
Hồ Bạch Thảo
Tháng 3 năm Cảnh Hưng thứ 46 [9/4-8/5/1785], (Thanh, năm Càn Long thứ 50); các quan dâng tôn hiệu Vua Hiển Tông là Uyên úy khâm cung nhân từ đức thọ hoàng đế. Từ ngày Trịnh Sâm chuyên giữ chính quyền trong nước, nghi lễ sóc vọng [mồng một, rằm] bỏ đã lâu ngày. Nay Bùi Huy Bích mới vào giữ việc trong chính phủ, bàn định tôn phò nhà Vua để thu phục lòng người, bèn dâng tờ khải xin với chúa Trịnh cho các quan dâng tôn hiệu nhà Vua, và ngày mồng một và ngày rằm, các quan vào chầu mừng theo chế độ cũ.
Tháng 4 [9/5-6/6/1785], nhân trời mưa mãi không thôi, Chúa Trịnh Khải hạ lệnh cho bầy tôi và thứ dân nói thẳng những điều thiếu sót lầm lỗi. Đông các đại học sĩ Phạm Nguyễn Du dâng tờ khải, đại lược nói mọi việc trong thiên hạ cỗi gốc là ở tâm tư, chưa có bao giờ tâm không ngay thẳng, mà lại có thể thi thố mọi việc được. Xin dùng tâm ngay thẳng cải cách 4 tiết mục: 1. Đối với quân sĩ. 2. Đối với quan chức. 3. Đối với dân. 4. Đối với sĩ tử. Tờ khải của Phạm Nguyễn Du không được chúa Trịnh trả lời; it lâu sau, cho Du ra giữ chức Đốc đồng ở Nghệ An.
Tháng 9 [3/10-1/11/1785] Thiêm Liên, người Yên Quảng, hô hào tụ tập dân chúng ở ngoài biển, có vài trăm chiếc thuyền; tên Sơn người huyện Thần Khê [Hưng Yên], đem đồ đảng theo Thiêm Liên, thanh thế dần dần bùng lên. Vì thế, dân ven biển vùng đông nam bị rối loạn.
Tại miền Nam vào tháng giêng [9/2-10/3/1785], Nguyễn vương trú ở đảo Thổ Châu. Bấy giờ Giám mục Bá Đa Lộc đem con trưởng Vương là Cảnh đến nước Tiểu Tây Dương tức Pondichéry [đất thuộc địa Pháp ở ấn Độ].
Ngày Canh Tuất tháng 3 [9/4/1785], Vương lại chạy sang Xiêm. Bấy giờ quân Tây Sơn truy đuổi đến Thổ Châu; Vương lại sang đảo Cổ Cốt [Ko Kut, Campuchia]; gặp Cai cơ Trung đem binh thuyền Xiêm đến đón, Vương bèn sang Xiêm. Bầy tôi đi theo còn hơn 200 người và 5 chiếc thuyền.
Tháng 4 [9/5-6/6/1785] Vương đến thành Vọng Các; Vua Xiêm nhân hỏi tình trạng thất bại, Vương nói :
“Ngài trọng tình láng giềng giao hảo cho quân sang giúp, nhưng vì Chiêu Tăng Chiêu Sương kiêu ngạo và phóng túng, tới đâu cũng tàn bạo, dân đều oán cả, cho nên đến nỗi thất bại”.
Vua Xiêm giận lắm, muốn chém Chiêu Tăng và Chiêu Sương; Vương can gián, nên Vua Xiêm khuây giận.
Vương cho rằng thế Tây Sơn còn đương mạnh chưa có thể thừa cơ được, bèn xin trú ở Long Kỳ (còn gọi là làng Gia Long, ở ngoại thành Vọng Các), sai người đi rước mẹ và gia quyến.
Bấy giờ Nguyễn Huệ dẫn quân về Quy Nhơn, lưu thuộc hạ là Đô úy Đặng Văn Trấn giữ Gia Định.
Tháng 5 [7/6-5/7/1785], Lê Văn Quân đem 600 quân đến hành tại; các tướng sĩ cũng đều tìm đường kế đến, một ngày một nhiều. Vương sai làm đồn điền để cấp lương thực cho quân. Lại sai ra hải đảo đóng chiến thuyền, hoặc ngầm về Gia Định mộ người nghĩa binh, mưu phục hưng.
Tháng 12 [31/12/1785-29/1/1786], Điều khiển Dương Công Trừng giao chiến với quân Tây Sơn tại Long Xuyên [Cà Mâu], lại bị bắt rồi bị giết. Hai năm trước, vào tháng 2 [3/3-1/4/1783], Dương Công Trừng thua trận tại sông Sài Gòn, bị quân Tây Sơn bắt được. Nhân lúc sơ hở, Công Trừng trốn thoát, đem quân sở thuộc và 3 chiếc chiến thuyền ra biển; đến Đại Đồng (bờ biển Xiêm La) gặp Cai cơ Lê Thượng và Nguyễn Tần cũng vâng mệnh đem 10 chiếc binh thuyền ngầm đến Long Xuyên dò xét tình hình địch. Hai đạo quân hợp lại, nhân ban đêm đánh úp, phá được đồn Tây Sơn ở Long Xuyên; bắt được viên Bình nhung là Trực. Bọn Công Trừng đóng quân ở Ông Do [Cà Mâu] , bị Thái bảo Phạm Văn Tham đã từ Sài Gòn đem quân đi tắt đến đánh úp. Bọn Công Trừng quân ít không giữ nổi, bị quân Tây Sơn bắt lần nữa rồi bị giết; riêng Lê Thượng, Nguyễn Tần đều chết trận.
Về phía nhà Thanh, nhân vào năm ngoái [1784] trong yến tiệc đãi Sứ thần An Nam, Vua Càn Long tặng Vua Lê Hiển Tông [Lê Duy Diêu] tấm biển và thơ ngự chế. Năm nay An Nam sai Sứ mang phẩm vật sang cảm ơn, Vua Càn Long quyết định nếu Sứ thần nước này mang đồ tiến cống trên đường đi, thì theo lệ sai nhân viên hộ tống đến kinh đô; nếu như chưa khởi hành thì tức tốc truyền đạt cho nước này đợi đến kỳ chính cống, cho phụ dâng lên:
“Ngày 27 Bính Ngọ tháng 4 năm Càn Long thứ 50 [4/6/1785]. Dụ các Quân cơ đại thần:
Cứ Thư Thường tâu đã tiếp nhận văn thư của Quốc vương An Nam Lê Duy Diêu xưng: Vào năm Càn Long thứ 48, 49, sai sứ tiến cống, được ban các hạng như thơ cùng biển ngạch; cảm đội ân tình lớn lao, bèn kính cẩn bị biện các nghi vật, sai Chuyên viên đệ cống. Xin được thay mặt đề đạt lên.
