Lịch sử Thái Lan

lang xang kingdom

Tác giả: Phạm Văn Tuấn

Nguồn gốc.

Người Thái Lan tự hào về đất nước của họ đã không là một thuộc địa của cường quốc tây phương nào vào cuối thế kỷ 19, quê hương của họ cũng không bị nội chiến tàn phá dù cho nền chính trị có gặp các xáo trộn. Trong thế kỷ vừa qua, giới lãnh đạo Thái Lan đã khôn ngoan trong nền ngoại giao quốc tế nên có thể duy trì được nền độc lập cho xứ sở, họ đã biết tiếp thu các ảnh hưởng tây phương đồng thời vẫn duy trì được chủ quyền quốc gia.

Từ thế kỷ 12 tới đầu thế kỷ 20, quê hương này được người ngoại quốc gọi là Siam = Xiêm La cho tới năm 1939, tên chính thức của vương quốc được gọi thành Thái Lan sau một biến cố dân chủ, trong đó danh từ “Thái” có nghĩa đen là “tự do”. Nguồn gốc của dân tộc Thái được cho là từ tỉnh Vân Nam bên Trung Hoa nhưng cũng có người lại cho rằng dân tộc gốc của xứ sở này đã từ đồng bằng sông Menam Chao Phya đi lên mạn Nam Trung Hoa rồi gặp thời kỳ bành trướng của Đại Hãn Hốt Tất Liệt mà lại phải di chuyển xuống phía nam.

Trong Thế Chiến Thứ Hai, một tù binh người Hòa Lan khi làm con đường xe lửa Thái Lan – Miến Điện, đã khám phá thấy các đồ cổ thời đồ đá tại Ban Kao, thuộc tỉnh Kanchanaburi ở phía tây. Rồi các khai quật tại làng Ban Chiang gần Udon Thani phía đông bắc đã tìm ra các đồ sành, đồ sắt, đồ đồng, nữ trang… và thời đại đồ đồng của Thái Lan còn đi trước nền văn minh của thung lũng hai con sông Tigris và Euphrates, có lẽ vào khoảng 3,600 năm trước Tây Lịch. Văn Hóa Ban Chiang này đã cho thấy người dân thời đó đã biết trồng lúa, nuôi thú vật và đã có các tài khéo léo, làm và trang hoàng các bình sành, chai lọ kim loại…

Các dấu tích khảo cổ cũng cho thấy sự hiện diện của người Ấn Độ tại Thái Lan vào khoảng thế kỷ thứ 3 trước Tây Lịch. Tài liệu Phật Giáo Sinhalese là Mahavamsa còn kể lại Vua Ấn Độ Ashoka (268- 232 trước TL) đã cử hai đặc sứ tới miền Suvannabhumi, thuộc Đông Nam Á. Tới đầu kỷ nguyên Tây Lịch, đã có giao dịch buôn bán qua đường biển giữa Ấn Độ và miền nam Thái Lan. Các tượng Ấn Độ cổ đã được tìm thấy tại cả hai cửa sông miền nam Thái Lan, ghi dấu của thế kỷ thứ 4 sau Tây Lịch.

Trong các thế kỷ tiếp theo, Phật Giáo và Ấn Độ Giáo tiếp tục được du nhập vào các miền Đông Nam châu Á và đã được sửa đổi để thích hợp với các nhu cầu địa phương. Tiếng Phạn (sanskrit) được giới quý tộc dùng làm ngôn ngữ triều đình trong khi tiếng Pali là ngôn ngữ của kinh Phật Giáo. Các nhà cai trị địa phương thời bấy giờ có lẽ đã dùng các tu sĩ Bà La Môn làm cố vấn trong việc tổ chức chính quyền. Các sắc dân định cư đầu tiên của xứ Thái Lan là người Mon và người Khmer đã chịu ảnh hưởng Ấn Độ rất nhiều. Các khai quật khảo cổ tại Lopburi và Nakhon Pathom đã chứng minh miền định cư của người Mon từ thế kỷ thứ 7 và nghệ thuật Phật Giáo của thời đại Dvaravati (thế kỷ 6 tới thế kỷ 11) là của sắc dân người Mon. Người Khmer nổi tiếng vì khu vực đền đài Angkor Wat, cũng để lại nhiều ngôi đền thờ tại các tỉnh miền đông bắc Thái Lan.

Sắc dân Thái.

Có nhiều lý thuyết cắt nghĩa việc định cư của sắc dân Thái. Lý thuyết đáng tin cậy nhất cho rằng vào thế kỷ thứ 10, một dân tộc từ tỉnh Vân Nam tại phía nam của Trung Hoa đã di chuyển theo các dòng sông và thung lũng, xuống phía nam và tỏa ra thành các giống dân: người Shan còn được gọi là “Thai Yai” (Thái lớn) di chuyển về phía bắc của Miến Điện, người Ahom Thai định cư tại Assam, một nhóm khác tới đất Lào vào, số còn lại đi qua đảo Hải Nam. Nhóm dân đông nhất là “Thai Noi” (Thái nhỏ) đã thiết lập cơ sở chung quanh Chiang Saen tại miền bắc của nước Thái Lan ngày nay. Họ đã lập nên một nước nhỏ đóng đô tại Sukhothai vào năm 1238 và sắc dân gốc Thái này di chuyển dần xuống phía nam, tới Chiang Rai năm 1281 và Chiang Mai năm 1296 rồi xứ sở Thái được nới rộng tới bán đảo Mã Lai.

Vào thế kỷ 13, vương quốc Thái Sukhothai bắt đầu mở mang, đã lấn át các vương quốc Mon và Khmer. Tại phía nam và trên dải đất hẹp là ảnh hưởng của vương quốc quân sự và thương mại Srivichaiya đã hình thành từ thế kỷ 7 mà có người cho rằng vương quốc này đặt kinh đô tại Palembang ở Sumatra, hoặc Chaiya tại miền nam Thái Lan, hoặc tại Kalimantan trên đảo Borneo. Vương quốc Srivichaiya sau đó cũng bị suy tàn vì ảnh hưởng của vương quốc Sukhothai.

Danh từ Sukhothai có nghĩa là “bình minh của hạnh phúc”. Theo tài liệu cổ xưa, người dân Thái vào thời đại Sukhothai đã vui sống tự do, đây là thời vàng son của dân tộc Thái Lan với đất nước thanh bình, tài nguyên phong phú và được vị minh quân cai trị. Theo truyền thuyết, người sáng lập ra vương quốc này là vị anh hùng Phra Ruang. Vào thời đó dân tộc Thái phải triều cống cho vua Khmer đóng đô tại Angkor thứ nước thiêng lấy từ một hồ nước bên ngoài Lop Buri vì vị vua Khmer cần nước thiêng từ bốn miền biên giới. Xe bò chở nước trong các lu bằng đất nung lại đi đường xa khiến cho không tránh khỏi bị bể vỡ dọc đường, và người dân Thái đã phải chuyên chở hai hay ba lần mới nạp đủ số nước triều cống. Khi Phra Ruang tới tuổi trưởng thành, ông ta đã chế ra một thứ lu đan bằng tre và được gắn kín, nhờ đó việc chuyên chở nước thật dễ dàng. Sự sáng suốt này khiến cho vua Khmer phái một vị tướng tới để diệt trừ Phra Ruang nhưng ông này đã biến kẻ thù thành đá. Sau đó Phra Ruang kết hôn với con gái tộc trưởng miền Sukhothai rồi trở nên vị vua đầu tiên của vương quốc độc lập Sukhothai. Phra Ruang mang danh hiệu Sri Indraditya. Kể từ thời đại Sukhothai này, đạo Phật đã được truyền bá rộng rãi và đi dần vào nếp sống của dân chúng cho tới ngày nay.

Người con trai thứ hai của vị vua sáng lập kể trên có tên là Ramkamhaeng. Năm 19 tuổi, vị hoàng tử này đã theo cha ra trận và đánh thắng kẻ thù trong một trận đấu dùng voi. Vì thế vua cha đã ban cho hoàng tử thứ hai tước hiệu Phra Ramkamhaeng hay Rama, vị anh hùng.

Vương quốc Sukhothai vào thời Ramkamhaeng lên ngôi chỉ là một xứ sở nhỏ hẹp nhưng dưới triều đại này, lãnh thổ đã được mở rộng gấp 10 lần, từ Luang Prabang tại Lào qua cánh đồng trung tâm của dòng sông Chao Phya tới tận bán đảo phía nam, còn tại phía tây, sắc dân Mon của miền nam Miến Điện cũng phải thần phục.

Ramkamhaeng là nhà cai trị, nhà lập pháp và chính khách. Ông đã phát minh ra chữ Thái bằng cách phối hợp hệ thống mẫu tự Khmer với tiếng Thái. Các sắc chỉ viết bằng lối chữ mới đã được Ramkamhaeng dùng từ năm 1292 theo đó mô tả Thái Lan là một miền đất phì nhiêu, đồ ăn dư thừa, tự do buôn bán, cấm chỉ chế độ nô lệ và quyền thừa kế được bảo đảm. Cũng vào thời đại này, các trường Phật Giáo Nguyên Thủy (Theravada) được thiết lập tại Sukhotai. Các trao đổi văn hóa với các nước ngoài được duy trì vì thế tại nơi đây mới có ảnh hưởng Sinhalese và đặc biệt nhất là đã có mối liên lạc ngoại giao với Trung Hoa. Theo sử liệu, triều đình Mông Cổ thời bấy giờ đã gửi 7 phái đoàn tới Thái Lan và có tài liệu còn ghi rằng chính vua Ramkamhaeng cũng đã qua Trung Hoa vào năm 1299. Thợ thủ công Trung Hoa đã dạy cho người Thái cách làm đồ sứ nhờ đó sản phẩm của Thái Lan được chở qua Trung Hoa và miền Sawankhalok ngày nay còn dấu tích của các lò nung.

