền lực thực tế chứ không phải là quyền lực giả tạo!” (Sự thật Moskva, ngày 1 tháng 2 năm 1989).

[10]tòa đã bác đơn kiện của O. Kalugin về việc tước danh hiệu tướng của ông một cách trái pháp luật, nghĩa là đơn kiện các cơ quan không được pháp luật xem xét. Nhưng hóa ra không có cuộc họp Hội đồng bộ trưởng nào cả, đây chỉ là quyết định của cá nhân chủ tịch N. Ryzhkov mà thôi.
[11]“Mọi người đều hiểu rõ rằng hội phí được tự động trừ vào tiền lương, còn báo cáo công tác của các chủ tịch hội “thiện nguyện” đều là giả mạo… Thế thì số tiền không lồ đó đi đâu, dành cho ai? Nhiều hội gọi là thiện nguyện đó thực chất từ lâu đã là các hội mà người ta buộc phải tham gia” (Tin tức, ngày 20 tháng 1 năm 1988). Tại thành phố Novogrudok người ta còn bắt ghi tên vào Hội cứu hỏa tất cả các nhân viên của xí nghiệp thuộc … hội người mù! “Chúng tôi là những người khiếm thị!”, các nạn nhân đã kêu lên như thế. “Tình nguyện kiểu này nếu không phải là sự nhạo báng thì cũng là một việc hoàn toàn vô nghĩa!” (Tin tức, ngày 14 tháng 5 năm 1986).  

[12]“Bộ máy của hội bảo vệ di sản lịch sử gồm toàn những người vô tích sự từ các tổ chức Đảng, công đoàn và các cơ quan khác. Họ không biết, không hiểu và không yêu lịch sử” (tạp chí Ngọn cờ, số 1 năm 1988).

[13]Toàn tập luật pháp Liên Xô,1937, số 69, trang 314

Chương 7. Bộ máy đàn áp

 

“Về mặt khoa học, khái niệm chuyên chính có nghĩa là một chính quyền dựa trực tiếp vào vũ lực, không bị hạn chế bởi bất cứ luật lệ nào, không bị gò bó bởi bất cứ nguyên tắc nào”.

(Lenin)
Sau khi giành được chính quyền, những người Bolshevik lập tức từ bỏ chính sách “cây gậy và củ cà rốt” truyền thống của giai cấp thống trị, mà thay bằng một chính sách rẻ hơn và hữu hiệu hơn là chính sách cây gậy và LỜI HỨA về củ cà rốt.
Người ta từng hứa: chính quyền về tay Xô viết, ruộng đất về tay dân cày, nhà máy về tay công nhân và quyền tự quyết về tay tất cả các dân tộc.
Tháng 5 năm 1917, trong khi xem xét lại cương lĩnh của Đảng, Lenin đã viết: “Hiến pháp của nước Cộng hòa Dân chủ Nga phải hứa (bạn đã thấy chưa? –tác giả):
4. Sự bất khả xâm phạm về thân thể và nhà ở;
5. Tự do lương tâm, tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp, tự do bãi công và công đoàn một cách không hạn chế…” (tác giả nhấn mạnh).
Sau khi giành được chính quyền, trong cương lĩnh năm 1919 sự bất khả xâm phạm về thân thể và nhà ở đã biến mất, còn về các quyền tự do thì được viết như sau: “Nhiệm vụ của Đảng là tiến hành việc đàn áp một cách thường xuyên sự kháng cự của bọn bóc lột và đấu tranh về tư tưởng với những tàn dư của tư tưởng tự do và các quyền mang tính chất tư sản đã bám rễ sâu trong xã hội (khi nào và trong đầu óc ai ở Nga đã kịp bén rễ những tàn dư đó? – tác giả), đồng thời giải thích cho quần chúng biết rằng việc tước bỏ quyền chính trị và những hạn chế tự do chỉ là những biện pháp tạm thời trong cuộc đấu tranh với những mưu toan của bọn bóc lột nhằm bảo vệ và khôi phục đặc quyền đặc lợi của chúng”.
Tháng 6 năm 1917, Lenin tán dương luật về kẻ thù của nhân dân của những người Jacobin nhưng lại cho rằng không cần máy chém, chỉ cần bắt giữ chừng 50 đến 100 trùm tư bản vài tuần để “làm rõ thủ đoạn” của họ rồi thả. Chỉ một năm rưỡi sau, cuộc khủng bố đẫm máu chống lại toàn thể nhân dân đã vượt xa những người Jacobin.
Ngay ngày 15 tháng 11 năm 1917, Lenin kí nghị định “Về cuộc đấu tranh với nạn đầu cơ [1] ”,

theo đó “tất cả những kẻ đầu cơ, phá hoại, che giấu các khoản dự trữ, cản trở việc vận chuyển và những tội khác (!) phải bị bắt và giam ngay vào nhà tù Kronstadt để chuyển cho tòa án cách mạng”. 

Ngày 28 tháng 11 cùng năm lại ban hành nghị định “Về việc bắt giam các lãnh tụ của cuộc nội chiến phản cách mạng [2] ” trong đó hạ lệnh bắt giam và chuyển cho tòa án cách mạng các lãnh tụ Đảng Dân chủ lập hiến (Kadet). Nghị định chỉ nói đến các lãnh tụ chứ không hề nói đến hoạt động cụ thể nào.
Trong toàn tập tác phẩm của Lenin ta có thể tìm thấy rất nhiều mệnh lệnh của ông ta về việc khủng bố tập thể. Thí dụ ngày 7 tháng 7 năm 1918 ông ta ra lệnh cho Stalin: “Hãy thẳng tay với bọn cách mạng xã hội chủ nghĩa (Đảng Xã hội Cách mạng ESER) cánh tả (một Đảng đã từng giúp cộng sản giành quyền lực – tác giả) và thông báo thường xuyên”. Tháng 9 cùng năm ông ta ra lệnh cho Sokolnikov: “Nếu đồng chí tuyệt đối tin rằng không có lực lượng đàn áp một cách thẳng tay và không thương tiếc thì hãy đánh điện” (tác giả nhấn mạnh). Tháng 11 ông ta đã phê phán Zinoviev vì ông này đã ngăn chặn không cho công nhân đàn áp: “Tôi kịch kiệt phản đối!… Chuyện này là không thể được! Phải động viên tinh thần và làm cho khủng bố trở thành rộng khắp”. Hiện nay người ta đã biết những mệnh lệnh tuyệt mật của ông ta, thí dụ về việc đàn áp các nhà khoa học, và giới tăng lữ. Không nghi ngờ gì rằng việc bắn giết gia đình Sa hoàng cũng được thực hiện theo chỉ đạo trực tiếp của ông ta mặc dù ông ta đã dấu kín, không để lại dấu vết nào hoặc dấu vết chưa được tìm thấy mà thôi. Sự giả dối của Lenin thể hiện rõ trong bức điện ngày 6 tháng 7 năm 1918 nhân vụ giết hại Mirbach, đại sứ Đức ở Liên Xô: “Đây rõ ràng là có bàn tay của bọn bảo hoàng hoặc là những tên khiêu khích muốn kéo nước Nga vào cuộc chiến…”. Nhưng Blumkin, một nhân viên ủy ban đặc biệt, chính là người đã giết Mirbach, anh này sau đó còn làm việc trong ủy ban đặc biệt một thời gian dài nữa.
Tại sao tôi lại nhấn mạnh tính chất rộng khắp của khủng bố? Trong nhiều năm bộ máy tuyên truyền Xô viết, các bộ môn khoa học xã hội và các nhà sử học cố tình nhồi nhét vào đầu óc người ta rằng khủng bố là để bảo vệ người lao động chống lại những kẻ áp bức bóc lột. Nhưng nước Nga vốn là một nước nông dân. Những người buôn bán chỉ chiếm 1% dân số, tăng lữ cũng khoảng như vậy. Đầu thế kỉ XX giới quí tộc không còn là một giai cấp nữa (chính Lenin cũng là một quí tộc), địa chủ còn ít hơn. Tầng lớp “vô sản” nghĩa là những người công nhân công nghiệp tách biệt hẳn khỏi nông thôn cũng không nhiều. Vì vậy bất kì một cuộc khủng bố mang tính quần chúng nào cũng chỉ có thể nhằm chống lại người lao động. Sự thật đã là như thế [3] .
Khi nói về những vụ đàn áp của bọn phát xít bao giờ người ta cũng sử dụng nhãn hiệu: “khủng bố phát xít đẫm máu”. Nhưng cho đến nay chưa ai thực hiện việc so sánh về số liệu. Nhưng các con số thật đáng quan tâm. Thí dụ trong 17 năm cầm quyền của Mussolini ở Italy chỉ có… 5 Đảng viên cộng sản bị kết án tử hình và 1 người chết trong tù (A. Gramsci). Con số này là do Palmiro Toliatti đưa ra trong diễn văn ở Turin nhân kỉ niệm 35 năm ngày thành lập Đảng cộng sản Italy (báo Vì một nền hòa bình bền vững, vì nền dân chủ nhân dân, ngày 3 tháng 2 năm 1956). Bao nhiêu Đảng viên cộng sản Italy bị tử hình ở nước ta? Tạp chí Những vấn đề hòa bình và chủ nghĩa xã hội (số 5 năm 1989) nói có đến “hàng trăm” người Italy bị đàn áp. Có thể không phải tất cả những người ấy đều bị xử bắn nhưng chúng ta biết rằng hai phần ba tù nhân đã bỏ xác trong các trại cải tạo. Số liệu về các nhà lãnh đạo Đảng cộng sản Đức do giáo sư người Đức là G. Weber thu thập được chứng tỏ rằng các đồng chí công an của chúng ta không hề thua kém Gestapo trong phong trào thi đua tiêu diệt Đảng viên cộng sản Đức [4] .
Như vậy là CÂY GẬY được vung lên ngay sau khi giành được chính quyền và cho đến nay vẫn chưa được thu về. Trong việc này thì Liên Xô vàCampuchia, Cuba và Nicaragua, Etiopia và Rumania cũng chẳng khác nhau bao nhiêu. Bộ máy tuyên truyền của chúng ta thật hoài công khi cố gắng trình bày những sự kiện đó như là những lệch lạc khỏi “các tiêu chuẩn của Lenin”, chỉ xảy ra dưới thời Stalin. “Bắt đầu bằng tự do vô giới hạn” trong những lời hứa đã lập tức biến thành “nền độc tài vô giới hạn” (nhân vật Sigadiev trong tác phẩm Lũ người quỉ ám của Dostoievski). 

Ngay cả người Liên Xô, những người đã quen với mọi thứ cũng phải kinh hoàng vì sự vô nhân và vô nghĩa của những vụ khủng bố bắt đầu ngay dưới thời Lenin. Hoạt động của “nhóm tam nhân” dưới quyền Piatakov ở Krưm là một ví dụ điển hình: sau khi chiếm được Krưm, những người Bolsevik tuyên bố rằng giai cấp vô sản rất khoan dung và bây giờ, khi cuộc đấu tranh đã kết thúc, sĩ quan bạch vệ có thể tự do lựa chọn – đi hay ở lại. “Tôi hiếm khi được chứng kiến không khí an bình như thế”, nhà văn V. Veresaev kể lại, “sau khi có tuyên bố, các sĩ quan bạch vệ, đa phần là sinh viên chứ không phải bọn Trăm đen” đã sẵn sàng hợp tác với chính quyền mới. Đồng thời họ được đề nghị đến ghi danh. “Cuộc tắm máu vô nghĩa lập tức bắt đầu. Tất cả những người đến ghi danh đều bị bắt, ban đêm họ bị đưa ra ngoại ô và bị bắn bằng súng trung liên. Hàng ngàn người bị giết như thế đấy”. Ngay Djerzhinski, biệt danh “Phượng hoàng thép” cũng đã phải nói đây là một …“sai lầm khủng khiếp”! Thế mà trong bản “Di chúc” nổi tiếng, Lenin lại coi Piatakov là “người kế tục” của mình!
Với cách tổ chức về mặt kinh tế và chính trị như thế, xã hội không thể tồn tại mà không có một hệ thống đàn áp ngoài kinh tế, không thể tồn tại nếu không có khủng bố, không có bộ máy kìm kẹp mạnh. Tuy nhiên không được nghĩ rằng khủng bố và đàn áp trong xã hội “xã hội chủ nghĩa” chỉ được thực hiện bởi một bộ máy đặc biệt. Việc đàn áp được tiến hành tại từng nông trang, các nông dân không tuân phục có thể không được cắt cỏ, không có phương tiện chuyên chở, không được chia củi đun, hoặc đơn giản là bị đánh đập. Việc đàn áp diễn ra trong từng xí nghiệp, trong từng trường đại học, thí dụ sinh viên có thể bị đuổi học hay bị bắt lính để cảnh tỉnh những sinh viên khác. Mỗi một tập thể lao động “gương mẫu”, nhờ bao che và đàn áp, đều là phương tiện hữu hiệu của bộ máy Đảng trong việc lăng nhục và đàn áp con người cá nhân. Ban chấp hành công đoàn, theo lệnh của giám đốc, có thể đưa bạn vào “nhà thương điên”, bạn sẽ phải ở đó vô thời hạn và bạn có thể trở thành một kẻ tâm thần thực sự sau một thời gian được các bác sĩ “chăm sóc”. Không hiểu điều đó thì không thể hiểu được cái không khí hoảng loạn đến lạnh người và nhớp nhúa như mồ hôi của một của một người bị ho lao, một người luôn hoảng hốt không những cho mình mà còn cho người thân, cho bạn bè của mình nữa. G. Orwell đã mô tả đúng một cách đáng kinh ngạc cái không khí đó trong tác phẩm 1984.
Nhưng dĩ nhiên là trong bất kì nhà nước “xã hội chủ nghĩa” nào quyền lực cũng được bảo đảm bằng một bộ máy đàn áp mạnh và cực kì tốn kém. Vì bộ máy đó đã được mô tả trong nhiều tác phẩm, ở đây chỉ xin nói ngắn gọn, trong chừng mực làm cho bức tranh về nhà nước đó được hoàn toàn mà thôi.
Bộ máy tuyên truyền Liên Xô bỏ ra biết bao công sức nhằm mô tả thời kì cầm quyền của Stalin như là giai đoạn đi chệch khỏi “chủ nghĩa xã hội nhân đạo”, nhưng khủng bố không hề ngưng trong giai đoạn “tan băng” dưới trào Khrushchev, cũng như giai đoạn “trì trệ” hay thời kì “cải tổ” hiện nay. Sự khác nhau chỉ là hình thức và mức độ. Không được quên rằng sau giai đoạn Stalin, chỉ giơ ngón tay ra dọa là người ta cũng đủ sợ vỡ mật rồi.
Những vụ đàn áp hàng loạt xảy ra ngay cả trong những giai đoạn sau này (Novotrerkassk, Temir-Tau…). Dưới trào Gorbachev người ta đã đàn áp đẫm máu cuộc biểu tình của sinh viên ở Alma-Ata (tháng 12 năm 1986); mãi đến dịp kỉ niệm năm năm, những người bị đàn áp mới được phục hồi và chúng ta mới biết một vài việc cụ thể. Tôi không nắm được số người tử vong, nhưng có 1.700 người bị thương, 2.000 người bị đưa ra tòa. Xin nhắc lại “ngày chủ nhật đẫm máu ở Tbilisi, những cuộc đàn áp ở Vinhuis, ở Riga và vụ tắm máu ở Sumgait, ở Bacu… Gorbachev, người được phương Tây o bế, người được huân chương Nobel về hòa bình, như người ta từng tuyên bố, là người cuối cùng biết tin về những vụ đàn áp như thế. Và phương Tây đã tin. Chúng ta chắc chắn cũng đã tin, nếu có một người, dù chỉ một lần bị trừng trị.
Cảnh sát mật
Mỗi nước có một tên gọi khác nhau: GESTAPO, Stasi, Sekuritatia…, còn ở nước ta thì tên gọi của nó thay đổi thường xuyên: Ủy ban khẩn cấp, Ủy ban khẩn cấp toàn liên bang, Cục bảo vệ chính trị quốc gia, Dân ủy nội vụ, Bộ an ninh, Ủy ban an ninh quốc gia, Bộ an ninh Nga, mặc dù bản chất và biện pháp thực hiện chỉ là một. Đã có rất nhiều người viết về cảnh sát mật rồi, ở đây chỉ xin xác định vị trí của nó trong hệ thống [5] . Ủy ban an ninh quốc gia (KGB) là một tổ chức cực kì to lớn và liên tục phát triển, tuyệt mật, chỉ chịu sự lãnh đạo của Tổng bí thư Đảng, “các chủ nhân ông của đất nước”, tức là nhân dân không biết một tí gì về tổ chức này. Rất nhiều bộ phim, nhiều vở kịch và tác phẩm văn học viết về nó, nhưng đấy là để quảng cáo, để tạo cho người ta ấn tượng về những dũng sĩ không biết sợ hãi và không bao giờ sai lầm, những người đang tiến hành những cuộc chiến đấu ngoan cường và đầy hiểm nguy với bọn gián điệp và những tên phản cách mạng. Nhưng nhiệm vụ chính của KGB là theo dõi nhân dân thì không thấy ở đâu và không thấy ai nhắc đến cả.
Dĩ nhiên là KGB phải làm nhiệm vụ đối ngoại, rất nhiều gián điệp đã được cài vào NATO, vào Liên Hiệp Quốc v.v… Nhưng trong lĩnh vực này tình báo quân đội (GRU [6] ) được giao những nhiệm vụ quan trọng hơn, thế mà ngay trong thời kì “công khai” người ta cũng ít nhắc tới nó. Ở nước ngoài, bên cạnh các nhân viên tình báo nằm trong biên chế, KGB còn tuyển mộ rất nhiều nhân viên ngoài biên chế, đặc biệt là trong số các kiều dân Liên Xô, trong đó có cả những tên tội phạm hình sự và gái điếm, hợp tác với KGB là điều kiện “ra đi” của nhiều người trong số họ. Họ có thể nắm được gì từ những khách hàng vãng lai? Nhưng từ lâu KGB đã hoạt động theo nguyên tắc biện chứng “lượng biến thành chất”, từ những mẩu tin vụn vặt họ có thể sắp xếp thành một bức tranh hoàn hảo. Ngay cả những biểu hiện đặc thù về đời sống tình dục của đối tượng cũng có thể bị lợi dụng để dọa dẫm và tuyển mộ.
Mạng lưới của KGB bao trùm khắp nước. Phòng KGB huyện có người phụ trách từng tổ chức, từng nhà máy, từng nông trang, từng trường đại học, thậm chí từng ngôi nhà, người này có trách nhiệm tuyển mộ những tên “chỉ điểm” với trách nhiệm thường xuyên báo cáo các tin tức về người dân, về những câu chuyện họ nói với nhau và cả tâm trạng của dân chúng nữa. Mạng lưới thâm nhập vào quân đội, công an, nhà tù và trại giam và ngay cả bộ máy của Đảng. Cần vụ, lái xe của các nhà lãnh đạo cấp cao cũng là nhân viên KGB, nhiệm vụ của họ là vừa bảo vệ vừa theo dõi. KGB nắm được nhiều thông tin như thế cho nên người đứng đầu tổ chức này luôn luôn là nhân vật nguy hiểm trong những cuộc đấu đá, tranh giành quyền lực. Vì vậy Stalin thường xuyên “khử” họ. Để lật đổ Khrushchev người ta phải lôi kéo bằng được Semitrastnưi, ông này vừa kể lại như thế trên tờ “Ngọn lửa nhỏ”. Không nghi ngờ gì rằng đã từng có âm mưu chống lại Brezhnev, mà có thể không chỉ một vụ như tôi đã nói tới bên trên. Vì vậy, bộ máy của Đảng không cho KGB quá nhiều quyền lực và luôn cố gắng kiểm soát nó. Nhưng KGB lại theo dõi ngay cả các ủy viên Bộ chính trị. Năm 1990, viên tướng KGB hồi hưu là Kalugin đã quay sang phía đối lập và tố cáo rằng Gorbachev đã ra chỉ thị cấm việc theo dõi như thế. Từ xưa tới nay kẻ thù nguy hiểm nhất của Tổng bí thư trong cuộc đấu tranh giành quyền lực đã và sẽ luôn luôn là những “chiến hữu” thân cận nhất của ông ta.
Vậy hệ thống quốc nội của KGB hoạt động như thế nào? Tại cuộc thảo luận của Xô Viết Tối cao Liên Xô về việc bổ nhiệm Kruitrkov vào chức vụ chủ tịch KGB, Yeltsin đã kể lại rằng trong mười năm ông ta công tác ở tỉnh Svetlovsk, “hàng ngàn”, theo lời ông ta, nhân viên tình báo không bắt được một tên gián điệp nào. Hàng ngàn người ấy làm gì?
Trong thời kì diễn ra những biến động cách mạng ở Đông Đức và Bulgariavào năm 1990 người ta đã nói rằng cứ 10 người dân thì có 1 nhân viên an ninh mật, cả trong và ngoài biên chế. Nước ta có lẽ cũng có tỉ lệ tương tự như thế, một con số thật là khủng khiếp. Mạng lưới đó có biết rằng tham nhũng đang hủy hoại bộ máy của Đảng hay không? Nếu biết thì nó có báo cáo với lãnh đạo không? 

Những người có đầu óc dân chủ ở phương Tây không thể nào tưởng tượng được rằng KGB khủng khiếp đến mức nào vì ngay từ khi thành lập, tổ chức này đã không bị ràng buộc bởi bất kì điều luật hay tiêu chuẩn đạo đức nào. Các tướng lĩnh ngoài mặt trận phải sợ viên trung úy lực lượng SMERSH (viết tắt: giết chết bọn gián điệp – ND), vì vậy ít độc giả có thể đánh giá đúng lòng dũng cảm vô song của viên chỉ huy khi ông này bắt tay Solzhenitsyn đúng vào lúc Solzhenitsyn bị nhân viên SMERSH bắt giữ. Lao vào cuộc tấn công, dưới mưa bom bão đạn mà đầu vẫn ngẩng cao cũng không nguy hiểm bằng.
Hiện nay chúng ta đã biết những biện pháp tra tấn nào đã được đem ra sử dụng nhằm ép người ta thú nhận những tội ác mà họ chưa từng phạm. Nhẹ nhất là không cho ngủ, bình thường nhất là đánh đập. Có cả các chuyên gia-nghệ sĩ nữa: một kẻ mang bí danh là “Boxer” chỉ đấm một cái là gẫy quai hàm, một tên khác chỉ cần đá một cái là gãy xương chậu, có cả các hình thức như dìm vào bồn a xít, đè nát bộ phận sinh dục, đóng kim vào dưới móng tay, nhưng chúng ta không thể nào biết hết được. Dĩ nhiên là các cảnh sát mật cũng không được bảo hiểm khỏi số phận như vậy, họ biết như thế và cố gắng chứng minh lòng trung thành của mình, song không phải lúc nào điều đó cũng cứu được họ. Cùng với Iagoda, Egiov, Beria, Abakumov (đây là các chủ tịch KGB bị thanh trừng dưới thời Stalin) là một loạt các công an mật “trung thành” bị hạ bệ. Sau đại hội XX một số trong những kẻ từng tra tấn các cán bộ cao cấp của Đảng bị đem ra xử bắn. Nhiều tên súc sinh trong số đó thì đi vào lĩnh vực khoa học, đặc biệt là lĩnh vực luật học, thí dụ Grishaev, kẻ đã điều tra vụ “các bác sĩ sát nhân” thì nay trở thành giáo sư luật khoa. Borovski, một tên đao phủ của KGB, hắn đã điều tra 103 vụ, trong có 51 người bị xử bắn thì trở thành phó tiến sĩ sử học và sau đó là tiến sĩ kĩ thuật (?), sau khi bị khai trừ khỏi Đảng thì trở thành hội viên Hội nhà báo Liên Xô, mùa xuân năm 1988 hắn ta còn làm đại diện của báo chí Liên Xô ở Nam Tư. 

Một số tên đao phủ được cho nghỉ việc có lương hưu đàng hoàng (thí dụ như Khvata, kẻ đã tra tấn nhà bác học thiên tài Vavilov), nhưng đa số dĩ nhiên vẫn được giữ lại làm việc cũ để bảo đảm “sự liên tục”.
Tất cả bọn chúng đều là Đảng viên cộng sản!
Chính phủ Liên Xô luôn luôn bảo vệ quan điểm không áp dụng thời hiệu đối với những tên đao phủ phát xít và những tội phạm chiến tranh. KGB vẫn còn tiếp tục truy nã và tòa kêu cả án tử hình đối với các cụ già đã một thời cộng tác với bọn phát xít, nhưng cứ hễ nói đến trách nhiệm của những tên đao phủ KGB, những kẻ giết người trong các trại cải tạo thì không có ai lên tiếng trả lời, còn bộ máy tuyên truyền Liên Xô lại kêu gọi sám hối, tha thứ. Cũng dễ hiểu thôi: nếu đưa những tên đao phủ đó ra trước pháp luật thì làm sao còn tuyển mộ được những ứng viên cho cái công việc cực kì cần thiết như thế đối với chế độ cộng sản.
KGB còn có lực lượng vũ trang riêng. Ngoài bộ đội biên phòng có cả máy bay và tầu chiến (300 ngàn người), KGB còn có một lực lượng tuyệt mật gồm 12 sư đoàn (150 ngàn người), nhiệm vụ của nó là gì cũng không phải là việc khó đoán (Luận chứng và sự kiện, số 30, năm 1990). Dĩ nhiên là không phải để bắt gián điệp của CIA rồi. Ở đâu còn có cảnh sát mật, còn có KGB, GESTAPO, Stasi… thì ở đó không thể có nhà nước pháp quyền và nền dân chủ được. 

Quân đội
Liên Xô có một lực lượng vũ trang với quân số đông nhất thế giới, hơn cả Mĩ và nuớc cộng sản khác là Trung Quốc cộng lại. Trong bất kì nước “xã hội chủ nghĩa” nào tỉ lệ quân nhân trên số dân bao giờ cũng cao hơn các nước “tư bản chủ nghĩa” và được gọi là quân đội nhân dân (cái đội quân đã dùng xe tăng đè nát các sinh viên tại quảng trường Thiên An Môn lại mang tên Quân đội giải phóng nhân dân). Khi mới thành lập vào năm 1918, quân đội Liên Xô được gọi là Hồng quân công nông.
Trong cương lĩnh đầu tiên của Đảng, công bố vào năm 1903, Lenin đòi: “Thay quân đội thường trực bằng vũ trang toàn dân”, nhưng ngay sau cách mạng, cương lĩnh thứ hai của Đảng, công bố năm 1919, đã từ bỏ yêu cầu này cũng như nhiều yêu cầu khác. Biện chứng (“nước đôi”) kết hợp với chủ nghĩa duy vật lịch sử cho phép người ta viện cớ hoàn cảnh lịch sử đã thay đổi để chối phăng mọi lời hứa. Cương lĩnh thứ hai từ bỏ việc thành lập quân đội trên cơ sở tự nguyện và xác định “nghĩa vụ quân sự”. Cương lĩnh này cũng chuyển từ việc bầu cử các cấp chỉ huy đã tuyên bố trước đây thành bổ nhiệm, từ “vũ trang toàn dân” thành “quân đội thường trực” nhưng có thòng thêm rằng sau này, cùng với sự củng cố nhà nước “hình thức chuyển tiếp” này sẽ được thay thế bằng “cảnh sát vũ trang theo vùng lãnh thổ”. Buộc phải giả thiết rằng nhà nước của chúng ta chưa hoàn toàn vững mạnh, nhưng trước đó (năm 1903, trong bài báo “Về sự nghèo đói ở nông thôn”, Lenin đã giải thích rất đúng rằng: “Quân đội thường trực là quân đội xa rời nhân dân và được huấn luyện để bắn vào nhân dân”. Chúng ta sẽ thấy Lenin có lí đến mức nào.)
Sau khi nội chiến kết thúc, trong những năm 20 nguyên tắc huấn luyện quân sự theo vùng lãnh thổ vẫn được bảo đảm phần nào, đấy là do nhu cầu gắn bó quân đội với nhân dân. 

Bộ máy tuyên truyền cộng sản và pháp luật nhà nước vẫn khẳng định rằng quân đội là để “bảo vệ tổ quốc”: “Lực lượng vũ trang Liên Xô và các nước dân chủ nhân dân là thành trì của hòa bình và có nhiệm vụ bảo vệ nhân dân và nền độc lập dân tộc khỏi sự xâm lăng của các nước đế quốc chủ nghĩa[7] ”.
Nhưng ai đe dọa xâm lăng Liên Xô? Cái đội quân chi tiêu đến gần một nửa ngân sách ấy dùng để làm gì [8] ? Thứ nhất, “để bắn vào nhân dân”, để đàn áp những cuộc bạo loạn ở trong nước (quân đội đã không ít lần chứng minh được khả năng của mình trong lĩnh vực này; nó có vẻ hữu hiệu hơn ở Afghanistan). Vì vậy mà hội đồng tướng lĩnh chống lại nguyên tắc phục vụ theo vùng lãnh thổ, một nguyên tắc đang bị nhiều nước cộng hòa đòi hỏi. Tại sao lại không thể huấn luyện một người Grudia ở ngay Grudia, còn người Latvia thì ở Latvia? Chính là vì người lính sẽ không bao giờ bắn vào đồng bào của mình. “Những ngày chủ nhật đẫm máu” ở Tbilisi hay ở Vinhuis, những vụ chém giết ở Bacu sẽ không thể nào xảy ra được.
Thứ hai, theo “học thuyết của Brezhnev” thì quân đội còn có trách nhiệm giữ nhân dân các nước khác trong “phe xã hội chủ nghĩa”, quân đội đã chứng minh khả năng của mình trong cuộc khởi nghĩa ở Berlin, ở Hungary và Tiệp Khắc.
Thứ ba, quân đội đã trở thành một hệ thống độc lập, một liên minh giữa tổ hợp công nghiệp quốc phòng và hội đồng tướng lĩnh. Họ đã được vỗ béo bằng các vụ đặt hàng quân sự và những chi tiêu vô nghĩa trong lĩnh vực quốc phòng. Năm 1990 Mĩ sản xuất 6 tên lửa hành trình, trong khi Liên Xô sản xuất 120, xe tăng mỗi bên sản xuất tương ứng là 1200 và 3500! Liên Xô, trong tình trạng nguy khốn như thế về kinh tế-tài chính, lấy đâu ra tiền? Các nhà tư bản giúp! Hóa ra phi lí không phải là độc quyền của chủ nghĩa xã hội! Vì vậy chớ có hi vọng vào việc tài giảm binh bị như người ta đã tuyên bố.
Cuối cùng, thứ tư, quân đội là lực lượng lao động rẻ nhất, không khác gì nô lệ (lính chỉ được nhận có 5 rub một tháng!) rẻ như lao động khổ sai, thậm chí rẻ hơn vì họ tự canh gác lấy mình. 

Nhân tiện xin xem xét cơ cấu của quân đội. Ngày 21 tháng 2 năm 1990, tờ Tin tức công bố sơ đồ lực lượng vũ trang Liên Xô mà trước đó vẫn được coi là tài liệu mật. Mặc dù bài bình luận kèm theo sơ đồ mang tên “Bí mật của những điều không còn bí mật”, sơ đồ cố tình che giấu tình hình thực tế. Nghị quyết của Hội đồng bộ trưởng Liên Xô ngày 30 tháng 3 năm 1990 nhân mùa tuyển quân đã nhắc tới: 1. lực lượng vũ trang, 2. bộ đội biên phòng, 3. bộ đội của bộ nội vụ và 4. bộ đội đường sắt. Trong sơ đồ nêu trên chỉ nói đến “lực lượng vũ trang” còn các đơn vị xây dựng quốc phòng thì không được nhắc tới. Bằng cách đưa ra ngoài sơ đồ một phần lực lượng vũ trang, các tướng lĩnh có thể biến báo các số liệu về quân nhân. Bộ đội của KGB cũng không được nhắc tới (họ không chỉ làm nhiệm vụ canh phòng biên giới như đã được nói tới bên trên).
Tôi không biết các nước khác có như thế không, nhưng bộ đội đường sắt, cũng được gọi nhập ngũ như các “lực lượng vũ trang” khác, lại trực thuộc Bộ giao thông vận tải! Trái ngược với công ước của Tổ chức lao động quốc tế (ILO), các chàng thanh niên của chúng ta bị động viên không phải để huấn luyện quân sự và bảo vệ tổ quốc mà để làm những công việc xây dựng quốc phòng và bảo vệ những con đường, một việc mà một người lao động có trả lương bình thường có thể làm rất tốt, nhưng như thế nhà nước sẽ tốn kém hơn rất nhiều.
Các đơn vị xây dựng quốc phòng chính là nỗi nhục và sự đau khổ của đất nước! Các đơn vị này có quân số là 329 ngàn người và nằm dưới quyền điều khiển của hơn 20 bộ và tổng cục (Tin tức, ngày 12 tháng 6 năm 1990). Như vậy nghĩa là các quân nhân của những đơn vị này được Bộ quốc phòng gọi nhập ngũ rồi bán làm nô lệ cho các bộ khác để làm những việc và trong những điều kiện mà không một người tự do, một người thất nghiệp nào chịu làm. Xin các nhà hoạt động vô cùng nhân đạo và được trả lương vô cùng cao của ILO trả lời xem điều đó có phù hợp với các công ước mà Liên Xô đã kí hay không? Và họ đã làm gì với những sự vi phạm nghiêm trọng các công ước tại các nước “xã hội chủ nghĩa”?
Người ta cho rằng “các chiến sĩ xây dựng” cũng được nhận lương, nhưng “lương trung bình của một số thợ xây dựng chỉ từ 9 đến 15 rub” (Người đoàn viên Moskva, ngày 15 tháng 1 năm 1991), ngoài ra những người lính này phải tự thanh toán tiền “ăn”, tiền “quần áo” và tiền “nhà ở” nữa. Kết quả là để được tự do những người lính này phải xin tiền cha mẹ vì “thời hạn trở về làm quân nhân dự bị” phụ thuộc vào việc thanh toán số nợ mà họ đã mắc phải trong thời gian làm “làm công quả nói trên”. “Gần một nửa binh sĩ làm những công việc như rửa bát trong các nhà ăn, các cửa hàng café, nhân viên quét rác, giữ trẻ hoặc là thợ phụ trong các nông trang” (tờ báo đã dẫn). Không phải vô tình mà tôi đặt trong ngoặc kép các từ “ăn”, “nhà ở”, “quần áo”. Hơn một ngàn bộ đội của Bộ xây dựng Tây-Bắc và hơn một trăm người của Bộ xây dựng vùng Ural-Sibiri phải ở trong các trại giam và nhà tù mà vì thiếu điều kiện vệ sinh người ta phải …đưa các tù nhân đi nơi khác! Những người lính còn phải sống trong khu vực mỏ phốt-pho với nồng độ bụi phốt-pho cao gấp hàng chục lần nồng độ tối đa cho phép. Có một câu chuyện tiếu lâm cười ra nước mắt: khi ông tướng hạ lệnh: “Thay áo!” thì những người lính ở trại này đổi áo cho lính trại kia. Thế mà ngay đồng lương chết đói ấy có đôi khi mấy tháng liền họ cũng không được nhận. Người lính còn biết làm gì? Không phải vô tình mà trong các đơn vị xây dựng hàng năm xảy ra 8.000 vụ tội phạm (số thống kê được), nghĩa là chiếm 42% các vụ tội phạm trong toàn quân.
Ngày 12 tháng 6 năm 1990 tờ Tin tức có một bài báo ngắn dưới đầu đề khá vui: “Vĩnh biệt lính thợ xây!” nói về dự thảo chỉ thị (được Gorbachev kí ngày 16 tháng 11 năm 1990) về việc giải tán các đơn vị xây dựng quốc phòng trực thuộc các bộ dân sự (!). Nhưng cũng chẳng có gì đáng vui: chỉ thị còn để lại một loạt “trường hợp ngoại lệ” cho phép giữ lại tình trạng nô lệ cho đến năm 1992 [9] (lúc đó sẽ tính!).
Câu chuyện về tình trạng nô lệ của những người lính sẽ là không đầy đủ nếu không nói thêm rằng “lính thợ” là những người không thể phục vụ trong các đơn vị vũ trang, nghĩa là những người yếu đuối, bệnh tật. Vì vậy mà sau thời gian thực hiện nghĩa vụ quân sự nhiều người trong số họ đã trở thành tàn phế, một số thì chết.
Trong chỉ thị của Tổng thống ban hành năm thứ sáu của “thời kì cải tổ” chỉ nói tới những người lính thợ bị đem bán cho các bộ dân sự. Nhưng vẫn còn đó các công trường xây dựng quốc phòng, trong đó có cả việc xây nhà ở và nhà nghỉ cho các tướng lĩnh nữa. Điều kiện ở đây cũng không khác gì các bộ dân sự đã nói bên trên.
Chính các tương lĩnh đã cho thuê các đơn vị của mình. Trong tờ “Ngọn lửa nhỏ“ có bài phóng sự của A. Borovik-con về các đơn vị đổ bộ đường không. Các chiến sĩ ở đây thường xuyên phải làm các công việc xây dựng dân sự đến nỗi họ tự gọi mình là “thợ xây đội mũ nồi xanh”. Xin nói thêm rằng năm 1990 các đơn vị đổ bộ với đầy đủ trang thiết bị được đưa đến gần Moskva, các tướng lĩnh biện hộ rằng đấy là để giúp thu hoạch mùa màng. Nhưng dù sao lính đổ bộ cũng được luyện tập quân sự và sử dụng vũ khí, họ đã chứng minh điều đó ở Tbilisi và Vinhius. Lính xây dựng thì không bao giờ được học những cái đó.
Còn phải nói thêm về một loại lao động nô lệ nữa: khi thiếu lực lượng lao động nghiêm trọng (thí dụ như lái xe vào mùa thu hoạch), bộ máy Đảng sẽ ra lệnh cho ban chỉ huy quân sự, các ban này thực hiện lệnh động viên gọi là tái huấn luyện và ngay đêm đó (bao giờ cũng ban đêm) ra lệnh cho các quân nhân dự bị tập trung. Các quân nhân dự bị này được đưa đến những khu vực cách nhà hàng ngàn cây số và phải sống và làm việc trong những điều kiện khủng khiếp. Người công dân biết làm gì? Chống đối hoặc trốn tránh sẽ bị đưa ra tòa và sau đó là trại giam. Đấy, chọn đi. Những người “khắc phục sự cố” (những nhân viên khắc phục sự cố tai nạn nhà máy điện nguyên tử Chernobyl) cũng bị động viên theo cách đó, nhiều người trong số họ đã trở thành tàn phế hoặc đã chết. Tất cả những chuyện này đều xảy ra ngay trước mắt người phương Tây.
Sau những vụ bắn giết ở Bacu, ở Vinhius, và ở Riga, báo chí theo tư tưởng tự do ở Liên Xô đặt câu hỏi: Liệu việc sử dụng quân đội chống lại thường dân tay không tấc sắt, việc sử dụng quân đội để tuần tra đường phố là có đúng luật, có phù hợp với hiến pháp không… Nhưng trong cả hiến pháp lẫn pháp luật về luật nghĩa vụ quân sự đều không có một lời nào về mục đích của nghĩa vụ quân sự cả. Có những lời như trách nhiệm cao cả, nhiệm vụ vinh quang v.v… nhưng đấy là những điều mà tất cả các công dân đều phải làm, còn cụ thể người ta phải làm gì trong thời gian tại ngũ thì không có. Điều đó, dĩ nhiên là không phải vô tình rồi.
Quân đội, cái đội quân mà nhiệm vụ chính là chiến đấu chống lại chính đồng bào mình và làm những việc dành cho nô lệ chứ không phải là “bảo vệ tổ quốc” như người ta vẫn tuyên truyền, chỉ có thể tồn tại khi người lính phải phục tùng mù quáng, khi người lính sợ cây gậy của cai đội hơn là viên đạn của kẻ thù. Trong giai đoạn “bán công khai” trên báo chí đã xuất hiện thông tin về những hiện tượng nhơ nhuốc, được gọi là “các quan hệ không phù hợp với điều lệnh”, mà trước đây người ta tìm mọi cách che giấu. Các sĩ quan và hạ sĩ quan đánh đập, cướp bóc, ăn hối lộ chiến sĩ, bắt chiến sĩ phải làm việc cho mình hoặc cho các tổ chức khác để lấy tiền, nghĩa là cho thuê chiến sĩ dưới quyền mình. Còn có hiện tượng gọi là “ma cũ”: những người lính cũ bắt các lính mới nhập ngũ phục vụ mình không khác gì nô lệ phục vụ ông chủ. Nếu không làm thì bị đánh đến chết (đánh chết có lợi hơn bị thương vì nếu chết thì lãnh đạo sẽ che giấu và báo cáo lên trên là tai nạn hoặc tự sát còn bị thương sẽ dẫn đến kiện cáo, điều tra…). Nói chung số lượng binh sĩ tử vong trong thời bình là rất lớn, nhưng tất nhiên là số liệu không được công bố. Gia đình cũng không được nhận xác nạn nhân [10] .
Cảnh sát và “Lực lượng Bộ nội vụ”
Các lực lượng này trực thuộc Bộ nội vụ. Shelokov đã từng công bố huấn lệnh trong có nói đến hiện tượng thâm nhập của thế giới tội phạm vào lực lượng cảnh sát [11] . Trên kia tôi đã đưa ra một số dẫn chứng. Trên báo chí những năm gần đây đã nói tới sự tham gia trực tiếp của cảnh sát vào các băng nhóm tội phạm, những vụ cướp bóc v.v… Có cả những hiện tượng không thể nào tưởng tượng nổi: G. Elgert, một thượng tá công an bị bắt khi đang… móc túi ngay giữa chợ (Tin tức ngày 2 tháng 2 năm 1989).
Về mặt lí thuyết thì cảnh sát bảo vệ xã hội khỏi bọn tội phạm, nhưng nhiệm vụ này họ thực hiện rất kém, mặc dù trên báo chí và phim ảnh chủ nghĩa anh hùng và lòng nhân ái của các chiến sĩ công an luôn luôn được đưa lên đến chín tầng mây. Trong khi tội phạm gia tăng không ngừng, điều này không nói thì ai cũng biết. Có thể biện hộ, dù không hoàn toàn thuyết phục: công việc vất vả, lương thì không cao vì vậy mà cảnh sát phải “lấy người” từ những anh chàng bộ đội xuất ngũ không muốn trở về làng. Cấp trên lợi dụng việc đó, đã tìm các bóc lột các cảnh sát viên một cách thậm tệ, gây nhiều ấm ức. Cảnh sát có thể trút những ấm ức của mình lên những người công dân bình thường và họ đã làm đúng như thế.
Trong kì họp của Xô viết Tối cao Liên Xô, ông Bộ trưởng Bộ nội vụ đã biện hộ cho sự yếu kém của cảnh sát trong cuộc đấu tranh với tội phạm bằng cách nói rằng số lượng cảnh sát ở nước ta ít hơn so với các nước văn minh khác [12] . Nhưng cũng phải thấy người ta sử dụng quân sĩ như thế nào: một số lượng lớn binh sĩ được sử dụng để “bảo vệ các mục tiêu” như nhà nghỉ của bộ máy Đảng, huyện ủy, tỉnh ủy và thậm chí cả … tòa soạn báo! Có ở đâu người ta làm thế hay không? Cảnh sát ngăn chặn ai thâm nhập, thí dụ, vào tòa soạn báo “Sự thật thanh niên”? Bọn đổ bộ, gián điệp CIA ư? Rõ ràng là cảnh sát có đủ sức để ngăn chặn nhân dân, nhưng không đủ sức bảo vệ nhân dân.
Song trong giai đoạn “cải tổ” và “dân chủ hóa” tất cả cảnh sát đều được phát dùi cui, họ đã biết sử dụng chúng để giải tán các cuộc mít tinh và biểu tình. Một lực lượng đặc biệt gọi là OMON (lực lượng cảnh sát đặc nhiệm), chuyên làm nhiệm vụ đàn áp được thành lập: người ta đã chiếu cho chúng ta thấy họ đấm, đá, đánh bằng dùi cui và xẻnh khéo léo đến mức nào. Họ sẽ đánh ai? Bọn bảo kê và những tên lưu manh ư? Gorbachev, một người rất được phương Tây ngưỡng mộ, một người từng nhận nhiều huân huy chương đã kí ban hành luật về quyền hạn của lực lượng vũ trang Bộ nội vụ: trong rất nhiều quyền mà họ được giao có cả “quyền” khám xét, bắt giữ mà không cần lệnh của Viện kiểm sát. Chuyện đó (dĩ nhiên là trên giấy tờ chứ không phải thực tế) chưa từng xảy ra ngay dưới thời Stalin.
Lực lượng của Bộ nội vụ (khác với binh lính của Bộ quốc phòng, trên phù hiệu binh lính Bộ nội vụ có hai chữ cái ВВ) có nhiệm vụ bảo vệ nhà tù và trại giam cũng như đàn áp đồng bào mình. Trong giai đoạn “cải tổ” người ta còn sử dụng họ làm những việc này thường xuyên hơn trước. 

Tòa án

Tòa án chỉ xử theo luật. Và theo chỉ đạo của bí thư.

 (Tiếu lâm)
Lịch sử hình thành hệ thống pháp lí Liên Xô thật đáng quan tâm, nhưng ở đây không có điều kiện đi sâu vào vấn đề đó. Ngay sau cách mạng tại các địa phương đã xuất hiện các “tòa án cách mạng”, được dẫn dắt không phải bởi luật pháp mà bởi “nhận thức pháp lí cách mạng [13] ”, theo đó bất kì một tên “tư sản” nào (kể các các giáo sư, luật sư, bác sĩ…) đều là kẻ thù giai cấp, “những kẻ uống máu nhân dân” và vì vậy đáng bị trừng phạt, kể cả xử bắn. Trong một thời gian ngắn tòa án cũ với pháp luật thời Sa hoàng vẫn được áp dụng, nhưng đấy là chỉ để giải quyết những tranh chấp dân sự.
Trước hết, chính quyền mới thiết lập các cơ quan đàn áp bên ngoài tòa án. Khởi kì thủy, ủy ban quân sự cách mạng tự mình thực hiện tất cả các chức năng: bắt, xử và kết án, bỏ tù hoặc xử bắn bất kì ai, không cần bất kì thủ tục và luật lệ nào. Ngay từ tháng 11 năm 1917 người ta đã thành lập Hội đồng chống phản cách mạng trực thuộc ủy ban quân sự cách mạng toàn Nga và tháng 12 thì thành lập ủy ban đặc biệt toàn Nga [14] . Các nhà luật học Liên Xô viết về ủy ban này như sau: “Cần phải nói rằng trong giai đoạn đầu (trước cuộc can thiệp của nước ngoài và nội chiến) ủy ban đặc biệt không có (hoặc gần như không có) quyền lực đặc biệt [15] …”. Chỉ có các luật sư Liên Xô mới có thể viết: ủy ban đặc biệt không có quyền lực đặc biệt! Đơn giản là quyền lực của nó không được xác định, nghĩa là không có giới hạn! Điều đặc biệt là bao giờ ủy ban đặc biệt cũng đóng trong các tòa nhà có tầng hầm rộng và sâu (ngân hàng, hãng bảo hiểm ..v.v..),

nơi người ta có thể tra tấn, bắn giết, thường là ban đêm và bí mật mang xác đi chôn trong những nấm mồ tập thể [16] .
Tháng giêng năm 1918 xuất hiện các “tòa án cách mạng” với hình thức xét xử có vẻ công khai. Ngay việc bị đưa ra tòa án cách mạng đã có nghĩa là tội nặng rồi, tuy vẫn có những trường hợp được trắng án hoặc án nhẹ [17].
Hệ thống tòa án để xem xét các vấn đề dân sự và hình sự, không có tính cách chính trị được thành lập vào cuối năm 1917 và ban đầu không có tính chất tập quyền: theo nghị định số 1 về tòa án thì tòa án địa phương có quyền giải quyết tất cả các vụ án, tòa án huyện phụ trách phúc thẩm. Năm 1918 tòa án khu vực được thành lập và sau đó thì tòa án phúc thẩm ở Moskva ra đời. Quan tòa và hội thẩm nhân dân do Xô viết địa phương, nghĩa là bộ máy Đảng “bầu”.
Nhưng trước hết các tòa án này là để phục vụ cho việc đàn áp, xin trích dẫn bài “Về những nhiệm vụ tiếp theo của chính quyền Xô viết” của chính Lenin: “Dần dần, khi nhiệm vụ chính không phải là đàn áp bằng vũ lực nữa mà là quản lí thì biểu hiện của đàn áp và cưỡng chế không phải là xử bắn tại chỗ mà là tòa án”.
Hệ thống tòa án hiện nay được xây dựng như sau: bậc thấp nhất gọi là “tòa án nhân dân” (cấp huyện hay thành phố). Thường thì tòa lại chia thành các tòa án khu vực với một thẩm phán, “trực thuộc” (người ta viết trên báo như thế) chủ tịch tòa án nhân dân. Các thẩm phán nhân dân do Xô viết cấp trên “bầu” (thí dụ thẩm phán tòa án huyện thì do Xô viết tỉnh bầu), các hội thẩm nhân dân thì do quần chúng bầu bằng bỏ phiếu công khai. Thẩm phán và hội thẩm Tòa án Tối cao (liên bang, nước cộng hòa, cộng hòa tự trị) do Xô viết tối cao tương ứng ”bầu” (thẩm phán – 10 năm, hội thẩm – 5 năm).
Ngoại trừ một số trường hợp do thẩm phán tự quyết định, tất cả các vụ án đều được một thẩm phán và hai hội thẩm có quyền lực ngang nhau xét xử.
Quân đội được các tòa án quân sự “phục vụ”, các tòa án này trực thuộc Hội đồng quân sự của Tòa án Tối cao Liên Xô.
Xin bỏ qua những “tam nhân”, “nhị nhân” và các “hội nghị đặc biệt” hồi những năm 30 mà sẽ mô tả một cách cụ thể hệ thống tòa án hiện nay vì nguyên tắc tổ chức của nó có thể được tìm thấy một cách dễ dàng trong các tác phẩm của các luật sư Liên Xô cũng như nước ngoài [18] . Tuy vậy cũng cần một thái độ có phê phán đối với các đánh giá về hoạt động của các tòa án vì tất cả các tác phẩm của Liên Xô đều có tính cách biện hộ (khác đi thì không thể nào xuất bản được), còn các tác giả ngoại quốc thì thường lại không biết các hoạt động hậu trường của tòa án.
O. Luchterhandt, trong bài điểm sách về tác phẩm của O. Ioffe, một cựu luật sư Liên Xô (hiện nay là luật sư Mĩ), đã phê phán tác giả là quá dè dặt trong việc sử dụng những “hiểu biết về hậu trường” của mình, cụ thể là nói quá ít về những “tòa án đặc biệt” làm cho độc giả phải thất vọng [19] . Tôi sợ rằng Ioffe chỉ làm bộ là ông ta bảo vệ bí mật của tòa án Liên Xô và chỉ nói những điều ông ta có thể nói về “tòa án đặc biệt” mà thôi. Các tòa án này bí mật đến nỗi chỉ những người trực tiếp tham gia mới có thể nói, nhưng họ sẽ không nói đâu. Các luật sư khác thì hoặc là không nắm được hoặc gần như không nắm được gì.
Theo tôi biết, qua những mẩu tin thu thập được một cách vô tình, thì từ “tòa án” đi kèm với từ “đặc biệt” có thể chỉ nhiều loại tòa án khác nhau. Tòa án đặc biệt có thể là tòa án trại giam nghĩa là tòa án xét xử tội trạng của tù nhân đang bị giam giữ. Đây là loại tòa án ít được giữ bí mật nhất và về hình thức thì nó được coi tòa án bình thường, nhưng tôi cũng chưa từng được đọc bất cứ tài liệu nào nói về hoạt động của nó cả.
Các tòa án trong các khu dân cư bí mật của Liên Xô cũng thuộc loại tòa án đặc biệt. Đa số dân chúng không biết gì, rất ít người biết rằng có những loại tòa án như vậy (“công khai hóa” chẳng thay đổi gì trong lĩnh vực này).
Có thể còn những loại “tòa án đặc biệt” khác nữa. Thí dụ nếu nhân viên KGB phạm tội hình sự hoặc tội phản bội tổ quốc… thì bị đem ra xét xử ở các toàn án binh bình thường.
Tất cả các thẩm phán đều là Đảng viên và vì là Đảng viên họ phải chấp hành kỉ luật Đảng nghĩa là nằm dưới quyền của “bí thư”, làm gì có chuyện độc lập của thẩm phán ở đây. Không thực hiện “chỉ thị” được coi là tội nặng nhất, kéo theo kỉ luật khai trừ khỏi Đảng hoặc cảnh cáo và lập tức bị miễn nhiệm.
Các nhà Luật học-Xô viết học phương Tây có thái độ phê phán đối với hệ thống tòa án Liên Xô cũng chỉ biết hệ thống này qua các tài liệu mang tính biện hộ chứ không biết các hoạt động hậu trường của nó. Thí dụ ông D. Khazard, một người khá nổi tiếng, đã tốt nghiệp khoa luật trường đại học Tổng hợp Moskva, không cho rằng áp lực của Đảng lên các tòa án là đặc trưng của hệ thống tòa án Liên Xô; ông ta khẳng định rằng tòa án Liên Xô tuân theo đường lối của Đảng, “nhưng quyết định của họ về những vụ việc cụ thể không bị áp đặt từ trên xuống [20] ”. Rõ ràng là ông ta không biết gì về “luật miệng”, thực chất của nó là không chỉ “anh hai” mà còn “anh ba”, “anh tư”… của huyện (của tỉnh, của trung ương thì tiếng nói càng có trọng lượng hơn), thậm chí giám đốc sở thương mại, nơi cung cấp lương thực thực phẩm cho con cái thẩm phán cũng có thể “hướng dẫn” (hay là “đề nghị”) thẩm phán qua điện thoại cách xử một vụ án hình sự hay dân sự mà họ quan tâm [21] .
Thẩm phán của các tòa cấp trên (kể cả kiểm sát viên) thường được bộ máy Đảng bổ nhiệm, có người trước đó chẳng có liên quan gì đến lĩnh vực pháp luật cả. Thí dụ sau khi Stalin chết, để loại Gorkin khỏi chức thư kí Chủ tịch đoàn Xô viết Tối cao, người ta đã “bầu” ông ta làm Chánh án Tòa án Tối cao Liên Xô mặc dù ông ta chưa từng học luật và chưa công tác trong ngành tòa án ngày nào.
Các thẩm phán tòa án cấp dưới không được bảo đảm về vật chất (năm 1989 lương trung bình của công nhân viên chức là 250 rub, trong khi lương thẩm phán là 180 rub), sống nghèo khổ như thế cho nên không điều luật nào về sự độc lập của thẩm phán có đủ sức ngăn chặn được “luật miệng”. 

