Lê Chiêu Thống [1787-1789]

Hồ Bạch Thảo
Sau khi nhận được lời tâu của Tổng đốc Lưỡng Quảng và Tuần phủ Quảng Tây về lời bẩm chi tiết của viên Tri Phủ Lục Hữu Nhân liên quan đến việc Hoàng thái hậu nhà Lê sang nhà Thanh xin cứu viện; Vua Càn Long ra lệnh cho Tôn sĩ Nghị đến tận nơi ân cần săn sóc, cùng ban chỉ dụ an ủi Thái hậu, hứa sẽ giúp khôi phục đất nước:
“Ngày 1 tháng 7 năm Càn Long thứ 53 [2/8/1788]
Dụ: Tôn Sĩ Nghị và Tôn Vĩnh Thanh [Tuần phủ Quảng Tây] trước sau đều tâu rằng đã nhận được tờ bẩm của viên Tri phủ Thái Bình là Lục Hữu Nhân về việc viên Trấn thủ Mục Mã nước An Nam Nguyễn Huy Túc đưa một số già, trẻ, đàn ông, đàn bà khoảng vài chục người đến cửa ải Đấu Áo [trấn Thủy Khẩu] vùng Long Châu, đứng bên kia bờ sông cầu cứu. Căn cứ lời khai của viên quan thì thành nhà Lê của nước này bị tên Thổ mục họ Nguyễn [Tây Sơn] đánh phá, Tự tôn [cháu nối dòng] Lê Duy Kỳ [vua Lê Chiêu Thống] trốn ra ngoài. Viên này, cùng viên quan Lê Quýnh bảo hộ mẹ và con của Quốc vương trốn tránh tại xã Bác Sơn [huyện Thạch An, Cao Bằng], bị giặc đánh đuổi, chạy đến bờ sông không có lối thoát, bèn kêu la cầu cứu tại quan ải. Trong khi binh lính giữ ải đang hỏi sự tình, thì nhìn đằng xa thấy hơn trăm người tiến đến ra vẻ truy cản; khi thấy quân triều đình tập trung tại phía bắc nên không dám vượt sông, rồi tự rút lui. Bọn quan lại cùng đám đàn ông, đàn bà qua sông; đếm tất cả già trẻ gồm 62 người cho nhập vào quan ải, thu xếp phòng ốc để an nghỉ. Lục Hữu Nhân trực tiếp hỏi han cặn kẽ viên quan An Nam Nguyễn Huy Túc thì được biết nước này có tên Thổ tù Nguyễn Nhạc cậy mạnh đánh chiếm thành nhà Lê, nhưng các phủ tại phía tây nam, cùng phía bắc thành không chịu theo giặc. Trước đây Tự tôn đến các xứ tại Sơn Nam để điều binh chinh thảo, hiện nay không có tin tức. Nguyễn Nhạc là tên hung ác, nhân tâm trong nước vẫn hướng về nhà Lê xưa. Nếu Tự tôn thừa lúc giặc sơ hở mà phát động, một lần dấy lên có thể bắt được bọn Nguyễn Nhạc. Nguyễn Huy Túc đem mẹ và con Tự tôn xin tá túc, nhưng vẫn tình nguyện trở về nước để tìm Tự tôn; đợi khi đánh dẹp bọn Nguyễn Nhạc xong, sẽ đón quyến thuộc của Tự tôn trở về nước.
Nước An Nam thần phục bản triều hết sức cung thuận, Quốc vương nước này là Lê Duy Diêu bị bệnh chết, con trưởng (1) mất sớm, theo lệ Lê Duy Kỳ đáng được thừa tự. Trước đây nước này đánh mất ấn tín, đã gửi văn thư sang xin tái cấp, nhưng chưa đưa Sứ giả sang cáo tang, theo thể chế không hợp cách. Viên Tổng đốc đã gửi văn thư hỏi về việc này, đợi khi nước này cho Sứ sang thỉnh cầu sẽ chuẩn cấp. Nay Tôn Sĩ Nghị tâu thành nhà Lê đã bị bọn Nguyễn Nhạc chiếm cứ, Lê Duy Kỳ đến các xứ tại Sơn Nam lo điều binh vẫn chưa có tin tức. Riêng mẹ và con của y cơ hồ gần bị giặc bắt, hoảng hốt đến xin tá túc và đều được che chở lưu tâm bảo hộ. Hiện tại quyến thuộc họ Lê cùng tùy tùng được quan lại địa phương cấp phòng ốc, thu xếp yên ổn. Tôn Sĩ Nghị cùng Tôn Vĩnh Thanh trước sau đích thân đến Long Châu thăm hỏi.
