
Hồ Bạch Thảo
Sau khi quân Thanh vào thành Thăng Long, Ngô Văn Sở báo tin cho Bắc bình vương Nguyễn Huệ về thanh thế quân địch; Nguyễn Huệ cười mà nói rằng:
“Việc gì mà cuống quýt lên vậy? Chúng nó chỉ tự đến để đi tới chỗ chết thôi. Ta hãy lên ngôi, làm cho danh nghĩa được quang minh chính đại để giàng buộc lấy lòng người trong Nam và ngoài Bắc trước đã, rồi sẽ ra bắt sống chúng nó cũng chưa muộn nào!”
Bèn chọn gấp ngày tốt, làm lễ tế trời ở Bân Sơn [xã An Cựu, huyện Hương Trà, Thừa Thiên], rồi xưng Hoàng đế, niên hiệu Quang Trung năm thứ nhất [1788]. Ngay ngày hôm ấy, Vua Quang Trung điều quân ra Bắc; khi qua Nghệ An và Thanh Hoa, lấy thêm quân lính, cả thảy được 10 vạn quân và hơn 100 con voi; bèn tạm đóng quân ở Thọ Hạc [huyện Đông Sơn, Thanh Hóa]. Nhà Vua lại sai người ruỗi ngựa đưa thư đến Tôn Sĩ Nghị để xin hàng; lời lẽ trong thư rất nhũn nhặn, khiêm tốn.
Rồi kéo quân ra Bắc, đến ngày 20 tháng chạp [15/1/1789] thì đến núi Tam Điệp [ranh giới Thanh Hóa, Ninh Bình] , nơi tuyến phòng thủ của Ngô Văn Sở. Vua Quang Trung truyền cho tướng sĩ ăn tết Nguyên Đán trước, để đến hôm trừ tịch [25/1/1789] thì cất quân đi, đoạn truyền lệnh cho ba quân đến nghe lệnh điều khiển: Đại tư mã Sở, Nội Hầu Lân đem tiền quân đi làm tiên phong. Hô hổ Hầu đem hậu quân đi đốc chiến. Đại đô đốc Lộc, Đô đốc Tuyết đem hữu quân cùng thủy quân, vượt qua bể vào sông Lục Đầu. Rồi Tuyết thì kinh lược mặt Hải Dương, tiếp ứng đường mé đông; Lộc thì kéo về vùng Lạng Giang, Phượng Nhỡn, Yên Thế để chặn đường quân Tàu chạy về. Đại đô đốc Bảo, đô đốc Mưu đem tả quân cùng quân tượng mã đi đường núi ra đánh phía tây. Mưu thì xuyên ra huyện Chương Đức [huyện Chương Mỹ, Hà Tây], tiện đường kéo thẳng đến làng Nhân Mục [Hà Nội], đánh quân Điền Châu; Bảo thì thống suất quân tượng mã đến làng Đại Áng thuộc huyện Thanh Trì [Hà Nội] tiếp ứng cho mặt tả.
Đến khuya đêm 30 [25/1/1789] xuất quân; ngày mồng hai tháng giêng [27/1/1789] vượt sông Giản Thủy [sông Đáy, tại biên giới Ninh Bình và Hà Nam]; quân phòng thủ nhà Lê tại đây đều tan vỡ bỏ chạy. Ngày 4 [29/1/1789], tháng giêng, quân lưu động Tây Sơn đi tiên phong, đánh trận giả thua, nên Tôn Sĩ Nghị coi khinh.
Tiếp đến quân Tây Sơn chiến thắng quân Thanh tại Hà Hồi [huyện Thường Tín, Hà Tây], và Ngọc Hồi [huyện Thanh Trì, Hà Nội].
Về trận đánh tại đồn Ngọc Hồi vào đêm mồng 5 tháng giêng [30/1/1789], các sử gia Việt, Trung, trình bày chi tiết khác nhau; chúng tôi xin phân tích, nhắm tìm tòi sử liệu hợp lý.
Hòang Lê Nhất Thống Chí , một bộ tiểu thuyết lịch sử của Ngô Gia Văn Phái viết theo lối chương hồi, trong chương 14 nhan đề :
Đánh Ngọc Hồi quân Thanh bị thua trận
Bỏ Thăng Long , Chiêu Thống trốn ra ngoài
chép như sau:
“Vua Quang Trung lại truyền lấy sáu chục tấm ván , cứ ghép liền ba tấm làm một bức, bên ngòai lấy rơm dấp nước phủ kín , tất cả là 20 bức . Đoạn kén loại lính khỏe mạnh, cứ 10 khiêng một bức, lưng dắt dao ngắn. Hai mươi người khác đều cầm binh khí theo sau, dàn thành trận chữ “nhất”; vua Quang Trung cửi voi đi đốc thúc , mờ sáng ngày mồng 5 tiến sát đồn Ngọc Hồi . Quân Thanh nổ súng bắn ra chẳng trúng người nào cả. Nhân có gió bắc, quân Thanh bèn dùng ống phun khói lửa ra, khói tỏa mù trời, cách gang tấc không thấy gì, hòng làm cho quân Nam rối loạn. Không ngờ trong chốc lát trời bổng trở gió nam, thành ra quân Thanh lại tự làm hại mình.