Các tòa án thường nằm trong các khu vực tệ hại nhất, thường là trong các tòa nhà sắp sập đến nơi; ngay ở Moskva cũng không có phòng chờ dành cho nhân chứng, họ phải ngồi đợi ngoài hành lang. Phòng làm việc của thẩm phán đồng thời là phòng họp của tòa vì vậy mà điện thoại, thậm chí điện thoại đặc biệt nối với các cấp lãnh đạo lúc nào cũng sẵn sàng [22].
Chúng ta sẽ còn trở lại với tòa án và công tác xét xử vì nó liên quan đến pháp luật, ở đây chúng ta chỉ nói đến vị trí của tòa án trong hệ thống đàn áp và để tránh bị kết tội là thiên kiến (mặc dù chẳng thể nào tránh được) xin kết thúc phần này bằng những chỉ dẫn của Lenin bất tử, người sáng lập nhà nước cộng sản: trong thư đề ngày 17 tháng 5 năm 1922 gửi Kursky, dân ủy tư pháp, về dự thảo Luật hình sự, lãnh tụ yêu cầu: “đặt ra một cách công khai qui chế có tính nguyên tắc và chân thực về mặt chính trị (chứ không chỉ pháp lí) nêu rõ bản chất và biện minh cho sự khủng bố, nhu cầu và giới hạn của nó.
Tòa án không được bãi bỏ khủng bố; hứa hẹn điều đó là tự lừa dối, mà phải chứng minh và luật hóa nó về mặt nguyên tắc, rõ ràng, không dối trá, không thêu dệt”.
Amen! 

Viện kiểm sát
Nói về đặc điểm của Viện kiểm sát, một cơ quan quan trọng của chế độ Xô viết, nên bắt đầu bằng một trong những tác phẩm hay nhất của Lenin liên quan đến vấn đề pháp luật, tức là bức thư đề ngày 20 tháng 5 năm 1922 của Lenin gửi Stalin để chuyển cho Bộ chính trị với nhan đề “Về sự phụ thuộc kép và luật pháp”. Nguyên do là đa số các ủy viên Ban chấp hành trung ương quyết định rằng Viện kiểm sát mà Lenin đang cho thành lập để tăng cường “quyền lực theo chiều dọc” phải được xây dựng theo nguyên tắc “phụ thuộc kép”, nghĩa là phụ thuộc cả trung ương lẫn chính quyền địa phương. Lenin phản đối quyết định đó, ông cho rằng quyết định đó “phản ánh quyền lợi và thành kiến của giới chức quan liêu địa phương”. Ông kiên quyết bảo vệ tính tập quyền. 

Lenin đã thắng và cho đến nay Viện kiểm sát vẫn là cơ quan tập quyền, nó là tổ chức mà theo pháp luật là độc lập và không phụ thuộc vào chính quyền địa phương. Tuy nhiên chiến thắng của Lenin làm tôi nhớ lại một câu chuyện tiếu lâm xưa như sau. Ở một làng kia, dân chúng chia làm hai phe khi xây dựng nhà tắm: một phe đòi bào những thanh gỗ lát sàn vì nếu không thì sẽ bị dằm đâm vào chân, phe kia nói rằng bào thì sẽ dễ trơn trượt và ngã. Họ liền đến gặp ông từ. Ông này đã đưa ra lời khuyên làm cho cả hai phe cùng hài lòng như sau: “Gỗ phải đem bào! Rồi đặt mặt đã bào xuống phía dưới!”. Các kiểm sát viên phải được “bầu” trong số các ủy viên ban chấp hành Đảng bộ cấp tương đương, như vậy anh ta nằm dưới quyền lãnh đạo của “anh hai” cùng cấp. Từ đó “anh hai”, như đã nói bên trên, không những có quyền chỉ đạo kiểm sát viên mà còn có thể tống khứ kiểm sát viên ra khỏi phòng làm việc của mình.
Tương tự như các nhà Luật học-Xô viết học đi tìm nguồn gốc tình trạng vô luật pháp và khủng bố ở Liên Xô, Lenin đã viết về “quan niệm ngàn đời và thói quen mọi rợ của người Nga muốn giữ luật pháp của tỉnh Kaluga khác với tỉnh Kazan.” Nếu một số nhà khoa học phương Tây (thí dụ như S. Kutrerov) hoàn toàn có lí khi cho rằng nền pháp chế “xã hội chủ nghĩa” có “một khoảng cách toang hóac giữa lời văn và thực tiễn” và nguyên tắc pháp chế chung nhất của tất cả các nước “xã hội chủ nghĩa” chính là nguyên tắc “cưỡng chế” thì những người khác (thí dụ J.N.Hazard), dựa vào logic hình thức phương Tây và “luật trên giấy” lại khẳng định rằng pháp chế và ổn định là cần thiết “ngay cả” đối với Trung Quốc và vì vậy việc vi phạm tính chất pháp lí không phải là đặc điểm của “pháp luật xã hội chủ nghĩa”.
Tất nhiên là tình trạng vô luật pháp gây cho nhà nước nhiều thiệt hại. Tất nhiên là các nhà cầm quyền muốn rằng mệnh lệnh của họ phải được thực hiện vô điều kiện, vì vậy những lời kêu gọi tuyệt đối tôn trọng pháp luật không ngừng được đưa ra, từ Lenin tới Gorbachev (kể cả thời Stalin). Đồng thời họ lại muốn được độc đoán, chuyên quyền. Hai cái này không thể nào sống chung với nhau được và vì vậy độc đoán, chuyên quyền và vô pháp luật luôn luôn thắng thế.
Về mặt hình thức thì chức năng của Viện kiểm sát là kiểm sát việc tuân thủ pháp luật trong tất cả các lĩnh vực, kể cả KGB, Bộ nội vụ, nhà tù… Nhưng trên thực tế vai trò của nó chỉ là khởi tố các vụ án hành sự và lãnh đạo việc điều tra (chuyện này hiện đang bị xã hội chống đối), nghĩa là nó đóng vai trò quan trọng trong hệ thống đàn áp.
Nói về kiểm sát việc tuân thủ pháp luật thì trong suốt tiến trình lịch sử chưa bao giờ nó có ý kiến phản đối các vụ đàn áp tập thể và tình trạng vô pháp luật cả. Nếu có ai đó còn dẫn ra những thí dụ khác nữa thì cũng không phủ nhận được điều gì, hơn nữa, ở đây tôi lại xin trích dẫn Lenin: trong bức thư đã nói ở trên, Lenin tuyên bố: “Khác với tất cả các cơ quan hành pháp, viện kiểm sát không có quyền lực gì, không có tiếng nói quyết định về bất kì vấn đề gì”.
Dùng y tế để trừng phạt
Như đã nói, ở nước ta tất cả các cơ quan, kể cả những buổi họp nông trang, báo chí, đài phát thanh, vô tuyến truyền hình đều tham gia vào việc đàn áp (xin hãy nhớ lại những vụ lăng nhục “các bác sĩ-sát nhân”, “những người theo chủ nghĩa quốc tế”, “những tên phá hoại”, rồi Pasternak, Brodsky và biết bao người khác). Người ta đã viết nhiều về việc sử dụng các bệnh viện tâm thần như một phương tiện đàn áp, thế mà các bác sĩ tâm thần Liên Xô (chính là họ!)

không hề nhận trách nhiệm gì, cũng không hề sám hối, vẫn được phương Tây hoan nghênh và giữ được vị trí danh dự trong ngành tâm thần học thế giới.
Vì vậy tôi đã phân vân khá lâu trước khi đưa mục này vào cuốn sách. Y học là lĩnh vực nhân đạo nhất trong hoạt động của con người. Ở nước ta y học cũng làm những chức năng như ở tất cả các nước khác. Đa số bác sĩ, dù điều kiện sống và làm việc vô cùng khó khăn (bình thường một bệnh nhân được khám trong 8 phút; trong thời gian đó bác sĩ phải nghe bệnh nhân rồi viết vào sổ khám bệnh, khám và chuẩn đoán, lại phải viết vào sổ, ghi toa và liều dùng, rồi cũng phải ghi vào sổ…), không có thuốc và thiết bị vẫn dũng cảm vượt qua tất cả để hoàn thành nhiệm vụ của mình. Tuy thế ngành y tế của chúng ta còn thực hiện cả chức năng đàn áp nữa. 

Trazov, một người rất được lòng phương Tây, một bác sĩ của bộ máy Đảng và nhà nước Liên Xô, người đã được tặng rất nhiều huân huy chương, đã ra lệnh không được ghi những trường hợp nhiễm phóng xạ và các bệnh liên quan, kể cả các trường hợp tử vong, mà coi là các bệnh bình thường! Chả lẽ đây không phải là tội ác chống nhân loại, không phải là tội diệt chủng một cách cố ý chỉ vì nhà nước không muốn trả tiền bồi thường và không chịu thực hiện các biện pháp cần thiết ư? Chỉ mấy ngày sau thảm họa Trernobưl người ta đã buộc trẻ con Kiev tham gia biểu tình nhân ngày 1 tháng 5 để chứng tỏ vụ nổ không nguy hiểm trong khi bụi phóng xạ vẫn tiếp tục rơi! Các bác sĩ đã không kêu lên rằng: “Các người đang làm cái gì vậy?”, hàng ngàn bác sĩ nhẫn nhục thực hiện mệnh lệnh của Trazov: không chuẩn đoán là người ta bị bệnh phóng xạ mà đưa ra những chuẩn đoán giả. Không có sự giúp đỡ của họ thì mệnh lệnh của Trazov sẽ vĩnh viễn nằm trên giấy, nhưng họ đã là đồng phạm của hàng ngàn vụ giết người một cách cố ý. Họ là những bác sĩ!
Mãi đến bây giờ, sau 14 năm, khi tỉ lệ người bệnh và người chết đã đến mức khủng khiếp (nếu được chữa trị kịp thời thì đã ngăn chặn được nhiều trường hợp) cấp trên mới cho phép đưa ra chuẩn đoán đúng.
Số liệu về những người bị nhiễm xạ (theo một số nguồn tin là khoảng 4 triệu người) vẫn được giữ kín tại 3 vụ của Bộ y tế và Bộ quốc phòng Liên Xô.
Viện kiểm sát tỉnh Gomel đã khởi tố vụ án hình sự về vụ khám bệnh giả cho 50 ngàn người (trong đó có 5 ngàn trẻ em). Các bác sĩ, tuy không nhìn thấy người, đã ghi vào sổ sức khỏe của họ là không phát hiện được bệnh tật gì! Các cuộc khám nghiệm hiện nay cho kết quả: 100% trẻ dưới 3 tuổi, 62% trẻ dưới 7 tuổi, 13% trẻ dưới 15 tuổi bị bệnh thiếu máu; tuyến giáp trạng bị tổn thương làm nhiều người bị bướu cổ. Nhưng sau đó Viện kiểm sát đã hủy bỏ vụ án vì các bác sĩ chỉ làm theo lệnh của Bộ y tế (Sự thật thanh niên, ngày 15 tháng 9 năm 1990). Họ đã thực hiện mệnh lệnh!
Các bác sĩ thuộc viện tâm thần mang tên Serbsky đã từng tham gia đàn áp những người “bất đồng chính kiến” lại cũng tham gia chống lại những người bị nhiễm phóng xạ khi họ tố cáo là chuẩn đoán láo. Các bác sĩ tâm thần đã nói rằng họ bị… “tâm thần do nhiễm phóng xạ!” 

Thế mà suốt 5 năm, cả Tổng thống, người rất được phương Tây kính trọng, cả các “nghị sĩ”, cả chính phủ đều không biết gì? KGB, không cái gì không biết, mà cũng bị che mắt ư?
Gần đây người ta đã cho công bố các biên bản của Bộ chính trị, hóa ra mức độ thiệt hại của thảm họa đã bị che giấu là do quyết định của chính tổ chức này.
Người ta vẫn còn sử dụng khoa tâm thần như một phương tiện đàn áp. Dĩ nhiên là sử dụng khoa tâm thần vào các mục đích chính trị đã giảm nhiều vì trước hết là việc dân chủ hóa các quan điểm và thứ hai là do sự tăng cường chú ý của xã hội. Nhưng tại các địa phương bệnh viện tâm thần vẫn thường xuyên được sử dụng để trấn áp những người “gây nhiễu”. Thí dụ một người dân làng Slavkino tên là Iu. Sobolev có ý định phát biểu chống lại “anh hai” của tỉnh Ulianovsk tại cuộc họp vận động bầu cử. Theo lệnh của “anh hai” huyện, Sobolev bị đưa vào nhà thương điên nhưng sau đó trốn ra được. V. Kalamov, người bác sĩ “chuẩn đoán” cho Sobolev, sau đó đã giải thích: “Người ta hạ lệnh như thế, biết làm sao được?” (Tin tứcngày 28 tháng 6 năm 1989).
Đạo đức của các bác sĩ đã thấp đến mức không thể thấp hơn được nữa. Khi việc sản xuất ma túy với số lượng lớn chưa được tổ chức thì các nhân viên ngành y là những người cung cấp chính chất gây nghiện này. Họ cũng đầu cơ các loại thuốc quí hiếm bằng cách ăn cắp từ các bệnh viện, các phòng khám và nhà thuốc. Gần một nửa bệnh nhân AIDS (trong đó có cả trẻ em ẵm ngửa) là do các bác sĩ gây ra trong quá trình truyền máu tại bệnh viện.
Trong các năm 1988 -1989 gần 33 ngàn nhân viên y tế đã bị khởi tố (Tin tức ngày 17 tháng 10 năm 1990).

Còn 6 kì nữa

[1]toàn tập luật pháp Cộng hòa xã hội chủ nghĩa liên bang Nga,1917, số 3, trang 33 
[2]toàn tập luật pháp Cộng hòa xã hội chủ nghĩa liên bang Nga, 1917, số 5, trang 70
[3]Báo cáo của tòa án quân sự hạm đội Baltic về những người bị kết án năm 1919. Thành phần giai cấp như sau: công nhân, nông dân – 871 người, trí thức – 173 người, tư sản – 5 người, nghĩa là ít hơn 0,5%. Về Đảng tịch còn đáng quan tâm hơn: 801 người không Đảng phái, những kẻ đồng loã (có thể là các Đảng viên Melsevik và các Đảng phái khác) – 17 người, bạch vệ – 3 người (ít hơn 0,3%), Đảng viên cộng sản – 196 người, nghĩa là gần 20%.   М. Zinger. Báo cáo của tòa án quân sự hạm đội Baltic. Petrograd. 1921
[4]H. Weber “Weisse Flecken” in der Geschichte. Die KPD – Opfer der Stalinschen Säuberungen und ihre Rehabilitierung. ISP. 1990. Xem thêm bài giới thiệu cuốn sách của Weber của tôi trên tạp chí Lịch sử hiện đại, 1990, số 2.
[5]Chỉ xin nêu hai cuốn sách nổi tiếng của John Barron đã được dịch ra hàng chục thứ tiếng: KGB và KGB ngày nay.
[6]Xem V. Suvorov, Acvarium, London, 1989.
[7]Từ điển bách khoa, tập 1, М., 1953, trang 336
[8]Mọi người đều biết rằng ngân sách quân sự được công bố chính thức là một sự giả mạo. Ngoài ra nó chỉ liệt kê các chi phí quân sự trực tiếp. Nhưng thí dụ nhà máy may bình thường, vẫn cho ra những bộ quần áo hợp thời trang cho phụ nữ lại cũng may cả quân phục nữa. Nhà máy sản xuất ô tô cũng đồng thời sản xuất cả xe bọc thép v.v…
[9]“Đáng tiếc là nền kinh tế của chúng ta chưa thể từ chối việc sử dụng các quân nhân chuyên về xây dựng được”, thiếu tướng pháp chế V. Katunin nói (báo Tin tức, ngày 1 tháng 10 năm 1989.
[10]Tổ chức Mẹ chiến sĩ xác định rằng mỗi năm có gần 7 ngàn người lính tử vong (cả một sư đoàn!) hay là gấp 4 lần số quân nhân thiệt mạng tại Afghanistan. Các bác sĩ và kiểm sát viên thường che giấu nguyên nhân thật sự của các vụ tử vong đó.
[11]Người ta cho rằng 75% các băng nhóm tội phạm được người của Bộ nội vụ bao che, 5% được người của KGB bao che (Người đoàn viên Moskva, ngày 20 tháng 12 năm 1991).
[12]А. Lukianov, nguyên chủ tịch Xô viết Tối cao Liên Xô, khi còn là ủy viên trung ương phụ trách các cơ quan “bảo vệ pháp luật” đã khoe rằng ông ta đã bác bỏ lời buộc tội của các luật sư phương Tây rằng nước ta là nhà nước cảnh sát bằng cách nói rằng tỉ lệ cảnh sát viên chia cho đầu người ở nước ta thấp hơn các nước dân chủ phương Tây.
[13]Lenin nói về nhiệm vụ của các tòa án tại đại hội Đảng VIII như sau: “Xét xử trên cơ sở nhận thức pháp lí của các giai cấp cần lao thì ai cũng làm được”, nghĩa là không cứ phải là luật sư.  
[14]Nó có một cái tên rất dài, bắt đầu bằng “ủy ban đặc biệt toàn Nga nhằm đấu tranh chống lại bọn phản cách mạng…”. Lúc đó có rất nhiều “ủy ban đặc biệt” được thành lập, nhưng nhân dân chỉ nhớ có một.  
[15]Lịch sử nhà nước và pháp luật Liên Xô, phần 2, М., 1981, trang 45. Giáo sư Iu. Titov nhận được bằng tiến sĩ cho luận án ca ngợi hoạt động của các tòa án cách mạng, coi đấy là hình mẫu của việc xét xử.  
[16]Những vụ xử bắn như thế được tường thuật trong tác phẩm Shepkacủa nhà văn V. Zazubrin, một nhà văn khá nổi tiếng thời đầu cách mạng, ông là một nhân chứng, mà cũng có thể là một người trực tiếp tham gia các vụ xử bắn đó. Tác phẩm này mới được in lần đầu tiên trên tờ tạp chíNgọn lửa Siberia, số 2, năm 1989. Còn chính nhà văn thì bị xử bắn vào năm 1937.

   
[17]Một trong những vụ điển hình: đô đốc Shasky đã cứu được hạm đội Baltic, không để rơi vào tay quân Đức và trong những điều kiện băng giá khắc nghiệt ông đã đưa được hạm đội về Kronshtadt. Nhưng theo chỉ thị của Trotsky, ông bị đưa ra tòa án binh và bị bắn vào ngày 22 tháng 5 năm 1918! Các nhân chứng ủng hộ Shasky không được phát biểu tại tòa. Chỉ có một nhân chứng được nói, đấy là Trotsky. Trong bản án có câu: “Shasky đã thực hiện một hành động anh hùng và như vậy đã tạo cho mình danh tiếng để sau này chống lại chính quyền Xô viết”! Cũng vì những bản án giả mạo mà Dumenko, người tổ chức quân đoàn kị binh số 1 và toàn bộ bộ tham mưu bị xử bắn. Budennưi và Voroshilov, những kẻ tố giác thì được vinh danh là những người thành lập đạo quân này.
[18]Xem, thí dụ, tác phẩm của S. Kucherov. Organs of Soviet Administration of Justice. Leiden.1970 
[19]O. Luchterhandt – “O. loffe. Soviet law and Soviet Reality”, Osteuropa Recht, 1989, H. 2., S. I

47-149. 
[20]J. N. Hazard Communists and their Law. Chicago, 1969, p.92- 93
[21]Một thí dụ thời “cải tổ”: chính quyền địa phương và báo chí tạo áp lực với thẩm phán về vụ án mà giám đốc một nhà máy muốn có bản án như ý. Chánh án bị đe dọa tính mạng, người ta còn tổ chức cả những buổi mít tinh (“dân chủ”). Trong bài báo có nói đến một cái điện thoại để trong góc phòng thẩm phán: “không cần quay số, nối trực tiếp đến phòng bí thư khu ủy. Dĩ nhiên là cũng chỉ có ông ta gọi đến số này thôi, bây giờ thì ít hơn, không phải như ngày xưa nữa” (Tin tức, ngày 20 tháng 10 năm 1989.
[22]Tôi đã từng là hội thẩm nhân dân trong một buổi thảo luận về một vụ án hính sự và thấy bà thẩm phán gọi điện cho một cán bộ của tòa cấp trên để tham khảo về vụ án mà chúng tôi vừa xét xử công khai và thỏa thuận với ông ta bản án. Cần phải nói thêm rằng nếu tòa phúc thẩm mà hủy bản án thì cả thẩm phán của phiên tòa, cả cán bộ cấp trên “theo dõi” cũng bị coi là có lỗi cho nên họ phải thỏa thuận trước như thế. Khó mà có thể tìm thấy trong sách báo Liên Xô và phương Tây hệ thống “theo dõi” này. Vì tôi cực lực phản đối bản án, chánh án quyết định đưa phạm nhân đi giám định tâm thần. Năm 1948 tôi được biết một vụ án hình sự liên quan đến viên bí thư sứ quán Anh. Tình nhân của ông ta, một nhân viên người Nga trong sứ quán, bị kết án “đầu cơ” (chắc chắn là cô ta hay ông ta không chịu hợp tác với KGB). Cô ta đã bán một số tặng phẩm nước ngoài, điều kiện lúc đó rất khó khăn. Đấy được coi là đầu cơ. tòa án có hai phòng xử án, nhưng lại có một phòng nghị án và như vậy phòng này có hai cửa ra vào. Khi tòa rời khỏi phòng xét xử để vào phòng nghị án thì từ cửa thứ hai có một số cán bộ KGB bước vào tham gia (bản án đã được xác định trước khi xét xử).

Phần III. Luật pháp thời nông nô

Nếu những người bảo vệ pháp luật và nhà nước lại không phải là những người như thế mà chỉ có vẻ như thế thì bạn sẽ thấy rằng họ sẽ phá tan hoang nhà nước và chỉ có họ mới có cơ hội chiếm được những chỗ tốt và thịnh vượng mà thôi.

(Platon. Nhà nước)
Chương 8. Nguồn gốc của pháp luật
Gần như tất cả các tác phẩm về luật học khi nói về nguồn gốc của luật pháp đều dùng những từ ngữ như nhau để nói về hệ thống các nguồn gốc của luật pháp “xã hội chủ nghĩa”:

  1. các văn bản pháp qui của các cơ quan nhà nước;
  2. án lệ;
  3. tập quán.

Từ thời Khrushchev, người tuyên bố giai đoạn chuyển tiếp sang chủ nghĩa cộng sản và chuyển hóa nhà nước thành xã hội tự quản, còn pháp luật thì biến thành tiêu chuẩn của lối sống xã hội chủ nghĩa [1] , thì các “sáng kiến pháp lí và các văn bản pháp qui của các tổ chức của quần chúng lao động[2] ” và “sáng kiến pháp lí trực tiếp của nhân dân, kết quả trưng cầu dân ý[3] ” cũng được coi là nguồn gốc của pháp luật, mặc dù cho đến tận năm 1991 chưa có một cuộc trưng cầu dân ý nào [4] .
Trước hết ta hãy xem xét nguồn gốc pháp qui của luật pháp và sau đó sẽ xem xét cái hệ thống đó trong thực tế cuộc sống.
a. Tất cả các học giả đều đặt LUẬT, nghĩa là văn bản của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất: Xô viết Tối cao Liên Xô, Xô viết Tối cao các nước cộng hòa liên bang và Cộng hòa tự trị, ở vị trí đứng đầu các văn bản pháp qui do các cơ quan nhà nước ban hành. Các học giả và các nhà báo đã dùng những từ ngữ hay ho nhất để vinh danh tính chất thượng đẳng không thể chối cãi của nó trong hệ thống tư pháp. Thời Stalin [5] , thời Khrushchev, thời Brezhnev [6] rồi bây giờ đến thời Gorbachev [7] họ vẫn hát những bài hát xưa cũ ấy. Cần phải nói rằng trước hiến pháp Liên Xô năm 1936, tất cả các văn bản của các cơ quan trung ương đều được coi là luật cả, không có bất kì sự phân biệt nào. Thí dụ nghị định của Ban chấp hành trung ương Liên Xô, tên gọi của nó đã cho thấy đây chỉ là văn bản của cơ quan hành pháp chứ không phải cơ quan lập pháp cũng được gọi là: “Luật ngày 7 tháng 8 năm 1932”.
Trong các văn bản pháp qui thì quan trọng nhất là HIẾN PHÁP [8] .
Trở ngại lớn nhất của các nhà luật học nước ta là các SẮC LỆNH do Chủ tịch đoàn Xô viết Tối cao và bây giờ là của Tổng thống ban hành. Khi phê phán nền pháp chế “tư sản” các luật sư Xô viết thường khẳng định rằng “ở đấy” đang diễn ra quá trình từ bỏ nguyên tắc thượng tôn pháp luật [9] , các sắc lệnh của chính quyền hành pháp “trên thực tế” đã vô hiệu hóa và thay thế luật [10]  vai trò của quốc hội suy giảm trong khi vai trò của chính phủ và tổng thống lại đang gia tăng.
Không có điều kiện, cũng như giới hạn của cuốn sách không cho phép giới thiệu quan niệm của các học giả phương Tây về nền tư pháp Liên Xô, chỉ xin đưa ra ở đây ý kiến của ông R. David, một trong các nhà khoa học nổi tiếng nhất về nguồn gốc pháp luật của Liên Xô qua cuốn Droit sovietique (1954). Ông cho rằng luật thành văn là nguồn gốc duy nhất của luật pháp. Khi tiến hành cải tạo xã hội thì chỉ có luật mới thể hiện được ý chí của nhà nước, không áp dụng được án lệ và tập quán. Dễ nhận ra rằng David đã trình bày quan điểm chính thức của lí thuyết Xô viết về luật pháp, tuy có đưa ra một vài nhận xét có tính phê phán (thí dụ ông có nói đến sự bất mãn của phương Tây và việc sử dụng các trường hợp tương tự trong luật hình sự).
Nhưng ngay cả các luật sư của chúng ta cũng không thể nhắm mắt làm ngơ việc các sắc lệnh đã làm biến dạng và vô hiệu hóa không chỉ các đạo luật bình thường mà còn thay đổi cả các điều của hiến pháp nữa. Từ đó, một mặt không thể không công nhận rằng các sắc lệnh “đôi khi đã làm biến dạng và vô hiệu hóa các đạo luật [11] ” và mặt khác không thể không công nhận rằng điều đó không phù hợp với nguyên tắc thượng tôn pháp luật vẫn được người ta ra rả tuyên bố.

“Vì vậy mà thời gian gần đây khoa học đã coi các sắc lệnh như là các đạo luật [12] ”. Nhưng sắc lệnh của Chủ tịch đoàn Xô viết Tối cao trên thực tế là do ông chủ tịch và hiện nay thì do Tổng thống chính thức ban hành, chỉ một số rất ít các sắc lệnh đó là được “thông qua” tại các kì họp của Xô viết Tối cao và trở thành các đạo luật về mặt hình thức. Các nhà khoa học của chúng ta thật là tiến thoái lưỡng nan. Về lí thuyết thì các sắc lệnh vẫn còn nằm đâu đó giữa luật và các văn bản dưới luật, do các cơ quan nhà nước ban hành.
b. Tập quán có được coi là nguồn gốc pháp luật hay không vẫn còn là một câu hỏi. Các quan niệm chủ yếu như sau: 1. sử dụng tập quán nếu nó được nhà nước công nhận, nhưng việc công nhận như thế ít khi xảy ra cho nên tập quán không có nhiều ý nghĩa [13] , 2. sau khi một tập quán nào đó được nhà nước công nhận thì nó đã trở thành văn bản pháp qui và như vậy tập quán không còn là nguồn gốc pháp lí độc lập nữa [14] .
c. Thực tiễn xét xử (án lệ) không được coi là nguồn gốc pháp luật [15] . Rất ít người coi các nghị quyết của Tòa án Tối cao là nguồn gốc của luật pháp [16] .
d. Các văn bản của “các tổ chức xã hội của người lao động”. Người ta đã tốn rất nhiều giấy mực để viết về chuyện này, để chứng minh tính ưu việt của nhà nước và luật pháp “xã hội chủ nghĩa” cũng như tính dân chủ thực sự của nó. Đã có rất nhiều nghị định “liên tịch” của Ban chấp hành trung ương, Xô viết Tối cao, Hội đồng Bộ trưởng và Tổng liên đoàn lao động. Người ta thường làm như thế để “tăng uy tín và trọng lượng” cho văn bản. Trong các nghị định liên quan đến vấn đề lao động, đặc biệt là khi người ta muốn cắt xén quyền lợi của người lao động thì bao giờ cũng có chữ kí của Tổng liên đoàn lao động. Tổng liên đoàn lao động được quyền ban hành các văn bản pháp qui trong lĩnh vực lao động, mặc dù các văn bản này thường do Tổng liên đoàn cùng với Bộ lao động ban hành. Những bài tập “lí thuyết” phức tạp của các luật sư của chúng ta về bản chất của những văn bản đó sẽ được loại bỏ một cách dễ dàng nếu ta nhớ lại rằng cái gọi là các “tổ chức xã hội” ở nước ta là một phần của bộ máy nhà nước.
e. Quyền lập pháp trực tiếp của nhân dân chỉ là một trò mị dân không hơn không kém. Trưng cầu dân ý được đưa vào hiến pháp ngay từ năm 1936 nhưng chưa được tiến hành một lần nào. Hiến pháp Cộng hòa dân chủ Đức được thông qua bằng cách trưng cầu dân ý cũng đáng thuyết phục chẳng khác gì “những cuộc bầu cử dân chủ nhất” với chỉ một ứng viên, 99% cử tri đi bầu và trúng cử cũng với 99% số phiếu bầu. Kết quả cuộc trưng cầu dân ý năm 1990 về số phận của Liên Xô cho thấy ý nghĩa của “ý chí của nhân dân”, nguồn gốc pháp lí “xã hội chủ nghĩa”. Đa số dân chúng bỏ phiếu ủng hộ việc bảo tồn Liên Xô, thế mà sau đó ba vị tổng thống tự ý quyết định thủ tiêu nó.
Đấy là cơ sở lí thuyết về nguồn gốc pháp luật xã hội chủ nghĩa.
Bây giờ chúng ta xem xét hệ thống thang bậc của các nguồn gốc pháp luật xã hội chủ nghĩa trên thực tế:

  1. Chỉ thị của các “cơ quan lãnh đạo” (chỉ thị miệng);
  2. Tập quán;
  3. Thực tiễn xét xử;
  4. Văn bản pháp qui của các cơ quan nhà nước:
  5. Văn bản của các cơ quan quản lí;
  6. Các bộ luật;
  7. Học thuyết.

Thang bậc ấy được xây dựng trên cơ sở nào? Chiếm số lượng nhiều nhất (chỉ riêng lĩnh vực chất lượng sản phẩm đã là 999 văn bản, về khen thưởng – 500, về các chỉ tiêu kế hoạch là hơn 770 văn bản (Tin tức ngày 22 tháng 9 năm 1987), nhưng tôi nghĩ số lượng trên đây chỉ là gần đúng vì việc thống kê các văn bản được thưc hiện rất sơ sài) là các văn bản của các cơ quan quản lí nhà nước (cơ quan hành pháp). Các văn bản này đóng vai trò chủ yếu trong việc điều chỉnh quan hệ giữa các đơn vị kinh tế và công dân và dĩ nhiên là có vai trò tương ứng trong thực tiễn pháp lí. Tuy nhiên thang bậc quyền lực thì lại không được xây dựng trên cơ sở số lượng mà trên hiệu lực của văn bản trong thực tiễn pháp lí. Về mặt chính thức, theo lí thuyết thì luật vô hiệu hóa nghị định của chính phủ chứ không thể ngược lại; chính vì thế người ta mới cho rằng luật có hiệu lực tuyệt đối. Nhưng chúng ta khảo sát không phải là lí thuyết Xô viết mà khảo sát cuộc sống, khảo sát thực tiễn pháp lí đang diễn ra hàng ngày trong xã hội Liên Xô. Sơ đồ bên trên được xây dựng trên thực tế đó và sẽ được chứng minh dưới đây.

Xin nói một chút về quá trình làm luật: tất cả các sáng kiến đều xuất phát từ cơ quan “lãnh đạo”, nghĩa là xuất phát từ các cơ quan của Đảng, sau đó có thể là bất kì cơ quan nào đứng ra đệ trình dự thảo, đấy có thể là Hội đồng bộ trưởng, Tổng liên đoàn lao động hay Xô viết Tối cao [17] …

Sau đó là quá trình ban hành (đối với luật thì đấy là thảo luận, thông qua, công bố) và đưa vào áp dụng, có hiệu lực.

Cần phải nói rằng đa số các văn bản của chính phủ, của các bộ và cơ quan ngang bộ đều không được công bố. Các văn bản được công bố có thể được chia làm ba loại: “công khai” (mặc dù có thể có những khoản bí mật, thường được viết, thí dụ: “khoản 16: theo biên bản”), “Lưu hành nội bộ” và mật. Trước khi xuất bản Bộ Luật Liên Xô người ta đã cho in Bộ các văn bản pháp qui Liên Xô gồm nhiều tập sách “lưu hành nội bộ”, chỉ lưu hành trong các bộ, cơ quan ngang bộ và các công sở lớn.

Điều đó cũng có thể thông cảm được nếu các văn bản mật chỉ liên quan đến những quan hệ và quyền lợi trong nội bộ cơ quan, nhưng rất nhiều văn bản đó lại xác lập một cách trực tiếp quyền và trách nhiệm của hàng triệu công dân. Thí dụ, theo Qui chế về căn cước, được ban hành theo Quyết định của Hội đồng bộ trưởng Liên Xô ngày 28 tháng 8 năm 1974 thì người nào cho người không có căn cước, không có hộ khẩu hay không đăng kí tạm trú ở trong nhà sẽ bị phạt tiền. Nhưng đối với người dân thành phố Moskva, “thành phố mẫu mực cộng sản” thì lại được áp dụng thêm một khoản bí mật: ủy ban hành chính quận có quyền phạt những người vi phạm về mặt hành chính bằng cách trục xuất khỏi thành phố trong vòng hai năm. “Thế là hóa ra có hai “luật”: “công khai và bí mật” có hiệu lực song hành (Tin tức ngày 9 tháng 10 năm 1988). Phải nói thêm rằng bị trục xuất có nghĩa là đương nhiên bị cắt “hộ khẩu”, bị biến thành kẻ lang thang: người đó sẽ không được cấp nhà ở, không nhà ở thì không có việc làm, không việc làm thì không nhà ở (nhân tiện xin nói rằng không có luật nào ghi rằng không được nhận người không hộ khẩu vào làm việc, điều rõ ràng là quyền lao động đã được Hiến pháp “bảo đảm”). Trong khi đó người không có việc làm có thể bị xử lí hình sự về khoản lang thang, “ăn bám”.

Khi nạn mại dâm còn được coi là không tồn tại, theo Marx và Engels thì những hiện tượng như thế không thể tồn tại trong xã hội xã hội chủ nghĩa, người ta chống lại nó bằng một cuộc “chiến bí mật” với các nhân viên an ninh mật. Năm 1966 (xin trích dẫn) “đã ban hành văn bản trù liệu các biện pháp trừng phạt về mặt hành chính, trong đó có việc tước hộ khẩu, tội hoạt động mại dâm có hệ thống”. Sau đó (1967) lại ban hành quyết định liên tịch của Giám đốc sở nội vụ và Giám đốc Viện kiểm sát thành phố Moskva (ông này không có quyền ra quyết định, trừ các quyết định nội bộ – tác giả) qui định các biện pháp xử lí hiện tượng mại dâm. Các nghị định và hướng dẫn liên quan đến việc đi ra nước ngoài của các công dân Liên Xô đều được coi là bí mật cả (Tin tức ngày 16 tháng 11 năm 1987). Các văn bản pháp qui điều chính hoạt động của KGB cũng đều là tuyệt mật.

Giáo sư D. A. Leber (Cộng hòa liên bang Đức), trong một bài báo rất hay và có rất nhiều dẫn chứng, đã nhận xét rằng môn luật học ít chú ý đến vấn đề công bố [18] . Đối với các nhà khoa học Liên Xô thì đấy là vấn đề rất khó giải quyết: tất cả các luật sư đều biết rằng yêu cầu “không ai được viện cớ là không biết luật” là một yêu cầu phi lí đối với các công dân Liên Xô nếu luật không được công bố, nhưng luật sư lại có trách nhiệm biện hộ cho các việc làm của nhà nước. Để làm việc đó, một tập thể tác giả thuộc Viện lập pháp Liên Xô đã đánh tráo khái niệm “công bố” bằng khái niệm “tuyên bố” bao gồm việc gửi văn bản pháp qui cho các tổ chức có nghĩa vụ thực hiện. Bằng cách đó, thí dụ quyết định “Về chế độ sinh hoạt và ăn uống của tù nhân” được Bộ nội vụ gửi cho trưởng các trại giam được coi là đã “tuyên bố [19] ”, nghĩa là đã công bố rồi.

Bây giờ xin chuyển sang xem xét thang bậc nguồn gốc quyền lực trên thực tế.

Chỉ thị của “các cơ quan lãnh đạo”, “chỉ thị bằng điện thoại”.

Xin bắt đầu bằng một sự kiện phi lí đối với một xã hội bình thường: tháng 12 năm 1936 “hiến pháp Stalin”, “hiến pháp dân chủ nhất trên thế giới” được thông qua, báo hiệu giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội và “bảo đảm” các quyền và quyền tự do công dân như “bất khả xâm phạm về thân thể” (điều 127), “bất khả xâm phạm về nhà ở” và các quyền khác nữa, nhưng chỉ mấy ngày sau là bắt đầu năm 1937, đỉnh điểm của cuộc khủng bố đỏ. “Các nhân viên của ủy ban an ninh đặc biệt với những trái tim nóng” đã bắt, đã đánh đập, tra tấn, xử bắn… hàng trăm ngàn người ngay trên đường phố, tại công sở, tại gia đình mà không cần điều tra, không cần tòa án, không cần lệnh của viện kiểm soát (thường là ban đêm). Còn khi những người bị bắt phát điên lên vì sợ hãi, không hiểu chuyện gì đang xảy, hỏi nhân viên an ninh: “Thế còn hiến pháp?”, thì được trả lời: “Hiến pháp không dành cho kẻ thù của nhân dân!”.

Một trong các thí dụ rõ nhất trong thời gian gần đây là vụ lưu đầy viện sĩ Andrey Sakharov, không có tòa án và không cần điều tra, bất chấp hiến pháp, bất chấp luật hình sự và luật tố tụng hình sự. Lưu đầy là một hình phạt, theo điều 25 Bộ luật hình sự thì tội nhân có thể bị phạt lưu đầy dưới 5 năm. Sakharov, người được giải Nobel về hòa bình cùng phu nhân, bà Elena Bonner, phải đi đầy những 7 năm. Bây giờ người ta thường nhấn mạnh rằng Sakharov được tha theo chỉ thị (chỉ thị chứ không phải quyết định của cơ quan có thẩm quyền) của chính Gorbachev, nhưng những học giả xu nịnh đó lại quên nói rằng một năm rưỡi sau “cách mạng tháng 4” ông bà Sakharov mới thoát cảnh lưu đầy. Họ cũng không nhận được một xu bồi thường nào cho những tháng năm bị làm nhục và thiếu thốn đó.

Ngày 18 tháng 11 năm 1981 tờ Văn học cho đăng một bài phỏng vấn rất hoành tráng, người trả lời là G. Aliev, “anh hai” của Azerbaidgian, với mục đích ca ngợi hoạt động của ông ta (xin được trích) “nhằm phát triển và tuyệt đối tuân theo các nội qui sinh hoạt Đảng” cũng như “pháp luật của nhà nước Liên Xô và hoàn thiện lối sống xã hội chủ nghĩa”! Nhưng hóa ra người ta lại nói về sự phổ biến của hiện tượng “đút lót trong các trường đại học, sự bảo kê và chủ nghĩa gia đình trị trong đội ngũ giáo sư và giảng viên các trường đại học”, đến nỗi “người ta phải cấm nhận con em cán bộ các cơ quan quản lí vào học khoa luật. Vì điều đó là vi hiến nên cô phóng viên đã nhận xét một cách tế nhị: “Chúng ta đang nói về việc tuân thủ pháp luật, mà cái này, nói một cách nhẹ nhàng…”, Aliev lập tức phản đối: “Xin đừng tìm những từ nhẹ nhàng. Đây là một quyết định duy ý chí. Là bí thư thứ nhất Ban chấp hành trung ương, tôi đã đưa ra đề nghị và hội đồng nhà trường đã thông qua”. Nói cách khác, ý chí của lãnh tụ Đảng là luật, còn cao hơn cả hiến pháp. 

Bên trên đã nói đến việc cấm nhận người không có hộ khẩu vào làm việc. Nhưng lại còn một văn bản pháp qui độc đáo nữa: “giải thích bằng miệng của Bộ nội vụ Liên Xô”, theo đó chỉ được nhận người vào làm nếu người đó có thể đi bằng phương tiện giao thông công cộng hàng ngày từ nơi đăng kí hộ khẩu đến nơi làm việc! Dĩ nhiên là tôi không thể đưa ra chứng cớ rằng một văn bản như thế đã từng tồn tại, nhưng xin những ai đòi tôi chứng minh hãy chỉ cho tôi điều luật cấm nhận người không có hộ khẩu! Sự kiện này thì ai cũng biết.

Những người đang làm việc mà vì lí do gì đó bị tước hộ khẩu thì cũng sẽ bị cho nghỉ việc trên cơ sở “khoản 2 điều 254 bộ luật lao động của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa liên bang Nga”. Khoản này nói rằng trong một số trường hợp nhất định luật “có thể đặt ra những cơ sở bổ sung cho việc chấm dứt hợp đồng lao động đối với công nhân, viên chức khi có vi phạm các nguyên tắc hiện hành về việc tiếp nhận vào làm việc và những trường hợp khác”. Như vậy là điều khoản này đã xác định khả năng thiết lập bởi luật pháp các cơ sở mà khoản 1-4 của điều luật này chưa xem xét, chứ không phải là cơ sở cho nghỉ việc. Năm 1982 trong cuộc họp ở Viện pháp luật, một thành viên của tòa án thành phố Moskva đã thông báo rằng có “chỉ thị” rằng chiếu theo điều cho thôi việc tất cả những người bị tước hộ khẩu theo khoản 2 điều 254 Bộ luật lao động. Người này không nói rõ đấy là “chỉ thị” của ai, hơn nữa, Tòa án Moskva cũng không nhận được văn bản nào, nhưng họ vẫn tuân theo [20] .

Những “chỉ thị” như thế là trái với hiến pháp và pháp luật, nhưng lại được tất cả các cấp quản lí ban phát, mà càng ở dưới thì sự vi phạm hiến pháp và pháp luật lại càng trắng trợn hơn. Đối với một viên chức bình thường thì vấn đề tuân thủ Hiến pháp hay tuân thủ “chỉ thị” của bí thư không bao giờ được đặt ra. Như câu ngạn ngữ: “Quan thì xa bản nha thì gần”, “anh hai” với sức mạnh chuyên chính không bị giới hạn bởi bất kì pháp luật nào luôn ở rất gần [21] .

Tập quán

Một chuyên gia về dân luật rất nổi tiếng đã quá cố, ông M. M. Agarkov, tôi đã từng được nghe ông giảng, đã có lần nói vui: “Vấn đề quan hệ giữa tập quán và luật pháp đã làm đau đầu biết bao luật sư các nước khác đã được chúng ta giải quyết một cách đơn giản, đấy là tập quán không tuân thủ pháp luật”. Thật là một câu nói đùa rất đáng suy nghĩ. Tôi đưa tập quán vào vị trí thứ hai là vì, trái với lí thuyết của chúng ta, nó rất thịnh hành và thường vô hiệu hóa các điều luật. Nhưng thực ra độc giả sẽ không tìm thấy từ này trong bất cứ văn bản nào, nó đã được ngụy trang bằng thuật ngữ “thực tiễn”. Chúng ta phủ nhận việc áp dụng tập quán trong xét xử, thậm chí phủ nhận cả sự tồn tại của nó, không ai tỏ ra ngạc nhiên khi đọc thấy rằng vấn đề này hay vấn đề khác được giải quyết theo “thực tiễn đã hình thành”, “phù hợp với thực tiễn đã được xác định” của các tổ chức công đoàn và kinh tế [22] ….

Hiến pháp Liên Xô năm 1936 không qui định qui trình lập pháp cũng như qui chế các kì họp của Xô viết Tối cao Liên Xô và nhiều vấn đề hiến định khác. Tất cả đều được xác định trên “thực tế [23] ”. “Thực tế” được áp dụng nhiều nhất trong luật lao động. Sức mạnh của tập quán (“thực tế”) đến đâu, nó có thể vô hiệu hóa một điều luật nào đó hay không? Xin giới hạn bằng một ví dụ: Điều 30 luật liên bang, cơ sở của pháp lí về lao động viết: “Cấm làm việc trong ngày nghỉ”. Nhưng có ông giám đốc nào quan tâm đến điều luật này không? Điều này đã bị tập quán vô hiệu hóa ngay từ đầu, nó, cũng như nhiều điều luật khác được ghi vào pháp điển chỉ với mục đích “đánh bóng” mà thôi.  

Thực tiễn xét xử

Trái ngược với sự dối trá mang tính chuyên nghiệp của các luật sư Liên Xô, thực tiễn xét xử (án lệ) là một trong những nguồn gốc quan trọng của pháp quyền Xô viết.

Tiêu chuẩn để đánh giá các quan tòa là không có “phế phẩm” nghĩa là các bản án, các phán quyết bị tòa cấp trên hủy bỏ. Tòa án Tối cao Liên Xô và tòa án Tối cao các nước cộng hòa thường xuyên công bố các tập san với các quyết định và bản án “điển hình” của từng vụ việc cụ thể. Về lí thuyết thì các tòa cấp dưới có quyền không tuân theo. Nhưng tất cả các luật sư đều biết rằng nếu ông ta trích dẫn phán quyết của Tòa án Tối cao về vụ tương tự thì tòa sẽ xử vụ đang được xem xét đúng như thế. Trong trường hợp ngược lại, tòa cấp trên sẽ hủy bỏ và viên luật sư có tinh thần độc lập sẽ bị nhận điểm “phế phẩm [24] ”. Nếu đấy không phải là “án lệ” thì gọi là gì?
Ngoài ra, các hội nghị của Tòa án tối cao còn đưa ra các nghị quyết mà về mặt lí thuyết thì là “giải thích” pháp luật, nhưng trên thực tế lại là đặt ra các qui phạm pháp lí mới. Trong cuốn chuyên khảo mà tôi đã dẫn có nói rằng việc giải thích pháp luật của các tòa án “đôi khi đã dẫn đến việc xa rời hoặc bổ sung pháp luật bởi các tòa án trong khi thừa hành công lí [25] ”, nhưng điều đó dường như chỉ xảy ra trong quá khứ và nay đã bị lên án rồi. Hoàn toàn không phải thế, chính các tác giả cuốn sách cũng công nhận: “Và mặc dù việc “điều chỉnh” pháp luật trong thực tiễn xét xử vẫn đôi khi xảy ra (?) cả trong giai đoạn hiện nay, nhưng dĩ nhiên điều đó không thể coi là hợp pháp được [26] ”.

Không một luật sư có hiểu biết, chưa mù lòa và chưa đánh mất hoàn toàn lương tâm lại không nhìn thấy sự mâu thuẫn nghiêm trọng giữa “lí luận” và thực tiễn. Hãy xem các tác giả của cuốn sách nói trên tìm cách thoát khỏi đường hầm không lối thoát này như thế nào: cuối cùng họ đã phải công nhận rằng thực tiễn xét xử tạo ra qui phạm bắt buộc phải áp dụng tại tòa, NHƯNG… “Các nguyên tắc (qui tắc pháp lí) nêu trên chỉ có sức mạnh của uy tín chứ không có uy tín của sức mạnh. Vì vậy nên gọi chúng là các qui tắc pháp lí chứ không phải là qui phạm pháp lí [27] ”.

Giống hệt như câu chuyện tiếu lâm Đậu phụ chùa cắn đậu phụ nhà trong một câu chuyện tiếu lâm về ông sư ăn thịt chó nọ!

Các văn bản pháp qui của cơ quan quản lí nhà nước

a. Các văn bản của cơ quan quản lí

Do tính thụ động và kém phát triển của ngành lập pháp Liên Xô, các qui định được ban hành chủ yếu bởi các cơ quan quản lí: Hội đồng bộ trưởng (hiện nay gọi là chính phủ) liên bang và Hội đồng bộ trưởng các nước cộng hòa, bộ và các cơ quan ngang bộ, các ủy ban hành chính đủ mọi cấp. Trong “Bộ luật Liên Xô”, tên gọi của nó là như thế, có đến gần 90% là các văn bản của các cơ quan quản lí chứ không phải luật.

Số lượng đồ sộ các văn bản này rất lộn xộn, mâu thuẫn nhau, không thể quản lí nổi và không có hiệu lực. Theo số liệu của F. Burlatsky, một trong các tác giả của những bài diễn văn đầy trí tuệ của Brezhnev, thì trong mười nghị định của Hội đồng bộ trưởng Liên Xô chỉ có một là được thực hiện (Báo Văn học, ngày 14 tháng 9 năm 1988). Mặc dù về “lí thuyết” các văn bản của các cơ quan quản lí đều được gọi là “văn bản dưới luật”, nhưng trên thực tế chúng chẳng coi luật ra gì. Xin dẫn một thí dụ đặc trưng mà ai cũng biết: Luật dân sự (có hiệu lực năm 1962) qui định trong điều 41: “Người mua, trong trường hợp nhận được hàng không đúng chất lượng, nếu khiếm khuyết này không được người bán thông báo trước, có quyền đòi hoặc đổi món hàng đó lấy món hàng đã được ghi trong hợp đồng với chất lượng phù hợp hoặc giảm giá một cách tương ứng hoặc đòi người bán phải sửa chữa miễn phí hoặc hủy bỏ hợp đồng kèm theo việc đền bù thiệt hại”. 

Điều luật liên bang này chưa bao giờ được thực hiện: Bộ thương mại, bằng các hướng dẫn của mình về việc đổi hàng, đã thủ tiêu quyền lựa chọn, buộc người mua những chiếc TV, máy giặt …

kém chất lượng phải chịu đựng những lần sửa chữa bất tận, đầy phiền toái. Mua phải ô tô hỏng thì đừng mong được đổi!

b. Các bộ luật

Trong tập sách Vekhi rất nổi tiếng, in sau cách mạng Nga năm 1905 (M. 1909) có một bài báo rất hay của B. A. Kistiakovsky: “Góp phần bảo vệ pháp luật. Trí thức và nhận thức pháp lí”. Tác giả chứng minh rằng do tình trạng vô luật pháp có tính truyền thống ở nước Nga nên tầng lớp trí thức “không thể hình thành nhận thức pháp lí vững chắc, ngược lại nhận thức pháp lí đang đứng ở mức rất thấp”. Theo ý ông, điều đặc biệt là ở Nga không có một tác phẩm khoa học nào có ý nghĩa xã hội như các tác phẩm của Hobbes, Milton, Locke ở Anh, Montesquieu ở Pháp, Hegel, Fichte, Kant ở Đức. Kistiakovsky giải thích rằng trong điều kiện thiếu vắng trật tự pháp lí ở Nga như thế thì đương nhiên nhận thức pháp lí cũng không thể hình thành. Đập phá tan tành trật tự pháp lí của nuớc Nga, những người Bolshevik đã tạo nên vương quốc của sự độc đoán. Tương ứng với tình trạng đó phải là sự thiếu vắng hoàn toàn nhận thức pháp lí.