Khi Đại Hãn Hốt Tất Liệt đánh chiếm miền nam, Ramkamhaeng đã liên kết với các hoàng tử Mengrai miền Chiang Rai và Ngam Muang miền Phayao để chống ngoại xâm. Tại miền bắc Thái, hoàng tử Mengrai đã sát nhập được đế quốc Mon cuối cùng tại Haripunjaya vào năm 1292 và đã chọn Chiang Mai vào năm 1296 làm kinh đô. Trong khi đó chuyện kể rằng vua Ramkamhaeng đã bị chết đuối tại thác nước của dòng sông Yom ở Sawakhalok. Hoàng tử kế vị là Lo Thai, trị vì từ năm 1318 tới năm 1347, ưa thích tu hành hơn nên trong thời đại này liên lạc tôn giáo giữa Sukhothai và Sri Lanka đã được tăng cường. Vua Lo Thai đã cho xây dựng nhiều tòa nhà để cất giữ các dấu tích Phật mới xin được từ Sri Lanka.

Con trai của vua Lo Thai là Li Thai lên ngôi từ năm 1347, cũng sùng đạo Phật nên đã coi trọng tôn giáo hơn quân sự, vì thế ảnh hưởng của miền chư hầu phía nam Ayutthaya lớn mạnh khiến cho Li Thai cuối cùng bỏ đi tu và các thế hệ kế tiếp trở thành các công hầu. Năm 1438, kinh đô Sukhothai suy tàn nhưng thời kỳ Sukhothai đã để lại dấu nét đặc biệt về nghệ thuật thuần Thái Lan nhất.

Thời đại Ayutthaya.

Lịch sử Thái Lan đã không ghi rõ nguồn gốc của người sáng lập nên triều đại Ayutthaya nhưng truyền thuyết đã kể lại rằng vua Traitrung đã cảm thấy rất buồn khổ khi một công chúa không có chồng đã có con vì ăn phải một trái cà do tên làm vườn tưới bằng nước tiểu của hắn. Kẻ phạm tội là Nai Saen Pom đã bị tống khứ khỏi kinh thành cùng công chúa và đứa con. Thần Indra thấu hiểu cảnh khổ của cả ba người này nên đã cho Saen Pom ba điều ước. Saen Pom có cả ngàn mụn cóc trên người nên điều ước thứ nhất của Pom là các mụn xấu xa đó được biến đi. Điều ước thứ hai là xin được một xứ sở để cai trị và một cái nôi bằng vàng cho đứa con là điều ước thứ ba. Tất cả ba điều ước này đã được thực hiện. Đứa bé vì thế được gọi tên là Chao U-Thong hay hoàng tử có chiếc nôi vàng.

U-Thong là một nước nhỏ độc lập, đặt tại tỉnh Suphan Buri này nay. Vua của xứ này thuộc gia đình của các vua Chiang Saen. Trong thời kỳ vua Phya U-Thong cai trị, một bệnh dịch tả đã lan tràn khiến cho vương quốc này phải di chuyển tới Ayodhya hay Ayutthaya. Vị trí của kinh đô mới này có nhiều ưu điểm. Nơi đây là chỗ tập trung của ba dòng sông Chao Phya, Lop Buri và Pasak, lại không xa biển và nằm giữa một đồng bằng phì nhiêu nên là trung tâm lý tưởng về quản trị hành chánh và giao thông. Sau ba năm chuẩn bị, vua Phya U-Thong đã lập nên kinh đô vào năm 1350 và mang danh hiệu vua Ramathibodi I. Nhà vua này đã mở mang bờ cõi, gồm cả xứ sở Sukhothai lẫn miền nam Miến Điện và bán đảo Mã Lai, rồi sau đó còn chiếm xứ Chiang Mai và Cambốt. Vào thời kỳ này, tuy đế quốc Angkor bị suy tàn nhưng ảnh hưởng Khmer lại được phổ biến tại triều đình Ayutthaya. Quan niệm “devaraja” (vừa là vua, vừa là thần) của dân tộc Khmer đã khiến nhà vua Thái Lan vừa là người cai trị dân, vừa là vị đứng đầu giáo hội. Triều đình Thái Lan đã dùng nghi lễ và ngôn ngữ Khmer và tại các buổi đại lễ, các giáo sĩ Phật Giáo và Bà La Môn cùng hành đạo bên nhau, một việc làm còn lưu tới ngày nay.

Vua Ramathibodi đã chia quyền hành ra làm bốn khu vực: nông nghiệp, nội vụ, tài chính và hoàng gia, và nền móng này đã giữ cho vương quyền tồn tại được trong 417 năm. Ramathibodi qua đời năm 1369. Con là vua Ramesuen đã đánh chiếm Chiang Mai vào năm 1390 rồi ba năm sau, tấn công Angkor. Kinh đô Khmer này bị xâm lăng hoàn toàn vào năm 1431 sau 7 tháng vây hãm bởi đội quân của vua Boromajara II. Người Thái Lan đã thu được rất nhiều chiến lợi phẩm, bắt theo hàng chục ngàn tù binh, kể cả các nghệ sĩ và các tu sĩ Bà La Môn.

Tại Thái Lan vào thời kỳ này có hai nước với hai kinh đô là Chiang Mai và Ayutthaya, và chiến tranh đã diễn ra trong hai thế kỷ với cao điểm là vào thời đại của vua Boroma Trailokanath, hay còn được gọi là Trailok (1448- 1488). Vua Trailok đã cải tổ nền hành chánh và kiến trúc xã hội Thái Lan mà ảnh hưởng còn được duy trì tới thế kỷ 19. Vua Trailok đã tập trung quyền hành vào trung ương, quy định về sở hữu đất đai, đặt ra các cấp lương bổng và nhân viên, ấn định chế độ lao động mà người dân phải đóng góp. Đạo luật Triều Đình (Palace Law) năm 1450 của vua Trailok cũng đề cập tới thứ hạng của các người trong hoàng tộc, nhiệm vụ của các quan lại…

Vào năm 1511, Alfonso de Albuquerque người Bồ Đào Nha, chinh phục được Malacca và sau đó đã cho thuyền vào Thái Lan. Vua Ramathibodi II (1491- 1529) đã cho phép người Bồ buôn bán trên đất Thái để đổi lấy súng đạn. Đội quân đánh thuê người Bồ cũng giúp vua Thái Lan trong việc chiếm Chiang Mai và dạy cho người Thái cách đúc súng thần công và súng hỏa mai.

Tại nước Miến Điện, vua Tabinshweti của miền Pegu đã cố gắng thống nhất đế quốc Miến và đồng thời dòm ngó Thái Lan vì xứ sở này đang yếu đi do nội chiến. Năm 1549, vua Tabinshweti đem quân đánh vua Mahachakrapat của Thái Lan vừa mới lên ngôi. Hoàng hậu Thái khi đó là Suriyothai đã cải trang thành tướng nam, cưỡi voi ra trận đánh quân Miến để cứu chồng đang bị vây hãm nhưng sau đó, hoàng hậu bị tử thương. Tro tàn của hoàng hậu này còn được lưu giữ tại Ayutthaya.

Cuộc xâm lăng của vua Miến Điện thất bại. Vua Mahachakrapat củng cố vương quốc với lực lượng quân sự gồm hàng trăm con voi trận và sự giúp đỡ của người Bồ Đào Nha. Vào năm 1569, kinh đô Ayutthaya lại bị quân Miến Điện vây hãm và thất thủ bởi đội quân của vua Bayinnaung. Vua Thái Lan Mahachakrapat bị bắt và bị dẫn về Miến Điện nhưng đã chết dọc đường trước khi tới Pegu. Vị phó vương Maha Thamaraja được người Miến cho cai trị Thái Lan như một chư hầu của Miến. Con trai trưởng Naresuen của Maha cùng với em trai là Ekatotsarot đã nổi lên, về sau dùng du kích chiến đánh thắng quân Miến Điện, mang lại nền độc lập cho Ayutthya vào năm 1584. Naresuen lên ngôi vua Thái Lan vào năm 1590 và củng cố vương quốc Thái, làm suy tàn hai đế quốc Miến Điện ở phía tây và Khmer ở phía đông. Kinh đô Ayutthaya trở nên phồn thịnh và đã làm ngạc nhiên nhiều du khách người Âu vào thế kỷ 17.

Ảnh hưởng của châu Âu.

Người em trai của Naresuen là Ekatotsarot lên trị vì Thái Lan từ năm 1605 tới năm 1610, đã không chú ý đến các chính sách quân sự mà lo phát triển kinh tế cho Ayutthaya. Nhà vua ban ra các đạo luật tăng thuế khiến cho dưới mắt người Âu, vua đã mang danh là “người tham lam”. Vào thời kỳ này người Hòa Lan đã tới Thái Lan và bắt đầu mở trạm mậu dịch vào năm 1608. Vua Ekatotsarot nhân dịp này đã gửi một phái đoàn đi The Hague. Rồi vào thời vua Songtham (1610- 1628), người Anh cũng đến Thái Lan, mang theo bức thư của vua James I và cũng được Thái Lan cho một mảnh đất để xây cất nơi buôn bán.