Thư Thường tiếp được tờ báo, bèn chuyển tấu ngay; các sứ giả cùng phẩm vật hiện nay chắc chưa khởi trình, điều này trong tấu triệp Thư Thường không đề cập rõ ràng. Viên Quốc vương nhân được ban thưởng thơ và biển ngạch, cảm đội ân tình lớn, lòng thành bị biện nghi vật, đáng chuẩn cho trình tiến. Nhưng Sứ giả đi lại mệt nhọc vãng lai; không hợp với đạo ban ơn thể tuất của Trẫm.
Nay ra lệnh cho Tôn Sĩ Nghị, nếu như Sứ thần nước này và đồ tiến cống đã đến quan ải hoặc trên đường đi, thì theo lệ sai nhân viên hộ tống đến kinh đô; nếu như chưa khởi hành thì tức tốc truyền đạt cho nước này đợi đến kỳ chính cống, cho phụ dâng lên, không cần có chuyên viên đệ lên; để miễn phải bạt thiệp đi về, biểu thị lòng ưu ái của Trẫm đối với Phiên bang. Ðem dụ này chuyển theo độ khẩn 400 lý 1 ngày [200 km.], lệnh Tôn Sĩ Nghị hiểu rõ.” (Thanh Thực Lục, Cao Tông Thực Lục quyển 1229, trang 44)
Tháng 3 năm Cảnh Hưng thứ 47 [30/3-27/4/1786], (Thanh Càn Long thứ 51); giá gạo cao vọt, dân trong kinh kỳ Thăng Long và 4 trấn bị đói to, thây chết nằm liền nhau. Chúa Trịnh Khải hạ lệnh chiêu mộ nhân dân, ai nộp tiền của sẽ trao cho quan chức, nhưng không ai hưởng ứng. Bèn dùng sắc lệnh bắt ép nhà giàu lấy tiền, chia ra phát chẩn.
Tháng 5 [27/5-25/6/1786] Nguyễn Huệ đem quân vào đánh Thuận Hóa; tướng giữ đồn Hoàng Nghĩa Hồ, Phó tướng Hoàng Đình Thể, Tỳ tướng Vũ Tá Kiên và Đốc thị Nguyễn Trọng Đang đều bị chết trong chiến trận; Trấn thủ Phạm Ngô Cầu mở cửa thành ra hàng. Trước đây, Nguyễn Nhạc chiếm cứ Quảng Nam, sai người xin hàng và trấn thủ đất này, Chúa Trịnh Sâm thấy đất hiểm trở xa xăm, vả lại cũng ngại về việc dụng binh, nhân đấy mới trao cho Nhạc trấn giữ. Sau đó, Nguyễn Nhạc xưng là Thiên vương, hiệu là Thái Đức; Chúa Trịnh nghe biết việc này nhưng cũng bỏ qua không hỏi đến. Trấn thủ Phạm Ngô Cầu giữ đất Thuận Hóa là người tham lam nhút nhát; Tham tụng Hồ Sĩ Đống từ Thuận Hoá về kinh, nhiều lần xin bổ viên tướng khác thay, nhưng không xét đến. Ngô Cầu chuyên làm việc buôn bán, không sắm sửa khí giới phòng bị, quân và dân đều chán nản khinh thường. Nhân đấy, Nguyễn Nhạc phong cho em Nguyễn Huệ làm Long nhương tướng quân, chỉ huy các quân thủy, quân bộ; Vũ Văn Nhậm điều tả quân, Nguyễn Hữu Chỉnh điều hữu quân, chia đường cùng tiến. Qua đèo Hải Vân, tướng giữ đồn là Hoàng Nghĩa Hồ ra đánh, bị chết. Nhân thế thắng, quân của Nguyễn Huệ xông thẳng đến Thuận Hóa. Lúc ấy, Ngô Cầu đương đặt đàn chay lớn, chợt nghe tin quân Tây Sơn kéo đến, lúng túng, không biết thi thố cách nào. Phạm Ngô Cầu vốn có tính đa nghi; Nguyễn Hữu Chỉnh bèn làm một lá thư đề ngoài gửi cho Phó tướng Hoàng Đình Thể, rủ về hàng Tây Sơn, rồi giả tảng sai người đưa nhầm cho Ngô Cầu. Ngô Cầu bắt được thư ấy nghi cho Hoàng Đình Thể, nên bất đồng với nhau, quân lính sinh ra nghi ngờ, không ai có lòng chiến đấu. Gặp lúc ấy nước thủy triều lên mạnh, Tây Sơn bèn cho thủy quân ồ ạt tiến sát dưới thành. Hoàng Đình Thể, một mình đem quân bản bộ đón đánh, thuốc súng và đạn đều hết; Ngô Cầu đóng cửa thành không cứu viện. Đình Thể cùng hai người con và tì tướng là Vũ Tá Kiên dựa vào thành lũy để bày trận, đem hết sức lực chiến đấu hăng hái; hai người con phóng ngựa ra trận giết giặc, ngựa bị què, đánh bộ, bị trọng thương, chết tại mặt trận. Hoàng Đình Thể cùng Tá Kiên đều chết, Nguyễn Huệ xua quân ồ ạt tiến lên. Ngô Cầu mở cửa thành ra hàng, Đốc thị Nguyễn Trọng Đang chết ở trong đám loạn quân; quân Trịnh bị tiêu diệt, chỉ còn vài trăm người chạy qua sông trở về Bắc. Do đấy các tướng đóng ở các đồn Cát Doanh [Ái Tử, Quảng Trị] và Động Hải [Đồng Hới, Quảng Bình]; thấy tình hình đều chạy trốn.
Sau khi chiếm được Thuận Hóa, Nguyễn Huệ hội họp các tướng; định vẫn giữ địa giới cũ, cho quân tu sửa lũy Động Hải [Đồng Hới, Quảng Bình]. Nguyễn Hữu Chỉnh thấy vậy bèn dâng lời bàn:
“Tướng công đánh một trận được đại thắng, uy danh chấn động cả thiên hạ. Đường lối dụng binh, một là thời, hai là thế, ba là cơ hội, nếu có thể dựa vào ba điều ấy, thì đánh đâu mà không được. Nay ở Bắc Hà, quân lính thì kiêu ngạo, tướng súy thì lười biếng, triều đình lại không có kỷ cương gì. Tướng công mang uy thanh ấy, nhân lúc bên kia đã đỗ nát, nếu thực biết dùng danh nghĩa “phò Lê, diệt Trịnh” thì thiên hạ ai mà không hưởng ứng? Đấy là cơ hội và thời, thế đều không thể để nhỡ được“.
Nguyễn Huệ cho là phải, vào tháng 6 [26/6-24/7/1786] giả mệnh lệnh của Nguyễn Nhạc, dùng Hữu Chỉnh làm tiền phong thủy quân, mang quân vào cửa biển Đại An [Nam Định], rồi kéo thẳng đến Vị Hoàng [thị xã Nam Định] chiếm lấy kho lương. Nguyễn Huệ tự thống suất đại binh; theo đường thủy, đường bộ xuất phát. Tướng giữ trấn Nghệ An và Thanh Hóa là bọn Bùi Thế Toại và Tạ Danh Thùy nghe tin, đều bỏ thành trốn. Khi Hữu Chỉnh kéo quân đến Vị Hoàng, binh lính trong đồn sợ hãi, tan vỡ; Nguyễn Huệ tiếp tục kéo quân đến chiếm cứ đất này.
