
Hồ Bạch Thảo
Tháng 9 năm Cảnh Hưng thứ 43 [7/10-4/11/1782], (Thanh, Càn Long thứ 47); Chúa Trịnh Sâm mất lúc 41 tuổi. Từ mấy năm gần đây, bệnh cũ của Sâm luôn luôn phát sinh, rất sợ nắng gió, thường ở trong cung sâu kín, ban ngày cũng phải đốt nến; nếu không phải ngày triều hội lớn, thì không bao giờ ra ngoài. Đến nay bệnh thêm nguy kịch, Đặng Thị Huệ ngày đêm ở bên cạnh; về hàng đại thần, chỉ có Hoàng Đình Bảo, Tạ Danh Thùy và Lê Đình Châu được ra vào mà thôi. Đặng Thị nói với Trịnh Sâm rằng:
“Thiếp nhờ ơn Vương thượng yêu đương quyến luyến bội phần, nay trăm tội đổ lên đầu thiếp, không biết một ngày kia mẹ con thiếp sẽ gửi thân vào nơi nào?”.
Sâm an ủi nói:
“Danh vị Thế tử đã ấn định rồi, sau này nước là nước của Thế tử, còn phải lo lắng gì nữa?”.
Sâm lại quay bảo Đình Bảo rằng:
“Nhà ngươi cố sức bảo hộ Thế tử để yên lòng ta“.
Đình Bảo thưa rằng:
“Tôi đâu dám chẳng hết lòng, cùng lắm thì đem cái chết để báo ơn Chúa. Nhưng xin ngay bây giờ cho Thế tử nối ngôi và sách phong chính cung Tuyên Phi cùng tham dự xét đoán công việc chính trị, để có mệnh lệnh sẵn sàng“.
Sâm nói:
“Nhà ngươi nói đúng, nhà ngươi cần phải giúp sức“.
Đình Bảo nói rằng:
“Nhận lời trối trăn lại để giúp việc chính trị, tôi không dám đảm đang một mình, Trịnh Kiều [chú ruột Trịnh Sâm], người rất thân trong họ nhà chúa; Nguyễn Hoàn [thầy], bậc sư bảo đại thần; Lê Đình Châu và Phan Lê Phiên đều ở trong chính phủ vẫn có danh dự đức vọng; Trần Xuân Huy [Hoạn quan] và Tạ Danh Thùy [Hoạn quan] đều là A bảo tín thần. Xin cho các viên ấy cùng tôi vâng chịu cố mệnh [mệnh lệnh lúc mất] “.
Sâm y cho, bèn sai Lê Phiên viết tờ cố mệnh, Nhữ Công Điền viết chế sách ban cho Tuyên Phi Đặng Thị. Khi viết xong, Đình Bảo để trong tay áo, vào phủ đường, xin Sâm phê chữ. Lúc ấy bệnh Sâm đã gần tắt thở, bèn cho triệu bọn Trịnh Kiều và Nguyễn Hoàn vào nhận cố mệnh. Khi bọn Kiều vào, Sâm vừa khóc vừa nói:
“Tiểu tử này mắc bệnh không sống được nữa. Nay thế tử Cán nối ngôi, rất mong thúc phụ và sư thần cùng lòng giúp rập, vượt qua trong buổi khó khăn“.
Đình Bảo nhân lấy tờ thư trong tay áo ra dâng trình, Sâm xua tay gạt đi. Đình Bảo nói:
“Thư cố mệnh còn chưa ghi tên Thế tử, xin cho vương thân là Trịnh Kiều ghi tên thay“.
Sâm gật đầu. Kiều nghi tên Thế tử xong, liền dâng trình, thì Sâm đã nhắm mắt rồi, không biết gì nữa.
Đình Bảo đem cố mệnh và chế sách truyền đi các nơi, rồi tâu xin nhà Vua lập Cán làm Điện Đô vương; Tuyên Phi Đặng Thị cùng tham dự xét đoán công việc chính trị; truy tôn Sâm làm Thịnh vương. Lúc ấy, Cán còn nhỏ tuổi lại có bệnh, lòng người nôn nao lo sợ; trong triều đình, nơi thôn dã ai cũng biết họa loạn xảy ra chỉ trong khoảng sớm tối.
Tháng 10 [5/11-4/12/1782], binh lính Tam phủ (1) nổi loạn, truất Trịnh Cán, lập Trịnh Khải. Sau khi Cán được lập làm Chúa, Đặng Thị bắt Khải ra ở nhà Tả xuyên, giam giữ cấm đoán rất nghiêm ngặt. Dương Thị, mẹ Khải, e rằng Khải không không bảo toàn được tính mạng, bèn sai người đến kêu xin Đình Bảo thương tình. Đình Bảo khóc nói:
“Đình Bảo này thờ tiên vương, rất được đội ơn yêu dấu. Quý tử [chỉ Trịnh Khải] là con của tiên vương ta, nếu ta dám có lòng nào, sẽ bị trời tru đất diệt“.