Người Âu đã bị thu hút đến Thái Lan bởi vì họ coi nơi này là cửa ngõ dẫn tới việc thương mại với Trung Hoa. Gió mùa tại châu Á không cho phép các tầu thuyền của thời đại này đi thẳng tới Trung Hoa, vì thế Ayutthaya đã trở nên một cảng chuyển tiếp giữa châu Âu, Ấn Độ, Trung Hoa và Nhật Bản. Nền hòa bình dưới thời vua Naresuen đã mang lại sự thịnh vượng cho người dân Thái và do đó, làm tăng lên nhu cầu xa xỉ của xã hội Thái Lan như lụa và đồ gốm. Ngoài ra người Nhật Bản cũng tới Thái Lan để mua các hàng hóa như gỗ quý, thiếc, đường mía và da thú vật cùng các sản phẩm của châu Âu. Một nhà mạo hiểm người Nhật của thời bấy giờ là Yamada Nagamasa đã có được tước vị cao trong triều đình Thái nhờ đó nhiều người Nhật Bản khác đã trở nên vệ sĩ cho nhà vua. Năm 1628, đội quân đánh thuê người Nhật đã giúp vị Nhiếp Chính là Prasat Thong tiếm vương quyền của vị vua trẻ. Nhưng rồi Tướng Quân của miền Edo nước Nhật đã không cộng tác với vương quyền đó khiến cho Prasat Thong nổi giận, trả thù và giết các người Nhật và nhóm người này phải bỏ chạy qua Cambốt. Prasat Thong trị vì Thái Lan cho đến năm 1655, đã đặt ra độc quyền của hoàng gia theo đó mọi ngoại thương đều bị kiểm soát trực tiếp bởi nhà vua và do bộ Tài Chính đảm trách.

Từ năm 1641 người Hòa Lan lấn át được người Bồ Đào Nha tại Viễn Đông và 7 năm sau, họ đã biểu dương lực lượng hải quân trong vịnh Thái Lan để yêu cầu vua Thái Lan cho họ đặc quyền kinh tế. Con trai của vua Prasat Thong là vua Narai, trị vì từ năm 1656 tới năm 1688, đã hợp tác với người Anh để cân bằng ảnh hưởng của Hòa Lan nhưng sau đó cuộc phong tỏa của Hòa Lan tại cửa sông Chao Phya đã khiến cho Thái Lan phải dành cho người Hòa Lan độc quyền mua da thú vật và một số biệt đãi khác.

Tại Thái Lan, các giáo sĩ Dòng Tên người Pháp đã đến triều đình tại Ayutthaya vào năm 1665 và được phép mở một trung tâm thờ phượng. Cảm tình của nhà vua Thái Lan khiến cho các giáo sĩ kể trên tưởng rằng nhà vua muốn cải theo đạo Thiên Chúa. Do các báo cáo của các giáo sĩ người Pháp gửi về, vua Louis 14 đã gửi một bức thư tay tới vua Narai vào năm 1673.

Sự liên lạc giữa Thái Lan và Pháp lại được gia tăng khi xuất hiện một người Hy Lạp tên là Constantine Phaulkon. Anh này khởi đầu là một người dọn phòng của công ty Đông Ấn thuộc Anh. Phaulkon tới Thái Lan năm 1678 và do có năng khiếu về ngôn ngữ, sau hai năm học anh ta đã nói thông thạo tiếng Thái. Phaulkon được mướn làm người thông ngôn cho Bộ Trưởng Tài Chính Barcalon hay Phra Klang. Nhờ khôn khéo, Phaulkon đã leo lên các nấc thang của xã hội Thái, tới bậc Phya Vijayendra nên được thường xuyên gặp mặt vua Thái Narai. Sau khi bị thất sủng với công ty Đông Ấn, Phaulkon đã cải sang đạo Thiên Chúa La Mã để lấy một người đàn bà Nhật theo đạo đó. Do Phaulkon thường xuyên liên lạc với người Pháp nên nhờ vậy ảnh hưởng của Pháp đã gia tăng đối với vua Narai. Đã có các trao đổi đại sứ giữa triều đình của vua Loui 14 và vua Narai Thái Lan và do lời khuyên của Phaulkon, vua Thái Lan đã chấp thuận cho một đội quân tinh nhuệ Pháp gồm 500 người, dưới quyền chỉ huy của tướng Desfarges, được đổ bộ lên Thái Lan. Phaulkon vì thế được phong bá tước và hiệp sĩ của nước Pháp.

Ảnh hưởng của Phaulkon, một người Hy Lạp bên cạnh vua Thái, đã khiến cho một số vị quan cao cấp triều đình Thái lo ngại. Cách ăn xài hoang phí của Phaulkon cũng làm cho nhiều người tức giận. Dinh thự của Phaulkon tại Lop Buri đêm nào cũng đãi tiệc trên 40 thực khách, số rượu vang tiêu thụ rất lớn. Sự hiện diện của người Pháp và quân đội Pháp cùng với ý định xúi giục vua Thái cải sang đạo Thiên Chúa đã là những mối nghi ngờ. Vào năm 1688 khi vua Narai bị bệnh, một nhóm người quốc gia đã đứng lên, cầm đầu là Phra Phetracha, tư lệnh liên đoàn voi trận của hoàng gia. Vua Narai bị giữ trong lâu đài và Phaulkon bị bắt vì tội phản bội và bị hành quyết vào tháng 6 bên ngoài Lop Buri. Một tháng sau, vua Narai cũng băng hà. Phra Phetracha lên ngôi. Đòi hỏi đầu tiên của vị vua mới này là quân đội Pháp phải rút đi hết.

Nước Thái Lan dưới thời vua Narai được người Âu gọi là Xiêm La (Siam). Những người này đã so sánh kinh đô Ayutthaya đẹp như thành phố Venice của nước Ý và đã ca tụng đây là thành phố đẹp nhất của miền Viễn Đông. Các lâu đài hoàng gia cùng hàng trăm đền đài huy hoàng đã tụ tập bên trong bức tường thành được xây dựng trên hòn đảo lớn của kinh đô.

Các vị vua kế nghiệp vua Narai đã chấm dứt chính sách mở cửa. Các giáo sĩ ngoại quốc tuy còn được phép ở lại và việc buôn bán với nước ngoài vẫn được duy trì nhưng trong giới hạn. Thái Lan từ đây ở vào vị thế cô lập trong 150 năm và các nhà vua đã tập trung vào việc xây dựng nội bộ và tôn giáo. Hệ thống giao thông thủy lộ được phát triển.

Thời đại của vua Boromakot (1733- 1758) được coi là giai đoạn vàng son của kinh đô Ayutthaya. Văn sĩ, thi sĩ, nghệ sĩ tập trung về triều đình; văn chương và nghệ thuật đã phát triển mạnh. Xứ Tích Lan (Ceylon) đã phải mời một phái đoàn sư tăng của Thái Lan qua đó để chấn chỉnh đạo pháp.

Vào năm 1758, con của vua Boromakot lên ngôi sau khi tranh giành ngôi báu rồi sau đó đã đam mê cung tần mỹ nữ. Vào thời kỳ này, đế quốc thứ ba của Miến Điện do vua Alaungpaya đã tấn công Thái Lan vào năm 1760 nhưng bị đẩy lui. Bẩy năm sau, con của vua Alaungpaya là Hsinbyushin mang quân vây hãm Ayutthaya trong 14 tháng và đã thành công. Người Miến khi rút ra vội vã, đã cướp đi tất cả tài sản, đốt sạch kinh đô Ayutthaya kể cả các ngôi chùa và bắt theo tất cả hoàng gia Thái cùng 90 ngàn người, dẫn về Miến Điện. Nền văn minh của Thái Lan trong 4 thế kỷ đã bị hủy diệt.

Kinh đô Bangkok.

Trong khi kinh đô Ayutthaya bị vây hãm, một vị tướng trẻ tên là Phya Taksin đã tụ tập được một số quân sĩ, phá vòng vây và chạy về Chantaburi ở bờ biển phía đông nam của vịnh Thái Lan. Bẩy tháng sau khi Ayutthaya thất thủ, Taksin đã đem quân về kinh đô và đánh đuổi được người Miến. Taksin đã kể cho mọi người nghe giấc mơ được gặp các vị tiên vương Thái Lan và được bảo nên dời kinh đô về một nơi mới.

Taksin đã thiết lập kinh đô mới tại Thonburi, bên bờ phía tây của dòng sông Chao Phya và lên ngôi vua. Sau khi thấy vương quốc Thái Lan sụp đổ, trách nhiệm của vua Taksin là thống nhất lại đất nước và chống trả cuộc xâm lăng của quân Miến Điện. Taksin đã trị vì tới năm 1782 nhưng trong 7 năm cuối, quyền uy được giao phó cho hai vị tướng tin cẩn và cũng là anh em, là Chao Phya Chakri và Chao Phya Sarisih. Hai vị tướng này đã chiếm lại Chiang Mai, mở mang bờ cõi Thái Lan tại phía bắc, tràn qua Cambốt và Lào ở phía đông. Chính trong chiến dịch tràn quân qua Lào mà đội quân Thái chiếm được bức tượng Phật Ngọc Bích (the Emerald Buddha) rất nổi tiếng. Tượng Phật này được tạc từ khối ngọc thạch lớn và thờ tại Chiang Ray vào năm 1436. Người Thái từ lâu đã coi bức tượng này là linh thiêng nhất và là biểu tượng cho nền độc lập và thịnh vượng của xứ sở.

Tại Thonburi, vua Taksin sau này trở nên bất thường và tàn bạo. Chứng bệnh hoang tưởng (paranoid), có lẽ do quá lo lắng về chiến trận, đã khiến nhà vua tưởng mình là một bồ tát trong khi đó lại hành hạ các sư tăng, các vị quan cao cấp cùng trẻ em, bắt buộc họ phải thú nhận phạm phải các tội giả tưởng.