Nay truyền viên Tổng đốc nên đến gần để lo liệu, ưu đãi cấp thêm lương ăn, để họ không mất chỗ nương dựa, cùng truyền đạt với mẹ Tự tôn rằng nước họ tuy bị Nguyễn Nhạc đánh phá thành nhà Lê, Tự tôn phải chạy ra ngoài, sợ quyến thuộc bị giặc làm nhục hoặc chém giết nên đưa đến xin tá túc. Nay đã đến nội địa, các quan ải đều có trọng binh phòng thủ, không còn lo sợ bọn giặc xông vào gây tổn thương. Đốc, Phủ đã đem việc này tâu lên đại Hoàng đế, và nhận được chiếu chỉ như sau: “An Nam xưng thần phụng sự Thiên triều hết sức cung thuận, viên Tổng đốc lo thu xếp bảo hộ, ưu đãi cấp dưỡng. Mẹ của Tự tôn và tùy tùng, hãy tạm trú tại Long Châu, không nên quá buồn phiền. Hiện tại giặc vẫn chưa chiếm hết đất đai nước này, lòng dân ủng hộ còn có thể nương dựa được; tại các quan ải đã truyền hịch động binh để làm thế thanh viện. Con y, Lê Duy Kỳ, lợi dụng cơ hội này chiêu tập nghĩa binh, diệt tan giặc và khôi phục cũng không đến nỗi khó. Đợi khi trong nước yên ổn, sẽ đón y cùng tùy tùng trở về nước.” Hãy gặp mẹ của Tự tôn truyền chỉ chi tiết rõ ràng, để được an tâm cư trú tại nội địa, tương lai sẽ hộ tống trở về nước, đối đãi hợp với chính sách “nhu viễn” (2) săn sóc vỗ về nước nhỏ…..”( Thanh Thực Lục, Cao Tông Thực Lục quyển 1308, trang 1-4 )
Bước đầu thực hiện dã tâm xâm lăng, Vua Càn Long ra lệnh quân Thanh gần biên giới tại Quảng Tây, Quảng Đông, Vân Nam, chỉnh đốn binh mã khí giới, chăm lo thao luyện, nhắm mạnh thanh thế. Ra lệnh cho Tổng đốc Tôn Sĩ Nghị truyền hịch hăm dọa các quan lại Tây Sơn rằng thiên triều đã phái trọng binh, dự bị mang quân hỏi tội; các trấn mục gần nội địa, nếu có thể cải tà qui chánh, tôn phò cựu chúa, thì không những chuyển họa thành phúc, được đại Hoàng đế hậu thưởng; nếu không mau hối cải qui chánh, tương lai đại binh tiến thảo, thì sẽ bị tru di trước:
“Ngày 10 tháng 7 năm Càn Long thứ 53 [11/8/1788]
Dụ các Quân cơ đại thần. Hiện tại An Nam tuy bị họ Nguyễn đánh phá thành nhà Lê, nhưng tung tích của Tự tôn hiện nay chưa có tin đích xác, nếu tuyên bố mang quân tiến đánh thì không khỏi quá sớm. Chỉ cần thông sức và ra lệnh các vùng phụ cận biên giới như Tả Giang [Quảng Tây], Cao Liêm [Cao Châu, Liêm Châu; Quảng Đông], cùng Khai Hóa, Lâm Nguyên thuộc tỉnh Vân Nam rằng hiện nay có việc xẩy ra tại An Nam, sợ bọn giặc phỉ thừa cơ lẻn vào quan ải, cần phải phòng bị ngăn bắt. Mỗi nơi tại biên giới chỉnh đốn binh mã khí giới, sáng chiều thao luyện, nhắm mạnh thanh thế; khiến dân chúng nước này nghe tin nội địa phái binh dự bị, hoặc Lê Duy Kỳ nhờ đó làm thanh viện, tập hợp binh dân, từ từ lo khôi phục, đó cũng là một biện pháp; nhưng cần bất động thanh sắc, bố trí ổn thỏa, không được khoa trương ồn ào. Còn như các xứ Cao Bằng, Lạng Sơn sát gần nội địa, Nguyễn Nhạc sợ Thiên triều đến đánh, đã sớm dụ theo nghịch. Nay truyền dụ Tôn Sĩ Nghị hãy nhân danh ý kiến riêng truyền hịch dụ các viên trấn mục rằng Nguyễn Nhạc cậy mạnh làm việc soán đoạt, các viên trấn mục đều là cựu thần của nhà Lê, đất đai lại tiếp giáp với Thiên triều, lý ra cần phải giúp Tự tôn đánh giặc, vậy sao lại cam tâm theo nghịch! Họ Lê thờ Thiên triều đã lâu, nay kẻ bề tôi của nước này dám lộng hành chiếm cứ; Thiên triều đã phái trọng binh, dự bị mang quân hỏi tội; các trấn mục cách nội địa rất gần, nếu có thể cải tà qui chánh, tôn phò cựu chúa, thì không những chuyển họa thành phúc, được đại Hoàng đế hậu thưởng; nếu không mau hối cải qui chánh, tương lai đại binh tiến thảo, thì sẽ bị tru di trước tiên, quyết không khoan thứ…” ( Thanh Thực Lục, Cao Tông Thực Lục quyển 1308, trang 25-27)