Từ đấy, việc giam giữ áp chế được nới rộng một chút, nhân đấy, gia thần của Khải dần dần được ra vào chỗ Khải bị giam. Cán tuy được lập làm Chúa, nhưng lòng người không ủng hộ, lại do bè đảng Đình Bảo phụ họa với Đặng Thị, nên ai cũng ghét. Họ quần tụ ở đầu đường xó chợ bàn tán; có người nói Đình Bảo mưu toan làm việc trái phép; có người nói tân Vương [Trịnh Cán] bị bệnh nặng, Đình Bảo tư thông với Đặng Thị, lập mưu để giết quý tử. Lời đồn truyền đi khắp nọi nơi, không sao ngăn cấm được. Dự Vũ, bầy tôi của Khải, lẻn vào chỗ các quân sĩ uống rượu, nói vụng với quân sĩ rằng:
“Thế tử của tiên vương không tội trạng gì, chỉ vì Đặng Thị là người đàn bà ác nghiệt, làm mê hoặc tiên vương để cướp ngôi cho con; Đình Bảo vốn có chí làm phản, hắn lợi dụng tân vương còn thơ ấu để áp chế, nên phụ hoạ với Đặng Thị để thành cái kế cướp ngôi. Nay tân vương bị bệnh nguy kịch, tất nhiên xảy ra họa loạn. Các quân sĩ đều là người cũ ở nơi thang mộc (2), làm nanh vuốt của nước, vốn giữ lòng trung nghĩa, nếu một bụng tôn phò, yên định được nhà Chúa, thì tên tuổi sẽ chép trong thư đỏ, khoán sắt (3) , công ấy còn gì lớn hơn?”.
Quân sĩ đều tức bực cảm khích, họ ước hẹn nhau hội hợp riêng ở chùa Khán Sơn (4), bí mật mưu tính thi hành công việc, nhưng chỉ ngại về uy quyền thế lực của Hoàng Đình Bảo, bàn tính chưa nghĩ ra mưu mẹo gì. Lúc ấy, trong chỗ các quân ngồi, có Nguyễn Bằng [người xã Nộn Liễu, huyện Nam Đàn, Nghệ An], là quân lại trong đội Tiệp Bảo (5), mạnh dạn nói:
“Các quân sĩ nếu định một lòng làm việc này, thì chẳng qua cứ đợi xong lễ tế điện buổi sáng, trong phủ đường nổi hiệu ba hồi trống, chúng mình sấn đến lôi nó ra quật cho ngã xuống, thế là xong việc, có gì là khó khăn?”.
Mọi người đều mừng, bèn cử Nguyễn Bằng làm người đứng đầu, cùng nhau uống máu ăn thề, bàn tính không dự định nhật kỳ, chỉ hẹn nhau hễ nghe tiếng trống trong phủ đường, thì nhất tề khời sự.
Lúc ấy có viên ngoại lang Bùi Bật Trực biết chuyện, bèn đem việc này bảo cho Nguyễn Trọng Chiểu, là con Nguyễn Trọng Viêm [em Trịnh Thái phi] biết, để Trọng Chiểu dự vào cuộc họp. Nhân đấy, Bật Trực giới thiệu Trọng Chiểu và bảo các quân sĩ rằng:
“Việc này quan hệ rất to, cần phải nhờ quốc cữu Nguyễn Trọng Viêm tâu lên Thái phi [mẹ Trịnh Sâm] rõ. Vạn Nhất mà Đình Bảo biết chuyện, thì cứ nói là có mệnh lệnh bí mật của Thái phi, rồi cử sự một cách minh bạch, như thế là hơn“.
Quân sĩ theo lời, bọ bèn sai Bật Trực đem việc này đến nói kín với Trọng Viêm, Trọng Viêm lại đem nói với Nguyễn Hoàn. Hoàn muốn theo như việc cũ thời Trịnh Doanh thay Trịnh Giang, xin hạ lệnh cho Khải tạm giữ chính quyền, để yên lòng quân sĩ. Trọng Viêm vào tâu với Trịnh Thái phi , Thái phi sai người nói với Đình Bảo. Đình Bảo nói:
“Tiên vương có hai người con, nếu tân vương vì bệnh không khỏi, thì ngôi báu tự nhiên thuộc quyền quý tử. Còn như việc cho quý tử tạm giữ chính quyền tức là đi dần đến chỗ cướp ngôi đấy. Tôi vâng nhận lời phó thác của tiên vương trối lại, việc ấy tôi không dám vâng theo mệnh lệnh“.
Trọng Viêm e rằng việc này mà tiết lộ, mình sẽ bị vạ lây, bàn mưu với Nguyễn Hoàn. Nguyễn Hoàn nói:
“Việc đã như thế, để mặc các quân sĩ muốn làm thế nào thì làm“.