Trước đây được tin báo thất thủ Thuận Hóa, bầy tôi Chúa Trịnh bàn định, đều nói: “Thuận Hóa vốn không phải đất đai của triều đình, trước kia tốn bao nhiêu công của mới lấy được, chung quy cũng chẳng ích lợi gì? Bây giờ chỉ nên bàn luận tìm cách đóng quân ở Nghệ An theo cũ mà thôi“. Vì thế, Trịnh Khải hạ lệnh cho Trịnh Tự Quyền làm thống tướng, đem quân lính 27 cơ tiến ngay vào, giữ lấy đầu địa giới Nghệ An để chống cự. Tự Quyền nhận được mệnh lệnh đã hơn mười ngày mà vẫn chưa thu xếp hành trang xong, còn quân sĩ thì chần chừ không có ý muốn đi. Kịp lúc Tự Quyền đem quân dời khỏi thành mới được 30 dặm, thì quân Tây Sơn đã chiếm Vị Hoàng rồi. Trịnh Khải lại hạ lệnh khác cho Tự Quyền vẫn đem các quân bản bộ tiến đến chống cự ở Kim Động [Hưng Yên], một mặt sức cho Đỗ Thế Dận, trấn thủ Sơn Nam, lập tức đem quân bộ tiến đến đóng ở bờ sông Phù Sa [sông Hồng thuộc địa phận Khoái Châu, Hưng Yên], rồi sai Đinh Tích Nhưỡng đốc lãnh các quân thủy đạo tiến thẳng đến giữ ở cửa sông Luộc. Các tướng hội hợp binh lính đón đánh; chợt có thuyền địch đương đêm từ hạ lưu nhân chiều gió tiến thẳng lên, thế rất sắc bén. Tích Nhưỡng liền sai các quân dàn hàng ngang chắn sông, đạn súng và tên nỏ cùng một lúc bắn ra, trông xa thấy một chiếc thuyền giặc tan vỡ rồi bị đắm, còn các thuyền khác cứ nối nhau tiến lên không ngừng, mà trong thuyền vẫn im lặng không có tiếng người. Trong lúc hoảng hốt sợ hãi thì trời đã sáng rõ, mới biết những người chân sào đều người bù nhìn cả. Lúc ấy, thuốc súng và đạn của quân Trịnh đều hết, đại đội thủy quân Tây Sơn vừa đánh trống vừa reo hò tiến lên, thanh thế kinh thiên động địa. Quân Tây Sơn xông thẳng vào hàng ngũ quân Thế Dận, đem ống phun lửa loạn xạ, quân của Thế Dận kinh sợ tan vỡ. Toán quân của Đinh Tích Nhưỡng la ó om sòm, tranh nhau bỏ thuyền chạy. Toán quân của Trịnh Tự Quyền nghe tin, cũng sợ hãi rối loạn rồi tự tan vỡ. Sau khi đánh phá được trấn Sơn Nam, quân Tây Sơn đưa tờ hịch đi các lộ, bày tỏ danh nghĩa “diệt Trịnh, phò Lê“.
Sau khi trấn Sơn Nam đã bị phá, kinh thành Thăng Long rất sợ hãi, quan và quân đều lo toan chạy trốn, không có chí chiến đấu, mọi người bàn luận phân vân, không định được kế mưu đánh hay giữ. Nguyễn Khản từ Nghệ An trở về kinh, khuyên Chúa Trịnh Khải: “Sai tướng giữ kinh thành, mà rước nhà vua chạy lên Sơn Tây, để lo tính công việc sau này. Nếu đánh nhau với giặc, thì kiêu binh không thể dùng được, việc nước thành ra hỏng mất“. Khải toan theo lời Nguyễn Khản. Kiêu binh hợp nhau lại quát tháo ầm ĩ, cho là Nguyễn Khản dắt giặc vào kinh thành, toan giết; khiến Khản phải chạy lên Sơn Tây. Khải cho là Tham tụng Bùi Huy Bích giữ công việc trong chính phủ không có công trạng gì; đến nay lại không có mưu mô gì cứu chữa được tình thế, trong bụng có ý chán ghét, bèn cho Huy Bích ra đốc chiến, rồi triệu Trần Công Xán vào phủ, bí mật bàn định mưu kế đánh giặc. Công Xán nói: “Giặc đem đại quân trơ trọi đi sâu vào đất ta, điều ấy binh gia lấy làm kiêng kỵ. Nay nên nhử chúng vào gần, rồi đánh một trận giết cho nhẵn nhụi. Còn như kinh sư là nơi cỗi rễ, không thể lìa bỏ mà đi xa được. Nếu tình thế quá ngặt nghèo, không thể làm thế nào được, thì cũng nên đánh một trận quyết liệt cuối cùng“.
