Lịch Sử Việt Nam Thời Tự Chủ : Vua Lê Chiêu Thống [1787-1789]- Bài 2

Lê Chiêu Thống [1787-1789]

    Hồ Bạch Thảo

Tháng giêng năm Chiêu Thống thứ 2 [7/2-7/3/1788], (Thanh, năm Càn Long thứ 53); Vua Lê Chiêu Thống sau khi thua trận ở Mục Sơn [huyện Yên Thế, Bắc Giang], lẩn quất đóng ở sơn trại Bảo Lộc [huyện Lạng Giang, Bắc Giang]; Dương Đình Tuấn đem quân binh đi theo hộ giá, lại đem dân phu Yên Dũng [Bắc Ninh] giữ sông Nguyệt Đức [sông Cà Lồ] . Vũ Văn Nhậm tiến quân đi đánh, phá tan được; bắt được em Đình Tuấn là Lung, nhưng không giết, sai đem thư đi chiêu dụ Đình Tuấn rằng “Tự hoàng [Vua] là do nhà ta [chỉ Tây Sơn] lập lên, nay bị Hữu Chỉnh đem đi cùng chạy. Tự Hoàng bèn sinh lòng ngờ vực mê man mà không biết quay lại. Nếu bây giờ Tự hoàng biết ăn năn, quay lại trước, thì còn có thể chữa lại lối cũ; bằng chẳng thế, ta sẽ kiếm một người khác làm Giám quốc, đứng chủ việc thờ cúng, thì Tự hoàng không còn có ngày quay xa giá về được nữa và các người cũng sẽ  mắc vạ lây đấy“. Văn Nhậm lại đòi Đình Tuấn phải đem nộp nhà Vua. Biết được việc này, Vua sợ Đình Tuấn hai lòng, bèn sai bọn Phạm Đình Dữ và Trương Đăng Quỹ trở về quê mình chiêu mộ binh lính. Còn nhà Vua thì cùng Nguyễn Đình Giản lén đi huyện Gia Định [huyện Gia Bình, Bắc Ninh]; bấy giờ chỉ có Vũ Trinh, Ngô Chí và Trần Danh Án mấy người đi theo mà thôi.

Tháng 2 [8/3-5/4/1788] nhà Vua từ huyện Gia Định dời đến Chí Linh [Hải Dương]. Các thổ hào ở các đạo đông bắc, như bọn Trần Quang Châu ở Gia Định, Trần Đĩnh và Hoàng Xuân Tú ở Chí Linh, Vũ Dung ở Tứ Kỳ [Hải Dương], Nguyễn Thế Hiến và Nguyễn Hữu Tế ở Thanh Hà [Hải Dương] cùng với Vũ Trí Hanh ở Phượng Nhãn [huyện Yên Dũng, Bắc Giang] đều đem nghĩa binh đón tiếp. Vua đóng ở Thanh Hà, chia đồn đóng quân để phòng thủ, sai Vũ Chiêu làm Tuyên dụ sứ đi vỗ về, yên ủi. Quân Tây Sơn đánh Thanh Hà, lại chia quân đánh Gia Định và Phượng Nhãn để cắt đứt đường viện trợ của Quang Châu và Trí Hanh; Thế Hiến và Trí Hanh cố sức chiến đấu, đều chết trận; rồi vây huyện Gia Định, Trần Quang Châu đem quân cảm tử xông ra đánh, cả phá được địch. Đối phương sợ, phải rút, nhưng còn chia quân đóng giữ ở xã Phao Sơn [huyện Chí Linh]; mặt khác lại điều động quân thủy từ sông Lục Đầu [huyện Chí Linh] đỗ xuống, nương tựa lẫn nhau với quân trên bộ để quyết kế đánh cho được. Hoàng Xuân Tú nhân ban đêm, đem vài chục chiếc thuyền chài chở đồ dẫn hỏa, lén đến gần quân địch, vừa đánh trống vừa hò reo, phóng hỏa; quân giặc hoảng sợ, chạy tán loạn. Các đạo nghĩa binh bấy giờ chỉ có Quang Châu được kể là đánh khỏe hơn cả; nhà vua thường khen rằng: “Hăng hái thay, thực xứng đáng là ông tướng“; nhân đó, ban tước cho Quang Châu là Định vũ hầu.