Vua Quang Trung liền sai đội khiêng ván vừa che vừa xông thẳng lên phía trước. Khi gươm giáo hai bên đã chạm nhau thì quăng ván xuống đất, ai nấy cầm dao ngắn chém bừa; những người cầm binh khí theo sau cũng nhất tề xông tới mà đánh. Quân Thanh chống không nỗi bỏ chạy tán loạn, giày xéo lên nhau mà chết. ” ( Bản dịch của Nguyễn Đức Vân và Kiều Thu Hoạch, trang 223-224 )
Tác giả Việt Nam Sử Lược, Trần Trọng Kim cũng chép tương tự. Chúng ta tự hỏi rằng 10 người khiêng một bức, cho dù đồn binh bằng phẳng như một sân đá banh [mà thực tế không thể có như vậy] cũng phải nhắc tấm ván lên khỏi mặt đất vài chục phân mới di chuyển được, quân Thanh trang bị đầy đủ súng điểu thương, ống phun lửa ; cứ nhắm chân mà bắn ắt phải có người bị thương, ngã xuống không khiêng được . Một bức ván với 30 quân sĩ, kể cả 20 quân tháp tùng, đã gặp khó khăn như vậy; thì toàn bộ 20 bức ván gặp khó khăn đến nhường nào và làm sao có thể xung phong mạnh mẽ, chế ngự đồn được !
Nhà quân sự giỏi về “ công đồn ” có thể thấy được ở chổ : lập kế hoạch sát với thực tế , gây sự bất ngờ , thi triển đồng loạt , ít tổn thất , hiệu năng cao, hỏa lực phía trước mạnh . Sử liệu do hai bộ sử Thanh Thông Giám và Khâm Định Việt Sử Thông giám Cương Mục của triều Nguyễn đã mô tả rõ nét thiên tài của vua Quang Trung về chiến thuật công đồn với đủ những yếu tố nêu trên . Thanh Thông Giám chép :
“ Vào canh năm ngày mồng 5 [30/1/1789] Nguyễn Văn Huệ mang đại binh tiến đánh , thân tự đốc chiến , dùng 100 thớt voi khỏe làm tiên phong . Rạng sáng quân Thanh cho kỵ binh nghênh địch, ngựa bị voi quần kinh hãi bỏ chạy, quân rút lui vào trại cố thủ . Phía ngoài trại, lũy đầy chông sắt, bên trong bắn súng ra cự địch . Vào giờ Ngọ [11-13 giờ] quân Nguyễn bắn hỏa châu, hỏa tiển tới tấp; lại dùng rạ bó to lăn mà tiến đều, khinh binh theo sau [Ngọ thời Nguyễn quân lọan phóng hỏa tiễn, hỏa châu , tịnh dĩ hòa cán tác đại thúc , lọan cổn nhi tiền , khinh binh tùy chi], trước ngã sau tiến lên một lòng quyết chiến, tại các trại quân Thanh đồng thời tan vỡ , quân Nguyễn thừa thắng chém giết , quân Thanh tử thương quá nữa .”
Sách Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục cũng chép tương tự :
“ Hồi trống canh năm sớm hôm sau [mồng 5 tháng giêng] , Văn Huệ xắn tay áo đứng dậy, đốc thúc bản bộ lùa quân rầm rộ tiến lên. Chính Văn Huệ tự mình đốc chiến, cho hơn trăm voi khỏe đi trước. Tờ mờ sáng quân Thanh lùa toán quân kỵ tinh nhuệ ồ ạt tiến. Chợt thấy bầy voi, ngựa quân Thanh đều sợ hãi, hí lên, tế chạy, lồng lộn quay về, chà đạp lẫn nhau. Giặc lại lùa voi xông đến: quân Thanh trong cơn gấp rút, không cứu nhau được, ai nấy rút trong lủy để cố thủ. Bốn mặt đồn lủy quân Thanh đều cắm chông sắt, súng và tên bắn ra như mưa . Giặc [Tây Sơn] dùng những bó rơm to để che đỡ mà lăn xả vào, rồi quân lính tinh nhuệ tiến theo sau. Kẻ trước ngã, người sau nối, thảy đều trổ sức liều chết mà chiến đấu. Các lũy quân Thanh đồng thời tan vở và quân Thanh đều chạy. ”
Hai sử liệu từ hai nước Hoa, Việt đều xác nhận vua Quang Trung dùng voi để chống lại kỵ binh. Ngựa sợ voi là chuyện tự nhiên, lính tháp tùng trên lưng voi từ trên cao khống chế quân kỵ một cách dễ dàng, lại còn có sức mạnh đàn áp tinh thần địch về mặt tâm lý. Việc sử dụng voi đúng chổ hiện diện của kỵ binh, chứng tỏ đạo quân vua Quang Trung hơn hẳn về mặt tình báo .