Trong kinh thành huyên truyền ầm lên rằng:
“Tất nhiên quân sĩ gây ra sự biến loạn“.
Sáng ngày 24 [28/11/1782], vào buổi lễ cúng cơm Chúa, Nguyễn Bằng đi tắt lên trên lầu phủ đường, đánh trống, các quân sĩ họp tập đông đủ, tuốt trần mũi gươm, ồ ạt xông tràn vào. Hoàng Đình Bảo tay cầm kiếm, ngồi trên lưng voi, ngăn giữ cửa phủ để đánh chặn lại, quân sĩ tranh nhau dùng gạch đá ném chết, em Đình Bảo là Vũ Khanh hầu Hoàn Lương cũng bị loạn quân giết. Quân sĩ bèn đem nhau đến sở giam, phò Trịnh Khải ra ngồi phủ đường, rồi lấy chỉ dụ của Thái Phi tâu xin mệnh lệnh nhà Vua lập Khải làm Nguyên soái Đoan Nam Vương. Truất Cán làm Cung quốc công, sau đó, Cán bị bệnh chết.
Quân sĩ hoành hành cướp bóc, phàm tộc thuộc hai nhà họ Đặng, họ Hoàng và những nhà trước kia phát giác việc Trịnh Khải mưu dành ngôi; họ cướp phá hầu hết. Kinh thành rối loạn, mấy hôm sau mới được yên ổn. Quân sĩ cậy công cứ đòi ban thưởng mãi, bèn bàn định phong Nguyễn Bằng làm Suy trung dực vận công thần phong cho tước Hầu; 30 người tham gia cuộc hội bàn đầu tiên là bọn quân lại Nguyễn Trù được đặc biệt thăng thưởng; còn các quân thủy, quân bộ trong kinh ngoài trấn đều được thăng chức một bậc, và đều được ban thưởng tiền bạc có người nhiều người ít khác nhau. Lại rộng cấp cho mỗi người một đạo “Không đầu sắc“(6), cho phép họ được nhường cho thân thuộc, tỏ ra đền công một cách phi thường. Từ đấy, kiêu binh ngày càng càn rỡ, viên quan cai quản không thể nào khống chế được, chỉ ràng buộc lỏng lẻo mà thôi.
Tháng 11[5/12/1782-2/1/1783], Nguyễn Hữu Chỉnh quản lãnh cơ Tiền Ninh trấn Nghệ An, trốn đi theo Tây Sơn. Hữu Chỉnh, người huyện Nghi Lộc, Nghệ An; lúc trẻ tuổi đỗ Hương cống, là người hào phóng không bó buộc vào khuôn phép. Du lịch kinh sư, Hữu Chỉnh vào yết kiến Hoàng Ngũ Phúc; Ngũ Phúc khen là có tài khác thường, dùng làm gia khách. Khi Ngũ Phúc vào xâm lấn trong Nam, cho Hữu Chỉnh đi theo trong quân, giữ công việc thư ký, rồi sai đến khuyên Nguyễn Nhạc quy thuận với triều đình, được Nguyễn Nhạc kính trọng. Sau theo Hoàng Đình Bảo đánh giặc biển có công, đổi sang quản lãnh cơ Tiền ninh thuộc trấn Nghệ An. Đến nay, binh lính trong kinh thành nổi loạn, môn hạ của Hữu Chỉnh là Hoàng Viết Tuyển từ Sơn Nam vượt biển vào báo cho Hữu Chỉnh biết. Hữu Chỉnh bèn đem việc bàn với trấn thủ Nghệ An Vũ Tá Dao, nên chiếm lấy vùng đất từ Thuận Hóa đến Nghệ An để làm kế cố thủ. Tá Dao là em rễ Hoàng Đình Bảo, tư chất tầm thường không đương nỗi, nên từ chối. Hữu Chỉnh bèn về nhà, cùng Hoàng Viết Tuyển dắt díu gia quyến vượt biển vào Quy Nhơn theo Nguyễn Nhạc. Nhạc được Hữu Chỉnh mừng lắm, đãi làm bậc thượng khách. Hữu Chỉnh khuyên Nhạc chứa lương thực, sắm khí giới, kén chọn khuyến khích tướng súy, giáo dục luyện tập sĩ tốt, để mưu tính việc chiếm lấy Thuận Hóa.