Bấy giờ mọi việc tại miền Bắc tuy do Bắc bình vương Nguyễn Huệ chủ trì, nhưng vẫn dùng danh nghĩa Vua anh Nguyễn Nhạc sai Sứ giả đến nhà Thanh tiến cống. Tôn Sĩ Nghị đích thân đến trấn Nam Quan la mắng Sứ giả và cho biết rằng Thiên triều sẽ điều binh chia quân đến đánh; dặn trở về bảo Nguyễn Nhạc phải mau hối lỗi, đón rước chúa Lê Chiêu Thống về. Cũng vào dịp này viên Châu mục châu Văn Uyên là Nguyễn Đình Phái, mang ấn tín cùng quyến thuộc gồm 8 người leo qua núi để được vào nội địa; khiến Càn Long tỏ ra lạc quan, cho rằng đất nước An Nam không phải mọi nơi đều theo Nguyễn Nhạc, nên có thể dựa vào lực lượng này để mưu đồ khôi phục:
“Ngày 24 tháng 7 năm Càn Long thứ 53 [25/8/1788]
Dụ rằng: Nguyễn Nhạc đuổi chúa, làm loạn luân thường, lại sai người đến tiến cống; lý không thể chấp nhận việc nạp cống này! Điều này chắc Nguyễn Nhạc tự biết mình làm điều soán đoạt, sợ Thiên triều mang quân hỏi tội, nên làm như vậy để thăm dò. Nếu viên Đốc Phủ tại đó không biết việc, thì nhận đồ tiến cống sợ mất quốc thể, từ chối lại e gây sự lôi thôi, dùng dằng không biết căn cứ vào đâu mà tiến thoái. Nay Tôn Sĩ nghị nhận được tin bẩm báo, đích thân đến trấn Nam Quan, bảo tên Sứ giả đứng tại trước chân tường cửa ải, rồi lớn tiếng la mắng y, cho biết rằng Thiên triều sẽ điều binh chia quân đến đánh, hãy trở về bảo với Nguyễn Nhạc phải mau hối lỗi, đổi mới, đón rước chúa [Lê Chiêu Thống] về; lời lẽ nghiêm chính, đủ làm cho Nguyễn Nhạc nghe đến phải sợ xanh mật. Tôn Sĩ Nghị lo liệu công việc thực đáng khen; nay ban một chiếc áo bào ngự dụng, thêu hình mãng xà để đặc biệt tưởng thưởng.
Lại theo lời tấu, có viên Châu mục châu Văn Uyên [Lạng Sơn] của nước này tên là Nguyễn Đình Phái, mang ấn tín cùng quyến thuộc gồm 8 người leo qua núi để được vào nội địa, cùng xin được yết kiến Quốc mẫu. Đã cho phép xuống núi tạm trú tại vùng đất của Thổ ty; lại ra lệnh cho Nguyễn Đình Phái đến Nam Ninh để được diện kiến thân mẫu Tự tôn. Việc làm này rất đúng, người mà Nguyễn Nhạc sai đến đây là viên Châu mục mới đất Văn Uyên tên là Hoàng Đình Cầu. Nay Nguyễn Đình Phái là Châu mục cũ đất Văn Uyên, không chịu bị đoạt chức, bèn mang ấn đến để chứng tỏ lòng ngay thẳng. Nếu đuổi người này đi, thì những người đang nặng lòng với nhà Lê, thấy rằng nội địa [Trung Quốc] không chứa chấp thì cùng đường ắt phải theo giặc. Nay Tôn Sĩ Nghị cho viên Châu mục tạm trú tại nội địa, lại ra lệnh đến gặp thân mẫu của Tự tôn; khiến dân chúng nước này thấy Thiên triều gia ân cho họ Lê, phàm ai có lòng với triều cũ đều được dung nạp, như vậy càng tăng lòng thành hướng về nội địa và bỏ cái chí theo giặc.
Hiện nay đất nước An Nam không phải mọi nơi đều theo Nguyễn Nhạc, những quan văn quan võ tại các lộ chưa theo giặc cũng không dưới hai trăm viên, quân lính và dân chúng cũng đến hàng mấy vạn; có thể dựa vào lực lượng này để mưu đồ khôi phục….” (Thanh Thực Lục, Cao Tông Thực Lục quyển 1309, trang 38-40 )
Bấy giờ có nhiều dân Trung Quốc sang khai mỏ tại các tỉnh biên giới như Cao Bằng, Lạng Sơn, Thái Nguyên; đám dân này còn gọi là xưởng dân, theo nhà Lê, chống lại Tây Sơn. Vua Càn Long chủ trương lợi dụng xưởng dân, cấp cho lương thực, võ trang thành đội ngũ, để chống lại quân Tây Sơn:
“Ngày 12 tháng 8 năm Càn Long thứ 53 [11/9/1788]. Lại dụ :