Việc dùng rạ [hòa cán ] bó thành bó lớn như bánh xe lăn khổng lồ [dùng để cán sửa đường lộ] , bó nọ nối liền bó kia cùng lăn đều , tạo thành bức tường di động giúp quân lính núp đằng sau tương đối an tòan , vừa tiến lên vừa bắn , để đánh chiếm đồn giặc là một sáng kiến tuyệt diệu; xin được phân tích như sau :
– Vật liệu lấy tại chỗ: Bấy giờ vào đầu tháng giêng, nhà nông tại vùng xung quanh Ngọc Hồi có thể còn phơi rạ ngoài đồng, hoặc làm đụn rạ trong vườn để dành dùng đun nấu, cho bò ăn , hoặc đánh tranh lợp nhà . Rạ là vật liệu rất cần thiết cho nông dân, ở nhà quê đâu đâu cũng có. Còn dây buộc là tre non chẻ ra, hoặc cây mây; hầu như có sẵn trong mọi vườn.
– Dễ bó thành bó tròn lớn: Người viết lớn lên từ nhà quê, đã nhiều lần thấy nông dân bó rạ với cung cách dùng hai đòn xọc cắm sâu xuống đất cách nhau khỏang 1 mét làm điểm tựa, chất rạ vào giửa hai đòn xóc lên cao đến đỉnh đầu, đứng lên trên đống rạ nén chặt, khi đã ưng ý kéo những sợi dây đã đặt sẵn dưới đống rạ lên rồi buộc chặt. Những nông dân có kinh nghiệm bó những bó rạ chắc chắn, lăn cách nào cũng không tung ra . Người viết cũng thấy tận mắt tại nông trại ở Mỹ, có những bó cỏ cho ngựa ăn , bó chặt cao quá đầu người ; lính Việt Nam phần lớn xuất thân từ nông dân , nếu ba bốn người hợp lực có thể bó những bó lớn như vậy .
– Khi khai triển đội hình hàng ngang, những bó rạ được lăn đều, nhanh chậm tùy theo hiệu lệnh của cấp chỉ huy .
– Nếu bó rạ lớn được nhúng nước, có khả năng ngăn cản đạn nhỏ của súng điểu thương, là loại súng quân Thanh được trang bị. Quân Tây Sơn khom lưng tiến sau bó rạ tương đối an toàn, ngòai việc lăn rạ còn có khả năng bắn phủ đầu đối phương .
– Hãy tưởng tượng hàng trăm bó rạ tạo thành bức thành di động, dù súng bắn vẫn lăn đều lên; lại còn có khả năng bắn trả lại; lúc lăn đến gần, quân Thanh ắt phải kinh hoàng mà bỏ chạy.
Ngòai ra cần phải nhắc thêm trong buổi sáng Vua Quang Trung cho voi quần khiến kỵ binh giặc tháo chạy, rồi quân Tây Sơn dùng “hỏa châu , hỏa tiễn ” bắn tới tấp lúc xung phong vào giờ ngọ , thật đúng bài bản “ tiền pháo , hậu xung ”, có thể ứng dụng bài học này cho ngay cả chiến tranh trong thời hiện đại !
Riêng lời tâu của Tổng đốc Tôn Sĩ Nghị trong Thanh Thực Lục không đề cập chi tiết trận đánh tại thành Thăng Long, cũng tránh nói đến việc ra lệnh chặt đứt cầu nỗi bắc qua sông Hồng; nhưng các bộ sử khác của Trung Quốc như Thanh Thông Giám, Thanh Sử Cảo đều chép. Tôn Sĩ Nghị tâu xin cách chức trị tội; nhưng lúc này Vua Càn Long từ chối, vì muốn khuyến khích y gia tăng trấn tĩnh để lo liệu việc triệt thóai, mong giảm bớt tổn thất:
“Ngày 25 tháng giêng năm Càn Long thứ 54 [19/2/1789]
Tổng đốc Lưỡng Quảng Tôn Sĩ Nghị tâu rằng sau khi thành nhà Lê được thu phục, vị trí dải đất về phía nam thành tiếp giáp với đất giặc. Theo lời Lê Duy Kỳ báo, vào ngày mồng hai tháng giêng năm nay [27/1/1789] quân lính của viên Quốc vương phòng thủ nơi nầy bị giặc đánh đuổi, bọn chúng rêu rao rằng sẽ trả thù rửa hận. Thần sai quan binh đến tiễu trừ, đánh bại bọn giặc. Rồi Lê Duy Kỳ nghe tin Nguyễn Huệ thân tới, sợ hãi gan mật tê liệt, tay bế con nhỏ, cùng với mẹ chạy trốn qua sông Phú Lương; khiến dân tình hoảng hốt, người trong nước rần rần chạy loạn. Thần cùng Đề đốc Hứa Thế Hanh lại đốc suất quan binh quyết tâm huyết chiến, nhưng không địch nỗi, vì giặc quá đông, vây kín đại binh bốn phía. Từ đó Thần và Đề đốc Hứa Thế Hanh không thấy mặt nhau nữa, Thần phá vòng vây, tiến thẳng tới cầu nổi, ra lệnh Tổng binh Lý Hóa Long qua sông để chiếm lấy bờ phía bắc. Lý Hóa Long đi đến giửa cầu, chẳng may trướt chân rơi xuống nước. Thần ra lệnh Phó tướng Khánh Thành quay đầu bắn súng điểu thương chặn địch, rồi mang binh từ từ theo cầu nổi tới bờ phía bắc, đoạn rút về sông Thị Cầu trú đóng. Một mặt cho người chạy đến vùng Lạng Sơn, ải Nam quan tìm mẹ con Lê Duy Kỳ; tạm trú bọn họ tại quan ải. Thần mang trọng trách không làm xong việc sớm, lần nầy lại bị giặc đánh chặn, xin được cách chức trị tội về việc điều binh sai lầm để làm răn.