Trước kia, khi Trịnh Sâm bị bệnh nặng, cho con là Cán nối ngôi, sai bọn Phan Lê Phiên viết thư cố mệnh của Trịnh Sâm và chế sách ban cho Tuyên Phi Đặng Thị Huệ. Khi thư cố mệnh đã viết xong, Sâm hấp hối không thể phê chữ “Cán” vào thư được nữa, sai Trịnh Kiều viết thay. Đến nay, Trịnh Khải đưa thư cố mệnh ra, trong thư có chữ Trịnh Thái phi phê rằng: “Không phải chữ chính tay tiên vương viết, không lấy gì làm bằng cứ, giao xuống cho chính phủ bàn luận“. Thiêm sai Phạm Nguyễn Du làm lời luận “Quốc thị” [kế hoạch lớn của nhà nước] đại lược nói: “Việc lập Điện đô vương và hạ lệnh cho Tuyên Phi cùng xét đoán việc nước, đều là lời trối trăn lầm lẫn trong lúc Thịnh vương sắp mất, không thể coi là chính đáng được. Nay Thái phi lấy địa vị người mẹ thay đổi việc làm của con, rất hợp sự lý đúng đắn. Xin truy xét tội bầy tôi phụ họa, làm sáng tỏ nghiêm chỉnh điển hình trong nước“. Vì thế vào tháng 12 [3/1-1/2/1783] ra lệnh bãi chức Quận công Trịnh Kiều, Tham tụng Phan Lê Phiên và Tri lại phiên Nhữ Công Điền ; lại truất Đặng Thị làm dân, sau Đặng Thị uống thuốc độc chết.
Tại miền Nam vào tháng giêng [12/2-13/3/1782], Nguyễn vương sai Chưởng cơ Nguyễn Hữu Thụy đem binh thuyền cùng với Hồ Văn Lân đi cứu viện nước Chân Lạp. Bấy giờ Vua Xiêm là Trịnh Quốc Anh bị bệnh thần kinh, bắt tù vợ con Chất Tri và Sô Si, nên hai người rất oán hận. Khi quân ta đến đến thành La Bích [Longvek, Campuchia], chúng họp nhau bàn bạc; Sô Si nói :
“Vua ta vô cớ bắt tù vợ con chúng ta, chúng ta dù có hết sức liều chết thì ai biết cho, chi bằng cùng với người Hán [bấy giờ nhà Nguyễn xưng với Xiêm là người Hán] xin hòa, kết làm ngoại viện”.
Chất Tri nói :
“Điều đó rất hợp ý tôi”.
Bèn sai người đến quân Hữu Thụy cầu hòa, và mời đến trại để hội ước. Hữu Thụy nhận lời, em Hữu Thụy là Hựu can rằng :
“Người Man hay dối trá, sợ có biến thì sao?”.
Hữu Thụy nói :
“Ta tính toán đã kỹ rồi. Vua Xiêm vô cớ mà bắt giam vợ con họ nên họ muốn nhờ ta làm viện binh, lời xin của họ không phải là dối đâu. Huống chi ta đã nhận lời mà không đi thì họ cho ta là nhát”.
Sáng mai Hữu Thụy đem vài mươi người đi theo thẳng vào trại quân Xiêm. Chất Tri và Sô Si đón vào khoản đãi rất hậu, đều đem lòng thực bày tỏ, rượu say rồi bẻ mũi tên để thề. Hữu Thụy nhân đó đem ba bảo vật là cờ, đao và kiếm tặng cho rồi trở về. Lúc đó nước Xiêm có giặc ở thành Cổ Lạc nổi lên, Trịnh Quốc Anh sai Phi Nhã Oan Sản đi đánh. Tướng giặc ấy là em Oan Sản, Oan Sản bèn hợp quân lại đánh thành Vọng Các; người trong thành mở cửa cho vào. Trịnh Quốc Anh nghe tin biến, trốn vào chùa, Oan Sản bắt giam lại, chạy tin báo cho Chất Tri về nước. Chất Tri được báo, cho rằng mình đã cùng Hữu Thụy nghị hòa, không lo về mặt sau nữa, bèn luôn đêm đem quân về thành Vọng Các. Khi sắp đến nơi, ngầm sai người giết Trịnh Quốc Anh; rồi tự lập làm vua Xiêm La, hiệu là vua Phật; phong cho em là Sô Si làm vua thứ hai, cháu là Ma Lặc làm vua thứ ba. Những nạn dân nước ta trước bị Trịnh Quốc Anh đày đi nơi khác đều được thả về thành Vọng Các, cấp cho tiền gạo, nuôi nấng đầy đủ. Hữu Thụy đem việc ấy báo lên; Nguyễn vương cho rút quân.
Tháng 3 [13/4-11/5/1782] Vua Tây Sơn Nguyễn Nhạc và em là Nguyễn Huệ mang quân vào đánh phá. Nguyễn Nhạc nghe tin Đỗ Thanh Nhân đã bị giết, mừng nói :
“Thanh Nhân chết rồi, các tướng khác không đủ sợ nữa !”
