Lịch Sử Việt Nam Thời Tự Chủ : Vua Lê Hiển Tông [1740-1786]- Bài 18

    Hồ Bạch Thảo

Tháng giêng năm Cảnh Hưng thứ 44 [2/2-2/3/1783], (Thanh, năm Càn Long thứ 48); lập cháu trưởng là Duy Khiêm [Vua Lê Chiêu Thống ] làm Hoàng thái tôn, truất Hoàng tử Duy Cận làm Sùng nhượng công. Hoàng thái Tôn là con trưởng của Thái tử Duy Vĩ, lúc Thái tử bị nạn, Thái tôn mới 6 tuổi, cùng với em đều bị bắt giam. Đến lúc binh lính Tam Phủ nổi loạn, họ đem nhau rước Thái tôn về nội điện, lòng người đều chú ý trông mong. Trước đây, Duy Cận được lập làm Thái tử, chính là do Trịnh thái phi [mẹ Trịnh Sâm] tán thành; đến nay thấy Thái tôn trở về, Thái phi sợ Duy Cận mất ngôi Thái tử, bèn sai Hoạn quan là Liêm Tăng đến bắt ép Thái tôn sang chầu, để toan bí mật giết đi. Thái Tôn từ chối không được, sa nước mặt khóc mà ra đi; khi đi đường bị quân tuần tiễu ngăn lại, sau khi biết chuyện bèn la hét ầm ĩ, yêu cầu tra cứu người lập mưu làm hại Thái tôn; họ lùng tìm Liêm Tăng không được, ngờ là Duy Cận chủ mưu. Lúc ấy, Duy Cận đương chầu Trịnh thái phi, nghi trượng để ngoài cửa phủ đường, quân sĩ đều đập phá tan nát. Duy Cận sợ, phải thay đổi quần áo đi lẻn về cung. Trịnh Khải biết việc này là do Thái phi gây ra, nhân dụ dỗ quân sĩ chớ làm huyên náo, rồi lập tức hạ lệnh cho bầy tôi trong triều xin nhà Vua lập Duy Khiêm làm Hoàng thái tôn, lúc ấy Duy Khiêm 18 tuổi; Duy Cận bị truất làm Sùng nhượng công.

Tháng 7 [29/7-27/8/1783] Trịnh Khải khởi phục Nguyễn Khản chức Thượng thư bộ Lại làm công việc Tham tụng; bổ dụng cậu là Dương Khuông, em Thái phi Dương thị, giữ chức Quyền phủ sự. Nguyễn Khản, trước làm Tư giảng [thầy] của Khải, sau ra trấn thủ Sơn Tây. Rồi Khản bị Ngô Thì Nhậm tố cáo, bị bắt giam, sau khi Khải nối ngôi, hạ lệnh cho khôi phục. Đến nay, Khản cùng Khuông cùng vào giữ công việc trong chính phủ, hai người này đều không có tài cán đức vọng, mà lại hay tự cậy mình là người có tài năng, nên người có kiến thức đều lấy làm lo ngại.

Tại miền Nam vào tháng 2 [3/3-1/4/1783], quân Tây Sơn do Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ chỉ huy, vào đánh Sài Gòn. Thuyền Tây Sơn từ cửa biển Cần Giờ ngược dòng tiến lên; Tư khấu Nguyễn Văn Kim tiến sát đến đồn bờ bắc, Đô đốc Lê Văn Kế tiến sát đến đồn bờ nam. Lưu thủ Thăng và Tiên phong Túy đem kỳ binh đón đánh, nhử địch vào trận. Giám quân Tô phóng lửa đánh hỏa công, gặp thủy triều dâng to, gió đông bắc thổi mạnh, bè lửa theo hướng ngược trở lại đốt cháy thuyền quân Nguyễn, quan binh đều vỡ chạy. Quân Tây Sơn thừa thắng áp tới, Tôn Thất Mân thấy thế không chống nổi lùi chạy; nhưng Kế chặt đứt cầu phao, Mân rơi xuống nước chết; Dương Công Trừng bị Tây Sơn bắt, Chu Văn Tiếp cũng lui.

Nguyễn vương dời đi Ba Giồng [Định Tường], bầy tôi đi theo chỉ còn bọn Nguyễn Kim Phẩm vài người, số quân không đầy một trăm.

Tháng 4 [1/5-30/5/1783], quân các đạo lại nhóm họp. Vương sai Nguyễn Kim Phẩm làm Tiên phong, Nguyễn Huỳnh Đức cai quản binh Chân Lạp làm Hậu ứng. Tôn Thất Dụ, Nguyễn Đình Huyên cùng Lại bộ Hồ Đồng, Binh bộ Minh, Tham nghị Trần Đại Thể, Tham mưu Trần Đại Huề (con Đại Thể) làm Trung quân, Hoảng làm Tả chi, Nguyễn Văn Quý làm Hữu chi, đem quân đóng ở Đồng Tuyên. Nguyễn Huệ được tin đem bộ binh ra đánh; quân Nguyễn vương thua, Đồng bị bắt, Minh, Quý, Thuyên, Huề đều chết.

Vương đi Lật Giang [sông Vàm Cỏ Đông]; quân Tây Sơn đuổi theo, nước sông chảy mạnh, không có thuyền chở sang được, binh sĩ lội qua, nhiều người chết đuối; Vương biết bơi, lội qua được. Đến sông Đăng Giang, sông có nhiều cá sấu, không thể lội được; nhân có con trâu nằm bên sông, Vương cưỡi để sang sông. Vào đến bờ, Vương đi Mỹ Tho, lấy thuyền đem thân mẫu và gia quyến trú ở đảo Phú Quốc.