Nay dụ các Quân Cơ Đại thần: Trẫm trước kia đã cho rằng Lê Duy Kỳ mềm yếu không có khả năng, xem ra trời đã ghét họ Lê nên không thể hỗ trợ được, mà dân tình An Nam lại phản phúc khó tin; nên đã giáng chỉ dụ lệnh Tôn Sĩ Nghị cấp tốc triệt binh. Nếu như Tôn Sĩ Nghị nhận được chỉ dụ bèn lập tức triệt hồi, thì ngày hôm nay đại quân đã về đến cửa quan ải rồi. Nay Nguyễn Huệ dám ra chặn đánh, nguyên do là Tôn Sĩ Nghị hy vọng Nguyễn Huệ sẽ hối lỗi đầu hàng để mọi việc được hòan mỹ, nên chần chừ ngày giờ, mới xẩy ra như vậy. Hiện tại vào tiết mùa xuân, tại nơi nầy mưa nhiều lắm chướng khí; nếu muốn cử đại binh cũng chưa phải lúc. Huống các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây trước đây tiếp tục điều binh, thì đã ra lệnh đình chỉ; nay lại rầm rộ truyền hịch điều động, thì cũng không đáp ứng được tình hình khẩn cấp, mà lại khiến cho lòng người thêm kinh hãi. Nói tóm lại đem binh triệt hồi, vẹn tòan quốc thể là điều cốt yếu.
Tôn Sĩ Nghị là người thống suất toàn quân, không thể làm việc mạo hiểm; viên Tổng đốc phá vòng vây để ra, hành động nầy rất đúng. Thứ đến, Hứa Thế Hanh là viên chức lớn với cấp bực Đề đốc cũng rất quan hệ; hiện nay chưa có tin tức, đang hết sức trông ngóng. Hai người phải lưu tâm thận trọng, đốc suất quan binh đến quan ải gấp. Theo lời tâu của Tôn Vĩnh Thanh thì Lê Duy Kỳ đến quan ải vào ngày mồng 7 tháng giêng [1/2/1789], hiện cho trú tại Nam Ninh. Bàn về việc hành quân từ trước tới nay không phải mỗi lần ra quân đều thuận lợi, như các cuộc hành quân tại Tân Cương, Tây Lộ, cho đến Lưỡng Kim Xuyên đều có những tổn thất nhỏ rồi mới thành công. Lần nầy Tôn Sĩ Nghị mang quân đến An Nam đánh giặc thành công quá dễ, nay có sự tổn thất biết đâu đây chính là Nguyễn Huệ tự mang lấy mầm diệt vong vậy. Tôn Sĩ Nghị và Hứa Thế Hanh hãy mang quân ra cho vẹn tòan, đừng làm tổn thương quốc thể; tương lai có liệu biện việc nầy hay không do chính Trẫm thao túng, rồi sẽ từ từ quyết định. Còn việc Tôn Sĩ Nghị tâu xin cách chức trị tội; thì việc tổn thương nầy ngoài ý muốn, không phải do viên Tổng đốc lầm lỡ mạo muội, tại sao lại tâu như vậy! Viên Tổng đốc phải gia tăng trấn tĩnh để lo liệu việc triệt thoái, chớ nên hoang mang ý loạn, đó là điều hết sức quan trọng. Chắc bọn Nguyễn Huệ cũng không dám xâm phạm biên giới của Thiên triều, tuy nhiên dọc theo quan ải cần dàn binh lực để làm mạnh thanh thế và chuẩn bị việc tiếp ứng. Hiện theo lời tâu của Tôn Vĩnh Thanh đã điều 1 ngàn quân tiến trước hợp với quân phòng thủ gồm 3 ngàn tên, sẽ lo điều động thêm. Nay dụ Tôn Vĩnh Thanh hãy tính toán kỹ nếu số binh lính không đủ dùng, thì có thể một mặt tiếp tục điều tại các doanh, một mặt tấu lên. Quân Quảng Tây hiện đang triệt hồi, còn đạo quân Vân Nam do ngã Tuyên Quang, An Biên (1) cũng phải triệt thoái gấp . Quân lính tại các doanh đồn trú tại Vân Nam tương đối nhiều, nếu quân số dưới quyền của Phú Cương và Ô Đại Kinh hiện nay không đủ dùng, thì đừng ngại lấy thêm quân từ các doanh để phòng thủ dọc biên giới, khiến cho thanh thế càng thêm mạnh mẽ.” ( Thanh Thực Lục, Cao Tông Thực Lục quyển 1321 tờ 868-869 )
Thanh Thông Giám chép sự kiện ngày mồng 5 tháng giêng [30/1/1789]; cho biết sau khi thua trận Ngọc Hồi, quân Thanh bị chia cắt từng nhóm rồi vây kín. Tôn Sĩ Nghị hoảng hốt rút lui, lập tức cho chặt đứt cầu phao, khiến quân Thanh không còn đường về, quan quân phần lớn tử trận:
“Vào canh năm ngày này [mồng 5] Nguyễn Văn Huệ mang đại binh tiến đánh, thân tự đốc chiến, dùng 100 thớt voi khỏe làm tiên phong. Rạng sáng quân Thanh cho kỵ binh nghênh địch, ngựa bị voi quần kinh hãi bỏ chạy, quân rút lui vào trại cố thủ. Phía ngoài trại, lũy đầy chông sắt, bên trong bắn súng ra cự địch. Vào giờ Ngọ [11-13 giờ], quân Nguyễn bắn hỏa châu, hỏa tiễn tới tấp; lại dùng rạ bó to lăn mà tiến đều, khinh binh theo sau, trước ngã sau tiến lên một lòng quyết chiến, tại các trại quân Thanh đồng thời tan vỡ, quân Nguyễn thừa thắng chém giết, quân Thanh tử thương quá nửa.