Trước kia Đinh Tích Nhưỡng theo Trịnh Bồng, năm trước bị Hoàng Viết Tuyển đánh bại ở sông Ngô Đồng [huyện Đông Hưng, Thái Bình] bèn trốn về Đông Triều [Quảng Ninh]. Đến nay được tin nhà Vua ở Chí Linh, Tích Nhưỡng sai đồ đảng là Trần Liên đầu hàng Tây Sơn, đưa quân đến bao vây nhà Vua, định mưu bắt cóc. Nhà Vua xuống chiếu ôn tồn dụ bảo, nhưng chúng không chịu lui, cứ vây và đánh đến hơn một tháng. Nghĩa dân Hải Dương là Trần Đĩnh và Hoàng Xuân Tú đốc suất quân địa phương, nhân sơ hở ập đến đánh úp, chém được các em Đinh Tích Nhưỡng là bọn Đinh Vũ Sầm, Đinh Vũ Kính; Tích Nhưỡng chỉ kịp chạy được thoát thân; do đấy vòng vây mới phá được.

Bấy giờ nhà Vua long đong, từ Chí Linh di chuyển đến Thủy Đường [huyện Thủy Nguyên, Hải Phòng]. Được tin Hoàng Viết Tuyển ở Sơn Nam, thanh thế lừng lẫy, nhà Vua muốn đến để nương nhờ. Gặp lúc Viết Tuyển cho người ruổi ngựa đến xin nhà Vua ủy lạo quân sĩ để tác động tinh thần, nhà Vua bèn từ Thủy Đường vượt biển đi Chân Định [huyện Kiến Thụy, Hải Phòng]. Viết Tuyển thân hành yết kiến; nhà Vua vỗ về yên ủi, rồi tiến đóng ở Vị Hoàng [thị xã Nam Định]. Bấy giờ Đinh Nhạ Hành cũng đem quân đến hội với bọn Trần Đĩnh toan tính đánh lấy Hải Dương.

 Em Vua là Lê Duy Chi chạy đi Định Châu, cùng với phiên thần là Ma Thế Cố tụ tập dân chúng trong châu, đắp lũy để phòng thủ. Duy Chi lại kết hợp với các phiên mục ở Tuyên Quang và Bảo Lạc [Cao Bằng], dần dần chiêu mộ quân lính thượng du vùng Thái Nguyên để tăng cường thêm thế lực. Tướng Tây Sơn là Uyển đến đánh nhưng không hạ được, phải rút quân về.

 Tháng 4 [6/5-3/6/1788], Bắc bình vương Nguyễn Huệ vào thành Thăng Long, giết Vũ Văn Nhậm, dùng Ngô Văn Sở lên thay. Trước kia, Nguyễn Huệ sai Văn Nhậm ra đánh Bắc Hà, nhưng trong lòng vẫn rất ngờ vực, nên sai Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân làm Tham tán để chia sẻ quyền bính. Nguyễn Huệ bí mật dặn Văn Sở: “Văn Nhậm là con rể của Vua anh Thái Đức. Ta với Vua anh có hiềm khích nhau. Văn Nhậm tất không yên lòng. Chuyến đi này, Văn Nhậm cầm nắm trong tay binh quyền quan trọng, vào sâu trong nước người ta, thì sự biến sau này không thể liệu trước được. Điều ta lo lắng không phải nhằm ở Bắc Hà, mà chỉ nhằm ở Văn Nhậm thôi. Ngươi nên dò xét từ chỗ kín nhiệm, có gì thì mau mau báo cho ta biết“. Kịp khi Văn Nhậm nhân đà thắng lợi, ruổi dài ra Bắc, vào Thăng Long, bắt được Hữu Chỉnh, tự cho rằng oai vũ đủ khuất phục được người ta, không còn kiêng nễ sợ hãi gì cả. Văn Nhậm làm nhiều việc trái phép: tự đúc ấn chương, chuyên quyền trong việc cất đặt sắp xếp. Văn Sở vốn có hiềm khích với Văn Nhậm, liền viết thư bí mật vu cáo Văn Nhậm về tội làm phản. Nguyễn Huệ đích thân đốc suất quân binh ruổi ra Thăng Long. Văn Nhậm ra đón; Huệ vỗ về yên ủi bằng lời ôn tồn, rồi sai đem ngựa đang cưỡi và lọng đang che nhường cho Văn Nhậm. Khi đã vào đến trong thành, Nguyễn Huệ sai người trói Văn Nhậm ngay ở trước sân, sai đem chém, rồi dùng Văn Sở làm Đại tư mã, thay thế quản lãnh quân binh, kiêm trấn thủ thành Thăng Long.