Sau tất cả những điều đã nói về các nguồn gốc khác của pháp luật thì có thể không cần nói về luật nữa, kể cả bộ luật chủ yếu, tức là hiến pháp, dù đấy là hiến pháp Stalin, hay hiến pháp Brezhnev thì cũng thế mà thôi. Liệu trong các bản hiến pháp đó có điều nào mà khi viện dẫn nó người công dân không tỏ ra là một kẻ hoàn toàn ngu xuẩn trước một quan chức hay không? Không có ai, ngoài các luật sư-học giả, coi những hiến pháp đó là nghiêm túc cả.

Các nhà “dân chủ” đối xử với nó ra sao? Ngày 1 tháng 2 năm 1991 có quyết định về việc cấm đưa ra khỏi Moskva những loại lương thực thực phẩm và hàng hóa khan hiếm của ủy ban hành chính thành phố Moskva do một nhà “kinh tế học” và một nhà “dân chủ” nổi tiếng tên là G. Popov kí. Trong ngày hôm đó, tại các nhà ga và trên các toa tầu hỏa, trên các sân bay và đường ô tô xuất hiện hàng ngàn cảnh sát, không cần sự phê chuẩn của Viện kiểm sát, các cảnh sát viên cứ việc khám xét hành khách, lục lọi hành lí và tịch thu những món hàng mà họ đã mua ở Moskva! Các nhà “dân chủ” đã vi phạm bao nhiêu điều luật của hiến pháp? Nhưng hóa ra là cảnh sát không biết làm gì với món của cải vừa cướp được vì không có kho để chứa (Tin tức, ngày 9 tháng 2 năm 1991).

Xin độc giả hãy tưởng tượng rằng bạn từ Moskva về nhà, bạn đã mua một số tặng phẩm và đồ ăn, bạn ngồi trong toa và bất ngờ cảnh sát xuất hiện, anh ta yêu cầu bạn mở va li và lấy đi tất cả những đồ vật bạn có… Bạn nghĩ rằng bạn có thể thuyết phục được viên cảnh sát đó rằng tài sản của bạn được hiến pháp và luật về sở hữu bảo vệ ư? Bạn có thể nói rằng quyết định của ủy ban hành chính thành phố Moskva là vi hiến và phạm pháp ư? Xin bạn nhớ rằng nếu bạn chống cự thì bạn không chỉ mất đồ mà còn mất cả tự do nữa đấy!

Thái độ đối với luật pháp đã thay đổi như thế nào kể từ năm 1917 và thái độ của những người Bolshevik và “dân chủ” có gì khác nhau?

“Không nghi ngờ gì rằng chúng ta đang sống trong một đại dương của sự vô luật pháp”, Lenin đã nói rất đúng. Còn có thể bổ sung điều gì? Sau khi ông mất tình hình cũng không khá hơn.

Học thuật

Không một tác phẩm nào ở Liên Xô coi học thuật (ý kiến của các nhà khoa học) là một trong các nguồn gốc của luật pháp. Trong tình trạng kém hiểu biết về luật pháp của dân chúng và việc học hành không đến nơi đến chốn của các luật sư, không ai có thể giải thích được các điều luật một cách khả dĩ chấp nhận được. Nhưng tạo ra một qui phạm cho phép trả lời tất cả mọi tình huống trong cuộc sống lại là điều bất khả. Vì vậy những bài “bình luận” đối với các điều luật đóng vai trò quan trọng trong hoạt động tư pháp [28] . Đấy là các cuốn sách, thường là của tập thể tác giả, trong đó có dẫn ra từng điều của bộ luật và mỗi điều lại kèm theo những đoạn bình luận dưới hai dạng sau:  

a. có trích dẫn văn bản pháp qui: thí dụ, điều 175 bộ luật lao động cấm sử dụng lao động trẻ em dưới 18 tuổi cho những công việc nặng nhọc; bình luận thông báo rằng các công việc nặng nhọc được qui định trong nghị định ngày 10 tháng 9 năm 1980 của Bộ lao động và Tổng liên đoàn lao động Liên Xô.

b. không có trích dẫn, tức là dường như đấy là ý kiến của tác giả.

Trên thực tế, tại các phiên tòa các bình luận và các văn bản pháp qui được tất cả các luật sư sử dụng như nhau. Từ đó có thể rút ra kết luận rằng học thuật cũng là nguồn gốc của luật pháp. Nhưng vấn đề không đơn giản như thế, vì mọi “ý kiến của tác giả” đều đã được thỏa thuận trước với các cơ quan hữu quan của nhà nước, thí dụ về luật lao động thì phải thỏa thuận với Bộ lao động, Bộ tài chính, Tổng liên đoàn lao động và về thực chất thì là hình thức thể hiện đặc biệt của ý chí của nhà nước, đặc biệt là khi nhà nước ta, vì lí do nào đó, cảm thấy bất tiện trong việc công bố qui phạm đó một cách chính thức.

Các nhà khoa học đóng vai trò gì trong việc ban hành luật pháp? Một phần vai trò của họ đã được nhắc tới bên trên. Họ tham gia vào việc soạn thảo các văn bản pháp qui quan trọng, nhưng không thể nói rằng vai trò của họ lúc nào cũng là tích cực [29] . Thí dụ, không nghi ngờ gì rằng viện sĩ Kudriavsev tham gia soạn thảo điều 11 của luật về tội phạm quốc gia (sau này ông đã tìm mọi cách phủ nhận), điều khoản mà do tính chất phản động của nó đã bị ngay đa số “dễ bảo” của cơ quan quyền lực cao nhất bác bỏ. Nhưng sau đó nó được Gorbachev kí ban hành dưới dạng nghị định và nhiều công dân đã bị xét xử theo nghị định này, còn hội nghị của Tòa án Tối cao Liên Xô thì kịp thời đưa ra các “hướng dẫn có giá trị”. Sukhrev, Viện trưởng Viện kiểm sát Tối cao Liên Xô và Gubarev, thứ trưởng Bộ tư pháp Liên Xô cũng như nhiều nhà khoa học-luật sư cũng có mặt trong hội nghị. Thế mà không ai coi nghị định của Tổng thống là phi pháp hết (Tin tức, ngày 23 tháng 5 năm 1989).

Còn 5 kì nữa

[1]Khả năng thấu thị của các nhà khoa học Liên Xô thật đáng kinh ngạc: 20 năm trước họ đã xác định được “Các qui luật phát triển đặc thù của pháp luật trong điều kiện của chủ nghĩa cộng sản. MLVNNPL, tập 4, M., trang. 592-619

[2]Như trên, trang 330-336

[3]Như trên, trang 336-340

[4]Trong cuộc trưng cầu dân ý năm 1990, đa số dân chúng ủng hộ bảo vệ sự toàn vẹn của Liên Xô. Năm 1991, ba vị tổng thống giải tán Liên Xô, bãi bỏ chức Tổng thống và Xô viết Tối cao Liên Xô được toàn dân bầu lên mà không thèm thảo luận với ai.  

[5]“Luật giữ vị trí cao nhất, là văn bản có sức mạnh pháp lí đặc biệt”. Lí thuyết về nhà nước và pháp luật. М., 1949, trang 370

[6]Sức mạnh “pháp lí tối thượng của các bộ luật được tất cả mọi ngưới thừa nhận một cách vô điều kiện”. MLVNNPL, T. 4, trang 379.

[7]“LUẬT PHÁP… có sức mạnh tối thượng so với các văn bản pháp qui khác (nghị định, chỉ thị v.v…)”. Từ điển pháp luật Liên Xô, in lần thứ 4, М., 1989. trang 451.

[8]“Đây là hiến pháp của nhà nước xã hội chủ nghĩa và của xã hội xã hội chủ nghĩa đã được nhân dân Liên Xô xây dựng nên, hiến pháp này được đặt tên là Hiến pháp Stalin để vinh danh người tạo lập ra nó. Pháp luật Liên Xô hiện hành dựa trên hiến pháp này.” Lí thuyết về nhà nước và pháp luật. М., 1949, trang 360

[9]Luật dân sự và luật thương mại của các nước tư bản chủ nghĩa. М., 19бб, trang 19.

[10]Xem bên trên.

[11]MLVNNPL, tập 4, trang 383

[12]Xem bên trên   

[13]“Trong các nước xã hội chủ nghĩa tập quán pháp lí không thịnh hành lắm.” MLVNNPL. tập, trang 340. “Tập quán pháp lí có ý nghĩa rất hạn chế. Cơ sở lí thuyết về nhà nước và pháp luật, М., 1969, trang 252

[14]“Trong xã hội Xô Viết hình thức soạn thảo luật như thế này đang chết dần”. Lí thuyết tổng quát về luật pháp Liên Xô. М., 1960 trang 144

[15]“Phán quyết của các cơ quan xét xử không được coi là tiêu chuẩn pháp lí mới, bắt buộc phải theo khi giải quyết các vụ việc tương tự”. Lí thuyết về nhà nước và pháp luật. М., 1949, trang 385. “Các nước xã hội chủ nghĩa không công nhận án lệ như là một nguồn gốc của luật pháp vì nó sẽ dẫn tới việc xa rời tính pháp lí và phá hoại vai trò của các cơ quan dân cử trong hoạt động lập pháp.” MLVNNPL, tập 4, trang 325.

[16]S. Vilniansky. Những bài giảng về dân luật. Kharkov. 1958, trang 57-60.

[17]Việc chuẩn bị văn bản thường được giao cho bộ hoặc cơ quan ngang bộ tương ứng, cơ quan này trước hết quan tâm đến việc bảo vệ quyền lợi của mình trong dự thảo. Vì vậy trên các phương tiện thông tin đại chúng cũng như trên báo chí chuỵên về luật pháp đã công bố rất nhiều lời phàn nàn về việc khách hàng của ngành đường sắt, những người gửi hàng và nhận hàng đều gần như không có quyền hành gì trước ngành đường sắt, ngành này thường không những không bảo đảm thời hạn giao hàng mà còn không bảo đảm sự an toàn của hàng hóa, không cung cấp đủ toa chứa và nói chung chịu rất ít trách nhiệm. Mặc dù Điều lệ ngành đường sắt là do chính phủ ban hành, nhưng lại được Bộ giao thông vận tải soạn thảo, Bộ này chỉ quan tâm đến việc bảo vệ quyền lợi của chính nó.

Sự thật là dự thảo văn bản thường được gửi cho các cơ liên quan xem xét, có đến hơn 100 cơ quan như thế. Khi có quá nhiều nhận xét và đề nghị đối chọi nhau thì sự thỏa hiệp chỉ có thể đạt được bằng các diễn đạt mù mờ và giữ nguyên nội dung chính của văn bản đã được chuẩn bị.
Các văn bản quan trọng, có ý nghĩa toàn liên bang (không chỉ luật mà nghị định của Hội đồng bộ trưởng cũng thế) được soạn thảo bởi các hội đồng, nhưng trước khi chính thức thông qua bao giờ cũng phải trình lên Ban chấp hành trung ương, nơi không phải lúc nào cũng có các luật sư có trình độ. Vì vậy các ủy ban soạn thảo thường vò đầu bứt tai khi nhận lại văn bản đã được “Trung ương xử lí”. Đấy cũng là một trong các lí do vì sao một số bộ luật quan trọng “thời cải tổ” như Luật về xí nghiệp quốc doanh, Luật về hợp tác xã đã phải sữa chữa ngay sau khi ban hành. Các bộ luật này đã không đáp ứng được kì vọng.

[18]DA. Leber. Legal rules “For internal use only”. “The International and Comparative Law Guarterly”. London. January, 1970. Tác giả đã làm công việc so sánh, lấy 3 nước “xã hội chủ nghĩa” (chủ yếu là Liên Xô) và 3 nước “tư bản chủ nghĩa”.

[19]Xem: “Việc công bố các văn bản pháp qui”, M., 1978, trang 7. Không đồng ý với quan điểm như thế, tôi đã yêu cầu nhà xuất bản xóa tên khỏi danh sách tác giả cuốn sách. Nhà xuất bản “Pháp luật” đã thực hiện yêu cầu của tôi, xong vẫn giữ nguyên bài viết của tôi và ghi chú rằng đã sử dụng “tài liệu” của tôi trong cuốn sách. Trang 2.

[20]Việc áp dụng luật như thế là phi pháp vì vậy mà bị che dấu. Tôi chỉ thấy một trường hợp được công bố, đấy là trường hợp tòa án Moskva thay đổi cách diễn đạt từ mục 2 điều 33 bộ luật lao động (chức vụ không phù hợp hoặc không thực hiện được công tác) thành phần 2 điều 254 bộ luật lao động Cộng hòa xã hội chủ nghĩa liên bang Nga (Bản tin của tòa án Tối cao Cộng hòa xã hội chủ nghĩa liên bang Nga, 1987. số 2. trang 13) để từ chối khôi phục cho một nữ công nhân khi người này bị cho thôi việc một cách trái luật.

[21]Tất nhiên là không thể có bất cứ dẫn chứng nào về “chỉ thị” trong sách báo pháp luật hoặc trong chính luật pháp. Nhưng trong các phương tiện thông tin đại chúng, ta thường gặp, đại loại như: “Ardamonov, phó chủ tịch thứ nhất ủy ban hành chính tỉnh Tula, đã ra lệnh miệng cho các ủy ban huyện, theo đó các chuyên gia trẻ được phân công đến Tula không được hưởng các ưu đãi về nhà ở do chính phủ qui định… Có rất nhiều trường hợp khi quyết định được ban hành theo chỉ thị của cá nhân chứ không phải theo qui định của pháp luật” (Nước Nga Xô viết, ngày 26 tháng 2 năm 1986).

Chủ tịch đoàn ủy ban nhân dân thành phố Moskva đã “chỉ thị” cho vụ trưởng vụ thương mại thủ tục bán ô tô phi pháp và “cái lệnh miệng phi pháp đó đã là kim chỉ nam suốt mấy năm liền” (Tin tức, ngày 26 tháng 2 năm 1987).  

[22]Pháp chế xã hội chủ nghĩa“, 1962, số 11, trang 84-85; Những vấn đề lí luận của việc hệ thống hóa tiến trình lập pháp, 1961, trang 270, 383; М.А. Arzhanov. Quan hệ giữa nhà nước và pháp luật. М., 1960, trang 44 v.v…

[23]“Thực tiễn hoạt động nhiều năm của Xô viết Tối cao cho thấy các cuộc họp chung của hai viện thường nghe báo cáo về kế hoạch kinh tế quốc dân Liên Xô và ngân sách Liên Xô”… “Theo truyền thống việc bầu vào tòa án Tối cao Liên Xô được tiến hành trong các phiên họp chung giữa hai viện: Viện liên bang và Viện dân tộc”. A. I. Lepeshkin, A. I. Kim và những người khác trong cuốn: Giáo trình luật pháp Liên Xô., М., 1954, trang 397.

[24]Thực tiễn xét xử trong hệ thống pháp luật Liên Xô. М., 1975, trang 6

[25]Sách đã dẫn, trang 3.

[26]Sách đã dẫn, trang 25. Trong nền kinh tế “kế hoạch” của Liên Xô, tiêu chí chủ yếu của công tác là các con số. Vì vậy báo cáo láo là tai họa không thể nào khắc phục được. Khắc phục bằng cách nào? Lãnh đạo Liên Xô (xin nói thêm rằng chính họ cũng báo cáo láo) cho rằng biện pháp duy nhất là trừng phạt. Năm 1962 người ta đã đưa vào luật hình sự Cộng hòa xã hội chủ nghĩa liên bang Nga (các nước cộng hòa khác cũng làm tương tự) điều 152 1 “Báo cáo láo và những sự xuyên tạc khác về việc thực hiện kế hoạch” có thể bị phạt tù đến 3 năm.
Báo cáo láo vẫn không chấm dứt. Làm gì? Tất nhiên là phải tăng cường hình phạt! Nhưng ban hành luật mới thì có vẻ không tiện. Thế là tòa án Tối cao, trong quyết định số 7 ngày 21 tháng 6 năm 1985 (bắt đầu “cải tổ”) đã chỉ thị xử lí báo cáo láo cùng với… tội ăn cắp, có tính đến “toàn bộ số tiền mà những người có trách nhiệm đã chiếm đoạt, cũng như số tiền đã giao cho những người khác dưới dạng tiền lương mà không thề thu hồi được (Bản tin của tòa án Tối cao, 1985, số 4, trang 10). Nhưng trong hướng dẫn áp dụng luật hình sự trước đó đã nói rất đúng rằng cần phải phân biệt báo cáo láo với ăn cắp vì những hành động như thế không nhằm chiếm đoạt tài sản nhà nước hay tài sản xã hội một cách trực tiếp (Hướng dẫn luật hình sự Cộng hòa xã hội chủ nghĩa liên bang Nga, М, 1971, trang 324). Hiện nay, trong trường hợp tiền thưởng quá nhiều thì tội phạm có thể bị xử bắn, kèm theo tịch thu tài sản! Trong khi các nhà khoa học không coi chỉ thị của tòa là nguồn gốc của luật pháp!

Sau đó thì hiện tượng báo cáo láo có chấm dứt không? Dĩ nhiên là không! Điều phi lí nhất là chính các cấp trên lại đòi phải có báo cáo láo!

Sự thiếu hiệu quả và dã man của “hướng dẫn” của tòa án Tối cao đã rõ ràng đến mức chính cơ quan này cũng phải phủ nhận quyết định số 7 và trong quyết định số 15 ngày 24 tháng 12 năm 1987 đã qui định: “trong trường hợp có thiệt hại lớn về mặt vật chất do báo cáo láo gây ra (chỉ trong trường hợp này thôi – tác giả) thì phải coi báo cáo láo có kèm theo tội lợi dụng chức vụ (điều 170 luật hình sự Cộng hòa liên bang Nga), khung hình phạt nặng nhất là 8 năm tù giam (Bản tin của tòa án Tối cao, 1988, số 1, trang 22). tòa án Tối cao đã xuyên tạc luật pháp như vậy đấy. Sau này, trong các chương nói về luật lao động và luật hình sự sẽ có nhiều thí dụ chứng tỏ thực tế xét xử ở Liên Xô là một nguồn gốc pháp luật quan trọng.  

[27]Thực tế xét xử… trang 5-6.

[28]Do giá trị thực tiễn và số lượng in có hạn nên nhiều văn bản hướng dẫn (đặc biệt là luật hình sự và luật tố tụng hình sự) thường không được bán trong nhà sách mà chỉ được phân phối theo đơn đặt hàng của các cơ quan tư pháp và hành chính. Vì vậy ngay cả một số quan tòa cũng không có, công dân bình thướng thì không thể nào mua được.  

[29]Trợ lí giáo sư người Mĩ tên là P. Solomon – Con khẳng định rằng các nhà “tội phạm học” Liên Xô, ngay cả dưới thời Stalin, đã có ảnh hhưởng tích cực đối với luật hình sự! “Khảo cứu khoa học” đã được xuất bản của ông ta rất đáng được ghi nhận vì nó đặc trưng cho nhiều công trình khoa học phương Tây về luật pháp Liên Xô. Theo ý kiến của nhà dân chủ trẻ, nếu không có các nhà “tội phạm học” thì trong những năm “đại khủng bố” còn có thêm hàng chục triệu nạn nhân nữa bị giết. Điều khẳng định giật gân của Solomon-Con là dựa trên cơ sở nào? Hóa ra là trên cơ sở các phát biểu của các nhà khoa học, trong đó có V. Kudriavsev và N. Kuznesovvà những người khác! Liệu có nực cười không khi ta đọc thấy: “Các bài phát biểu của Bộ trưởng bộ nội vụ, N. Shelokov, có ý nghĩa khoa học rất cao”? Con người đó chính là đầu Đảng của băng nhóm mafia tham nhũng! Thật không cần bình luận nữa! Xem P.Solomon Jr. Soviet Criminologists and Criminal Policy. Specialists in Policy Making. NY. 1978, p.64.

Chương 9. Luật lao động

Tại sao tôi chỉ nói về hai lĩnh vực pháp luật mà cụ thể là luật lao động và luật hình sự? Cách mạng “xã hội chủ nghĩa” Tháng Mười được những người Bolshevik tiến hành nhân danh giai cấp vô sản, nhân danh việc giải phóng họ khỏi ách áp bức và bóc lột của giai cấp tư sản. Hai lĩnh vực này sẽ cho ta thấy một cách rõ ràng nhất giai cấp công nhân đã nhận được NHỮNG GÌ từ cuộc cách mạng đó. Lĩnh vực thứ nhất phản ánh một cách tốt nhất các điều kiện lao động, nghỉ ngơi và ăn ở, lĩnh vực thứ hai phản ánh các biện pháp buộc người lao động chấp nhận những điều kiện phi nhân trong lao động và trong đời sống của họ. Người ta có thể nói về một giai cấp nữa, đấy là tầng lớp nông dân. Nhưng chẳng có gì đáng nói về cái gọi là “luật nông trang”, còn luật lao động được áp dụng cho cả nhân viên nông trường, nhân viên của các cơ sở nông nghiệp khác cũng như những người làm thuê trong các nông trang. Nó cũng được áp dụng một cách hạn chế đối với các nông trang viên, những người đã trở thành nông nô từ lâu.

Còn luật hình sự thì được áp dụng cho tất cả mọi người lao động.

“Công dân Liên Xô có quyền lao động”, điều 40 hiến pháp Liên Xô tuyên bố như thế, nhưng những năm gần đây số người thất nghiệp đã cao đến mức báo chí bắt đầu viết về hiện tượng thất nghiệp, mặc dù giới chức có thẩm quyền vẫn phủ nhận nó. Điều 40 nói về bảo đảm kinh tế cũng có hiệu lực trong việc giúp cho người thất nghiệp kiếm việc làm như điều 43 nói về quyền có nhà cho những người công nhân xếp hàng hàng chục năm để mong được phân phối một căn hộ hoặc những kẻ không nhà phải ngủ ngoài ga tầu. Công dân Liên Xô không có bất kì phương tiện pháp lí nào để bảo vệ quyền có việc làm cả [1] .
Nhưng công dân Liên Xô có trách nhiệm phải làm việc. Điều 60 Hiến pháp nhấn mạnh rằng “Trốn tránh lao động có ích cho xã hội là không phù hợp với nguyên tắc của chủ nghĩa xã hội”! “Lao động có ích cho xã hội” được hiểu là lao động theo định hướng “xã hội chủ nghĩa”. Khi xét xử nhà thơ J. Brodsky, người sau này được Giải thưởng Nobel về văn chương, bà thẩm phán Saveliva bám mãi vào câu hỏi: Ông làm việc ở đâu? Brodsky và luật sư bào chữa đã kiên nhẫn giải thích cho người thẩm phán -Đảng viên rằng nhà thơ không những làm việc mà còn làm rất nhiều, ông viết, dịch và có hợp đồng với các nhà xuất bản, nhưng vô ích. Nhà thơ trong “chế độ xã hội chủ nghĩa” bị kêu án phạm tội hình sự, tội ăn bám. Như vậy là hiến pháp Liên Xô tuyên bố nguyên tắc lao động cưỡng bức, còn nhà nước Liên Xô thì thực thi nguyên tắc này, còn Tổ chức lao động thế giới (ILO) thì lại có thái độ bao che cho việc vi phạm công ước về đấu tranh chống lại lao động cưỡng bức. Chính luật lao động và luật hình sự (dĩ nhiên là các lĩnh vực khác cũng thế) là những bộ luật buộc người công dân phải lao động cưỡng bức (“cưỡng bức ngoài kinh tế”) dưới những hình thức khác nhau.

1. Hợp đồng lao động [2]

 Khi những người Bolshevik vừa cướp được chính quyền, họ tin rằng chủ nghĩa cộng sản sẽ thành công trong dăm sáu năm sau đó. Mọi người đều có nghĩa vụ lao động, lao động cưỡng bức được thi hành một cách công khai. Tiền tệ bị hủy bỏ, tất cả những người đi làm đều được cung cấp các nhu cầu sống còn: nhà ở, thức ăn, quần áo và những vật phẩm khác, còn “ai không làm thì đừng ăn”. Bộ luật lao động đầu tiên, ban hành năm 1918, được mở đầu bằng chương “Nghĩa vụ lao động toàn dân”. Các nguyên tắc nói trên được thực hiện: nhà ở và các dịch vụ công cộng cũng như các phương tiện giao thông vận tải đều miễn phí, “khẩu phần” lương thực thực phẩm được phát tại nơi làm việc… Năm 1921 các cố gắng xây dựng chủ nghĩa cộng sản đạt đến đỉnh điểm, kinh tế cũng suy sụp đến tận cùng. Suy sụp kinh tế là kết quả của quá trình “xây dựng chủ nghĩa cộng sản” chứ không phải của sự can thiệp bằng quân sự của nước ngoài và nội chiến. Chế độ trưng thu lương thực, thực chất là cướp bóc nông dân (cướp hết lúa mì của dân mà không trả đồng nào) đã dẫn đến nạn đói. Công nhân và nông dân vô cùng bất mãn, nhiều cuộc bãi công và bạo loạn xảy ra, mà đỉnh điểm của nó là cuộc khởi nghĩa ở Kronshtadt, cuộc khởi nghĩa này bị đàn áp một cách khốc liệt, theo đúng tinh thần cộng sản.

Có vẻ như những người cộng sản phải hiểu rằng lao động cưỡng bức không thể nào có hiệu quả và năng suất cao được, nhưng Trotsky lại khẳng định rằng trong chủ nghĩa cộng sản và với ý thức cộng sản thì chính hình thức lao động được tổ chức theo lối quân đội như thế sẽ cho kết quả tốt nhất (sau này điều đó đã được thực hiện ở Trung Quốc, ở Campuchia, ở Rumania…)

Lenin, một nhà chính trị mềm dẻo, đã nhận ra rằng chính quyền chắc chắn sẽ sụp đổ nếu họ cứ tiếp tục chính sách “cộng sản thời chiến” và ông tuyên bố chuyển sang “chính sách kinh tế mới (NEP), là một bước lùi so với các nguyên lí “cộng sản” mà họ vẫn rêu rao (nhiều Đảng viên phản đối quyết liệt), là chấp nhận chủ nghĩa tư bản (hiện cũng đang diễn ra ở Liên Xô), nhưng Lenin cũng khẳng định rằng bước lùi này chỉ là tạm thời.

Trong một thời gian rất ngắn người ta đã soạn lại và năm 1922 thì cho ban hành bộ luật lao động mới. Bộ luật đã được thông qua một cách vội vã và vì vậy mà được gọi là tạm thời, nhưng hóa ra nó đã tồn tại trong một thời gian rất dài sau đó. Luật lao động của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa liên bang Nga ban hành năm 1922 mặc dù còn chương nói về nghĩa vụ lao động trong một số trường hợp đặc biệt, nhưng đã chuyển sang nguyên tắc hợp đồng lao động, nghĩa là sự thỏa thuận một cách tự nguyện giữa người lao động và người sử dụng lao động [3] .
Điều 36 qui định: “Người sử dụng lao động không được yêu cầu người lao động thực hiện công việc không liên quan đến lĩnh vực hoạt động mà người này được thuê, cũng như công việc nguy hiểm đến tính mạng hoặc không phù hợp với luật lao động”. Điều 24 của bộ luật lao động được thông qua vào năm 1971 cấm ban lãnh đạo đòi hỏi người lao động thực hiện công việc không ghi trong hợp đồng lao động, nhưng những việc nguy hiểm đến tính mạng và không phù hợp với luật lao động thì đã bị loại khỏi luật.

Các điều kiện của hợp đồng lao động còn xấu đi thêm vào năm 1988, nghĩa là trong giai đoạn cải tổ của Gorbachev: điều 24 cho phép ban giám đốc quyền thay đổi điều kiện hợp đồng lao động. Điều này vẫn viết một cách giả dối rằng việc thuyên chuyển người lao động chỉ có thể được thực hiện nếu người lao động đồng ý, nhưng nếu người lao động không đồng ý thì anh ta sẽ bị cho thôi việc theo khoản 6 điều 29! Một hành động mà chúng ta vẫn thường gọi là “ép buộc-tự nguyện [4] ”.

Phụ thuộc vào thời hạn mà hợp đồng lao động được chia thành: vô thời hạn (đa số hợp đồng thuộc loại này) và hợp đồng có thời hạn (đến 1 năm theo Luật lao động năm 1922). Hợp đồng có thời hạn chỉ được kí với nông dân (nghĩa là những người nông dân đi khỏi làng trong một thời gian), nhưng cấm kí với viên chức và công nhân có tay nghề cao. Sau đó, “coi như ngoại lệ” (một hình thức vi phạm pháp luật phổ biến của các cơ quan nhà nước) người ta đã cho phép kí các hợp đồng thời vụ với công nhân viên chức. Tổng cục giao thông Bắc Hải, rồi Tổng cục xây dựng Viễn Đông, sau đó là tất cả các tổ chức Cực Bắc với thời hạn đến 3 năm. Bộ luật lao động năm 1971 chỉ giữ lại thời hạn 3 năm, còn các hạn chế khác đều bị bãi bỏ (giống như bộ luật của đế chế Nga năm 1832, nhưng hạn chế lúc đó là để ngăn chặn tình trạng nô lệ). Được phép gia hạn hợp đồng. Hiện nay hợp đồng “thời vụ” càng ngày càng phổ biến.

Từ năm 1971 phụ nữ được quyền nghỉ có lương để chăm sóc con nhỏ cho đến 1 năm tuổi. Dĩ nhiên là khi người phụ nữ vắng mặt trong một thời gian dài như vậy thì người ta phải tìm người khác thế chỗ. Nhưng vấn đề là người thay thế sẽ bị cho nghỉ việc trên cơ sở nào, luật lao động không nói đến cơ sở như thế. Đặc biệt, nếu người phụ nữ thay thế có mang vào đúng lúc người được thay thế trở lại làm việc thì ban giám đốc không có quyền cho phụ nữ có thai nghỉ việc (điều 170 Luật lao động). Thực tiễn xét xử như sau: hội đồng về các vấn đề dân sự của Tòa án Tối cao Liên Xô phán quyết rằng đây là “hợp đồng thời vụ”, có thể bị hủy bỏ ngay khi hết hạn, không phụ thuộc vào việc ai bị cho nghỉ và người đó đang ở trong tình trạng như thế nào (Tập san của Tòa án Tối cao Nga, 1973, số 5, trang 10).

Trên cơ sở án lệ này của tòa án nước cộng hòa mà trong “Bình luận”, vốn được mọi người coi là văn bản pháp qui có hiệu lực toàn liên bang, đã viết: vì việc cấm cho nghỉ việc theo sáng kiến của ban giám đốc không liên quan đến những trường hợp như thế, nên các trường hợp này phải được coi là chấm dứt hợp đồng khi hết hạn [5] . Và thế là những người phụ nữ mang thai và những người phụ nữ đang nuôi con nhỏ bị cho nghỉ việc theo khoản 2 điều 29 Bộ luật lao động (“hết hạn hợp đồng”). Như vậy nghĩa là án lệ của nước cộng hòa đã xác lập tiêu chuẩn cho toàn liên bang.

Sau này, theo “thực tiễn đã hình thành” (tập quán) trong quyết định bổ nhiệm người ta thường ghi: “bổ nhiệm M. I. Ivanova… cho đến khi S. I. Petrova trở lại làm việc sau thời gian nghỉ đẻ”. Ở đây ta thấy rõ ý nghĩa của việc đánh tráo khái niệm: Bà Petrova nghỉ phép đến 1 năm, chứ không phải đúng 1 năm và có quyền trở lại làm việc bất cứ lúc nào và bà Ivanova sẽ bị cho nghỉ việc ngay ngày hôm ấy dù bà có ốm hay đang có mang cũng mặc! Có thể gọi đây là hợp đồng “có thời hạn” được không? Thế mà người ta gọi nó là hợp đồng “thời vụ” đấy, thịt chó, nhờ ý chí của pháp luật Liên Xô đã biến thành đậu phụ, nhà sư có thể bình tĩnh mà dùng được rồi.

Luật pháp cũng trù liệu việc đặt ra thời gian thử việc cho những người mới nhận việc, nhưng đồng thời pháp luật cũng xác định rõ một loạt hạn chế đối với quyền của người sử dụng lao động, thí dụ như thời hạn thử việc cho công nhân được xác định là 6 ngày, viên chức là 2 tuần và những vị trí có trách nhiệm cao là 1 tháng. Năm 1988 (thời “cải tổ” của Gorbachev) thời gian thử việc của tất cả mọi chức vụ là 3 tháng, còn nếu được công đoàn đồng ý (bao giờ họ cũng đồng ý cả) thì có thể nâng lên thành 6 tháng.

Gần như cùng lúc với việc áp dụng hệ thống căn cước trong những năm đầu thập kỉ 30 thì người ta cũng phát cho tất cả công nhân viên chức “sổ lao động” ngay từ khi kí hợp đồng lao động đầu tiên. Đấy là một thời khắc rất đáng nghiên cứu trong quá trình nô dịch người lao động. Cuối thế kỉ XIX, sau khi bãi bỏ chế độ chiếm nô ở nước Nga, chính phủ bắt đầu tiến hành cải cách dân luật bằng cách thu thập các kiến nghị của các cơ quan nhà nước và dân chúng. Nhiều địa chủ đề nghị áp dụng sổ lao động nhằm ngăn chặn người lao động tự ý bỏ việc. Mặc dù việc soạn thảo và thông qua bộ dân luật Nga không được thực hiện vì cuộc Chiến tranh thế giới Thứ nhất bắt đầu vào năm 1914, nhưng đề xuất của giới địa chủ không được đáp ứng trong bất kì phương án nào, điều đó chỉ trở thành hiện thực dưới chế độ “xã hội chủ nghĩa”. Sổ lao động ghi chép tất cả các số liệu về thời gian làm việc, những lần thuyên chuyển và cho thôi việc. Nó đi theo người lao trong suốt cuộc đời và loại trừ mọi khả năng tự ý bỏ việc chỗ này để chuyển sang làm việc ở một chỗ khác. Như vậy là chứng căn cước cột chặt người lao động vào nơi họ đang sống còn sổ lao động thì cột chặt họ vào chỗ đang làm.

Điều 44 bộ luật lao động năm 1922 xem xét 4 phương án chấm dứt hợp đồng lao động: a/ theo thỏa thuận của cả hai bên; b/ sau khi hợp đồng hết hạn; c/ sau khi công việc ghi trong hợp đồng không còn; d/ một trong hai bên tuyên bố chấm dứt hợp đồng. Hiện nay một điều khoản tương tự như vậy qui định 7 cơ sở cho việc chấm dứt hợp đồng lao động. Điều 46 bộ luật lao động năm 1922 cho phép người lao động được tự ý thôi việc, nhưng năm 1940 thì bị cấm, thậm chí bị đe dọa truy tố không chỉ người lao động mà cả ban lãnh đạo đồng ý cho người lao động nghỉ việc! Chỉ có một số trường hợp thí dụ như thương tật mới được coi là ngoại lệ. Có khác gì sống trong “pháo đài”!

Sau khi Stalin chết, năm 1956, trong giai đoạn “tan băng” luật lao động có được dân chủ hóa chút ít, thí dụ cho phép người lao động được tự ý nghỉ việc, với điều kiện phải thông báo trước 2 tuần. Nhưng đồng thời một số biện pháp tác động khác đối với người lao động lại được đem ra áp dụng: trợ cấp ốm đau phụ thuộc vào thời gian “làm việc liên tục”. Một trong những yêu cầu của những người thợ mỏ bãi công năm 1989 là hủy bỏ, theo đúng thuật ngữ của họ, luật “thời chiếm nô [6] ” (những người thợ mỏ thuyên chuyển theo nguyện vọng cá nhân bị tước phụ cấp).

Năm 1983, khi Andropov, cảnh sát trưởng, trở thành người đứng đầu “Đảng” và nhà nước thì các biện pháp nô dịch lại được tăng cường: người ta đã đưa ra, thí dụ, khái niệm lí do thôi việc chính đáng (các nguyên nhân này không nhiều) và lí do không chính đáng. Khả năng nhận được việc tốt hơn cũng bị coi là lí do không chính đáng. Trong trường hợp này phải báo cho ban lãnh đạo trước hai tháng và khả năng giữ thời gian làm việc “liên tục” bị giảm thiểu rất nhiều. 

Trong khi khả năng chuyển chỗ làm của nhân viên bị hạn chế thì khả năng cho thôi việc của lãnh đạo lại tăng lên không ngừng. Khả năng cho nghỉ việc nhiều đến nỗi người ta phải ngụy trang cho nó. Thí dụ việc ban lãnh đạo cho nhân viên nghỉ việc khi người phụ nữ nghỉ đẻ đ làm như đã nói bên trên; việc cho nhân viên không vượt qua giai đoạn thử thách hoặc không chấp nhận thuyên chuyển sang công việc kém hơn v.v… đều không được coi là cho thôi việc. Trong bộ luật năm 1922 có 8 điều khoản như thế, luật năm 1971 có 10, sau đó thêm 3, còn bây giờ là 30, mặc dù chúng được ghi trong nhiều văn bản khác nhau và không được đưa vào luật. Cần nhớ rằng người ta có thể dùng “thực tế” để giải thích theo kiểu mở rộng thêm những điều khoản hiện có.

Bộ luật hiện hành cấm ban giám đốc cho nhân viên thôi việc mà không có sự đồng ý của ban chấp hành công đoàn. Cần phải nhận rằng ban đầu nguyên tắc này được các tòa án tuân thủ một cách nghiêm chỉnh đến nỗi nếu có sự vi phạm trong việc thỏa thuận (thí dụ không đủ số phiếu đại diện trong ban chấp hành công đoàn) thì ngay cả những kẻ say rượu hay những người thường xuyên bỏ việc cũng sẽ được phục hồi công tác ngay lập tức. Nhưng trong giai đoạn “cải tổ” của Gorbachev nguyên tắc này đã bị bãi bỏ. Người ta đã làm việc đó bằng cách xóa từ “trước” khỏi điều 35. Và điều luật đã thay đổi một cách căn bản: ban giam đốc cho nhân viên thôi việc; người này kiện ra tòa; tòa xác định rằng nhân viên bị cho thôi việc mà chưa có sự thỏa thuận của công đoàn, tòa sẽ gửi đơn kiện lại cho công đoàn, công đoàn có thể phục hồi công tác cho người nhân viên, trong trường hợp công đoàn không phục hồi thì đơn kiện sẽ được đưa trở lại tòa. Nhưng công đoàn thường đồng ý với ban giám đốc, còn khi chỗ làm việc đã có người khác chiếm rồi thì sắc xuất của việc phục hồi công tác là rất nhỏ. Cũng phải thấy rằng sự dây dưa nhất định sẽ xảy ra trong quá trình chuyển đơn từ tòa về công đoàn và ngược lại sẽ dẫn đến việc mất “thời gian công tác liên tục” và điều này cũng làm cho người lao động không muốn kiện tụng, hi vọng thì quá ít mà mất mát thì quá lớn.

Ở đây không có điều kiện và cũng không cần thiết phải xem xét tất cả các cơ sở buộc người lao động nghỉ việc, nhưng ta sẽ xem xét trường hợp cho nghỉ việc vì vắng mặt không lí do. Khởi kì thủy (từ thời còn Lenin) nghỉ việc 3 ngày liên tục hoặc 4 ngày trong một tháng mà không có lí do chính đáng thì bị cho thôi việc. Dưới thời Stalin chỉ cần vắng mặt tại chỗ làm 20 phút là đã bị đuổi việc, còn từ năm 1940 thì bị khởi tố hình sự! Vắng mặt lần đầu thường bị xử mấy tháng lao động cải tạo, tái phạm thì bị đưa đi trại, nơi 6 tháng làm việc (thường là đốn gỗ) cũng ngang với án tử hình! Trong giai đoạn “tan băng” của Khrushchev, vắng mặt một ngày không có lí do chính đáng là bị cho thôi việc. Dưới thời Andropov, người đã kịp thể hiện “sự lãnh đạo sáng suốt” trên cơ sở “củng cố kỉ luật lao động”, không có mặt tại vị trí công tác 3 tiếng đồng hồ (tổng số giờ) đã bị cho thôi việc, “nhà cải cách” Gorbachev giữ nguyên tiêu chí này.

Như vậy, xu hướng chung là quyền người lao động được vắng mặt tại vị trí công tác ngày một ít đi, trong khi quyền cho thôi việc của ban giám đốc lại tăng lên.

Vấn đề thanh toán cho người lao động cũng rất đáng chú ý cả từ quan điểm lịch sử cũng như quan điểm lí thuyết pháp luật. Điều 98 luật lao động qui định thanh toán cho người lao động ngay ngày thôi việc nếu anh ta không làm trong ngày hôm đó, nhưng không được muộn hơn một ngày sau khi anh ta đòi thanh toán. Sổ lao động cũng phải được trao trả ngay ngày hôm đó.

Điều 99 qui định nếu ban giám đốc không thể trả sổ lao động thì người công nhân được thanh toán với mức lương trung bình trong suốt thời gian sổ bị giữ (không có sổ thì không thể tìm được việc mới). Trong trường hợp thanh toán chậm thì người lao động cũng được lĩnh lương trung bình như đã nói ở trên, nhưng nếu trong thời gian đó anh ta tìm được việc mới thì số thực lĩnh của anh ta sẽ là lương trung bình của công việc cũ trừ đi lương thực lĩnh tại chỗ làm mới.

Nhưng nghị định ngày 24 tháng 11 năm 1978 của Tòa án Tối cao Liên Xô lại “giải thích” rằng nếu người lao động không tìm được việc làm mới mà “không có lí do chính đáng” thì yêu cầu thanh toán sẽ bị bác bỏ. Như vậy là tòa án đã bãi bỏ luật vì trong khi nhà nước vẫn tuyên bố rằng không có thất nghiệp thì người lao động không thể nào chứng minh được rằng anh ta không thể tìm được công việc mới. Năm 1988 (chính trong giai đoạn “cải tổ”) việc thanh toán do những chậm chễ nêu trên bị bãi bỏ hoàn toàn.

Đồng thời, theo truyền thống, để được thanh toán, người lao động phải xin chứng thực của các phòng ban rằng anh ta không còn nợ nần gì nữa. Không có tờ giấy như thế thì phòng tài chính sẽ không thanh toán. Nhưng cả tờ giấy đó cũng như nội dung của nó không hề được đề cập tới ngay cả trong các bài “bình luận” cho nên số chữ kí phải xin có thể rất nhiều và một ngày chưa chắc đã xong. Chưa xong thì người lao động không được lĩnh lương cũng không được nhận sổ lao động để chuyển sang công việc mới. Truyền thống này là không có ngoại lệ, nhưng ta không tìm thấy một lời nào trong các tác phẩm khoa học cả. Nước ta là thế, cái gì trái với lí thuyết thì cái đó coi như không tồn tại.

2. Thời gian lao động và thời gian nghỉ ngơi

Trong một thời gian dài Liên Xô vẫn tự khoe là có “ngày làm việc ngắn nhất” thế giới. Trên thực tế, sau cách mạng, lời hứa ngày làm việc 8 tiếng trong cương lĩnh thứ nhất của “Đảng” đã được thực hiện. Nhưng trong cương lĩnh cũng còn những lời hứa như tuyệt đối cấm làm việc thêm giờ, tuyệt đối cấm làm việc ban đêm trừ những công việc phải làm ban đêm vì điều kiện công nghệ và nhiều lời hứa khác nữa.

Sau khi cướp được chính quyền, trong cương lĩnh thứ hai đã không còn tuyệt đối cấm làm thêm giờ nữa mà chỉ cấm “về nguyên tắc”, làm đêm chỉ còn cấm đối với phụ nữ và trẻ vị thành niên.

Nhưng cương lĩnh thức hai nói rằng pháp luật còn tiến xa hơn những lời hứa trong cương lĩnh thứ nhất khi xác định thời hạn nghỉ phép là một tháng cho tất cả mọi người lao động! Nhưng thực ra, ngay lập tức viện cớ “áp lực của chủ nghĩa đế quốc thế giới”, cương lĩnh thực hiện một “bước lùi tạm thời”: phép năm là hai tuần (người lao động của chúng ta chờ đợi đã 70 năm rồi!) và thời gian làm việc ban đêm của trẻ vị thành niên được kéo dài lên thành 7 giờ một ngày v.v… Cương lĩnh cũng hứa rằng “sau này” sẽ qui định ngày làm 6 giờ với mức lương không đổi (chúng ta cũng đã chờ đợi 70 năm rồi).

Cương lĩnh thứ ba của Đảng Cộng sản Liên Xô còn hứa bạo hơn: đến năm 1970 ngày làm việc sẽ là 6 giờ (lại 6 giờ!), còn đến năm 1980 thì “Liên Xô sẽ trở thành đất nước có thời gian làm việc ngắn nhất, với năng suất lao động cao nhất và được trả lương cao nhất thế giới”, thời gian nghỉ phép hàng năm sẽ là một tháng (lại 1 tháng!). Xin bạn nhớ lại điều tôi đã nói về sáng kiến của những người Bolshevik: “chính sách cây gậy và lời HỨA về củ cà rốt”!”
Những lời hứa đó được thực hiện như thế nào? Sau cách mạng, công nhân làm ngày 8 giờ, viên chức 6 giờ. Sau khi hiến pháp Stalin được thông qua thì thời gian làm việc được qui định là 7 giờ một ngày đối với tất cả mọi người, nhưng năm 1940, lấy cớ là Liên Xô buộc phải tham chiến khi chưa được chuẩn bị, người ta qui định chế độ làm việc 8 giờ một ngày, kể cả trẻ vị thành niên dưới 16 tuổi. Trong thời gian chiến tranh, ngày làm việc kéo dài vô hạn định, nhất là tại các xí nghiệp quốc phòng, nghỉ phép bị bãi bỏ, ngày chủ nhật cũng không còn. Phải 15 năm sau ngày chiến tranh kết thúc chế độ làm việc 41 giờ một tuần mới được áp dụng, nhưng thời gian nghỉ phép vẫn là hai tuần cho mãi đến tận năm 1968, sau đó thời gian nghỉ phép được kéo dài thêm 3 ngày, nhưng những người có thời gian nghỉ phép dài hơn 2 tuần thì lại bị rút lại còn 2 tuần cộng 3 ngày.
Năm 1980 là thời hạn để “Đảng” thanh toán những lời hứa hẹn về việc xây dựng chủ nghĩa cộng sản và nhiều lời hứa về đủ thứ khác. Nhưng Đảng đã lờ hoàn toàn cho đến năm 1986, dưới sự lãnh đạo của Gorbachev người ta đã thông qua cương lĩnh thứ ba (cương lĩnh Khrushchev) đã được “hiệu đính”, lần này thì tất cả mọi lời hứa đều không còn số liệu và thời hạn cụ thể theo kiểu: “nguồn tài sản sẽ tuôn chảy dồi dào”, nhưng không nói khi nào.
Ngày làm việc thực tế của công nhân dài hơn rất nhiều vì phải làm thêm giờ và làm việc trong các ngày nghỉ. Xảy ra chuyện này là do trong nền kinh tế “kế hoạch” mười ngày đầu tháng chỉ thực hiện được 10-15% kế hoạch, mười ngày sau thực hiện được 15-20%, mười ngày cuối cùng phải chạy đua và công nhân phải làm 14 giờ một ngày, không có cả thứ bảy lẫn chủ nhật [7] .

Bất chấp pháp luật, người lao động phải làm thêm giờ ở cả những nơi bị tuyệt đối cấm vì điều kiện độc hại hoặc nguy hiểm tới tính mạng. Một cuộc điều tra chính thức sau vụ tai nạn đường sắt cho thấy cả lái chính và lái phụ đều ngủ gục [8] . Hóa ra theo qui định chỉ được làm thêm không quá 120 giờ một năm (chính phủ Sa hoàng trước năm 1917 cũng đã qui định như thế) thì chỉ trong tháng 11 người lái tàu bị thiệt mạng là Djioev đã làm ngoài giờ tới 103 tiếng đồng hồ!

Còn “công đoàn”? Họ có theo dõi thời gian làm việc ngoài giờ, nhưng không phải theo dõi việc tuân thủ pháp luật (pháp luật chỉ cho phép làm thêm giờ trong những trường hợp đặc biệt: tai nạn, thảm họa hoặc để ngăn chặn các vụ tai nạn hay thảm họa v.v…) mà là để tránh bội chi. Không phải là để bảo vệ công nhân mà là bảo vệ quyền lợi của nhà nước (lương trả cao cho thời gian làm thêm sẽ dẫn đến bội chi quĩ lương đã được ấn định trong kế hoạch). Vì vậy các ban giám đốc phải tìm cách che dấu việc làm thêm giờ hoặc sử dụng các hình thức “lao động tình nguyện” dưới dạng “ngày thứ bảy cộng sản” chẳng hạn [9] .
Pháp luật qui định thời gian lao động của các nhân viên y tế là 6 giờ một ngày. Nhưng người ta đã nghĩ ra cho họ việc “kiêm nhiệm” hoặc công việc “hưởng nửa lương”. Đây đúng là một sự bịp bợm điển hình vì kiêm nhiệm là “giữ đồng thời, ngoài chức vụ chính, một chức vụ có lương khác,… cũng như làm một công việc có lương khác [10] ”, nghĩa là một việc khác. Ở đây, nói theo đúng pháp luật là một công việc làm thêm thường xuyên, ở ngay tại vị trí đó nhưng chỉ được trả một lần rưỡi lương. Họ phải làm việc 9 giờ một ngày (18 giờ làm thêm một tuần, trong luật chỉ cho phép làm thêm tối đa 10 giờ một tuần), nhưng tiền công lại không tăng (hai giờ làm thêm đầu tiên được hưởng lương gấp rưỡi, các giờ sau gấp đôi). “Ai cũng biết điều đó (việc kiêm nhiệm của các nhân viên y tế – tác giả) được áp dụng khắp nơi. Biện pháp này cần thiết vì hai lí do. Thứ nhất, không một bác sĩ hay y tá nào có thể sống nếu chỉ dựa vào tiền lương. Ngoài ra việc thiếu nhân viên y tế có tay nghề bậc trung đã trở thành vấn đề nghiêm trọng (cũng do đồng lương thấp và uy tín nghề nghiệp không cao) (Nước Nga Xô viết, ngày 22 tháng 11 năm 1989. Tác giả nhấn mạnh.)
Các ông chủ không từ một thủ đoạn nào, với sự đồng ý của các gia nhân “công đoàn” để kéo dài thêm ngày làm việc của người lao động! Thế cho nên thời gian làm việc của thợ mỏ được tính từ lúc anh ta bước vào hầm lò; thời gian thay quần áo, xếp hàng đợi… được coi là thời gian… nghỉ! Chỉ sau những cuộc đình công năm 1989 nguyên tắc này mới được bãi bỏ.
Theo quyết định số 184 của Bộ trưởng Bộ năng lượng công bố năm 1969, nếu không có sự cố thì các thợ điện trực chỉ tính 75% thời gian trực (trong quyết định gọi là thời gian “làm việc thụ động”) và nếu người thợ trực 12 giờ thì trong bảng chấm công sẽ chỉ ghi 9 giờ, thời gian còn lại phải làm thêm trong ngày nghỉ! Một người cựu chiến binh tên là A. Mikhailov đã bị đuổi việc vì không chịu đi làm vào ngày nghỉ! Công đoàn không đồng ý cho thôi việc, thế là ban giám đốc quyết định cảnh cáo và cắt tháng lương thứ mười ba (cắt thưởng, nghĩa là phạt). Lần này thì công đoàn đồng ý. (Lao động ngày 10 tháng 11 năm 1989)
Không thể không nói đến hiện tượng sử dụng ngày nghỉ của người lao động vào những việc bên ngoài xí nghiệp: ngày nghỉ họ bị đưa đi làm các công việc đồng áng. Trong các hợp đồng tập thể “công đoàn” thường đưa các điều kiện đó vào như là điều kiện bắt buộc và thế là họ đã hợp pháp hóa các biện pháp trừng phạt của ban giám đốc đối với những người không chịu tham gia những chuyến đi như thế trong những ngày nghỉ mặc dù điều 5 luật lao động đã tuyên bố không chấp nhận những điều kiện làm xấu thêm tình cảnh của người lao động so với những điều kiện đã được pháp luật qui định.