Đề đốc Hứa Thế Hanh thấy thế lực nhiều ít rõ ràng, bảo gia nhân đem ấn triện Đề đốc mang đi, rồi ra sức đánh, bị chết tại trận. Lúc này quân địch càng bị giết càng nhiều, chia cắt quân Thanh từng nhóm rồi vây kín. Thống soái Tôn Sĩ Nghị mất liên lạc với Hứa Thế Hanh và các đại viên Đề, Trấn; bèn ra lệnh Phó tướng Khánh Thành, Đức Khắc Tinh Ngạch mang 300 quân đoạt vây chạy về phía bắc. Khi tàn quân của Tôn Sĩ Nghị chạy đến bờ sông, thì số quân Thanh 3000 tên trú đóng tại bờ phía nam đã được Tổng binh Thượng Duy Thăng mang đi tiếp ứng cho Hứa Thế Hanh, bèn ra lệnh cho Tổng binh Lý Hóa Long vượt qua cầu nổi chiếm cứ bờ phía bắc, để tiện việc yểm hộ qua sông. Không ngờ Lý Hóa Long đi đến giữa cầu, trượt chân rơi xuống nước chết, số quân mang đi kinh hãi không biết làm gì. Tôn Sĩ Nghị ra lệnh Khánh Thành yểm hộ mặt sau bằng cách bắn súng điểu thương vào quân Nguyễn Văn Huệ đang truy kích, riêng mình tự mang quân theo cầu nỗi lui về bờ phía bắc; rồi lập tức cho chặt đứt cầu nổi, cùng với bọn Khánh Thành rút lui về sông Thị Cầu.
Quân Thanh tại phía nam sông thấy cầu đã bị đứt chìm, không có đường về, bèn đánh trở lại thành nhà Lê. Các Tổng binh Thượng Duy Thăng, Trương Triều Long, Phó tướng Na Đôn Hành, Tham tướng Dương Hưng Long, Vương Tuyên, Anh Lâm đều tử trận. Tri châu Điền Châu Sầm Nghi Đống không được viện binh đành tự tử, số thân binh tự tử cũng đến hàng trăm. Quốc vương An Nam Lê Duy Kỳ vào lúc binh thua tới dinh Tôn Sĩ Nghị họp bàn, thấy Tôn Sĩ Nghị đã bỏ chạy, bèn hoảng hốt vượt sông, chạy lên phương bắc; đến đây, nhà Lê diệt vong.
Nguyễn Văn Huệ xua quân tiến vào thành, chiến bào mặc trên người nhuốm đen, do bởi thuốc súng. Đề đốc Ô Đại Kinh mang đạo quân Thanh tại Vân Nam xuất phát từ Mã Bạch quan [huyện Mã Quan, tỉnh Vân Nam] vào ngày 20 tháng 11 [17/12/1788] năm ngoái, đến Tuyên Quang vào ngày 21 tháng 12 [16/1/1789]; khi đến sông Phú Lương thấy cầu nổi bằng tre đã bị chìm đứt, nhìn sang bên kia bờ thấy lửa rực bốn phía, bèn triệt hồi Tuyên Quang, rồi lập tức lui vào trong nước.”