Sai Tôn Thất Cốc điều bát thủy binh, cùng với Điều khiển đạo quân Hòa Nghĩa là Trần Đĩnh trở về cửa biển Cần Giờ, dò xét tình hình địch. Đĩnh vốn khinh Cốc, việc quân phần nhiều không theo lệnh. Cốc giết đi. Đảng của Đĩnh là Tổng binh Trần Hưng và Lâm Húc đều người Thanh, bèn giữ Hà Tiên để làm phản. Nguyễn Kim Phẩm vào Hà Tiên thu quân, Thái trưởng công chúa là Ngọc Đảo cũng đến để trù biện quân nhu. Bọn Hưng đánh úp giết Kim Phẩm, Công chúa cũng bị hại. Vương nghe tin giận lắm, thân đem binh thuyền đến đánh; Hưng và Húc đều bỏ chạy.

Tướng Xiêm là Vinh Li Ma đến xin theo. Vinh Li Ma lánh loạn Oan Sản ra ở đảo Cổ Long, nghe tin Vương đến Hà Tiên, bèn đem hơn 200 quân, hơn chục chiến thuyền, tình nguyện xin theo.

Tháng 6 [30/6-26/7/1783] Vương đóng quân ở hòn Điệp Thạch [hòn Đá Chồng] thuộc Phú Quốc. Thống suất Tây Sơn là Phan Tiến Thận thình lình đem quân truy kích; Cai cơ Lê Phước Điển xin mặc áo ngự của Vương rồi đứng ở đầu thuyền, quân Tây Sơn tranh nhau đến bắt. Vương bèn đi thuyền khác ra đảo Côn Lôn.

Tháng 7 [29/7-27/8/1783], Nguyễn Huệ nghe tin Vương ở đảo Côn Lôn, sai Phò mã Trương Văn Đa đem hết thủy binh đến vây ba vòng, tình thế rất nguy cấp. Bỗng mưa gió nổi lớn, bốn bề mây mù kín mít, người và thuyền cách nhau gang tấc cũng không thấy nhau. Sóng biển nổi lên dữ dội; thuyền Tây Sơn tan vỡ chìm đắm không xiết kể. Thuyền Vương vượt vòng vây, đến đậu ở đảo Cổ Cốt [Kukot, Campuchia], rồi lại trở về đảo Phú Quốc. Quân lương thiếu thốn, binh sĩ đến nỗi phải hái cỏ tìm củ mà ăn; có người đàn bà buôn bán ở Hà Tiên tên là Thị Uyển chở một thuyền gạo đến dâng.

Vương nghe tin Giám mục Bá Đa Lộc ở Chan Bôn [Chanthaburi, Thailand] bèn sai người mời đến và bảo rằng :

 “Hiện nay giặc Tây Sơn chưa dẹp được, bốn mặt kinh đô còn nhiều đồn lũy mà đảo Thổ Châu và đảo Phú Quốc không chỗ nào ở yên được, vận nước ta gặp bước gian truân, khanh đã rõ rồi. Khanh có thể vì ta đi sứ sang Đại Tây, nhờ đem quân sang giúp ta được không ?”.

Bá Đa Lộc chịu đi, nhưng hỏi lấy gì làm tin. Vương nói :

Đời xưa các nước giao ước cùng nhau, lấy con làm tin. Ta lấy con là Cảnh làm tin. Cảnh 4 tuổi, mới lìa lòng mẹ, ta đem ủy thác cho khanh, mong khanh khéo bảo hộ. Non sông cách trở, đường sá gian nan, nếu có biến cố thì khanh nên giữ Cảnh mà tránh”.  Bá Đa Lộc vâng lời.

Tháng 8 [28/8-25/9/1783], thuyền Vương đóng tại Long Xuyên [Cà Mâu]; Lưu thủ Tây Sơn là Nguyễn Hóa dò biết được, sai hơn 50 chiếc chiến thuyền phục kích ở cửa biển Ông Đốc. Cai cơ Nguyễn Văn Giảng và Cai đội Nguyễn Văn Oai đêm đi tuần ngoài biển bắt được một chiếc thuyền tuần của địch và Phó chiến tên Khương. Vương nhân hỏi Khương mới biết được kế phục binh của Hóa, tức thì sai chèo nhanh ra cửa biển, Hóa đuổi không kịp; Vương bèn tha tội cho Khương, sai đi theo quân.

Bấy giờ Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ đem quân về Quy Nhơn, lưu Phò mã Trương Văn Đa và Chưởng tiền Bảo ở lại đóng giữ Gia Định.

Thuyền Vương phải dời luôn, từ hòn Chông sang hòn Thổ Châu. Vua thương tướng sĩ khó nhọc, có khi tự mình chèo thay, bọn thuộc hạ thấy thế lại càng đem lòng cố gắng, không chút trễ biếng.

Tháng 10 [26/10-23/11/1783], Chưởng cơ Hồ Văn Lân đánh quân Tây Sơn ở Tân Châu [An Giang], Điều bát  Nguyễn Kế Nhuận lui chạy. Lân tiến quân đến Cần Thơ, lại đánh bại Lưu thủ Nguyễn Hóa, bắt được 13 chiếc thuyền đi biển.

Nước Chà Và đánh nước Chân Lạp. Nước Chân Lạp thua, Vua là Nặc Ấn chạy sang Xiêm, vua Xiêm giữ lại, rồi sai Chiêu Chùy Biện trấn giữ Chân Lạp.