‘Dân trong các xưởng mỏ tại An Nam rất đông, nếu để cho giặc mê hoặc thì thế giặc sẽ lớn lên. Nay bọn Tôn Sĩ Nghị ban hịch dụ bọn cầm đầu hứa sẽ ban ơn thưởng cùng miễn thuế xưởng mỏ, lệnh ra sức đánh giặc, cũng là một biện pháp. Còn Giang Triều Anh (3) xưng rằng xứ An Nam liền năm bỏ hoang, giá gạo cao, sợ lúc đánh giặc, không có lương thực để tiếp tế. Quảng Tây từ trước tới nay là khu vực sản xuất lúa, Tôn Sĩ Nghị hãy dùng kho lương nơi phụ cận, ước lượng cấp phát không phải là không được. Nhưng các hạng lương thảo chỉ nên vận tải đến các ải biên giới, lệnh xưởng dân đến đó lãnh. Nếu xưởng dân quả có khả năng diệt giặc, đón Tự tôn trở về, không phiền đến binh lực nội địa, thì đó là điều rất tốt. Những dân đinh tại xưởng, nhân cảm niệm đức cũ của họ Lê, không chịu theo giặc; hiện ra lệnh nhờ sức lực chúng cùng nhau diệt giặc, việc trước đây lén vượt biên giới không còn truy vấn nữa.” (Thanh Thực Lục, Cao Tông Thực Lục quyển 1310, trang 28-29)
Nhân viên Trấn thủ Lạng Sơn Phan Khải Đức bỏ Tây Sơn thần phục nhà Thanh; Tôn Sĩ Nghị sai y thu thập binh mã tại biên giới cùng xưởng dân khởi hành đánh thành Thăng Long. Ý Vua Càn Long lại cho rằng Trung Quốc cần xuất quân yểm trợ, gây áp lực từ hai tỉnh Quảng Tây, Vân Nam; mới mong chóng thành công:
“Ngày 28 tháng 8 năm Càn Long thứ 53 [26/9/1788]
Lại dụ: Lê Duy Kỳ đích thân đến Sơn Nam chiêu tập nghĩa binh nhưng bị giặc bức bách, chỉ còn một vài người tùy tùng, cùng chạy vào núi trốn tránh. Xem ra y là người không có khả năng, khó trông cậy có thể chấn tác khôi phục được. Hiện tại Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ thấy Tôn Sĩ Nghị phát hịch văn, nên sợ sệt trốn tránh. Phan Khải Đức (4) vốn là tâm phúc của Nguyễn Huệ, nhận được hịch văn cũng biết bỏ nghịch theo thuận. Tên này đã được lệnh của Tôn Sĩ Nghị cho thu thập binh mã của 7 châu cùng xưởng dân lập tức khởi hành, chắc sẽ đến thành nhà Lê không đến nỗi khó khăn. Viên Tự tôn hiện ở tại một nơi nào đó thuộc phía đông thành nhà Lê, Tôn Sĩ Nghị đã mộ dân bản xứ đi trước để thám thính, khi các Trấn Mục phía đông nhận được mật trát của Tôn Sĩ Nghị sẽ hộ tống Tự tôn trở về. Sau khi nhận được phù nghiệm (5) của Tự tôn, Tôn Sĩ Nghị ước lượng tình hình, định ngày thích hợp cho quyến thuộc được rời quan ải. Còn bọn Nguyễn Nhạc, thấy được hịch văn của viên Đốc, sợ hãi Thiên triều mang quân thảo phạt nên khiếp sợ trốn tránh xa.
Bây giờ nếu nội địa không có hành động gì, bọn giặc cho rằng hịch văn của viên Đốc dọa sẽ điều động đại binh, thực ra chỉ là phô trương thanh thế mà thôi; rồi coi thường không sợ hãi, lại trở về với con đường cũ, mưu đồ soán đoạt. Tôn Sĩ Nghị xin được điều binh phòng bị tại các nơi, cần được liệu tính như vậy. Nhưng khi dùng binh để đánh dẹp, Tôn Sĩ Nghị với chức vụ Tổng đốc Lưỡng Quảng là nhân vật quan trọng, vả lại trong nội địa có nhiều công việc phải lo, không thể đích thân nắm quân tiến trước. Trong tỉnh có Đề đốc Hứa Thế Hanh, các Tổng binh Trương Triều Long, Lý Hóa Long là những người quen chiến trận, có thể đảm đương được. Huống hồ tên Trấn mục đồ đảng của họ Nguyễn mang quân qua châu Văn Uyên [huyện Tràng Định, Lạng Sơn] bị người trong châu là bọn Hoàng Liêu Đạt đón đánh làm tổn thương rất nhiều; lại có bọn Nguyễn Trọng Khoa tại châu Thất Tuyền [huyện Tràng Định, Lạng Sơn] tình nguyện mang 700 dân địa phương đi theo đánh giặc. Xem tình hình như vậy cũng không cần mang nhiều quân, lệnh Hứa Thế Hanh cùng với một, hai viên Tổng binh mang vài ngàn quân tiến trước, Tôn Sĩ Nghị lại chuẩn bị thêm một vài ngàn đóng tại quan ải, lên tiếng rằng sẽ tiếp tục tiến, chắc bọn giặc Nguyễn không dám ngang ngạnh cậy hiểm mà kháng cự.