Thanh Sử Cảo, tại phần Liệt Truyện: Việt Nam cũng xác nhận Tôn Sĩ Nghị rút chạy qua sông Phú Lương, rồi cho chặt đứt cầu phao; do vậy quân tại bờ nam như Đề đốc Hứa Thế Hanh và quan binh phu dịch hơn một vạn đều bị đánh kẹp, chết trôi. Lúc Sĩ Nghị chạy về Trấn Nam Quan, cho đốt hết lương thực quân giới ngoài quan ải, người ngựa trở về không được một nữa:
“Vào ngày 1 tháng giêng năm Càn Long thứ 54 [26/1/1789], trong quân mở tiệc rượu trỗi nhạc, đêm có tin đại quân Nguyễn đến, bèn hoảng hốt ngự địch. Giặc dùng voi chở đại pháo xung phong vào quân ta, hai bên kẻ đông người ít không địch nỗi, trong đêm dày xéo lẫn nhau. Cả nhà Lê Duy Kỳ chạy trốn trước, quân Vân Nam nghe tiếng pháo cũng rút chạy. Tôn Sĩ Nghị đoạt đường qua sông Phú Lương, rồi cho chặt đứt cầu phao; do vậy quân tại bờ nam như Đề đốc Hứa Thế Hanh, Tổng binh Trương Triều Long, quan binh phu dịch hơn một vạn đều bị đánh kẹp, chết trôi. Lúc Sĩ Nghị chạy về Trấn Nam Quan, cho đốt hết lương thực quân giới ngoài quan ải hàng chục vạn, người ngựa trở về không được một nữa. Quân Vân Nam, nhờ quan nhà Lê, Hoàng Văn Đồng chỉ đường, trở về được an toàn. Mẹ con Lê Duy Kỳ lại đến đầu thuận. Sự việc tâu lên, Vua cho rằng Tôn Sĩ Nghị không chịu rút quân sớm, lại không chịu trù bị, làm giảm quốc uy, tỗn tướng sĩ; bị giải chức đến kinh đô đợi xử tội, cho Phúc Khang An thay thế.”
Thanh Sử Cảo chép“Cả nhà Lê Duy Kỳ chạy trốn trước”; riêng Hoàng Lê Nhất Thống Chí lại xác nhận ngược lại rằng sau khi hay tin Tôn Sĩ Nghị dẫn kỵ binh rút ra cầu phao; Vua Lê Chiêu Thống cùng đám tùy tùng thấy cầu phao đã đứt, bèn chạy đến Nghi Tàm gần Hồ Tây, dùng thuyền đánh cá vượt sông:
“ Tôn Sĩ Nghị sợ mất mật, ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc giáp, dẫn bọn lính kỵ mã của mình chuồn trước qua cầu phao, rồi nhắm hướng bắc mà chạy …Vua Lê trong điện, nghe tin có việc biến ấy, vội vã cùng bọn Lê Quýnh, Trịnh Hiến đưa Thái hậu ra ngoài. Cả bọn chạy đến bờ sông thì thấy cầu phao đã đứt, thuyền bè cũng không, bèn gấp rút chạy đến Nghi Tàm (2) thình lình gặp được chiếc thuyền đánh cá, vội cướp lấy rồi chèo sang bờ bắc. Trưa ngày mồng 6 [31/1/1789] vua Lê và những người tùy tùng chạy đến núi Tam Tằng [huyện Việt Yên, Bắc Giang], nghe nói Tôn Sĩ Nghị đã đi khỏi nơi đó.”
Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục cho biết thêm sau khi thất thủ tại Ngọc Hồi, các đạo quân Thanh đều tan vỡ, tướng tử trận, riêng Tri phủ Điền Châu [huyện Điền Dương, Quảng Tây] Sầm Nghi Đống đóng tại Đống Đa phải thắt cổ tự tử:
“Các lũy quân Thanh đồng thời tan vỡ và quân Thanh đều chạy. Giặc đuổi đến đồn Nam Đồng [quận Đống Đa, Hà Nội], thừa thắng ập lại giết chết. Quân Thanh bị chết và bị thương đến quá nửa. Thế Hanh, Tiên phong Trương Sĩ Long và Tả dực Thượng Duy Thăng đều chết. Sầm Nghi Đống đóng đồn tại Loa Sơn [còn gọi Đống Đa] bị một tướng khác của giặc đánh, quân cứu không có, Nghi Đống phải tự thắt cổ mà chết. Toán thân binh của Nghi Đống cũng tự ải chết theo đến vài trăm người.”
Trong đạo dụ ban bố sau cuộc chiến tại thành Thăng Long 20 ngày, Vua Càn Long biện hộ thất trận không do tại mình, vì đã ra lệnh Tôn Sĩ Nghị cấp tốc triệt binh; nhưng viên Tổng đốc này lần lữa hơn một tháng; lại không lưu tâm vào việc trinh sát, bố trí dự phòng. Lầm lỗi như vậy, nên Sĩ Nghị bị thu hồi tước Công, cùng hồng bảo thạch đã ban cho, được lệnh trở về kinh để sử dụng vào công việc khác; sai Phúc An Khang thay thế chức Tổng đốc Lưỡng Quảng:
“Ngày 26 tháng Giêng năm Càn Long thứ 54 [20/2/1789].