Trịnh Khải cho là phải, bèn triệu Hoàng Phùng Cơ ở Sơn Tây về, sai làm tiền bộ. Phùng Cơ cùng 8 người con dẫn quân lính bản bộ đóng ở hồ Vạn Xuân [xã Vạn Phúc, huyện Thanh Trì, Hà Nội]; đội quân Tứ thị thủy dàn thuyền ở sông Thúy Ái [huyện Thanh Trì, Hà Nội]. Khải đem hết quân trong thành, bày trận ở bến Tây Long [phố Nguyễn Trung Trực, Hà Nội]. Lúc ấy, gió đông nam thổi mạnh, thuyền Tây Sơn nhân chiều gió, kéo ập đến. Về phía Chúa Trịnh, thì quân thủy tan vỡ trước; hai viên Thiên tướng là Nguyễn Trọng Yên, quản lãnh đội Tiền Ưu và Ngô Cảnh Hoàn, quản lãnh đội Tiền Trạch, cầm ngang siêu đao, đứng ở mũi thuyền chống cự, bị giết. Bộ binh Tây Sơn kéo đến; toán quân của Phùng Cơ không kịp dàn thành hàng ngũ, bỏ chạy tan vỡ tứ tung. Thuộc tướng là Mai Thế Pháp phi ngựa lên đón đánh, giết được hơn 10 tên địch, bị vây sát, tự nhảy xuống sông; chỉ còn một mình Phùng Cơ cùng 8 người con dẫn vài chục thủ hạ cố sức chiến đấu. Sau khi thủ hạ và 6 người con đều bị giết; Phùng Cơ cùng 2 người con cướp lấy đường mà chạy. Quân Tây Sơn tiến đến bến Tây Long; Khải mặc nhung phục, ngồi trên bành voi, cầm cờ lệnh chỉ huy, nhưng quân sĩ nhìn nhau, không ai chịu tiến lên; địch tung quân ra chém giết, quan quân tan vỡ lung tung. Khải quay voi trở về thành, đến cửa Tuyên Võ, trông thấy ngoài phủ đã cắm hàng loạt cờ Tây Sơn, bèn dẫn hơn trăm tượng binh, hướng theo đường Sơn Tây chạy trốn. Khi Trịnh Khải chạy đến xã Hạ Lôi, huyện Yên Lãng [Phú Thọ], quân sĩ tan tác hết. Lý Trần Quán, Thiêm sai giữ công việc Lại phiên, trước đây vâng đem tờ hịch đi chiêu mộ nghĩa binh tình cờ ở đấy, Trịnh Khải cùng Trần Quán gặp nhau. Trần Quán nói dối người học trò của mình là Nguyễn Trang rằng: “Đây là quan Tham tụng bọ Bùi đi lánh nạn đến đây, anh khá hộ vệ đưa ngài đi qua địa giới huyện này“. Trong bụng Trang biết đấy là chúa Trịnh, bèn cùng đồ đảng là Nguyễn Ba bắt giải nộp cho địch. Trần Quán được tin, vội vàng chạy đến, vừa lạy vừa khóc, nói: “Làm lầm lỗi Chúa đến thế này là tội ở tôi“. Nhân đem nghĩa lớn dụ bảo Trang, Trang nói: “Sợ thầy không bằng sợ giặc, yêu Chúa không bằng yêu mình“, bèn giải Trịnh Khải đi; Khải dùng dao cắt cổ tự tử. Trang đem thi thể Khải nộp cho Tây Sơn, Nguyễn Huệ sai sắm đủ áo quan khâm liệm tống táng; bổ dụng Trang làm Trấn thủ Sơn Tây, phong là Tráng liệt hầu. Trần Quán về nhà bảo với học trò rằng: “Ta là bầy tôi mà làm lầm lỡ Chúa, tội ta đáng chết. Nếu không chết thì không giãi tỏ lòng này với trời đất được“. Bèn sai người đào huyệt, đặt sẵn áo quan, Trần Quán mặc đũ mũ áo, tự nằm vào áo quan, cho vùi đất để chết.
Trước đây, khi Chúa Trịnh Khải hạ lệnh hết thẩy thủy quân ra đóng ở sông Thúy Ái để chống cự. Ngô Cảnh Hoàn người xã Trảo Nha, huyện Can Lộc, Hà Tĩnh là con nhà tướng, được giữ chức Thiên tướng, tuân lệnh ra đi. Hoàn dàn trận để đợi quân Tây Sơn; một lát, thuyền địch tiến sát đến nơi xung kích, sĩ tốt tan vỡ bỏ chạy; Cảnh Hoàn cùng hai con cố sức đánh, đều bị chết. Nghe tin Cảnh Hoàn chết, cả nhà thương xót kêu gào; chỉ có Phan Thị Thuấn, vợ lẽ cưng yêu của Cảnh Hoàn, là người có nhan sắc, ngoài 20 tuổi, chưa sinh nỡ gì; vẫn nói cười tự nhiên. Có người chê cười, Phan Thị cũng không biện bạch gì cả. Gần ngày lễ bách nhật [100 ngày], Thị Thuấn nói với người trong họ mời nhà sư làm chay cho Hoàn. Khi tan đàn chay, Thị bèn ăn mặc lộng lẫy bước xuống thuyền, rồi quay lại bảo người trong họ rằng: “Công việc của thiếp xong rồi, từ đây thiếp xin chết theo tướng quân, hài cốt tướng quân không được mai táng, xin các ông hiểu thấu lòng thiếp, đừng mai táng cho thiếp làm gì“. Phan Thị Thuấn bèn sai người chèo thuyền đến chỗ Cảnh Hoàn chết, rồi tự gieo mình xuống sông; người đứng xem ở hai bên bờ sông, không ai là không hãi hùng kinh dị; sau con Cảnh Hoàn đem hài cốt Thị Thuấn về táng ở đồng làng. Khoảng năm Chiêu Thống truy xét đến những người tiết nghĩa, để cho phong tặng; Cảnh Hoàn và Phan Thị đều được dự phong; triều đình hạ lệnh cho dân sở tại lập đền thờ tại xã Thúy Ái, huyện Thanh Trì. Họ Trịnh giúp nhà Lê trung hưng, rồi giữ lấy quyền bính, lập nên nghiệp Chúa, lưu truyền từ Trịnh Kiểm đến Trịnh Khải được 242 năm (1545- 1786) đến đấy chấm dứt.
Tháng 7 [25/7-23/8/1786] Nguyễn Huệ sai tỳ tướng đem một cánh quân đi trước, đợi khi đại quân kéo đến Thăng Long, thì viên Tỳ tướng ấy đem quân vào bảo vệ cung điện nhà Vua. Bấy giờ Vua đương có bệnh, các Hoàng tử hầu hạ nâng giấc ở trong nội điện, thấy ngoài cung điện có lính và voi, ngờ là quân địch kéo đến uy hiếp, liền vực nhà Vua dậy toan lánh đi chỗ khác. Ngay lúc ấy, viên Tỳ tướng đệ dâng bản tâu phò Lê diệt Trịnh, trước hết bày tỏ lễ xin thăm hỏi sức khỏe nhà Vua, sau nữa xin định ngày sẽ vào triều bái yết; nhà Vua nhận được tờ tấu, mới yên tâm. Hôm sau, Nguyễn Huệ triều yết ở điện Vạn Thọ, nhà Vua sai người mời vào, đặt một giường khác ở bên cạnh giường vua ngự để Nguyễn Huệ ngồi; Huệ rụt rè không dám ngồi, nhà Vua ép mãi, Huệ mới ngồi ghé vào cạnh chiếu.