Từ con đường Mông Tự tỉnh Vân nam hướng tới An Nam, tại nơi này những viên Thổ mục được giặc Nguyễn thu dùng, ngấm ngầm đóng tại các nơi quan trọng, ta cũng chưa biết rõ ràng. Nay một mặt truyền hịch kêu gọi, một mặt đem quân trú tại biên giới để làm thế yểm trợ xa cho đạo quân Lưỡng Quảng. Phú Cương (6) nên sai một viên trấn tướng có kinh nghiệm mang quân tới đó trú đóng, tung tin rằng sẽ hợp đồng với Lưỡng Quảng hai mặt tấn công; đợi quân Lưỡng Quảng khởi hành, sẽ cùng ngày đến tiễu trừ; khiến bọn Thổ mục nghe hơi sợ sệt, biết rằng quân Thiên triều tập trung đông nhắm khôi phục họ Lê, nên quay lại tôn phù; như vậy thế giặc họ Nguyễn càng trở nên cô đơn, công việc sẽ được giải quyết mau, không mấy khó khăn.” (Thanh Thực Lục, Cao Tông Thực Lục quyển 1311, trang 27-29)
Bấy giờ viên Thổ ty Mục Mã Bế Nguyên Luật, bắt được quan Tây Sơn là bọn Nguyễn Viễn Ðiện, Chu Ðình Lý đem nạp; Tôn Sĩ Nghị dùng Nguyễn Viễn Ðiện, Chu Ðình Lý làm con tin; sai em là Nguyễn Văn Tước, Chu Văn Tấn trở về nước, lấy tin tức về Vua Lê Chiêu Thống; sáng kiến này được Vua Càn Long ban thưởng. Tại thời điểm này, Càn Long chủ trương cho Hứa Thế Hanh đã mang quân tiến trước, riêng Tôn Sĩ Nghị đóng tại quan ải làm thế tiếp ứng:
“Ngày 9 tháng 9 năm Càn Long thứ 53 [7/10/1788]. Lại dụ:
“ Thổ ty Mục Mã [huyện Thạch An, Cao Bằng] bắt ngụy quan Nguyễn Viễn Ðiện, dĩ nhiên nên giải vào nội địa để tuyệt lòng dòm ngó. Tôn Sĩ Nghị nhận được bẩm báo, lệnh phái binh giải đến quan ải; một mặt dùng lời an ủi ưu thưởng, dụ tập hợp Thổ quan các nơi để diệt Nguyễn phù Lê. Riêng Nguyễn Văn Tước, Chu Văn Tấu, là em và tôi tớ ngụy quan; dù ở hay bỏ đi cũng không đáng cho là quan trọng. Vả lại bọn Nguyễn Viễn Ðiện, Chu Ðình Lý vốn tham sống sợ chết, ắt phải dặn dò bọn Nguyễn Văn Tước lấy tin tức hồi đáp của Tự tôn rồi mang vào quan ải, nên có thể biết được tin tức thực tại của Lê Duy Kỳ còn mất ra sao. Viên Tổng đốc làm việc này hợp cơ nghi, thực đáng khen; nay lại thưởng cấp 1 đôi bao sen lớn vua dùng, 2 đôi bao sen nhỏ để làm rạng sự ưu thưởng.
Còn bọn Thổ ty Mục Mã Bế Nguyên Luật, bắt được ngụy quan Nguyễn Viễn Ðiện giải tống đến, thật thuộc loại cung thuận, nay gia thưởng 2 tấm lụa đoạn. Lại lệnh Tôn Sĩ Nghị truyền bảo các Thổ ty rằng các ngươi đã bắt hiến bọn ngụy quan, được viên Tổng đốc tâu thay, đại Hoàng đế cho rằng các ngươi thực tâm gắng sức thuận tòng, thực đáng khen, đặc cách thưởng cấp 2 tấm đoạn. Như vậy khiến các Thổ quan càng thêm cảm khích cùng ra sức diệt giặc.
…. Xem tình hình, quan binh nội địa nếu không kịp thời tiến thẳng, thì không riêng gì Nguyễn Huệ âm mưu dòm ngó, mà các Trấn mục tại An Nam chắc sẽ sợ tù trưởng họ Nguyễn, nên ôm hận rồi nhìn nhau ; còn Lê Duy Kỳ thuộc loại thiếu khả năng, chạy vào trong núi trốn tránh, không thể mưu đồ khôi phục; nên lúc này quan binh Quảng Tây càng nên tiến gấp mới phải.
Nay truyền lệnh Tôn Sĩ Nghị quan sát tình hình, tuân theo chiếu chỉ trước, ra lệnh cho Hứa Thế Hanh mang vài ngàn quân tiến trước. Tôn Sĩ Nghị vẫn mang quân đóng tại quan ải , làm thế tiếp ứng, không nên coi thường mà tiến. Chỉ cần thu phục thành nhà Lê, biết tin tức Lê Duy Kỳ, có thể đem bà con người nước này hộ tống trở về nước. Qua viên Tổng đốc lần lượt tấu báo tình hình, luận về việc An Nam, coi như không cần nhiều quân; nhưng Hứa Thế Hanh mang quân tiến trước, đáng sai bắt cho được kẻ ác đứng đầu, vĩnh viễn tuyệt gốc rễ; như vậy một lần mệt nhọc mà vĩnh viễn được yên ỗn.” ( Thanh Thực Lục, Cao Tông Thực Lục quyển 1312, trang 25-26)
Nhắm thống nhất chỉ huy đám đông thợ mỏ, Tôn Sĩ Nghị dùng người có uy tín trong tập thể thợ mỏ là Lâm Tế Thanh làm Thống lãnh. Vua Càn Long giao cho Tôn Sĩ Nghị ước lượng tình hình hoặc dùng Phan Khải Đức chỉ huy quân binh 7 châu, cùng thợ mỏ làm nổ lực chính chiếm thành Thăng Long, Đề đốc Hứa Thế Hanh yểm trợ và hộ tống quyến thuộc nhà Lê về nước; nếu không xong thì quân binh do Hứa Thế Hanh chỉ huy làm nổ lực chính tiến thẳng:
“ Ngày 12 tháng 9 năm Càn Long thứ 53 [10/10/1788]