Vào tháng 3 năm 1782, một cuộc nổi dậy đã xẩy ra khiến cho vua Taksin phải thoái vị và vào sống trong một tu viện. Vị tướng đảo chính đã mời Chao Phya Chakri làm vua sau chiến dịch tại Cambốt. Tướng Chakri đã lên ngôi vua vào ngày 6 tháng 4, lập nên triều đại Chakri và ngày nay người Thái Lan còn kỷ niệm ngày 6 tháng 4 này. Vua cũ Taksin vì bị coi là một nguồn đe dọa cho sự ổn định nội bộ Thái nên đã bị hành quyết theo tục lệ hoàng gia trước các giọt nước mắt đau buồn của vua mới Chakri.

Khi lên ngôi, vua Chakri lấy danh hiệu là Ramathibodi mà sau này người Thái gọi là vua Rama I, đã ngự trị Thái Lan từ 1782 tới năm 1809. Nhà vua đã dời kinh đô từ Thonburi qua một nơi rộng rãi hơn ở gần đó gọi là Bangkok.

Thời kì Rama ( từ Rama I-Rama IX)

Vua Rama V

Rama V, cũng được gọi là Chulalongkorn Đại đế (20 tháng 9 năm 1853 – 23 tháng 10 năm 1910) là vị vua thứ năm của nhà Chakri trong lịch sử Thái Lan. Ông được xem là một trong những ông vua kiệt xuất của vương quốc Xiêm La và cũng được thần dân gọi là “Đức vua vĩ đại kính yêu”.

Chulalongkorn sinh ngày 20 tháng 9 năm 1853 tại kinh đô Bangkok, là con trai trưởng của vua Mongkut (Rama IV) và hoàng hậu Debsirinda. Ông được vua cha cho học rộng, bao gồm cả học vấn từ những gia sư người châu Âu như Anna Leonowens.

Chulalongkorn kế vị cha mình ngày 1 tháng 10 năm 1868, nhưng thừa tướng Chao Praya Si Suriyawongse làm nhiếp chính vương trong 4 năm do Chulalongkorn vẫn còn quá trẻ để cai trị đất nước. Trong thời gian này, ông đã đi qua các thuộc địa phương tây, bao gồm Singapore, Java và Ấn Độ, để học chính trị, hành chính, lối sống và chính sách thực dân phương Tây. Sau này trong thời gian trị vì, ông cũng đi thăm châu Âu hai lần vào năm 1897 và 1907, là vua Xiêm đầu tiên viếng thăm châu Âu.

Ngày 16 tháng 11 năm 1873, ông đã lên ngôi lần thứ hai. Trong thời gian đi thăm các nước, ông đã học được nhiều chính sách cải cách để hiện đại hóa đất nước mình. Với sự giúp đỡ của một người Bỉ tên là Gustave Rolin-Jaequemyns, ông đã có thể giữ độc lập cho đất nước mình dù Pháp và Anh đang thuộc địa hóa phần lớn các nước Đông Nam Á và đế quốc Anh lúc đó đã tiếp tục chính sách đối nghịch và gây hấn trong quan hệ đối với Xiêm. Ông cũng đã phải nhượng một số lãnh thổ cho hai cường quốc thực dân này, đáng chú ý là các tuyên bố quyền ở nhiều khu vực ngày nay là Lào, Campuchia và một số khu vực phía bắc của Malaysia.

Chulalongkorn đã hiện đại hóa triều đình Xiêm thông qua việc du nhập một chế độ Nội các, và hệ thống hành chính tỉnh bán Phong kiến được đổi qua thành tỉnh (changwat) và huyện (amphoe) như ngày nay vẫn áp dụng. Ông đã tuyên bố ân xá cho tất cả tù nhân chính trị và dần bỏ chế độ nô lệ.

Sự giải phóng nô lệ này thường bị hiểu sai nhưng chủ ý của ông là giảm quyền lực của Bunnag, một gia đình quý tộc kiểm soát chặt chẽ triều Chakri vào lúc đó. Ngoài ra, động thái này cũng làm yếu đi các thủ hiến địa phương và trung lập hóa đất nước.

Tuyến đường sắt đầu tiên của Thái Lan đã được khai trương năm 1896 nối Bangkok với Ayutthaya. Trong thời kỳ trị vì của ông, lịch phương Tây đã thay thế âm lịch. Năm 1896, nhà ngoại giao người Anh là Alfred Mitchell-Innes đã được bổ nhiệm làm Cố vấn tài chính cho nhà vua trong 3 năm và ông này đã du nhập hệ thống giấy bạc cho Xiêm. Chulalongkorn cũng tuyên bố tự do tôn giáo, cho phép Ki-tô giáo và Hồi giáo được hành đạo trong vương quốc Phật giáo này.

Người ta thường hiểu nhầm rằng vua Chulalongkorn đã ban hành sắc lệnh năm 1909 trong thời kỳ trị vì của ông, bắt buộc một số lượng dân số người Thái gốc Hoa trên thực tế đồng hóa dân tộc khác vào xã hội Xiêm La và làm giảm căng thẳng dân tộc và tội phạm bạo động. Sắc lệnh này yêu cầu tất cả dân thường trú phải dùng họ Thái. Tuy nhiên, trên thực tế thì Đạo luật Họ được con trai ông là vua Rama VI ban hành năm 1913.

Vua Chulalongkorn có 4 hoàng hậu và phi (พระมเหสี), Hoàng hậu Saovabha Bhongsi, Hoàng hậu Savang Vadhana, Hoàng hậu Sunandha Kumariratana và Hoàng hậu Sukumalmarsri. Ông có ít nhất 77 người con, trong đó 33 con trai. Con trai thứ hai của ông, Vajiravudh, đã kế vị ông làm vua Rama VI. Ngày qua đời của ông, 23 tháng 10 năm 1910, được làm ngày nghỉ lễ trong năm của dân Thái Lan

Vua Rama IX

Bhumibol Adulyadej (sinh ngày 5 tháng 12 năm 1927), còn được gọi là Vua Rama IX, là vua Thái Lan đăng cơ ngày 9 tháng 6 năm 1946. Bhumibol Aduladej được xem là một trong số những vị quân vương trị vì lâu nhất thế giới. Mặc dù Thái Lan theo thể chế quân chủ đại nghị, vị quốc vương này đã vài lần can thiệp vào chính trường, gần đây nhất là trong cuộc khủng hoảng chính trị năm 2005 – 2006. Bhumibol Adulyadej được coi là có công lớn trong nỗ lực kiến tạo tiến trình chuyển đổi dân chủ ở Thái Lan trong thập niên 1990, mặc dù trong giai đoạn đầu của vương triều, ông đã ủng hộ các chính phủ quân sự. Ông sử dụng tài sản to lớn của mình để cung cấp tài chính cho nhiều đề án phát triển, đặc biệt là ở nông thôn. ông được người dân Thái Lan hết sức yêu kính. Đối với nhiều người dân Thái, nhà vua được sùng bái gần như một thần linh. Những người chỉ trích (hầu hết bên ngoài Thái Lan) xem điều này là hệ quả của chính sách đàn áp bất kỳ sự chỉ trích nào nhắm vào hoàng gia.

Bhumibol tham gia tích cực vào đời sống kinh tế và xã hội của đất nước, chủ yếu là qua một loạt các đề án phát triển kinh tế mà ông đề xuất, tổ chức và tài trợ. Mặt nam và tây của Điện Chitralada, hầm ủ, nhà máy và nông trang chế biến chỉ là phần nhỏ của chương trình phát triển gọi là “những đề án hoàng gia”, từ các đề án nghiên cứu (thường là thuộc lĩnh vực nông nghiệp), trường học xen ca, huấn nghiệp, bảo tồn nước đến các dự án phát triển điền địa (không thể liệt kê hết). Có hơn 3.000 đề án khởi xướng bởi quốc vương và được triển khai trên toàn quốc, nhắm vào mục tiêu cải thiện điều kiện sống của dân nghèo ở vùng nông thôn Thái Lan.

Hoạt động trong nhiều lĩnh vực từ giới thiệu giống cây trồng đến bảo tồn nước, từ thoát nước vùng đầm lầy đến bảo vệ rừng, trong mục tiêu phát triển bền vững, Dự án Phát triển Hoàng gia được chia thành tám thể loại phụ thuộc vào khu vực kinh tế mà nó nhắm vào: nông nghiệp, môi trường, y tế, huấn nghiệp, tài nguyên nước, truyền thông, phúc lợi xã hội và những lĩnh vực khác.

6 thoughts on “Lịch sử Thái Lan

  1. 1. Sự hình thành Quốc gia Thái khá muộn và không rõ ràng. Thái lan, có thể do đặc thù địa lý và tổ chức xã hội thấp, đã không bị các đế quốc thời Trung Cổ là Trung Quốc và Mông Cổ ngó tới.
    2. Quá trình hình thành Quốc gia Thái cổ cũng gắn liền với các cuộc chiến xâm lược và chống ngoại xâm, có cả nội chiến.
    3. Tại sao Thái không bị các nước Phương Tây thôn tính là một dấu hỏi? Phải chăng người Thái dễ “quy hàng” hay là do khôn ngoan?

    Thích

  2. Đây là một bài viết về nguồn gốc người Thái ở nước Thái.

    _________________

    泰國最初的國家是中國雲南人建立的嗎?古滇國和滇族去哪裡了?
    Nhà nước đầu tiên của nước Thái là do người Vân Nam Trung Quốc dựng nên sao? Người Điền của nước Điền cổ đã đi đâu?