Huệ tâu nói: “Tôi vốn người dân áo vải ở Tây Sơn, nhân thời cơ nổi dậy, tuy cơm áo triều đình không được bệ hạ ban cho, nhưng tôi ở nơi rừng rậm xa xăm, lâu nay vẫn kính mến thánh đức, ngày nay được thấy thiên nhan, mới đủ giãi bày tấm lòng thành thực. Vì họ Trịnh lăng loàn áp bức, không giữ đạo làm tôi, cho nên hoàng thiên mượn tay tôi đánh diệt họ Trịnh, để tỏ rõ uy quyền của bệ hạ, may mà được đến thành công đều do ở phúc đức của bệ hạ cả. Tôi chỉ mong thánh thể yên lành mạnh khỏe, ngự ngôi Vua, trị thiên hạ, để kẻ bầy tôi nơi xa xăm đội phúc đức“. Nhân đấy, Văn Huệ bày tỏ ý nghĩa tôn phò; nhà Vua bội phần an tâm. Lúc ấy bầy tôi đều đã trốn tránh, chỉ còn vài người chầu chực trong nội điện ra ứng tiếp mà thôi; nhân đấy Nguyễn Hữu Chỉnh xin nhà vua hạ chiếu truyên triệu bọn Phan Lê Phiên, Uông Sĩ Điển, Trần Công Xán và bầy tôi hơn mười người; số còn lại thì trốn tránh không chịu ra. Trước đây, họ Trịnh chuyên giữ chính quyền trong nước, một người dân, một tấc đất, đều không do quyền triều đình. Nay Văn Huệ vào triều yết, bèn xin ngày cử hành nghi lễ đại triều, dâng sổ sách binh và dân để tỏ rõ ý nghĩa nhà Vua nhất thống và Nguyễn Huệ tôn phò. Nhà vua cố gượng dậy, ra ngự điện Kính Thiên nhận lễ, rồi ban hành chiếu thư về việc nhất thống để bá cáo trong kinh, ngoài trấn đều biết; lại sách phong Nguyễn Huệ làm Nguyên soái phù chính dực vận Uy quốc công. Sau khi nhận sách phong, Nguyễn Huệ bèn nói riêng với Hữu Chỉnh rằng: “Ta cầm vài vạn quân, đánh một trận mà bình định được Bắc Hà, một tấc đất, một người dân, đều là của ta, nếu muốn xưng đế hay xưng vương việc gì mà ta không làm được? Còn như sắc mệnh Nguyên soái quốc công đối với ta có hơn kém gì? Bầy tôi Bắc Hà lại muốn dùng danh vị hão để lung lạc ta hay sao? Đừng tưởng ta là người mọi rợ được chức tước ấy bèn lấy làm vinh dự đâu!”.
Hữu Chỉnh biết ý Văn Huệ không mãn nguyện, bèn bí mật khuyên nhà vua đem Công chúa Ngọc Hân gã cho, Nguyễn Huệ rất bằng lòng.
Nguyễn Huệ xin vào ngày rằm tháng 7 [8/8/1786], nhà Vua ra ngự chính điện để nhận lễ chầu mừng về việc nhất thống, nhà Vua cố gượng dậy ra coi chầu. Hôm sau, bệnh quá nguy kịch, sai triệu Nguyễn Huệ, Nguyễn Huệ nói: “Nay mai tôi sẽ trở về Nam, không dám can dự vào công việc nhà nước. Vả lại, trong quãng vua trước vua sau kế tiếp, tôi e sẽ bị người đời nghi ngờ“; bèn từ chối không vào. Ngày 17 [10/8/1786], nhà vua mất tại điện Vạn Thọ, ở ngôi 47 năm, hưởng thọ 70 tuổi. Vua là người nhân từ, trầm tĩnh, gặp Trịnh Sâm áp bức, cũng chỉ ngậm miệng mà nhịn; đến nay Tây Sơn tôn phò, nhà Vua ngoài mặt tuy mừng mà trong bụng vẫn lấy làm lo. Khi bệnh nguy kịch, cho triệu Hoàng thái tôn đến bảo rằng: “Ta chỉ sớm tối sẽ trút bỏ gánh nặng, bây giờ lo lắng việc nước là ở mình cháu, cháu phải nghĩ lấy“. Thái tôn vừa lạy vừa khóc xin nhận mệnh lệnh. Nhà vua nói: “Binh lính xứ khác còn đóng ở đây, về việc truyền nối ngôi vua là việc trọng đại, cần phải thượng lượng bàn bạc với nguyên soái [chỉ Nguyễn Huệ], chớ nên làm tắt“; nói xong thì mất. Nguyễn Huệ nhân hỏi Công chúa về việc các Hoàng tử, công chúa khen Duy Cận là người tốt. Huệ muốn bàn luận để Duy Cận nối ngôi; triều đình lo sợ, không biết làm thế nào được, các người trong họ tôn thất đều trách móc Công chúa làm hại kế lớn của xã tắc. Công chúa sợ, trở về xin với Nguyễn Huệ; Huệ nhận lời, bèn phò Thái tôn lên ngôi Hoàng đế, đổi tên là Duy Kỳ, kể từ sang năm dùng niên hiệu Chiêu Thống.
Ngày 25 tháng 7 [18/8/1786], rước linh cửu Vua Hiển Tông do đường thủy về an táng tại Thanh Hóa. Nguyễn Huệ mặc áo tang, thân hành đến nơi đình tạm ở bến sông để lạy đưa, lại sai bầy tôi là Nội tán Trần Văn Kỷ và Hữu quân Nguyễn Hữu Chỉnh mặc áo trắng hộ vệ chầu chực.
Tháng 8 [24/8-21/9/1786], làm lễ an tang Vua Hiển Tông tại lăng Bàn Thạch, thuộc huyện Lôi Dương [huyện Thọ Xuân], Thanh Hóa.
Trước kia, Vua Tây Sơn Nguyễn Nhạc sai Nguyễn Huệ đánh Thuận Hóa, chưa có ý định tiến ra Bắc. Sau khi Nguyễn Huệ đã lấy được Thuận Hóa, đưa thư báo sẽ tiến thẳng quân ra để lấy Thăng Long; Nguyễn Nhạc được nhận thư, không bằng lòng, sai người ngăn lại, nhưng không kịp. Đến lúc Nguyễn Huệ đã lấy được Thăng Long, Nguyễn Nhạc biết tin sợ lắm; cho rằng đem quân vội vàng vào sâu như thế, khó giữ được lâu. Hơn nữa Nguyễn Nhạc nhận thấy Nguyễn Huệ vốn là người giảo hoạt, hung tợn; nếu đắc chí, tất nhiên sẽ giữ lấy riêng một nước để tự lo toan, rồi dần dà khó mà kiềm chế được. Vì thế Nhạc lập tức đem 500 tên lính thân cận đi vội ra thẳng Thuận Hóa, kén thêm binh tráng, rồi đi gấp đường ra Bắc, để làm đạo quân tiếp ứng, mà thực ra lại là để kiềm chế xem xét Huệ. Tháng 8 [24/8-21/9/1786] Nguyễn Nhạc đến Thăng Long, Vua Lê Chiêu Thống đem trăm quan thân hành đón tiếp ở ngoài cửa Nam Giao. Nguyễn Nhạc thúc quân rảo bước đi nhanh, sai người xin nhà Vua về cung và đính ước ngày hôm khác sẽ cùng nhau hội kiến. Lúc ấy, tướng sĩ Tây Sơn đóng lâu ở ngoài Bắc, muốn trở về; tả quân Vũ Văn Nhậm cũng ghét Hữu Chỉnh lộng quyền nên có lời dèm; nhân đấy Nguyễn Nhạc bới xấu Hữu Chỉnh với Nguyễn Huệ rằng: “Kẻ kia [Hữu Chỉnh] lấy thân phận người tôi trốn tránh mà về đầu hàng với ta, trong bụng chỉ muốn được hả lòng với nước cũ, nên nhờ uy lực của ta để thành công. Nay nếu ta lại giam hãm mấy vạn người ở đây, để làm vây cánh cho nó, thì thật là dại dột quá chừng! Vả lại hắn thường nói: “Nhân tài Bắc Hà chỉ có một mình hắn”. Thế thì không chi bằng ta bỏ hắn ở đây mà về Nam. Hiện nay người Bắc Hà oán ghét hắn ghi sâu vào xương tủy, ta mượn tay họ để giết hắn đi, khi hắn chết rồi, thì ta lấy Bắc Hà lại minh bạch chính đáng“. Nguyễn Huệ cho là phải, bèn có ý bỏ Hữu Chỉnh; Hữu Chỉnh không biết gì về việc ấy cả. Sau đó vài ngày, Nguyễn Nhạc sai người xin với Vua Chiêu Thống cùng nhau hội kiến; nhà Vua xin cắt đất để khao quân, Nguyễn Nhạc nói: “Tôi tức giận về nổi họ Trịnh uy hiếp ức chế, nên đứng ra làm việc tôn phò. Nếu đất đai không phải của nhà Lê, thì một tấc tôi cũng không để, nhưng nếu là đất đai của nhà Lê, thì một tấc tôi cũng không lấy“. Lại ước hẹn đời đời làm láng giềng giao hiếu với nhau. Nhà vua tin là phải, xin Nguyễn Nhạc ở lại ít lâu để giúp đỡ, Nhạc giả vờ nhận lời, sai Hữu Chỉnh chọn ngày lành cử hành đủ nghi lễ bái yết Thái Miếu. Hữu Chỉnh cũng nghĩ là Văn Nhạc chưa trở về Nam.