Dụ rằng: Tôn Sĩ Nghị tâu vào ngày mồng 2 tháng Giêng, Lê Duy Kỳ đến bản doanh trình rằng có tin Nguyễn Huệ tụ tập đám đông định đến chiếm thành nhà Lê. Tôn Sĩ Nghị cùng Hứa Thế Hanh phân binh tiến đánh; ngày mồng 3 gặp giặc, ra sức đánh dẹp, bọn chúng thua mấy lần rồi rút lui. Rồi Lê Duy Kỳ nghe tin Nguyễn Huệ tới, đem gia quyến ngầm trốn, khiến bá tánh nước này hoang mang bỏ chạy. Thế giặc đang tan, bỗng nhiên tụ trở lại. Tôn Sĩ Nghị thấy Lê Duy Kỳ đã bỏ trốn trước, thành nhà Lê không thể ở lâu, nên triệt binh bằng cách mang quân chiếm bờ phía bắc sông Thị Cầu, để đợi đại binh cùng rút. Rồi Tổng binh Lý Hóa Long đi đến giữa cầu chẳng may trượt chân rơi xuống nước chết, cầu bị đứt. Đề đốc Hứa Thế Hanh, Tổng binh Trương Triều Long, Thượng duy Thăng, Tham tướng Dương Hưng Long, Vương Tuyên, Anh Lâm, Du kích Minh Quế tại phía nam sông Thị Cầu truy giết bọn giặc chưa kịp qua cầu, hiện nay vẫn chưa có tin tức; coi như đã hy sinh. Hiện tra quân số vào được quan ải có đến ba ngàn vài trăm tên, một số đang lục tục trở về, còn số chưa về sẽ điều tra minh bạch rồi tiếp tục tâu. Lê Duy Kỳ, cùng mẹ và con y đến trấn Nam Quan, được đưa đến Nam Ninh để thu xếp yên ổn chỗ ở. Lại theo lời tâu của Phú Cương và Ô Đại Kinh, thì đạo quân Vân Nam trước sau đã cho triệt hồi.
Việc này khởi đầu do lời tâu của Tôn Sĩ Nghị rằng tại nước An Nam có tên Thổ tù Nguyễn Huệ dấy binh làm loạn, Lê Duy Kỳ bị đuổi trốn tránh trong dân gian, không có một thước đất để nương thân, quyến thuộc khổ sở điêu đứng, gõ cửa quan ải cầu cứu. Nhân An Nam thần phục Thiên triều đã hơn một trăm năm, hết sức cung thuận, rồi bị cường thần soán đoạt, mẹ và vợ y thân đến khống tố; nếu bỏ việc này không xét thì trái với đạo “vỗ về nước nhỏ, nối dòng kế vị bị đứt”, nên đã sai thu xếp yên ổn chỗ ở cho quyến thuộc, rồi ra lệnh Tôn Sĩ Nghị đến vùng biên giới Quảng Tây lo liệu. Theo lời tâu, Tôn Sĩ Nghị đã truyền hịch dụ An Nam, các Trấn Mục, dân quân, không đâu là không hưởng ứng, họ tình nguyện đi trước đuổi giặc. Viên Tổng đốc lại ra sức gánh trọng trách lớn, xin được mang quân xuất quan; Trẫm nghĩ ý kiến này rất đúng, nên giáng chỉ dụ cho đi. Sau khi viên Tổng đốc cùng Đề đốc Hứa Thế Hanh xuất quan, mấy lần báo tin chiến thắng, bọn giặc bị đánh đau, chưa đầy một tháng đã thu phục thành nhà Lê, phong Lê Duy Kỳ làm Quốc vương, thành công thực nhanh chóng. Trẫm nghĩ Tôn Sĩ Nghị thực hiện việc này, quan hệ đến chính sách “vỗ về nước nhỏ, nối dòng kế vị bị đứt”, công này rất lớn. Vả lại các Đại thần dưới thời nhà Hán, những người văn võ toàn tài, có khả năng vì nước mang binh biểu dương uy lực, đều được hưởng ân đặc biệt, nên thi nhau phát huy tài năng để được tưởng lệ. Bởi vậy lúc nhận được lời tâu, bèn giáng chỉ tấn phong Tôn Sĩ Nghị tước Công, cùng thưởng cấp hồng bảo thạch gắn tại đỉnh mũ; riêng Hứa Thế Hanh cũng được phong tước Tử để đền công. Lại nghĩ rằng nước An Nam lắm chướng dịch; vả lại quân lính, dân phu số lượng quá nhiều, trú tại đó lâu ngày khiến nước mới được phục hồi gặp lắm điều bất tiện. Tuy An Nam là một nước nhỏ, nhưng họ Lê lập quốc đã lâu, sự phế hưng chắc cũng liên quan đến khí số; Lê Duy Kỳ hèn kém vô năng, không mảy may phấn chấn, hoặc giả trời đã chán họ Lê, không còn phù hộ thêm. Trẫm từ trước tới nay lo liệu mọi việc đều thuận lòng trời, bởi vậy đã mấy lần giáng chỉ ra lệnh Tôn Sĩ Nghị cấp tốc triệt binh. Viên Tổng đốc nếu tuân theo chiếu chỉ tức tốc triệt hồi, thì lúc này đại quân đã về đến quan ải; chỉ vì lần lữa tại đó hơn một tháng, nên bọn giặc thừa lúc sơ hở dấy lên. Chắc Tôn Sĩ Nghị