Lại dụ: Bọn xưởng dân nhận được hịch dụ của Tôn Sĩ Nghị, lại nghe tin được ban cấp lương thực nên hân hoan tình nguyện đi trước đánh giặc. Viên Tổng đốc lo rằng xưởng dân rời rạc, không có người thống lãnh, còn bọn Nguyễn Huy Túc thì sợ sệt lưỡng lự không dám ra khỏi quan ải; chúng đều thuộc loại thiếu khả năng, nếu ra lệnh đi trước cũng không được ích gì. Hỏi han đám tùy tùng thì dưới trướng có tên Lâm Tế Thanh, ở trong tổ chức xưởng dân cả năm, mọi người đều phục, giao chức thống lãnh diệt giặc có thể tận tâm phục vụ. Lâm Tế Thanh nghe tin được bổ nhiệm từ viên Thông phán Trần Tùng nên hết sức cố gắng; lại được viên Tổng đốc cấp ấn tín, thưởng hàm Tri huyện, nếu tương lai công việc thành công sẽ được bổ dụng thực thụ. Lâm Tế Thanh chủ trì mọi việc trong tổ chức xưởng dân đã lâu, nay lại được thưởng hàm Tri huyện; mọi người trong tổ chức này thấy Thiên triều chiếu cố thêm cho y, lại gia ân cấp mũ đỉnh đái (7); nên ai cũng phục tùng, hô ứng càng linh nghiệm, thêm đắc lực trong việc diệt giặc. Đến nay xưởng dân theo Lâm Tế Thanh hăng hái khởi hành, còn Phan Khải Đức đốc suất quân lính của 7 châu cũng được Tôn Sĩ Nghị ra lệnh tiến phát.
Theo ý Trẫm lúc này cho quan binh tiến một đoạn để làm mạnh thanh thế. Vì rằng bọn Phan Khải Đức, cùng với xưởng dân nghe Thiên triều truyền hịch kể tội định đem quân thảo phạt, nên vùng lên hưởng ứng; nếu quân ta án binh bất động, chỉ dùng sức lực của họ mà thôi, thì bọn này sẽ buông tay trông chờ. Nay lại truyền dụ Tôn Sĩ Nghị hãy ước lượng và quan sát tình hình, chiếu theo chiếu chỉ trước ra lệnh Hứa Thế Hanh mang 3000 quân tiến trước; nếu như lúc đó bọn Phan Khải Đức đã đến được thành nhà Lê và biết tin tức về Lê Duy Kỳ; Hứa Thế Hanh có thể hộ tống quyến thuộc nhà Lê về nước. Nếu như thành nhà Lê chưa thu phục được, lại chưa biết tin về Lê Duy Kỳ; bọn Hứa Thế Hanh hãy mang quân tiến trước, chờ đến khi nào công việc xong, sẽ hộ tống quyến thuộc về nước sau. Hiện nay bọn Phan Khải Đức cùng xưởng dân làm nhiệm vụ tiên phong, riêng quan chức châu Bảo Lạc cũng xin chiêu tập hương dõng đánh đuổi những viên ngụy quan do giặc đặt ra tại các địa phương. Một khi đại binh đến, thế mạnh như bẻ củi mục, sấn theo binh uy, một lần mệt nhọc sẽ được mãi mãi thong thả.” (Cao Tông Thực Lục quyển 1312 trang 37-38)
Đoàn quân Thanh xâm lăng do Hứa Thế Hanh chỉ huy, cùng đốc suất bọn Phan Khải Đức chuẩn bị lên đường; bấy giờ viên quan Tây Sơn tên Trần Danh Bính được được điều đến Lạng Sơn ngõ ý xin qui thuận; Vua Càn Long đánh giá đây là cơ hội tốt:
“Ngày 20 tháng 9 năm Càn Long thứ 53 [18/10/1788]
Lại dụ: Trần Danh Bính là người được giặc Nguyễn cử đi đánh Lạng Sơn, thấy dọc đường treo hịch văn diệt giặc Nguyễn, trong lòng sinh ra hối hận, sợ sệt; bèn tình nguyện qui thuận Tự tôn và xin mộ thêm nghĩa binh, cùng Phan Khải Đức hiệp đồng khôi phục. Lời của y xuất phát từ lòng thành, cũng không nên quá nghi ngờ lo lắng. Đây là cơ hội tốt, các quan binh nội địa không thể không ra tay hành động. Nay truyền Tôn Sĩ Nghị tuân theo chiếu chỉ trước, ra lệnh Hứa Thế Hanh mang 3000 quân tiến thẳng, đốc suất bọn Phan Khải Đức lần lượt đánh dẹp. Theo ý của viên Đốc không cần dùng đại binh, đã có tính toán như vậy; nhưng không thể hoàn thanh công việc mà không có quan binh ra tay. Căn cứ lời tâu của Tôn Sĩ Nghị trước đây, muốn đích thân đốc suất quân binh ra khỏi quan ải đánh giặc; đã có chỉ dụ nên trú tại quan ải, không thể mang quân đi. Viên Tổng đốc hãy tuân theo chiếu chỉ trước chỉ ra lệnh cho Hứa Thế Hanh mang quân tiến đánh, riêng viên Tổng đốc có thể xuất quân ra khỏi cửa quan làm ra vẻ chuẩn bị tiến mà thôi. Hứa Thế Hanh là người đã từng trận mạc, công việc đánh bắt am tường, chỉ cần ra hiệu lệnh nghiêm minh, răn đe quân lính rằng không phải vì được lệnh đến An Nam đánh giặc rồi cậy công tham lợi, đến chỗ lừa đảo hạch sách dân bản xứ. Nếu mọi việc đều lo liệu ổn thỏa, tương lai công việc xong Trẫm sẽ gia thưởng thêm, ngược lại nếu không tuân sẽ bị trị tội nặng. Tôn Sĩ Nghị cần nói với Hứa Thế Hanh cùng hiểu thị rõ ràng cho tất cả các quan binh được phái đi, để mọi người an tâm giữ pháp luật, đừng để cho điều xấu nảy nở.” (Thanh Thực Lục, Cao Tông Thực Lục quyển 1313, trang 726)
Tại miền Nam vào tháng 7 [20/8-30/8/1788] Nguyễn Vương điều quân tiến đánh Gia Định, sai Nguyễn Văn Trương đốc suất thủy binh đóng ở Mỹ Tho để ứng tiếp với bộ binh ở Trấn Định [Định Tường].