Vào canh ba đêm 17 [10/9/1786]; Nhạc, Huệ sai người vào từ biệt với nhà vua, rồi bí mật ban phát ám hiệu, ngay đêm hôm ấy quân thủy, quân bộ nhất luật rút đi, của cải trong kho tàng đều bị vơ vét nhẵn. Đến sáng, Hữu Chỉnh mới biết, vội vàng, không biết thi thố thế nào, bèn cùng vài chục thủ hạ cướp lấy một chiếc thuyền buôn đi theo đuôi. Người đô thành tranh nhau dùng gạch ngói để ném, Hữu Chỉnh tự tay đâm vài người mới được thoát thân. Khi theo đến Nghệ An, Hữu Chỉnh vào yết kiến Văn Nhạc. Nguyễn Nhạc dùng lời khéo léo yên ủi dụ dỗ, rồi sai cùng với viên tướng ở đấy là Nguyễn Duệ cùng nhau giữ châu thành này, tích trữ lương thực, luyện tập binh lính để đợi một ngày khác sẽ dùng đến, rồi Nguyễn Nhạc tự dẫn quân về Quy Nhơn.
Sau khi quân Tây Sơn rút đi, Vua Chiêu Thống lập tức triệu bầy tôi trong triều bàn luận : “Giặc để lại cho ta một nước trống rỗng, nếu có sự nguy cấp, thì chống đỡ bằng cách nào?”. Bèn viết thư triệu hết những người thế gia và bầy tôi cũ dấy quân bảo vệ hoàng thành. Vì thế, hào mục các nơi chiếm giữ châu quận, chiêu tập binh mã, đều mượn danh nghĩa “bảo vệ”, kẻ vô lại đánh giết lẫn nhau, trong nước thành ra rối loạn.
Trước kia, sau khi Trịnh Khải thất bại, thân thuộc là Trịnh Bồng lánh đến huyện Chương Đức [huyện Chương Mỹ, Hà Tây], Trịnh Lệ lánh đến huyện Văn Giang [huyện Thuận Thành, Bắc Ninh], đều tự ý lẻn lút chiêu tập binh mã, để đợi cơ hội sẽ nổi lên. Vào tháng 9 [22/9-21/10/1786] lúc quân Tây Sơn rút về, Trịnh Lệ bèn cùng người họ ngoại là Trương Tuân đem quân qua đò Thanh Trì, đến cung Tây Long [phố Nguyễn Trung Trực, Hà Nội]; Dương Trọng Khiêm, Thiêm đô ngự sử, cũng đem hương binh đến họp; cùng nhau ủng hộ Trịnh Lệ vào phủ đường họ Trịnh; đương đêm, đánh trống trên lầu hội họp trăm quan để lập Trịnh Lệ lên nối ngôi Chúa, nhưng vì vội vàng, nên các quan không ai đến.
Vua Chiêu Thống hay tin, hạ chiếu vặn hỏi Trọng Khiêm về cớ không xin mệnh lệnh, Trọng Khiêm xé tờ chiếu trước mặt sứ giả, rồi cùng Trịnh Lệ mưu tập hợp quần chúng làm sự biến động. Lúc ấy Trịnh Bồng dâng tờ biểu xin về chầu, lời lẽ rất nhũn nhặn uyển chuyển, nhà Vua bèn hạ chiếu triệu Trịnh Bồng. Bầy tôi trong triều thấy công việc của bọn Trọng Khiêm làm không thuận theo lẽ phải, nên đều bỏ Trịnh Lệ về với Trịnh Bồng. Khi Trịnh Bồng về đến cầu Nhân Mục [huyện Thanh Trì, Hà Nội], Trịnh Lệ sai Trương Tuân và Trọng Khiêm đem quân chống cự. Trọng Khiêm lại ngầm sai gia tướng là Nguyễn Mậu Nễ đón đường xin đầu hàng với Bồng. Việc này, Trương Tuân không biết gì cả; khi Trịnh Bồng đi gần đến Kinh Thành, Trương Tuân thấy đằng trước đều là quân của Trọng Khiêm, nên quân của Trương Tuân bèn đỗ vỡ lung tung. Tuân liền đưa Trịnh Lệ chạy lên vùng Kinh Bắc.