Bèn đem chiến thuyền vài trăm chiếc, cử đại binh vào đánh. Quân Tây Sơn đến cửa biển Cần Giờ; Nguyễn vương sai Tống Phước Thiêm điều bát trận thủy binh ở Ngã Bảy [Cần Giờ]. Quân Tây Sơn nhân gió mạnh xông thẳng tới, quân Nguyễn phải lùi. Một mình Cai cơ là Màn Hòe [Manuel] chỉ huy chiếc tàu Tây bọc đồng cố sức đánh rất lâu; quân Tây Sơn bao vây bốn mặt, ném hỏa khí đốt tàu, Màn Hòe chết trận. Màn Hòe là Thuyền trưởng người Pháp, do Giám mục Bá Đa Lộc giúp Nguyễn vương chiêu mộ. Vương nghe tin báo, đích thân đốc binh thuyền tiếp ứng, đến Ngã Ba [Nhà Bè, Sài Gòn] thì gặp địch. Vương mặc áo chiến điều quân đánh gấp, tay cầm súng bắn lại thuyền địch, rồi hạ lệnh cho quân sĩ vừa đánh vừa lùi, thu quân về Bến Nghé [Sài Gòn]. Quân Tây Sơn ồ ạt tiến, quân Nguyễn thua, Vương dời đi Ba Giồng [Định Tường]. Từ đó vùng Sài Gòn lại bị Tây Sơn chiếm.
Tháng 4 [12/5-10/6/1782], Tiết chế dinh Bình Thuận là Tôn Thất Dụ đem Tả chi Trần Xuân Trạch, thuộc tướng là Trần Văn Tự, và thuộc tướng đạo Hòa Nghĩa là Trần Công Chương vào cứu viện. Gặp tiền binh Tây Sơn ập đánh, chém được Hộ giá Phạm Ngạn ở cầu Tham Lương [Sài Gòn]. Nguyễn Nhạc nghe tin Ngạn chết, đau như mất hai tay, cho rằng đạo quân Hòa Nghĩa toàn người Thanh, bèn sai bắt hết người Thanh hơn một vạn người ở Gia Định, không kể là lính hay người buôn bán, đều giết hết mà quăng xác đầy sông; hơn một tháng trời, không ai dám ăn tôm cá và uống nước sông.
Vương dời đi Lữ Phụ [Giồng Lữ, thuộc tỉnh Định Tường]. Bầy tôi thân cận là bọn Nguyễn Huỳnh Đức (7) Trần Xuân Trạch, Nguyễn Kim Phẩm, Dương Công Trừng, Thống binh Hạp và Kính, thu họp quân còn lại, được hơn 300 người. Vương sai dựng đồn chống cự; gặp quân Tây Sơn là Đô đốc Nguyễn Học vừa đến. Vương đích thân điều binh thuyền đón đánh, quan quân đua sức tiến lên; Kim Phẩm chém được Học tại trận. Quân Tây Sơn thua to, bắt được hơn 30 chiếc thuyền, thừa thắng đuổi đến dinh Trấn Định [Định Tường]. Sai Nguyễn Huỳnh Đức làm Tiên phong, Tôn Thất Cốc làm Trung quân, Trần Xuân Trạch và Nguyễn Kim Phẩm làm Hộ giá, tiến đóng tại Ngã Tư [Tứ kỳ giang, thuộc tỉnh Gia Định]. Nguyễn Huệ đem quân mạnh ập đến ; bày trận quay lưng xuống nước mà đánh dữ; quân Nguyễn vương thua, lùi giữ sông Lật Giang [sông Vàm Cỏ Đông tại Bến Lức]. Lưu thủ là Thăng, tiên phong là Túy từ dinh Vĩnh Trấn [Vĩnh Long] đem chiến thuyền tới viện trợ, đón Vương sang miền Hậu Giang.
Sai Nguyễn Hữu Thụy, Trần Xuân Trạch cùng cai cơ Cao Phước Trí mượn đường Chân Lạp sang Xiêm cầu viện. Chân Lạp ngầm giúp Tây Sơn, bèn giết chết bọn Hữu Thụy.
Vương đến Giá Khê [Rạch Giá] Chân Lạp họp binh thuyền hơn 30 chiếc, đuổi đến Sơn Chiết; Tiên phong Túy chặn đường sau, đánh lùi được. Sau đó, Vương đến Hà Tiên, đi thuyền nhỏ qua biển, đến đảo Phú Quốc.
Tháng 5 [11/6-9/7/1782], Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ dẫn quân về Quy Nhơn, lưu hàng tướng Đông Sơn là Đỗ Nhàn Trập cùng Hộ bộ là Bá lãnh 3.000 quân giữ Gia Định, đóng đồn ở Bến Nghé [Sài Gòn]. Nhàn Trập hung tàn bạo ngược, nhiều người oán ghét.
Tháng 6 [10/7-8/8/1782], Hồ Văn Lân tụ họp quân còn lại, đánh được Đô đốc giặc là Nguyễn Loan ở Long Hồ [Vĩnh Long], rồi cùng với Điều khiển Dương Công Trừng và Cai cơ Nguyễn Văn Quý họp binh tiến đánh giặc ở sông Lật Giang [sông Vàm Cỏ Đông], bắt được chiến thuyền hơn 10 chiếc.