Tháng giêng nhuận năm Cảnh Hưng thứ 45 (21/2-20/3/1784), (Thanh Càn Long thứ 49); binh lính Tam Phủ lại nổi loạn giết Nguyễn Triêm. Nguyên do từ khi bọn Nguyễn Khản giữ công việc trong phủ Chúa, ngày đêm mưu tính ức chế kiêu binh. Lúc ấy có 4 quân sĩ ép vay tiền của hiệu buôn ở phố Đông Hà, bị anh em trong đội phát giác; bọn Nguyễn Khản hạ lệnh lập tức xử trảm. Quân sĩ đều tức giận giết người một cách quá đáng, nhưng đã trót phát giác việc này, nên đành phải cúi đầu nghe lệnh. Bọn Nguyễn Khản thấy thế, cho là uy quyền của mình đã được vững vàng, bảo với nhau rằng:

Từ đây ta có thể cứ giữ pháp luật mà thi hành“.

 Bấy giờ có tri huyện Mai Doãn Khuê muốn cầu công với họ Trịnh, bèn bảo kín với Nguyễn Khản rằng:

Bọn các ông nghĩ kiêu binh có thể dẹp yên, nhưng không biết rằng họa hoạn xảy ra sẽ không thể nào nói xiết được. Tôi nghe họ nói xôn xao là: Hoàng tự tôn do bọn họ rước về, nay Hoàng thượng đương trong lúc mỏi mệt, mà tự tôn thì tuổi và đức đều đã trưởng thành, họ đương dự định tâu xin thi hành việc truyền ngôi, làm cho ngôi Vua, ngôi Chúa đều do tay quân sĩ quyết định, để tạo thêm công lao phi thường của họ. Trong bọn quân sĩ có người không được như ý sinh ra trách oán, lại muốn tôn phò nhà Vua giữ quyền nhất thống, để giành lấy quyền bính nhà Chúa. Nếu kế ấy mà họ thi hành được, tôi sợ rằng các ông sẽ không có đất để nương thân!“.

Nguyễn Khản lập tức đem lời nói ấy báo cáo lên Trịnh Khải.

 Đến nay, quân sĩ có người cậy công rước Hoàng tự tôn về, xin ban phong cho cha mẹ, họ đem nhau vào sân điện tâu bày để xin phong, nhà vua sai triệu vào nội điện, tuyên bố chỉ dụ yên ủi. Lúc ấy có người chạy đến báo cho Trịnh Khải biết, Khải lập tức triệu Nguyễn Khản và Dương Khuông vào bảo rằng:

Mưu kế của kiêu binh tôn phò nhà Vua không thể dập tắt được, nay chúng đương tụ họp ở nội điện, làm thế nào bây giờ?”

 Nguyễn Khản xin phái quân đến bắt và giết đi. Khải lập tức hạ lệnh cho Nguyễn Triêm, Thủ hiệu đội Nhưng Nhất, đi bắt, Nguyễn Triêm bước ra cửa phủ đường rút thanh kiếm, liếc lưỡi kiếm, và nói:

Sắc bén thay lưỡi kiếm! chém đầu kiêu binh thì ngọt xoét đây“.

Triêm bèn dẫn quân đến bao vây trên nội điện, bắt được 7 người, giao xuống tra hỏi. Bầy tôi bàn luận, cho rằng, nếu giết hết thì gây ra biến loạn, mà nếu không giết thì không thể nào răn cấm được. Ý họ muốn giết một vài người đầu sỏ, để ức chế bớt lòng kiêu ngạo của quân sĩ đi. Duy có Dương Khuông quả quyết nói:

Không cần phải hỏi sự trạng làm gì, chỉ một việc quen mùi tụ hội không chừa là phải chém đầu. Chúng cậy nhiều người mà sinh kêu ngạo không thể giết hết được, nhưng hễ có tên nào phạm tội thì không tha. Ví như một nắm đũa cứng không thể nào bẻ cả được, cứ rút tỉa lấy một vài cái mà bẻ, lâu ngày tự khắc phải hết“.

Bèn chiếu theo điều luật “Vượt vào hoàng thành“, đem chém tất cả. Vì thế, quân sĩ tức giận, cùng tụ họp bàn định rằng:

Ngày nay mà có được triều đình này đều do công sức chúng ta, thế mà họ không lấy làm ơn, lại lấy làm oán. Nếu cái kế “bẻ đũa” của họ mà thi hành được, thì chúng ta sẽ không còn mống nào sống sót!”.

 Họ hẹn nhau, ngày hôm sau sẽ khởi sự. Ngày rằm tháng ấy [5/3/1784], quân sĩ vây nhà bọn Nguyễn Khản và Dương Khuông cốt bắt giết hai người này. Khuông và Triêm đều trốn vào phủ chúa Trịnh, Khản cải trang, theo đường tắt chạy lên Sơn Tây. Quân sĩ tranh nhau phá hủy nhà cửa bọn này, rồi reo hò ầm ĩ vác siêu đao đi thẳng vào trong phủ lùng xét bọn Khuông và Triêm. Chúa Trịnh Khải cùng Thái phi Dương thị đem tiền bạc ra để chuộc tính mạng cho Khuông. Quân sĩ lại lùng bắt Triêm, Trịnh Khải bất đắc dĩ bảo Triêm ra, quân sĩ lấy gạch đá đánh chết; sau đó bãi chức bọn Nguyễn Khản và Dương Khuông. Từ đấy, quyền bính về tay quân sĩ, chúng uy hiếp áp bức quan lại, động một tý là dọa sẽ phá nhà, giết chết. Thậm chí đến việc thay đổi tướng tá văn ban, võ ban cũng đều do miệng quân sĩ nói ra mới xong, công việc trong nước không thể nào xoay xở được.