Trước kia Vua Chiêu Thống đến Vị Hoàng [thị xã Nam Định] để dựa vào Hoàng Viết Tuyển. Đến đây, tướng Tây Sơn Ngô Văn Sở, đem binh từ thành Thăng Long xuôi dòng sông, xuống đánh; Viết Tuyển đem thủy quân đón đánh ở cửa sông Hoàng Giang [hạ lưu sông Hồng]. Khi quân hai bên đương giao chiến, Văn Sở trói cha và vợ của Viết Tuyển bêu ra đầu thuyền cho biết. Viết Tuyển trông thấy, vật vã kêu khóc, không dám chiến đấu với Văn Sở nữa, rồi rút quân về sông Vị Hoàng. Nhà vua được tin Viết Tuyển thua trận, hối hả dời thuyền lui đóng ở Quần Anh [huyện Nam Trực, Nam Định]; chiều tối, Viết Tuyển cũng đem thuyền tiếp đến. Đêm đó, gió to bão lớn, trời tối mịt mờ, thuyền bè lênh đênh xiêu giạt, lạc lõng lẫn nhau. Thuyền Vua trôi vào cảng Thiết Giáp [huyện Nga Sơn ở Thanh Hóa]; Viết Tuyển cũng giạt vào cửa Cần Hải [huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An]; sau ra Thăng Long đầu hàng, bị Tây Sơn giết chết. Bấy giờ quân sĩ tan tác bốn phương, Thanh Hóa đã bị địch chiếm cứ; nhà vua bất đắc dĩ lại từ Thanh Hóa do đường bộ quay ra huyện Kim Bảng [Hà Nam]; rồi đi Kinh Bắc, đóng ở Lạng Giang [Bắc Giang].

Tháng 5 [4/6-3/7/1788], Bắc bình vương Nguyễn Huệ cho Sùng Nhượng công Lê Duy Cận làm Giám quốc, giữ việc thờ cúng tôn miếu nhà Lê, rồi rút quân về Nam; dùng Ngô Thì Nhậm làm Tả thị lang bộ Lại, Phan Huy Ích làm Tả thị lang bộ Hình; lại dùng Nguyễn Thế Lịch, Ninh Tốn, Nguyễn Du (1) và Nguyễn Bá Lan làm Hàn lâm trực học sĩ, để ở lại cùng làm việc với Ngô Văn Sở. Bọn Nguyễn Hoàn và Phan Lê Phiên ra thú, được Nguyễn Huệ cho giữ nguyên quan hàm đã trở về điền viên.

Về phía nhà Thanh, trước đây An Nam tâu báo mất ấn và xin phong tước cho Tự tôn tức cháu nối dõi Lê Chiêu Thống, nhưng sự việc chưa giải quyết xong. Nay viên Tri đạo Tả Giang gần biên giới báo cáo trong nước An Nam có loạn, viên tự tôn phải bôn ba ra khỏi kinh đô:

Ngày Mậu Thìn tháng 5 năm Càn Long thứ 53 [10/6/1788]. Tổng đốc Lưỡng Quảng Tôn Sĩ Nghị, Tuần phủ Quảng Tây Tôn Vĩnh Thanh tâu: cứ đạo Tả Giang Thang Hùng Nghiệp bẩm xưng do thám báo về việc nước An Nam trước đây nhân họ Trịnh làm loạn, quân Di [Tây Sơn] tại Quảng Nam dùng binh khắc phục, để viên Di mục Cung Tĩnh [chỉ Nguyễn Hữu Chỉnh] tại thành nhà Lê phụ tá Lê Duy Kỳ. Họ Nguyễn [Tây Sơn] tự khoe công, đòi sách phong Hộ quốc tướng quân, kiêm quản nhiếp Vương phủ; Cung Tĩnh không chấp nhận lời xin, nên bị họ Nguyễn giết. Tự tôn [Lê Chiêu Thống] lo sợ, đến các địa phương xứ Bắc [bắc thành Thăng Long], dân Di khởi binh đánh phá. Tra về việc nước này thỉnh phong và xin ấn tín, thì hiện nay chưa đến, chắc vì nội chiến nên chậm trễ. Hiện mật sức trấn, đạo; điều phái quân lính Hán, Thổ đến các đồn ải dự phòng bọn giặc Di xâm nhập biên cảnh. Báo để hay biết.” ( Thanh Thực Lục, Cao Tông Thực Lục quyển 1304, trang 553)    

Vào tháng sau, Tuần phủ Quảng Tây Tôn Vĩnh Thanh báo rằng viên quan An Nam Nguyễn Hữu Túc đưa mẹ và thân quyến Tự tôn xin vào quan ải tị nạn; Vua Càn Long cấp tốc ban lệnh Tổng đốc Lưỡng Quảng Tôn Sĩ Nghị đến gấp Long Châu hỏi han kỹ lưỡng và xác minh tình hình:

Ngày Mậu Thân tháng 6 năm Càn Long thứ 53 [20/7/1788]. Viên tuần phủ Quảng Tây Tôn Vĩnh Thanh cứ theo bọn Tri phủ Thái Bình Lục Hữu Nhân bẩm báo những lời như: Họ Nguyễn tại nước An Nam công phá thành nhà Lê, Tự tôn Lê Duy Kỳ chạy ra ngoài; bọn Di quan (2) Nguyễn Hữu Túc, Lê Quýnh bảo hộ con và mẹ của Vương tại xã Bác Sơn [huyện Thạch An, Cao Bằng]; rồi bị bọn giặc đuổi để giết, bèn chạy đến bờ sông cầu cứu để vào quan ải. Ðang khi quân lính tại quan ải hạch hỏi, thì thấy bên kia sông phía đằng xa hơn 100 người, có vẻ như tiến đến truy cản; rồi thấy tại quan ải có quân lính bố trí, nên không dám vượt sông, bèn lập tức rút lui. Tra đếm già trẻ tất cả là 62 người, bèn lập tức cho vào trong ải; sắp xếp phòng để trú. Thần hiện nay lo việc đi tuần xem xét quan ải, đến Long Châu tra rõ thực tại tình hình, rồi tâu lên đầy đủ.

Dụ Quân cơ đại thần rằng năm ngoái bọn Tôn Sĩ Nghị tâu, trong nước này tao loạn, mất quốc ấn, từng dụ rằng đợi khi truyền hịch hỏi được rõ ràng, sẽ cho bổ cấp. Nay mẹ và vợ viên Tự tôn nước này cùng quyến thuộc, bị giặc đuổi để giết, cầu xin đến nội địa, không thể không hỏi rõ ràng cùng lo liệu ỗn thỏa. Tôn Vĩnh Thanh từ trước đến nay chưa từng trãi việc quân, sợ không có chủ kiến về việc này; riêng Tôn Sĩ Nghị từng theo làm việc tại quân doanh, lần này trú tại Triều Châu, điều hoạch việc binh cũng ỗn thỏa….

Lệnh viên Ðốc một khi đến Long Châu hỏi han kỹ lưỡng và xác minh về tình hình hiện tại, liệu biện ỗn thỏa cùng trù tính cẩn thận, đợi khi phúc tấu đến, sẽ châm chước phân biệt liệu biện. Còn Tôn Vĩnh Thanh hiện đích thân đến Long Châu, cần lo nơi ăn ở ỗn thỏa cho nam, phụ, lão, ấu nước này đến tị nạn, trong đó có mẹ và vợ Lê Duy Kỳ, phải chu cấp đầy đủ, đừng để thất sở. Nhưng trong số trên 60 người, ngoại trừ quyến thuộc Lê Duy Kỳ, số còn lại là ai; cuối cùng thì Lê Duy Kỳ tại nơi nào, chưa hỏi rõ ràng, phân tích để tâu đầy đủ. Vả lại họ Lê làm chủ An Nam đã lâu, nay bị họ Nguyễn đánh chiếm; như vậy số bề tôi trung với họ Lê không chỉ 2 người Nguyễn Huy Túc và Lê Quýnh. Bọn Nguyễn Huy Túc đã đến trước để cầu khẩn, nhưng trong nước đó há lại không có một hai người, trung với chủ cũ, lo diệt Nguyễn phù Lê; có thể nhờ lực lượng này, tùy cơ mà sắp xếp biện lý. Lại mệnh tôn Vĩnh Thanh, không cần đợi Tôn Sĩ Nghị, hãy bí mật hỏi rõ ràng xác thực, điều tra tình hình, cấp tốc phúc tấu rõ ràng.” (Thanh Thực Lục, Cao Tông thực Lục quyển 1307, trang 592-594)

Tổng đốc Tôn Sĩ Nghị vốn nhanh trí, nhận thấy loạn lạc tại An Nam là dịp tốt cho Càn Long, vị Vua nỗi tiếng ưa bành trướng, có dịp mang quân xâm lăng; nên không đợi chỉ dụ, lập tức khởi hành đến Long Châu để tìm cách thu xếp:

Ngày Canh Tuất tháng 6 năm Càn Long thứ 53 [22/7/1788]. Dụ các Quân cơ đại thần. Tổng đốc Lưỡng Quảng Tôn Sĩ Nghị tâu những lời như sau: Nhận được tờ bẩm của đạo Tả Giang, cả gia đình Tự tôn nước An Nam đã đến nương nhờ nội địa, hiện đã truyền hịch cần ước lượng liệu biện; rồi trong ngày rong ruỗi đến Long Châu (3), quan sát tình hình, để tâu lên đầy đủ.