Nguyễn Vương tiến đóng ở Ba Giồng [Định Tường], sai Tôn Thất Hội và Võ Tánh đem quân vây Đốc chiến giặc là Lê Văn Minh ở đồn Cầu Ngũ [Ngũ Kiều]; Vương đích thân đôn đốc thủy quân giáp đánh, dùng đuốc hỏa chiến đốt trại giặc, quân Tây Sơn sợ vỡ chạy, bắt được vô số.
Đặt quan công đường ở dinh Trấn Định, sai Tôn Thất Huy, Phạm Văn Sĩ và Tống Phước Đạm cai quản mọi công việc tướng sĩ binh dân trong hạt. Nguyễn Văn Nghĩa cả phá quân Tây Sơn ở Đồng Nai.
Sai Ngô Công Quý đem phẩm vật đến đảo Phú Quốc dâng quốc mẫu và ban cho các tướng sĩ hộ vệ; triệu Cai cơ Võ Di Nguy đến hành tại.
Ngày Đinh Dậu tháng 8 [7/9/1788], chiếm lại thành Gia Định. Vương từ Ba Giồng tiến quân đến Nghị Giang. Thái bảo Tây Sơn là Phạm Văn Tham dàn quân từ chợ Điều Khiển [Sài Gòn] đến chợ Khung Dung để chống cự. Vương sai Võ Tánh đem quân đi vòng phía nam Đồng Tập Trận [Sài Gòn] thẳng vào Bến Nghé để chặn nẻo sau. Các tướng chia đường đánh giáp lại; quân Tây Sơn vỡ tan. Văn Tham thu lượm ghe thuyền, muốn theo cửa biển Cần Giờ [Gia Định] trốn chạy; Vương bèn sai Lê Văn Quân điều bát quân các đạo đón đánh.
Vương đã chiếm lại được thành Gia Định, cấm quân sĩ không được cướp bóc, bỏ pháp luật hà khắc của Tây Sơn, khuyến khích dân chúng yên ổn làm ăn như cũ. Bấy giờ nhân dân tranh nhau đem dâng tiền, thóc, đồ đồng, gỗ ván để giúp quân nhu; Vương khen là chuộng nghĩa, đều cho miễn thuế dịch.
Đặt quan công đường ở hai dinh Phiên Trấn [Gia Định] và Trấn Biên [Biên Hòa], lấy Ký lục Vĩnh Trấn là Phạm Văn Thận làm Cai bạ Phiên Trấn, Nguyễn Doãn Thống làm Ký lục; Lưu thủ Đoàn Văn Khoa làm Lưu thủ Trấn Biên, Tham mưu Trương Đức Khoa làm Ký lục.
Đặt thự công đồng, làm nơi các quan văn võ hội nghị. Lệnh Vương truyền và sai phái đều xưng là công đồng, ấn khắc bốn chữ Thiêm ngôn doãn hiệp có nghĩa là góp ý kiến hợp theo lẽ phải; ý khuyên chung sức làm việc, tránh độc đoán.
Trước là khi Vương đến Hồi Oa [Vĩnh Long], dân sở tại xin quy phụ rất nhiều, cứ số hiện có lấy một nửa làm hương binh cho đánh giặc; đến nay thương vì nhọc mệt nên cho về.
Trước kia khi Vương phải bước bôn ba, nhiều quân cấm vệ và thủy quân cũ nhân loạn theo Tây Sơn, đến đây quân địch thua, lại xin đầu quân. Vương ghét, sai truyền dụ cho Thiếu phó Tôn Thất Huy rằng : “Bọn này đều là thân binh của ta, bình nhật ta đãi không phải là bạc, thực là nuôi nghìn ngày dùng một ngày, cốt để chống ngoài giữ trong, không bì với đám quân khác. Trước đây gặp lúc loạn ly, hoặc có kẻ bị thế giặc ép buộc, không theo không được. Từ khi ta về Hồi Oa kẻ nào biết ra lập công chuộc tội thì tình còn nên tha; còn kẻ nào lừng khừng đã lâu, ngồi xem thua được, đến khi ta tiến đóng Bát Tiên [Vĩnh Long], quân giặc thua chạy rồi mới đầu quân vào các chi hiệu, thì không kể là đã làm Thống binh, Tổng nhung, Cai cơ, Cai đội, cho đến hàng quân sĩ, khanh nên nã bắt hết thảy để trị tội, không khoan túng chút nào”.