Tháng 8 [7/9-6/10/1782], Châu Văn Tiếp cứu viện lấy lại được Gia Định. Châu Văn Tiếp từ Khánh Hòa đem quân vào cứu viện, cờ đề bốn chữ Lương Sơn tá quốc, cùng thiếu phó Tôn Thất Mân điều khiển các tướng. Phạm Văn Sĩ làm Tiên phong, Lê Văn Quân làm Tả chi, Nguyễn Văn Thuận làm Hữu chi, Nguyễn Văn Thảo làm Hậu đạo, Nguyễn Long và Phan Viện làm Bảo hộ, Tôn Thất Mân làm Trung quân ; Văn Tiếp tự lãnh quân mạnh làm sách ứng. Hộ bộ của giặc là Bá nghe tin bảo Nhàn Trập rằng :
“Văn Tiếp võ nghệ tuyệt vời, nay đem trọng binh đến, thế ta chưa thể địch nổi, chi bằng tạm bỏ đất này, lui quân về Quy Nhơn, sang mùa xuân hãy đánh lại cũng chưa muộn”.
Nhàn Trập không nghe, đem hết quân ra đón đánh. Tiên phong Phạm Văn Sĩ tiến trước giết địch, quân các đạo nối theo đánh, quân Tây Sơn thua to, chết không xiết kể; bọn Nhàn Trập chạy về Quy Nhơn. Văn Tiếp thu lại Sài Gòn, sai người tới đảo Phú Quốc báo tin thắng trận và tự đem quân đón Nguyễn vương. Vương về đến Ngã tư [Sài Gòn], Văn Tiếp lạy rạp bên đường, khóc và nói rằng :
“Không ngờ ngày nay lại được gặp Chúa thượng, thực là phước cho xã tắc”.
Lấy Chu Văn Tiếp làm ngoại tả chưởng dinh, Tôn Thất Dụ làm ngoại hữu chưởng dinh. Sai Cai cơ Trung thủy là Võ Di Nguy, Cai cơ Tiền thủy là Trương Phước Dĩnh tập hợp những thủy binh ngạch cũ, sửa đóng chiến thuyền. Sai Cai cơ Lê Phước Điển, Tham mưu Lê Phước Bình sang Xiêm. Vương thấy quân Tây Sơn liền năm vào cướp, trong lòng lo lắm, bèn bảo các tướng rằng :
“Giặc nay dẫu thua, sang xuân hẳn lại vào cướp. Ta quân yếu tướng ít thì lấy gì mà chống? Kế sách ngày nay không gì bằng kết hảo với nước Xiêm để nhờ giúp đỡ khi hoãn cấp”.
Bèn chế hoa vàng hoa bạc, sai bọn Phước Điển sang thông hiếu.
Tháng 11[5/12/1782-2/1/1783], Vương nghe tin quân Tây Sơn mưu vào cướp, sai đặt đồn Thảo Câu ở bờ phía nam sông lớn Gia Định [sông Sài Gòn], giao cho Dương Công Trừng giữ, ở bờ phía bắc thì đặt đồn Dác Ngư , giao cho Tôn Thất Mân giữ, ngang sông bắc cầu phao để tiện qua lại. Trong sông thì bày hơn trăm chiến thuyền để làm thế dựa nhau, do Chu Văn Tiếp, Tôn Thất Cốc, Võ Di Nguy, lưu thủ Thăng, tiên phong Túy quản lãnh. Sai giám quân Tô coi bè hỏa công, đợi khi quân địch đến, theo dòng nước chảy mà phóng hỏa đốt thuyền.
Về việc nhà Lê giao thiệp với nhà Thanh, nhân vào năm Càn Long thứ 43 [1778] An Nam trao trả tên tội phạm Chu Quí, phía Thanh vui lòng, gửi biếu các tặng phẩm. An Nam bèn dâng tấu văn tạ ơn cùng tặng sản vật; nhà Thanh chấp nhận, cho dùng sản vật thay kỳ chính cống năm Càn Long thứ 48 [1783]. Nhưng phía An Nam cho rằng sản vật quá ít, nên vẫn xin duy trì kỳ chính cống. Cuối cùng Vua Càn Long quyết định kỳ chính cống năm Càn Long thứ 48, được giảm một nữa đồ vật cống:
“Ngày 17 Giáp Thân tháng 2 năm Càn Long thứ 47 [30/3/1782]. Dụ rằng:
Quốc vương An Nam Lê Duy Diêu nhân trước đây bắt được tên tội phạm bỏ trốn tên là Chu Quí, bèn sai sứ áp giải đến quan ải; nên được thưởng cấp cho các vật như lụa đoạn. Y bèn dâng tấu văn tạ ơn, cùng mang đầy đủ sản vật địa phương kèm theo tấu biểu để tiến trình. Nghĩ rằng Chuyên sứ từ xa đến, không nỡ cho mang về; bèn chấp thuận lưu giữ, để thay chính cống.