    [img]https://i2.read01.com/uploads/0DQClEoC3O.jpg[/img]
    Người Thái (泰族) ở nước Thái trong lễ hội té nước

    [img]https://i1.read01.com/uploads/0DQClEpWGi.jpg[/img]
    Các cô gái người Thái (傣族) ở tỉnh Vân Nam của Trung Quốc

    Văn minh sớm nhất của nước Thái (Kingdom of Thailand) là Văn minh Ban Thanh (Ban Chiang Culture), văn minh Ban Thanh sớm nhất đã bắt đầu từ năm 3.500 BC, cư dân Ban Thanh vào năm 3.500 BC đã biết sử dụng công cụ bằng đồng xanh, so với văn minh Mễ Tố Đạt Mễ Á (Mesopotamia Civilization) của phương Tây và văn minh Hạ-Thương của Trung Quốc còn sớm hơn 500 năm. Văn minh Ban Thanh là văn minh sử dụng đồ đồng xanh sớm nhất trên thế giới.

    [img]https://i2.read01.com/uploads/0DQClEfSLp.jpg[/img]
    Bình gốm của văn minh Ban Thanh

    Các vương quốc sớm nhất của nước Thái và nước Miến Điện đều là do người Môn (孟族/Mun people) dựng nên. Người Môn là gì? Người Môn là một dân tộc xa xưa cư trú ở nước Thái và nước Miến Điện. Dân tộc chủ thể của nước Thái ngày nay là người Thái (泰族/Thai people), dân tộc chủ thể của nước Miến Điện ngày nay là người Miến (緬族/Bamar people). Người Thái và người Miến đều là từ đất Vân Nam của Trung Quốc di dời đến nước Miến Điện và nước Thái.

    Người Miến (緬族/Bamar people) có gốc từ đất Vân Nam của Trung Quốc, vào thời nhà Đường di dời vào lưu vực sông Y Lạc Ngõa Để (Ayeyarwady River) rồi dần dần thay thế người Phiếu (驃人/Pyu people) và người Môn bản địa để trở thành dân tộc chủ thể của nước Miến Điện.

    Người Thái (泰族) ở nước Thái cũng là người Thái (傣族) ở đất Vân Nam của Trung Quốc. Người Thái (泰族) và người Thái (傣族) là cùng một dân tộc, từ khi nước Trung Quốc mới (中華人民共和國/Nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa) thành lập đến nay để phân biệt với người Thái (傣族) trong nước với người Thái (泰族) ngoài nước mới dùng chữ Thái (傣) này.

    Người Thái (傣族) thời xưa gọi là người Bãi Di (擺夷族), trong tiểu thuyết 《Thiên long bát bộ》của Kim Dung thì mẹ của Đoàn Dự tên là Đao Bạch Phượng là người Bãi Di, người Bãi Di tức là người Thái (傣族). Người Thái (傣族) cũng tức là người Thái (泰族) là dân tộc chủ thể của nước Thái. Người Thái phân bố trên phạm vi rất rộng lớn, tức là người Thái (傣族) ở Trung Quốc, người Shan (撣族)-người Khamti (康迪人) ở nước Miến Điện, người Lào (佬族) ở nước Lào, người Assam (阿薩姆)-người Ahom (阿豪姆) ở nước Ấn Độ, đều là người Thái (泰族).

    Người Thái (泰族) ở các nước Thái-Miến Điện-Lào-Ấn Độ đều là từ đất Vân Nam của Trung Quốc di dời đến từ thời xưa. Người Thái có tổ tiên là người Bách Bộc (百濮) hoặc người Điền Việt (滇越) trong nhóm Bách Việt (百越). Bách Bộc và Bách Việt không phải là cùng một dân tộc, trước mắt giới học thuật còn có nhiều tranh luận. Căn cứ vào thành quả nghiên cứu di truyền phân tử DNA thì Bách Bộc là dân tộc ngữ hệ Nam Á, Bách Việt là dân tộc ngữ hệ Đồng-Tày. Tiếng Thái là ngữ hệ Choang-Đồng. Do đó người Thái (泰族) rất có khả năng là người Điền Việt trong nhóm Bách Việt thời Tiên Tần mà không phải là Bách Bộc.

    [img]https://i1.read01.com/uploads/0DQClEphxT.jpg[/img]
    Hình thế các nước và bộ tộc ở Trung Quốc vào thời Tiên Tần (trong đó người Bách Bộc (百濮) ở phía nam các tỉnh Tứ Xuyên và phần lớn tỉnh Vân Nam và tỉnh Qúy Châu ngày nay.)

    Bách Bộc (百璞) phân bố phạm vi rất rộng ở phía tây nam của nước Sở thời Tiên Tần. Người Sở (楚人) cùng người Tứ Xuyên thời xưa (古代四川人) và người Bách Bộc có quan hệ chặt chẽ. Phía tây nam huyện Cung Hiệp tỉnh Tứ Xuyên ngày nay có sông Bộc (濮水); sách xưa chép rằng “bên sông Bộc có cây táo ngon”; lưu vực sông Bố Bộc (布濮水) và sông Bộc (濮水) đều có người Bộc (濮人) cư trú. Đương nhiên Bộc có Bách Bộc, Việt có Bách Việt, Bộc và Việt đều phân bố phạm vi rất rộng lớn ở miền Nam Trung Quốc.

    Thời Tây Hán gọi tổ tiên người Thái (泰族先民) là người nước Điền (滇國), thời Đông Hán gọi là Đàn (撣), thời Đường-Tống gọi là Hắc Xỉ Man (黑齒蠻)-Kim Xỉ Man (金齒蠻)-Ngân Xỉ Man (銀齒蠻)-Tú Diện Man (繡面蠻)-Mang Man (茫蠻)-Tú Cước Man (繡腳蠻)-Bạch Y Man (白衣蠻), thời Nguyên-Minh-Thanh cho đến thời Dân quốc gọi là Bạch Di (白夷)-Bãi Di (擺夷)-Bách Di (百夷).

    Vào thời Tần-Hán ở đất Vân Nam của Trung Quốc có nước Điền cổ, lịch sử nước Điền ở đất Vân Nam bắt đầu khoảng từ năm 390 BC vào thời Chiến quốc và bị tiêu diệt vào giữa thời Đông Hán. Theo sách 《Sử kí – Tây Nam Di liệt truyện》chép vào thời nước Sở cường thịnh thì đã từng khuếch trương lãnh thổ đến nước Điền. Vào thời Tần Thủy Hoàng từng làm con đường rộng năm thước để đến nước Điền. Cuối thời Tần thì đất Trung Nguyên đại loạn, nước Điền không còn liên hệ với đất Trung Nguyên nữa. Đến năm Nguyên Phong thứ 2 (năm 109 BC) thời Hán Vũ Đế thì nước Điền quy hàng, nhà Hán lấy nước ấy đặt thành quận Ích Châu (益州郡), đất Vân Nam nạp vào lãnh thổ nhà Hán, đồng thời ban ấn của Điền Vương (滇王之印) cho vua nước Điền và cho vua nước Điền tiếp tục quản lí thần dân của vùng đất Vân Nam. Vào thời Đông Hán, chế độ quận huyện của nhà Hán ở vùng đất Vân Nam đã tiến bộ hơn và củng cố vững chắc hơn, lại thêm di dân người Hán đến, người Điền dần dần bị đồng hóa, cuối cùng nước Điền vào năm Nguyên Sơ thứ 2 (năm 115 BC) thời Đông Hán bị diệt vong.

    [img]https://i1.read01.com/uploads/0DQClEYzXu.jpg[/img]
    Hình thế các nước và bộ tộc ở Trung Quốc thời Tây Hán (nước Điền màu đỏ, bộ tộc Ai Lao màu xanh lơ ở phía tây nước Điền, nước Dạ Lang màu tím ở phía đông nước Điền, nước Nam Việt màu vàng…)

    Liên quan đến nguồn gốc của người Điền (滇族), vì tư liệu có hạn nên giới học thuật đến nay còn tranh luận không dứt. Giới học thuật quốc tế bao gồm cả giới học thuật của nước Thái có một phái cho rằng người Điền (滇族) là tổ tiên của người Thái (泰族), còn giới học thuật Trung Quốc lại cho rằng người Thái là một nhánh của người Bách Việt, trên thực tế người Bách Việt là khái niệm rất rộng lớn. Hiện nay một phái cho rằng người Điền (滇族) là tổ tiên của người Thái (傣族) ở Trung Quốc và người Thái (泰族) ở các nước Miến Điện-Thái-Lào…

    [img]https://i2.read01.com/uploads/0DQClE8ASv.jpg[/img]
    Hình vẽ người Điền (滇族) của nước Điền cổ

    Sau khi nước Điền diệt vong thì người Điền đã đi đâu? Người Điền có hai khả năng: một là dung hợp với người người Hán; hai là di dời về phía nam đến vùng phía nam của tỉnh Vân Nam, tiếp tục giữ gìn tập tục và văn hóa dân tộc vốn có của mình, cùng lúc ở đây lại dung hợp với người Ai Lao (哀牢人), sau đó trở thành người Thái (傣族) ở Trung Quốc và người Thái (泰族) ở nước ngoài sau này.

    Sau khi đã hình thành người Thái (泰族), họ tiếp tục di dời về phía nam và khuếch trương phân bố khắp vùng phía nam tỉnh Vân Nam đến các nước Miến Điện-Lào-Thái-Việt Nam-Ấn Độ.

    Vào thời nhà Tùy-Đường ở nước Thái ngày nay đã có người Thái (泰族) cư trú, vào khoảng trước sau thế kỉ thứ 11 CE thì người Thái đã dựng nên vương quốc đầu tiên ở nước Thái, thời này ứng với thời nhà Bắc Tống của Trung Quốc.