Tháng 2 [21/3-19/4/1784], các trấn định mưu giết kiêu binh, nhưng không thành công. Khi Nguyễn Khản đến Sơn Tây, cùng em là trấn thủ Nguyễn Điều bàn mưu kế để giết kiêu binh. Điều bảo Khản rằng:

 “Nay dân ở bốn trấn oán kiêu binh đến tận xương tủy, nếu nay lấy danh nghĩa là dấy quân giết kiêu binh, thì chỉ hô lên một tiếng, không chỗ nào là không hưởng ứng. Địa phận trấn này ở miền thượng du, trước kia anh trấn giữ ở đây lại kiêm trấn thủ Hưng Hóa, thổ tù đều là thuộc hạ cũ của anh; hơn nữa Hoàng Văn Đồng, phiên mục Tuyên Quang, giàu mạnh nhất nước, năm trước anh đã đi chiêu dụ, vốn được lòng hắn, nay đưa một lá thư hiệu triệu, có lẽ hắn theo lệnh ngay; Hoàng Phùng Cơ ở Sơn Nam là viên tướng bách chiến; Trương Tuân ở Kinh Bắc và Trịnh Tự Quyền ở Hải Dương đều là tướng có mưu trí, nay lấy mệnh lệnh của Chúa bí mật truyền bảo để họ chiêu mộ nghĩa sĩ, cố giữ doanh trại trong trấn, theo sự điều khiển của anh. Địa vị của anh là một viên Tể tướng kiêm chức Sư phó, nay chỉ huy các trấn để gỡ hoạn nạn cho nước, ai dám là người không theo? ta sẽ giao ước với họ cùng nhau khởi sự trong một ngày, kéo quân vào thành giết tên đầu sỏ của đảng kiêu binh mà buộc chúng vào kỷ luật, việc ấy tưởng chẳng khó khăn gì“.

 Khản nói:

 “Chú nói đúng, nhưng hiện nay Chúa ở trong tay kiêu binh, ném chuột, có lẽ nào không ngại va chạm đến đồ vật (1) hay sao?” .

Điều nói:

Việc ấy rất dễ, bây giờ nên sai người trình bày với Chúa, mật báo cho Hoàng Phùng Cơ đem châu sư đến Thanh Trì [Hà Nội], nói phao là đi tuần tiễu mặt sông, rồi ngầm dùng chiếc thuyền nhỏ để đón Chúa, chúa ăn mặc giả dạng xuống thuyền, thuận dòng xuôi về Hiến doanh đóng hành tại ở đấy. Bấy giờ các doanh trấn sẽ khởi sự, thì không quản ngại gì cả“.

Khản lập tức làm tờ mật báo cáo với Trịnh Khải. Khải theo lời, mật hẹn Hoàng Phùng Cơ đến ngày 28 tháng giêng nhuận [18/3/1784] đem thuyền đón tiếp; ngày mồng một tháng 2 [21/3/1784], các trấn sẽ đem đại binh vào kinh thành, giết kiêu binh. Trong bọn quân sĩ có người biết được mưu ấy, họ bèn chia nhau ngày đêm canh giữ phủ chúa Trịnh rất nghiêm ngặt, Trịnh Khải không sao đi được. Vì thế, các trấn cũng bãi binh. Từ đấy, quân sĩ mỗi khi ra ngoài kéo từng đàn hàng trăm hàng ngàn người, tung hoành nơi thôn xóm, tự ý cướp bóc thả cửa. Quân sĩ nào đi đường một mình, thường bị dân quê đón đường giết chết; quân và dân coi nhau không khác gì giặc cướp thù hằn.

Tháng 4 [19/5-17/6/1784], bổ dụng Bùi Huy Bích giữ chức quyền Tham tụng; bọn Trương Đăng Quỹ và Trần Công Xán cùng giữ chức Bồi tụng. Quân sĩ Tam Phủ kiêu ngạo ngang ngược ngày một quá, mỗi khi chính phủ có xếp đặt việc gì, họ hợp nhau chê bai bàn tán, quan văn, tướng võ đành chịu bó tay. Huy Bích thu xếp một cách thư thả, êm dịu, nên tình hình quân sĩ được tạm ổn định; nhưng tình thế đã vỡ lỡ, chung quy không thể nào hàn gắn được. 

Tại miền Nam vào tháng 2 [21/3-19/4/1784], Nguyễn vương cùng tùy tùng từ đảo Thổ Châu, đi thuyền sang Xiêm La. Trước kia, sau cuộc bại trận ở Bến Nghé, Chu Văn Tiếp chạy sang Xiêm cầu viện, Vua Xiêm bằng lòng, nên Văn Tiếp báo tin về. Tướng Xiêm là Thát Xỉ Đa đem thủy quân sang Hà Tiên, mời Vương sang Xiêm.

Tháng 3 [20/4-19/5/1784] Vương đến thành Vọng Các. Vua Xiêm đón rước ủy lạo, ước hẹn giúp quân để mưu đồ khôi phục. Vua thứ hai nước Xiêm, nhân đó nhắc đến việc năm trước giảng hòa với Nguyễn Hữu Thụy đã có thề ước gặp hoạn nạn thì cứu nhau, thì ngày nay xin ra sức. Bèn đưa những vật Nguyễn Hữu Thụy tặng là cờ đao và gươm ra để làm tin, rồi định ngày cử binh.

Vương sai Văn Tiếp sửa sang thuyền ghe súng ống, sẵn sàng để chờ điều khiển. Cho Mạc Tử Sinh con Mạc Thiên Tứ làm Cai cơ.

Tháng 6 [17/7-15/8/1784] Vương từ nước Xiêm đem quân về; Vua Xiêm sai cháu là Chiêu Tăng và Chiêu Sương đem 2 vạn thủy quân và 300 chiến thuyền để giúp. Vua lấy Chu Văn Tiếp làm Bình Tây đại đô đốc, điều bát các quân. Ngày Nhâm Thìn [25/7/1784], xuất phát từ thành Vọng Các, đi ra cửa biển.