Nay cứ theo lời tâu của Tổng đốc Lưỡng Quảng Ba Duyên Tam thì viên Quốc vương lại dâng biểu xưng tiếp rằng ‘ Phụng ân chỉ cho đưa những vật tạ ơn lần này sung vào chính cống; nghĩ rằng đây là những thứ rau hoắc, quì (8) không xứng để tỏ lòng thành; bởi vậy xin đem những sản vật địa phương tiến cống lần này làm lễ tạ ơn, chờ đến kỳ cống năm Càn Long thứ 48, sẽ tuân theo thường lệ phụng cống.’
“Ðiều này thấy được tấm lòng thành của viên Quốc vương thực đáng khen, nếu lại tiếp tục khước từ trả về thì không biểu đạt được tấm lòng thành kế thuật chức phận; nên bộ liên hệ được phép thu nhận phương vật kèm theo tờ biểu. Kỳ chính cống vào năm Càn Long thứ 48, được giảm một nữa đồ vật cống hàng năm. Từ nay trở về sau viên Quốc vương dâng biểu trần tạ, không cần phải chuẩn bị phẩm vật kèm theo biểu văn, để đáp ứng với tấm lòng nhu viễn với người xa xôi của Trẫm. Lệnh viên Tổng đốc Ba Duyên Tam truyền đạt cho viên Quốc vương thi hành; cùng bộ liên hệ được hiểu rõ.” (Thanh Thực Lục, Cao Tông Thực Lục quyển 1151, trang 3-4)
Trước đây vào tháng 11 năm Cảnh Hưng thứ 41 [26/11-25/12/1780], Chúa Trịnh Sâm họp bầy tôi trong triều làm văn thư gởi sang Tổng đốc Vân Quý Phú Cương để mong đòi lại phần đất bị mất vào tỉnh Vân Nam; tỉnh này đặt tên mới vùng đất chiếm được là Mãnh Lạt, Mãnh Lại, thuộc Lục Mãnh. Viên Tổng đốc viết thư phản đối để trả lời An Nam; nhưng Vua Càn Long cho rằng còn có vài chổ chưa hợp, nên đã sai Quân cơ đại thần sửa lại thư trả lời:
“Ngày 13 Ðinh Mùi tháng 9 năm Càn Long thứ 47 [19/10/1782]. Lại dụ:
Phú Cương tâu rằng ‘ Nước An Nam gửi một văn thư trong đó xưng rằng du dân nội địa [Trung Quốc] hỗn độn vượt biên, chiếm giữ đất biên giới, rồi đổi tên cho lệ thuộc vào nội địa, nên xin phân hoạch biên giới. Hiện tại đã nghĩ ra bản thảo thư trả lời, cùng thông sức các quan trấn thủ biên giới lưu tâm tra xét.’
Cứ làm như vậy đi; về việc nước An Nam làm bầy tôi thờ bản triều vốn được coi là cung thuận, nay nhân thổ dân nước này đặt điều để trốn thuế, bảo rằng du dân nội địa chiếm đất đổi tên rồi cho vào nội địa, thì đáng bác bỏ. Duy trong bản thảo nghĩ ra để gửi cho viên Quốc vương, có vài chổ chưa hợp, nên đã sai Quân cơ đại thần sửa lại thư trả lời như sau:
‘ Cứ lời trình của viên Quốc vương khai rằng Thập Châu (9) thuộc An Tây (10) đường sá xa xôi, nhân sau cơn binh lửa, dân nội địa thừa cơ hội trà trộn vượt chiếm nhận đất thuộc Quảng Lăng, Lai Châu đổi tên thành Mãnh Lạt, Mãnh Lại, rồi cho lệ thuộc vào nội địa. Nên đợi đến mùa mát, sai người đến Thập Châu, tìm bắt phạm nhân giải tống sang, điều tra ra vùng đất biên giới chưa rõ ràng đáng được hoạch định lại.
‘ Lời nói thật không hiểu sự thể! An Nam tiếp giáp với phủ Lâm An, biên giới trong ngoài đã rõ ràng, không có sự lộn xộn. Còn đất Lục Mãnh nhập vào bản đồ đến nay đã đến một trăm mấy chục năm xa xôi, ngạch lương các trại còn sổ sách có thể kê cứu, không thể trộn vào đất Di do nước ngươi quản lãnh. Vả lại địa giới nước ngươi nếu chưa rõ ràng, do tại thổ dân nước người đặt điều để mong ẩn lậu tô thuế tại nước ngươi, chỉ đáng tra hạch trong nội bộ, không nên hướng nội địa xin hoạch định địa giới.