    Vương quốc đầu tiên ở nước Thái là Vương quốc Tố Khả Thái (素可泰王國/Sukhothai Kingdom), thủ đô của vương quốc ở thành Tố Khả Thái (Sukhothai Thani) có vị trí là đồng bằng trung tâm của nước Thái, ở phía bắc thành phố Mạn Cốc (Bangkok City) khoảng 427 cây số. Thành Tố Khả Thái vốn là vùng đất thuộc quản lí của người Cát Miệt (người Khmer), vào năm 1238 CE thì có hai viên tướng người Thái là Khôn Bang Cương Đào (坤邦鋼陶/Khun Bang Klang Thao) và Khôn Phạ Mãn (坤帕滿/Khun Pha Muang) cát cứ độc lập, dựng nên vương quốc Tố Khả Thái (素可泰王國/Sukhothai Kingdom). Khôn Bang Cương Đào được suy tôn là Ấn Lạp Đệ Vương (印拉第王/King Sri Intratit), trở thành vị vua của nước Thái đầu tiên.

    [img]https://i1.read01.com/uploads/0DQClEwD2x.jpg[/img]
    Di tích của vương quốc Tố Khả Thái ở nước Thái

    Đương nhiên, quan hệ của chặng đường Bách Việt – người Điền thuộc nước Điền cổ – người Thái ở trên là còn được giới học thuật tranh luận, nhưng chúng tôi ít nhất cũng được thừa nhận là người Thái (傣族) ở Trung Quốc và người Thái (泰族) ở các nước Miến Điện-Lào-Thái-Ấn Độ-Việt Nam là cùng một dân tộc. Tiếng Thái (泰語) cùng tiếng Choang (壯語)-tiếng Đồng (侗語) có liên hệ chặt chẽ, tiếng Thái thuộc ngữ tộc Đồng-Tày ngữ hệ Choang-Đồng.

    [img]https://i2.read01.com/uploads/0DQClEwa3O.jpg[/img]
    Bản đồ phân bố của các dân tộc ngữ hệ Choang-Đồng

    Đến thời Minh-Thanh, có nhiều người Hoa (華人) di dời đến vùng đất Đông Nam Á, vào khoảng thế kỉ 18 CE thì người Hoa ở nước Thái đã lập nên vương triều Thôn Vũ Lí (吞武里王朝), người lập nên vương triều Thôn Vũ Lí mang dòng máu lai Hoa-Thái, người đó là Trịnh Tín (鄭信/Taksin).

    [img]https://i2.read01.com/uploads/0DQClEl0u7.jpg[/img]
    Lãnh thổ nước Thái (bấy giờ gọi là Xiêm/Siam) của vương triều Thôn Vũ Lí do người gốc Hoa dựng nên

    Nói tóm lại, lịch sử các vương triều của nước Thái là:

    – Vương triều Tố Khả Thái (素可泰王朝) là do người Thái lập nên.
    – Vương quốc A Du Đà Da (阿瑜陀耶王朝) là do người Hoa lập nên.
    – Vương quốc Thôn Vũ Lí (吞武里王朝) là do người Hoa lập nên.
    – Vương triều Mạn Cốc (曼谷王朝) là do người Môn lập nên.

    Vương triều Mạn Cốc hay là Vương triều Tức Khắc Lí (却克里王朝), người thành lập nên vương triều này là con nuôi của Trịnh Tín, do đó vương thất của quốc vương nước Thái có quan hệ chặt chẽ với người Hoa.

    Vì nước Thái và Trung Quốc có quan hệ nguồn gốc sâu xa, người Thái ở nước Thái và người Thái ở tỉnh Vân Nam của Trung Quốc đều là cùng một dân tộc, mà người Hoa ở nước Thái cũng rất nhiều, cho nên quan hệ giữa nước Thái với Trung Quốc cũng rất thân thiện.

    Hiện nay văn hóa nước Thái thu nạp ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc và văn hóa Ấn Độ, nhưng ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc sâu đậm hơn. Đương nhiên khi tiến nhập vào thời kì hiện nay thì văn hóa phương Tây cũng bắt đầu ảnh hưởng sâu đậm vào nước Thái.

    [img]https://i3.read01.com/uploads/0DQClEM3kq.jpg[/img]
    Cựu thủ tướng nước Thái là Anh Lạp (英拉) vốn là dòng dõi người Hoa

    https://read01.com/KE50RP.html

    Thích

      • Là đáng tin bạn ạ. Theo quyển “Lặc sử” và truyền thuyết dân gian của người Thái ở Châu tự trị Thái tộc Tây Song Bản Nạp tỉnh Vân Nam – Trung Quốc thì người Thái vào thời Bắc Tống đã thành lập nên các liên minh bộ lạc, mà trong tiếng Thái gọi là “mông” tức là “mường” đấy. Miền Tây Bắc và miền tây Thanh Hóa-Nghệ An ở Việt Nam có các xứ như Mường Thanh, Mường Lò, Mường Lay, Mường Xén, Mường Lát… chính là các “mong”/mường của người Thái đấy. Người Thái đến miền Tây Bắc Việt Nam khoảng thời nhà Đường và phát triển đến thời nhà Tống-Nguyên về sau, tức là trong sử Việt có nói đến người Man Ai Lao, Man Ngưu Hống.

        Rất dễ hình dung, vào khoảng thế kỉ 11-12 ngang với thời Bắc Tống ở Trung Quốc, tức là thời nhà Lí-Trần ở Việt Nam. Từ cái nôi Tây Song Bản Nạp, các liên minh bộ lạc người Thái đã từ đó tỏa ra như hình cánh quạt, phía tây đến miền Bắc Miền Điện, phía nam đến các nước Lào-Thái, phía đông đến miền Tây Bắc Việt Nam.

        Thích

      • Có thuyết cho rằng đợt di dân chính của người Thái Vân Nam là từ sự sụp đổ của Đại Lý trước quân Mông Cổ, đợt di dân lớn này là nguyên dân hình thành các vương quốc người Thái ở Đông Nam Á (Sukhothai)

        Thích

  3. 從泰族社會結構看泰族遷徙問題
    Từ kết cấu xã hội của người Thái đến vấn đề di dời của người Thái

    Những năm thập niên 80 thế kỉ 20, giới làm chính trị Trung Quốc ra sức phản bác chuyện “các nước Nam Chiếu-Đại Lí là nhà nước được người Thái (傣族/泰族) dựng nên”; đồng thời họ suy luận câu từ và dẫn dụng tư liệu lịch sử để dựng nên chuyện “các nước Nam Chiếu-Đại Lí là chính quyền do người Di (彝族) và người Bạch (白族) làm chủ”, phủ nhận sự thật là người Thái đã di dời ra khỏi vùng đất trung thượng du sông Lan Thương (瀾滄江中上游地區). Vả lại lí luận của giới nghiên cứu về người Thái về vấn đề “người Thái di dời ra sao” hay “vì sao lại di dời” trước sau cũng không làm cho người ta tin phục được. Giới làm chính trị Trung Quốc chỉ cần hỏi một câu là “vì sao sách sử không ghi chép đến sự di dời của người Thái?” Vậy cũng đủ để giới nghiên cứu về người Thái không có cách gì trả lời được!

    Không chỉ là người Thái (傣族) ở Trung Quốc mà người Thái (泰族) ở bang Shan nước Miến Điện-nước Thái-nước Lào-miền Tây Bắc nước Việt Nam đều có rất ít truyền thuyết về sự di dời của mình. Các thôn trại của người Thái không chỉ có ở vùng đất trung thượng du sông Lan Thương mà thôi, mà còn có không ít văn vật phát hiện được cũng chứng minh dấu vết hoạt động cư trú của tổ tiên người Thái, ghi chép về tên gọi ở một dải các vùng đất như Mông Tủy (vùng thung lũng bên sông Dạng Tị), Mông Xá (vùng lòng chảo huyện Nguy Sơn), Mãnh Chưởng (vùng lòng chảo huyện Bảo Sơn), Mãnh Cốc (vùng lòng chảo huyện Cảnh Đông) cũng chứng tỏ đây là dấu ấn của người Thái.

    Nhưng vì sao sách sử không ghi chép rõ ràng về sự di dời của người Thái? Để trả lời vấn đề này, chúng ta phải đi sâu tìm hiểu kết cấu xã hội của người Thái. Kết cấu xã hội của người Thái lấy văn hóa thôn trại làm cơ sở. Nếu bỏ qua văn hóa thôn trại thì rất khó giải thích được các hiện tượng lịch sử của người Thái.

    Thôn trại (村寨) trong tiếng Thái (傣語) gọi là “man”/bản (tiếng Hán phiên âm thành 曼/man, 蠻/man, 芒/mang), có tác dụng rất là quan trọng trong vai trò kết cấu xã hội của người Thái. Người thống trị đề ra dao dịch hay các việc khác đều lấy thôn trại làm đơn vị hành chính căn bản. Người dân sinh hoạt hàng ngày cũng lấy thôn trại làm trung tâm. Trong quan niệm truyền thống của người Thái thì các việc lớn của đời người như vinh nhục-an nguy-tính mệnh-gia đình đều liên hệ với thôn trại.

    Đơn vị “mong”/mường (tiếng Hán phiên âm thành 蒙/mông, 猛/mãnh, 勐/mãnh, 孟/mạnh, 木/mộc) trong thôn trại là khái niệm hơi có lẫn lộn.
    – Một thuyết cho rằng vùng thung lũng bên sông suối hay vùng lòng chảo nhỏ gọi là “mong”. Ví dụ vùng thung lũng bên sông Dạng Tị gọi là Mông Tủy (蒙嶲), vùng lòng chảo ở huyện Nguy Sơn gọi là Mông Xá (蒙舍), vùng lòng chảo huyện Bảo Sơn gọi là Mãnh Chưởng (勐掌), vùng lòng chảo huyện Cảnh Đông gọi là Mãnh Cốc (猛谷).
    – Một thuyết cho rằng một vùng đất lớn hoặc một thành phố lớn gọi là “mong”. Ví dụ thành phố Côn Minh gọi là Mãnh Ta (勐些), thủ đô gọi là Mãnh Hóa Tướng (勐貨相).
    – Một thuyết cho rằng quốc gia/đất nước gọi là “mong”. Ví dụ nước Miến Điện gọi là Mãnh Man (勐蠻), nước Thái gọi là Mạnh Thái (孟泰).