Việc này, căn cứ vào lời tâu của Tôn Vĩnh Thanh trước đây, Trẫm sợ rằng viên Tuần phủ không có đủ chủ kiến để lo liệu, nên đã lập tức ra chỉ dụ mệnh Tôn Sĩ Nghị cấp tốc đến nơi tra biện. Nay viên Tổng đốc không đợi chỉ dụ, lập tức khởi trình; như vậy là biết tính toán sự khinh trọng được mất, thật không thẹn với nhiệm vụ của Ðại thần được phong đất, thực đáng khen. Trước kia trong tấu triệp của Tôn Vĩnh Thanh, không đề cập đến Tự tôn Lê Duy Kỳ, cũng không cho biết hơn 60 người đến là những ai; Từng dụ rằng phải điều tra minh bạch, rồi tâu lên lập tức. Nay theo lời tâu của Tôn Sĩ Nghị, mới biết rằng Lê Duy Kỳ cũng cùng đến. Nhưng Lê Duy Kỳ đích thân đem cả gia quyến đến nội địa, sao trong tờ trình  chỉ có viên Di quan Nguyễn Huy Túc đứng tên? Vả lại sau khi bọn Thổ tù Nguyễn Nhạc công phá thành nhà Lê (4), Lê Duy Kỳ chạy trốn, bèn mang quân truy diệt; nếu như toàn bộ nước này bị họ Nguyễn chiếm, Lê Duy Kỳ mang quyến thuộc chỉ hơn 60 người, tại sao trên đường chạy trốn lại không bị hề hấn gì, đến được nội địa? Nay Lê Duy Kỳ đã đến Long Châu, truyền dụ Tôn Sĩ Nghị sau khi đến đó, đừng ngại hãy đích thân hỏi han nguyên nhân nào họ Nguyễn làm loạn gây hấn; y bị nạn đến nương nhờ nội địa chỉ hy vọng bảo toàn tính mệnh mẹ con để đất đai nhường cho họ Nguyễn; hay chỉ tạm thời tá túc nội địa, các thần dân trong nước còn có khả năng diệt giặc khôi phục cơ đồ, rồi đón mẹ con y trở về nước; hãy xem rõ chủ kiến như thế nào. Nếu như Lê Duy Kỳ không thể biết rõ ràng, hoặc có thể hỏi kỹ những người cùng đến như bọn Nguyễn Huy Túc để biết tình hình xác thực của nước này, mới có thể tùy cơ mà trù biện. Theo ý Trẫm lần này viên Tự tôn quẫn bách đến xin tá túc, trong tờ trình không có lời nào xin quân, nhưng nếu các trấn mục nước này có thể tập hợp được binh dân, quét sạch hung nghiệt, đón Tự tôn trở về, thì tốt nhất. Nếu họ Nguyễn chỉ chiếm một địa phương tại thành nhà Lê, nhưng các xứ khác vẫn theo nhà Lê, các trấn mục tuy hiện nay chưa diệt hết họ Nguyễn, nhưng sau khi bình định sẽ đón Tự tôn, thì sẽ có cách riêng để bố trí an đốn, như vậy quốc tộ nhà Lê không đến nỗi đoạn tuyệt, mà cũng không cần hưng binh để thay họ liệu biện. Nếu họ Nguyễn sau khi công phá thành nhà Lê, rồi chiếm cứ toàn đất An Nam, hoặc con cháu họ Lê đều bị giết hại, như vậy trong tương lai viên Tự tôn sẽ không có nước để trở về. An Nam thần phục triều ta hết sức cung thuận, nay bị bề tôi hung dữ soán đoạt, gõ cửa quan xin tá túc; nếu cứ để vậy mà không xem xét, thì trái với đạo vỗ về nước nhỏ, nối dòng bị đứt; nên đáng tập trung nhiều binh lính, hài tội thảo phạt; đến lúc đó Trẫm sẽ có sự định đoạt. Nay tái truyền dụ Tôn Sĩ Nghị hãy tuân theo chỉ dụ trước, hỏi han thêm cặn kẽ, đến gần trù tính cẩn thận, rồi theo sự thật tâu gấp đầy đủ, chờ khi viên Ðốc phúc tấu đến nơi, mới ra chỉ thị để phân biệt liệu biện.