Ra lệnh cho các tổng xã thôn phường, phàm có dân lậu ngụ cư và binh lính Tây Sơn trốn về thì đều đăng hết vào sổ hộ, kẻ không có tư sản thì cho làm hạng cùng cố, cho miễn thị nạp [thuế phụ thu], duy dao dịch [dân công] thì chịu như dân; Riêng người Hoa mới hay cũ thì đều do phủ làm sổ riêng để nộp.
Lấy Cai đội Nguyễn Văn Thành làm Khâm sai tổng nhung cai cơ hiệu úy tiền chi dinh Trung quân. Thành, người xã Bác Vọng, huyện Triệu Phong [Quảng Trị], là người trì trọng nhiều mưu lược, khi nhỏ thường theo cha là Cai đội Nguyễn Văn Hiền đi đánh giặc, năm Ất Mùi [1775] Hiền chết trận, Duệ Tông vời Thành trao cho chức Cai đội. Từ khi Sài Gòn thất thủ, Thành lẩn ở trong dân gian; mùa thu năm Giáp Thìn [1784] xa giá Vương từ Xiêm về, lại theo đi đánh dẹp, đến đây mới trao cho chức ấy.
Sai bọn Nội viên Trịnh Tân Tài và Chu Văn Quan đi Hạ Châu [Singapore] tìm mua súng đạn, và lưu hoàng, diêm tiêu để dùng vào việc binh.
Định lệ lương tháng, áo quần và tiền phụ dưỡng cho các đội thuyền quân cấm vệ túc trực và ban trực và các vệ nội thủy, mỗi người mỗi tháng cấp gạo 1 phương, tiền 1 quan, một năm cấp quần áo hai lần, cấp riêng cho một người dân nội tịch, mỗi năm thu tiền miễn dịch 40 quan để làm lộc thường, lại cho một người dân ngoại tịch để sai khiến.
Đổi cửa biển Cần Giờ thuộc Trấn Biên cho thuộc về Phiên Trấn; lấy Khâm sai thuộc nội cai đội Phan Văn Đồng làm Thủ ngự đánh thuế cảng các thuyền buôn.
Thái bảo Tây Sơn Phạm Văn Tham thua tại Sài Gòn muốn chạy ra Cần Giờ bị quân Nguyễn vương chặn đường, phải lui giữ Hàm Luông [Bến Tre]; được Ốc Nha Ốc người Chân Lạp, theo Tây Sơn giữ các xứ Trà Vinh và Mân Thít [Vĩnh Long] giúp đỡ. Vương tự cầm các quân thủy bộ đi đánh, sai người đến lấy lẽ thuận nghịch chỉ bảo họa phúc, nhưng Tham không chịu hàng, đắp thành đất ở hai bên bờ sông Ba Xắc [Sóc Trăng], bày chiến thuyền liều giữ. Vương bảo các tướng rằng : “Tham giữ Ba Xắc là ý muốn chờ gió vượt biển để chạy về Quy Nhơn. Nhưng không nên để cho giặc lọt lưới mà để mối lo về sau”. Bèn chia quân đóng đồn ở các cửa biển triệt đường chạy của giặc.
Đặt đài hiệu lửa ở các trấn Cần Giờ, Đồng Tranh, Vũng Tàu; sai Nguyễn Văn Trương đem thủy quân đi tuần các cửa biển.
Sai bọn Bảo hộ Nguyễn Văn Nhân và Cai đội Tống Phước Châu sang Xiêm báo tin thắng trận. Vào tháng 9 [29/9-28/10/1788] đến đảo Phú Quốc đón quốc mẫu và cung quyến về Gia Định.
Chú thích:
1.Con trưởng tức Thái tử Lê Duy Vĩ, cha Vua Lê Chiêu Thống, bị Trịnh Sâm giết.
- Nhu viễn: điển từ Kinh Thư, Thuấn Điển “Nhu viễn năng nhĩ” ý nói mềm dẻo nơi xa, để yên nơi gần.
- Giang Triều Anh: người tỉnh Quảng Ðông, cầm đầu xưởng dân tức dân khai mỏ.
4.Phan Khải Đức người xã An Ấp, huyện Hương Sơn (nay thuộc tỉnh Hà Tĩnh); là Trấn thủ đất Lạng Sơn của nhà Tây Sơn, đã đầu hàng nhà Thanh.
5.Phù nghiệm: phù là cái thẻ làm bằng tre, viết chữ vào rồi chẻ làm hai, giao cho chư hầu ở xa một nửa như là vật làm tin. Khi cần kiểm lại thi ráp hai phần lại với nhau xem có ăn khớp không gọi là phù nghiệm.
6.Phú Cương: Tổng đốc Vân Nam và Quí Châu, gốc dân Mãn Châu.
- Mũ đỉnh đái: mũ ban cho người có công dưới thời nhà Thanh.