‘Nay nước ngươi xin những điều khó nghe như vậy, giai do tại nơi hoang dã, không hiểu lễ pháp qui định. Bản bộ đường nếu cứ thực tình mà tâu, đưa lên bộ bàn, sẽ kết tội nước ngươi vượt phận nói xàm. Nghĩ đến việc nước ngươi vốn xưng cung thuận, nên không trình tấu ngay. Nay đem sổ hộ tịch chép về biên giới, ghi rõ các trại do Lục Mãnh [ 六猛 ]quản hạt để bảo cho biết, biên giới tỉnh Vân Nam đã được thiên nhiên phân chia, không có chỗ nào là không rõ ràng; nên cái việc nước ngươi xin phân hoạch là điều mạo muội. Ví thử có những chỗ không ghi tại bản thư tịch này, chỉ mạo danh bày đặt ra, cái mà thổ dân các ngươi xưng là đất nội phụ, thông đồng với dân gian nội địa tại đó gây chuyện hỗn độn, thì viên Quốc vương hãy lấy tên rồi tìm bắt, phân biệt giải tống; căn cứ vào đó Bản bộ viện chuyển đạt lên bộ, để chiếu theo luật mà trừng trị.
‘Từ nay trở về sau viên Quốc vương cần tỏ ra cung kính, cẩn thận giữ chức Phiên phong, chớ riêng nghe lời Trấn mục rồi trình lên một cách sơ suất, vi phạm đức ý của Thiên triều. Ðại Hoàng đế phủ ngự các nước ngoại Phiên, bao gồm đức và uy; Quốc vương được phong từ lâu, đối xử chung lòng nhân như tại nội địa; Quốc vương nên suy nghĩ nhiều để vĩnh viễn nhận quốc ân. Nay viết thư chiếu hội để Quốc vương tiện tra khảo biện lý.’
“ Viên Tổng đốc tuân theo bản thảo trên, chép nguyên văn gửi đi; lại thông sức các Trấn tướng quan chức nơi biên giới nghiêm mật điều tra quan sát, kinh lý ỗn thỏa. Mang dụ này theo độ khẩn 500 lý 1 ngày [250 km.] dụ để hay biết.” (Cao Tông Thực Lục quyển 1164, trang 39-41)
Chú thích:
1.Binh lính tam phủ: Theo “Binh chế chí” trong Lịch triều hiến chương của Phan Huy Chú, thì từ năm Thận Đức, Hoằng Định (1600-1618) trở về sau, định chế độ quân lính: Các quân lính đóng ở kinh thành để chầu chực bảo vệ chuyên dùng lính ba phủ thuộc Thanh Hóa và 12 huyện thuộc Nghệ An. Có lẽ vì thế nên lính Thanh Nghệ gọi chung là Tam phủ.
2.Thang mộc: Nghĩa là tắm gội. Đất “thang mộc” là đất Thiên tử phong cho các chư hầu, để làm nơi cung đốn việc tắm gội. Do đó, đất “thang mộc” dùng để chỉ quê hương của Vua Lê, Chúa Trịnh tại Thanh Hoá.
3.Nguyên văn “đan thư thiết khoán“: Tức văn thư viết bằng son, khoán ước chế bằng sắt, đời cổ dùng ban cho bầy tôi có công, để truyền cho con cháu được miễn tội.
- Chùa Khán Sơn: Ở trên núi Khán Sơn, trong thành Hà Nội, chùa ấy nay đã bỏ.
- Đội Tiệp Bảo: Đội thân binh hầu hạ.
- Không đầu sắc lệnh: Sắc lệnh ban các chức như Tri sự, Phó sở, Thiên hộ, Bá hộ; riêng họ tên người được sắc lệnh ấy vẫn để trống, nên gọi là sắc lệnh không đầu.
7.Nguyễn Huỳnh Đức: Nguyên họ Huỳnh, được đổi sang họ nhà Vua là Nguyễn, nên xưng là Nguyễn Huỳnh Đức.
- Hoắc quì: rau của người nghèo ăn; đây là câu nói khiêm, chỉ vật không đáng quí.
- Thập Châu: Khâm Ðịnh Việt Sử Thông Giám Cương Mục, tập 2, trang 681, chú thích Thập Châu gồm: Chiêu Tấn, Quỳnh Nhai, Lai Châu, Ninh Biên, Quảng Lăng, Hoàng Nham, Hợp Phì, Lễ Tuyền, Khiêm Châu và Tuy Phụ. Nay 4 châu Chiêu Tấn, Quỳnh Nhai, Lai Châu và Ninh Biên thuộc Hưng Hóa; 2 châu Quảng Lăng và Hoàng Nham thuộc Vân Nam [Trung Quốc] ; 4 châu Hợp Phì, Lễ Tuyền, Tuy Phụ và Khiêm Châu không khảo cứu được.
10.An Tây: phủ An Tây thuộc Hưng Hóa.