Tháng 7 [16/8-14/9/1784], quân Nguyễn tiến đánh được đạo Kiên Giang, phá Đô đốc Tây Sơn Nguyễn Hóa ở sông Trấn Giang [Cần Thơ], rồi thẳng đến các xứ Ba Xắc [Sóc Trăng], Trà Ôn [Vĩnh Long], Mân Thít [Vĩnh Long], Sa Đéc [Đồng Tháp], chia quân đóng đồn.

Lấy Mạc Tử Sinh làm Tham tướng trấn Hà Tiên, quản lý binh dân sự vụ.

Vương sai Cai cơ Trịnh Ngọc Trí đem mật chỉ đến các đồn chiêu dụ những bề tôi cũ và những sĩ dân hào kiệt. Ngọc Trí đến Liêm áo [Vũng Liêm, Vĩnh Long], Phó đốc chiến Tây Sơn là Lý vâng mệnh đem quân sở bộ đến hàng.

Người Sa Đéc tự xưng là Tôn Thất Thăng khởi binh ở Sa Đéc, dân có nhiều người đi theo. Vương nghe tin ấy, ngờ là giả dối; khi đến Trà Ôn, sai người vời người này đến quân thứ, hỏi ra sự trạng, rồi sai giết.

Bọn Cai cơ Nguyễn Tiến Văn từ cuộc bại trận ở Dốc Ngư, đã đầu hàng Tây Sơn; đến đây nghe tin Vương, đến cửa quân xin chịu tội, Vương đều tha cho.

Tháng 10 [13/11-11/12/1784], Ngoại tả chưởng dinh bình tây đại đô đốc Chu Văn Tiếp đem thủy binh đánh quân Tây Sơn ở sông Mân Thít [Vĩnh Long]. Giao chiến với Chưởng tiền Bảo, Văn Tiếp nhảy lên thuyền, bị  đâm trúng. Vương vẫy quân đánh gấp, chém được Chưởng tiền Bảo; quân địch tử thương rất nhiều, phải bỏ thuyền chạy; Phò mã Trương Văn Đa chạy đến Long Hồ [Vĩnh Long], quân Nguyễn bắt được thuyền ghe khí giới rất nhiều.

Tháng 11[12/12-10/1/1785], Vương dùng Lê Văn Quân làm Khâm sai tổng nhung  chỉ huy đại quân, tiến đánh được hai đồn Ba Lai [Bến Tre] và Trà Tân.

Thái giám Lê Văn Duyệt và đội trưởng Nguyễn Văn Khiêm đến hành tại bái yết. Trước kia, sau trận Đồng Tuyên, Văn Duyệt và Văn Khiêm theo xa giá không kịp, bị quân Tây Sơn bắt, đến đây mới trốn về.

Sai Tham tướng Mạc Tử Sinh giữ Trấn Giang, tham tán Nguyễn Thừa Diễn giữ Bình áo [Vũng Bèo]. Sai Cai đội Nguyễn Văn Thành đi Bát Chiêm và Quang Hóa [Tây Ninh] thu họp quân Đông Sơn còn lại.

Vương thấy quân Xiêm tàn bạo, đến đâu cũng cướp bóc, nhân dân ta oán rất nhiều, bèn bảo các tướng rằng :

Muốn được nước phải được lòng dân. Nay Chu Văn Tiếp đã mất, quân Xiêm không ai chế ngự được. Nếu được Gia Định mà mất lòng dân thì ta cũng không nỡ làm. Thà hãy lui quân để đừng làm khổ nhân dân”.

Tháng 12 [11/1-8/2/1785], Nguyễn Nhạc nghe tin cáo cấp, tức thì sai Nguyễn Huệ đem binh thuyền vào cứu Sài Gòn. Huệ dùng quân mạnh mai phục ở Rạch Gầm và ở sông Xoài Mút [ Định Tường], rồi dụ quân Xiêm lại đánh. Tướng Xiêm là Chiêu Tăng và Chiêu Sương không hiểu địa thế khó dễ ra sao, bèn dẫn quân tiến thẳng đến Mỹ Tho, cuối cùng bị phục binh  thủy bộ hai mặt ập đánh. Chiêu Tăng và Chiêu Sương thua to bỏ chạy, chỉ còn vài nghìn lính theo đường Chân Lạp mà chạy về. Lê Văn Quân và các quân cũng đều vỡ chạy; Cai cơ Nội thủy Trung thủy là Nguyễn Văn Oai chết trận

Vương chạy đến Trấn Giang [Cần Thơ]; bầy tôi theo hầu chỉ có bọn Hộ bộ Trần Phước Giai, Cai cơ Nguyễn Văn Bình, Thái giám Lê Văn Duyệt hơn mười người. Đi đường hết lương, có người dân đem cơm ngô dâng. Mạc Tử Sinh bỗng đi thuyền tới, Vương bèn sai Tử Sinh và Cai cơ Trung sang Xiêm báo tin.

Bấy giờ Phạm Văn Nhân và Nguyễn Văn Liêm cùng Giám mục Bá Đa Lộc đem con cả Nguyễn vương là Cảnh sang Pháp, Vương sai làm quốc thư gửi cho Pháp hoàng.