Tái bút: từ ngày hôm nay cần an sáp ỗn thỏa thân quyến của Lê Duy Kỳ, chu cấp thêm đầy đủ, cũng không nên dè xẽn tiếc tiền. Các quan ải tại vùng này, viên Ðốc đã điều đến 1000 quân để hợp đồng chia ra bố trí; nhưng quân số như vậy cũng chưa nhiều, sợ bọn giặc đông ở bên kia bờ sông thấy quan quân ít, nên gây ra mối lo. Vậy đừng ngại, hãy điều thêm hai ba ngàn tên, phân chia bố trí các quan ải để làm mạnh thanh thế. Ðề đốc Tam Ðức trải qua việc binh đã lâu, lệnh thống suất quân binh tại nơi đó, để lo việc đàn áp điều tra, đừng cho sự trở ngại nãy nở. Tôn Sĩ Nghị sau khi nhận được bẩm báo, lập tức khởi trình, việc làm hợp với chiếu chỉ, hịch văn soạn thảo cũng đắc thể, Trẫm ngoài lời khen ra, không có điều gì đáng dụ thêm. Nay thưởng cấp một đôi đại hà bao vua dùng, 2 đôi tiểu hà bao, để biểu thị ưu thưởng.” ( Thanh Thực Lục, Cao Tông Thực Lục, quyển 1307, trang 595- 596)                              

Bước đầu nhận thấy Tổng đốc Tôn Sĩ Nghị xử trí hợp ý mình, Vua Càn Long khen thưởng; rồi mượn cớ giúp Vua An Nam; điều phái đại binh dự bị tại Quảng Tây để chuẩn bị xâm lăng:

Ngày Ðinh Tỵ tháng 6 năm Càn Long thứ 53 [29/7/1788]. Dụ các Quân cơ đại thần. Trước đây nhân Tôn Sĩ Nghị tâu rằng Lê Duy Kỳ đích thân mang bà con đến xin tá túc, trong đơn ghi tên Lê Duy Kỳ đứng đầu. Lê Duy Kỳ là cháu nối dõi của Vương nước An Nam, tuy chưa được thụ phong, nhưng là người đáng được nối dõi nên cũng không khác gì Quốc vương. Y lại mang gia quyến đến xin tá túc, tình trạng giống như cả nước này đã bị họ Nguyễn soán đoạt, sợ phải tìm biện pháp trù biện.

Nay theo sự điều tra rõ của Tôn Sĩ Nghị, Tự tôn nước này chưa cùng với gia quyến đến; người trong nước này theo giặc cũng chỉ có những xứ như Mục Mã [Cao Bằng], Lạng Sơn; còn phía tây thành nhà Lê cùng các vùng phía bắc đều không chịu hàng giặc. Cứ theo lời xưng của viên Di mục rằng Nguyễn Nhạc là tên hung hãn nhưng không có pháp lệnh; nếu Tự tôn nhân sự chia rẽ mà phát động, thì một lần dấy lên có thể bắt được họ Nguyễn. Lời nói tình ý ngang tàng, biết được đại nghĩa; như vậy lãnh thổ nước này chưa hoàn toàn vào tay giặc phỉ, nhân tâm tôn thờ nước cũ đủ nương dựa được, còn có thể lần lần khôi phục, liệu biện tương đối dễ. Nay truyền dụ Tôn Sĩ Nghị khi đến nơi, tức lệnh bọn Di mục trở về nước cáo tri Lê Duy Kỳ rằng:

 An Nam thần phục Thiên triều hết sức cung thuận. Ông nội y là Lê Duy Diêu bị bệnh qua đời, người con trưởng mất sớm, theo lệ y đáng được thừa tập; trước đây có trình biểu văn, xin cấp ấn triện, nhưng chưa sai quan đến cáo ai (5), theo thể chế không hợp, nên quan đại thần tại địa phương cứ theo lệ mà ban hịch đòi hỏi. Nếu như nước này tiếp tục sai sứ đến cầu xin, thì sẽ chuẩn ban sắc phong, cấp ấn. Nay y bị giặc xua đuổi, cũng do chưa ra sức chấn tác; hiện tại lãnh thổ trong nước y còn nhiều chỗ chưa bị giặc chiếm, trong đó các thần dân còn hướng đến việc phù Lê; viên Tự tôn đáng nhân cơ hội này chiêu tập nghĩa binh, ra sức khôi phục, khiến phúc tộ kéo dài của tổ tiên y, không phải đến đời bản thân y mà bị tiêu diệt. Còn mẹ, vợ và các tùy tòng, đều được an sáp  yên ỗn, viên Tự tôn không phải lo về việc này; đợi đến khi khôi phục được đất cũ, trong nước an ninh, tức sẽ sai người đón về. Còn họ Nguyễn tự thị mạnh, làm việc soán đoạt, pháp luật không dung. Trước mắt Thiên triều sẽ phái điều đại binh, dự bị tại Quảng Tây; nếu thế giặc vẫn còn hung dữ như trước, dựa vào chỗ hiểm không phục, dám giết hại Tự tôn, các trấn mục lại cam tâm theo giặc, ngồi nhìn không cứu; Thiên triều đáng sai người thống suất đại binh, theo 4 đường hội tiễu, bắt giết toàn bộ bọn Nguyễn Nhạc cùng bè đảng.