    Từ đó có thể thấy người Thái không có khái niệm rõ ràng về quốc/nước (國). Không kể ai đến làm vua, chỉ cần kẻ thống trị cao nhất khong làm gì tổn hại đến lợi ích căn bản của thôn trại là được, chỉ cần làm cho họ an cư lạc nghiệp là được, người dân cũng không chú ý đến sự còn mất của quốc/nước.

    Chắc chắn mà nói thì trong tiếng Thái không có từ gọi là quốc/nước (國). Nước Thái sau khi độc lập dựng nước mấy trăm năm đã nêu rõ một số điều:
    – Vùng đất gọi là “man mãnh”/bản mường (曼勐).
    – Quốc gia/đất nước gọi là “tra” (查) hoặc “ba thiếp” (巴貼).

    Chúng tôi lí giải điều này không khó là vì sự tranh đấu trong lịch sử người Thái chỉ giới hạn trong thôn trại hay chỉ xung đột ở cấp hành chính “mong”/mường trên thôn trại là nhiều nhất mà thôi. Ví dụ khi có người nước ngoài (ví như người Miến) đến xâm lược thì chẳng có người Thái nào chủ động dấn thân mà làm việc “giúp nhà giữ nước” cả, thậm chí trong các truyền thuyết và tác phẩm văn học có nói đến các anh hùng người Thái cũng chỉ là một số thủ lĩnh của các “mong”/mường ở trên thôn trại, hoặc chỉ là nhân vật nửa người nửa thần có công cầm ma bắt quỷ mà thôi. Tức là nói trong quan niệm của người Thái không có anh hùng dân tộc chống ngoại xâm “tận trung báo quốc”.

    Đây không phải nói là người Thái tham sống sợ chết, mà là nói trong lịch sử người Thái không quan niệm tận trung báo quốc, không có quan niệm tự hào dân tộc, từ đó không sinh ra lãnh tụ có thể tập hợp toàn dân hay thực thể văn hóa có thể tụ họp được mọi người. Khái niệm tận trung báo quốc trong tổ tiên người Thái rõ ràng là rất trừu tượng và xa vời.

    Đối với tổ tiên người Thái thì “chiếu mãnh”/chúa mường (詔勐) tức là “chúa của một vùng” mới là thủ lĩnh cao nhất của họ, mới là quan phụ mẫu của họ, thậm chí có quyền sinh sát ban đoạt, không kể là bị ép hay là tự nguyện thì họ đều phải tin phục sự điều khiển của “chiếu mãnh”/chúa mường.

    “Chiếu mãnh”/chúa mường là một thủ lĩnh địa phương, lợi ích gắn với bản thân họ cũng chỉ là quyền thống trị trong quản hạt của họ, chỉ làm các việc là: thu thuế ruộng, kén chọn các cô gái xinh đẹp của nhà dân đem về cưới làm vợ lớn-bé, phát lệnh cho các thôn trại phục dịch họ, lúc có việc lớn điều động binh lính theo “chiếu mãnh”/chúa mường đi đánh dẹp; còn lại các việc nhỏ ở trong nhà, bao gồm các việc khênh kiệu, che ô, nuôi bò, chăn ngựa, làm việc lặt vặt. Một số việc khác lại phát lệnh cho thủ lĩnh của các thôn trại khác tự làm. Cũng tức là nói rằng kẻ thống trị của người Thái từ xưa dựng nước không có cơ cấu của một quốc gia/đất nước lớn mạnh.

    Nước Ai Lao (哀牢國) trong tiếng Thái gọi là Mãnh Đạt Quang (勐達光), là quốc gia/đất nước sớm nhất được sử sách ghi chép của người Thái. Sử sách Trung Quốc chép rằng: “Nước ấy đông tây dài ba nghìn dặm, nam bắc rộng bốn nghìn sáu trăm dặm.” Đây là phạm vi lãnh thổ của nước này. Vào thời nước này quy phụ nhà Hán, theo 《Hậu Hán thư – Ai Lao liệt truyện》ghi chép như vầy: “Vào năm Vĩnh Bình thứ 6 (năm 69 CE) thì vua Ai Lao tên là Liễu Mạo sai con đem người cả nước nội thuộc, nước ấy có 77 người tự xưng làm vương/vua, có 51.890 hộ, có 553.711 khẩu, phía tây nam cách thành Lạc Dượng bảy nghìn dặm. Hiển Tông (Hán Minh Đế) lấy nước ấy đặt thành hai huyện Ai Lao-Bác Nam.” Cũng tức là nói, cùng với vua Ai Lao (哀牢王) quy phụ nhà Hán còn có 77 vị vương/vua khác, vua Ai Lao chỉ là vua của các vua ấy mà thôi, các vị vương/vua cùng lúc quy phụ nhà Hán, vua Ai Lao chỉ là minh chủ trong số bọn họ, cũng không có cơ cấu quốc gia/nhà nước hoàn chỉnh.

    Mãnh Đạt Quang hay có nước nào sớm hơn nữa cũng không nói rõ được vấn đề. Chúng ta hãy xem 1.000 năm sau khi Mãnh Đạt Quang quy phụ nhà Hán là có Mãnh Lặc (勐泐), tức là nước Cảnh Lũng (景隴國). Sách sử liên quan ghi chép người dựng nên Mãnh Lặc tên là Chiếu Chân (詔真), vốn là một thủ lĩnh của người Thái ở trong nước Đại Lí (大理國), vào năm 1180 CE đã dựng nên Mãnh Lặc ở vùng đất trung hạ du sông Lan Thương (瀾滄江中下游地區). Một thủ lĩnh địa phương trong một quốc gia/nhà nước nói dựng nước là dựng nước luôn, chứng minh vùng đất mà chính quyền nước Đại Lí khống chế chỉ là trên danh nghĩa, trên bản chất chỉ là một dạng liên minh. Nước Đại Lí kế thừa di sản chính trị của nước Nam Chiếu (南詔國) mà còn như thế, vậy thì vùng đất mà nước Nam Chiếu khống chế e rằng cũng không chắc chắn hơn nước Đại Lí là mấy.

    Sau thời Chiếu Chân dựng nên Mãnh Lặc hơn 100 năm thì có chuyện ở nước Bát Bách Tức Phụ (八百媳婦). Theo 《Nguyên sử – Bộ Lỗ Cáp Đáp liệt truyện》ghi chép: “Bộ Lỗ Cáp Đáp theo đi đánh nước Bát Bách Tức Phụ, đến bộ Xa Lí. Bộ Xa Lí là chỗ mà tù trưởng nước ấy ở. Chư Vương là Khoát Khoát sai Bộ Lỗ Cáp Đáp đem 200 quân du kị đến dụ bộ ấy hàng, không nghe, bèn tiến binh đánh bộ ấy. Đô trấn phủ là Hầu Chính chết ở trận. Bộ Lỗ Cáp Đáp hủy được rào gỗ ở cửa bắc trại rồi vào trại ấy. Do đó nước ấy đều bình định.” Sau đó nhà Nguyên đặt ra Triệt Lí quân dân tổng quản phủ (徹里軍民總管府) để thống trị người Thái. Bộ Lỗ Cáp Đáp đem theo 200 quân du kị đến đánh, chỉ chết mấy viên Đô trấn phủ là Hầu Chính, thế mà chiếm lĩnh được vương thành của Mãnh Lặc, vương thành ấy thật là thô sơ làm sao.

    Sách 《Lặc sử》còn ghi chép Mãnh Giao (勐交), Mãnh Lão (勐老), Mãnh Lan Nạp (勐蘭納) đều lệ thuộc vào Mãnh Lặc (勐泐). Có thể sau này Mãnh Lan Nạp tức là nước Lan Nạp (蘭納國) lại khuếch trương thế lực, thậm chí đã từng đánh bại sự xâm nhập của quân nước Nam Chiếu (南詔國) và nước Chân Lạp (真臘國), lại làm cho nước Cáp Lợi Bôn Sai (哈利奔猜國) tức là nước Nữ Vương (女王国) bị diệt vong. Một số “mong”/mường từng lệ thuộc Mãnh Lặc lại chuyển sang lệ thuộc Mãnh Lan Nạp. Từ đó suy đoán, vào lúc kẻ thống trị Mãnh Lặc cường thịnh thì thủ lĩnh các “mong”/mường xung quanh sẽ hướng về xưng thần và tiến cống các loại vàng bạc-châu báu, nếu gặp người nước ngoài sang xâm lược thì thủ lĩnh của Mãnh Lặc sẽ kêu gọi các thủ lĩnh của các “mong”/mường khác cùng chống giữ mà thôi, các “mong”/mường khác đều không chịu sự quản lí trược tiếp của Mãnh Lặc. Nếu có ngày các “mong”/mường khác cường thịnh lên thì có thể tùy thời mà chuyển ngôi minh chủ cho họ. Quan hệ lệ thuộc này thực ra chỉ rất tạm bợ lỏng lẻo.