Bồng vào yết kiến, nhà Vua yên ủi, muốn ban phong tước Công và hậu cấp bổng lộc, mà không cho tham dự chính quyền. Bồng bèn họp quân đóng ở phủ đường họ Trịnh, dần dần chống lại với nhà Vua. Triều thần e rằng khó có thể ức chế được, bèn bàn luận tâu xin nhà Vua dựa theo tước vị lúc mới phong Trịnh Tráng mà phong cho Bồng. Ý nhà Vua không muốn phong như thế; bèn sắc phong Bồng làm Tiết chế thủy bộ chư quân, bình chương quân quốc trọng sự, thái úy Côn quốc công, cấp cho 3.000 tên lính, 5.000 mẫu ruộng và 200 xã dân lộc, để phụng giữ việc tế tự nhà họ Trịnh; hạ lệnh đem sắc thư ấy ban bố cho cả nước. Lúc ấy, Đinh Tích Nhưỡng từ Hải Dương về kinh, muốn viện lệ phong tước Vương cho Trịnh Bồng, triều đình cũng sợ thanh thế Tích Nhưỡng, nhân đấy lại cùng nhau xin phong Vương cho Trịnh Bồng. Nhà Vua không chuẩn y, Tích Nhưỡng cố xin mãi, Vua nói: “Trước kia cơ nghiệp nhà ta giữa chừng đỗ nát, chính quyền do trong tay họ Trịnh, việc tế tự thì về quả nhân (1) . Đấy là một thời kỳ. Nhưng nay lòng trời oán ghét họa loạn, phó thác quyền bính cho một mình ta. Một nước hai vua, có lẽ nào cứ giữ làm thể lệ được?”. Cách mấy hôm sau, Tích Nhưỡng dàn quân ở cửa điện, rồi tự vào sân điện Vạn Thọ, lạy phục xuống đất cố xin, nhà Vua cũng không y cho; Hoàng thân và các đại thần sợ sinh ra biến loạn, vừa khóc vừa kêu xin. Tích Nhưỡng lại cùng triều thần làm tờ biểu xin phong tước Vương cho Trịnh Bồng mà chính quyền thì do nhà Vua giữ. Nhà vua bất đắc dĩ y theo, bèn sai Nguyễn Du (2) đem tờ sắc phong cho Bồng làm Nguyên soái, tổng quốc chính, Yến đô vương. Trịnh Bồng nhu nhược, lười biếng, không biết tự lập, chính sự đều xuất phát từ tay Tích Nhưỡng, bọn tiểu nhân đua nhau ton hót phụ họa. Ngay giữa ban ngày, thủ hạ cướp bóc dân cư gần kinh thành, không có hiệu lệnh ngăn cấm; mọi người đều cho là không còn hy vọng gì cả. Về phần nhà Vua cũng phòng bị nghiêm ngặt, rồi bí mật hạ chiếu lo việc cần vương. Được tin Hữu Chỉnh chiếm cứ Nghệ An, nhà Vua bèn sai viên quan Bùi Dương Lịch làm chiêu dụ sứ các phủ Đức Quang và Hà Hoa [thuộc Hà Tĩnh], lẻn đi chiêu dụ và dò xét tình hình.
Gặp lúc ấy, Hoàng Phùng Cơ từ Sơn Tây về bảo vệ kinh thành, Đinh Tích Nhưỡng bí mật cấu kết với Phùng Cơ, dâng biểu yêu cầu Vua về việc chính trị, bàn luận việc gì, thì trước hết làm tờ khải trình chúa Trịnh, rồi sau tâu bày đầy đủ để xin nghị định quyết đoán. Nhà vua xem tờ biểu, rất tức giận; không chấp thuận. Phùng Cơ xui trăm quan phục mãi ở sân điện, không đứng dậy; nhà vua biết rằng không lay chuyển được, bèn nhận lời tâu. Do đấy, Trịnh Bồng mới thân giữ chính quyền, bổ dụng Hoàng Phùng Cơ làm Trung quân tả đô đốc chưởng phủ sự, Đinh Tích Nhưỡng làm Đông quân hữu đô đốc thự phủ sự. Phan Lê Phiên làm Bình chương sự. Bùi Huy Bích và Phan Cận làm Đồng bình chương sự kiêm giữ chức Tham tụng, bọn Ngô Trọng Khuê và Ninh Tốn làm Tham tri chính sự kiêm giữ chức Bồi tụng. Phàm liêu thuộc trong phủ chúa hết thảy vẫn giữ như cũ, riêng Phan Lê Phiên và Bùi Huy Bích cố từ chối không nhận chức. Trịnh Bồng lại sai người triệu Dương Trọng Khiêm từ Gia Lâm về, giữ bộ Hộ coi công việc tài chính, thuế khóa. Từ đấy, chính quyền trong nước lại về tay họ Trịnh, nhà Vua rất tức giận, mọi việc đều giằng co, triều chính rối beng.
Tháng 11[21/12/1786-18/1/1787], Trịnh Bồng chống Vua, đem quân vây hoàng thành. nhà Vua triệu Nguyễn Hữu Chỉnh vào bảo vệ; Trịnh Bồng chạy sang Kinh Bắc.
Dương Trọng Khiêm sợ rằng nhà Vua trong lòng tràn đầy tức giận, sẽ phản ứng lại; bèn khuyên Trịnh Bồng đem quân vây chặt lấy hoàng thành, bắt giết triều thần nào theo nhà Vua, rồi bàn định lập Vua khác. Trịnh Bồng theo lời, liền bí mật sai Nguyễn Mậu Nễ và Bùi Nhuận nhân ban đêm đem quân xâm phạm cung khuyết. Được tin biến động, nhà vua lập tức cho triệu Hoàng thân đem quân lính đã mộ được, phân phối bố trí để phòng bị chống cự. Đề lãnh Hoàng Phùng Cơ vốn không ăn cánh với Nguyễn Trọng Khiêm, vả lại nhà riêng ở trong hoàng thành, Phùng Cơ sợ rằng, nếu trong nội điện có xảy ra tai biến, sẽ đều phải mang tiếng xấu, liền đem quân bản bộ đuổi đánh. Mậu Nễ không dám tiến, mang quân rút lui. Nhà vua giận lắm, được tin Nguyễn Hữu Chỉnh đang mộ lính bảo vệ, bèn ngầm đích thân viết thư để triệu Hữu Chỉnh.
Trước kia, Hữu Chỉnh theo Nguyễn Nhạc trở về, rồi lưu lại ở Nghệ An, bèn nói thác ra rằng nhận được chỉ dụ bí mật của nhà vua, chiêu mộ binh dõng, ngày đêm luyện tập. Nhưng hào mục sở tại nhiều người ghét Hữu Chỉnh, nhân đấy, họ ngầm suy tôn viên trấn thủ cũ là Bùi Thế Toại làm người đứng đầu, tụ tập quần chúng, rình lúc sơ hở, sẽ toan tính việc đánh Hữu Chỉnh. Đến nay, Hữu Chỉnh nhận được mật chỉ, lập tức tung tờ hịch truyền ra các nơi, lấy danh nghĩa là tôn phò nhà Lê. Vì thế xa gần đều hưởng ứng, trong khoảng mười ngày, mộ được hơn vạn lính, đặt hiệu quân là Tứ đột và Tứ thành, bèn hội hợp đông đủ tướng sĩ, hẹn ngày xuất phát
Bùi Thế Toại đón đánh Hữu Chỉnh ở Hoa Lâm [huyện Yên Thành, Nghệ An], Thế Toại thua, bỏ chạy. Trịnh Bồng lại sai Lê Trung Nghĩa, đốc trấn Thanh Hóa, và Phan Huy Ích Đốc thị [con Phan Cận], đem quân ra đánh. Quân hai bên gặp nhau ở xã Ngọc Giáp [huyện Tĩnh Gia, Thanh Hóa]; Trung Nghĩa chết trận, Huy Ích bị bắt nhưng không bị giết; Hữu Chỉnh vẫn cho mang đi theo, rồi thúc quân ồ ạt tiến lên. Tin báo đến kinh thành. Đinh Tích Nhưỡng sợ lắm, từ biệt Trịnh Bồng đề về Hải Dương mộ quân; nhà Vua bí mật dụ bảo hào mục địa phương đánh bắt, Tích Nhưỡng bị thua, rút về Hàm Giang [sông Thái Bình, Hải Dương] để tự thủ. Hoàng Phùng Cơ lâm vào thế trơ trọi một mình, nên bỏ Trịnh Bồng mà chạy về Sơn Tây. Quân của Hữu Chỉnh kéo đến Thăng Long, Trịnh Bồng qua sông sang Kinh Bắc, chạy đến xã Dương Xá [huyện Siêu Loại, Bắc Ninh], sau lại dời đến xã Quế Ổ [huyện Quế Dương, Bắc Ninh].