Riêng trong hồi ký lịch sử của Sir John Barrow người Anh, nhan đề A voyage to Cochinchina, in the years 1792 and 1793  [Chuyến đi đến nước Việt Đàng Trong vào các năm 1792 và 1793]; tác giả trình bày đầu đuôi việc Giám mục Bá Đa Lộc đem Hoàng tử Cảnh sang Pháp cầu viện thất bại như sau:

Adran [Bá Đa Lộc] trước đó mấy lần đi từ Xiêm đến các tỉnh miền nam nước Việt Đàng Trong nhắm thức tỉnh tình cảm dân chúng đối hoàng triều hợp pháp [Nguyễn vương Phúc Ánh], thấy họ vẫn trung thành với người mình yêu thích và bất mãn tràn ngập đối với kẻ cướp ngôi. Ông ta hình thành chương trình xin Vua nước Pháp Louis thứ 16 giúp đỡ, nhắm đưa dòng hợp pháp lên ngai vàng; với những điều khoản mà bản thân ông không phản đối và cuối cùng có lợi lớn cho nước Pháp. Với quan điểm này, ông ta lên thuyền đi tìm vị Vương di cư [Nguyễn Vương Phúc Ánh]; trong một lá thư từ Podicherry [Ấn Độ] ông viết:

Tôi gặp vị Vương thiếu may mắn này trong hoàn cảnh rất cơ cực, cùng một số ít bạn trung thành sống trên một trong những đảo nhỏ tại vịnh Xiêm La, gần ngã ba đến quốc vương Cambodia; quân lính ông đang sống bằng rễ cây đào dưới đất.”

Dường như, ở đây Vương đã giao phó cho nhà truyền giáo chăm sóc con trai cả của mình; tha thiết cầu xin nhà truyền giáo trong trường hợp có bất kỳ tai nạn nào xảy ra với chính ngài, vẫn tiếp tục đưa lời khuyên và giúp đỡ con trai ngài như một người cha và một người bạn, và dạy cho y không quên mục tiêu thống trị ngai vàng hợp pháp, mà cha y đã bị tước đoạt vì bạo loạn.

Adran [Bá Đa Lộc] tỏ ra hài lòng Vương về vấn đề này, bèn cùng con Vương từ biệt, đáp thuyền đi Podicherry [Ấn Độ], rồi từ đó đi tàu Âu Châu đến Paris vào năm 1787. Tại đây Hoàng tử nhỏ tuổi trình diện tại sân đình, được chú ý và kính trọng; và chương trình của vị thừa sai được chấp thuận cao đến nỗi chỉ trong vài tháng một hiệp ước được soạn thảo xong xuôi giữa Vua Louis 16 và Vương nước nước Việt Đàng Trong và được ký tại Versailles giữa Comptes de Vergennes và  Montmorin thay mặt Vua nước Pháp, và Hoàng tử trẻ tuổi thay mặt Vương nước nước Việt Đàng Trong. Sau đây là những điều khoản chính của hiệp ước đặc biệt này, mà tôi tin rằng lần đầu tiên được công bố:

1.Sẽ có một liên minh tấn công và phòng thủ giữa hai nhà vua Pháp quốc và nước Việt Đàng Trong,  bằng cách đó họ thỏa thuận sẽ cung cấp cho nhau sự hỗ trợ để chống lại tất cả những kẻ có thể gây chiến với một trong hai bên ký kết.

2.Để hoàn thành mục tiêu này, sẽ được đặt dưới quyền chỉ huy của Vương nước Việt Đàng Trong một hạm đội gồm 20 thuyền chiến của Pháp, với kích cỡ và hỏa lực phù hợp với nhu cầu công việc của Vương.

3.Năm trung đoàn lính châu Âu và hai trung đoàn lính thuộc địa sẽ được gửi ngay lập tức đến Vương nước Việt Đàng Trong .

4.Vua Louis XVI cam kết trong vòng bốn tháng sẽ cung cấp một khoản tiền 1 triệu đô la, trong đó 500.000 bằng tiền mặt, số còn lại bằng diêm sinh, đại bác, súng trường và những thiết bị quân sự khác.

5.Kể từ khi binh lính Pháp đặt chân lên lãnh thổ của Vương nước Việt Đàng Trong, họ và các tướng lĩnh bộ binh và hải quân  sẽ nhận lệnh của Vương nước nước Việt Đàng Trong. Để đạt được mục đích này, các sĩ quan chỉ huy sẽ được cung cấp chỉ thị từ bề trên Thiên Chúa giáo để tuân thủ mọi việc và mọi nơi, ý muốn của đồng minh mới.

Mặt khác:

1.Vương nước Việt Đàng Trong cam kết ngay sau khi vương quốc được ổn định, sẽ cung cấp tất cả những thứ cần thiết về trang thiết bị, lương thực, để hạ thủy 14 tàu chiến, khi có yêu cầu của sứ giả Vua nước Pháp; và để thực hiện tốt mục tiêu này, một nhóm sĩ quan và hạ sĩ quan hải quân sẽ được gởi từ châu Âu đến để xây dựng một cơ sở thường trực ở nước Việt Đàng Trong.

2.Hoàng thượng Louis 16 sẽ cử các lãnh sự thường trú tại các địa điểm ven bờ biển nước Việt Đàng Trong, ở những nơi mà Hoàng thượng thấy cần thiết. Các lãnh sự này sẽ được cấp đặc quyền đóng, hoặc nhờ người khác đóng các tàu, khu trục hạm và các loại phương tiện khác mà triều đình xứ Đàng Trong không được ngăn cản vì bất cứ duyên cớ gì.

3.Sứ giả của vua Louis 16 tại ở triều đình  nước Việt Đàng Trong sẽ được cấp phép khai thác gỗ ở mọi khu rừng nào mà họ tìm được gỗ thích hợp cho việc đóng chiến hạm, khu trục các loại.

  1. Vương nước nước Việt Đàng Trong và hội đồng vương quốc của ngài sẽ nhượng vĩnh viễn cho Hoàng thượng vô cùng mộ đạo, và những người kế tục vương nghiệp của ngài, hải cảng và vùng đất Han-san (vịnh Turon [Đà Nẵng]và bán đảo) và các đảo lân cận từ Faifo[Hội An] ở phía Nam đến Hai-wen [Hải Vân] ở phía Bắc.