Trước hết hãy theo nội dung như vậy cáo tri một cách khắc thiết, cùng ban hịch dụ các trấn mục, để có thể làm mạnh tấm lòng hướng về nhà Lê, và cũng làm tê liệt gan mật của giặc, đối với con đường thanh viện [viện trợ tinh thần] cũng là có ích. Kể ra lúc này chắc Tôn Sĩ Nghị đã sớm đến Long Châu, theo lời cho biết thì bọn tùy tùng như Nguyễn Huy Túc tình nguyện trở về nước để tìm Tự tôn; nếu như khi Tôn sĩ Nghị đến đó, viên quan người Di đã sớm trở về nước, thì hãy giao phó cho người khác đi. Nếu như y vẫn chưa đi, viên Tổng đốc hãy hỏi cặn kẽ y về tình hình nước này; cùng đem chỉ thị của Trẫm trước mặt nói rõ cho y biết, để viên Di quan này trở về nước trình bày cho Lê Duy Kỳ rõ, như vậy lại càng ỗn thỏa.

Còn như Nguyễn Nhạc dựa thế hung dữ, nếu dám đến nội địa để cướp đoạt thân quyến của Tự tôn, thì phải chặn bắt toàn bộ để dân chúng nước này biết rằng Thiên triều đã phái binh để giúp việc dẹp giặc, như vậy lại càng tốt. Tam Ðức trải qua việc binh nhung đã lâu, lệnh viên Ðề đốc thống suất quân binh bố trí tại các quan ải, bờ sông; tuân theo lệnh cố gắng liệu biện ỗn thỏa. Tái bút: quân lính tại các doanh ải, trước đây đã có chỉ thị cho Tôn Sĩ Nghị điều thêm hai ba ngàn tên đến trước; tuy viên Ðốc đã cho mật điều 2000 quân dự bị, nếu cần phải điều thêm nữa thì viên Ðốc cũng đừng ngại điều động thêm từ những chỗ gần để chia ra mà bố trí; lại cần thông sức phải chỉnh tề hàng ngũ, dựng đặt cờ xí, mới đủ mạnh thanh thế, làm cho giặc lạnh tim táng đởm. Ðưa dụ này đến các giới chức, dụ hiểu rõ.” (Thanh Thực Lục, Cao Tông Thực Lục, quyển 1307, trang 607-609)

Tại miền Nam vào tháng giêng [7/2-7/3/1788], Nguyễn vương đóng quân ở Hồi Oa [Vĩnh Long] . Sai Tôn Thất Huy, Lê Văn Quân, Tôn Thất Hội, Nguyễn Kế Nhuận, đóng giữ các đồn Tinh Phụ [Giồng Sao] và Triệu Phụ [Giồng Triệu].

Tháng 4 [6/5-3/6/1788], Võ Tánh đem bộ hạ theo Vương. Tánh là người huyện Bình Dương [Sài Gòn], trí dũng hơn người. Khởi đầu họp đảng ở Gò Công, có hơn một vạn người, thế rất hùng mạnh. Quân Tây Sơn thường răn nhau rằng : “Gia Định có ba anh hùng (6), Võ Tánh là một, chớ nên xâm phạm”. Vương được Tánh mừng lắm, trao cho chức Khâm sai tổng nhung chưởng cơ dinh Tiên phong, rồi đem em gái là Ngọc Du gả cho. Thuộc hạ Tánh là Võ Văn Lượng, Nguyễn Văn Hiếu, Mạc Văn Tô đều được trao chức Cai cơ.

Vương tiến đóng ở Bát Tiên [Vĩnh Long]; sai Tôn Thất Huy và Lê Văn Quân đánh đồn Trấn Định [Định Tường]. Tướng Tây Sơn là Chưởng cơ Diệu cùng Cai cơ Viện đóng giữ thành. Bọn Quân ngầm sai người dụ Viện hàng; Viện nhân ban đêm mở cửa đồn, quân Nguyễn vương xông vào bắt Diệu.