Trong việc xây dựng nhà ở gọi là “nhà nước và nhân dân cùng làm” (bằng phương tiện của chính xí nghiệp), công nhân (nhất là những người muốn nhận nhà) thường phải tự mình hay nhờ người thân và bạn bè làm thêm ngoài giờ với định mức là 30 giờ cho mỗi mét vuông diện tích được phân phối (một căn hộ 50 mét vuông phải làm thêm 1500 giờ hay là 4 giờ làm thêm mỗi ngày trong một năm. (Tin tức ngày 29 tháng 12 năm 1986).
Bức tranh sẽ không trọn vẹn nếu không nói tới một hiện tượng phổ biến là huy động người dân làm các “công việc xã hội” ở nơi cư trú: dọn dẹp rác rưởi hay tuyết trên đường phố, động viên dân chúng đi xúc tuyết trên đường sắt, trực ban, đi tuần tra và nhiều việc khác.
3. Tiền lương. Bảo đảm và đền bù [11]
Trước các “nhà kinh điển của chủ nghĩa Marx-Lenin” vấn đề tiền lương không được đặt ra vì trong chế độ cộng sản thì tiền, “tàn dư của chế độ bóc lột ngày hôm qua” (V. Lenin), sẽ bị bãi bỏ, và chỉ còn lại việc phân phối các sản phẩm tiêu dùng, giai đoạn đầu “theo lao động”, còn giai đoạn sau thì “theo nhu cầu [12] ”.
Nhưng sau khi cướp được chính quyền và với sự tan hoang của nền kinh tế vấn đề này đã trở thành nghiêm trọng. Bắt đầu những cuộc tìm kiếm vô vọng (hiện nay vẫn còn tiếp tục) hình thức trả lương. Không thể nào mô tả hết được những cuộc tìm kiếm ấy. Lúc thì trả lương bình quân, rồi lại kêu rằng như thế là “cào bằng” và chuyển sang “khoán sản phẩm [13] ”. Lúc thì đưa tỉ lệ phần thưởng lên, lúc chuyển sang giữ phần lương cố định là chủ yếu. Lúc thì người ta ca ngợi sự quan tâm của cá nhân, rồi sau lại chuyển sang hình thức trả lương theo tổ, đội với sự bao che và phân phối tiền lương theo “hệ số tham gia” của mỗi người. Điều này đã gây ra các cuộc tranh chấp về tiền lương tại từng tổ sản xuất, nhưng không hề làm cho năng suất tăng thêm được một chút nào vì để tránh những cuộc xung đột nội bộ, công nhân đành phải chia đều.
Sau “cách mạng tháng Tư” và bắt đầu “công cuộc cải tổ” các nhà kinh tế học như bà Tatiana Zaslavskaia nổi tiếng nọ, được sự tiếp tay của lãnh đạo [14] đã hò hét lên rằng người lao động “nhận lương quá cao so với thành quả lao động”, theo họ, mức lương như thế đảm bảo một cách chắc chắn nhu cầu của tiêu dùng bất chấp kết quả lao động và vì vậy không kích thích người ta làm việc. (tạp chí Người cộng sản, số 13)
Họ kêu gọi “chuyển sang hạch toán kinh tế toàn diện” (nhân tiện xin nói rằng việc chuyển sang hạch toán kinh tế đã hoàn thành vào năm 1922, nhưng hiện nay cũng chẳng ai biết mặt mũi nó như thế nào [15] ), chuyển sang “thuê thầu” (cũng là khái niệm hũ nút vì thuê và thầu là hai việc khác nhau). Người ta còn nói đến cả việc thuê xí nghiệp rồi sau đó mua làm tài sản tập thể, thậm chí… thành tài sản tư nhân nữa (tội nghiệp cho ông Marx quá!). Thực ra đây mới chỉ là những câu chuyện. Tất cả những chuyện này là để khuyến khích người lao động, “tạo cho anh ta cảm giác người làm chủ”. Nói trắng phớ ra, bộ máy đã vất bỏ màn khói mác-xít và đang đi tìm những hình thức áp bức mới về mặt kinh tế.
Nhưng ước mơ của “các đại biểu nhân dân” như Zaslavskaia, Bunich và Ко không thể nào trở thành hiện thực được: mọi hình thức độc lập của người lao động, mọi hình thức, trong đó người lao động có thể trở thành người chủ, dù chỉ một phần, sẽ tước bỏ quyền lực kinh tế của những kẻ cầm quyền, những kẻ đang nắm quyền sẽ không bao giờ chấp nhận. Không có ý định trở thành nhà tiên tri nhưng tôi xin nói một cách chắn chắn rằng “công cuộc cải cách kinh tế” của Gorbachev cũng sẽ thất bại như tất cả các cuộc cải cách trước đây mà thôi. Mà thực ra nó cũng đang phá sản rồi [16] !
Điều 118 hiến pháp Stalin “bảo đảm” trả công cho người lao động “phù hợp với số lượng và chất lượng công việc”. Công thức này cũng đi vào hiến pháp Brezhnev, có kèm thêm một đoạn như sau: “không thấp hơn mức lương tối thiểu do nhà nước qui định”. Chúng ta đã xác định ở trên rằng trong “chủ nghĩa xã hội” không thể có một tiêu chuẩn chất lượng và số lượng lao động nào hết. Các nhà khoa học chuyên nói leo không thể nào giải thích được vì sao lương của một bác sĩ trẻ chỉ là 110 rub, còn sau đợt tăng lương gần đây một thủ thư tốt nghiệp đại học lại được nhận những 140 rub một tháng. Sẽ hiểu thể nào khi Tổng cục Thống kê công bố rằng lương trung bình hiện nay là 240 rub, nghĩa là lương bác sĩ trẻ không bằng một nửa mức lương trung bình? Thực ra, cũng như trước đây, số liệu của Tổng cục Thống kê trong “giai đoạn cải tổ” cũng bị giả mạo vì những kẻ nắm quyền không thể từ bỏ các số liệu “chứng tỏ sự cải thiện không ngừng đời sống của người lao động [17] ”.
Thứ hai, cần phải phân biệt tiền công và tiền lương do pháp luật qui định, vì, thí dụ gần như tất cả các bác sĩ đều làm “gấp rưỡi”, như vậy là một bác sĩ trẻ “sẽ được” 165 rub, còn người công nhân, do làm thêm giờ nên cũng “được” nhiều hơn (thợ máy hỏa xa đến 500-600 rub), nhưng giá phải trả là gì [18] ? Là sức khỏe, là tai nạn lao động, có cả những trường hợp tử vong! 

Thứ ba, cần phải tính đến đồng lương thực tế, lạm phát, một hiện tượng mà các nhà khoa học cố tình phủ nhận, như họ từng phủ nhận các hiện tượng như thất nghiệp, mại dâm. Ở ta chưa bao giờ người ta làm cái việc tính tiền lương tối thiểu dựa trên những khoản chi phí cần thiết cho gia đình, một điều mà công đoàn các nước phương Tây thường làm. Tiền lương thực tế ở nước ta chỉ bằng khoảng một phần mười so với Mĩ (Moskva buổi chiều, ngày 27 tháng 12 năm 1988).
Cũng phải thấy rằng tỉ lệ quĩ lương trong tổng thu nhập quốc dân ở Mĩ gần như không đổi, còn ở nước ta thì giảm, ngay cả so với thời Sa hoàng: 54,8% năm 1908, 36,6%. năm 1985 (Moskva buổi chiều, ngày 27 tháng 12 năm 1988).
Nếu tính hết các khoản này thì ở nước ta không phải là 40 triệu người sống dưới mức nghèo khổ như người ta tuyên truyền mà con số phải lớn hơn nhiều.
Mỗi khi phải công nhận rằng lương ở nước ta thấp, các nhà lãnh đạo của chúng ta, theo đuôi họ là các “nhà khoa học”, rất thích viện dẫn đến “quĩ tiêu dùng xã hội” mà có vẻ như người lao động có thể muốn xúc bao nhiêu thì xúc. Thế là Đại hội XXVII Đảng Cộng sản Liên Xô hứa (lạy Chúa tôi! lại “hứa”!) rằng vào năm 1991 quĩ này sẽ là 600 rub trên “một đầu người” (không phải người đi làm!). Thứ nhất, ai có thể kiểm tra? Thứ hai, việc chi tiêu không bao giờ được công bố, nhưng ai cũng biết rằng nó được phân phối một cách rất tùy tiện. Tầng lớp cán bộ giành giật được “miếng bánh” lớn nhất từ chính quĩ này dưới dạng các nhà an dưỡng cao cấp (trong vai một khách thăm quan, tôi đã từng đến một nhà an dưỡng như thế và hai tuần sau vẫn chưa tỉnh hồn), nhà nghỉ, có oshin, bệnh viện đặc biệt v.v… làm cho nhân dân rất bất bình [19] .
Nói về đặc lợi, đây không phải là thói ghen tức nhỏ nhen đối với người hàng xóm giầu có hơn mình mà là một vấn đề mang tính chính trị nghiêm túc. Trong tác phẩm Nhà nước và cách mạng, Lenin đã nhắc đi nhắc lại yêu cầu của Marx về việc trả lương đồng đều cho công nhân và viên chức. Toàn bộ vấn đề là khi người viên chức có đặc lợi thì anh ta không thể biết các nhu cầu của công nhân, không hiểu điều kiện sống và lao động của họ, không biết những sự vất vả khi phải xếp hàng mua thực phẩm và sự khan hiếm, sự nghèo đói, sự chen lấn trên các phương tiện giao thông mỗi ngày và anh ta sẽ không nghĩ đến việc cải thiện… Đơn giản là anh ta không nhìn thấy! Vì vậy yêu cầu loại bỏ đặc lợi là một phần của cuộc đấu tranh chính trị, không phải để tạo nên chế độ “cào bằng” mà là chế độ bình đẳng.
Tôi cho rằng việc một nhạc sĩ có tài được nhận nhuận bút cực kì cao, anh ta có xe hơi, nhà lầu là chuyện hợp lí, nhưng tôi không thể chấp nhận việc có những cửa hàng mà tôi không có quyền vào vì tôi không thuộc tầng lớp “cán bộ”.
Tôi biết rằng tôi không có tài năng bằng Sviatoslav Rikhter, nhưng tôi tin chắc rằng đa số chúng ta không ngu hơn Trenenko, “Đảng” trưởng và người đứng đầu nhà nước, ông ta sống sung sướng hơn Rikhster nhiều, mà lại sống trên lưng chúng ta!
Xô Viết Tối cao Liên Xô thời “cải tổ” đã bầu E. Primakov làm chủ tịch ủy ban đấu tranh với tệ đặc lợi. Đấy là một trong những đại diện tiêu biểu nhất của tầng lớp mafia đặc lợi ngay từ thời Brezhnev, một người thường xuyên xuất hiện ở nước ngoài, khi thì trong đoàn đại biểu của các tổ chức “xã hội”, lúc thì đại diện cho chính phủ. Dĩ nhiên là ủy ban của ông ta đấu tranh chống lại việc “cào bằng” và ủng hộ đặc lợi “hợp pháp”. (Thư kí ủy ban này là E. Panfilova, “đại diện công đoàn”). Ở đâu Primakov cũng lôi cách giải thích của Gorbachev ra nói với công nhân: “Các đồng chí có trạm xá trong nhà máy thì tại sao các cán bộ làm việc trong Ban chấp hành trung ương lại không có quyền có trạm xá như thế?”. Cuộc đấu tranh kết thúc ở đâu? Khi các đặc quyền đặc lợi chuyển từ “cán bộ Đảng” sang “các nhà dân chủ” thì người ta cũng giải tán ủy ban.
Không thể không nói tới rất nhiều ưu tiên ưu đãi phi vật chất, nhưng cuối cùng lại có giá trị vật chất rất lớn: những chuyến đi nước ngoài (người ta còn phân biệt cả những người “đã đi nước ngoài” và những “người chưa đi nước ngoài” nữa kia), sắp xếp con em vào học trong những trường phổ thông và đại học đặc biệt [20] (kể cả các trường ở phương Tây), khi ra trường thì được bố trí vào những chỗ “ấm”, được phân phối trước căn hộ đầy đủ tiện nghi, được nhận nhà nghỉ của nhà nước v.v…
Và cuối cùng, như đã nói bên trên, tầng lớp “cán bộ” luôn luôn được cấp dưới cúng nạp. Hiện tượng tham nhũng rộng khắp là đặc thù của tất cả các nước “xã hội chủ nghĩa”, thậm chí ngay ở các cấp lãnh đạo cao nhất của bộ máy Đảng (Ceausescu, Zhivkov, Honecker v.v…)
Sự chênh lệch giữa giá cả lương thực thực phẩm và hàng công nghiệp so với đồng lương và đặc biệt là lương hưu cao đến nỗi (tôi sẽ không đưa ra thí dụ ở đây) bất kì độc giả nước ngoài nào cũng sẽ cho rằng đấy là một sự vu khống và sẽ hỏi: làm sao sống?
Xin trả lời câu hỏi này. Ông F. Burlatsky, đã nói đến bên trên, kể lại rằng có lần các cộng sự của Brezhnev đã đề nghị ông ta tăng lương vì nhân dân không thể nào sống được với đồng lương như thế và được ông ta trả lời như sau: “Ôi dào! Các vị chẳng hiểu gì cả! Có ai sống bằng lương đâu. Tôi còn nhớ, thời còn học trung cấp chúng tôi phải làm thêm bằng cách dỡ hàng ra khỏi các toa xe lửa. Có biết làm thế nào không? Cứ ba bao hay ba thùng đưa vào kho thì giữ lại một thùng. Ở nước ta mọi người đều sống như thế cả (Báo Văn học, ngày 14 tháng 9 năm 1988). Trí tuệ và đạo đức của người đứng đầu “Đảng cộng sản” và quốc gia là như thế đấy. Trong khi đó “đa số tuyệt đối những người làm trong bộ máy quản lí phải lạy van ông ta (Brezhnev), nhận dưới thời ông ta các danh hiệu, chức tước, huân huy chương, nhà nghỉ, hối lộ [21] ”. Nhưng Brezhnev đã nói đúng. Chỉ có tầng lớp trên của xã hội là có thể sống được bằng tiền lương (nhưng như đã được chỉ ra ở đây, họ cũng không sống bằng tiền lương). Những người khác thì sống thế nào?
Trước hết là bằng cách ăn cắp của nhà nước, ăn cắp là hiện tượng phổ biến và về mặt kinh tế thì là một phương tiện phân phối lại tổng sản phẩm quốc dân. Vì vậy mà không thể nào hạn chế được, dù các biện pháp trừng phạt có nghiêm khắc đến đâu. Không biện pháp bảo vệ nào có thể cứu vãn được vì nếu lương của người bảo vệ là 120 rub, mà anh ta còn phải nuôi vợ con, chính anh ta sẽ ăn cắp.
Thứ hai, dựa vào các hoạt động phạm pháp đủ mọi loại. Các loại tội phạm: trộm, cướp, đặc biệt là đầu cơ đang ngày một gia tăng.
Thứ ba, nhờ ăn của đút. Không chỉ tầng lớp cán bộ mà cả các bác sĩ, y sĩ, y tá, giáo viên, giảng viên các trường đại học, các cô bảo mẫu các trường mẫu giáo, nhân viên bán hàng v.v… đều có thể ăn đút lót. Họ “ăn” cả tiền lẫn “quà”. Việc này ai cũng biết, chẳng cần chứng minh.
Thứ tư, làm thêm (làm thêm giờ, kiêm nhiệm, nhận thêm việc về nhà và nhiều hình thức khác nữa). 

Cuối cùng, thứ năm, họ không sống. Chúng tôi không biết các số liệu thực, nhưng các số liệu hiện có cũng chứng tỏ tỉ lệ tử vong cao, nhất là ở trẻ con, tuổi thọ thấp so với các nước “tư bản chủ nghĩa”, nơi không có tính “ưu việt của chủ nghĩa xã hội” mà các lãnh tụ “Đảng”, kể cả Gorbachev thường ca tụng.

Trong hai cương lĩnh đầu của “Đảng” không hề có một chỉ dẫn nào về việc tổ chức trả lương. Sau cách mạng, người ta vẫn làm theo lối cũ tức là trả lương theo thỏa thuận, nhưng chẳng bao lâu sau các chính quyền địa phương đã bắt đầu qui định biểu lương và lương tháng. Nghị định của Hội đồng dân ủy Liên Xô ngày 3 tháng 12 năm 1932 cấm tăng lương khi chưa được phép của chính phủ Liên Xô cho từng trường hợp cụ thể. Còn nghị định của Hội đồng dân ủy Liên Xô ngày 4 tháng 6 năm 1938 thì cấm các bộ và tổng cục, thậm chí chính phủ các nước cộng hòa liên bang ban hành các chỉ thị về việc qui định tiền lương nếu chưa được Hội đồng dân ủy Liên Xô cho phép, nghĩa là đã hình thành sự độc quyền của nhà nước trong việc trả lương. Trong cương lĩnh thứ ba, “Đảng” đã hứa cho nhân dân một mức lương cao nhất thế giới.

Bây giờ người ta tuyên bố “chuyển sang thị trường”. Thế là tất cả những người mác-xít bỗng “quên” biến mất rằng sức lao động chính là hàng hóa chủ yếu trên thị trường. Mà “thị trường” chỉ khả thi khi không còn sự độc quyền của nhà nước đối với việc xác định mức lương mà thôi. Ngay cái tài liệu không tưởng nổi tiếng gọi là “Kế hoạch 500 ngày” cũng không nói đến chuyện này. 

Sau khi đã trình bày tình hình thực tế của vấn đề tiền lương, một việc mà các nhà luật học nước ngoài viết về luật pháp Liên Xô chưa bao giờ làm, mà không làm việc đó thì tất cả những gì được viết về tiêu chuẩn pháp lí đều thiếu thuyết phục (gọi là luật trên giấy), chúng ta sẽ chuyển sang một số vấn đề pháp lí về tiền lương, cũng là những vấn đề rất đáng quan tâm.

Cương lĩnh đầu tiên của Đảng công nhân xã hội dân chủ Nga do Lenin viết đã hứa cấm hoàn toàn việc “trừ tiền lương vì bất cứ lí do gì và với bất cứ mục đích nào”. Vì vậy bộ Luật Lao động năm 1918 không có bất kì qui định khấu trừ nào từ tiền lương, một việc mà sau này các nhà khoa học của chúng ta gọi là “lỗ hổng”. Trong bộ Luật 1922 lần đầu tiên xuất hiện qui định về việc chế tài khi những thiệt hại do người lao động gây ra, nhưng không quá 1/3 tiền công và chỉ một lần, nghĩa là trở lại luật pháp của nước Nga Sa hoàng năm 1896, theo đó tất cả các loại tiền phạt và bồi thường không được vượt quá 1/3 tiền lương. Sự phát triển của luật pháp về trách nhiệm vật chất sẽ được trình bày sau, xin tiếp tục nói chuyện khấu trừ.

Việc khấu trừ tiền lương được thực hiện theo điều 289 bộ luật tố tụng dân sự, theo đó phần tiền lương tương ứng với mức lương tối thiểu cho bậc 1 trong hệ thống bảng lương không bao giờ bị khấu trừ. Mức lương tối thiểu do chính quyền địa phương qui định. Nếu phải bồi thường thiệt hại do mình gây ra thì người lao động được giữ lại mức tối thiểu đó, và trong bất kì trường hợp nào thì anh ta cũng chỉ bị khấu trừ 50% số tiền vượt ngưỡng tối thiểu nói trên mà thôi. Nhưng mức lương tối thiểu được qui định lần cuối cùng là vào năm 1927 (kỉ niệm mười năm Cách mạng Tháng Mười!), các nhà luật học Xô viết giải thích việc đó như sau: “Vì tiền lương ở Liên Xô đã tăng lên rất nhiều (?!) nên khái niệm mức lương tối thiểu theo điều 59 bộ Luật Lao động đã không còn ý nghĩa với bất kì một nhóm công nhân nào nữa [22] ”. Thật y hệt như trong một câu chuyện tiếu lâm rằng tầu hỏa từ nay không còn toa cuối. Như vậy là không còn mức lương tối thiểu. 

Điều 289 bộ luật tố tụng dân sự không còn được áp dụng mà không có bất kì lời giải thích nào (“lệ đã vô hiệu hóa luật”) và định mức khấu trừ từ phần vượt ngưỡng tối thiểu được áp dụng cho toàn bộ tiền lương. Sau này người ta còn đưa ra qui định rằng các loại thuế cũng được áp dụng cho toàn bộ tiền lương, không phụ thuộc vào các thứ khấu trừ khác [23] . Nghĩa là qui định giới hạn mức khấu trừ một nửa lương được áp dụng cho phần tiền lương còn lại sau khi đã đóng thuế. 

Năm 1956 mức lương tối thiểu được phục hồi (theo giá hiện nay là 35 -37 rub!). Các nhà khoa học lại đồng thanh ca ngợi “sự quan tâm của Đảng và chính phủ”, mặc dù về mặt lí thuyết thì điều đó chứng tỏ sự sụt giảm tiền lương ở Liên Xô. Bộ luật tố tụng dân sự năm 1923, và cùng với nó là điều 289, không bị bãi bỏ một cách chính thức và việc khấu trừ được thực hiện sau khi đã trừ đi mức tối thiểu nói trên! Nhưng người ta đã “quên”! Không một luật sư nào nhắc đến chuyện đó cả!

Sau đó mức giới hạn 50% cũng bị bãi bỏ đối với những trường hợp bị buộc cưỡng bức lao động tại chỗ cùng với việc khấu trừ đến 80%. Và cuối cùng, trong giai đoạn “cải tổ và dân chủ hóa” giới hạn khấu trừ và giới hạn giữ lại cho việc cấp dưỡng bị bãi bỏ hoàn toàn. Vì số tiền cấp dưỡng trong một số trường hợp có thể chiếm đến 50% tiền lương, cho nên về mặt pháp lí số tiền bị khấu trừ, theo đúng luật, có thể vượt quá 100% tiền lương! Tôi biết rằng các nhà luật học phương Tây có thể không tin điều vô lí như thế nên tôi xin trích dẫn điều 125 bộ luật lao động Cộng hòa xã hội chủ nghĩa liên bang Nga: “Những hạn chế nói trong phần một và phần hai của điều luật này (về việc bảo đảm 50% tiền lương “trong bất kì trường hợp nào” – tác giả) không được áp dụng trong trường hợp khấu trừ tiền lương do phải cưỡng bức lao động (đến 80%) và trừ để cấp dưỡng trẻ vị thành niên (đến 50% – tác giả).

Thế đấy, từ “hoàn toàn không trừ” trong những lời hứa đầu tiên của những “người cộng sản” đến việc trừ hơn 100% được xác định dưới chế độ của Gorbachev, “nhà cải cách” và con cưng của phương Tây là quá trình phát triển của nền luật pháp Liên Xô về những bảo đảm của chế độ tiền lương, phương tiện sống duy nhất của công nhân viên chức được pháp luật bảo hộ. Có cần lật đổ Sa hoàng Nikolai đệ nhị không?

Luật về trách nhiệm vật chất gây ra cho người sử dụng lao động cũng phát triển theo hướng đó. Ban đầu, trong Luật lao động năm 1918 trách nhiệm này hoàn toàn không được xác định. Theo Luật năm 1922 người lao động phải chịu 100% trách nhiệm thiệt hại vật chất do mình gây ra, nhưng không vượt quá 1/3 tiền lương. Sau đó thì “thực tiễn xét xử đã vượt qua luật pháp”: trong năm 1925 Tòa án Tối cao Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Liên bang Nga đã “giải thích” rằng trong trường hợp hợp tác xã không giao đủ hàng thì tòa án sẽ kiện những nhân viên có lỗi theo các điều khoản của bộ luật dân sự. “Như vậy là”, các khoa học viết, “thiếu sót của luật lao động được chỉ đạo giải quyết theo các điều khoản tương tự của luật dân sự [24]”. Các nhà khoa học hoặc là cố tình lừa dối độc giả hoặc là họ không hề biết những yêu cầu của cương lĩnh thứ nhất của Đảng “cộng sản” về việc “hoàn toàn không khấu trừ”. Trong năm đó lời “giải thích” như thế được áp dụng cho cả các nhân viên của hệ thống mậu dịch quốc doanh. Các “điều khoản pháp lí” của Tòa án Tối cao Cộng hòa xã hội chủ nghĩa liên bang Nga “sau này đã biến thành luật”, như các nhà khoa học viết, trong các nghị định của Hội đồng dân ủy Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Liên bang Nga ngày 27 tháng 7 năm 1927 và ngày 20 tháng 4 năm 1928 [25] .

Ngày 12 tháng 6 năm 1929 Ban chấp hành trung ương và Hội đồng dân ủy Liên Xô ban hành lần đầu tiên nghị định về trách nhiệm vật chất của công nhân viên chức, nghị định này sau đó được chuyển vào Luật lao động của các nước cộng hòa. Trong những năm 1930-1932 mức độ trách nhiệm vật chất được thay đổi theo hướng tăng dần và kết quả là trách nhiệm vật chất nâng lên đến một tháng, rồi ba tháng lương. Lĩnh vực trách nhiệm vật chất cũng rộng dần ra và lần đầu tiên xuất hiện khái niệm “trách nhiệm tăng cường” nghĩa là phải đền bù gấp mấy lần thiệt hại đã gây ra (nghĩa là nếu thiệt hại là 100 rub nhưng bị thu 500 rub thì 100 rub là đến bù còn 400 rub là tiền phạt). Nhưng chuyện này hoàn toàn trái với những lời tuyên bố rằng trong luật lao động Liên Xô không có chuyện phạt tiền nên các nhà khoa học lại tìm được một lối thoát độc đáo: chuyện này, họ giải thích, không phải là trách nhiệm tăng cường mà chỉ là cách tính thiệt hại mà thôi! Các nhà làm luật Liên Xô và những nhà khoa học ăn theo nói leo của họ hành động không khác gì các nhà công nghiệp ở Vladimir hồi thế kỉ XIX mà Lenin đã kịch liệt phê phán: “Phương pháp của những nhà công nghiệp ở Vladimir là gì? Là không sử dụng từ phạt, mà thay nó bằng những từ khác” (bài báo “Giải thích pháp luật về tiền phạt”).

Sắc lệnh của Chủ tịch đoàn Xô viết Tối cao Liên Xô ngày 13 tháng 7 năm 1976 còn qui định mức độ trách nhiệm vật chất cao hơn nữa. Ở đây cần dừng lại để xem xét trách nhiệm vật chất tập thể, còn gọi là trách nhiệm của toàn tổ. Đây là một qui định vi phạm pháp luật bởi vì nó buộc người không có tội phải chịu trách nhiệm, tức là phải chịu trách nhiệm vì lỗi của người khác. Tuy không được luật pháp xác nhận, nhưng qui định này đã được đưa vào áp dụng trong hệ thống mậu dịch quốc doanh, bằng các văn bản của Bộ thương mại và sau đó thì áp dụng trong các ngành như công nghiệp, giao thông vận tải và các ngành khác, bằng văn bản hướng dẫn của các bộ hữu quan. Sau đó thì qui định này được luật hóa trong Qui định năm 1976. Tờ tạp chí “Tư pháp Xô viết”, số 18 năm 1976 đã viết về sự kiện này như sau: “Với việc thông qua qui định này, trách nhiệm vật chất tập thể (tổ) đã trở thành luật”. Thế còn từ đầu những năm 30 thì sao? Câu trả lời chỉ có một: trái pháp luật! Nhưng dù đã được đưa “thành luật” nó vẫn là bất hợp pháp. Nhưng các luật sư của chúng ta vẫn tìm được “lối thoát”: đây là việc làm tự nguyện! Nếu bạn không muốn chịu trách nhiệm về việc người khác đã ăn cắp thì xin cứ bỏ việc đi! Còn nếu bạn không chịu kí hợp đồng về trách nhiệm vật chất của toàn đội thì ban giám đốc sẽ cho bạn nghỉ việc! 

Như vậy, chúng ta có thể rút ra kết luận chung như sau: chính sách của Đảng cộng sản là tiến dần đến độc quyền về việc qui định tiền lương, biến tiền lương từ phương tiện sống của người lao động và gia đình họ thành ngọn roi; đi từ lời hứa về việc cấm trừ tiền lương sang việc trừ một trăm phần trăm; từ việc có một số bảo đảm pháp luật về mặt tiền công đến việc loại bỏ hoàn toàn những bảo đảm như vậy. Đồng thời nhà nước lại muốn tạo ra một hệ thống lương bổng khuyến khích tăng năng suất lao động với mức lương thấp nhất và khấu trừ cao nhất có lợi cho mình, nghĩa là họ muốn dung hòa những điều không thể nào dung hòa được.

Tất cả những chuyện đó đều có thể được biện hộ bằng kết quả vì trong chế độ xã hội “xã hội chủ nghĩa” mục đích biện minh cho phương tiện. Nhưng các sự kiện lại chứng tỏ: năng suất lao động trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân, nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp, ngày càng suy giảm còn nạn trộm cắp và mất mát thì ngày một tăng. Nói riêng trong ngành mậu dịch thì trách nhiệm vật chất tập thể đã từ phương tiện đấu tranh với nạn trộm cắp trở thành phương tiện che dấu tội phạm và dĩ nhiên là nạn trộm cắp năm sau bao giờ cũng cao hơn năm trước.

Đấy là một chính sách ngu dốt không chỉ về mặt pháp lí mà còn cả về mặt kinh tế nữa. Dân nghèo thì nhất định xã hội cũng nghèo theo. Bảy mươi năm phát triển của đất nước vĩ đại, giầu tài nguyên thiên nhiên nhất đã dẫn đến kết cục là sự phá sản kinh tế, là đi ăn xin, ăn mày các nhà tư bản. Bảy mươi năm phát triển của Liên Xô và sự sụp đổ về kinh tế của tất cả các nước “xã hội chủ nghĩa” chứng tỏ rằng đấy không phải là kết quả của những nhà cầm quyền ngu xuẩn mà là bản chất của một hệ thống.

[1]“Đáng tiếc là rất hiếm khi chúng tôi bảo vệ được quyền có việc làm của công dân mặc dù quyền này được hiến pháp bảo vệ”, N. Galezin, viện trưởng viện kiểm sát tỉnh Magadansk đã nói như thế (Tin tức, ngày 11 tháng 2 năm 1988)  
[2]Thứ tự trình bày chương này tuân theo hệ thống điều luật của bộ luật lao động Cộng hòa xã hội chủ nghĩa liên bang Nga.
[3]Điều 27 bộ luật lao động viết: “Hợp đồng lao động là thỏa thuận của hai hoặc nhiều bên, theo đó một bên (người lao động) cung ứng sức lao động của mình cho phía bên kia (người sử dụng lao động) để nhận tiền thù lao”.
Sau này các nhà khoa học đã bỏ qua các từ “người lao động” và “người sử dụng lao động” bởi vì ở nước ta nhân dân lao động là chủ các phương tiện sản xuất: nhà máy, công trường, phương tiện vận tải v.v… Thế thì làm sao ông chủ lại có thể tự thuê mình? Việc cấm bãi công cũng được nhiều người giải thích là ông chủ không thể bãi công chống lại chính mình. Nhưng các nhà khoa học-mác-xít không hề lúng túng khi thấy ông chủ tự trả tiền lương cho mình, tự phạt mình, tự đuổi việc mình v.v…
[4]Dường như sự tồi tệ như thế là không thể nào biện hộ được, lại càng không thể nào coi là cải thiện được. Thế là bạn không hiểu các nhà luật học của chúng ta rồi! Hãy nghe R. Lifshis, một trong các nhà khoa học “đầu đàn” của Viện luật học: “Tất cả đã được thực hiện để sao cho người lao động có sự lựa chọn: tiếp tục công tác trong những điều kiện mới hoặc thay đổi (!) vị trí công tác” (Tin tức, ngày 19 tháng 2 năm 1988). Nói cách khác, kẻ cướp cho bạn tự do lựa chọn: ví hay mạng sống. Nếu bạn đưa cho hắn ví tiền thì đầy là bạn hoàn toàn tự nguyện.
[5]Hướng dẫn luật lao động. М., 1986, trang 403. Người ta cũng viết như thế trong “hướng dẫn” tại các nước cộng hòa, nhưng đã không còn viện dẫn luật nữa (vì không có luật), cũng không viện dẫn án lệ nữa (vì án lệ là do tòa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa liên bang Nga xác lập). Như vậy là hướng dẫn này giống như ý kiến của các nhà khoa học (học thuyết), xem: Hướng dẫn luật lao động Cộng hòa liên bang Bạch Nga, Minsk, 1978, trang 269. Thế mà các nhà luật học đồng thanh thề rằng ở Liên Xô án lệ và học thuyết không được coi là nguồn gốc của luật pháp. Không có một “cơ quan bảo vệ luật pháp” nào phản đối hành động phi pháp như thế cả.  
[6]Điều đáng ngạc nhiên là trong giai đoạn “công khai” và “dân chủ hóa” hiện nay yêu cầu của những thợ mỏ tham gia bãi công cũng không được đăng, kể cả trên tờ báo công đoàn là tờ Lao động.
[7]Chứng cớ thì rất nhiều, chỉ xin dẫn ra những thí dụ của thời “cải tổ” hiện nay:
Nhà máy KAMAZ: “Tập thể (!) quyết định làm hai ca, không nghỉ thứ bảy, chủ nhật và ngày lễ (Nước Nga Xô viết, ngày 9 tháng 12 năm 1986)
Thành phố Narva, Nhà máy đồ gỗ: “Chúng tôi làm liên tục 14 giờ, mà không phải lần đầu trong tuần, làm thêm giờ, làm cả ban đêm, cả ngày thứ bảy, để thực hiện kế hoạch” (Tin tức, ngày 15 tháng 12 năm 1986). Thành phố Gorky, nhà máy sản xuất thiết bị vô tuyến điện: “Để hoàn thành kế hoạch mười ngày cuối tháng phải là 3 ca và cả thứ bảy, chủ nhật nữa. Vì vậy những ngày này thường làm được 70% kế hoạch tháng” (Nước Nga Xô viết, ngày 16 tháng 12 năm 1986). Minsk. Nhà máy sản xuất vô tuyến truyền hình: “Ca 12 tiếng gọi là “kéo dài”. Tháng 5 có 8 ca như thế, tháng 6 thì 10 ca. Trong tháng 7, một tổ sau khi làm 6 ca “kéo dài” đã không chịu làm thêm nữa. Tờ tập chí Người nữ nhân viên (năm 1987, số 12) sau khi viết như thế đã phê bình tổ này: “không nên dùng phương pháp như thế!”. Thế mà họ viết về những người phụ nữ có gia đình và con nhỏ đấy!
[8]Về vụ “điều tra” này có tờ báo viết: “Họ (người lái tầu và phụ lái – tác giả) vẫn ngồi yên khi tai nạn và cái chết xảy đến, không một chút căng thẳng hay ý định khắc phục sự cố hay chạy trốn nào” (Tin tức, ngày 2 tháng 12 năm 1987). Sự kiện như sau: chiếc tầu hỏa chở hàng đâm vào đuôi một đoàn tầu khách, các toa sau đoàn tầu khách chồm lên nhau, và bị hất tung sang hai bên; còn chính chiếc tầu hàng thì bị văng ra xa! Ai có thể xác định được rằng “họ vẫn ngồi yên”? Tay thủ trưởng của hai người xấu số tuyên bố rằng “họ muốn có nhiều giờ làm thêm”, còn anh ta thì “không thể chống lại ước muốn của người lao động”, “hạn chế theo đúng chế độ thì họ bỏ đi hết” (bài báo đã dẫn). Thật là những người chỉ huy đáng thương! Dường như họ không biềt rằng những người thợ máy này chẳng có chỗ nào mà chạy: hộ khẩu đã trói buộc họ vào khu vực nhà ga, còn nghề nghiệp thì buộc họ vào con đường từ lâu. 9 giờ sáng ngày 19 tháng 5 năm 1990 trên con đường đó lại xảy ra một tai họa nữa với rất nhiều nạn nhân. Lúc 3 giờ chiều phóng viên tờ Tin tức đã kịp gợi ý cho người lái tầu là Konarev: “Có thể cho rằng lúc đó còn quá sớm (!), người lái đoàn tầu hàng còn đang ngủ”, anh lái tầu này vội vàng đồng ý ngay (Tin tức, ngày 20 tháng 5 năm 1990). Các chuyên gia của Bộ chưa tới nơi xảy ra tai nạn, hội đồng chưa làm việc mà nguyên nhân vụ tai nạn thì đã rõ rồi!
[9]“Có những người lợi dụng ngày thứ bảy cộng sản để tránh qui định về làm ngoài giờ. Họ tuyên bố ngày thứ bảy là “ngày dọn dẹp”: để chuẩn bị vào đông, để dọn dẹp cơ quan, để chuẩn bị bàn giao… Theo quyết định của giám đốc, tất cả các thứ bảy mùa hè năm nay đều là ngày làm việc”… Tại nhà máy luyện thép Kremetrug “từ đầu mùa đông, tất cả các ngày thứ bảy đều là ngày làm việc… Tháng 5 người ta tổ chức “những ngày thứ bảy cộng sản” theo lệnh giám đốc, mọi người đều phải đi làm” (Sự thật, ngày 13 tháng 7 năm 1986). Thứ bảy cộng sản là ngày lao động “tự nguyện bắt buộc”, ai không đi sẽ mất thưởng, nghĩa là bị phạt!  
[10]Iu. Korshunov và các tác giả khác. Pháp luật Liên Xô về lao động. М., 1974, trang 42 
[11]Cuốn sách được viết xong vào các năm 1988-1989 nhưng không thể xuất bản được. Tất cả các số liệu về tiền lương, lương hưu, giá cả… đều phải giữ nguyên như cũ vì trong điều kiện mất giá phi mã sau đó không thể nào sửa chữa kịp, hiện nay nếu muốn thì phải thay đổi số liệu hàng tuần. Điều quan trọng là tỉ lệ giữa lương và giá ngày một xấu đi.  
[12]“Lao động cộng sản theo đúng nghĩa của từ này là lao động vì xã hội… lao động không đòi thù lao…” V. Lenin. toàn tập, tập 40, trang 315
[13]“Cần phải loại bỏ hoàn toàn sự cào bằng đã mục ruỗng trong lĩnh vực tiền lương…” Nghị quyết hội nghị XVIII Đảng Cộng sản Liên Xô (b), М., 1941, trang 41.
[14]М. Gorbachev: “Chúng ta tiếp tục trả tiền công mà thực tế người ta không hề làm”. Phát biểu tại hội nghị thành bộ thành phố Moskva (báo Tin tức, ngày 24 tháng 1 năm 1989). 
[15]“Còn hạch toán kinh tế? Người ta giảng dạy, viết sách về vấn đề đó, nhưng chúng ta chưa bao giờ thực hiện, hiện nay cũng không” (Báo Văn học, ngày 3 tháng 6 năm 1987).  
[16]Điều này được viết vào năm 1989. Hiện nay tôi không thể nói gì về “cuộc cải cách” của Yeltsin-Gaidar.  
[17]“Tiền lương trung bình của công nhân viên chức sẽ tăng thêm 13-16%”.Tài liệu đại hội XXVI Đảng Cộng sản Liên Xô, М., 1986, trang 140. “Đến cuối kế hoạch 5 năm sẽ tăng lương công nhân viên chức lên 215-220 rub”Tài liệu đại hội XXVI Đảng Cộng sản Liên Xô, М., 1986, trang 360
[18]Năm 1989, lương trung bình của thợ mỏ vùng Vorkuta, kèm theo đủ thứ làm thêm giờ là 705-720 rub. Có vẻ cao? Nhưng ở vùng cực Bắc giá cả rất cao, lương của cán bộ bộ máy điều hành xí nghiệp “Than Vorkuta” là 860 rub! (tờ Digest 5, Estonia, tháng 12 năm 1989, số 7)  
[19]Một thí dụ chợt đến trong đầu: bữa ăn miễn phí cho bệnh nhân là 1,53 rub, còn trong “bệnh viện đặc biệt”, tùy vào cấp bậc là từ 3 đến 9 rub (Sự kiện và bình luận, năm 1989, số 48)
[20]A. Iakoblev, nhà dân chủ, tự do, ủy viên Bộ chính trị học cùng khóa với O. Kalugin, người sau này trở thành tướng tình báo, tại một trường đại học Mĩ. Điều đó chứng tỏ cả hai đã có quan hệ gắn bó với KGB ngay từ hồi thanh niên.  
[21]“L. I. Brezhnev đã làm việc một cách kiên trì để đưa lên các chức vụ lãnh đạo, trong các tổ chức Đảng, trong kinh tế, khoa học và văn hóa, những “Brezhnev nhỏ”, những người không vội vàng, không mạnh mẽ, không có tài, không quá lo lắng đến công việc, nhưng biết cách quản lí tài sản”. Burlatsky viết như thế. Xin nhắc lại rằng đấy là thời kì Gorbachev được đưa lên thành một trong những những cộng sự gần gũi nhất của Brezhnev, ông ta đã giữ chức bí thư trung ương Đảng, phụ trách nông nghiệp.
[22]N. Aleksandrov và những người khác. Luật lao động. Hướng dẫn. M., 1947, trang 6б
[23]Tác phẩm đã dẫn, trang 66
[24]Thực tiễn xét xử trong hệ thống pháp luật Liên Xô. Trang 1 44  
[25]Sách đã dẫn. Trang 144

4. Kỉ luật lao động

Vấn đề kỉ luật lao động là vấn đề nan giải ngay từ những ngày đầu đối với chính quyền “Xô viết”. Biết bao khẩu hiệu đã bị vứt bỏ, biết bao khẩu hiệu mới theo kiểu “thi đua xã hội chủ nghĩa” đã được dựng lên, biết bao con bài đã được ném lên đầu nông dân và công nhân, những “chủ nhân ông” của xã hội, nhưng kỉ luật thì cứ ngày một xấu thêm. Chính sách “cây gậy và LỜI HỨA về của cà rốt” đã mất tác dụng vì cà rốt thì không có, còn cây gậy, đặc biệt là dưới trào Stalin, thì khủng khiếp hơn cả thời nô lệ và trung cổ, vượt mọi giới hạn có thể tưởng tượng được. Sau giai đoạn kinh hoàng đó, Khrushchev có vẻ như là một người tự do, nhưng bản chất của hệ thống thì vẫn như thế. Andropov, người đứng đầu ngành an ninh, vừa trở thành Tổng bí thư là lập tức bắt tay vào việc lập lại kỉ cương (nhiều người hiện còn tiếc rẻ: “Đáng tiếc là ông mất sớm quá, chưa lập lại được kỉ cương”). Nhân viên của ông ta kiểm tra người đi trên phố, người đang xếp hàng, người đang cắt tóc, người đang xem phim, thậm chí cả người đang tắm để hỏi xem vì sao người ta không làm việc! Đúng là trình độ tư duy của một cảnh sát, mà là người thông minh nhất, một thi sĩ nữa cơ đấy! Ông ta không thể nào nghĩ được rằng cần phải tạo điều kiện để làm sao người ta không bỏ việc trong giờ lao động! Bắt vào đồn những người đang xếp hàng mà không có giấy tờ tùy thân là sáng kiến tối thượng của người đứng đầu một cái Đảng đang xây dựng chủ nghĩa xã hội đấy!

Sự phi lí của hệ thống kinh tế và pháp luật thể hiện rõ nhất trong lĩnh vực sau đây: máy móc đứng không và “giả vờ làm việc” trong công nghiệp chiếm tới gần một phần năm thời gian, các phân xưởng, các nhà máy đứng không hàng ngày, hàng tuần, còn ban giám đốc và các “đoàn viên xung kích” lại đi ghi tên những người đến muộn 10 phút để sau đó cắt lương, cắt thưởng. Bức tranh thường gặp: gạch không, vữa không nhưng không được đi về, kỉ luật lao động không cho phép. Lạnh và buồn, công nhân đành giết thì giờ bằng sát phạt, đỏ đen, lấy tiền uống rượu. Ngày làm việc thường diễn ra như thế. Và cuộc đấu tranh với tệ uống rượu tại nơi làm việc đã thành công toi.

Thật khó đếm hết được số lượng các văn bản pháp qui đã được công bố. Khen thưởng chủ yếu là về mặt tinh thần: huy hiệu, cờ, giấy khen, “bảng vàng danh dự”, huân, huy chương v.v.. (mặc dù nhiều loại phần thưởng, kể cả danh hiệu”Anh hùng lao động” có kèm theo tiền)…

Hệ thống khen thưởng luôn được coi là phương tiện nâng cao năng suất lao động nhưng trên thực tế lại dẫn đến các biện pháp trừng phạt vì người ta thường mất thưởng vì không đi họp công đoàn, vì không chịu tham gia thu hoạch nông nghiệp, vì không tham gia ngày “lao động cộng sản” hoặc đơn giản là vì đã cãi nhau với thủ trưởng. Vì vậy trên thực tế tiền thưởng không có ảnh hưởng gì đối với kỉ cương và năng suất lao động, người ta được thưởng là do lòng tốt của thủ trưởng hoặc có thể giành được bằng những cách khác (thí dụ trích một phần tiền thưởng “biếu” cấp trên chẳng hạn)

Dưới thời Brezhnev, ngày 13 tháng 12 năm 1979, Ban chấp hành trung ương Đảng, Hội đồng bộ trưởng Liên Xô và dĩ nhiên là cả Tổng liên đoàn lao động nữa đã thông qua nghị định “Về việc củng cố (!) kỉ luật lao động và giảm luân chuyển cán bộ trong nền kinh tế quốc dân” (nghĩa là tăng cường sự nô dịch). Sau này Andropov cũng để lại dấu ấn: ngày 28 tháng 7 năm 1983 các cơ quan nói trên lại ban hành nghị định: “Về việc tăng cường (!) công tác nhằm củng cố kỉ luật lao động xã hội chủ nghĩa”. Hai nghị định này đưa ra thêm nhiều biện pháp trừng phạt: chuyển thời gian nghỉ phép từ mùa hè sang mùa đông và mùa xuân, kéo dài thời gian chờ đợi phân nhà “được hiến pháp bảo đảm”, đưa thêm nhiều lí do cắt thưởng hơn… Không có mặt 3 giờ đồng hồ bị coi là nghỉ việc (không còn là 20 phút như trước đây nữa!)…

Gorbachev tiếp tục “sự nghiệp” của Andropov bằng cách “xiết chặt thêm” bộ luật lao động. Từ đây, thí dụ khi vi phạm một số kỉ luật, người lao động có thể bị phân công làm tạm thời bất cứ việc gì (kĩ sư có thể đi quét rác chẳng hạn)…

Nếu kể hết các biện pháp đó thì dài và chán lắm, hơn nữa kết quả của chúng chỉ là con số không: kỉ luật lao động ngày một kém đi, năng suất lao động ngày một giảm, phế phẩm và trộm cắp thì ngày càng gia tăng…

5. An toàn lao động. An toàn lao động của phụ nữ và trẻ em

Ước gì tôi có đủ tài năng văn học để mô tả một cách sống động điều kiện lao động khủng khiếp của người công nhân tại “đất xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới” của chúng ta và có thể làm mủi lòng… không, không phải là “những Đảng viên cộng sản” của chúng ta (chẳng có gì có thể làm họ mủi lòng! Sinh mạng con người đối với họ chẳng có ý nghĩa gì!), mà là những người theo phái tự do, những người xã hội chủ nghĩa, các nhà hoạt động công đoàn và ILO kia! Trong nhiều xí nghiệp của chúng ta, kể cả các xí nghiệp nổi tiếng nhất, “tiên tiến nhất” như nhà máy ô tô ở thành phố Volga và thành phố Gorki, đều có các phân xưởng mà chỉ có các tù khổ sai làm việc, đấy là tù nhân của những trại giam có lính canh, sau giờ làm việc họ được đưa trở lại nhà tù; các bộ trưởng “cộng sản” yêu cầu Bộ nội vụ lập nhà tù gần các địa điểm sẽ xây dựng các nhà máy mới… Người ta còn đưa những người trong tuổi nghĩa vụ quân sự đến làm những công việc nặng nhọc và nguy hiểm, thí dụ gần nhà máy Trernobưl và các khu vực phóng xạ khác, dưới danh nghĩa luyện tập quân sự (tạp chí Ngọn lửa nhỏ, số 20 năm 1990). Đứng trước lệnh động viên, người ta chỉ còn cách hoặc là từ chối và sẽ bị đưa ra tòa theo điều 198 bộ luật hình sự của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa liên bang Nga (điều này được qui định dưới thời của người “theo trường phái tự do” Nikita Khrushchev) và sẽ bị đưa vào trại cải tạo với những công việc cũng không kém phần nặng nề và nguy hiểm, lại mất tự do, cùng với những kẻ tội phạm khác hoặc là tuân thủ lệnh động viên phi pháp của ban chỉ huy quân sự. Đây là sự vi phạm trắng trợn công ước của ILO! Nếu kể hết ra thì nhiều vi phạm như thế lắm! Liên Xô đã vi phạm tất cả các công ước đã kí với ILO! Nhưng các quan chức của ILO chỉ nhìn thấy các vi phạm của các nước “tư bản chủ nghĩa” mà thôi: vừa có tiếng, vừa có miếng, lại an toàn hơn. Tất cả những đơn khiếu nại gửi đến ILO có xuất xứ từ Liên Xô đều được chuyển thẳng cho các viên chức Liên Xô làm việc trong ILO (họ được coi là các viên chức “quốc tế” và “độc lập”), những người này liền cho vào ngăn kéo khóa kĩ.

Người ta phải chấp nhận những điều kiện lao động khổ sai như thế còn vì “luật pháp thời nông nô” nữa: không có nhà ở, không có hộ khẩu, buộc phải sống ở một khu vực nhất định và nhiều xiềng xích pháp lí khác.

Không phải vô tình mà trong các bộ luật hồi những năm 20 quyền từ chối làm việc trong những điều kiện nguy hiểm bị bãi bỏ, mặc dù trước đó quyền này đã từng tồn tại (trên giấy, dĩ nhiên). Chỉ riêng ở các mỏ than mỗi năm đã có một ngàn rưởi người thiệt mạng (gần bằng số binh sĩ hi sinh trong cuộc chiến ở Afghanistan, đấy là theo các số liệu chính thức). Chỉ trong năm 1988 con số người thiệt mạng vì tai nạn, chưa kể tai nạn giao thông, đã là 200 ngàn. “Đấy là chỉ nói số người thiệt mạng vì vi phạm an toàn lao động”, chính báo Sự thật ngày 19 tháng 6 năm 1989 viết như thế đấy. Không ai chịu trách nhiệm cả. Trong một số vụ việc đặc biệt (thí dụ như vụ tai nạn ở nhà máy điện Chenobyl) các quan chức có thể bị đưa ra tòa, nhưng thường thì đấy lại không phải là những người thực sự có tội[1] , họ bị kết án nhẹ và thường thì không tìm được tội phạm. Vụ nổ nhà máy xử lí dầu ở Tartaria năm 1989 làm mấy người thiệt mạng, nhưng ai là người có tội nếu thiết bị có niên hạn sử dụng là 10 năm nhưng đã làm việc liên tục suốt 25 năm rồi? Tôi tin rằng những người lãnh đạo trực tiếp đã báo cáo lên trên, nhưng rồi bị bỏ qua. Xử ai? Ở nước ta người ta không xử lãnh đạo cấp cao, còn cấp thấp thì xử vì tội gì? Họ có thể làm được gì?

Các cuộc điều tra bao giờ cũng do chính các cơ quan có tai nạn thực hiện, với sự tham gia của “công đoàn”, mà “công đoàn” thì bao giờ cũng bảo vệ lãnh đạo, bao giờ cũng đổ lỗi cho công nhân. Thí dụ, tại một mỏ than ở Lvov, để chữa một giếng sâu 7 mét người ta đưa bốn công nhân đứng lên một cái bệ và hạ xuống, cái bệ nghiêng, cả bốn người đều bị ngã, một người chết. Lãnh đạo đã buộc ba công nhân còn sống tuyên bố rằng họ không có mặt ở đó, còn người chết thì say rượu. Vợ người xấu số kiện cáo khắp nơi nhưng không có kết quả. Các ủy ban của “công đoàn” luôn luôn khẳng định giả thuyết của lãnh đạo (báo Lao động, ngày 17 tháng 7 năm 1986 [2] ). Còn các bác sĩ thì bao giờ cũng cung cấp những chứng cứ mà lãnh đạo cần.

Thống kê các vụ tai nạn luôn bị sửa đổi. Thí dụ việc kiểm tra có lựa chọn của viện kiểm sát tại các mỏ than ở tỉnh Karagandin đã phát hiện 12 biên bản loại N-1 (biên bản tai nạn lao động) “chụp mũ các nạn nhân một cách vô căn cứ và coi họ là người có lỗi”. Đồng thời cũng phát hiện ra 72 trường hợp tai nạn đã không được thống kê. Nồng độ bụi cao hơn tiêu chuẩn cho phép đến 23 lần, nhưng “các phương tiện bảo hộ và phương tiện hút bụi không hoạt động. Hướng dẫn của các cơ quan kiểm tra an toàn, vệ sinh không được tuân thủ đã nhiều năm” (Tập hợp luật pháp, năm 1985, số 12). Có thể thấy trên báo chí hàng trăm bài nói về việc người ta đã đuổi các bác sĩ khi những người này kiên quyết yêu cầu khắc phụ tình trạng lộn xộn và các điều kiện lao động phi nhân.

Sự kiện Kairish (ngoại ô Leningrad) đã trở nên nổi tiếng và sau khi bị dư luận kiên quyết phản đối, người ta đã phải đóng cửa một nhà máy gây ô nhiễm cao đến mức không chỉ nhân viên của nó mà bệnh hen suyễn của người dân xung quanh đã tăng lên 35 lần kể từ khi nhà máy hoạt động vào năm 1974; ngoài bệnh này thì các công nhân viên của nhà máy còn mắc thêm nhiều bệnh khác như nấm, dị ứng, rối loạn hệ miễn nhiễm v.v… Tỉ lệ tử vong trong thành phố, nhất là trẻ em, tăng lên một cách đột ngột. Nhưng Bộ y tế đã hướng dẫn cho các bác sĩ rằng phải giải thích theo hướng đây là những bệnh có nguồn gốc “di truyền” (sau vụ Chenobyl người ta cũng giải thích như thế). Cần phải nói thêm rằng người ta đóng cửa nhà máy không phải vì thương công nhân và nhân dân khu vực mà vì nó đã làm ô nhiễm nước hồ Ladoga, đe dọa việc cấp nước cho thành phốLeningrad.