5.Vương nước nước Việt Đàng Trong cam kết cung cấp người và vật tư cần thiết cho việc xây dựng các đồn lũy, cầu cống, đường xá, bồn chứa nước, vv. những thứ được cho là cần thiết trong việc bảo đảm an ninh và phòng thủ những nhượng địa dành cho đồng minh đáng tin cậy của ngài, tức vua nước Pháp.

6.Trong trường hợp dân bản xứ bất cứ lúc nào không muốn ở lại trên phần nhượng địa,  họ cũng sẽ có quyền tự do ra đi, giá trị tài sản mà họ để lại sẽ được đền bù. Luật lệ dân sự cũng như hình sự sẽ không thay đổi; mọi ý kiến tín ngưỡng sẽ được tự do; thuế khóa sẽ do người Pháp thu gom theo thông lệ nước này; và nhân viên thu thuế sẽ được cùng chỉ định bởi sứ giả Pháp và Vương nước nước Việt Đàng Trong; nhưng Vương sẽ không đòi hỏi phần nào trên tiền thuế thu được, nó sẽ thuộc về đức Vua rất mộ đạo Thiên Chúa để trang trải những chi phí ở nhượng địa.

7.Trong trường hợp mà đức Vua rất mộ đạo Thiên Chúa quyết định tham chiến ở nơi nào đó thuộc Ấn Độ, viên chỉ huy quân đội Pháp sẽ được phép tuyển 14.000 quân, và ông ta sẽ cho tập luyện theo cách như ở Pháp, và đào tạo họ theo kỹ luật quân đội Pháp.

8.Trong trường hợp một số cường quốc tấn công người Pháp trên lãnh thổ nước Việt Đàng Trong, Vương nước Việt Đàng Trong sẽ cung cấp 60.000 lính lục quân hoặc nhiều hơn, do Vương nước Việt Đàng Trong cung cấp áo quần và lương thực, vv…

Ngoài các điều khoản này, hiệp ước còn chứa vài điều khoản khác ít quan trọng hơn, nhưng người ta có thể tin rằng tất cả các điều khoản đều rất có lợi cho Pháp. Adran [Bá Đa Lộc] được thăng chức Giám mục, với nhiệm vụ Giám mục xứ nước Việt Đàng Trong và được chỉ định làm Đại sứ đặc biệt toàn quyền của triều đình. Chỉ huy đạo quân định khởi hành cuộc viễn chinh dưới sự quản lý và chỉ đạo duy nhất của Giám mục, có nghĩa là được trao cho M. Custin hoặc M. De Frêne lo toan. Giám mục mong muốn Conway, Thống đốc Podicherry [thuộc Ấn Độ] làm chỉ huy; nhưng Vua Louis dường như rất ghét vị sĩ quan này, theo ông ta Conway  là kẻ vô đạo đức, không theo nguyên tắc, kiêu hãnh, một người đàn ông ám ảnh bồn chồn. Hãy quan sát lời vị Vua tốt này:

Ngài Adran [Bá Đa Lộc], ngài tự làm khổ mình, dẫn đến có lợi cho Conway. Hãy tin tôi, y sẽ gây cho ngài nhiều sự khó chịu làm hỏng cách nhìn về cuộc hành trình. Tôi đã đưa y làm Thống đốc tại India vì chỉ muốn ngăn y âm mưu tại đây và gây cho vấn đề trở nên hỗn loạn. Tôi biết rằng em y, chính y, và Dillon không chịu để yên ỗn phút chốc nào. Y có thể là một quân nhân tốt, đủ sức để đóng tại Podicherry; nhưng không thể tin khi đứng đầu quân đội. Nhưng vì lợi ích của ngài, sẽ ban cho y ‘red ribbon’ [ruy băng đỏ], và cấp bậc Thiếu tướng.

Vấn đề cho đến nay đã được kết luận tại Paris; vị Giám mục với bản hiệp ước trong túi áo, Hoàng tử do ông chăm sóc, hàng hành đến Podicherry [thuộc Ấn Độ], trên chiếc tàu khu trục Meduce, với trách nhiệm Đại sứ toàn quyền của Vua Louis đến gặp Vương nước nước Việt Đàng Trong. Ông ta viếng thăm Isle of France [Mauritius, Ấn Độ Dương], ông tìm được một tàu thủy với 15 khẩu súng, 7 khu trục, và vài tàu vận tải. Ông cũng tìm thấy một số quân lính sẵn sàng trên đảo và Bourbon, số lượng khoảng bốn hoặc năm ngàn người. Tàu được lệnh trang bị đầy đủ với khả năng điều động và quân lính sẵn sàng lên tàu. Thời điểm một chiếc thuyền cố vấn sẽ đến từ Pondicherry, mà ông dự định sẽ phái đi, khi nó đến thì lệnh có hiệu lực.