hy vọng Nguyễn Huệ sẽ ra đầu hàng, hoặc bị người khác trói mang đến (3), nên trong lòng y không khỏi có ý tưởng tham công nấn ná chờ đợi, nên mới xẩy ra biến cố bất ngờ. Theo Trẫm thì Tôn Sĩ Nghị không tránh khỏi lỗi; hơn nữa Nguyễn Huệ đã bỏ trốn đi, lại có thể mang quân đến thành nhà Lê quấy nhiễu, không phải một sớm một chiều có thể tụ tập được. Vả lại trong bọn chúng vị tất đều thuộc đảng giặc, có thể những bọn phản trắc ở gần thành nhà Lê, được tin giặc ngầm đến, bèn theo mà phụ họa; rồi tụ tập đông đúc như kiến tổ, ong bầy. Tôn Sĩ Nghị ở tại đó, cớ sao không lưu tâm vào việc trinh sát, bố trí dự phòng; lại chỉ chờ giặc đến mới ngăn ngừa; rồi cầu nổi nửa chừng bị đứt, khiến tổn thất cho quan binh. Trẫm cho rằng sau khi thành công, trong lòng Tôn Sĩ Nghị không khỏi tự mãn lơ là, gây ra sự tổn thất, nhưng xét kỹ về tình tiết thì không chủ tâm làm điều sai trái. Cái lỗi tham công tự mãn, khiến các Đề Trấn đại viên bị chết không đáng được tưởng thưởng, nay nếu lưu nhiệm chức Tổng đốc Lưỡng Quảng, uy vọng đã tổn thương, không đủ để trấn áp tại vùng biên giới và ven biển, mà cũng không phải là đạo thành toàn cho viên Tổng đốc. Đối với công tội của kẻ bề tôi, Trẫm đắn đo rất đích đáng, khi thu phục được thành nhà Lê, lo liệu nhanh chóng, được ban thưởng ngay; tuy viên Tổng đốc tấu xin từ chối cũng không chấp thuận. Nay viên Tổng đốc có những lỗi như vậy thì không thể nhận ân thưởng và phong đất; cho thu hồi tước công, cùng hồng bảo thạch, ra lệnh trở về kinh để sử dụng vào công việc khác; chức Tổng đốc Lưỡng Quảng bị khuyết nay giáng chỉ cho Phúc An Khang đến điền bổ. Phúc Khang An nhận được chỉ dụ này hãy lập tức đến trấn Nam Quan lãnh nhiệm vụ. Trước khi Phúc Khang An đến nhiệm sở; Tôn Sĩ Nghị vẫn tạm thời xử lý thường vụ, trú tại trấn Nam Quan, đợi Phúc Khang An đến thay thế mới khởi hành về kinh. Còn tước Tử của Hứa Thế Hanh, tuy được thưởng một lần với Tôn Sĩ Nghị, nhưng viên Đề đốc đã tử trận, xét ra thực đáng thương; vả lại việc triệt binh đều theo sự điều động của Tôn Sĩ Nghị, Hứa Thế Hanh không liên can, tước Tử được gia ân cho con y thừa tập. Tổng binh Thượng Duy Thăng, Trương Triều Long; Tham tướng Dương Hưng Long, Vương Tuyên, Anh Lâm; Du kích Minh Quế nhân cầu đứt không sang sông được, đánh giặc chết trận, nay đều được xét để hưởng tử tuất. Tổng binh Lý Hóa Long tuy bị trượt chân ngã xuống nước, chết vì Vương sự, cũng được xếp vào trận vong để được xét cấp tử tuất. Những quan binh chưa ra trình diện, viên Tổng đốc hãy xét minh bạch, gửi hồ sơ lên bộ chiếu lệ phân biệt thưởng tử tuất. Việc này do Tôn Sĩ Nghị tham công trú đóng lâu ngày, không tuân theo chỉ dụ tức tốc triệt hồi, nên biến cố xẩy ra ngoài ý muốn; các Đề Trấn đại viên, do cầu bị đứt nên không thoát được khiến thân phải hy sinh. Vả lại Nguyễn Huệ là tên Thổ tù, đuổi chúa loạn luân thường, bị Thiên triều mang quân thảo phạt mấy lần thua chạy, lại dám tụ tập nhiễu loạn, làm thương tổn đến quan binh, tội lỗi vào loại đại ác. Hiện nay vào tiết mùa xuân, xứ này có nhiều chướng lệ, chưa tiện thâm nhập hỏi tội; nay ra lệnh các Đốc Phủ miền duyên biên, cùng các doanh cho quân kịp thời thao diễn, nhắm lương đủ binh tinh nhuệ, để sẵn sàng sai khiến, chuẩn bị việc hỏi tội thảo phạt. Hãy dùng đạo dụ này thông tri mọi nơi.” (Cao Tông Thực Lục quyển 1321, trang 19-22)
Chú thích:
1.An Biên: An Biên hà, tức sông Đỗ Chú, chỗ biên giới Hoa Việt.
2.Nghi Tàm: thuộc quận Tây Hồ, Hà Nội; phía đông Hồ Tây.
3.Ý Tôn Sĩ Nghị mong trong nội bộ có nội phản, trói mang đến. Đây chỉ là những điều ước vọng không tưởng.