Tháng 5 [4/6-3/7/1788], Vương cho rằng quân Tây Sơn gốc Thuận Hóa [Quảng Trị, Thừa Thiên] nhiều người bị bắt ép theo, sợ họ trốn tránh vào thôn xóm mà không được dung nạp. Bèn ban sắc xuống cho dân chúng, ai chứa nuôi được một người trong số quan quân gốc Thuận Hóa thì miễn cho nửa suất binh dịch, chứa nuôi được 2 người thì miễn cả suất, được 3 người trở lên thì lượng mà hậu thưởng thêm. Lại riêng ban dụ cho bọn quan quân Thuận Hóa lỡ theo Tây Sơn như sau:

Xưa Thái tổ ta dựng nghiệp ở cõi Nam đã hơn 200 năm, thần dân trong ngoài ai cũng là con đỏ của triều đình, mà xứ Thuận Hóa lại là nơi Xã Tắc và Tôn miếu của liệt thánh ta, cho nên nhân dân xứ ấy ta xem như xương thịt. Từ khi ta còn trẻ đã gặp hoạn hạn, phải ngụ ở nước láng giềng, vẫn lo dựng lại nghiệp lớn, lấy lại vật cũ. Ngày nay trời còn tựa Hán, dân chưa quên Đường, giáo trời mới chỉ, giặc đã thua tan. Chúng lại xua dân Thuận Hóa các ngươi vào vòng gươm giáo, khiến thây nằm đầy nội, máu chảy thành sông. Vả bọn các ngươi đều là tôi con, vẫn nhờ ơn nước, lấy con em mà đánh lại cha anh, lòng ai muốn thế? Chẳng qua là vì thế ép mà bỏ họ hàng lìa cha mẹ, đến nơi đất khách quê người, tới lui đều khó. Làm thinh suy nghĩ, thực rất xót thương, cho nên đã hạ lệnh thu nuôi để các người có chỗ nương tựa, các ngươi nên sớm vào ngụ ở các thôn ấp, đợi sau khi ta lấy lại Sài Gòn, ai muốn ở thì ở, ai muốn về quê cũng không ngăn. Nếu không thì khi núi Côn lửa cháy, ngọc đá đều tan, hối làm sao kịp ?”.

Vương sai Cai cơ Trương Phước Luật tuyên triệu Tuần hải đô dinh Hà Hỷ Văn đến hành tại. Trong trận Mỹ Tho quân ta thất lợi, Hỷ Văn đem binh thuyền dưới quyền chạy ra đậu ở đảo Côn Lôn. Đến đây, Vương ủy dụ, cho 100 quan tiền, 200 phương gạo, 25 tấm lụa.

Tháng 6, sai Tham tướng là Mạc Tử Sinh con Mạc Thiên Tứ làm Lưu thủ Hà Tiên. Lúc Sinh chết, ban chức Chưởng cơ.

Vương sắp cử đại binh tiến đánh Sài Gòn, sắc cho bọn Tôn Thất Huy, Lê Văn Quân, Tôn Thất Hội và Nguyễn Kế Nhuận chuẩn bị đợi mệnh. Ban dụ rằng:

Bọn khanh từ khi lãnh quân bộ chiến tới nay, đánh giặc phá trận kể đã lâu ngày. Xem sự thế ngày nay thì đánh chóng lợi hơn, nếu để lâu quân sinh trễ nải thì không phải là đắc kế. Nên đều sửa sang binh khí, chờ ngày tiến phát”.

 Lại sai ghi chiến công của các tướng sĩ đi trận, và ban cho 2.000 tờ giấy để trống tên, có ai đáng được thăng tước trật, thì điền vào mà ban cấp.

 Chú thích:

1.Nguyễn Du này là người Văn Xá, huyện Thanh Oai, Hà Đông; khác với Nguyễn Du tác giả Truyện Kiều.

2.Di quan: viên quan người Di, chỉ quan Việt Nam. Trung Quốc theo lối kỳ thị chủng tộc, gọi nước ta là Nam Di.

3.Long Châu: tên châu thuộc đạo Tả Giang, giáp với tỉnh Cao Bằng nước ta.

4.Thành nhà Lê: Chỉ thành Thăng Long, tức Hà Nội ngày nay.

5.Cáo ai: ý nói báo tin vua đã mất, xin lập người kế vị.

6.Võ Tánh, Chu Văn Tiếp và Đỗ Thanh Nhân, người đời truyền tụng là 3 anh hùng.

Bình luận về bài viết này