Hữu Chỉnh đến kinh thành, tướng là Hoàng Việt Tuyển cũng đem thủy quân đến, thanh thế rất lừng lẫy. Nhà vua ngự ra cung Tây Long, thân hành duyệt binh, nhân đấy, hạ lệnh dẫn vào trong thành, phân phối bố trí nơi đóng quân.
Tháng 12 [19/1-17/2/1787], Nguyễn Hữu Chỉnh vào chầu, nhà Vua dụ rằng: “Hiện nay giúp trẫm dẹp loạn, để đi đến thái bình, chỉ trông cậy vào nhà ngươi“. Bèn sai giữ chức Bình chương quân quốc trọng sự, Đại tư đồ, phong tước Bằng trung công; con là Nguyễn Hữu Du và thân thuộc là Nguyễn Khuê đều cầm quân, được phong tước Hầu; tướng bộ thuộc là bọn Hoàng Viết Tuyển đều được thăng chức.
Tại miền Nam, vào tháng giêng [30/1-27/2/1786] Nguyễn vương trú tại Vọng Các, Xiêm La [Thái Lan].
Tháng 2 [28/2-29/3/1786], Diến Điện do ba đường tiến binh xâm lấn đất Sài Nặc nước Xiêm. Vua Xiêm tự đem quân chống cự và xin Nguyễn vương giúp. Vương tự đem quân trợ chiến; sai Lê Văn Quân và Nguyễn Văn Thành đi trước, dùng ống phun lửa để đánh. Quân Diến Điện sợ chạy, chết không kể xiết, bị bắt 500 người. Vua Xiêm thán phục, đem vàng lụa đến tạ, lại muốn giúp quân thu phục Gia Định. Vương họp các tướng bàn. Nguyễn Văn Thành tâu rằng : “Vua Thiếu Khang (3) chỉ có một lữ còn dựng được cơ nghiệp nhà Hạ. Ta nuôi sức mạnh mà thừa chỗ sơ hở thì việc còn có thể làm được, chứ nếu mượn người ngoài giúp, đưa Di Địch vào trong tâm phúc thì sợ để lo về sau. Không bằng cứ yên tĩnh để chờ cơ hội là hơn”. Vua khen phải, nên thôi.
Tháng 3 [30/3-27/4/1786], sai bọn Tổng nhung chưởng cơ Hoàng Tiến Cảnh, Tổng nhung cai cơ Nguyễn Văn Nhàn, Cai cơ Võ Di Nguy, Nguyễn Văn Định, Trương Phước Luật, đem quân ra núi Giàng Khảm [Thái Lan] đóng một chục chiến thuyền.
Quân Chà Và đánh Xiêm; Vương sai Lê Văn Quân đem thủy binh cùng với Vua thứ hai nước Xiêm đánh dẹp được. Vua Xiêm trọng Quân là tướng giỏi, đãi ngộ rất hậu.
Tháng 6 [26/6-24/7/1786] Giám mục Bá Đa Lộc và Hoàng tử Cảnh, từ Pondichéry Ấn Độ, sang nước Pháp; cho Hồ Văn Nghị mang biểu về hành tại ở Vọng Các báo tin, rồi Nghị ở lại với Vương. Vào đầu năm Chiêu Thống thứ nhất [18/2-18/3/1787] phái đoàn Bá Đa Lộc đến hải cảng Lorient, nước Pháp.
Tháng 7 [25/7-23/8/1786], Nguyễn Huệ sau khi đánh được Bắc Hà, muốn tự lập. Khi từ thành Thăng Long trở về, anh em Tây Sơn trở nên bất hòa; Nguyễn Huệ đem quân vào vây đánh thành Qui Nhơn. Vua Tây Sơn Nguyễn Nhạc đóng cửa thành chống giữ, báo tin gấp cho Đô úy Đặng Văn Trấn đem quân về cứu viện. Trấn để cho Tham đốc Trần Tú giữ Gia Định, tự đem quân về; khi đến Tiên Châu, Phú Yên, thì bị quân Nguyễn Huệ đón đánh bắt được; từ đấy Tây Sơn không còn rảnh để dòm ngó miền Nam nữa. Tình trạng thành Qui Nhơn bị Nguyễn Huệ đánh nguy cấp đến nỗi Nguyễn Nhạc phải thân lên thành kêu khóc, gọi Huệ mà bảo rằng: ” Nỡ lòng nào lại nồi da nấu thịt như thế“. Nguyễn Huệ động lòng mới giải vây rút quân về Thuận Hóa, rồi giảng hòa. Nguyễn Huệ lui quân giữ từ Thăng Hoa, Điện Bàn, trở về Bắc đóng ở Phú Xuân, tự xưng là Bắc Bình Vương.
Tháng 9 nhuận [22/10-21/11/1786], tướng Tây Sơn là Trần Tú giữ Gia Định, những hào kiệt sở tại dò thấy sơ hở muốn nổi lên. Người Trấn Biên [Biên Hòa] là Nguyễn Văn Nghĩa, Nguyễn Văn Tuyết đều dựng cờ đánh Tây Sơn. Người Phiên Trấn [Gia Định] là Lê Công Trấn, Phạm Điền cũng họp quân mưu đánh úp đồn Bến Nghé, công việc bị lộ; Tú đánh úp, bắt giết.
Tháng 12 [19/1-17/2/1787], Nguyễn vương sai Cai cơ Phạm Văn Châu và Nguyễn Văn Định về Hà Tiên, chiêu tập nghĩa binh, dò thám thế giặc.
Chú thích:
1.Quả nhân: Nghĩa đen là người ít đức. Vua chúa đời cổ dùng danh từ “quả nhân” để nói khiêm tốn.
2.Nguyễn Du: Người xã Vân Xá, huyện Thanh Oai, Hà Nội; đỗ Tiến sĩ khoa Ất Tỵ (1785).
3.Thiếu Khang: Hoàng thân thuộc triều Hạ, Trung Quốc; thời trước Công Nguyên 2000 năm. Cha bị Hàn Trác giết; cuối cùng Thiếu Khang với lực lượng dân chỉ có một thành, quân chỉ có một lữ; mà lấy lại được nước.
Bài viết này mang nặng tư tưởng phong kiến nên giữ gìn những cái cũ kỹ. Không phải là nghiên cứu lịch sử. Chỉ là nêu lại sự kiện và dùng cách hành văn kiểu thiên vị cho các vị thế quân chủ đương thời.
ThíchThích