    Mãnh Mão Lộng (勐卯弄) tức là nước Ma Xuyên (麓川國), là chính quyền lớn mạnh nhất trong lịch sử của người Thái, họ chống lại nhà Minh suốt hơn 100 năm, mỗi lần chiến tranh là có thể phát động được 10 vạn đến 30 vạn quân lính, có hơn 100 con voi và hàng nghìn con ngựa chiến. Một quốc gia/nhà nước lớn mạnh như vậy, lại có một một tình thế nào?

    Nhà Minh rất là xem trọng đối với Mạnh Mão Lộng, ở kinh thành đặt ra cơ quan gọi là Tứ Di quán (四夷館), tựa như bộ Ngoại giao ngày nay, trong đó lại có Bách Di quán (百夷館) là quán chỉ chuyên đón tiếp sứ giả người Thái, còn sai hai viên đặc sứ là Tiền Cổ Huấn (錢古訓) và Lí Tư Thông (李思聰) đi sứ đến Mãnh Mão Lộng. Hai người này sau khi đi sứ về đã soạn nên bộ sách 《百夷傳/Bách Di truyện》kể rõ về tình hình phát triển kinh tế-chính trị và nhân vật-phong tục của Mãnh Mão Lộng. Ví dụ kể về đô thành Giả Lan (者闌) của Mãnh Mão Lộng, chúng ta không biết được cung điện nguy nga ra sao, tường thành cao dày thế nào, nhưng di chỉ vương cung còn để lại có thể thấy vương cung được dựng ở lưng chừng núi cũng có quy mô khá lớn. Ghi chép về tổ chức quân đội của Mãnh Mão Lộng cũng rất toàn diện, đến nay quân bang Shan ở nước Miến Điện còn sử dụng. Chỉ là thực lực quân đội của Mãnh Mão Lộng còn chưa rõ thế nào mà Mãnh Mão Lộng lại có thể điều động được 10 vạn quân như vậy? Nhưng 《Bách Di truyện》cũng ghi rõ rằng: “Không phân biệt quân hay dân, tụ họp thì thành quân, tản ra thì thành dân, nếu có chiến tranh thì cứ 3 người hoặc 5 người họp thành một đội, chọn kẻ khỏe để quản quân, gọi là Tích thứ, Tích thứ cầm quân ngăn địch, người còn lại đều vâng lệnh, cho nên lúc hành quân có 5-6 vạn người nhưng đánh trận thật chỉ có không đến 2 vạn người. Quân đi không thẳng hàng, trước sau không theo thứ tự, phần lớn dùng voi chiến để tạo thế mạnh…” Ghi chép này cho chúng ta thấy Mãnh Mão Lộng không có quân dự bị bao nhiêu, phần lớn người dân lúc được điều động thì đều cầm vũ khí, đây là thủ lĩnh của các địa phương đem người dân của các thôn trại và các “mong”/mường lớn nhỏ, họ thống lĩnh quân đội và người dân của mình, tức là không có cơ cấu rõ ràng. Quốc vương (國王) của họ gọi là Chiếu pháp lộng (詔法弄) chỉ có thể để các Chiếu mãnh( 詔勐) tự điều động làm việc. Nếu một khi Chiêu pháp lộng không có năng lực thì các thủ lĩnh của các “mong”/mường cũng rất tự nhiên sẽ khôi phục địa vị thủ lĩnh riêng của mình.

    Đây là nói rõ rằng trong xã hội người Thái thì không kể chính quyền dựng nên thế nào, thì trước sau vẫn lấy thôn trại làm cơ sở, lấy “mong”/mường là thể liên minh lớn là đơn vị quản hạt chủ yếu. Nếu minh chủ một thời lớn mạnh thì tạo thành thế lực:
    – Xưa thì có Mãnh Đạt Quang (勐達光) tức là nước Ai Lao (哀牢國), Mông Xá (蒙舍) tức nước Nam Chiếu (南詔國).
    – Gần đây thì có Mãnh Mão Lộng tức nước Ma Xuyên, Mãnh A Ngõa (勐阿瓦) tức nước A Ngõa (阿瓦國), Mãnh Lặc (勐泐) tức nước Cảnh Lũng (景隴國), Mãnh Lan Nạp (勐蘭納) tức nước Lan Nạp (蘭納國).

    Một khi không còn minh chủ như vậy thì liên minh sẽ tự giải tán tổ chức.

    Chỉ có thôn trại mới là căn bản của xã hội người Thái, như vậy người Thái mới sinh sôi không ngừng. Cơ cấu mỗi thôn trại của người Thái có từ 10 đến 100 hộ gia đình, trên 1.000 hộ gia đình là thôn trại lớn cũng tạo nên đơn vị hành chính gọi là “chiang”/chiềng/thành (tiếng Hán phiên âm thành 景/cảnh, 清/thanh, 遮/già, 姐/thư), nhưng cơ cấu tổ chức xã hội cơ bản vẫn là thôn trại. Lấy thủ lĩnh của thôn trại làm đầu, không chỉ là người nhậm chức Chiếu mãnh (詔勐), trên thực tế cũng là người nông dân, chỉ chẳng qua là có quyền quản lí người dân của thôn trại mà thôi, chỉ là người đưởng hưởng vật chất lớn nhất và người được tôn trọng nhất. Ở trong một tổ chức như vậy, ngày thường thì đều từ cày ruộng dệt vải, khi có việc lớn chỉ đều cả thôn trại đều họp sức, quy định luật lệ còn đơn giản. Về mặt tín ngưỡng tinh thần thì họ cúng bái quỷ thần và tổ tiên, sau này Phật giáo truyền sang thì cũng tín ngưỡng vào đó. Họ tự do ca hát nói chuyện tình cảm luyến ái, đây là lề thói từ xưa đến nay của của xã hội người Thái.

    Một khi lề thói ấy bị phá vỡ, ví như gặp thiên tai tự nhiên hoặc do chiến tranh bùng phát thì tất cả người dân sẽ cùng ngăn chống hoặc là khuất phục, chỉ lúc không còn cách nào nữa mới đem cả nhà bỏ đi ra ngoài, lớn nhất là đem cả thôn trại di dời đi chỗ khác. Chúng tôi cho rằng cách di dời này là cách di dời của người Thái. Trong dòng chảy lịch sử dài đằng đẵng thì cách di dời này không giống với cách di chuyển như gió to bão lớn của người dân du mục ở thảo nguyên, cũng không giống làn sóng di dân nhiều mấy vạn hoặc mấy chục vạn người đi tránh nạn mất mùa chiến tranh của người Hán ở Trung Nguyên. Đây là lấy thôn trại làm đơn vị để khi di dời từng bước từng bức đến vùng đất mới, lại dựa vào sự giống nhau của ngôn ngữ và phong tục tập quán thì dần dần sẽ tụ họp một nhóm, cũng tức là cách di dời này sẽ khiến cho người bản địa bài xích, nhưng cách này cũng không gây xung độ uy hiến với cư dân bản địa, cũng tức là không có xung đột quy mô lớn. Cách này cũng không trở thành “sự kiện lịch sử” đáng nhớ; trải qua mấy chục năm, thậm chí là mấy trăm năm phát triển thì dựa vào kĩ thuật sản xuất ưu tú của mình thì người Thái đã có ưu thế về dân số, lại trở thành dân tộc chủ đạo của vùng đất mới mà họ di dời đến.

    Lấy thôn trại làm cách thức di dời cơ bản của người Thái, trong quá trình lịch sử dài hơn 1.000 năm đó thì trong quá trình di dời đó không có cuộc bạo động đủ lớn để người trong ngoài chú ý đến, cũng tức là không có việc lớn nào đủ để khiến cho cư dân bản địa phải “khắc cốt ghi tâm”. Cũng tức là nói đây là các cuộc di dời âm thầm không có tiếng vang, cũng không phải là hành đồng chinh phục “có thanh có sắc”. Bấy giờ người Thái không ngừng dung hợp với các dân tộc nhỏ hơn, đúng là họ đứng chân trên vùng đất ấy một cách vững chắc mới khiến cho các quốc gia/đất nước xung quanh không được các bương triều Trung Nguyên chú ý đến, đây là chuyện khá dễ hiểu. Cũng tức là vì sao các chuyện về vương triều Tố Khả Thái trong lịch sử nước Thái lại chủ yếu là lưu truyền qua truyền thuyết mà các chuyện từ vương triều Tố Khả Thái về sau lại có phần rõ ràng hơn. Ghi chép về “mong”/mường của người Thái trong sử liệu Trung Quốc cũng khá rõ ràng và phong phú hơn từ thời nhà Nguyên ngang với vương triều Tố Khả Thái về sau. Điều này khiến cho người ta đột nhiên có cảm giác là một số thủ lĩnh của người Thái lại đột ngột xuất hiện như vậy.

    Tình huống thực tế là, người Thái không chỉ di dời hoặc chinh phục thì đều là hành động nước chậm ngấm lâu của việc lấy thôn trại làm đơn vị cơ bản. Trong quá trình di dời ôn hòa ấy đã không xảy ra xung đột lớn, chỉ có xôm tụ một lực lượng lớn mới khiến cho người bản địa phải chú ý. Đây là nguyên nhân sách sử không ghi chép rõ ràng về quá trình di dời về phía tây và phía nam của người Thái trong lịch sử.

    https://i1.kknews.cc/large/a240008b1d4cc66a706
    Bản đồ phân bố của dân tộc Thái (màu hồng)

    https://kknews.cc/history/nxy4b2.html

    Thích

Trả lời

Điền thông tin vào ô dưới đây hoặc nhấn vào một biểu tượng để đăng nhập:

WordPress.com Logo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản WordPress.com Đăng xuất /  Thay đổi )

Twitter picture

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Twitter Đăng xuất /  Thay đổi )

Facebook photo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Facebook Đăng xuất /  Thay đổi )

Connecting to %s