Xin kể một trường hợp cười ra nước mắt: theo kịch bản, cần phải quay những điều kiện lao động kinh khủng dưới thời Sa hoàng; các nhà làm phim đến nhà máy mang tên “Chiến sĩ” ở Moskva và vô cùng kinh ngạc khi thấy điều kiện lao động ở đây, họ bảo nhau: “Chẳng cần hóa trang, cứ cầm máy mà quay tất là xong: các phân xưởng tối tăm, máy móc cũ kĩ từ đời nảo đời nào, bẩn không thể nào chịu nổi” (báo Người đối thoại, số 12 năm 1988).

Không thể nào dẫn ra đây tất cả các sự kiện đã được công bố, chứng tỏ điều kiện lao động thật là khủng khiếp [3] . Nhưng trước hết xin lưu ý độc giả trường hợp sau đây: Tại một nhà máy luyện kim ở Trerepovets đã xảy ra hiện tượng dò khí Argon làm 5 người chết. Trước đó, do vi phạm qui định an toàn mà một thợ tiện thiệt mạng. Viên chánh kĩ sư của xí nghiệp chỉ bị cảnh cáo rồi được chuyển… về bộ! Sau khi đã dẫn ra các sự kiện như thế, cơ quan ngôn luận của “Đảng cộng sản” phán: “Cho đến nay, về mặt luật pháp, CHƯA XÁC ĐỊNH ĐƯỢC TRÁCH NHIỆM CỦA CÔNG NHÂN TRONG VIỆC VI PHẠM QUI ĐỊNH VỀ AN TOÀN LAO ĐỘNG” (báoSự thật, ngày 18 tháng 2 năm 1988)! Mấu chốt vấn đề là ở đây! Cần phải trừng phạt công nhân, nhưng may quá, chưa có luật! Đúng là tâm lí của bọn chủ nô!
Có biện pháp bảo vệ người lao động và bảo đảm điều kiện làm việc bình thường cho họ hay không? Thực tế là không, mặc dù các luật sư chuyên sống bằng nghề nịnh hót chế độ có thể đưa ra rất nhiều qui định về quyền của người lao động và trách nhiệm của ban giám đốc. Qui định thì có, nhưng cơ chế bảo vệ nạn nhân thì không, kể từ việc lập biên bản của các cán bộ “công đoàn” và cán bộ quản lí cho đến các tòa án của nhà nước. Thí dụ, để có thể thắng một vụ kiện về việc đền bù cho người công nhân bị tai nạn lao động thì phải chứng minh được rằng ban giám đốc có lỗi. Trái với tiêu chuẩn pháp lí được xác định ngay từ thời chế độ chiếm nô ở La Mã, nemo debet esse judex in propria causa (không ai được làm quan tòa trong vụ án của mình), đơn kiện được gửi cho chính ban giám đốc giải quyết [4] , mà điều kiện tiên quyết để có thể đền bù là phải chứng minh rằng họ có lỗi, nếu ban giám đốc chấp nhận đền bù nghĩa là chấp nhận có lỗi [5] thì sẽ gặp nhiều phiến toái. Vậy ban giám đốc có chịu đền bù hay không?

Sau khi bị từ chối như thế, người lao động có thể đưa vụ việc lên cấp xét xử thứ hai: ban chấp hành “công đoàn” của chính xí nghiệp đó. “Công đoàn” ăn lương của ban giám đốc và đại diện cho quyền lợi của nó. Về nguyên tắc, đơn kiện như vậy thật khó mà được đáp ứng.

Cuối cùng là nấc thứ ba: tòa án nhân dân. Lúc này tòa đã có quyết định, tài liệu và lí lẽ của hai cấp bên dưới rồi, còn nguyên đơn thì đã mệt mỏi và đã không hoàn toàn tin rằng mình đúng nữa, anh ta đã bị đè bẹp về mặt tinh thần. Vì vậy chỉ cần tòa án đáp ứng một phần yêu cầu thì anh ta đã coi là thắng lợi.

Phương pháp tính toán số tiền đền bù như sau: phần đền bù vượt ngưỡng lương hưu do nhà nước qui định phải đem trừ đi khả năng lao động còn lại (tính theo phần trăm) và phần lỗi của người lao động (nhất định họ sẽ tìm được) và kết quả số tiền đền bù sẽ chẳng đáng là bao. Đây chỉ là một thí dụ chứng tỏ trên thực tế những đảm bảo về mặt pháp lí và trách nhiệm của ban giám đốc về điều kiện an toàn lao động mù mờ đến mức nào (Điều 139 bộ luật lao động).

Điều kiện lao động của phụ nữ còn nặng nề hơn. Họ phải làm những công việc nặng nề nhất với đồng lương thấp nhất.
Đã từng xuất hiện trên báo chí các châm biếm, tranh vui với người đàn ông tay cầm bút và sổ tay thống kê công việc của những người phụ nữ với xẻng và xà beng, có khi cả búa đào đường trên tay [6] .

Luật về bảo vệ lao động của phụ nữ và trẻ em phát triển như thế nào? Làm ngoài giờ đã nói đến bên trên; ở đây xin nói về nghỉ thai sản và nghỉ đẻ. Cương lĩnh đầu tiên của “Đảng cộng sản” hứa cho 28 ngày nghỉ trước và 42 ngày nghỉ có trả lương sau khi sinh.
Cương lĩnh thứ hai còn đi xa hơn: 8 tuần trước và 8 tuần sau khi sinh. Đấy là luật lao động năm 1922. Nhưng từ năm 1938 (tất nhiên là được “công đoàn” đồng ý) thời gian nghỉ chỉ còn 35 ngày trước và 28 ngày sau khi sinh.

Năm 1944 thời gian nghỉ lại tăng thành 77 và 42 ngày.

Và hiện nay, theo điều 165 bộ luật lao động thời gian nghỉ là 56 ngày trước và 56 ngày sau khi sinh ít hơn năm 1944 (tổng số) là 5 ngày. Sau khi trải qua một đoạn đường dài “xây dựng chủ nghĩa cộng sản”, vượt qua “chủ nghĩa xã hội phát triển” chúng ta đã quay lại với tiêu chuẩn của 70 năm trước.

Cương lĩnh thứ hai của Đảng (1919) hứa: “Cấm sử dụng lao động trẻ em dưới 16 tuổi, cấm làm việc ban đêm trong những lĩnh vực đặc biệt độc hại cũng như cấm phụ nữ và người chưa đủ 18 tuổi làm việc ngoài giờ…”. Điều 130 bộ Luật lao động năm 1922 viết: “Phụ nữ và người chưa đến 18 tuổi không được làm việc vào ban đêm”. Nhưng điều này lại kèm thêm ghi chú như sau: “Dân ủy lao động, khi có sự đồng ý của Tổng liên đoàn lao động (dĩ nhiên rồi!), được quyền cho phép sử dụng lao động phụ nữ trưởng thành vào ban đêm trong những lĩnh vực đặc biệt cần thiết”.

Và thế là ngay từ năm 1925 Dân ủy lao động đã cho phép sử dụng lao động nữ vào ban đêm. Sau này luật pháp chỉ cấm hoặc hạn chế sử dụng những người đang mang thai hoặc cho con bú vào ban đêm mà thôi. Nghị định của Hội đồng dân ủy Liên Xô ngày 12 tháng 7 năm 1940 cho phép công nhân viên chức trên 16 tuổi làm ca đêm theo qui định chung.

Liệu có thể biện hộ cho sự vi phạm những lời hứa như thế, nhất là sau khi đã xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội vào năm 1936? Đối các nhà luật học đã có nghề thì đấy không phải là vấn đề: “Việc cải thiện không ngừng điều kiện lao động trong các xí nghiệp của Liên Xô đã dẫn đến sự giảm thiểu đáng kể những độc hại đặc thù của ca đêm. Mặt khác, đã tổ chức các nhà trẻ cho các cháu có mẹ làm ca đêm, trong một số (!) nhà trẻ còn có các nhóm làm việc suốt ngày đêm. Như vậy là đã tạo được những điều kiện thuận lợi cho phụ nữ làm việc vào ban đêm và loại bỏ được những ảnh hưởng tiêu cực (!) đối với người phụ nữ trong vai trò người mẹ và người giáo dục con cái [7] ”. Thật là một sự dối trá vô lương vì ngay cả bây giờ, sau 40 năm kể từ ngày “tác phẩm khoa học” ấy ra đời, cũng không làm gì có những điều kiện như thế.

Xin chuyển sang trẻ em và vị thành niên: Luật năm 1922 cấm nhận lao động dưới 16 tuổi, nhưng thanh tra lao động, trong những trường hợp đặc biệt, có thể cho phép nhận trẻ từ 14 tuổi trở lên. Điều 173 bộ luật hiện hành cũng chỉ cho phép nhận người đủ 16 tuổi, nhưng nếu được công đoàn đồng ý thì có thể nhận trẻ đủ 15 tuổi.

Nhưng luật qui định “nhận người vào làm việc” chứ không qui định việc sử dụng lao động trẻ em! Đã hàng chục năm nay trẻ em (7 – 8 tuổi), người ta còn nói với tôi rằng cả tuổi mẫu giáo nữa, phải làm việc trên những cánh đồng trồng bông và thuốc lá, dưới cái nắng cháy da ở Trung Á, khi nhiệt độ trong bóng râm là 45, khi ngay cả chó cũng phải lè lưỡi và bò vào bóng cây. Những cánh đồng đầy phân hóa học và thuốc trừ sâu, nhiều loại đã bị cấm sử dụng.
Ngay những chủ nô ở châu Mĩ, những người coi nô lệ không khác gì súc vật cũng không làm như thế vì đấy là súc vật của mình, có giá và phải giữ gìn khả năng lao động cho chúng. Không phải vô tình mà nhân dân đã nói lái “thu hoạch bông” thành “nô lệ bông” [8] đã làm cho các chủ nô của Đảng Cộng sản Liên Xô vô cùng tức tối. Mặc dù về mặt chính thức thì sử dụng lao động trẻ em bị cấm gắt gao nhưng việc đó vẫn tiếp diễn ngay cả bây giờ, ngay cả trong giai đoạn “cải tổ”, “dân chủ hóa” và “công khai hạn chế” hiện nay.
Phụ nữ và trẻ em phải làm việc trên các cánh đồng trồng thuốc lá, từ sáng sớm đến tối mịt, trong những điều kiện tương tự như thế. Ở nhà họ còn phải sử lí, nghĩa là phơi, trộn lá thuốc và tất nhiên là phải chịu mọi hậu quả. 70% phụ nữ bị bệnh thiếu máu, trẻ em thì 100% (Báo Văn học, ngày 23 tháng 3 năm 1987). Tỉ lệ tử vong ở trẻ em rất cao.

“Đảng” đã có phản ứng như thế nào đối với những vi phạm “chỉ thị” như thế? Năm 1990 Ban chấp hành trung ương đã “xem xét” vấn đề này. Dĩ nhiên đấy là vào mùa đông, vụ thu hoạch đã kết thúc rồi. Sau khi xác nhận “có hiện tượng sử dụng bất hợp pháp lao động trẻ em (xin lưu ý không phải việc sử dụng nói chung mà là sử dụng trái pháp luật, điều này sẽ được giải thích bên dưới), nghĩa là “làm việc mà không có giải lao theo qui định, với định mức quá cao, điều kiện sinh hoạt không đảm bảo…” (người ta đã dùng những câu tròn trĩnh để mô tả những sự kiện kinh khủng như thế đấy), Ban chấp hành trung ương ghi nhận rằng những người có lỗi đã bị trừng phạt. Bạn nghĩ rằng đã bị trừng phạt đến mức sau này người ta không còn dám hành hạ trẻ em nữa ư? Trừng phạt như thế này: ở Moldavia 19 lãnh đạo “bị kỉ luật hành chính” (không phải kỉ luật Đảng, càng không phải ra tòa mà chỉ là cảnh cáo, có thể xóa một cách dễ dàng), còn ở tỉnh Trimkent của Uzbekistan (các nơi khác chẳng có gì để nói) thì có 143 cán bộ bị thanh tra kĩ thuật của công đoàn bị phạt tiền (trong nghị quyết Ban chấp hành trung ương không thấy nói phạt bao nhiêu, nhưng các thanh tra viên chỉ có quyền phạt không quá 10 rub). Đấy là tất cả mức độ kỉ luật mà nghị quyết Ban chấp hành trung ương ghi nhận. (Tin tức của Ban chấp hành trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô, số 2, trang 23-24, năm 1990). Cái nghị quyết như thế có thể ngăn chặn được “nạn diệt chủng âm thầm” này hay không [9] ?

Thường thì những đứa trẻ mà theo luật pháp chỉ phải làm việc bán thời gian sẽ chỉ được nhận vào làm nếu chúng tự nguyện làm việc toàn thời gian (lúc còn nhỏ tôi đã từng chấp nhận như thế, thậm chí đồng ý làm việc cả ca đêm; biết làm sao, nếu không thì đừng hòng được nhận). Tờ Tin tứcngày 21 tháng 10 năm 1985 viết rằng những đứa trẻ chăn cừu 15 tuổi phải làm việc không có ngày nghỉ từ 6 giờ sáng đến 7 giờ chiều. Cậu bé Seriogia mới 13 tuổi còn phải đóng thuế… không con! Năm 14 tuổi cậu đã phải đứng máy gặt đập liên hợp “từ sáng sớm đến tối mịt”. 

Hình thức “trại hè lao động – bồi dưỡng sức khỏe cho trẻ em” (chính là trại đấy!) cũng rất thịnh hành và được khuyến khích, ở đây các em được nghỉ ngơi kết hợp với lao động sản xuất. Nhưng thường thì điều kiện lao động, sinh hoạt và nghỉ ngơi không đáp ứng được yêu cầu tối thiểu. Thí dụ tại tỉnh Omsk người ta đã phun thuốc trừ sâu vào các cháu bé đang làm việc trên cánh đồng làm nhiều cháu bị ốm (báo Sự thật thanh niên ngày 15 tháng 7 năm 1983).

Tôi mới chỉ đưa ra ở đây một phần rất nhỏ các sự kiện đã được công bố. Một phương pháp mị dân cũ kĩ, đã được sử dụng từ thời Stalin, đấy là báo chí của Đảng tự phát hiện và phê phán một số hiện tượng tiêu cực để khắc phục. Nhưng, thứ nhất, báo chí chỉ công bố một phần rất nhỏ (các tờ báo trung ương nhận mỗi ngày từ 1 đến 2 ngàn bức thư, đa số là đơn tố cáo); thứ hai, cách phản ứng của họ thể hiện rõ qua nghị quyết của Ban chấp hành trung ương về sử dụng “bất hợp pháp lao động trẻ em” trên các cánh đồng trồng bông và thuốc lá đã nói bên trên; thứ ba, tình hình nói chung không thay đổi. Tháng 2 năm 1991 tại nhà máy Liublinski đã xảy ra một cuộc đình công phản đối điều kiện lao động tại đây (công nhân đã thắp lửa để sưởi).

6. Tranh chấp lao động

Những vụ tranh chấp về lao động được giải quyết như thế nào (tranh chấp có thể xảy ra, thí dụ, về vấn đề phân phối nhà ở, phân phối đất vườn, vé đi nghỉ, cũng như thái độ bất nhã của lãnh đạo đối với công nhân v.v…)? Không có một khung pháp lí nào để giải quyết những vụ tranh chấp như thế. Cho đến mãi giai đoạn gần đây, pháp luật chỉ điều chỉnh những vụ tranh chấp giữa các cá nhân người lao động với ban lãnh đạo mà thôi. Điều 70 bộ luật lao động Liên Xô viết như sau: “Ủy ban hòa giải là cơ quan đầu tiên có trách nhiệm xem xét các tranh chấp về lao động”. Nhưng điều này sai bởi vì thủ tục giải quyết nhiều trường hợp tranh chấp lao động được qui định khác [10] .
Ủy ban hòa giải được lập trên cơ sở đại biểu bằng nhau, đại diện cho ban lãnh đạo xí nghiệp và “tổ chức công đoàn”. Sau những điều đã trình bày về “công đoàn” thì rõ ràng là người lao động phải trình bày tố cáo ban lãnh đạo xí nghiệp với chính những người đại diện và bảo vệ cho nó.
Ủy ban hòa giải phải xem xét yêu cầu của người lao động trong thời hạn 5 ngày, nhưng pháp luật lại không đưa ra bất kì bảo đảm nào về việc tuân thủ thời hạn, thành ra người lao động phải chờ đợi hàng tháng trời. Quyết định của ủy ban chỉ có hiệu lực nếu nó được nhất trí thông qua. Nếu ủy ban không đưa ra được quyết định hay người lao động không chấp nhận quyết định đó thì trong thời hạn 10 ngày anh ta phải đưa lên ban chấp hành “công đoàn”. Ban chấp hành công đoàn phải xem xét trong thời hạn 7 ngày, nhưng ở đây cũng không có qui định nào về việc tuân thủ thời hạn cả (mặc dù người lao động có quyền đưa lên cấp cao hơn sau thời hạn này).
Chỉ sau khi có quyết định của công đoàn người lao động mới có quyền, trong thời hạn 10 ngày, đưa vụ việc ra tòa. Tòa sẽ xử theo trình tự tố tụng dân sự.
Không cần phải là luật sư, từ những điều đã trình bày ngắn gọn bên trên, cũng có thể rút ra kết luận rằng mục đích của những thủ tục đó là: tạo ra thật nhiều trở ngại và chứng tỏ sức sống của câu ngạn ngữ: “Tránh voi chả xấu mặt nào” [11] .
Người lao động bị ban lãnh đạo cho thôi việc có thể đưa vụ việc ra tòa án nhân dân trong vòng một tháng. Nếu người lao động bị cho nghỉ việc mà chưa có sự đồng ý của ban chấp hành công đoàn thì theo bộ luật “cải tổ” năm 1988 của Gorbachev, tòa án sẽ chỉ cứu xét vụ án sau khi ban chấp hành công đoàn đã xem xét (điều 213, bộ luật lao động Cộng hòa xã hội chủ nghĩa liên bang Nga). Nếu ta biết rằng không có gì bảo đảm là ban chấp hành công đoàn sẽ xem xét đơn của đương sự đúng kì hạn và sau khi nghỉ việc người lao động không còn được lĩnh lương nữa, sau khi nghỉ việc một tháng “thời gian công tác liên tục” cũng bị cắt và phải làm thêm 6 năm nữa thì khi nghỉ ốm mới được lĩnh phụ cấp ốm đau là 100% lương, chỉ những người cực kì nguyên tắc và tin tưởng tuyệt đối vào sự đúng đắn của mình mới dám theo đuổi việc kiện cáo ban lãnh đạo. Cần phải nói rằng có những vụ kiện kéo dài hàng năm trời, nhưng năm 1988 Gorbachev đã chấm dứt chuyện này bằng cách sau: sau một năm kể từ ngày tòa án hoặc cơ quan cấp trên ra phán quyết về việc từ chối khôi phục, đơn từ của người lao động sẽ không còn được xem xét nữa. 

Trong trường hợp được phục hồi, theo Luật lao động năm 1922, người lao động sẽ được nhận toàn bộ tiền lương do bị buộc phải nghỉ việc, điều này có thể coi là công bằng (nhưng phải nhận rằng luật của Cộng hòa liên bang Đức còn công bằng hơn, theo luật nước này thì người lao động được trả toàn bộ tiền lương cho đến khi được phục hồi hoặc từ chối phục hồi). Nhưng nghị định liên tịch ngày 28 tháng 12 năm 1938 của Hội đồng dân ủy Liên Xô, Ban chấp hành trung ương Đảng (b), và dĩ nhiên của Tổng liên đoàn lao động nữa, qui định chỉ trả cho người được phục hồi không quá 20 ngày! Chuyện đó xảy ra là vì sau khi đã phê phán một cách giả vờ “chủ nghĩa Ezhov” (vụ khủng bố hàng loạt năm 1937) tại hội nghị trung ương năm 1938, rất nhiều tù nhân được tha và vì trước đây, khi những người đó bị bắt thì tất cả bạn bè, người thân của họ đều bị đuổi việc, nhiều người được phục hồi, nhà nước phải hoàn trả một số tiền rất lớn. Thế là nhà nước quyết định tiết kiệm. Năm 1972 (gần 20 năm sau khi Stalin chết) thời hạn được nới thành 3 tháng. Rõ ràng là 3 tháng thì hơn 20 ngày, nhưng có thể coi đấy là công bằng không khi người lao động phải theo đuổi một thời gian dài hơn nhiều mới được phục hồi [12] .
Bây giờ xin nói đến những người gọi là “trong danh sách”: đây là tiếng lóng mà các luật sư dùng để chỉ những chức danh nằm trong danh sách số 1 và số 2, Phụ lục số 1 của Qui định về thủ tục xem xét các tranh chấp về lao động. Đây là danh sách rất dài các chức vụ lãnh đạo kể cả các đốc công và những công nhân viên bình thường: bình luận viên vô tuyến truyền hình và đài phát thanh, hướng dân viên và phiên dịch viên của Hãng lữ hành quốc tế, nghệ sĩ, ca sĩ .v.v.. Nếu bị cho nghỉ việc hoặc bị thi hành kỉ luật thì những người này không được quyền đưa vụ việc ra tòa. Họ chỉ có thể tố cáo hành động của lãnh đạo lên cơ quan cấp trên, trên thực tế những người này không được pháp luật bảo vệ. Những người lao động trong một số ngành tuân theo cái gọi là qui tắc kỉ luật như: vận tải, thông tin, năng lượng, thợ mỏ… cũng ở trong hoàn cảnh tương tự. Vì vậy một trong những yêu cầu của thợ mỏ đình công năm 1989 là bãi bỏ qui tắc kỉ luật (được họ gọi là “luật thời chiếm nô”).
Tình trạng một số rất đông người lao động không được pháp luật bảo vệ rõ ràng là không phù hợp với nguyên tắc bình đẳng giữa các công dân mà “hiến pháp Stalin” tuyên cáo. Vì vậy mà điều 58 “hiến pháp Brezhnev” năm 1977 đã qui định quyền kiện ra tòa hành vi vi phạm pháp luật, xâm phạm quyền lợi công dân của tất cả các quan chức. Nhưng điều khoản này cũng như tất cả các điều khoản của hiến pháp Liên Xô đều có kèm thêm: “theo qui định của pháp luật”. Vì vậy mà điều này đã trở thành vô nghĩa trong một chục năm trời và mãi đến năm 1987 người ta mới ban hành bộ luật được chờ đợi từ lâu. Nhưng hóa ra sự chờ đợi lại bị phản bội: luật này vẫn giữ nguyên các trình tự khiếu kiện trước đó và thật không hiểu người ta ban hành cái luật ấy để làm gì. 

Vì luật này bị phê phán mạnh mẽ nên ngày 2 tháng 11 năm 1989 Xô viết Tối cao Liên Xô “thời cải tổ” đã thông qua luật mới: “Về trình tự khiếu nại ra tòa các hành vi vi phạm pháp luật của các cơ quan quản lí nhà nước và các quan chức xâm phạm quyền lợi của công dân”. Nhưng nó cũng chẳng khác luật năm 1987 là mấy. Ngay trong Lời nói đầu nó đã tuyên bố rằng vì luật pháp Liên Xô đã qui định các công dân được bảo vệ tại tòa án nếu xảy ra những xâm phạm quyền lợi của mình, trong đó có quyền lao động nên công dân không được quyền đưa ra tòa “…nếu pháp luật Liên Xô và pháp luật các nước cộng hòa có qui định khác về thủ tục khiếu nại”. Nói các khác sự bất bình đẳng vẫn được giữ nguyên.
Cuối cùng Ủy ban giám sát hiến pháp đã công nhận rằng điều này là vi hiến. Nhưng pháp luật lại không qui định hiệu lực trực tiếp của phán quyết này nếu không thay đổi ngay chính điều luật. Vì vậy thật khó dự đoán tương lai sẽ như thế nào.
7. Bảo hiểm xã hội của nhà nước
Xin trình bày một cách khái quát tình trạng bảo hiểm xã hội của các tầng lớp dân cư tại “đất nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới”. Nông trang viên hoàn toàn không được bảo hiểm, còn lương hưu, đấy là nói từ khi được áp dụng, chỉ là 20 – 30 rub một tháng. Mặc dù luật hưu trí năm 1964 qui định các điều kiện như nhau về hưu bổng đối với nông trang viên, công nhân và viên chức, nhưng theo “nguyên tắc của chủ nghĩa xã hội” là “hưởng theo lao động” nên lương hưu phụ thuộc vào tiền lương mà lương của nông trang viên, đặc biệt là của nữ nông trang thì bao giờ cũng thấp nhất. Chỉ từ ngày 1 tháng 11 năm 1985 lương hưu tối thiểu của nông trang viên mới được nâng lên mức 40 rub một tháng.
Nhưng khái niệm “tối thiểu” cũng chưa phải là “thấp nhất” vì “mức lương thấp nhất” vì nhiều lí do có thể còn thấp hơn tối thiểu (“thấp hơn tối thiểu” – có phải là một sự phi lí không?). Báo Tuần lễ (số 2 năm 1988) đưa tin một bà mẹ có 7 người con nhận 13 rub lương hưu! Mẹ của viên thuyền trưởng tàu ngầm tên là A. Marinesko, người bị Hitler coi là “kẻ thù trực tiếp”, còn nhà nước Liên Xô thì tặng cho nhiều năm tù đầy (năm 1990, sau khi chết, ông được phong anh hùng Liên Xô) được mức lương hưu là 27 rub một tháng. Chỉ riêng ở Nga (các nước cộng hòa khác không có số liệu) đã có 4,5 triệu người nhận lương hưu với thời gian làm việc chưa đủ niên hạn (không có qui định mức tối thiểu). Hiện nay mức lương tối thiểu được qui định là 70 rub. “Người ta cảm thấy kinh hoàng vì những con số như thế”, tờ “Tin tức” (ngày 18 tháng 2 năm 1991) viết, “khi biết rằng mức sống tối thiểu theo tính toán hiện nay là 110 rub. Một số nhà khoa học cho rằng tối thiểu phải là 220-250 rub một tháng thì mới sống nổi. Trong trường hợp đó gần một nửa dân số nằm dưới mức nghèo khổ. Xin nói thêm rằng nếu so với mức sống tối thiểu của người công nhân phương Tây thì đa số nhân dân sẽ phải được coi là thuộc loại nghèo đói.
Lương hưu tối đa theo luật hiện hành (chưa kể phụ cấp một số nghề nghiệp) là 120 rub. Trong những năm 80, những gia đình có thu nhập bình quân đầu người là 50 rub (ở Viễn Đông và Siberia là 75 rub) được coi là khá giả (Bản tin của tòa án Tối cao, 1983, số 51). Người tàn tật và người già cả không nơi nương tựa, theo luật, được nhà nước nuôi, người tàn tật bẩm sinh được trợ cấp 30 rub một tháng (nghĩa là 1 rub một ngày cho tất cả các nhu cầu từ ăn, mặc, ở, đi lại, chăm sóc…!). Từ ngày 1 tháng 1 năm 1987 trợ cấp cho người tàn tật bẩm sinh đã được nâng lên: loại 1 (hoàn toàn mất khả năng lao động và cần người chăm sóc) được 50 rub một tháng, loại 2 được 40 rub, nhưng qua 16 tuổi thì tất cả đều chỉ được 30 rub!
Trợ cấp cho các bà mẹ đông con còn đáng ngạc nhiên hơn (và kinh tởm hơn!). Trợ cấp bắt đầu khi đứa trẻ đủ một năm tuổi và chỉ có trong vòng BA NĂM (!!! tại sao?) với số tiền như sau: gia đình 4 con được 4 rub một tháng (không phải đánh máy nhầm đâu, đúng là 4 rub một tháng! Dưới đây cũng không đánh máy nhầm!), nghĩa là mỗi đứa trẻ được 1 rub một tháng, nhưng nếu có 11 con thì được hơn: 15 rub một tháng! Xin hãy so với giá lương thực, thực phẩm, hoa quả: 3 rub mua được 10 quả trứng gà, 3 rub một cân táo (đấy là nói trong cửa hàng mậu dịch, ngoài chợ thì 8-10 rub, có khi đắt hơn), 50 xu một cân khoai tây (ngoài chợ 3-4 rub), cân thịt giá 25 – 30 rub (cửa hàng không bán)… Xin không liệt kê thêm nữa vì giá cả tăng một cách đột biến từng ngày và khi tôi viết những dòng này thì số liệu đã trở thành cũ, nhưng trợ cấp và lương hưu thì không tăng nhanh như thế. Cần phải nói thêm rằng trợ cấp không được phát cho các bà mẹ tại nhà. Để được nhận họ còn phải xin hàng chục chữ kí, xếp biết bao nhiêu hàng nữa kia… Tên khốn kiếp nào có thể nghĩ ra biện pháp hạ nhục con người đến như thế? Làm sao những “đại biểu của dân” có thể thông qua mức trợ cấp như thế [13] ?
Các nhà “xã hội chủ nghĩa” phương Tây nhất định sẽ hỏi: làm sao lại như thế, trợ cấp thế thì làm sao sống? Số trẻ em tử vong, dù đã được “sửa chữa”, sẽ giải đáp những câu hỏi ấy của họ.
Dối trá! Tartuf [14] còn lâu mới vươn tới được mức độ đạo đức giả của radio, TV, báo chí trong việc nịnh hót nhà nước “cộng sản”!
Ở Liên Xô chính phủ cũng như “công đoàn” không tiến hành tính toán mức sống tối thiểu. Đôi khi các trường đại học có làm việc này. Theo số liệu của một trong những trường như thế thì chi phí cho riêng nhu cầu mặc của một bé gái 7 tuổi “ít nhất cũng là 420 rub một năm” (Tin tức, ngày 22 tháng 9 năm 1987). Tôi đã thử tính lại, với chất lượng quần áo thấp như hiện nay thì chi phí phải lớn hơn nhiều.
Người ta đặt ra mức trợ cấp thấp, không khác gì một vụ lăng nhục như thế để làm gì? Để cho các bà trong “quĩ nhi đồng” và các nhà hoạt động “công đoàn” có thể tuyên bố ở nước ngoài rằng: “Các bà mẹ đông con được nhận trợ cấp của chính phủ”. Họ sẽ không nói cụ thể là bao nhiêu. Ai ở phương Tây quan tâm đến chuyện đó?
Điều 100 Cơ sở của luật lao động Liên Xô viết: “Bảo hiểm xã hội của công nhân viên chức do nhà nước thanh toán” (!). Quĩ bảo hiểm xã hội do các xí nghiệp, công sở, cơ quan đóng góp mà không có bất kì khoản khấu trừ nào từ tiền lương của công nhân viên chức…”
Ôi, đất nước “xã hội chủ nghĩa”, đất nước của “toàn thể nhân dân” của chúng ta! Người cho chúng tôi tất cả, người cho chúng tôi cơm ăn, áo mặc, nhà ở, không khí để thở và nước để uống! Cám ơn người mãi mãi! Cám ơn người đã bảo hiểm “miễn phí” cho chúng tôi! Cám ơn người đã chữa bệnh “miễn phí”, nhưng chúng tôi lại phải trả cao hơn bất kì nước nào khác! Cám ơn người đã dạy chúng tôi học “miễn phí” trong những ngôi trường sắp sập, ca ba và đôi khi cả ca bốn nữa! Xin cám ơn người[15] !
Nhưng vẫn còn đó một câu hỏi nhỏ: nhà nước ta lấy đâu ra tiền để làm tất cả những chuyện đó?
Xin hãy suy nghĩ một chút, biết bao khoản chi tiêu: cho quân đội, đông hơn cả quân đội Mĩ và Trung Quốc cộng lại, cho hàng ngàn xe tăng, rồi còn tầu vũ trụ, tên lửa, bom nguyên tử và nhà máy điện nguyên tử Chenobyl nữa! Lại còn những khu nhà nghỉ của nhà nước, những khu nhà dành riêng cho những chuyến đi săn, những người cần vụ và biết bao thứ khác nữa! Thế mà nhà nước vẫn còn dành cho chúng ta một khoản gọi là bảo hiểm nữa! Các bà mẹ đông con còn được lĩnh mỗi tháng 1 rub cho mỗi đứa con!..
Năm 1989, ngay trước mắt bàn dân thiên hạ, những người “đại biểu của nhân dân” đã yêu cầu tăng mức trợ cấp cho những người nghèo nhất mà không đợi luật hưu trí mới có hiệu lực. Chính phủ trả lời: không có tiền! Thế là các “đại biểu” đành im. Nhưng ngay sau đó người ta đã nâng lương cho cán bộ Đảng và nhà nước lên gấp đôi (các đại biểu dĩ nhiên là cũng được). Việc này thì có tiền!
Sự lạc hậu của chế độ bảo hiểm được công nhận một cách chính thức vì luật bảo hiểm đã được soạn lại. Nhưng khác với các văn bản về quyền hạn của lực lượng vũ trang thuộc bộ Nội vụ hay các “đơn vị đặc nhiệm”, về tình trạng khẩn cấp, về ngăn chặn các cuộc đình công, về việc tuần tra hỗn hợp giữa quân đội và công an v.v… là những văn bản có hiệu lực ngay lập tức, luật hưu trí thì còn lâu mới được đem ra áp dụng. Vì vậy mà trên thực tế chứ không phải trên giấy nó sẽ như thế nào thì chỉ lúc đó mới rõ mà thôi. Nhưng có một điều đã rõ: nó sẽ chẳng tạo ra một tí thay đổi nào đối với cuộc sống của chúng ta.

Còn 3 kì nữa

[1]Tầu mang tên Nguyên soái Nakhimov, được đóng từ năm 1924, đã bị thủy lôi bắn trong chiến tranh, dĩ nhiên là mức độ an an toàn đã giảm, sau khi đụng độ với một tàu khác đã bị chìm trong vòng 8 phút làm thiệt mạng hơn 400 người. Cả hai thuyền trưởng đều phải ra tòa. Nhưng ai là người có lỗi, nếu người ta vẫn cho dùng những chiếc tàu có thời hạn sử dụng, theo luật, chỉ là 20 năm (hiện nay có hơn 100 tàu thủy như vậy, có những chiếc được đóng từ năm 1917)? Thực ra sau khi Nakhimov bị chìm, Bộ trưởng bộ hàng hải và một số quan chức khác đã bị cách chức, nhưng hình phạt như vậy có tương xứng không? Ngành công nghiệp đường sắt cũng ở trong hoàn cảnh tệ hại, một phần ba số toa tầu đã hết hạn sử dụng, cháy, lật khỏi đường ray, chết người… Có gì thay đổi đâu? Chỉ có một điều là trong giai đoạn “công khai” thì các vụ tai nạn
[2]Phù hợp với qui chế điều tra và thống kê các trường hợp tai nạn lao động, được chủ tịch đoàn Tổng liên đoàn lao động thông qua ngày 13 tháng 8 năm 1982, các trường hợp say rượu có thể không được công nhận là tai nạn lao động. Điều đó tước đoạt người lao động hay vợ con người đó (trong trường tử vong) quyền được bồi thường. Nhưng để người lao động làm việc ở trong tình trạng say rượu mà ban lãnh đạo lại không có lỗi ư?  
[3]Xin dẫn một vài thí dụ: Moskva, nhà máy Stankolit – nồng độ bụi cao hơn giới hạn cho phép từ 5 đến 10 lần (Sự thật Moskva, ngày 12 tháng 9 năm 1986). Ulianovsk, nhà máy Kontaktor – nồng độ chì trong không khí vượt mức cho phép 16 lần, nồng độ khí HF cao hơn 20 lần. Công nhân phàn nàn với giám đốc là thiết bị vận chuyển không hoạt động thì được trả lời: “Các anh sẽ khiêng, vác thế nào thì tùy, nhưng kế hoạch vẫn phải hoàn thành” (Tin tức, ngày 26 tháng 12 năm 1987).
Ủy ban của Xô viết Tối cao Cộng hòa xã hội chủ nghĩa liên bang Nga thảo luận về tình hình tại liên hợp Krasnoiarsklesprom: bụi xi măng cao hơn giới hạn cho phép 10 lần, mùa đông nhiệt độ trong các phân xưởng thấp hơn – 50oC, bệnh tật và tai nạn năm sau cao hơn năm trước, ngoài cảm cúm còn có thêm các bệnh như phụ khoa, xương-cơ, bệnh đường tiêu hóa. Bệnh viện, phòng khám đa khoa, nhà ăn, quần áo bảo hộ đều thiếu nghiêm trọng. Công nhân phải làm ngoài giờ rất nhiều. Tổng giám đốc liên hiệp phải công nhận: “Đôi khi công nhân phải sống trong các thùng đựng hàng!” Mà đây là Sibiria, nhiệt độ có khi xuống đến – 50oC! “Cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất” kết luận như thế nào? Không có kết luận gì hết. Họ “sẽ quay lại vấn đề này vào tháng 3 năm sau” (Nước Nga Xô viết, ngày 24 tháng 7 năm 1987).  
[4]Những vụ kiện như thế “chỉ được tòa án xem xét nếu lãnh đạo xí nghiệp và công đoàn đã có quyết định về tranh chấp” (mục 7 nghị quyết của đoàn chủ tịch tòa án Tối cao Liên Xô ngày 23 tháng 10 năm 1963).  
[5]Xem mục б nghị quyết trên.  
[6]“4,2 triệu phụ nữa lao động chân tay, không hề có máy móc gì hết… Trên các công trường xây dựng có 2500 phụ nữ làm công việc đào đất mà không có bất kì dụng cụ cơ khí nào, 3,5 triệu phụ nữ làm việc trong môi trường độc hại…”. Báo Tin tức, ngày 28 tháng 6 năm 1989 đã viết như thế.  
[7]N. G. Aleksandrov và những người khác. Pháp luật về lao động. Hướng dẫn. М, 1947, trang 201
[8]chơi chữ “khlopkorob” và “khlopkorab”, rab nghĩa là nô lệ -ND
[9]Tôi đã viết mấy bức thư gửi một số tờ báo trung ương, trong đó có tờTin tức, về nghị quyết này của Ban chấp hành trung ương Đảng, nhưng không nhận được trả lời. Xin nói thêm rằng tôi còn viết cho cả tờ Tư duy Nga ở Paris và đài Tự do nữa. Cũng không có hồi âm. Có vẻ như chẳng ai thèm quan tâm đến đề tài này. Ngoài các cháu nhỏ và cha mẹ chúng. Nhưng họ thì làm được gì?  
[10]Như trên đã nói, khiếu nại về đền bù thiệt hại cho nhân viên trước hết được ban lãnh đạo xí nghiệp, sau đó là công đoàn xem xét. Khiếu nại về phục hồi công tác được chuyển thẳng cho tòa án nhân dân. Khiếu nại về bảo hiểm xã hội do КТС xem xét, tòa án không giải quyết. Các vấn đề này được “các ban chấp hành công đoàn” và các cơ quan bảo hiểm xã hội xử lí. 
Khiếu nại của một số thành phần về nhiều lĩnh vực tranh chấp, như đã nói bên trên, chỉ được giải quyết bởi các cơ quan quản lí cấp trên.
[11]dịch thoát ý, nguyên nghĩa là: Đừng đánh nhau với người khỏe, đừng kiện cáo người giầu –

ND
[12]Tôi từng có mặt, hồi những năm 1960, trong một buổi tọa đàm của các luật sư, nơi người ta thảo luận dự thảo bộ luật lao động, trong đó có vấn đề trả tiền cho người nhân viên nếu người đó bị buộc thôi việc một cách trái pháp luật. N. Aleksandrov, cây đa cây đề, của nền luật học Liên Xô đã giải thích tại sao lại không trả toàn bộ thời gian nghỉ việc: “để nhà nước không phải tốn quá nhiều tiền, tòa án sẽ không phục hồi công tác cho những người bị buộc thôi việc một cách phi pháp”. Đúng là logic của luật sư Liên Xô!
[13]Tất cả các số liệu có thể được kiểm tra trong cuốn: Bảo đảm xã hội ở Liên Xô. Tập hợp các văn bản pháp qui. М, 1986, trang 417,458 ..v.v..
[14]Nhân vật của Molie, Kịch tác gia Pháp. BT
[15]Tiếu lâm hiện đại: “Mất mùa là tại thiên tai, Được mùa là tại thiên tài Đảng ta” (dịch thoát ý –

ND).

Chương 10. Luật hình sự

 
Chính sách về hình pháp
Lịch sử của “chính quyền Xô viết” là một chuỗi dài, không thể nào kể hết, những tội ác chống lại nhân dân, là một vụ diệt chủng thật sự mà Hitler không thể nào so sánh được. Thực chất nó là một chính quyền tội phạm. Danh sách những tội ác mà nó đã phạm ở nước ngoài cũng dài vô tận (Hungary, Tiệp Khắc, Ba Lan, Afghanistan, các nước vùng Baltic…)
Thu nạp cống vật là bản chất của hệ thống phong kiến được che đậy bởi mẽ ngoài “xã hội chủ nghĩa” này. Vì vậy, từ quan điểm pháp lí, tất cả những “nhà hoạt động Đảng và nhà nước” được đưa vào hệ thống đều là những kẻ ăn hối lộ, những tên tội phạm. Không phải vô tình mà sau những cuộc cách mạng dân chủ ở Đông Âu vào mùa thu năm 1989, người ta được biết rõ những vụ ăn cắp và hối lộ ở ngay những cấp lãnh đạo cao nhất. Gần như ở đâu cũng đòi đưa các nhà lãnh đạo cũ ra tòa.
Việc giới tội phạm và bộ máy Đảng-nhà nước thâm nhập vào nhau là điều đương nhiên. Ngay chính Shelokov khi vừa nắm được bộ Nội vụ đã ban hành nhật lệnh nội bộ (dĩ nhiên là không được công bố) trong đó có nói đến một sự kiện mà nay ai cũng biết, đấy là sự liên kết giữa bộ máy cảnh sát với giới tội phạm [1] .
Các nhà khoa học Xô viết xuất phát từ luận điểm cho rằng pháp luật là công cụ của giai cấp cai trị nhằm nô dịch nhân dân lao động. Chính sách hình pháp của Liên Xô khẳng định luận điểm này ngay từ khi nó mới được thành lập. Mặc dù người ta luôn tuyên bố ngược lại rằng hình luật là phương tiện bảo vệ nhân dân, chống lại một nhúm những kẻ bóc lột.
Không thể kìm được bất bình khi nói đến “tội lỗi” của nhân dân. Ngay cả bây giờ, trong “giai đoạn cải tổ” mà hàng ngàn người vẫn bị kết án theo điều 198 bộ Luật hình sự: “vi phạm chế độ hộ khẩu”, nghĩa là sống không hộ khẩu, trái hẳn với điều 13 Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền mà Liên Xô đã hứa tôn trọng (mãi cuối năm 1991 điều 198 mới bị bãi bỏ).
Hàng chục ngàn người đã bỏ xác trong các trại cải tạo vì “tội” đó, cũng như vì không có mặt tại vị trí công tác 21 phút, hàng chục ngàn người đã bị bắn vì đi mót những bông lúa rơi trên đồng sau vụ thu hoạch [2] !
Sau chiến tranh “luật bảy phần tám” [3] đã mất hiệu lực và nghị định của Chủ tịch đoàn Xô viết Tối cao Liên Xô ngày 4 tháng 6 năm 1947 (dân chúng gọi đơn giản là nghị định) “với mục đích tăng cường cuộc đấu tranh chống ăn cắp tài sản xã hội chủ nghĩa” đã qui định mức án tù đến 25 năm. Hàng đoàn người nối đuôi nhau vào trại giam không hẹn ngày về. Như một bài hát trong trại giam ngày đó:
Đi về Bắc cực… Thời hạn cao su…
Phải luôn nhớ rằng nhà tù là một loại xí nghiệp xã hội chủ nghĩa làm theo kế hoạch, các xí nghiệp này cần thường xuyên bổ sung nhân lực. Để làm được như thế, nhà nước phải giữ cho tình trạng tội phạm luôn ở một mức nhất định. Vì vậy khi kế hoạch của các xí nghiệp bị đe dọa, thí dụ, sau vụ ân xá nhân dịp 70 năm Cách mạng Tháng Mười (tạp chí Ngọn lửa nhỏ, số 32, năm 1988), người ta phải bắt đầu chiến dịch “đấu tranh với tội phạm”, cảnh sát bắt người với đủ lí do, tòa án đưa ra “thời hạn” và kế hoạch đã được hoàn thành.

Nhưng trong “giai đoạn cải tổ” thì tội phạm hoành hành khắp nơi. Không chỉ dân chúng mà nhà nước cũng phát hoảng. Các nhà “tội phạm học” Xô viết cho rằng dưới chế độ xã hội chủ nghĩa chủ nghĩa Marx đã không còn giá trị nữa. Chủ nghĩa Marx khẳng định rằng điều kiện xã hội là nguyên nhân của tội phạm. Các nhà khoa học thường nói rằng ở nước ta điều kiện phát sinh tội ác đã không còn, tội ác chỉ là “tàn dư của quá khứ”. Nhưng là một người duy vật, tôi cho rằng tội phạm gia tăng một cách khủng khiếp như hiện nay là do:

  1. sự tan rã một cách toàn diện hệ thống kinh tế xã hội của đất nước và sự phân hóa xã hội mà ai cũng biết (trừ các nhà khoa học): sự bần cùng hóa của công nhân và nông dân cùng với sự giàu lên đột ngột của tầng lớp cán bộ và giới mafia trong lĩnh vực công-thương nghiệp;
  2. sự phá sản của hệ tư tưởng cộng sản, một chân không đạo đức là kết quả của cuộc đấu tranh chống lại tôn giáo;
  3. sự hợp nhất của bộ máy nhà nước với giới tội phạm, sự phát triển của tội phạm có tổ chức và mafia;
  4. hệ thống nhà tù và “hộ khẩu” đảm bảo tạo ra những kẻ tái phạm và bổ sung cho thế giới tội phạm có tổ chức những tên tội phạm ngày càng chuyên nghiệp hơn [4] . 
      

Những người mác-xít hoàn toàn có lí khi cho rằng luật hình sự mang tính giai cấp. Tính giai cấp thể hiện trong toàn bộ hình pháp, trong quan điểm xét xử, trong việc thi hành án v.v… Hình pháp và luật hình sự có mục đích bảo vệ giai cấp cầm quyền, đe dọa và đàn áp các tầng lớp cần lao. Tôi hi vọng rằng điều này đã được chứng minh trong các chương trên, nhưng nó còn rõ ràng hơn khi ta xem xét luật hình sự và đặc biệt là sự tùy tiện và phi pháp diễn ra trên thực tế hàng ngày. 

Ở Ashkhabad (Turkmenia) đã tổ chức một phiên tòa điển hình [5] , xét xử một nhân viên bán hàng tên là Mamedorazova. Chị ta được xác định có tội là đem giấu dưới gầm bàn (không phải là ăn cắp mà chỉ là cất đi cho khách quen) mấy chiếc tất liền quần của trẻ con (báo Sự thật thanh niên, ngày 31 tháng 10 năm 1982)! Trong khi đó tầng lớp cán bộ, các nhà lãnh đạo nước cộng hòa và những công hầu khanh tướng của họ chia nhau hàng triệu rub công quĩ mà không việc gì.

Việc đưa ra tòa những tên ắn cắp và những kẻ nhận hối lộ giữ chức vụ cao là chuyện hi hữu và thường thì đấy là kết quả của những cuộc tranh chấp giữa các vương tôn. Chúng ít khi bị đem ra tòa, tòa mẫu thì lại càng hiếm vì những kẻ chiến thắng cũng chẳng muốn “vạch áo cho người xem lưng”. Dưới thời Brezhnev người ta đã phát hiện ra những vụ “chạy” đặc xá của Nasriddinova, “tổng thống” Uzbekistan, nhưng bà ta chỉ bị giáng chức xuống làm .. bộ trưởng! Báo chí đã viết công khai và khá rõ về việc nhận hối lộ của các ủy viên Bộ chính trị như Grishin (Moskva), Romanov (Leningrad), Aliev (Azerbaizhan), Demirtran (Armenia), Kunaev (Kazakhstan) và những người khác, nhưng cũng chẳng ai dám động đến họ và họ vẫn sống vui vẻ trong các biệt thự của mình (biệt thự của Kunaev ở gần ngay bức tượng được dựng khi ông ta còn sống) và còn được nhận lương hưu đặc biệt nữa. Medunov, đầu Đảng của những kẻ ăn hối lộ miền Nam nước Nga còn được nhận một căn hộ ở Moskva (dĩ nhiên là không phải xếp hàng) và an hưởng tuổi già thật xa những nơi ông ta từng hoạt động trước đây.

Ngay cả tội lỗi của các viên chức cấp thấp hơn cũng thường được bao che, kéo dài và được cho “chìm xuồng”. Chỉ những trường hợp chẳng đặng đừng, thí dụ, có người chết, thì họ mới bị đem ra xét xử và án phạt cũng thường rất nhẹ [6] .

“Người thường” thì lại khác. Vụ án “những người tạo mẫu” được báo chí nói đến rất nhiều có thể được coi là vụ điển hình. Nội dung vụ này như sau: tại một nhà máy ở Moskva có mấy người thợ tạo mẫu tay nghề rất cao (phải có các mẫu bằng gỗ với độ chính xác rất cao thì mới có thể đúc được các linh kiện kim loại). Các nhà máy khác cũng đặt mẫu ở đây và thường thì các đơn hàng này đều thuộc loại khẩn cả (thí dụ khi một linh kiện bị hỏng mà không thể mua được, phải tự làm), đơn giá là của nhà nước, nhưng đây là những đơn giá đặc biệt. Chắc là những người thợ này có thu nhập khá, có kẻ nào đó ghen ăn tức ở đã báo cáo lên trên. Viện kiểm sát khởi tố vụ án và xác định là các bị can đã ăn cắp tổng cộng 260.738,99 rub! Chính xác đến thế là cùng! Với số tiền “ăn cắp” lớn như thế, họ bị xử theo điều 93 bộ luật hình sự với mức hình phạt là 8 đến 15 năm tù và có thể tử hình (mức nào thì cũng kèm theo tịch thu tài sản). Giám đốc các xí nghiệp đặt hàng đã làm chứng tại tòa và khẳng định rằng những người thợ này đã cứu xí nghiệp của họ, rằng nếu không có những người thợ khéo tay như thế thì nhà nước đã bị thiệt hại rất lớn, số tiền họ trả là rất nhỏ, không thể nào so sánh được với thiệt hại có thể xảy ra nếu không có những người thợ ấy… Vô ích! Các quan tòa kiên quyết đứng về phía quyền lợi của nhà nước và mặc dù một bị can có nhiều huân huy chương trong cuộc chiến tranh vệ quốc, ba người công nhân vẫn bị xử với những mức án 8, 12 và 14 năm tù giam (tôi không biết họ bị bắt khi nào, nhưng tòa án thành phố Moskva phán quyết vào ngày 4 tháng 8 năm 1981).

Cần phải xem xét trường hợp này một cách thật cẩn thận vì nó như một giọt nước phản ánh toàn bộ sự phi lí và tính giai cấp của nền tư pháp Liên Xô: bên đặt hàng kí hợp đồng chính thức với nhà máy, chính giám đốc xí nghiệp kí hợp đồng, dự toán và đơn giá do phòng tài chính kế toán lập. Mấy người công nhân này lĩnh tiền từ thủ quĩ theo bảng lương, mà họ chỉ được một phần, phần lớn hơn (75%) thuộc về nhà máy và được đưa vào công quĩ. Không một cán bộ lãnh đạo nào của nhà máy bị đưa ra tòa cả.

Tại sao lại là ăn cắp? Phi lí chứ còn gì nữa! Đúng, phi lí đối với những đất nước bình thường, với những con người bình thường, với nhận thức pháp lí bình thường, với nền luật pháp bình thường! 

Nhà văn Burkovski đã nói rất đúng: “Chả lẽ đời sống ở Liên Xô lại là thực ư, chả lẽ Liên Xô không phải là một thế giới điên rồ tưởng tượng, nơi có những người Xô viết bịa tạc đang xây dựng chủ nghĩa cộng sản huyền hoặc, sinh sống ư?”

Mãi đến ngày 4 tháng 12 năm 1986 tòa án Tối cao Liên Xô mới hủy bỏ bản án “những người tạo mẫu” (Bản tin của tòa án tối cao, năm 1987, số 2). Như vậy là mấy người thợ này đã bị “ngồi” (thực ra là họ không ngồi mà phải làm) tù 6 năm! Chẳng vì lí do gì!