Vào thời gian Giám mục đến Pondicherry vào năm 1789, chuyện xãy ra liên quan đến một người đẹp nổi tiếng tên là Madame de Vienne, vợ viên Trợ lý tướng Conway, và là tình nhân của vị tướng này. Giám mục vốn kính trọng tất cả những phụ nữ nổi bật ở khu định cư, nên người ta gợi ý cho ngài phải đến thăm nàng. Ngài không những từ chối mà lại tỏ ra vô cùng phẫn nộ với việc nàng thân mật với vị tướng. Nhân dịp này ngài sử dụng nhiều từ ngữ nặng nề, lên án một cách nghiêm khắc hành vi gây tai tiếng của cả vị tướng và tình nhân. Những lời này, được người thân thiết với Madame de Vienne kể lại cho nàng nghe. Tức giận khi nghe những lời nhận xét, nàng cho là vô lễ; nên quyết định trả thù ngay. Madame de Vienne có được sự ảnh hưởng tuyệt đối đối với tướng Conway. Trong một buổi họp lớn, nàng đã nhân cơ hội này chế giễu dải ruy băng đỏ [do Giám mục đưa cho tướng Conway], nàng coi đó như một món đồ trang sức được tặng làm trò tiêu khiển hài hước vui vẽ, chứ không phải là sự tôn trọng đối với công lao của vị tướng lãnh này. Nàng tỏ vẻ khinh miệt cấp bậc Conway được thăng, và gọi đó là quân đội Giáo Hoàng, dưới quyền một Giám mục. Nói tóm lại người đẹp giận dữ rất giỏi lung lạc tâm tình tướng Conway, nàng thành công dùng quan điểm của mình chinh phục người tình, khiến ông ta tạm thời đình chỉ bước tiến cuộc viễn chinh. Để đạt mục đích này, ông ta điều một chiếc tàu tốc độ nhanh đến Mauritius, với mệnh lệnh đình chỉ cấp binh khí, chờ khi có lệnh khác từ tòa tại Versailles. Rồi vào lúc này, cuộc cách mệnh bùng nổ tại nước Pháp, chấm dứt hoàn toàn mọi sự tiến triển của chương trình bang giao Việt Pháp.

Về phía nhà Thanh, vào tháng 3 nhuần Vua Càn Long đến Giang Ninh [Nam Kinh], bèn bố trí cho Cống sứ An Nam đến yết kiến:

Ngày 23 Kỷ Dậu tháng giêng năm Càn Long 49 [13/2/1784]. Dụ các Quân cơ đại thần:

Diêu Thành Liệt tâu rằng vào sơ tuần tháng 2 Sứ thần An Nam sẽ đến vùng Kỳ Châu tỉnh Sở [Hồ Nam, Hồ Bắc], rồi theo các tỉnh Giang Tây, An Huy tiếp tục hành trình, đến cuối tháng 3 hoặc đầu tháng 3 nhuần đến Giang Ninh (2).

Trẫm lần này trú tất tại Giang Ninh vào khoảng mồng 10 tháng 3 nhuần. Viên Sứ thần nếu cuối tháng 3 hoặc đầu tháng 3 nhuần đến nơi đó để chờ, thì trên đường đi không khỏi cấp bách. Chỉ nên ra lệnh nhân viên bạn tống, đi từ từ đến mồng 5, hoặc 6 đến tỉnh thành Giang Ninh đợi để chiêm cận, như vậy sẽ thong dong hơn. Nay truyền dụ cho  Diêu Thành Liệt tuân theo đó mà lo liệu, cùng dụ cho Tát Tái hay biết.” ( Thanh Thực Lục, Cao Tông Thực Lục quyển 1197, trang 7-8)

Lúc nhà Vua đến Nam Kinh, Sứ thần An Nam tề tựu đón mừng:                

Ngày 7 Nhâm Tuất tháng 3 nhuần năm Càn Long thứ 49 [26/4/1784]. Thiên tử đến phủ Giang Ninh. Bồi thần An Nam Hoàng Trọng Chính, Lê Hữu Dung, Nguyễn Ðường đón mừng.” (Thanh Thực Lục, Cao Tông Thực Lục quyển 1202, trang 11)

Trong buổi đãi Sứ thần yến tiệc, Vua Càn Long ban cho Vua An Nam biển ngạch do nhà chính nhà Vua chấp bút viết, kèm với bài thơ ngự chế:

Ngày 9 tháng 3 nhuần năm Càn Long thứ 49 [28/4/1784]. Ban cho các Vương, Công, Ðại thần tháp tùng; quan viên văn, võ tại Giang Nam, cùng Bồi thần An Nam yến. Thưởng cho Quốc vương An Nam Lê Duy Diêu biển ngạch do nhà vua ngự bút “Nam Giao bình hàn”(3) cùng thơ ngự chế ‘ Cổ hy thuyết(4), lụa, tiền; cùng thưởng cho Bồi thần bạc tiền có sai biệt.

Dụ thưởng biển ngạch cho Quốc vương An Nam, đề dưới là “ Cổ hy Thiên tử chi bảo” (5), cũng không phải là Trẫm khoe; sợ viên Quốc vương không biết ý Trẫm, nên thưởng cấp thơ ngự chế “ Cổ hy thuyết ” lệnh duyệt khán để hiểu Trẫm ý.” (Thanh Thực Lục, Cao Tông Thực Lục quyển 1202, trang 16).                       

Chú thích:

1.Ném chuột có lẽ nào không ngại va chạm đến đồ vật: Câu này lẩy điển trong Hán Thư, ý nói: Chuột đến gần đồ vật quý, muốn ném chuột lại ngại vỡ đồ vật. Ở đây đem chuột ví với kiêu binh và đem đồ vật ví với Trịnh Khải.

  1. Giang Ninh: Xưa gọi Nam Kinh là Giang Ninh; nay thuộc tỉnh Giang Tô.

3.Nam Giao bình hàn: Ý nói An Nam là màn che cho Trung Quốc.

  1. 4. Cổ hy thuyết: Bài thơ đề cập đến việc nhà Vua đến tuổi cổ lai hy tức 70 tuổi, điển lấy từ câu thơ “ Nhân sinh thất thập cổ lai hy” của Đổ Phủ.
  2. 5. Cổ hy Thiên tử chi bảo: Vật quí của Thiên tử ở tuổi cổ lai hy.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Bình luận về bài viết này