Những người quen bảo vệ và biện hộ cho “chủ nghĩa xã hội” sẽ nói rằng đây là một trường hợp đặc biệt. Vâng, đây là một trường hợp đặc biệt, nhưng nó đặc biệt chỉ vì hoàn toàn vô tình mà hội thẩm nhân dân trong vụ này là một nhà báo, một người có tư duy bình thường chứ không phải là một luật sư. Vì anh nhà báo này kịch liệt phản đối bản án nên bị cho ra rìa và được thay bằng một hội thẩm nhân dân “gật” khác (giới tội phạm gọi hội thẩm nhân dân là “bọn gật”). Nó đặc biệt vì tờ Báo Văn học đã tham gia vào cuộc đấu tranh gian khổ và kéo dài, từ lúc kết án cho đến khi bản án bị hủy bỏ. Điều đó càng chứng tỏ rằng đây là một vụ án rất bình thường vì việc hủy bỏ bản án đã phá hỏng thực tiễn pháp lí do tòa án Tối cao đặt ra! Tòa án tối cao hủy bỏ bản án, nhưng như thường thấy ở nước ta, để không phải trả tiền đền bù cho những năm tháng tù đày vô cớ, tòa lại gán cho những người công nhân tội theo điều 153 bộ luật hình sự (hoạt động kinh doanh tư nhân). Không thể nào giải thích cho người ngoại quốc hiểu được tội này là gì; đây chính là “cải cách kinh tế” đang được người ta cổ động hiện nay và cho ra tù vì “đã chấp hành đủ thời hạn của bản án” theo điều luật này. Có thể gọi là “hoạt động kinh doanh tư nhân” trong khi người ta làm việc tại nhà máy và lĩnh lương từ thủ quĩ được ư? Phi lí đối với một luật sư bình thường! Nhưng đối luật sư Liên Xô thì không.

Không phải hàng trăm mà là hàng ngàn vụ như thế (theo tuyên bố của Borovski, Chủ tịch Đảng tự do kinh tế, thì hiện có 127 ngàn người bị kết án những tội tương tự như thế, những tội mà hiện nay được coi là hoạt động kinh tế thị trường bình thường). Một nhà báo kể lại rằng tài liệu về hàng trăm vụ án kiểu đó chất đầy bàn viết của anh ta. Một trong những vụ nổi tiếng và có tiếng vang là vụ án giám đốc một nông trường ởKazakhstan tên là Khudenko. Nhận làm giám đốc một nông trường đang thua lỗ, Khudenko đã biến nó thành ra có lãi, thu nhập của người lao động tăng lên rõ rệt. Tờ “Báo Văn học”, ngày 21 tháng 5 năm 1962 đã có bài ca ngợi ông ta (đấy là thời “tự do” dưới trào Khrushchev). Khudenko bị khởi tố ngay khi báo phát hành, người ta định khởi tố cả tác giả bài báo nữa. Nhưng sau khi được tha, Khudenko đã đòi đền bù. Viện kiểm sát lại khởi tố và Khudenko đã chết trong tù (Báo Văn học, ngày 21 tháng 1 năm 1987)!

Goriatrkin, làm chủ tịch nông trang (tỉnh Moskva) năm 1962 khi nông trang này nợ nhà nước 300 ngàn rub. Trong các năm 1964-1966 nông trang này có tổng số lãi là 1.381 ngàn rub. Goriatrkin và ba người nữa bị bắt, họ bị giam 10 tháng trước khi ra tòa và bị kết án “ăn cắp tài sản xã hội chủ nghĩa”. Thế đấy, trước khi bị ăn cắp nông trang nợ đìa, sau khi bị ăn cắp nông trang thành ra có lãi! Ngay người lính áp giải cũng phải thốt lên: “Họ là những tên ăn cắp thì rõ rồi, nhưng tôi cũng không hiểu họ ăn cắp cái gì nữa? (Tin tức, ngày 3 tháng 6 năm 1967). Thực ra là Goriatrkin đã tổ chức một xưởng sản xuất phụ, đơn giá tiền lương ở đây cao hơn đơn giá của nhà nước. Thu nhập của công nhân cao… đến… 300 rub! Trong 3 năm chênh lệch so với đơn giá của nhà nước là 36 ngàn rub. Và đây chính là “vụ ăn cắp”! Xin nói thêm rằng nông trang là tập thể, là người chủ, vì sao ông chủ lại phải trả lương cho công nhân theo đơn giá nhà nước?

Giukov, chủ nhiệm một hợp tác xã đánh cá (tỉnh Novorossisk) đã làm cho hợp tác xã thành ra có lãi cũng bị kết án “ăn cắp” mặc dù tất cả nhân chứng đều khẳng định rằng ông ta không bỏ túi một xu nào (nghĩa là ông đã không cống nạp lên trên). Tòa án Tối cao đã xử trắng án, nhưng ông ta cũng đã ngồi tù khá lâu (Báo Văn học, 14 tháng 1 năm 1987).
Bản án của một vụ tương tự đã ghi rằng: “Kẻ biển lận không hề thu được một chút lợi ích kinh tế nào” (Báo Văn học, ngày 14 tháng 1 năm 1987).

Những vụ án như thế xảy ra vào giai đoạn “cải tổ” của Khrushchev, khi một số người tin rằng hệ thống đã thay đổi, sáng kiến có thể phát huy và biến chuyển có thể xảy ra.
Những vụ án như thế diễn ra suốt những năm đó, khi mà lãnh đạo Đảng và nhà nước trên thực tế đã cướp bóc đất nước một cách trắng trợn mà không hề chịu bất kì sự trừng phạt nào.
Tuy vậy, những vụ án phi lí như thế cho ta thấy rõ một qui luật chính trị, một sự liên quan của chúng với hệ thống những quan hệ lao động cưỡng bức, với sự độc quyền của nhà nước trong việc áp đặt đơn giá tiền lương thấp. Bất cứ người lãnh đạo nào có ý định thiết lập một hệ thống khác, bất cứ người nào có ý định nâng lương cho người lao động đều bị coi là kẻ phá hoại hệ thống lao động cưỡng bức và đe dọa sự tồn vong của chế độ. Đấy là lí do vì sao có hàng ngàn vụ án và tại sao một tờ báo ở trung ương phải đấu tranh với tòa án Tối cao suốt 6 năm trời mà vẫn không chứng minh được cho các luật sư rằng “những người tạo mẫu” không hề ăn cắp gì cả. 

Tất cả các vụ án đều được nặn ra theo sơ đồ sau: “Người ta áp ‘tiêu chuẩn và đơn giá thống nhất’ lên công việc thực tế đã hoàn thành. Ở đâu mà chả có chênh lệch và đấy chính là ăn cắp… Từ cách tính như thế, điều tra viên rút ra kết luận: ‘công việc thực tế đã hoàn thành là 10.628 rub, nhưng lại nhận những 13.626 rub, như vậy số tiền bị ăn cắp là 12.628 rub’. Xin độc giả hãy giải bài toán mẹo này. Xin hãy xem xét thật kĩ sự phi lí này. Nhưng đấy chính là bản luận tội (Tin tức, ngày 25 tháng 9 năm 1987). Mức độ chính xác của bản luận tội không phải là điều mà các điều tra viên, công tố viên và tòa án quan tâm. Họ chỉ cần biết rằng can phạm đã trả hoặc đã nhận nhiều hơn “đáng lẽ phải thế” là đủ. Điều này quả thật rất tai hại cho nền kinh tế “xã hội chủ nghĩa”, nhưng chính sách như thế bảo đảm cho sự an toàn của chế độ, bảo đảm sự an toàn cả quyền lẫn tiền cho bộ mày Đảng. Và tất cả đều biết: cần phải trừng phạt, còn nó có phù hợp với luật pháp hay không không phải là điều quan trọng. Trong các văn phòng của bộ máy từng có câu nói vui: “Hãy đưa cho chúng tôi một người, chúng tôi sẽ tìm cho anh ta điều khoản áp dụng [7] ”.

Thật khó xác định “chỉ thị” không được có các vụ xử trắng án được đưa ra từ bao giờ, vì cũng như đã nói bên trên về nguồn gốc này của pháp luật Liên Xô, “chỉ thị” thường là miệng, không được thể hiện trong bất cứ tài liệu nào và còn bị phủ nhận một cách công khai nữa. Tôi cho rằng “chỉ thị” được đưa ra vào khoảng những năm 60 của thế kỉ trước, đấy là sau chiến dịch ngưng hàng loạt các vụ án hình sự và giao những tên tội phạm cho các đơn vị “bảo trợ”, tội phạm thì gia tăng mà số nhân công trong các trại giam lại giảm mạnh.

Lí do của “chỉ thị” là như sau: pháp luật Liên Xô là hiện thân của công lí và công bằng. Tuyên một người vô tội thì chẳng hóa ra đã khởi tố người ta một cách “oan uổng” ư. Không thể có chuyện đó [8] ! Nhưng chỉ thị như thế là hoàn toàn trái pháp luật cho nên khó mà tìm được chúng trong sách báo công khai hồi đó, chúng chỉ có thể vô tình lọt lưới kiểm duyệt và biên tập viên mà thôi. Sau năm 1985 có thể tìm được khá nhiều các “chỉ thị” như thế, nhưng tất cả đều ở thời quá khứ.

Vì vậy việc khởi tố một người cũng đồng nghĩa với việc kết tội người đó. Các “ma cũ” trong các trại tạm giam thường khuyên “ma mới” nhận ngay: “nhận ngay thì nhẹ”. Các điều tra viên cũng nói ngay từ đầu như thế. Cũng vì lí do đó mà người ta còn khuyên không nên kháng cáo. 

Đây là một vụ điển hình: một phụ nữ bán căng tin tên là Zina Teliakova mất tích (kèm theo 600 rub của căng tin). Sách hình sự dạy rằng các vụ giết người mất xác thường là do những người thân cận thực hiện, mùa xuân năm đó người ta phát hiện được xác một phụ nữ đang thối rữa trên con sông gần đấy. Thế là rõ! Mẹ chồng và chồng của bà Zina tên là Alekseiev bị kết án 5 năm tù. Từ trong tù Alekseiev gửi ra 800 là đơn kêu cứu với tiếng thét: “Zina còn sống! Hiện ở tỉnh Stalingrad!”, nhưng như tờ báo đã viết: “chỉ một lá đơn có kết quả”, đấy là theo kháng nghị của công tố viên, Tòa án Tối cao Cộng hòa xã hội chủ nghĩa liên bang Nga đã tái thẩm bản án và… TUYÊN ALEKSEIEV 10 NĂM TÙ GIAM! Những người khác trông gương đó mà đừng kháng án nữa! Sau khi mãn hạn [9] , Alekseiev tìm được địa chỉ vợ cũ và lại viết đơn, lần này thì ông được minh oan!

“Những người bảo vệ” pháp luật có chịu trách nhiệm gì không? Viện trưởng viện kiểm sát tỉnh Tambov bị cách chức… và (xin đừng lo!) chuyển sang làm viện trưởng tỉnh Voronezh. Chánh án tòa án tỉnh bị cảnh cáo nhưng chức vụ thì vẫn giữ nguyên. Một số người khác cũng bị cảnh cáo.

Trừng phạt thực sự có thể làm tan vỡ cái hệ thống vừa được mô tả. Chúng ta sẽ còn có dịp nói đến qui luật của của những hành động như thế.

Có những vụ mà ngay chính các quan tòa “chuyên ăn theo nói leo” như thế cũng không thể kết tội. Khi đó họ sẽ chuyển về viện kiểm sát để điều tra thêm và viện này sẽ ra lệnh chấm dứt vụ án [10] . Nhưng chấm dứt điều tra cũng có nghĩa là bên kiểm sát có lỗi cho nên họ sẽ giữ lại một thời gian (trong khi nghi can vẫn ngồi trong trại) và chuyển lại cho tòa án. Việc “đá bóng” như thế cứ tiếp tục mấy lần, và kết quả phụ thuộc vào việc phía nào, viện kiểm sát hay quan tòa có thần kinh và “chân gỗ” vững hơn. Chứ không phải là bản chất vụ án.

Ông A. M. Iakovlev, một trong những cây đại thụ của khoa pháp luật, “đại biểu” Xô viết Tối cao Liên Xô, nhân thảo luận về việc các tòa án thường không tuyên bố trắng án đã nói đến tính dã man của các bản án (tất nhiên không phải là những bản án dành cho tầng lớp “cán bộ”): “Xu hướng đưa ra các bản án nặng có thể giải thích được (?): chẳng ai muốn bị phê bình là theo phái tự do (bạn có thấy không? Thẩm phán sợ bị phê bình là theo phái tự do! Mà là các thẩm phán độc lập đấy! – tác giả) hay là khuyến khích bọn tội phạm. Các thẩm phán dù không muốn (?!) cũng thường đưa ra các bản án theo khung hình phạt cao nhất”. Iakovlev còn nói rằng các bản kiểm điểm của thẩm phán có mục đặc biệt gọi là … số vụ có thời hạn tù ngắn. “Số vụ như thế càng nhiều thì thẩm phán càng bị đánh giá thấp” (Báo Văn học, ngày 24 tháng 9 năm 1986). Ai có thể đánh giá được công việc của các thẩm phán độc lập? Iakovlev không nói rằng sự nghiêm khắc của hình phạt chỉ áp dụng cho “dân thường”, nhưng số vụ xử “cán bộ” nói chung là hãn hữu. Nhận thức pháp lí của vị luật sư đầu ngành này cũng đáng quan tâm: ông ta nói về các “tòa án cấp trên”, tức là những tòa án có nhiệm vụ “theo dõi” tòa cấp dưới (đã được nói đến bên trên); ông ta cũng nói rằng vì không nghe lời “anh hai” mà chánh tòa bị đưa hạ bậc thành thẩm phán thường, nhưng ông ta chỉ phê bình những sự kiện đơn lẻ chứ không phê phán hệ thống phụ thuộc của các thẩm phán nói chung.

Đã thảo luận về chính sách hình sự thì không thể không nói đến công tác điều tra, một trong những mắt xích quan trọng của hệ thống khủng bố. Xin bắt đầu bằng tình hình của các điều tra viên. Công việc của họ phải nói là vô cùng nặng nề nhưng lương lại rất thấp. Cùng một lúc một người phải xử lí hàng chục vụ, trong đó có các vụ án kinh tế (chiếm đoạt, ăn cắp .v.v..), cần thẩm vấn hàng trăm nhân chứng, phải nghiên cứu hàng đống tài liệu, phải giám định và kiểm kê tài sản. Điều tra tất cả các vụ một cách nghiêm túc nắm ngoài khả năng, ngay cả về mặt sức khỏe. Thế mà thời hạn điều tra vụ án và chuyển sang tòa là tiêu chí quan trọng để đánh giá một điều tra viên. Lối thoát duy nhất của điều tra viên là kết thúc thật nhanh các vụ án và leo lên các cấp cao hơn. Anh ta lại còn biết rằng cấp trên cũng muốn như thế, nếu có gì thì sẽ được cấp trên bao che. Và mọi phương tiện, kể cả đánh đập, tra tấn, đều tốt, miễn là được việc.

Hai trẻ vị thành niên, dưới áp lực của điều tra viên, đã khai nhận những vụ ăn cắp mà chúng không hề thực hiện. Như báo chí đã viết: “Có những lời khai như thế là do cơ quan điều tra sử dụng những biện pháp đáng bị điều tra”. Khi thấy vụ án bị “vỡ” (thuật ngữ chuyên môn), chủ tọa phiên tòa đã tuyên bố nghỉ giải lao… 44 ngày! Bản án tuyên: một đứa 7 năm tù, đứa kia 4 năm. Thực ra chúng đã ăn cắp nhưng phần lớn là do người ta “đeo” (cũng là thuật ngữ chuyên môn) cho chúng. Chủ tọa phiên tòa cũng nhận ra điều đó, thế nhưng ông ta lại giải thích với phóng viên: “Không được để tồn đọng nhiều vụ ăn cắp như thế” (Báo Văn học, ngày 11 tháng 6 nắm 1986). Đấy chính là sự “hợp tác” giữa cảnh sát, viện kiểm sát và tòa án nhằm “cải thiện” số liệu thống kê về tội phạm: số vụ “được khám phá” tăng lên. Nhưng xin hãy tưởng tượng số phận những đứa trẻ vị thành niên mà tuổi trẻ sẽ trôi qua trong trại cải tạo chỉ vì những vụ ăn cắp mà người ta cố tình vu cho chúng. Chúng có mang ơn xã hội không?

Đấy là thực tế quen thuộc đối với người dân Liên Xô, điều đó thể hiện rất rõ qua lời “bà hội thẩm nhân dân” của tòa án Tối cao Latvia. Lời bà này đã lan truyền đến tận hang cùng ngõ hẻm Liên Xô, nhưng trước khi trích dẫn xin được kể về hoàn cảnh phát sinh lời phát biểu nổi tiếng ấy.

Ba chàng trai bị bắt vì một vụ hiếp dâm mà chính họ không thực hiện. Một người chứng minh được tình trạng ngoại phạm. Vì bị tra tấn hai anh chàng kia “nhận”, người ta còn “tìm” được nhân vật thứ ba: sau vài tháng anh này cũng “nhận”. Nhân vụ này chính quyền muốn chứng tỏ cho dân chúng thấy khả năng làm việc tuyệt vời của mình nên đã cho quảng bá rộng rãi trên báo chí, TV, đài phát thanh. Nhân Ngày cảnh sát, một số cảnh sát “có công” còn được gắn huân, huy chương, cả người làm chứng (dĩ nhiên là chứng dối) cũng được… khen thưởng nữa.

Các chàng trai hi vọng người ta sẽ xử công khai và họ sẽ phủ nhận “lời khai”, sẽ kể về việc bị tra tấn. Độc giả có thể tưởng tượng được những ngón đòn tra tấn vì mức án có thể là tử hình! Chưa nói đến sự kinh tởm của chính tội lỗi! Một người đã cố chứng minh rằng anh ta chưa hề bao giờ có mặt tại nơi xảy ra vụ án, nhưng vô ích. .. Không ai thèm nghe! Dư luận xã hội đã được chuẩn bị kĩ lưỡng và đang khao khát báo thù. Các luật sư “đã giúp đỡ việc luận tội (có câu ngạn ngữ: “Luật sư là công tố viên thứ hai”). Một người bị kết tội tử hình, hai người bị án tù dài hạn. Công chúng hoan hô khi nghe xong bản án.

Rất may là án tử hình chưa kịp thi hành: kẻ thủ ác thực sự đã thú nhận. Không ai tin! Người ta không muốn tin! Mất nửa năm kiểm tra, trong khi mấy anh chàng kia vẫn nằm trong trại. Nhưng rồi người ta cũng buộc phải minh oan cho họ.

Chỉ vì vụ án đã được quảng bá quá rộng rãi, sự thất bại cũng có tiếng vang không kém cho nên những kẻ có tội trong vụ việc này đã bị khởi tố. Trong quá trình điều tra, người ta đã hỏi “bà hội thẩm nhân dân nọ: “Bà có nghe thấy can phạm nói bị tra tấn không?”. Và bà ta trả lời: “Không đánh thì ai người ta nhận”. Thế mà bà ta vẫn làm hội thẩm ở tòa án Tối cao đấy (Báo Văn học, ngày 17 tháng 12 năm 1986).

Grant, chủ tọa phiên tòa đó bị bãi chức và đưa…, bạn cho là đưa đi đâu? Đưa về hội luật gia! Và hội luật gia “độc lập” đã kết nạp ông ta vào đại gia đình luật sư! Nhưng sự thật là sau này ông ta đã bị khai trừ khỏi hội.

Nhưng dù sao thì kết quả của vụ án này cũng là không bình thường. Bình thường thì những người gây ra những vụ án oan không bị trừng phạt. Bạn không tin tôi ư? Vậy xin hãy tin ông Terebilov, chánh án tòa án Tối cao Liên Xô (ông này đã bị cho về vườn vì đã cố ý tiết lộ những hành vi không lương thiện); khi được hỏi đã khởi tố bao nhiêu vụ án hình sự chống lại những người “bảo vệ pháp luật” khi họ cố tình tạo ra những vụ án oan như thế thì ông ta đã trả lời một cách ngắn gọn: “Không có vụ nào!” (Báo Văn học, ngày 17 tháng 12 năm 1986)
Câu hỏi này được đặt ra nhân một vụ án ồn ào khác (được gọi là vụ Viteb). Tại tỉnh Viteb có 36 phụ nữ bị hiếp rồi bị giết. 14 người bị kết án cả thảy! Một người bị bắn! Một người được tha trước thời hạn, ông ta bị mù khi ngồi tù. Một người chấp hành án tù đủ 10 năm. Những người khác thì được tha sau khi kẻ thủ ác thực sự bị bắt. Nhưng tất cả 14 người kia đều “nhận tội [11] ”!. Sau này báo chí đã viết về những vụ tra tấn: những người vô tội bị đập đầu vào tủ sắt, bị đá giầy đinh vào mặt, một người còn bị nện bằng… tập Bộ luật hình sự Bạch Nga vào đầu [12] ! Đúng như người ta nói, đưa luật pháp vào cuộc sống! Ngay các “nhân chứng” cũng bị tra tấn: một trẻ vị thành niên bị người ta nắm lấy chân và dốc ngược đầu xuống đất (Báo Văn học, ngày 3 tháng 3 năm 1983). Dĩ nhiên là những người bị tình nghi này đã hi vọng vào một phiên tòa trung thực và nhân ái… Vô ích…

Rất nhiều vụ án như thế [13] . Đa số bị lật tẩy một cách tình cờ. Tại sao lại có thể khẳng định như thế? Thứ nhất, nhiều trường hợp được minh oan (có người được minh oan sau khi đã chết) không diễn ra như trong vụ Viteb (nhờ vào kết quả làm việc thận trọng của điều tra viên); thứ hai, tôi hiểu rõ cách thức tiến hành công việc.

May mắn ở đây là tôi không phải trình bày việc đó bằng ngôn ngữ của mình mà xin được ghi lại lời của cây bút chuyên về luật pháp trên tờ Tin tức (những chỗ chấm chấm không phải của tôi): “Có một vụ án nghiêm trọng. Người ta cho gọi viện trưởng viện kiểm sát và giám đốc công an (xin lưu ý: không nói ai gọi, ai có quyền gọi những người ấy – tác giả) và ra lệnh: “Phải tìm bằng được, phải vô hiệu hóa… Nếu không…”. Những người này lại hạ lệnh như thế cho cấp dưới, đến lượt mình cấp dưới lại… Và thế là họ đã tìm được. Nhưng không phải lúc nào cũng là kẻ cần tìm” (Tin tức, ngày 20 tháng 2 năm 1987). Tác giả bài báo đã cố tình “thả khói”: dường như người ta “đòi hỏi” phải tìm được tội phạm thật. Rõ ràng là “anh hai” (chính tác giả bài báo có ý nói thế) không mạo hiểm, ông ta không hạ lệnh tìm “bất cứ người nào”. Nhưng “anh hai” biết thực tế không kém gì tôi. Ông ta cần “khép vụ án” lại. Bằng bất cứ giá nào. Tất cả “những người bảo vệ pháp luật” đều biết như thế. Vì vậy khi vụ án bị “vỡ” thì “anh hai” sẽ bảo vệ các công hầu của mình đến cùng, trong trường hợp không được thì đổ tất cả tội lỗi cho họ.

Những vụ có án tử hình bao giờ cũng được xử ở tòa án Tối cao nước cộng hòa hay tòa án Tối cao Liên Xô. Bạn nghĩ rằng những quan tòa kinh nghiệm như thế không nhìn thấy sự giả mạo ư? Họ nhìn thấy hết. Xin dẫn ra ở đây bằng chứng do O. Temushkin cung cấp: ông ta kể lại rằng phó chánh án tòa án Tối cao Liên Xô tên là V. Smolensev đã kháng nghị bản án tử hình Babaev và Kuliev vì cho rằng bản án này trái luật, nhưng kháng nghị không được xem xét. “Tôi xin mở bức màn bí mật”, Temushkin nói, “Aliev, lúc đó là bí thư thứ nhất ban chấp hành trung ương Đảng cộng sản Azerbaizhan, đã sử dụng tất cả ảnh hưởng của mình, ông ta gọi điện thoại nhiều lần cho L. Smirnov, chánh án tòa án Tối cao Liên Xô (hiện đã ra người thiên cổ) và các nhà lãnh đạo các cơ quan bảo vệ pháp luật khác. Tôi đã vô tình chứng kiến một cuộc nói chuyện như thế: ông ta trắng trợn yêu cầu không can thiệp vào vụ Babaev. “Chỉ thị qua điện thoại” đã phát huy tác dụng. Hai người đã bị bắn” (Tin tức, ngày 5 tháng 1 năm 1989).

Như vậy là bộ máy Đảng, với đúng nghĩa của từ này, đã tổ chức những vụ thủ tiêu những người mà họ không ưa, còn các điều tra viên, thẩm phán, luật sư, các cơ quan “bảo vệ pháp luật” thì đóng vai những tên đâm thuê chém mướn. Tất cả những người ấy đều là Đảng viên cộng sản hết. 

O. Temushkin còn thuyết phục độc giả: “Tôi không bao giờ quyết án mà chỉ căn cứ vào lời thú nhận của bị cáo”. Nói dối! Ông ta sẽ quyết nếu người ta ra lệnh như thế, bản án của Siniavski và Daniel đã chứng tỏ điều đó. Nhưng các điều tra viên và thẩm phán thì không đơn giản như thế. Temushkin biết rõ “lời khai đã được củng cố” như thế nào. Đấy là chưa nói đến các “nhân chứng” (bên trên đã kể họ được “chuẩn bị” như thế nào), các bị cáo, sau khi đã bị đánh đập, được đưa tới hiện trường vụ án và các điều tra viên sẽ chỉ cho họ cách họ “phạm tội”. Sau đó (các) bị cáo sẽ tự làm lại ngay trước mặt những người làm chứng. Tất cả đều được chụp ảnh hoặc quay phim, những người làm chứng sẽ phát biểu tại tòa và tất cả các “bằng chứng” này sẽ được đưa vào hồ sơ để gửi lên tòa phúc thẩm. Vì vậy trong hồ sơ vụ án bao giờ cũng có đủ thứ “bằng chứng” được thu thập “đúng qui định”, nhất là những vụ có án tử hình, chứ không bao giờ lại chỉ gồm mỗi “lời thú nhận” của bị cáo như Temushkin nói. Nhưng các thẩm phán có kinh nghiệm sẽ nhìn thấy ngay sự giả mạo, cũng như khán giả nhìn thấy cách trang trí và đóng kịch trên sân khấu, họ biết rằng Otello không giết Desdemona và cả hai sẽ ra chào khán giả ngay khi vở diễn kết thúc. Nhưng trong phiên tòa phong kiến lời khai của bị cáo được coi là bằng chứng không thể chối cãi, phiên tòa dưới chế độ Xô viết thì cũng thế [14] .

Xin xem xét cách người ta buộc nghi can “thú nhận”.

Nhà báo Iu. Feofanov, tác giả bài báo trên tờ Tin tức đã dẫn, hỏi các bị cáo rằng họ có bị đánh không? Không. Thế tại sao các anh lại nhận? Thế ông có biết TTG là gì không?, một bị cáo hỏi lại. Feofanov phải tự đi tìm hiểu: “Trại tạm giam là một phòng chật chội, chỉ có giường không, sát bên là các thứ “tiện nghi”, không chăn chiếu gì hết, sáng và chiều được phát một mẩu bánh mì, trưa thì được ăn nóng. Mỗi ngày là 30 xu. Lúc thì nóng như thiêu như đốt, lúc thì lạnh cắt da, đấy là nói nếu cửa sổ bị vỡ vào tháng Chạp. Mà khi bị bắt thì có được thay quần áo đâu, có thế nào mặc vậy (một người tên là Khatrmanukiana chỉ có một chiếc áo sơ mi…). Có thể chịu đựng được trong mươi hôm. Đấy là cách tác động rất có hiệu quả, tác giả viết: “Không cần đánh đập … người ta sẽ nhận hết, miễn là được đưa đi”.. Và tác giả nhấn mạnh: “Đây là phương pháp được luật pháp công nhận, bằng cách làm như thế người ta có thể buộc một công dân bất kì thú nhận những gì điều tra viên cần, theo những căn cứ đã nói bên trên có thể bắt giam bất cứ người nào. Và làm với họ bất cứ chuyện gì vì theo điều 120 bộ luật hình sự thì luật sư không được tham gia vào quá trình điều tra”. Feofanov kể tiếp rằng có ba người “ngoan cố” vượt qua được giai đoạn đầu tiên, điều tra viên đưa họ vào nhà giam thêm một năm rưỡi nữa, “không phải là không thể làm khác, mà vì có thể làm như thế. Vì pháp luật cho phép làm như thế”. Feofanov bảo: “Không có logic nào, không có pháp luật nào có thể biện hộ cho cách lấy cung như thế trong giai đoạn điều tra ban đầu”.

Đấy là bước đầu của việc lấy cung. Những điều kiện phi nhân trong giai đoạn tạm giam là những ngón đòn tra tấn thật sự không chỉ đối với nghi can mà còn đối với cả những “nhân chứng” không muốn cung cấp, nói như Feofanov, bằng chứng “cần thiết”. Một người bình thường, đặc biệt là người già, người bệnh (thí dụ, bệnh tiểu đường mà lại không có thuốc) bị ném vào trại tạm giam với những tên tội phạm thực sự, phải nằm trên những chiếc giường trống như thế sẽ không có cách nào khác hơn là nhận hết, miễn là được đưa ra tòa với hi vọng là có thể chứng minh mình vô tội.

Bước thứ hai: tra tấn về tâm lí, dọa nạt, bắt bớ bạn bè và người thân. Các kiểm sát viên to tiếng kết tội các điều tra viên là Gdlian và Ivanov (không biết rằng như vậy là gián tiếp kết án chính mình vì điều tra được tiến hành dưới sự giám sát của viện kiểm sát). Tôi tin những lời kết án như thế vì họ được dạy tiến hành điều tra theo cách đó, họ không biết cách nào khác, đấy là một cách làm bình thường. Và sự kiện là nhiều vụ án bị “vỡ” thì lỗi không chỉ là do những người bảo trợ cho những kẻ ăn hối lộ mà còn là do thói quen của các điều tra viên muốn tòa án chấp nhận “những bằng chứng nhận tội”.

Bước thứ ba: tra tấn. Từ khi bắt đầu “công khai” nhiều sự kiện như thế đã được viết trên báo. Những vụ tra tấn dã man, đánh đến dập thận, đánh đến vỡ gan, đánh đến chết… Chuyện đó thường hay xảy ra trong quá trình điều tra tại trụ sở cảnh sát. Những điều tra viên ở viện kiểm sát thận trọng hơn, họ luôn giữ được “bàn tay sạch” bằng cách sử dụng những tên tội phạm cùng phòng giam, những kẻ được hứa hẹn đủ điều.

Đại tá Shvelev, trưởng phòng điều tra hình sự tỉnh Irkusk kể lại mối nguy hiểm mà nghi can phải chịu như sau. Khi điều tra một vụ án, ông đã thâm nhập vào một băng mafia gồm các quan chức của bộ máy Đảng và giới tội phạm chuyên nghiệp nhưng nhận ra rằng người ta cũng đang thu thập tài liệu chống lại ông. Shevelev liền bỏ chạy và trốn trong rừng taiga ba năm liền. Ông nói: “ủy ban cần phải bỏ tù tôi, trong tù họ có thể sử dụng bọn tội phạm và muốn làm gì tôi thì làm, kể cả giết” (Tin tức, ngày 5 tháng 12 năm 1988).

Viện kiểm sát Cộng hòa xã hội chủ nghĩa liên bang Nga khi điều tra vụ Mamedov (1987) người bị giam ở phòng giam đặc biệt số 90 tỉnhAstrakhan đã phát hiện ra rằng anh ta bị đánh gãy cẳng chân và một xương sườn. Kẻ đánh Mamedov và các tù nhân khác lại chính là V. Bogdanov, “một kẻ có nhiều tiền án, vì lí do nghiệp vụ (!) đã được giam cùng phòng với các phạm nhân bị giam lần đầu, điều này được pháp luật hiện hành về công tác nghiệp vụ của Bộ nội vụ cho phép. Nhưng hắn được giam ở đây quá 6 tháng kể từ ngày bản án có hiệu lực” (tác giả gạch dưới). Nói cách khác, đáng lẽ phải đi đày thì Bogdanov được giữ lại để “giúp đỡ’ điều tra viên, nghĩa là đóng vai một tên đao phủ [15] .

Cần phải nói thêm rằng việc bắt và giam trong các phòng đặc biệt có thể kéo dài hàng năm, mặc dù lúc đó thời gian giam theo luật là rất ngắn [16] .

Việc sử dụng những tên tội phạm trong giai đoạn “HỎI CUNG BƯỚC BA” không phải là điều xa lạ đối với tòa án Tối cao Liên Xô, nhưng tôi chỉ tìm được một tài liệu chứng minh: ngày 22 tháng 9 năm 1987 tòa án Tối cao Liên Xô đã hủy bản án của tòa án tỉnh Irkusk ngày 25 tháng 4 năm 1985 (xin tính xem người ta phải tù bao lâu trong khi ngành tư pháp bò!) về vụ án 3 người phạm tội hiếp dâm và giết người vì “đã sử dụng những các biện pháp trái pháp luật trong quá trình điều tra”. Các bị cáo đã phản cung vì họ đã khai như thế “dưới tác động của những kẻ bị giam cùng phòng là T., Tr., và Kh.”. Các thẩm phán cao cấp không viết rõ “tác động” này là gì, có thể họ cho rằng chúng ta sẽ tự đoán được vì nếu công nhận thì ba người kia có thể bị kết án tử hình. Kh. còn viết rằng anh ta “theo sự phân công của cơ quan điều tra, quả thật đã tác động lên B. và anh ta được nghe điều tra viên của viện kiểm sát và nhân viên phòng hình sự kể cho nghe về vụ án”. Đấy chính là bí ẩn của cơ quan điều tra Liên Xô, bí mật đối với báo chí, nhưng lại có thể chia xẻ cho những người “gần gũi về mặt giai cấp”! Trong bản nghị quyết này không có một lời lên án nào đối với những người cố tình gây ra vụ án oan.

Và vụ án vẫn chưa chấm dứt, hồ sơ được trả về để điều tra lại từ đầu (Bản tin của tòa án Tối cao Liên Xô, năm 1988, số 1, trang 25). Còn ba nghi phạm thì tiếp tục ngồi tù [17] .
Đấy là một thí dụ giấy trắng mực đen chứng minh về quan hệ giữa pháp luật và thực tế, về chính sách về hình luật đã nói đến bên trên, một chính sách tạo ra chế độ khủng bố, độc đoán, có mục đích đè bẹp ngay từ trong trứng nước bất kì ý tưởng chống đối nào.
Còn 2 kì nữa

[1]“Thế giới công khai” điều khiển thế giới tội phạm thông qua các kênh mà trước đây KGB lãnh đạo bọn tội phạm có tổ chức” (Tin tức Moskva, số 52 ngày 29 tháng 12 năm 1991).   
[2]“Các Đảng viên xã hội” không tin những người “bôi đen chủ nghĩa xã hội”. Xin dành cho họ “luật bẩy phần tám- 7/8” hay tên chính thức là Nghị quyết liên tịch của Ban chấp hành trung ương và Hội đồng dân ủy Liên Xô ngày 7 tháng 8 năm 1932: “Về việc bảo vệ tài sản xí nghiệp quốc doanh, tài sản của nông trang và hợp xã và củng cố sở hữu xã hội (xã hội chủ nghĩa)”. Trong lời nói đầu các nhà làm luật viện dẫn “yêu cầu của công nhân và nông dân” về việc “trộm cắp” của “các phần tử lưu manh và nói chung là các phần tử phản xã hội”, và đây là lần đầu tiên người ta sử dụng thuật ngữ “thiêng liêng và bất khả xâm phạm” đối với tài sản xã hội chủ nghĩa. Những kẻ xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa bị coi là “kẻ thù của nhân dân”.
Phần đặc biệt lại gồm ba mục. Mục thứ nhất nói về việc trộm cắp hàng hóa trong quá trình vận chuyển. Mục thứ hai nói về trộm cắp tài sản của nông trang và hợp tác xã. Phần thứ ba, đúng hơn là không liên quan đến nội dung bộ luật; mục này qui định hình phạt cho “những phần tử phản xã hội”, những kẻ “buộc” xã viên ra khỏi nông trang hoặc hợp tác xã, nghĩa là những người chống lại việc áp đặt chế độ chiếm nô. Hai phần trên được qui định hình phạt như sau (xin trích dẫn): “xử bắn, kèm theo tịch thu toàn bộ tài sản hoặc trong trường hợp có các tình tiết giảm nhẹ thì phạt tù thời hạn ít nhất là mười năm (thời hạn tù dài nhất lúc đó – tác giả) kèm theo tịch thu tài sản”. 

Điều 48 bộ luật hình sự liệt kê các tình tiết gỉam nhẹ, “số lượng không lớn” không nằm trong các tình tiết này. Trong luật không nói đến số lượng đồ vật bị mất cắp. Vì vậy khi áp dụng luật, quan tòa phải xử bắn, không phụ thuộc vào số lượng tài sản bị mất cắp. Hơn nữa, tòa án Tối cao Liên Xô lập tức giải thích rằng rằng luật ngày 7 tháng 8 bao gồm tất cả các điều khoản của bộ luật hình sự, liên quan đến việc “xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa” (kể cả điều 162 bộ luật hình sự, nói về các vụ ăn cắp vặt). Stalin, với tâm lí thô lậu của một bạo chúa phương Đông, cho rằng xử bắn có thể giải quyết được tất cả, nhưng khi bắn đã quá nhiều mà nạn ăn cắp vẫn không giảm thì người ta đành phải cài số lùi, tòa án Tối cao Liên Xô đưa ra giải thích mới, phủ nhận giải thích cũ, các vụ ăn cắp vặt lại xử theo điều 162 bộ luật hình sự, còn “luật ngày 7 tháng 8” thì chỉ áp dụng cho các vụ ăn cắp lớn, mặc dù trong thời kì chiến tranh nó được áp dụng, thí dụ, cho trường hợp hai người ăn cắp một bao bột, giá nhà nước lúc đó dưới 10 rub (Nghị quyết tòa án Tối cao Liên Xô ngày 12 tháng 2 năm 1942).
[3]tức là công bố vào ngày 7 tháng 8 năm 1932, 7/8- ND
[4]L. Nikitinsky, trong phóng sự về các nhà tù dành cho trẻ vị thành niên, viết rằng không thể giữ được tính người trong hệ thống này, nó biến người ta hoặc thành chó sói hoặc thành cừu: “Bước vào đây là những đứa trẻ ăn cắp vặt, nhưng đi ra là những tên sát nhân đầy thù hận”. L. Nikitinsky trong bài Vô giới hạn. Tạp chí Ngọn lửa nhỏ, năm 1988, số 32.  
[5]Các phiên tòa điển hình là một thiết chế của “nền tư pháp” Liên Xô ngay từ khi nước này mới được thành lập. Đây không chỉ là những vụ án chính trị nổi tiếng. Mỗi thẩm phán đều có trách nhiệm tiến hành các vụ xử ở các câu lạc bộ, phòng truyền thống, trong nhà náy, tại nơi làm việc hay nơi cư trú của phạm nhân. Vì vụ án có tính chất điển hình và “có ý nghĩa giáo dục” (xin nhắc lại rằng D. Khazard cho rằng đây là điểm tích cực của luật pháp Liên Xô), nên nhất định nó phải có tính cách kết án. Trong các phiên tòa như thế, kể từ thời Khrushchev, ngoài công tố viên của nhà nước còn có công tố viên “xã hội” tham gia nữa. Việc để luật sư biện hộ hay công tố viên “xã hội” tham gia theo điều 250 bộ luật hình sự là quyền của chánh án. Về khả năng tham gia của cả luật sư lẫn công tố viên thì luật không nói. Nhưng ý nghĩa của nó vẫn là: thể hiện quan điểm của tập thể, của xã hội. Dĩ nhiên là không thể có hai quan điểm được, cho nên việc chánh án cho công tố viên “xã hội” tham gia (có trường hợp mấy người cùng tham gia) thì ta có thể nói quan điểm của chánh án đã rõ ngay trước phiên tòa rồi.  

[6]Trung úy cảnh sát T., đi trên xe riêng, không mặc sắc phục, suýt nữa thì gây tai nạn với công nhân D. Anh này gọi viên cảnh sát là “đồ lừa”. Viên trung úy liền lôi người công nhân vào đồn và khởi tố vụ án hình sự với tội danh càn quấy. Tòa kêu án hai năm tù giam. Tòa án tỉnh bác bỏ bản án, nhưng cảnh sát T. vô can (Tin tức, ngày 23 tháng 2 năm 1974).
Viên giám đốc nhà máy (tỉnh Mitrurinsk) gây tai nạn, trong tình trạng say rượu với một công nhân, anh này bị thương nặng và chết vào tháng 12 năm 1982. Sau đó một năm, nhờ báo Sự thật tố cáo vụ bao che tòa án mới xử. Sau đó kẻ gây tai nạn vẫn làm việc ở nhà máy cũ, tuy đã không còn là giám đốc nữa. Giám đốc một cửa hàng (ở Rostov) đi trên xe Volvo và gây tai nạn chết người. tòa phạt tù… người lái xe tải có mặt tại hiện trường sau đó ít phút. Hai năm sau người lái xe mới được minh oan và kẻ gây tai nạn thực sự mới bị kết án (Báo Văn học, ngày 31 tháng 8 năm 1983).

Bí thư thứ nhất thành đoàn thành phố Volgagrad tên là Novikov gây tai nạn làm chết một người. Cảnh sát kết luận rằng chính nạn nhân có lỗi. Sau này mới biết rằng Novikov là đầu đảng một nhóm chuyên cướp các cửa hàng ở tỉnh bên cạnh ngay trên chính cái xe Volga đã gây ra tai nạn với người xấu số nói trên (Nước Nga Xô viết, ngày 16 tháng 4 năm 1986)

Sebrinsh, chuyên viên của văn phòng Hội đồng bộ trưởng Latvia, gây tại nạn trong tình trạng say rượu, làm chết một người đang đi xe đạp vào năm 1983. Vụ án được khởi tố rồi hủy bỏ mấy lần. Tháng 1 năm 1984 viện kiểm sát Liên Xô thụ lí vụ án. Phiên tòa vào năm 1984 tuyên án tù treo (Tin tức, ngày 4 tháng 6 năm 1986). Thành phố Novgorod: Antonova, kế toán một liên hợp chế biến thịt mang ra ngoài 3 túi thịt ngon. Khi bị giữ bà ta la lớn: “Chồng tao sẽ cho chúng mày biết!”.

Chồng bà ta là trưởng phòng thuộc sở công an tỉnh. tòa án khu vực khởi tố vụ án, nhưng viện kiểm sát tỉnh hủy bỏ (Nước Nga Xô viết, ngày 15 tháng 3 năm 1987).
Có hàng trăm các vụ việc do các “ngôi sao thể thao” gây ra. Nhưng họ thường thoát, ngay cả những vụ nghiêm trọng nhất vì được nhiều “fan” cao cấp chống lưng.
[7]Bài báo trên tờ “Tin tức” về kế hoạch của cảnh sát trong việc “trồng người” vào trại giam và trại lao động cải tạo có tên “Có người là có điều khoản áp dụng” (Tin tức, ngày 30 tháng 3 năm 1989). Bốn năm “cải tổ” của Gorbachev.  
[8]“Tuyên trắng án” là thóa mạ công tác của các “cơ quan bảo vệ pháp luật” và làm mất uy tín của các cơ quan đó (Báo Văn học, ngày 13 tháng 10 năm 1971).
“Nhân danh cái gì mà tòa loại bỏ khái niệm bản án vô tội?” (Tin tức, ngày 25 tháng 7 năm 1985).

Các công tố viên đã “quên” cách viết những bản án vô tội rồi. Bản án cuối cùng mà họ nhớ, được tuyên ở Krasnoiarsky cách đây đúng 15 năm (Tin tức, ngày 24 tháng 5 năm 1986). Điều này trùng hợp với quan sát của tôi “… thời gian gần đây (!) đã xuất hiện những bản án vô tội” (Tin tức, ngày 12 tháng 5 năm 1988).
[9]Những tên cán bộ ăn cắp dù bị kết án cũng không bao giờ phải ngồi tù. Shakhverdiev, nguyên giám đốc sở thương nghiệp thị trấn Bataisk bị tuyên 10 năm tù giam nhưng đã ra tù một năm rưỡi sau đó. Krylov, “anh hai” của thị trấn đã “xin” cho ông ta. Hiện nay Krylov là thư kí công đoàn tỉnh (Báo Văn học, ngày 28 tháng 1 năm 1987).
Đa số những kẻ bị kết án nhiều năm tù giam trong vụ “Uzbekistan” đã được về nhà.  
[10]Vì các điều tra viên trực thuộc viện kiểm sát và viện chịu trách nhiệm về công việc của họ nên hai bên bao che nhau trong việc che dấu khuyết điểm và tội phạm. Hiện nay người ta đang thảo luận: điều tra viên nằm trong cơ quan nào để đảm bảo rằng họ hành động một cách độc lập! Đúng là logic Xô viết!  

[11]Vài thí dụ: Vì lấy hai lọ dưa chuột muối của mẹ vợ mà con rể bị một năm rưỡi tù giam. Một thanh niên bị hai năm tù giam vì không trả bạn đôi kính râm. Một phụ nữ bị một năm rưỡu tù giam vì lấy của bà bạn một túi nilon (Báo Văn học, ngày 24 tháng 8 năm 1986).
[12]Kĩ thuật như sau: đặt cuốn sách lên đầu rồi đấm thật mạnh. Không để lại dấu vết. Có thể giết người bằng cách đó. Không ai chịu đựng nổi.  

[13]tòa án thành phố Moskva kết án A. phạm tội nghiêm trọng và tuyên 12 năm tù giam. Các nhân chứng phản đối, nhưng sau phiên tòa người ta đã sửa các bản cung của nhân chứng! Luật sư yêu cầu xem lại biên bản, nhưng yêu cầu bị bác. tòa án Tối cao hủy bỏ bản án vì biên bản đã bị chữa bằng loại mực khác (xin nói thêm là tại các phiên tòa người ta không ghi tốc kí. Biên bản do các thư kí viết. Việc các thẩm phán sửa biên bản là hiện tượng thường thấy. Vì vậy sau khi tòa kết thúc một số luật sư phải chụp ảnh ngay biên bản (Tin tức, ngày 17 tháng 11 năm 1964). 
Lính cứu hỏa B. bị ngồi tù 10 tháng vì tội trộm cắp, mặc dù khi vụ mất cắp xảy ra thì anh ta đang trực ban. Vô tình mà người ta tìm được mấy tên trộm (Tin tức, ngày 1 tháng 7 năm 1969). 
Krasnoiarsk. A. bị xử tử hình sau khi bị tra tấn và “thú nhận”. H. bị xử từ hình vì tội giết người trong tình huống tương tự (Nước Nga Xô viết, ngày 17 tháng 9 năm 1987). 
Tỉnh Saratov. T. bị xử tử hình vì “tội giết hai người phụ nữ”. Sau này người ta đã tìm được kẻ sát nhân. 
Tỉnh Novosimbirsk. Khrenov, một kẻ có nhiều tiền án, thụ án trong trại giam. Hắn thực hiện nhiều vụ hãm hiếp và giết người. Mấy người bị kết tội thực hiện các vụ giết người đó, trong đó có hai người bị xử tội giết vợ. Mãi năm 1987 Khrenov mới bị lật tẩy và bị tử hình (Nước Nga Xô viết, ngày 23 tháng 12 năm 1987).  
[14]Feofanov, bình luận viên tờ Tin tức viết: “Các nhà lí luận và các nhà báo hãy vứt bỏ khái niệm “trọng chứng”. Đối với cơ quan điều tra thì quan trọng là lới thú nhận tội lỗi. Ngay cả những điều phi lí cũng được, miễn là nhận. Và điều đặc biệt là, có thể điều khủng khiếp nhất chính là không hề xảy ra một sự vi phạm pháp luật nghiêm trọng nào trong quá trình điều tra (Tin tức, ngày 25 tháng 9 năm 1937).
[15]Công nhận rằng hiện nay không nghe thấy những chuyện như thế trong KGB, nhưng một cán bộ có trách nhiệm của KGB, thượng tá V. Koroliov, nói: “Những kẻ như Khvata (tên này đã tra tấn nhà bác học N. Vavilov, hiện nghỉ hưu) được coi là trong sạch. Các điều tra viên không đánh đập, không tra tấn, không hiếp phạm nhân, việc đó là do những tên chỉ điểm trong các buồng giam làm, chuyện này đã được nói tới trong tác phẩm: “Lời tự thú của một chỉ điểm” trên tờ Ngọn lửa nhỏ. Các cơ quan KGB, Bộ nội vụ và viện kiểm sát ở trung ương cũng như địa phương đều làm như thế cả. Vì vậy đáng ra bên cạnh Gdlian và Ivanov phải xử thêm nhiều “cán bộ pháp luật” khác nữa mới đúng. Gdlian và Invanov cũng như các nhân viên KGB trung thành với họ đã hành xử trong khuôn khổ của các quyết định và hướng dẫn nội bộ. Nhưng hiện nay người ta đã cố tình quên các văn bản này (Ngọn lửa nhỏ, 1990, số 43, trang 30).  
[16]“Theo luật hiện nay giới hạn là 2 tháng. Ngoài ra thì là các “ngoại lệ”: viện trưởng viện kiểm sát tỉnh.. có thể kéo dài thành 3 tháng, nước cộng hòa đến 6 tháng, viện trưởng viện kiếm sát Tối cao đến 9 tháng. Thế hóa ra đây là giới hạn cao su”. Kẻ nào dám gọi luật pháp là “cao su”? Xin lỗi, đây là ông A. Buturlin, phó viện trưởng viện kiểm sát Cộng hòa xã hội chủ nghĩa liên bang Nga nói đấy (Tin tức, ngày 21 tháng 5 năm 1989). Có thể tin được. Nhưng ông ta không nói rằng việc kéo dài thời hạn như thế không phải do luật định mà là do “thực tiễn”, được Xô viết Tối cao thông qua.
[17]Xin đưa ra ở đây một văn bản nữa mặc dù chỉ có tính gián tiếp: Ngày 27 tháng 4 năm 1985 tại một ngôi nhà ở Armenia xảy ra một vụ cướp của giết người. A. X. một người bệnh có mặt trong ngôi nhà lúc xảy ra vụ án không bị đưa đi xét hỏi và chết vào đầu tháng 5. “Không có giám định y khoa tình trạng của A. X. Lúc nhập viện cũng như nguyên nhân cái chết của ông ta. Sáu tháng sau N. bị bắt và hai ngày sau “thú nhận” và bị tòa án Tối cao Armenia kết tội cướp của giết người, mặc dù anh ta khẳng định tại tòa rằng khi vụ án xảy ra anh ta có mặt tại một khu vực khác và các nhân chứng cũng đồng loạt khẳng định như thế. Tình trạng ngoại phạm không được kiểm tra. Chủ tịch đoàn tòa án Tối cao hủy bỏ bản án và cho điều tra lại (Bản tin của tòa án Tối cao Liên Xô, 1988, số 2 trang 46-48).
Xin phân tích trường hợp cụ thể này:
  — Tại sao tòa án Tối cao Armenia và tòa án Tối cao Liên Xô không đặt câu hỏi vì sao N. lại thú nhận , trong một vụ án “tử hình”, nhanh chóng như thế? Câu trả lời đã rõ: họ biết vì sao. 
  — Tại sao không cho kiểm tra tình trạng ngoại phạm, chả lẽ các quan tòa lại kém đến thế? Vì sẽ phải đình chỉ vụ án và khởi tố các “cơ quan bảo vệ pháp luật”.
  — tòa án tối cao Armenia có thể tự mình ra quyết định chấm dứt vụ án và không điều tra thêm. Tại sao họ không làm như thế mà vẫn bắt N. phải tạm giam tiếp? Để viện kiểm sát cho “chìm xuồng” mà không gây ra bất kì phản ứng nào. 

Tội ác

 
Ngay sau cách mạng năm 1917 phong trào “sáng tạo pháp luật” phát triển như vũ bão. Các tòa án tự phát, được trung ương khuyến khích, thực thi việc xét xử và trừng phạt, không dựa vào luật pháp mà dựa vào “nhận thức pháp lí cách mạng”. Đồng thời những vụ trừng phạt bên ngoài tòa án cũng được thực hiện.
Ban đầu chính quyền trung ương chỉ qui định trách nhiệm hình sự cho những hành động cụ thể riêng biệt [1] . Các địa phương (tỉnh, huyện và thành phố) tự ban hành các khung hình phạt kể cả tử hình cho những hành vi khác nhau, mà có khi đơn giản chỉ vì “thuộc giai cấp bóc lột”. Các bộ và cơ quan ngang bộ cũng qui định cả trách nhiệm hình sự. Thí dụ, nghị định của Hội đồng dân ủy ngày 8 tháng 11 năm 1917 qui định độc quyền của nhà nước trong lĩnh vực thông cáo [2] (một kiểu kiểm duyệt), còn Dân ủy về báo chí qui định trách nhiệm hình sự trong việc vi phạm nghị định của Hội đồng dân ủy trong đó có việc tịch thu tài sản và phạt tù từ 3 đến 4 năm[3] . Chỉ có điều trước khi công bố để đưa vào Bộ văn bản pháp qui, bất cứ văn bản nào, của bất kì cơ quan nào cũng đều phải được Hội đồng dân ủy phê duyệt.
“Cơ sở chỉ đạo của luật hình sự Cộng hòa xã hội chủ nghĩa liên bang Nga”, văn bản đầu tiên điều chỉnh các vấn đề chung nhất của luật hình sự được ban hành vào tháng 12 năm 1919 cũng chỉ là tài liệu của một bộ, đấy là Bộ tư pháp [4] . Tài liệu này lần đầu tiên xác định khái niệm tội ác như là sự phá hoại các quan hệ xã hội được bộ luật hình sự bảo vệ. Tội lỗi, khía cạnh chủ quan của tội ác không được nói tới trong “Cơ sở chỉ đạo”, mặc dù ngay từ lúc đó các luật sư “nói leo” (S. Bulatov) đã có thể, thông qua phân tích logic phức tạp, chứng minh rằng người ta chỉ phải chịu trách nhiệm nếu có thực hiện các hành vi tội lỗi.

Bộ luật hình sự đầu tiên của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa liên bang Nga được ban hành năm 1922. Điều 6 của bộ luật này xác định tội ác là: “Bất kì hành động tội lỗi nào hoặc bất kì việc không hành động nào, đe dọa các cơ sở của chế độ Xô viết và trật tự pháp lí do chính quyền công nông thiết lập trong giai đoạn quá độ tiến lên chủ nghĩa cộng sản”. Bộ luật hình sự năm 1926 giữ nguyên quan điểm này.
Như vậy là, “bất kì” hành động hay bất động nào cũng có thể bị coi là tội ác, nếu người ta cho rằng hành động đó đe dọa chế độ và trật tự pháp lí. Từ đây có thể rút ra kết luận không thể chối cãi là chính quyền có thể tuyên bố bất kì công dân nào là tội phạm cũng được, dù người đó không hề vi phạm bất kì điều luật hiện hành nào. Điều 16 (tương tự) cũng có mục đích như thế: “Nếu một hành vi nguy hiểm cho xã hội nào đó chưa được luật này qui định thì cơ sở và mức độ trách nhiệm về hành vi đó được xác định theo những điều áp dụng cho những loại tội phạm tương đồng với nó”. Làm sao xác định được sự “tương đồng”? Ông giáo sư về luật hình sự của chúng tôi đã kể lại rằng người ta từng kết án một thày tu Do Thái giáo (ravvin) vì ông này đã thực hiện các vụ cắt bao qui đầu theo tội danh tương tự với nạo phá thai!
Và để chắc chắn vào khả năng truy tố các công dân không hề có bất cứ hành động tội lỗi nào, điều 7 bộ luật này qui định: “Đối với những kẻ… nguy hiểm vì có liên hệ với môi trường tội phạm hoặc do những hoạt động trong quá khứ thì áp dụng biện pháp bảo vệ xã hội…”. Đấy chính là nguyên tắc qui tội khách quan, đặc trưng của luật pháp trong những giai đoạn đầu của thời kì phong kiến, nghĩa là người ta phải chịu trách nhiệm hình sự mặc dù không có tội hoặc cả chỉ vì người đó có tài sản. Đây là nguyên nhân của những vụ xử án thành viên các gia đình của những kẻ phản bội tổ quốc, những vụ đưa “kulak” và gia đình họ, đưa những người Tarar ở Krưm, đưa người gốc Đức và các dân tộc khác đi đầy, cũng từ đây đã xuất hiện những điều khoản, thí dụ điều 58, được đưa vào bộ luật hình sự vào năm 1934, theo đó thành viên đã thành niên của gia đình các quân nhân bỏ trốn ra nước ngoài cũng phải chịu trách nhiệm hình sự, dù họ không biết gì về công việc chuẩn bị trước khi người đó bỏ trốn. Như vậy là qui định về con tin đã được những người bolsevik áp dụng ngay từ những ngày đầu cách mạng. Hitler chỉ là học trò của họ mà thôi.
Việc qui tội khách quan trên thực tế còn đi xa hơn lời văn và các điều khoản của bộ luật hình sự. Giáo sư hình luật trong khi giảng bài đã chứng minh cho chúng tôi rằng việc một bà già mù chữ, vô tình nhặt được truyền đơn và đem vứt vào hố rác mà không hề biết nội dung của nó, bị khởi tố theo điều 5810 bộ luật hình sự (tuyên truyền và vận động phản cách mạng) là đúng vì đây là hành vi “phát tán tài liệu phản cách mạng”.
Bộ luật hình sự năm 1960, nghĩa là được ban hành vào thời “tan băng” Khrushchev, trong định nghĩa về tội phạm đã có một bước tiến theo hướng tự do hóa. Tội phạm vẫn là “hành vi nguy hiểm cho xã hội” nhưng được “qui định trong Phần đặc biệt của Bộ luật này, nghĩa là những hành vi vi phạm điều cấm”. Trong bộ luật tố tụng hình sự khi đó cũng đưa ra khái niệm suy đoán vô tội như sau: “Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án của tòa”. Năm 1977 suy đoán vô tội này được đưa vào hiến pháp, kèm thêm mấy từ sau “và phù hợp với luật pháp”. Nhưng pháp luật phù hợp với thực tiễn đến mức nào lại là chuyện khác, điều đó thể hiện rõ trong việc trừng phạt viện sĩ Sakharov. Bộ luật hình sự năm 1960 cũng bãi bỏ trường hợp tương tự. Không thể không công nhận rằng, về mặt thủ tục pháp lí, đây là một tiến bộ. Nhưng như dưới đây sẽ chứng minh, một bước tiến thì bao giờ cũng kèm theo hai bước lùi.
Sau khi bộ luật tố tụng hình sự công nhận khái niệm suy đoán vô tội thì một loạt điều khoản tiếp theo đã xóa bỏ hoàn toàn khái niệm đó: thí dụ điều 9 bộ luật tố tụng hình sự mang tên: “Chấm dứt điều tra và bàn giao can phạm cho tổ chức bảo lãnh”. Điều này nói rằng công tố viên, điều tra viên và cơ quan điều tra (cảnh sát) có quyền chấm dứt vụ án và chuyển giao cho tổ chức hay tập thể để giáo dục, cải tạo “người, đã thực hiện hành vi tội phạm”! Nói cách khác, cảnh sát có quyền tuyên bố chúng ta là tội phạm và ra quyết định chuyển chúng ta cho tập thể lao động để cải tạo. Bộ luật tố tụng còn có một số điều cho phép các cơ quan “bảo vệ pháp luật” chấm dứt vụ án vì “những hoàn cảnh không thể phục hồi” với tất cả hậu quả mà “nghi can” phải gánh chịu. Thí dụ hành vi gây thiệt hại về vật chất thì theo luật lao động người thực hiện hành vi đó phải đền bù toàn bộ thiệt hại.
Các luật sư của chúng ta, những người đã quen ca ngợi và giải thích luật pháp Liên Xô bất chấp sự thật hiển nhiên, nói rằng không có gì vi phạm khái niệm suy đoán vô tội ở đây cả vì trong những trường hợp như thế người dân có quyền đòi được minh oan bằng cách… kháng nghị lại quyết định chấm dứt vụ án tại tòa và đòi tòa đưa ra quyết định trắng án! Những kẻ dối trá chuyên nghiệp đó làm như họ không biết rằng các tòa án của chúng ta không tuyên trắng án bao giờ!
Các nhà làm luật thời “dân chủ” hậu Stalin có nhiệm vụ: một mặt, tiến hành “cải tổ” một cách hình thức quá trình ban hành luật pháp, quảng bá cho sự đoạn tuyệt với chế độ của Stalin, một chế độ dã man và độc đoán chưa từng có, nhưng mặt khác, vẫn phải giữ cho bằng được hệ thống khủng bố, thiếu nó thì không “chế độ xã hội chủ nghĩa” nào có thể tồn tại được.
Sự kết hợp “nước đôi” như thế thể hiện rõ nhất trong những tiến bộ ở Phần chung và sự phản động trong Phần đặc biệt của bộ luật hình sự: nhà làm luật phản công trong định nghĩa các phần cấu thành tội phạm. Xin so sánh điều 5810 bộ luật hình sự năm 1926 và điều 70 bộ luật hình sự năm 1960. Theo điều 5810 việc tuyên truyền và cổ động “kêu gọi lật đổ, phá hoại hay làm suy yếu chính quyền Xô viết hoặc kêu gọi thực hiện các hành động phản cách mạng (theo các điều 58– 589 của Bộ luật này), cũng như phát tán, soạn thảo hoặc lưu trữ các tài liệu có nội dung như thế”, nghĩa là kêu gọi hành động chống lại chính quyền thì bị trừng phạt.
Điều 70 bộ luật hình sự năm 1960 lại nói đến cổ động và tuyên truyền với mục đích phá hoại và làm suy yếu chính quyền Xô viết, cũng như phát tán những “điều bịa đặt vu khống, bôi nhọ chế độ xã hội và nhà nước Xô viết”. Không cần là luật sư cũng có thể nhìn thấy sự khác nhau to lớn giữa hai văn bản.
Việc áp dụng điều 5810 trên thực tế là trái pháp luật. Chuyện sau đây được coi là bình thường: người kể và người nghe chuyện tiếu lâm đều bị bắt vì người nghe bị buộc tội không tố cáo [5] . Một người phụ nữ tôi quen bị mười năm tù chỉ vì nói một câu mà ai cũng biết: “Đấu tranh, tránh đâu”. Tôi biết một người bị tù vì nói đùa về hai tờ báo Sự thật và Tin tức: “Sự thật thì không có tin tức, mà Tin tức thì không có sự thật”. Solzhenitsyn kể rằng người ta đã bỏ tù tất cả nhân viên một phòng kế toán vì một kẻ nào đó đã thêm chữ U vào sau khẩu hiệu treo trong phòng: “Sống trở thành tốt hơn, sống trở thành vui hơn. Stalin” [6] . Trong chế độ cộng sản người ta có thể bị bỏ tù vì câu chuyện tiếu lâm… về Sa hoàng! Thí dụ, anh của họa sĩ A. I. Zernov bị chết trong tù chỉ vì một bài thơ về Piotr I. Bất mãn vì điều kiện lao động, vì thiếu lương thực thực phẩm… tù tất.
Nhưng từ năm 1962 thì kể chuyện tiếu lâm về Furseva [7]  chứ chưa nói đến Khrushchev là đã bị tù “đúng luật” rồi vì cho mãi đến thời gian gần đây lãnh tụ vẫn được coi là hiện thân của chế độ; chế giễu họ tức là “phá hoại và làm suy yếu chính quyền Xô viết”. Nói rằng trong thành phố của bạn không có bánh mì và sữa, không có gì cho trẻ con ăn đều là những điều vu khống cả..v.v… Như vậy là điều 70 rộng hơn, giới hạn mù mờ hơn điều 5810 trước đây.
Điều đầu tiên trong những điều nói về tội phạm quốc gia là điều về tội “phản bội Tổ quốc” (viết hoa) vẫn giữ nguyên hình thức nhưng các định nghĩa thì mù mờ hơn vì vậy mà phạm vi áp dụng cũng rộng hơn rất nhiều. Ngoài ra còn thêm những khoản mới, thí dụ, “giúp đỡ chính phủ nước ngoài trong các hoạt động chống lại Liên Xô”. Ở đây việc thông báo cho phóng viên nước ngoài bất kì sự kiện gì đã đủ để cấu thành tội phạm nếu nhà nước cho rằng điều đó đã giúp cho chính phủ nước ngoài thực hiện các hành động thù địch. Trong khi đó hướng dẫn thi hành điều luật này còn nói sự trừng phạt “không phụ thuộc vào việc hành động đó có làm hay không làm thiệt hại cho nền độc lập, sự bất khả xâm phạm về lãnh thổ hay sức mạnh quân sự của Liên Xô”.
Xin kể lại vụ án Anatoly Sharansky, người bị tù nhiều năm theo điều luật này (có cả mức án tử hình). Sharansky bị kết tội làm gián điệp. Báo chí Liên Xô, dựa vào các “cơ quan có thẩm quyền” (nhân tiện xin nói thêm rằng ở nước ta các cơ quan có thẩm quyền chủ yếu là KGB, cũng như các cơ quan của Bộ nội vụ, khi viết như thế người ta không ngờ rằng đã coi các cơ quan khác là không có thẩm quyền), đã mô tả những lần tiếp xúc của Sharansky với CIA theo đúng tinh thần của tiểu thuyết tình báo. Nhưng chưa ở đâu và chưa bao giờ người ta nhắc đến tính chất “các bí mật quốc gia” mà ông ta chuyển giao cả. Các bí mật mà một người “ăn bám”, một người không làm việc ở đâu, một người bị KGB theo dõi liên tục có thể chuyển giao cho cơ quan tình báo nước ngoài là gì? Đấy mãi mãi là điều bí mật đối với nhân dân Liên Xô. Theo tôi hiểu thì ông ta đã đưa thông tin về những người Do Thái chán ghét chế độ. Đấy là tất cả bí mật mà vì nó ông ta suýt mất mạng! Nhưng ông ta chỉ bị tù mấy năm mà thôi.
Từ quan điểm phương pháp biên soạn phần Tội phạm đặc biệt, phần có nhiệm vụ bảo vệ chế độ khủng bố trong bộ luật hình sự theo xu hướng “tự do”, thì điều 206 nói về tội càn quấy: “hành động có chủ đích, vi phạm một cách nghiêm trọng trật tự xã hội và thể hiện một cách rõ ràng sự thiếu tôn trọng xã hội” là đặc biệt đáng chú ý. Điều luật này có thể thay thế cho toàn bộ phần Tội phạm đặc biệt! Điều luật này cũng rất hay được đem ra sử dụng [8] .
Một người phụ nữ chán ghét chế độ đã treo trên cửa sổ nhà mình ở phốGorky biểu ngữ: “Cho chúng tôi đi Israel!”. Người ta đã truy tố bà về tội càn quấy! Chả lẽ không phù hợp hay sao? 

Ban đầu những người lái trộm xe ô tô, nhưng nếu không xác định được rằng họ có ý định trộm cắp (thí dụ chỉ muốn lái chơi), thì không phải chịu trách nhiệm hình sự vì trong luật không có khoản đó. Khi việc lái xe như thế xảy ra thường xuyên thì người ta áp dụng điều 206. Sau này người ta bổ sung thêm điều 212 – lái ô tô đi không phải vì mục đích trộm cắp. Như vậy, nếu coi đây là loại tội phạm đặc biệt thì ta phải đánh giá việc buộc tội những người lái trộm trước kia theo điều 206 như thế nào?
Những thí dụ vừa nêu chứng tỏ rằng việc hủy bỏ điều 16 (tương tự) của bộ luật cũ không hề cản trở, khi cần, chính quyền sử dụng một cách cực kì rộng rãi các điều khoản cấu thành tội phạm của bộ luật để coi bất kì hành động nào cũng là phạm pháp hình sự cả.
Điều 1911 “Chống nhân viên công an và đội viên dân phòng” cũng rất hay được sử dụng trong việc đàn áp. Hướng dẫn điều luật này nói rằng người ta phải chịu trách nhiệm hình sự nếu có hành động chống đối khi công an hay dân phòng không áp dụng biện pháp cưỡng chế! Nói cách khác, nếu bạn được chọn làm nạn nhân và cần phải “bỏ tù” bạn thì người ta sẽ cho hai đứa trẻ mặt còn búng ra sữa, mặc thường phục chặn bạn ngay giữa phố và đưa ra thẻ dân phòng (dân phòng là một tổ chức xã hội, nhưng các nhân viên KGB cũng thường đóng vai dân phòng, có thẻ hẳn hoi), rồi đề nghị bạn “đi” với họ vào đồn công an… Bạn từ chối, bạn khăng khăng không chịu… Thế là đủ để “gán” cho bạn một năm giam cứu rồi! Xin nhớ rằng hoàn toàn theo đúng luật [9] !
Mặt khác, lại có những điều khoản cho phép không chỉ tòa án mà cả cơ quan điều tra – kiểm sát tuyên bố cho bất kì cá nhân nào đó được miễn trách nhiệm hình sự nếu “do sự thay đổi của hoàn cảnh”… “hành vi đã không còn nguy hiểm cho xã hội hoặc cá nhân đó không còn nguy hiểm cho xã hội nữa (điều 50 bộ luật hình sự). Thế là sao? Không nhà bình luận nào có thể giải thích cho lọt tai được.

Sự độc đoán của chính quyền được lập trình ngay trong luật từ cả hai đầu: có thể bỏ tù bất cứ người nào mà họ không thích và có thể tha bất cứ tên tội phạm nào nếu họ thích. Thí dụ, trên cơ sở như thế một bí thư tỉnh ủy đánh chết người có thể được miễn trách nhiệm hình sự hay được miễn chấp hành hình phạt “nếu người đó được công nhận là có tư cách gương mẫu và thái độ trung thực đối với lao động … không thể được coi là nguy hiểm đối với xã hội” hoặc nếu “có thể cải tạo được người đó mà không cần áp dụng biện pháp hình sự” (điều 50 bộ luật hình sự).
Ngày 11 tháng 1 năm 1990, khi cuộc “bầu cử dân chủ” đang hồi sôi nổi nhất, A. Katashev, một nhà khoa học, thành viên của Mặt trận nhân dân Leningrad, đăng kí ứng cử đại biểu Xô viết thành phố, đứng diễn thuyết tranh cử gần ga tầu điện ngầm. Một đội cảnh sát đã bắt giữ ông ta và đưa vào đồn cảnh sát bên cạnh ga. Tại đây họ đã dùng vũ lực để khám xét ông, trói giật cánh khuỷu ông và đưa về đơn vị cảnh sát số 35, nơi thiếu tá Kaleinik lập biên bản về việc ông đã chống người thi hành công vụ. Toàn bộ vụ việc “do một người mặc thường phục” chỉ huy (tạp chí Ngọn lửa nhỏ, 1990, số 6)
Luật hình sự cũng như luật lao động đều có rất nhiều điều khoản mà tôi gọi là mang tính “trang trí”. Các điều khoản này, ngay từ khi ban hành, đã chỉ có mục đích “làm đẹp” cho bộ luật, để chứng tỏ “sự tiến bộ” của nó, để phục vụ mục đích tuyên truyền mà thôi.
Lấy thí dụ điều 71 bộ luật hình sự: “Tuyên truyền chiến tranh”. Điều luật này chưa được áp dụng lần nào trong suốt 30 năm. Cho đến tận thời gian gần đây tại Liên Xô việc tuyên truyền chiến tranh được thực hiện dưới hình thức phim ảnh, tiểu thuyết, kịch bản và các loại hình khác, ca ngợi cuộc nội chiến, chiến tranh 1941-1945, chiến tranh ở Afghanistan v.v… Tất cả các cơ quan của chính phủ, các tổ chức Đảng và đoàn đều tích cực làm công việc “giáo dục lòng yêu nước và huấn luyện quân sự” cho thanh niên, tổ chức các trò chơi quân sự và đi hành quân..v.v..
Theo điều 74 bộ luật hình sự thì không chỉ việc tuyên truyền và cổ động kích động lòng thù hận sắc tộc và màu da mà “việc ngăn cản một cách trực tiếp hoặc gián tiếp quyền hoặc ưu tiên một cách trực tiếp hoặc gián tiếp các công dân dựa vào sắc tộc hoặc màu da của họ” đều bị trừng phạt. Nhưng mọi người đều biết rằng người Do Thái bị cấm làm trong hàng loạt cơ quan của nhà nước, cấm vào một số trường đại học, bị đuổi việc theo “điều 5”, mặc dù các nhà luật học và các cán bộ tuyên truyền luôn luôn phủ nhận chuyện này. Những bài phát biểu bài Do Thái của các tổ chức như Trí nhớ, các bài viết trên các tạp chí: Người đương thờiĐội cận vệ thanh niênNước Nga văn học… đều không gặp bất kì phản ứng chính thức nào. Năm 1989, Trí nhớ tổ chức một cuộc mít tinh tại Hồng trường. Ở đó không ai có thể trương ra hay giữ được bất kì khẩu hiệu nào hay phát biểu được gì, nhân viên KGB sẽ bắt ngay [10] . Không ai động chạm tới Trí nhớ, một bằng chứng không thể chối cãi rằng tinh thần bài Do Thái được Đảng và KGB ủng hộ. Chỉ sau những cố gắng không mệt mỏi của các nhà văn lớn, tên cầm đầu băng đảng du côn bài Do Thái (chỉ có tên cầm đầu thôi) mới bị đưa ra tòa. Đây là trường hợp đầu tiên và duy nhất. Cần phải nói rằng tuy Stalin tiến hành chính sách chống lại người Do Thái, nhưng ông ta lại công khai phản đối chủ nghĩa bài Do Thái. Dù rất nhiều người đề nghị nhưng Gorbachev đã không bao giờ tuyên bố công khai như thế!

Cả một chương của bộ luật hình sự gọi là “Tội chống lại quyền lao động và hoạt động chính trị của các công dân” chỉ mang tính chất trang trí. Chưa có ai bị trừng trị theo điều 143 bộ luật hình sự, điều khoản nói về tội cản trở việc thực hiện các nghi thức tôn giáo mặc dù việc đóng cửa các nhà thờ, đàn áp những người theo đạo vẫn diễn ra thường xuyên. Chưa có vụ xâm phạm bí mật thư tín nào bị trừng phạt (điều 135), mặc dù ai cũng biết thư từ gửi từ Liên Xô và đến Liên Xô bị giữ lại cả tháng trời ở đâu và vì sao; không ai bị trừng phạt vì tội đàn áp phê bình (điều 139được đưa vào hồi đầu “cải tổ” cho “đẹp”) dù các vụ đàn áp những người phê bình được báo chí nói đến hàng ngày; cũng chưa có ai bị trừng trị vì cản trở quyền bình đẳng của phụ nữ (điều 134) và các điều khác nữa.

Làm sao có thể đưa một người ra tòa vì không chịu nhận phụ nữ có thai vào làm việc (điều 139). Đào đâu ra một tay thủ trưởng ngu đến nỗi nói thẳng với người đàn bà: “Tôi không nhận phụ nữ đang mang thai!”. Anh ta không nhận là vì cần phải là Đảng viên, cần biết ngoại ngữ hoặc là vì đủ thứ lí do mà anh ta có thể bịa ra… Nhân tiện nói thêm rằng không bao giờ có ai từ chối nhận người Do Thái vào làm vì lí do sắc tộc, luôn luôn có những lí do khác.

Điều 176 nói về trách nhiệm hình sự nếu cố tình đưa người biết rõ là vô tội vào vòng lao lí! Nhưng ở nước ta người biết rõ là vô tội không bao giờ bị đưa vào vòng lao lí. Bao giờ cũng phải có cơ sở cả! Làm sao không lửa mà lại có khói được? Điều 177: “Tuyên án biết rõ là trái luật”, điều 178: “Giữ người khi biết rõ là trái luật”… cũng thuộc loại như thế cả.
Thí dụ, làm sao lại có chuyện giữ người khi biết rõ là trái pháp luật nếu bất kì nhân viên nào của “tổ chức” cũng có quyền kiểm tra giấy tờ của mọi công dân? Tài liệu hướng dẫn cho phép “khi có dấu hiệu nghi ngờ”, và tiếp theo, nếu không có giấy tờ (chúng ta không bị buộc lúc nào cũng đem theo giấy tờ) thì bắt giữ và đưa về đồn để “kiểm tra nhân thân”, còn nếu có đủ giấy tờ thì để “kiểm tra giấy tờ”. Nếu bạn từ chối về đồn thì họ sẽ áp dụng điều 1911 bộ luật hình sự [11] , điều này thì lúc nào cũng dùng được cả.

Khi một luật sư nước ngoài nghiên cứu các văn bản luật pháp Liên Xô thì liệu người đó có thể đồng ý với các tác giả những cuốn sách giáo khoa về luật hình sự khi họ khẳng định: “Các điều khoản của phần Tội phạm chung và Tội phạm đặc biệt thể hiện nguyên tắc của chủ nghĩa nhân đạo xã hội chủ nghĩa như là toàn bộ các cơ sở đặc trưng của luật hình sự, thể hiện tính nhân đạo, lòng vị tha và sự quan tâm đối với cá nhân con người, đồng thời trừng trị một cách thích đáng những kẻ cố tình xâm phạm quyền lợi của xã hội, cũng như các cá nhân có những hành vi chống lại quyền lợi của tập thể”, được không [12] ?

Nhưng nói một cách nghiêm túc thì hình luật của Liên Xô đã phát triển từ sự độc đoán và vô luật pháp [13] (đến tận năm 1922 nhu cầu về một bộ luật hình sự vẫn bị chính thức bác bỏ) đến một bộ luật không ngăn cản nhà nước hành động một cách tùy tiện, hành động một cách tùy tiện trên cơ sở của pháp luật.

Hình phạt

Trong giai đoạn đầu, cũng là đặc trưng của chính sách mị dân của nền pháp luật Liên Xô, cơ quan lập pháp không sử dụng từ “trừng phạt” mà thay vào đó bằng “các biện pháp bảo vệ xã hội”. Án tử hình cũng không còn. Biện pháp trừng phạt nặng nhất là: “Tuyên bố là kẻ thù của nhân dân và tước quyền công dân của nước cộng hòa, cũng có nghĩa là tước quyền công dân Liên Xô, trục xuất ra khỏi lãnh thổ quốc gia” (khoản а. điều 20 bộ Luật hình sự Cộng hòa xã hội chủ nghĩa liên bang Nga, năm 1926). Nhưng án tử hình lại được qui định trong một điều khoản đặc biệt “Nhằm bảo vệ nhà nước của nhân dân lao động” (điều 21 bộ Luật hình sự, năm 1926). Năm 1942 người ta còn đưa thêm vào luật hình thức treo cổ. Các luật sư Liên Xô luôn luôn khẳng định rằng tử hình là hình phạt: a/ đặc biệt, b/ tạm thời, c/ để đấu tranh với những tội ác cực kì nghiêm trọng. (Xin nhắc lại: được áp dụng cho cả những người nông dân đói khát mót lúa sau vụ thu hoạch [14] ).

Trong suốt lịch sử tư pháp Liên Xô đã có bốn lần người ta hủy bỏ án tử hình vì lí do nhân đạo và cũng có từng ấy lần người ta phục hồi nó nhằm bảo vệ kỉ cương. Lần bãi bỏ thứ nhất, ngay sau cách mạng, đã hoàn toàn không được tuân thủ vì Ủy ban khẩn cấp và các cơ quan tương tự đã bắn giết rất nhiều người mà không cần điều tra hay tòa án gì cả. Ủy ban khẩn cấp thường bắn người vào ban đêm và đưa đi chôn tại những địa điểm bí mật (hiện nay gia đình nạn nhân vẫn chưa nhận được xác). Về mặt hình thức thì án tử hình được Trotsky khôi phục ngoài mặt trận và sau đó thì được áp dụng công khai khắp nơi.

Các giai đoạn bãi bỏ án tử hình thường là ngắn vì trừng phạt dã man chính là đặc trưng cơ bản của pháp luật Liên Xô. Giai đoạn lập pháp “tự do” 1958-1960 rất nhiều tội danh được qui mức xử bắn. 

Bộ luật hiện hành cũng phân chia các biện pháp trừng phạt như bộ Luật những năm 1922 và 1926, nghĩa là đầu tiên người ta liệt kê danh sách, sau đó phân ra thành chủ yếu và đi kèm, rồi đến điều khoản đặc biệt nói về xử bắn, rồi sau nữa mới đến đặc trưng của từng biện pháp trừng phạt cụ thể.

Trong bộ Luật 1960, thuật ngữ “biện pháp bảo vệ xã hội” được thay bằng “trừng phạt vì phạm tội”, nhưng lại viết thêm rằng “trừng phạt” là để “giáo dục và cải tạo phạm nhân”.
Nhưng biện pháp trừng phạt chủ yếu vẫn là các hình thức lao động bắt buộc kèm theo tước đoạt tự do hoặc hạn chế tự do. Chủ nghĩa Marx là cơ sở lí luận của quan điểm ấy. Dựa trên luận điểm của Engels rằng lao động đã biến khỉ thành người, những người cộng sản cho đến nay vẫn cho rằng lao động, mà phải là lao động cưỡng bức, sẽ biến một tên tội phạm thành người.

Các nguyên tắc trừng phạt như trên vẫn được giữ nguyên trong dự thảo Cơ sở của Luật hình sự. 

Hệ thống nhà tù

Hai trăm năm trước, những người khởi nghĩa ở Paris đã phá ngục Bastille như là biểu tượng của chế độ đàn áp và chuyên chế phong kiến.

Những người xây dựng “thế giới mới” ở nước Nga không vội vã phá bỏ nhà tù nhưng cũng không xây dựng những nhà tù mới vì điều đó sẽ mâu thuẫn với bức tranh tuyệt đẹp về “thiên đường của tự do”. Việc mở rộng hệ thống nhà tù được thực hiện bằng cách sử dụng lại những nhà thờ đã bị đóng cửa. Nổi tiếng nhất là nhà thờ Silovky, tại trung tâm Moskva cũng có những nhà thờ như thế (thí dụ tu viện Andronikov nơi có ông cố đạo là Andrey Rublev). Song việc đánh tráo ngôn ngữ đã tạo ra một loạt từ mới, đấy là “nhà giam”, “trại cải tạo” và những cơ quan “dân chủ khác” thay cho “nhà tù”. Ngay hiện nay nhà tù Butưrskaia (nơi trước cách mạng mẹ tôi từng “ngồi” và sau này con tôi từng tới với danh nghĩa là luật sư) vẫn còn mang tên là ‘phòng thẩm vấn”. 

Những “người xây dựng tương lai tươi sáng” hiểu ngay rằng nhà tù là một trò vô cùng tốn kém, trại lao động hay như trước đây gọi là trại khổ sai vừa rẻ hơn vừa thực tế hơn nhiều [15] . Đấy là lúc người ta phá bỏ nhà tù vì không còn cần thiết nữa. Tôi không biết người ta đã phá tất cả bao nhiêu, số lượng nhà tù ở nước ta chưa bao giờ được công bố cả.
Hãy nghe Rafik Nishanov, chiến hữu của nhà “dân chủ” Gorbachev, người rất được lòng phương Tây, tuyên bố: “Trong các trại cải tạo luôn có những điều kiện tốt nhất để đảm bảo bên cạnh việc trừng phạt là việc cải tạo hóa phạm nhân” (Biên bản kì họp thứ VII Xô viết Tối cao Liên Xô, M., 1969, trang 126). Kẻ bênh vực cho hệ thống nhà giam này lại chính là người đứng đầu một trong hai viện của Xô viết Tối cao Liên Xô.

Mặt khác, không thể nào mở mồm ra nói đến việc xây dựng nhà tù trong chế độ xã hội chủ nghĩa được! Trên thực tế, liệu có thể vừa xây dựng chủ nghĩa cộng sản vừa xây dựng nhà tù cho những người xây dựng chế độ đó được không? Vì vậy hiện nay, khi chủ nghĩa xã hội (tôi cũng không biết gọi là gì, hiện thực hay dân chủ đây, với bộ mặt như thế nào) đang được xây dựng (cải tổ?) thì người ta vẫn còn sử dụng những nhà tù được xây dựng cách đây hai thế kỉ hoặc lâu hơn thế, hoàn toàn không đáp ứng được các yêu cầu về vệ sinh và tiêu chuẩn nhân đạo nói chung [16] .

Điều 56 Luật thi hành án hình sự qui định rằng tiêu chuẩn của một người tù “không ít hơn 2m2, còn trong các trại lao động-cải tạo không ít hơn 2,5m2”. Nhưng nếu những người xây dựng chủ nghĩa xã hội (bây giờ là nhà nước pháp quyền) “ngoài tự do” còn không phải lúc nào cũng được bảo đảm về tiêu chuẩn nhà ở [17] thì thật khó tin rằng tiêu chuẩn đó được bảo đảm đối với nhà tù [18] . Xin dẫn ra ở đây bằng chứng có giá trị nhất, đấy là lời ông V. Gulaiev, lãnh đạo mới của GULAG (đã đổi tên thành Tổng cục cải tạo: một thí dụ điển hình của “cải tổ” – thay tên nhưng bản chất thì vẫn như cũ): “Đa số các phòng giam đều trong tình trạng hư nát. Các phòng 4 người đôi khi phải giam đến 20 người” (Tin tức, ngày 14 tháng 6 năm 1990). Trong bài trả lời phỏng vấn, Gulaiev còn công nhận rằng chưa có thay đổi đáng kể nào trong hệ thống trại giam: “Nói thực, hiện chúng tôi chẳng có gì để tự hào cả. Hệ thống trừng phạt đã hình thành trong hành chục năm. Nó tập trung vào trong mình tất cả các hiện tượng tiêu cực tồn tại ngoài xã hội trong nhiều năm qua. Điều kinh khủng nhất là tâm lí “nhà tù” đã ăn sâu vào nhận thức của mọi người. Đáng tiếc là cái tâm lí này có sức sống rất dai. Tôi luôn luôn lấy làm ngạc nhiên là làm sao các sĩ quan trẻ của lực lượng bảo vệ nội bộ lại tiêm nhiễm cái tâm lí này nhanh đến thế. Chỉ cần công tác vài ba tháng trong các đơn vị cải tạo là họ đã không còn thấy con người trong các phạm nhân nữa, cứ như họ đã được chuẩn bị cho quan điểm ấy từ vô thức vậy”. Rất thẳng thắng và chính xác. Vấn đề đặt ra là, với tâm lí như thế, làm sao người ta có thể giáo dục và cải tạo phạm nhân? Việc một nhà hoạt động trong lĩnh vực nhà tù không hiểu “tâm lí nhà tù” của các sĩ quan thật đáng quan tâm (đa số họ đều là Đảng viên cộng sản; hai loại tâm lí này có gì chung không?). Gulaiev không hiểu một việc đơn giản: giữa nhà tù và “ngoài tự do”, nơi bộ máy quan liêu của Đảng cũng không coi tất cả chúng ta là người, sự khác nhau là không đáng kể. Sự khác nhau chỉ là khoảng cách đến hàng rào kẽm gai mà thôi.

Trại giam là biểu hiện tập trung của “xã hội xã hội chủ nghĩa”, nơi tính phi nhân được đẩy đến “vô giới hạn”.

Xin bắt đầu xem xét nhà tù. Tù được coi là hình thức trừng phạt nghiêm khác hơn trại cải tạo. Nhà tù Vlamimirskaia đã trở thành nổi tiếng thế giới dù nó không phù hợp với quan niệm của chủ nghĩa xã hội phương Tây. Điều 67 luật thi hành luật hình sự qui định: “Những người bị phạt tù là: những tên bị kết án nặng và những tên tái phạm nguy hiểm, những kẻ bị tước quyền tự do dưới hình thức phạt tù cũng như những người bị đưa từ trại lao động cải tạo theo điều 53 của bộ luật này” cũng như những người bị chuyển đến tạm thời.

Trong nhà tù cũng có hai chế độ: chế độ chung và chế độ nghiêm khắc (điều 68 Luật thi hành luật hình sự). Phạm nhân bị giam trong phòng chung hoặc bị giam trong phòng cách li.

Người bị giam theo chế độ chung có thể được mua thực phẩm và các nhu yếu phẩm khác không quá 3 rub một tháng, nghĩa là 10 xu một ngày (tương đương 2 bao diêm); được nhận không quá 2 gói quà trong sáu tháng, một bức thư một tháng; được gặp người thân 2 lần một năm và mỗi ngày được đi dạo 1 giờ (điều 69). Nếu có thái độ tốt thì được tiêu thêm… MỘT RUB!

Chế độ nghiêm khắc: được tiêu 2 rub một tháng, sáu tháng nhận 1 gói quà và 2 tháng 1 bức thư. Đi dạo 30 phút. (điều 70).

Còn đây là chuyện đã từng xảy ra trong nhà tù Sa hoàng, nơi người ta “hành hạ” các nhà cách mạng. Lenin đã mô tả cảnh tù đầy của mình như sau: “Tù nhân được phép đọc và viết: tôi đã hỏi công tố, mặc dù đã biết trước…” (V. Lenin. Toàn tập, tập 55, in lần thứ 5, trang 15. Từ đây chỉ nói số trang). “Tôi ăn rất ít bánh mì, cố gắng theo chế độ ăn kiêng… Tôi có đủ mọi thứ cần thiết, thậm chí còn nhiều hơn mức cần thiết nữa… Tôi nhận được cả nước khoáng: chỉ cần đặt là họ mang từ hiệu thuốc ra, ngay trong ngày. Tôi ngủ chín tiếng một ngày…”.

Độc giả có thể cho rằng đây là chế độ đặc biệt giành cho “Lenin vĩ đại”. Nhưng lúc đó, cuối thế kỉ XIX ông ta chỉ là Ulianov, một trong những người theo phái tự do lắm lời chưa được ai biết tới. Xin nhắc lại rằng anh ông ta đã bị treo cổ vì vụ ám sát Sa hoàng Alekxandr III, nhưng việc này cũng không tạo ra bất kì hậu quả nào cho gia đình Ulianov cả. Một lần nữa sự so sánh lại không có lợi cho “chủ nghĩa xã hội”.

A. M. Kolontai, người đã trải qua nhà tù dưới thời Kerensky, tức là ngay trước cách mạng, có kể lại rằng viên giám ngục đã từng tự hào về sự sách sẽ và điều kiện ăn uống của nhà tù như thế nào, sáng nào ông ta cũng đi khắp các phòng và hỏi xem tù nhân có phàn nàn gì không (A. M. Kolontai. Cuộc đời và công việc của tôi, M., 1974, trang 290). Còn quà! Hai nữ giám thị vào phòng, tay sách nách mang các gói quà: “Như một cửa hàng bán lẻ! Chẳng thiếu thứ gì! Nào bánh mì trắng, nào giò, nào đồ hộp, rồi bơ, trứng, mật ong…” (trang 301). Và đấy là thàng phố Petrograd sau ba năm chiến tranh! Tôi ước được thấy những thứ đó “ngoài tự do” tại Moskva hôm nay!

Xin so sánh với điều 28 bộ Luật thi hành án hình sự: “Phạm nhân chấp hành án tù trong nhà tù không được nhận quà thăm nuôi”.

Nói về việc “cải tạo bằng lao động” trong trại giam xin nhấn mạnh rằng đấy không phải là đặc thù của nước Nga mà đặc trưng của tất cả “các nước xã hội chủ nghĩa”. Báo Sự thật từng viết: “Tại Trung Quốc hiện nay lao động cưỡng bức được gọi là “lao động cải tạo”, còn đi tù thì được gọi là “học tập”. Tờ báo còn kể lại câu chuyện về số phận bi thảm của một người tên là Phê, đầu tiên anh ta bị nhốt trong phòng biệt giam mà không hề có án, sau đó thì bị đưa đi “trại lao động” để “cải tạo” (các từ này đều được cơ quan ngôn luận chủ yếu của Đảng để trong ngoặc kép cả). Ốm đau, Phê không được chữa trị (giống như Anatoly Martrenko – tác giả) và bị đưa vào trại theo chế độ nghiêm khắc. “Phê chết ở đó. Không xét xử, không điều tra gì hết”, tờ Sự thật đã kết thúc một cách cay đắng và đầy thông cảm với người Trung Quốc như thế. Tờ báo cũng gọi chế độ xã hội chủ nghĩa ở Trung Quốc là nến “chuyên chế phong kiến-phát xít”. (Sự thật, ngày 27 tháng 1 năm 1979). Chả lẽ tờ Sự thật lại nói dối? Hay đây đúng là “gậy ông lại đập lưng ông” như người ta vẫn nói?

Như trên đã nói, mỗi trại tù là hình mẫu thu nhỏ của “xã hội xã hội chủ nghĩa”. Mỗi trại là một xí nghiệp, các tù nhân phải thực hiện các kế hoạch không thực tế, những kế hoạch được đưa từ trời xuống, y như những công dân “tự do”, tức là “bằng mọi giá” (kéo dài thời gian làm việc, không có ngày nghỉ, thiếu an toàn ..v.v..). Kế hoạch năm sau bao giờ cũng cao hơn năm trước mà không hề áp dụng tiến bộ kĩ thuật hay máy móc gì cả. “Chủ trại giam” là vua, có quân đội, KGB, bọn chỉ điểm, nhà tù, trại giam, trại trừng giới, phòng biệt giam. Ở đây cũng có cảnh báo cáo láo, ăn cắp, hối lộ và đầu cơ.

Một trưởng trại tên là Shershenov đã nhận tiền và cho một số tù nhân “đi phép”đến hai năm, tìm cách “chạy” cho tha trước thời hạn một số tù nhân khác, số còn lại thì phải làm việc cho hắn ta không khác gì nô lệ. Viên cựu cảnh sát tên là Usmanov thì bị kết án ăn cắp, anh ta đã lấy bột mì của trại làm bánh để bán ra ngoài. Một trong những kẻ được Shershnov “tha” đã bị bắt khi… bắn nhau với cảnh sát (Người đối thoại, số 11, năm 1987).

Bảo vệ còn mang cả trà, rượu, ma túy vào cho tù nhân, các “đại gia” còn có cả gái nữa, mặc dù thường thì trong tù người ta dùng luôn đàn ông (nhân tiện xin nói rằng đồng tính bị coi là tội; người bị kết án cũng bị đưa đi trại! Để làm gì? “Cải tạo lao động”?).

Tù nhân cũng chia thành các giai cấp: “đại gia”, “người làm trong ngành”, giới quí tộc trong trại cũng có “triều đình” với bọn “đầu gấu”, “đại bàng” bảo vệ; sau đó mới đến giai cấp công nhân, bên dưới nữa là tầng lớp vô sản lưu manh, sống ngoài vòng pháp luật, nếu có thể nói đến pháp luật nào đó ở đây.

Cũng có cả học tập chính trị, học văn hóa nói chung, sinh hoạt văn nghệ và các khía cạnh khác của đời sống trong xã hội Xô viết nữa. Tôi đã từng thấy một khẩu hiệu treo trong trại giam như sau: “Tôi hân hoan vì lao động của tôi tan hòa vào lao động của đất nước tôi! Maiakovsky”. Và mị dân, vượt qua mọi giới hạn!

Nói gì thì nói đây cũng chỉ là những xí nghiệp, một thành phần không thể tách rời của nền kinh tế quốc dân “xã hội chủ nghĩa” mà thôi [19] . Gulaiev nói rằng mỗi năm họ làm được 900 triệu tiền lời, trong đó 600 triệu nộp vào ngân sách. “300 triệu còn lại là tiền thưởng và quĩ phát triển Tổng cục cải tạo” (Tin tức, ngày 14 tháng 6 năm 1990). Nếu biết rằng một phần năm các xí nghiệp quốc doanh làm ăn thua lỗ, một số khác cũng thiếu trước hụt sau thì ta sẽ hiểu liệu nhà nước có muốn giảm bớt các xí nghiệp loại này hay không? Liệu nhà nước có muốn giảm bớt tội phạm hay không? 

“Tiền lời nói trên là từ hoạt động sản xuất, liên quan đến sản xuất hàng tiêu dùng. Nhưng còn có một nguồn thu nhập nữa”, Tổng cục trưởng tổng cục trại giam nói, “Đấy là hợp tác sản xuất, nghĩa là khi một xí nghiệp nào đó chuyển năng lực của mình cho tù nhân sử dụng”. Xin phiên dịch cái câu rối rắm này sang tiếng Nga bình thường: đấy là việc buôn bán nô lệ, bán các tù nhân cho các bộ và các xí nghiệp “xã hội chủ nghĩa” lớn để họ làm những việc nặng nề và độc hai mà không một người “tự do” nào chịu làm. Thí dụ như xưởng sản xuất bánh xe ở nhà máy ô tô Gorky, nơi người ta làm các bánh xe của xe Volga và Traika cho các thủ trưởng mà chính mắt tôi đã nhìn thấy.

Trên báo chí gần đây có xuất hiện bản tin rằng các công ty của Áo đã không chấp nhận một số ô tô Liên Xô vì chúng được các tù nhân sản xuất ra. Thật là vui khi nghe tin đó. Mặc dù Liên Xô đã long trọng kí các công ước của Liên đoàn lao động thế giới và Liên đoàn có trách nhiệm theo dõi việc thực hiện nhưng lao động của tù nhân vẫn được sử dụng rộng rãi trong ngành lâm nghiệp, ngành xây dựng đường ống dẫn dầu khí, trong các xí nghiệp sản xuất ô tô cũng như vòng bi. Xe Liên Xô giá rẻ và bán được ở phương Tây là vì thế, mặc dù chất lượng không cao. Những phi vụ làm ăn có lợi đã gạt đạo đức của những người theo phái tự do ở phương Tây và các công ước sang một bên như thế đấy.

Theo các số liệu chính thức (chắc chắn là đã được giảm đi) thì trong năm 1988 (cải tổ đã 3 năm) tại các trại giam xảy ra 130 vụ giết người và 239 vụ gây thương tích nặng một cách cố ý (Nước Nga Xô viết ngày 10 tháng 3 năm 1989). Nhiều người chết hoặc trở thành tàn phế vì phải làm việc trong những điều kiện phi nhân, không có phương tiện an toàn lao động và cách đối xử bất nhân với những tù nhân đau ốm. Nhưng bao nhiêu thì không thấy nói. Đấy là tài liệu mật. Theo một số nguồn tin thì trong tù tỉ lệ tai nạn, ốm đau, chết cao gấp 20 lần “bên ngoài”. Như vậy là ông Tổng cục trưởng tổng cục trại giam đã sai khi bảo rằng các xí nghiệp của ông ta “không khác gì” các xí nghiệp quốc doanh khác.

Cuốn truyện dài Ngọn gió tự do của Gabyshev đã gây được chú ý trong thời gian gần đây (Tin tức Moskva, năm 1989, số 1 và 2). Tác phẩm này tạo cho người đọc cảm giác kinh hoàng vì trước hết nó nói về thời đại của chúng ta chứ không phải thời Stalin, thứ hai, nó kể về trại tù dành cho trẻ vị thành niên, giành cho trẻ con. Sự độc ác và phi nhân của “các nhà giáo dục” của Bộ nội vụ và “giới quí tộc” trong nhà tù còn vượt xa trí tưởng tượng của Dante về địa ngục. Các nhà dân chủ phương Tây có đến thăm một số trại giam trẻ vị thành niên và họ đã tỏ ra hài lòng về điều kiện sống và làm việc ở đấy. Nhưng, thứ nhất, họ không thể hiểu được điều kiện thực tế ở đó vì họ không muốn hiểu, thứ hai, có thể công việc được đưa ra công khai đó quả thật là không nặng, nhưng họ cũng không hiểu rằng định mức thường xuyên tăng “theo đúng qui luật mở rộng sản xuất xã hội chủ nghĩa” mà không dựa trên bất kì cơ sở nào, không có bất cứ sự cải thiện về điều kiện lao động, cải tiến kĩ thuật hay cớ khí hóa nào; đấy là định mức mà không thực hiện được thì sẽ bị các “nhà giáo dục” trừng phạt (kể cả bỏ đói, giảm khẩu phần ăn vốn chỉ đủ giữ cho khỏi chết đói; và bị “đầu gấu” đánh đập; đấy là định mức mà một phần còn bị “bọn quí tộc” tước đoạt nữa… Ngay trong giai đoạn vẫn được gọi là cải tổ hiện nay vẫn có rất nhiều cuộc nổi loạn trong các trại giam (kể cả trại dành cho trẻ vị thành niên) vì hoàn cảnh sống ở đó khốn nạn đến nỗi chết còn sướng hơn.

Năm 1967 người ta còn phát minh ra một loại hình trại giam mới gọi là Trại lao động phòng và chữa bệnh, đây chính là biện pháp thực hiện, theo kiểu Liên Xô, tư tưởng Mác-Lenin về việc chữa tất cả các bệnh tật của xã hội bằng lao động. Về hình thức thì đây là các cơ sở chữa bệnh, nhưng chúng lại nắm dưới quyền quản lí của Tổng cục nhà tù. Những người được đưa đến đây là theo quyết định (không phải bản án) của tòa án khi có kết luận của bệnh viện (tôi đã mô tả cách những kẻ hèn nhát này viết kết luận như thế nào rồi), thời hạn từ một (!) đến hai năm. Những người quản lí, người giáo dục cũng như chữa bệnh đều là nhân viên Tổng cục trại giam, nhưng gần đây, về mặt hình thức, lại nằm dưới sự quản lí của Bộ y tế.

Trại lao động phòng và chữa bệnh cũng nằm sau hàng rào dây kẽm gai, có chó nghiệp vụ và lính canh, cũng phải làm công việc khổ sai và tuân thủ các chế độ và điều kiện sinh hoạt không khác gì nhà tù. “Bệnh nhân”, cũng như tù nhân, không có quyền giữ ngay cả một chiếc áo len. Trong trại lao động chữa bệnh có rất nhiều phạm nhân, chính chúng là những người quyết định “các quan hệ xã hội” ở đây. Điều kiện sống và làm việc phi nhân đã đẩy những con người bất hạnh này trở thành điên dại và sẵn sàng nổi dậy bất cứ lúc nào. Xin nói thêm rằng rượu cũng được đưa vào đây y hệt như những trại khác. Thời hạn “chữa bệnh” chỉ mang tính hình thức vì ban quản lí trại có thể “tăng” vì bất cứ lí do gì. Nhất là đối với những người không uống và tích cực làm việc. Vì trại lao động cũng là một loại xí nghiệp, ban lãnh đạo của nó cần các nhân viên biết làm việc. Khi gần hết hạn, những người như thế thường bị đưa vào tròng và bị bắt lúc đang ăn nhậu để lấy cớ tăng thêm thời hạn “chữa bệnh”.

Hiện nay, nhờ “công khai” mà xã hội đã hiểu phần nào nhân cách của các “chuyên viên trị bệnh” của Tổng cục trại giam, nhiều người đã bày tỏ thái độ phẫn nộ, nhưng trên thực tế chì chưa có gì thay đổi cả. Gulaiev, trong bài phỏng vấn đã nói đến bên trên, có nói đến mong muốn của Bộ nội vụ là đưa các cơ sở chữa bệnh về Bộ y tế, nhưng Bộ y tế cực lực phản đối. Gualiev đã nói rất đúng rằng: “Các cơ sở chữa bệnh (đối với những người chưa phạm tội) nằm trong Bộ nội vụ là không phù hợp”.

Xin lưu ý đến lô gich pháp luật của những kẻ ăn thịt người “xã hội chủ nghĩa”: người được đưa vào trại được coi là bệnh nhân nhưng nếu trốn thì họ sẽ bị xử theo điều 186 bộ luật hình sự! Lúc đó người không chịu chữa bệnh theo kết luận của Bộ nội vụ sẽ bị kết tội lao động khổ sai đến một năm (câu văn là như thế, nhưng trên thực tế không bao giờ có bản án dưới một năm vì các quan tòa cho rằng người nghiện ít nhất phải chữa một năm). Năm 1988 số người bị kết án trốn trại kiểu này là 4.000, năm 1989 là 5.000 (Tin tức, ngày 11 tháng 12 năm 1989). Nhưng điều 186 lại có một chỗ khó hiểu: người ta phải chịu trách nhiệm hình sự nếu trốn khỏi trại hoặc trên đường đưa tới trại. Nhưng nhiều người lại bỏ trốn từ những xí nghiệp mà họ được đưa tới làm việc, theo tinh thần lời văn thì điều luật này không được áp dụng cho những người đó. Bộ y tế và Bộ nội vụ liền đưa ra hướng dẫn, giải thích luật một cách tùy tiện, đề nghị các tòa án phạt tất cả các vụ trốn trại theo điều 186. Như vậy có nghĩa là hướng dẫn của Bộ y tế và Bộ nội vụ đã qui định trách nhiệm hình sự cho một hành động mà luật pháp không coi là có tội. Và tất cả các tòa án “chỉ tuân theo luật pháp” đã tuân theo hướng dẫn này cho đến khi có kháng nghị của Viện kiểm sát Liên Xô.

Bệnh nhân phải làm việc ở những nơi mà người khỏe mạnh không chịu làm. Tất cả các vòng bi ở nhà máy tại tỉnh Krasnodar đều do các “bệnh nhân” của trại lao động phòng và chữa bệnh chế tạo. Khi các “bệnh nhân” trại lao động ở Saratov làm loạn và bãi công thì nhà máy vòng bi cũng ngừng làm việc, “điều đó đã phá vỡ kế hoạch sản xuất máy kéo, đồng chí Silaiev, phó chủ tịch Hội đồng bộ trưởng” buộc phải can thiệp” (Tin tức, ngày 11 tháng 12 năm 1989). Không thấy nói đồng chí Silaiev can thiệp như thế nào, hiện Sialaiev là Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Cộng hòa xã hội chủ nghĩa liên bang Nga, dưới quyền “nhà dân chủ” B. Yeltsin, nhưng tôi biết rằng phương pháp “chữa bệnh” thì chưa có gì thay đổi cả.
Trong khi các bộ trưởng-Đảng viên cộng sản thì vẫn luôn đòi phải xây thêm trại giam và trại lao động chữa bệnh tại những khu vực có nhà máy của các bộ dưới quyền họ. 

Người ta vẫn còn lờ đi, cố tình không nói tới vai trò của những người tù khổ sai trên các “công trường xây dựng chủ nghĩa cộng sản vĩ đại”, nơi các “đoàn viên tình nguyện” được đưa ra làm thí dụ điển hình. Chính các tù khổ sai đã xây dựng nên thành phố Komsomolsk-trên-sông-Amur, chính họ đã xây dựng tuyến đường Baikal-Amur và nhiều công trình khác. Nhân tiện xin nói thêm rằng công trình Baikal-Amur được khởi công từ đầu những năm 1930 nhưng sau đó thì ngưng và chỉ được tái xây dựng khi quan hệ với Trung Quốc xấu đi. Một phần công việc ở đó là do những người lính, những người ở vị trí cũng chẳng khác gì nô lệ, thực hiện.  

[1]Phần lớn các nghị định của Hội đồng dân ủy Cộng hòa xã hội chủ nghĩa liên bang Nga (trên thực tế là cơ quan quyền lực cao nhất) đều do Lenin kí hoặc Lenin soạn. Khi còn là sinh viên tôi đã lấy làm ngạc nhiên vì không tìm thấy kiến thức pháp lí trong những văn bản này. Thực ra là Lenin đã bị đuổi học, ông ta trả thi theo lối học từ xa.
Gorbachev là Tổng bí thư thứ hai có bằng luật học, nhưng người ta cũng không tìm được kiến thức luật học trong các nghị định mà ông ta kí; cũng như không thấy kiến thức của một chuyên gia kinh tế nông nghiệp trong “Cương lĩnh về lương thực” do ông ta soạn thảo, sau này ông ta cũng không nhớ đến cương lĩnh đó mặc dù đã đến lúc kiểm tra kết quả của nó, trong khi nền nông nghiệp đã phá sản hoàn toàn. Nhưng Gorbachev học luật trong “giai đoạn khủng khiếp của Trường đại học tổng hợp Moskva. Đấy là giai đoạn kết thúc cuộc đấu tranh chống lại những người theo đường lối quốc tế (Kosmoplitism). Không chỉ người gốc Do Thái bị đuổi. Người ta đuổi tất cả các nhà khoa học chân chính và những người có nhân cách… Khoa luật chỉ còn độc một lũ đê tiện, những kẻ đã tiến hành cuộc đấu tranh chống những người theo đường lối quốc tế. Nhưng vấn đề là họ không chỉ đê tiện. Họ còn là những người ngu (Ngọn lửa nhỏ, năm 1991, số 5, trang 19).
[2]Tập hợp các điều luật của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa liên bang Nga, năm 1917, số 2, trang 21. 
[3]Tập hợp các điều luật của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa liên bang Nga, năm 1917, số 3, trang 41. 
[4]Tập hợp các điều luật của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa liên bang Nga, năm 1919, số 66, trang 500.
[5]Tiếu lâm thời đó:

 “Tù vì lí do gì?”

 “Vì lười!”

 “Lười là sao?”

 “Thì ba thằng ngồi uống… Thằng Vaska kể chuyện tiếu lâm… Cần phải chạy ngay, nhưng lười, cứ nghĩ mai chạy cũng được… Thằng Petka khôn hơn, nó bỏ chạy lúc nửa đêm…”
[6]Đây là câu nói của Stalin, thêm chữ U vào cạnh Stalin nghĩa là Stalin được sống tốt hơn, Stalin được sống vui hơn –ND
[7]1910-1974, từng là bí thư trung ương Đảng, ủy viên Bộ chính trị, 14 năm liền là bộ trưởng Bộ văn hóa Liên Xô – ND
[8]Hướng dẫn luật hình sự Cộng hòa xã hội chủ nghĩa liên bang Nga, М , 1971, trang155 
[9]Một người phụ nữ nhỏ nhắn và chồng bà ta bị kết đúng tội này. Người chồng viết đơn và đến gặp kiểm sát viên, kiểm sát viên liền bắt ông ta và nhốt vào phòng tạm giam! Hoàn toàn đúng luật! Kiểm sát viên bảo: “Để khỏi cản trở quá trình điều tra” (Tin tức, ngày 24 tháng 10 năm 1986). Đúng là điều 89 luật hình sự cho phép bắt giam nếu “có cơ sở cho rằng (?) phạm nhân cản trở quá trình điều tra vụ án”.  
Thí dụ việc áp dụng điều1903 bộ luật hình sự “Tố chức hoặc tham gia vào những hành động phá hoại trật tự xã hội có đông người tham gia”, đối với người biểu tình thì áp dụng điều 206. Việc áp dụng điều 1903 làm người ta có cảm tưởng như việc đấu tranh với những người biểu tình được thực hiện theo đúng pháp luật. Lời văn của điều luật này tuy rất mù mờ, nhưng để qui trách nhiệm theo điều luật này vẫn đòi hỏi có sự phá hoại trật tự, “làm rối loạn giao thông công cộng, cản trở công việc của các cơ quan hay xí nghiệp nhà nước”. Để không gây trở ngại cho bất kì ai, những người biểu tình đã lợi dụng quảng trường rộng lớn trước thư viện mang tên Lenin, ở đây không có phương tiện giao thông nào cả. Nhưng người biểu tình vẫn bị giải tán và bị qui trách nhiệm vì lúc nào cũng có thể nói rằng họ cản trở người ra vào thư viện và tầu điện ngầm.

   
[10]Người ta nói rằng Tổng thống Reagan kể cho Gorbachev câu chuyện tiếu lâm Liên Xô như sau: 
“Tôi có thể đi đến Nhà Trắng và hô: Đả đảo Reagan!”, một người Mĩ nói.

“Tôi cũng có thể đến quảng trường Đỏ và hô: Đảo đảo Reagan!”, anh người Nga đáp.

Trên thực tế người không có lệnh đặc biệt mà hô: “Đả đảo Reagan” trên quảng trường Đỏ có thể bị 15 ngày tù vì tội càn quấy. Một thí dụ: Sinh viên trường đại học tổng hợp Moskva muốn thử kiểm tra xem có thể ngồi trên ghế ở quảng truờng Đỏ được không. Anh ta mang theo ghế ra quảng trường, nhưng vừa ngồi xuống thì đã bị đưa vào đồn công an (Moskva buổi chiều, ngày 25 tháng 2 năm 1991).

[11]chống công an và dân phòng –ND

[12]Luật hình sự. Phần đặc biệt. Nhà xuất bản pháp lí, М., 1968, trang 5

[13]Dân ủy tư pháp, D. Kursky, trong bản tổng kết giai đoạn từ tháng 4 đến tháng 6 năm 1918 đã phê phán một số tòa án vì họ đã áp dụng các hình phạt thời trước cách mạng “đo đạc một cách chính xác như trong hiệu thuốc hình phạt cho hành động này hay hành động kia… Trong khi đó tinh thần cách mạng và nhận thức pháp lí cách mạng, mà các tòa án phải tuân theo trong khi xét xử, cho ta một cách hành xử: tòa án có quyền tự do lựa chọn hình thức trừng phạt, tùy thuộc vào hoàn cảnh”. D. Kursky.Các bài phát biểu và bài báo chọn lọc. М., 1948, trang 30 
[14]Bộ luật hình sự Cộng hòa xã hội chủ nghĩa liên bang Nga. Bình luận. М., 1945, trang 29. Các tác giả không thể không biết rằng họ nói dối đến 3 lần.  

[15]Trại cải tạo xuất hiện ngay sau cách mạng, là chỗ cách li “kẻ thù của nhân dân” vì nhà thù không đủ chỗ chứa. Hình thức trại lao động khổ sai sau này mới được phát minh và lần đầu tiên trong lịch sử văn học Nga một hệ thống như thế được các văn sĩ, dưới sự lãnh đạo của “nhà văn vô sản vĩ đại” Maxim Gorky, ca ngợi. Các nhà khoa học cũng không đứng ngoài đội đồng ca về tính ưu việt của hệ thống nhà tù “xã hội chủ nghĩa. Xem thí dụ, L. Krakhmaltrik. Điều kiện hóa pháp luật về lao động cải tạo. М., 1978, trang 66.

[16]“Thống kê “màu hồng” của các năm trước nói rằng tội phạm ngày càng giảm đã tạo ra quan niệm rằng việc xây các nhà tù đáp ứng được các yêu cầu hiện đại của nhận thức pháp lí, điều kiện sống và điều kiện kĩ thuật hiện là là thừa, không những thế nó còn là việc không hay nếu xét theo quan điểm uy tín quốc gia. Thế là cũng từ quan điểm uy tín quốc gia đó chúng ta có: các phòng tạm giam được xây từ trước cách mạng hoặc nằm trong các khu nhà cũ vừa chật chội vừa không hợp vệ sinh (Báo Văn học, ngày 15 tháng 7 năm 1987). O. Traikovskaia, tác giả bài báo còn nói đến khía cạnh “tích cực” (cho chính quyền): “tạm giam trở thành hình phạt (phạt năng vì đúng ra tạm giam không được coi là hình phạt). Nói cách khác nó là một hình thức tra tấn, buộc phạm nhân phải “nhận”.

Người ta còn nói đến những trường hợp, đặc biệt là trong các nhà tù trung chuyển, khi tù nhân không có chỗ mà nằm, họ phải ngồi sát cạnh nhau mới đủ chỗ. Trong buồng giam như thế chỉ có một “thùng chung” cho tất cả mọi người. Phải hai người đàn ông lực lưỡng mới có thể khiêng được nó ra ngoài. Người Liên Xô có thể tưởng tượng được không khí trong đó, nhưng Đảng viên xã hội phương Tây thì chắc là không.

 “Nhà tù Butưrki được xây dựng vào năm 1771. Emelian Pugatrev từng ngồi tù trong đó. “Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa nhà tù từng một thời được coi là kiểu mẫu đã biến thành trại giam bình thường”, một nhà báo đã viết như thế. “Phòng đơn giam 5-6 người. Phòng cho 25 phạm nhân thì giam 50-60 người. Theo tiêu chuẩn hiện nay nhà tù có thể chứa 2,5 ngàn người. Nhưng hiện có đến gần 4 ngàn phạm nhân. Vì vậy có phòng người ta phải thay phiên nhau nằm ngủ” (Tin tức, ngày 7 tháng 3 năm 1991). Trong những năm “phục hưng tinh thần” các phòng tạm giam được đưa vào.. nhà thờ (Kineshma, xây năm 1779), nhà thờ Hồi giáo (Karshi, xây năm 1830), chuồng lạc đà (Azerbaijan, dĩ nhiên là không có cống thoát nước và lò sưởi rồi), trong chuồng ngựa của đội kị binh của Sa hoàng (Ordzhionikidze). Thôi thì nhận đại miễn là được vào trại giam, dù sao điều kiện cũng “dễ thở hơn”.   

[17]Trong những năm 1920 tiêu chuẩn (nghĩa là diện tích tối thiểu) cho một người là 9m2. Sau đó nó trở thành tiêu chuẩn tối đa. Hiện nay những gia đình có diện tích 4,5m2 trên một đầu người không được đưa vào danh sách xếp hàng, một số thành phố là 4,5m2 một người.  
[18]Theo điều lệnh nội vụ trại giam thì mọi người được gửi thư cho các tổ chức xã hội, cơ quan nhà nước và các cơ quan khác mà không chịu bất cứ hạn chế nào. Nhưng trên thực tế thì phạm nhân sẽ bị trừng phạt bằng cách biệt giam “vì đã gửi thư có chứa đựng những điều vu khống đối với ban lãnh đạo trại”.
[19]“Xí nghiệp của chúng tôi không khác gì các xí nghiệp khác của nền kinh tế quốc dân. Sự khác biệt duy nhất là chúng tôi nộp 65% lợi nhuận vào ngân sách và chúng tôi có quĩ khen thưởng thấp nhất: chỉ khoảng 6% quĩ lương”. Bài trả lời phỏng vấn nói trên của Gulaiev.

 Lao động cưỡng bức 

“Lao động cưỡng bức” trong ngôn ngữ thông thường là lao động bắt buộc do bản án của tòa qui định nhưng về nguyên tắc, sản xuất “xã hội chủ nghĩa” chính là nền sản xuất dựa trên lao động cưỡng bức dưới nhiều hình thức khác nhau. Lao động là nghĩa vụ được ghi trong hiến pháp và được củng cố trong luật hình sự, theo đó “những kẻ ăn bám” (xin nhớ lại trường hợp nhà thơ được giải thưởng Nobel là Brodsky) nghĩa là những người “không làm những công việc hữu ích cho xã hội” sẽ bị đi đầy. Những biện pháp ép buộc nhẹ nhàng nhất đã được thảo luận trong chương IX. Ở đây chúng ta sẽ xem xét các biện pháp ép buộc nghiêm khắc hơn.
Như đã nói bên trên, Marx, Lenin, Trotsky coi nghĩa vụ lao động bắt buộc của toàn dân là thành tố quan trọng nhất của hệ thống tổ chức lao động trong chế độ “xã hội chủ nghĩa”. Sau này người ta đã đoạn tuyệt với nguyên tắc này, nhưng chỉ một phần mà thôi. Chỉ đến khi thông qua bộ luật lao động năm 1972, chương về nghĩa vụ lao động mới bị loại bỏ nhưng việc buộc mọi người phải làm việc, cả ở thành phố và nhất là ở nông thôn vẫn được thực hiện dưới những hình thức khác nhau, mặc dù phải công nhận rằng đã không còn thịnh hành như hồi những năm 1960 nữa.

 Công việc lao động cưỡng bức bao gồm rất nhiều lĩnh vực, từ khai thác gỗ, khai thác than bùn cho đến xây dựng đường xá. Nông dân thường bị động viên là chính, mặc dù họ chẳng có tội gì, cũng chẳng có bản án nào. Những người từng tham gia khai thác than bùn (toàn là phụ nữ) kể: làm từ sáng sớm đến tối mịt, chân ngập trong bùn lầy. “Chúng tôi làm từ tháng 4 đến tận đầu tháng 11, trước khi nước đóng băng. Đấy đúng là lao động khổ sai… Chúng tôi chỉ có dép, chân ngập trong nước, tôi đã bỏ lại đôi chân ở đấy… Tôi không có chồng. Thanh niên của làng thì bị điều đi xẻ gỗ ở Kostroma và Viatka từ tháng 10 đến tận mùa xuân năm sau. Chúng tôi thì trở về vào tháng 11. Không thể gặp nhau được. Nam nữ không có cơ hội gặp nhau…” (Tin tức, ngày 31 tháng 1 năm 1990).

Trong số các hình phạt bằng lao động thì đuổi khỏi nơi cư trú và lưu đầy là những hình phạt năng nề nhất. “Đuổi khỏi nơi cư trú là đuổi phạm nhân khỏi nơi đang cư trú cùng với việc cấm cư trú ở một số địa phương nhất định”, điều 26 bộ Luật hình sự viết như thế. Người nước ngoài có thể cho rằng đây là hình phạt rất nhẹ, hơn nữa trong luật hình sự lại không nói gì đến lao động cưỡng bức cả. Nhưng, thứ nhất, bên cạnh luật còn có hộ khẩu, người nước ngoài không thể nào hiểu được ý nghĩa của hộ khẩu. Đuổi khỏi nơi cư trú bao giờ cũng đi kèm với việc xóa hộ khẩu, mà không có hộ khẩu thì không có chỗ dung thân. Hộ khẩu chỉ được công an cấp khi có chỗ ở và có việc làm. Nhưng người không có hộ khẩu thì lại không được nhận vào làm việc. Chỗ ở thì ngay cả những người đang làm việc bình thường cũng chưa chắc đã có. Thứ hai, ngoài luật hình sự còn có luật cải tạo lao động, điều chỉnh quá trình chấp hành hình phạt. Mặc dù ngươi bị đuổi khỏi nơi cư trú được quyền tự chọn nơi cư trú mới, nhưng do hoàn cảnh đã nói bên trên, anh ta bắt buộc phải làm việc.

Lưu đầy kèm theo “buộc phải sống ở một chỗ nhất định” (điều 25 luật cải tạo lao động), chắc chắn là tạo ra nhiều hạn chế hơn đối với phạm nhân vì người đó không thể lựa chọn chỗ ở. Về nguyên tắc đuổi khỏi nơi cư trú và lưu đầy là tước đoạt chỗ ở và hộ khẩu của con người, biến người đó thành nô lệ, không còn tí quyền hành nào.

Cả lưu đầy và đuổi khỏi nơi cư trú đều không được áp dụng đối với người phạm tội chưa đến 18 tuổi, phụ nữ có thai và phụ nữ có con dưới 8 tuổi. Điều này có thể được coi là lòng nhân ái của người làm luật. Nhưng vấn đề đơn giản hơn nhiều: những người này không thể làm công việc khổ sai được. Hơn thế nữa, họ có thể trở thành gánh nặng của chính quyền địa phương.

Điều 83 luật cải tạo lao động viết: “Việc cải tạo và giáo dục những phần tử bị lưu đầy phải được thực hiện trên cơ sở buộc họ phải làm những công việc có ích cho xã hội (!), có tính đến khả năng lao động và công tác giáo dục chính trị đối với họ… Người bị lưu đầy mà không chịu lao động sẽ phải chịu trách nhiệm trên cơ sở pháp luật”, nghĩa là chịu trách nhiệm hình sự như “những kẻ ăn bám”.

Tôi không thể không nhắc đến trường hợp Viện sĩ Andrey Sakharov, ông đã bị đầy đến thành phố Gorky để “cải tạo và rèn luyện”. Không có một bản án nào.

Không thể không so sánh luật pháp Liên Xô với cảnh lưu đầy của người thành lập nên nhà nước Xô viết do chính ông ta mô tả. Thứ nhất, người bị lưu đầy không bị buộc phải làm việc, chính phủ Sa hoàng mà họ chống lại còn cho họ tiền, đủ để theo lời Lenin là sống “không đến nỗi nào”. Số tiền có thể thay đổi tùy từng người (“Ông Prominsky bị giảm từ 31 rub xuống còn 18 rub một tháng”; Bazil “chỉ được 24 rub, còn vợ Bazil thì không được đồng nào vì họ cưới nhau trong tù”).

 

Đây là câu chuyện được viết trong tập 55, trang 53 và 56, “Toàn tập” của Lenin. Thế là ít hay nhiều? Lúc đó họ đang sống ở vùng Sibiri hẻo lánh, còn trong một bức thư gửi mẹ trước đó Lenin nói rằng một tháng ở thành phố Saint Peterbourg ngốn của ông ta những 38 rub (trang 16). Từ Sibiri ông ta viết: “Con sống không đến nỗi, chủ yếu là đi săn”… “chỉ đi lại loanh quanh chứ không làm gì”… “muốn thay đổi trò giải trí: mùa đông tới con sẽ không đi săn nữa mà sẽ đi trượt băng”. Ông ta được tự do thư từ, được nhận sách báo, kể cả báo chí nước ngoài, ông ta đã viết hơn 30 tác phẩm trong khi lưu đầy trong đó có cả tác phẩm “Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản ở nước Nga”, được tiếp tục hoạt động chính trị. Chả lẽ không có vấn đề gì sao? Có: “ở đây không thể tìm được người giúp việc”! Nhưng sau đó vẫn có người giúp việc. Ông ta đã tìm được!

Tại Liên Xô, lao động cưỡng bức theo bản án của tòa đã tồn tại từ lâu. Theo bộ luật hình sự năm 1926, lao động cưỡng bức được chia làm hai loại: tại cơ sở đang làm việc và “theo quyết định của Dân ủy nội vụ”.

Khi thi hành cưỡng bức lao động tại cơ sở đang làm việc thì ngoài những khoản khấu trừ khác từ tiền lương, còn phải giữ lại, trước đây là từ 10 đến 20% và nay là từ 5 đến 20% tiền lương để nộp cho chính phủ. Nhưng thế chưa phải là hết: thời gian chịu án phạt không được tính vào thâm niên là cơ sở để nghỉ phép, hưu trí hay các khoản ưu tiên ưu đãi khác. Người lao động có thể bị chuyển sang làm bất kì công việc gì, nhưng anh ta không có quyền bỏ việc. Nếu bị ban lãnh đạo cho thôi việc thì anh ta phải tìm ngay công việc khác trong vòng 15 ngày, nếu không Dân ủy nội vụ sẽ “tìm” việc cho anh ta. Bộ nội vụ lại thường “tìm” việc ở rất xa nơi cư trú.

Trong bộ luật “tự do” năm 1960 thuật ngữ “công tác lao động” đã bị loại bỏ. Bây giờ nó được gọi như ở Trung Quốc là “Cải tạo lao động mà không bị tước quyền tự do” (điều 27 bộ luật hình sự). Hai hình thức cũ vẫn được giữ nguyên, nhưng năm 1977 người ta đã đưa vào luật một điều khoản mới đánh dấu việc tiến gần đến chủ nghĩa cộng sản trong lĩnh vực hình luật, đấy là điều 242 bộ luật hình sự “Án treo và buộc phạm nhân phải lao động cải tạo”. Hình thức này được bắt đầu áp dụng một cách rộng rãi, hàng đoàn phạm nhân được đưa đến các công trường “xây dựng chủ nghĩa cộng sản”. Vì Đảng sáng suốt nhận ra rằng thuốc trị bá bệnh của nền kinh tế chính là hóa học hóa cho nên phần lớn các công trình là thuộc ngành công nghiệp hóa chất. Vì vậy dân chúng gọi những bản án kiểu đó là “đưa vào ngành hóa”, còn các phạm nhân thì được là “các nhà hóa học”. Điều đó là do “thiếu nhân công trong các xí nghiệp “nặng”. “Sáng kiến đó” đã đem lại cho nhà nước hàng trăm tỉ đồng. Những người bị “án treo” đã xây dựng các công trình lớn như nhà mày chất dẻo Prikumski ởStavropol, nhà máy Metanol-750 ở tỉnh Perm…” (Tin tức, ngày 12 tháng 9 năm 1990). “Từ năm 1977 đến năm 1989 đã có 3 triệu 35 ngàn người bị cưỡng bức đưa đến các công trường (xí nghiệp) khác nhau… Ngày 1 tháng 9 năm nay trên các công trường có tất cả 129,5 ngàn người (bài báo nói trên).

Nhà nước không phải nuôi họ, không phải tạo điều kiện cho họ, không phải bảo vệ họ; họ phải làm việc trong mọi điều kiện, phải làm những công việc độc hại và nguy hiểm, tất cả đều phải nhẫn nhục chịu đựng vì sợ bị đưa vào trại. Điều duy nhất cần là “cơ quan quân quản đặc biệt” để quản lí “các đơn vị lao động đặc biệt”. Tổng cục 5 Bộ nội vụ chuyên theo dõi các “nhà hóa học” hiện có 1.047 “ban quân quản đặc biệt”, các “ban” này kí hợp đồng cung cấp các “nhà hóa học” với các xí nghiệp và nhận tiền từ các xí nghiệp đó, nghĩa là họ buôn bán các nô lệ, những nô lệ câm lặng, nhẫn nhục, không có tí quyền hành nào.
Điều này có phù hợp với hiệp định của ILO? Tôi nghĩ rằng nếu chuyện này xảy ra ở Anh, thì… tôi không thể tưởng tượng nổi sự tức giận của ILO! Nhưng nếu chuyện đó xảy ra ở nước “xã hội chủ nghĩa” thì tình hình hoàn toàn khác!

Cần phải nói rằng về mặt pháp lí thì có hai loại “nhà hóa học”: người bị án treo (theo điều 242 bộ luật hình sự và người được tha trước thời hạn nhưng bị buộc phải lao động cải tạo (theo điều 53 bộ luật hình sự). Sự khác nhau giữa họ là loại thứ nhất bị tù treo và được đưa vào “ngành hóa”, nếu vi phạm họ sẽ bị đưa vào trại giam để chịu phạt tù thời gian còn lại, còn loại thứ hai được đưa từ trại giam sang “ngành hóa” và cũng có thể bị đưa trở lại trại. Vì vậy trên thực tế giữa họ không có sự khác nhau nào.

Kết luận

Các cuốn sách giáo khoa thường đưa ra những chỉ dấu hay đặc trưng cơ bản của nền pháp luật phong kiến như sau:

Pháp luật phong kiến là pháp luật đặc quyền đặc lợi, pháp luật mang tính giai tầng. Đây là đặc trưng chủ yếu. Mỗi giai tầng: quí tộc, tăng lữ, địa chủ, nông dân đều có quyền và trách nhiệm đặc biệt, được chính thức xác nhận bởi luật pháp. Trong những điều kiện ngày nay, sau các cuộc cách mạng tư sản hồi thế kỉ XVI-XVIII khó có thể qui định những điều bất bình đẳng như thế được. Hơn nữa các nước “xã hội chủ nghĩa” còn tuyên bố không còn giai cấp đối kháng và sự bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật. Nhưng sự bất bình đẳng, luật pháp đặc quyền đặc lợi đã được chứng minh một cách rõ ràng. Ở đây sẽ tạm tổng kết những điều đã được trình bày. Stalin nói đến sự tồn tại của đại gia đình giai cấp công nhân và nông dân, nhưng việc ông ta cho áp dụng hệ thống căn cước nhưng nông dân lại không có căn cước, đồng nghĩa với việc họ không có quyền sống trong thành phố.

Các Đảng viên Đảng Cộng sản Liên Xô là một giai tầng đặc biệt. Phải được sự đồng ý của cấp ủy Đảng thì Đảng viên mới có thể bị bắt. Một số chức vụ phải là Đảng viên mới được làm (giáo viên môn chính trị kinh tế học, lịch sử Đảng, triết học, cán bộ trung và cao cấp, nhân viên KGB, các nhà ngoại giao v.v.). Bị khai trừ khỏi Đảng cũng có nghĩa là bị đuổi việc. Tầng lớp quí tộc mới, tức là tầng lớp cán bộ được chia ra thành huyện, tỉnh, khu vực… với một loạt đặc quyền đặc lợi: mẫu xe, nhà nghỉ, số nhân viên phục vụ v.v…

Tôi biết vợ một thứ trưởng, có lần bà ta gọi điện vào Vụ hành chính của Bộ để lấy phiếu đi nghỉ mát vào ngày cuối tuần thì được trả lời: “Có quyết định cho chồng bà thôi việc rồi”. “Nhưng ông ấy vừa được bổ nhiệm chức bộ trưởng!”. “Khi nào quyết định có hiệu lực thì bà sẽ được phiếu đi nghỉ tại an dưỡng đường khác”. Nhưng luật pháp mang tính giai tầng này là tài liệu mật.

Hãy để cho những người phản đối chứng minh rằng các phụ nữ thành phố (nữ tiểu thư) hàng năm cũng bị đưa đi khai thác than bùn như các bà nông dân, còn các thanh nhiên thành thị (thanh niên tiểu tư sản) cũng bị đưa đi đốn gỗ vào mùa đông như thanh niên nông thôn.

Hãy để cho những người phản đối chứng minh rằng con của bí thư tỉnh ủy cũng bị xử vì tội hình sự như con một người công nhân bình thường. Chính ông bí thư tỉnh ủy sẽ không bao giờ bị xử tội hình sự. Ông ta là người đứng trên pháp luật. Các biên bản của Bộ chính trị Đảng Cộng sản Liên Xô vừa được đưa ra công khai cho thấy người ta đã cho chìm xuồng các nhân vật tham nhũng nổi cộm như Medunov (thành phố Rostov trên sông Đông) và Iunak (thành phố Tula) như thế nào. Và bây giờ, khi mọi sự đã rõ, họ cũng không bị đưa ra tòa. Tại sao?

Hãy để họ giải thích vì sao tôi lại không có quyền bước vào một số cửa hàng nếu không có tấm thẻ “Cửa hàng đặc biệt”?

Luật pháp phong kiến là luật pháp của kẻ mạnh, “luật pháp của địa chủ”.

Tôi nghĩ rằng không cần phải chứng minh rằng luật pháp Liên Xô cũng như luật pháp bất cứ nước “xã hội chủ nghĩa” nào cũng có tính chất như thế. Ai cũng biết như thế và điều đó được thể hiện trong câu ngạn ngữ: “Người có lí là người có nhiều quyền hơn”. Dựa trên cơ sở nào mà người ta xả súng vào các công nhân mít tinh phản đối việc tăng giá ở Novotrerkask? Người ta kết án tử hình và đưa vào nhà tù những người tham gia cuộc mít tinh này (và sau đó là những người kể lại câu chuyện đó) là dựa trên cơ sở nào? Do những hành động cụ thể nào? Ngay hiện nay cũng không ai viết về chuyện này. Thế mà theo tôi biết thì người ta chọn trong số những người bị giữ những kẻ có tiền án và đưa ra xét xử như “những kẻ tổ chức vụ lộn xộn”. Mục đích là để chứng tỏ rằng buổi tụ tập là do những tên tội phạm tổ chức. Nhưng vụ lộn xộn không phải là hành động tự phát nó được tạo ra theo chỉ đạo của Ban chấp hành trung ương. Mấy ngày trước đó người ta đã đưa quân đội tới và Mikoyan, ủy viên Bộ chính trị cũng đã tới tận nơi để chỉ đạo, cũng như sau này Primakov được Gorbachev cử đi nhận giải thưởng Nobel để ông ta rảnh tay tổ chức vụ chém giết ở Bacu.
“Luật pháp phong kiến là vũ khí khủng bố và đe dọa nhân dân lao động. Bất kì sự xâm phạm nào, dù nhỏ tới đâu, ngay cả một vụ án nhỏ, cũng bị trừng phạt năng nề, thậm chí tử hình v.v. [1]”. 

Có cần bình luận không? Có cần nhắc lại “luật bảy trên tám” và những vụ tử hình những người nông dân mót lúa không? Rồi những bản án 10 năm tù vì một chuyện tiếu lâm, chuyện cười nữa? 

Tính chất dã man, bản chất kết tội của quá trình xét xử, ngay luật sư biện hộ cũng bị các phạm nhân gọi là “công tố viên thứ hai”. Tôi còn nhớ những bài phát biểu của các luật sư nổi tiếng nhất trong các phiên tòa hồi năm 1937. Họ không tiếc lời thóa mạ thân chủ của mình, không có một lời biện hộ nào mà chỉ xin tòa tha thứ. Ai cũng biết việc tra tấn và đánh đập trong quá trình điều tra diễn ra thường xuyên.

Địa phương chủ nghĩa, nghĩa là luật pháp mỗi nơi một khác. Chính Lenin từng nói về “luật pháp vùng Kaluga và luật pháp vùng Kazan”. 70 năm sau tình hình cũng không có gì thay đổi, thời gian gần đây hiện tượng địa phương chủ nghĩa đã đạt đến những hình thức cực đoan nhất. Chỉ khác là hiện nay nó được gọi là “tự chủ”.

Truyền thống là một trong các nguồn gốc của luật pháp. Ở nước ta chỉ có “chỉ thị” và “điện thoại” là đứng trên truyền thống mà thôi.

Một trong những đặc trưng của pháp quyền phong kiến là luật pháp mang tính tôn giáo. Nhưng tôi cho rằng sự độc quyền của tư tưởng mác-xít cũng là một thứ tôn giáo. Bất kì một sự lệch lạc nào khỏi giáo điều Marxism-Leninism, phê phán các giáo điều ấy không chỉ dẫn đến việc bị khai trừ khỏi Đảng mà còn có thể đưa người ta đến trại giam nữa.

Dĩ nhiên là pháp quyền phong kiến ngày nay khác với pháp quyền phong kiến “truyền thống”. Nhưng ngay trong thời Trung cổ ở Anh, ở Đức, ở Nga, ở Thổ Nhĩ Kì đều có cùng một loại luật pháp ư?

Tôi không nghi ngờ gì rằng cuốn sách này của tôi sẽ bị nhiều người lên án là vu khống, không khách quan và một chiều. Và họ sẽ hỏi một câu “chết người”: Chả lẽ trong nền tư pháp Liên Xô không có điểm tích cực nào ư?

Dĩ nhiên là có, thí dụ chúng ta có thể đứng xếp hàng và mua đường hay bánh mì (nếu của hàng còn những thứ đó và chúng ta có đủ tiền). Nhưng từ thời Trung cổ cũng đã có quầy bán hàng rồi.

Nhưng đối địch với tôi là một khối lượng vô cùng to lớn sách vở về nền pháp lí Liên Xô, ai cũng có thể tìm đọc và tất cả đều mang tính biện hộ, đều trình bày pháp luật Liên Xô là “hiện thân của lí tưởng của quần chúng về kỉ cương, công bằng và lòng nhân ái” (xem bên trên). Không nhiều hơn, cũng không ít hơn! Vì vậy những ai còn khát khao những điều “trong sạch và tươi sáng” đều có thể được thỏa mãn cơn khát của mình bằng cách đọc bất kì cuốn sách giáo khoa hay bài báo nào đó về luật pháp, chỉ xin họ đừng đọc những tác phẩm trung tính về chính trị, thí dụ như điều kiện cung cấp hàng hóa.

Lấy thí dụ (xin thề là tôi không cố tình lựa chọn, chỉ đơn giản là tôi vừa đọc tờ tạp chí và chú ý đến đầu đề bài báo mà thôi) bài báo đầy tinh thần ngợi ca của N. Vasiliev với đầu đề: “Về tính nhân đạo của luật pháp nước ta” mà cụ thể là luật hình sự. Tác giả viết: “Tước quyền tự do là hình thức trừng phạt cao nhất (có thể là ông ta chưa từng nghe nói đến án tử hình hoặc không coi là hình phạt cao nhất – tác giả) được qui định trong một phần ba các điều khoản, trong các điều khoản khác hình phạt không bao gồm tước đoạt tự do”. Và rồi tác giả reo lên: “Đấy không phải là chỉ dấu của tính nhân đạo của luật pháp nước ta hay sao?”. (Pháp luật xã hội chủ nghĩa, 1990, số 5, trang 58). Tôi cũng không hiểu ông ta tính như thế nào (gần như mỗi điều khoản đều gồm mấy phần với mức độ trừng phạt khác nhau), nhưng theo cách tính của tôi thì trong số 274 điều của phần Đặc biệt chỉ có 32 điều không qui định án phạt tù, nhưng lại có 24 điều phạt tử hình. Còn tính chất “nhân đạo” của án phạt “không tước quyền tự do” nhưng dưới sự giám sát của các “ban quân quản đặc biệt” thì đã được trình bày bên trên, dù còn rất hạn chế.

N. Vasiliev đối lập tính chất phi nhân của luật pháp các nước “tư bản” với các án tù chung thân, trong khi ở nước ta án phạt tù cao nhất là 15 năm. Nhưng chỉ có những người có sức khỏe đặc biệt mới có thể chịu đựng nổi 15 năm tù đầy, trong điều kiện “chung” (đấy là cách gọi các công việc thí dụ như đốn gỗ). Sau khi TV chiếu cảnh nhà tù Thụy Điển thì nhà đài nhận được hàng loạt thư từ của các công dân “tự do” xin được đưa vào nhà tù bên đó.
Tôi không còn muốn phân tích và phản biện những điều dối trá của các nhà khoa học-văn nô nữa, đấy là việc làm vô nghĩa vì độc giả có thể tự làm lấy. Tính chất nhân đạo của nền pháp luật Liên Xô được các văn nô ngợi ca từ thời Stalin, mà lúc đó họ ca ngợi còn hay hơn bây giờ.

Còn một đặc điểm nữa của chủ nghĩa phong kiến mà chưa ở đâu, chưa ai nói tới, dùng kính lúp cũng không soi thấy, đấy là chế độ quân chủ chuyên chế, độc tài không thể nào che dấu được. Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng, Tổng bí thư Đảng, Tổng thống là những người có quyền lực tuyệt đối, không bị ai kiểm soát và chỉ chịu trách nhiệm trước Chúa và lịch sử. “Các cơ quan đại diện” chỉ là những bung xung, chẳng có một chút ý nghĩa nào.

Tôi coi nhiệm vụ của mình là nghiên cứu bản chất của nhà nước và nền pháp luật “xã hội chủ nghĩa”, tìm ra ý nghĩa trong toàn bộ cái phi lí, sự điên rồ của cơn ác mộng xã hội chủ nghĩa-phong kiến. Và điều quan trọng là tôi luôn tỏ ra khách quan. Điều chủ yếu ở nước Nga là sự tùy tiện và quyền lực vô hạn của các chúa đất (cán bộ) và tình trạng vô quyền của tầng lớp nông nô (người lao động). Hi vọng rằng điều đó đã được tôi chỉ ra và đã được chứng minh.

Hiện nay bản chất đó vẫn chưa thay đổi mặc dù người ta không còn nói đến chủ nghĩa xã hội nữa. Thay vì xây dựng chủ nghĩa cộng sản thì ngày nay người ta nói đến “xây dựng chủ nghĩa tư bản với bộ mặt con người” mặc dù sự tùy tiện trong lĩnh vực luật pháp đã vượt mọi giới hạn.

Lời cuối sách

Trong phần nói đầu tôi đã tuyên bố rằng tôi giữ nó nguyên vẹn như tôi đã hoàn thành nó trước khi diễn ra cuộc cách mạng những năm 1990, tôi chỉ loại bỏ phần phê bình chủ nghĩa Marx và thay đổi chút ít thành phần của cuốn sách. Ở đây tôi muốn phân tích những thay đổi của thời kì hậu Xô viết vì tôi chưa thấy ai có ý định làm điều đó.

Trong các môn khoa học xã hội ở nước Nga đã diễn ra một sự đảo lộn chưa từng có trong lịch sử các nước khác: tất cả các luật sư, các nhà kinh tế học, các triết gia đều theo mệnh lệnh từ trên ban xuống và quay ngoắt 1800, hệt như bài hát mà các sinh viên vẫn hát thầm dưới thời Stalin: 

Vật chất có trước,

Tinh thần có sau

Có sau, có sau.

Nếu cấp trên bảo,

Nếu cấp trên lệnh

Thì ta sẽ hát, ngược lại hoàn toàn:

Vật chất có sau,

Tinh thần có trước,

Có trước, có trước từ lâu.

Đã xảy ra đúng như thế. Những kẻ thù không đội trời chung của chủ nghĩa tư bản và nền học thuật dối trá của bọn tư sản, những người đưa tin nhiệt thành của chủ nghĩa cộng sản quay sang ca ngợi chủ nghĩa tư bản và tố cáo những khiếm khuyết của chủ nghĩa xã hội. Không hề xấu hổ vì những cuốn sách còn chưa ráo mực, không hề xấu hổ vì những tấm bằng tiến sĩ do đã liệt kê hàng loạt tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội. Nhưng điều kì quặc là họ vẫn tiếp tục là những người truyền bá cho đường lối chính sách của Đảng và chính phủ y như cũ. Các Đảng phái và người cầm quyền dù đã thay đổi, chính sách dù đã đổi màu, nhưng thói quen bảo vệ “đường lối của Đảng” thì vẫn còn, dù đường lối ấy đã mấy lần thay hướng thì cũng mặc.

Khi bức màn sắt được dựng lên, các công dân Liên Xô chỉ biết rằng ở phương Tây, bên “họ”, luôn có khủng hoảng kinh tế, người lao động bị bóc lột thậm tệ, bãi công và đàn áp diễn ra thường xuyên, còn “bên ta” thì lao động là vinh quang, đời sống ngày càng được cải thiện. Thông tin bị chặn đứng ở cả hai đầu.

Nhưng các lãnh chúa phong kiến cầm quyền, tức là tầng lớp cán bộ cũng thường đi ra nước ngoài, chính mắt họ nhìn thấy tính ưu việt của đời sống ở phương Tây, họ không chỉ thích nhìn mà còn thích nếm thử nữa. Mặc dù hoàn cảnh vật chất của họ tốt hơn của các “ông chủ”, của người lao động nhiều lần, họ buộc phải sử dụng các tiện nghi ấy một cách bí mật, đằng sau hàng rào cao và với lực lượng bảo vệ hùng hậu. Khrushchev đã hưởng thụ những tiện nghi hạn chế đó một mình và đã tự kí bản án cho chính mình. Brezhnev, sau khi giành được quyền lực, đã học được từ sai lầm của Khrushchev. Dưới thời ông ta, của cải được ban phát một cách cực kì hào phóng, F. Burlatsky, một cán bộ của Ban chấp hành trung ương đã viết như thế.

“Chuyên viên gây ảnh hưởng” Gorbachev còn đi xa hơn: mở những cánh cửa đầu tiên cho dòng tư bản chảy vào và tất nhiên là dân chủ hóa nữa. Nhưng sự kiểm soát của Đảng thì vẫn còn và tầng lớp cán bộ vẫn có khả năng bị tước thẻ Đảng, cũng có nghĩa là tước “thái ấp”, mà có thể là mất mạng nữa. Thế là trong cuộc đấu tranh giành quyền lựa Yeltsin cùng với các đại công tước của các nước cộng hòa phá vỡ Liên Xô và tiêu diệt Đảng Cộng sản Liên Xô.
Đã diễn ra cuộc cách mạng từ bên trên, cuộc cách mạng của các lãnh chúa phong kiến. Đây không phải là cuộc cách mạng tư sản vì các lãnh chúa vẫn giữ được quyền lực chính trị, họ chỉ thay mỗi tên gọi. “Anh hai” của nước cộng hòa trở thành tổng thống, “anh hai” khu vực trở thành thống đốc, một số người (thí dụ Volsky) trở thành nhà tư sản. Đa số vẫn giữ được “thái ấp” của mình (xin nhắc lại rằng trách nhiệm chủ yếu của điền chủ là giữ lòng trung thành với vương tôn của mình) hoặc là chuyển sang làm chủ “thái ấp” mới. Thí dụ ủy viên ban chấp hành trung ương Đảng, “anh hai” của Bắc Osetia, dù bị quần chúng phản đối sau vụ Beslan vẫn tiếp tục giữ được “thái ấp” của mình.

Bây giờ nhiệm vụ là biến tài sản công thành tài sản tư. Việc đó được thực hiện bằng biện pháp gọi là “tư nhân hóa”, được nhân dân gọi là “tự nhận hóa”, tự nhận tài sản nhà nước làm tài sản của mình. Thực chất đây là một vụ cướp bóc tài sản quốc gia một cách trắng trợn nhất. Các quan chức đã đem nhà máy, mỏ dầu đi tặng cho những kẻ gần gũi với chính quyền. Chính trong thời gian này mà Berezovsky, lãnh đạo một phòng thí nghiệm và hai cán bộ đoàn là Potanin và Khodorkovsky và nhiều người khác đã trở thành tỉ phú. Trubais bán các nhà máy với giá 3,6% giá trị mà lại còn cho thanh toán bằng voucher. Không có tiền vẫn có thể thực hiện các vụ mua bán trị giá hàng triệu đồng. Ông ta được thanh toán vào tài khoản ở nước ngoài một phần giá trị của xí nghiệp hoặc phần trăm lợi tức ..v.v..

Berezovsky từng nói ở Israel: “Đã diễn ra quá trình tái phân phối tài sản chưa từng có trong lịch sử. Năm 1991 có đến 90% tài sản là của nhà nước. Hôm nay 75% tài sản của một đất nước rộng lớn và giầu có này đã không còn là tài sản nhà nước nữa”. Berezovsky nói tiếp: “Mức độ tham nhũng ở Nga tương ứng với mức độ cải tạo, không ít hơn mà cũng không nhiều hơn. Tôi không nghĩ rằng các viên chức ở Israel có cơ hội tái phân phối tài sản trị giá hàng chục triệu và hàng tỉ đồng. Không có tài sản như vậy, đấy là tài sản không thuộc về ai, tài sản vô chủ. Thế là viên chức có thể, chỉ bằng một chữ kí, quyết định tài sản đó thuộc về anh hay không thuộc về anh. Chúng ta sẽ không thảo luận xem cơ chế tư hữu hóa như thế là tốt hay xấu. Quan điểm của tôi là không thể tốt hơn được”.

Tất nhiên là các quan chức “kí” không phải vì người ta có đôi mắt đẹp, không phải làm gì mà họ trở thành ngay triệu phú, gấp hàng ngàn lần giá của chiếc ghế-thái ấp. Theo số liệu của quĩ INDEM ở Saratov thì giá thứ trưởng là nửa triệu dollar. Nhưng lương của thứ trưởng lại chỉ có 200 dollar (2002). Không phải ngẫu nhiên mà thủ tướng là người có hỗn danh “Misa hai phần trăm”. 

Cần phải kể thêm quá trình cướp bóc toàn thể nhân dân của Gaidar, trên thực tế ông ta đã hủy bỏ tất cả các khoản tiết kiệm của dân chúng và làm gia tăng một cách đột biến tội phạm có tổ chức. Quá trình này đã được mô tả rất kĩ trong tác phẩm Cuộc cách mạng tội phạm vĩ đại ở Nga. Mafia nắm quyền của tôi. Từ Mafia phải được hiểu theo nghĩa tập hợp, theo nghĩa nhà nước mafia, vì ngay trong điện Kremlin cũng có các băng Đảng mafia khác nhau tranh chấp với nhau.

Như vậy là về tổng thể, cuộc cách mạng tội phạm vĩ đại đã hoàn thành với việc tạo ra một con quỉ, một chế độ chưa từng có trong lịch sử và tương ứng với nó là một nhà nước quái thai. Người ta thường gọi chế độ đó là lưu manh hay là chủ nghĩa tư bản hoang dã. Nhưng đấy không phải là chủ nghĩa tư bản vì nó còn thiếu một đặc trưng quan trọng, đấy là thị trường lao động, nơi người lao động có thể bán mình cho nhà tư sản theo giá thị trường, nó còn thiếu sự cạnh tranh và nhiều đặc trưng khác nữa.

Nó cũng không còn là chế độ phong kiến mặc dù vẫn còn “pháo đài”, đấy là hệ thống căn cước trói người công dân vào đất và tước của họ quyền tự do lựa chọn chỗ ở. Đa số công dân không hiểu được sự khác nhau giữa căn cước là chứng thực thân nhân với căn cước buộc người ta phải đăng kí ở một địa phương nhất định. Hệ thống căn cước cản trở sự luân chuyển của dòng tư bản chủ yếu: sức lao động.

Cần phải nói đến một giai đoạn đặc biệt hiện nay, có thể gọi đó là giai đoạn giáo quyền hóa nhà nước. Như tôi đã nói, một trong những tính chất của chế độ phong kiến là vai trò của tôn giáo. Hiện nay rõ ràng là đang diễn ra quá trình hợp nhất giữa nhà nước và Chính thống giáo. Một mặt, nhà thờ ủng hộ nhà nước một cách công khai và dựa vào sự giúp đỡ của nhà nước trong việc đàn áp các tôn giáo khác, đặc biệt là thiên chúa giáo, mặt khác nhà nước thể hiện rõ sự ủng hộ của mình đối với nhà thờ Chính thống giáo Nga.

Đây không phải là chế độ chiếm nô mặc dù số đông dân chúng đang phải làm việc như những người nô lệ. Chứng cớ hiện nay: phóng viên báo “Người đoàn viên Moskva” đến thăm một sư đoàn mang tên Derzhinsky, trước đây thuộc KGB, nhưng nay đã chuyển sang Bộ nội vụ. Anh ta trông thấy những người lính làm việc trong các bệnh viện với các chức danh như y tá, hộ lí. Họ còn được cho các cá nhân “thuê” với giá 100 rub một ngày. Lính có tay nghề được 300-500 rub. Vẫn còn những đơn vị xây dựng, các chàng trai ốm yếu được động viên đến đây với danh nghĩa bảo vệ tổ quốc, nhưng lại bị bán cho các đơn vị xây dựng. Báo Commersantcòn phát hiện một trường hợp bất ngờ: một người lính 19 tuổi, tên là O. Terekhov bị đại đội trưởng bán làm nô lệ cho một người nông dân (số ra ngày 25 tháng 3 năm 2005).

Bây giờ chúng ta có thể trả lời được câu hỏi chính mà cuốn sách đã đặt ra. Chúng ta đã biết vì sao Liên Xô lại lạc hậu hơn so với các nước tư bản chủ nghĩa. Phương thức sản xuất phong kiến, về nguyên tắc, không thể đuổi kịp được phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Thế thì tại sao 12 năm sau cách mạng, sản xuất của nước Nga vẫn kém cả về số lượng lẫn chất lượng? Các lĩnh vực sản xuất với công nghệ cao tại các nước tiên tiến chiếm từ 60 đến 70%, ở Nga chỉ có 1%! Nước Nga sống được là nhờ xuất khẩu nguyên liệu thô. Sản phẩm công nghiệp không thể cạnh tranh được với phương Tây (điển hình là ngành chế tạo ô tô). Tình cảnh của nhân dân thì không cần phải nói, tuổi thọ trung bình của đàn ông Đan Mạch là 74, trong khi ở Nga là 55. Ở Nga có cả triệu người chết một năm. Đây là một cuộc diệt chủng thật sự, một Holocaust chính hiệu. Như nhiều người đã nói, nước Nga đang tiến dần đến sự diệt vong, đến tan rã. Sự tan ra Liên Xô chỉ là khởi đầu.

Nếu tàn dư của chế độ phong kiến và chiếm nô ở Nga không bị loại bỏ bằng các biện pháp phẫu thuật thì sự diệt vong của nước Nga là tất yếu.

*
CUỐI CÙNG TÔI MUỐN ĐƯA RA MỘT CÂU HỎI MANG TÍNH TOÀN CẦU VÀ CÂU TRẢ LỜI

CỦA TÔI: CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN (CHỦ NGHĨA XÃ HỘI) LÀ GÌ VÀ NÓ CÓ THỂ TRỞ THÀNH

HIỆN THỰC KHÔNG?

Trong Tuyên ngôn của Đảng cộng sản, cuốn kinh thánh của chủ nghĩa cộng sản khoa học, các tác giả đã viết: “Những người cộng sản có thể phát biểu lí thuyết của mình bằng một câu thôi: bãi bỏ tư hữu”. Chúng ta đã chứng kiến trong thực tế tất cả các nước “xã hội chủ nghĩa”, không có ngoại lệ, việc tiêu diệt sở hữu tư nhân tư liệu sản xuất chỉ đưa đến việc thành lập các chế độ khủng bố, với những mức độ khác nhau, có thể man rợ như nước Campuchia thời Pol Pot hay nhẹ nhàng hơn như nước Nam Tư thời B. Tito. Nguyên nhân: buộc người ta phải làm việc không vì động cơ kinh tế.

“Chủ nghĩa cộng sản khoa học” cho rằng sự khác nhau giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản: chủ nghĩa xã hội là làm theo năng lực, hưởng theo lao động; còn chủ nghĩa cộng sản là làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu. Sự phá sản của công thức này đã được chính Tổng thống Liên Xô Gorbachev công nhận rồi sau đó là viện sĩ Vaslavskaia và hàng ngàn “nhà xã hội học”chuyên nghề nói leo vội vàng chộp lấy: “Ở nước ta người lao động nhận được “mức lương không phải từ lao động mà ra”, nghĩa là nguyên tắc “hưởng theo lao động” không có giá trị. Cần phải trả theo kết quả lao động. Thế là xuất hiện cuộc tranh luận về tiêu chuẩn để tính số lượng, chất lượng và giá trị của chúng. Thí dụ, kết quả lao động của người lính cứu hỏa và nhân viên kế toán được tính như thế nào? Câu trả lời tùy thuộc vào mức độ đần độn. Nguyên tắc hưởng theo nhu cầu còn mù mờ hơn nữa.

G. Lebon, nhà xã hội học người Pháp, cho rằng sự bất bình đẳng xã hội, ước muốn làm giầu của một số người và sự nghèo đói của một số người khác “xuất phát từ bản chất của con người và sẽ vĩnh viễn như thế” (“Nếu Chúa trời toàn năng không thay đổi bản chất của con người”) (1898), nói một cách khác, chủ nghĩa xã hội là bất khả thi.

Tôi không biết chủ nghĩa cộng sản (chủ nghĩa xã hội) có khả thi hay không. Tôi đã thể hiện quan điểm của mình đối với chủ nghĩa cộng sản trong bài báo: “Chủ nghĩa cộng sản – ước mơ của nhân loại” trên tờ Duelra ngày 3 tháng 6 năm 2003. Điều đáng ngạc nhiên là tờ Nước Nga Xô viết, tờ báo của Đảng cộng sản từ chối đăng bài báo này. Nội dung chính của bài báo như sau: tất cả các tôn giáo đều hứa hẹn thiên đường trên trời để đền bù cho những đau khổ trên mặt đất. Chủ nghĩa cộng sản là ước mơ về một chế độ công bằng trên trái đất. Tư tưởng này có trước cả Thiên chúa giáo và con người sẽ còn ước mơ như thế mãi.

Tư tưởng này có khả thi không? Trước công nguyên người Essey đã từng sống trong những công xã, những người theo Tolstoi ở nước Nga cũng đã sống trong các công xã, trước khi công xã bị những người cộng sản tiêu diệt, ở Israel các công xã tỏ ra có hiệu quả. Nhưng tư tưởng này có khả thi trong một quốc gia không? Chưa ai chứng minh được câu trả lời khẳng định hay phủ định. /.

[1]Lí thuyết nhà nước và pháp luật, М., 1963, trang 104.

 

2 thoughts on “Liên Xô – Nhà nước phong kiến trá hình

    • 17 cái quyền ấy chỉ được đảm bảo trên giấy và các khẩu hiệu chứ đâu đi vào cuộc sống của người dân Liên Xô. Đó chỉ là bánh vẽ mà thôi!

      Thích

Bình luận về bài viết này