
Hồ Bạch Thảo
Tháng 9 năm Cảnh Hưng thứ 41 [28/9-27/10/1780], (Thanh, năm Càn Long thứ 45), Trịnh Sâm bắt giam và truất bỏ ngôi con trưởng là Khải [còn có tên là Tông]. Khải, là con Dương thị, một phi tần trong phủ chúa. Theo lệ cũ, con Chúa cứ đến 7 tuổi, cho ra ở nhà riêng để học, nếu là con trưởng thì đến 13 tuổi cho mở phủ đệ và được phong làm Thế tử. Nhưng Sâm cho rằng Khải không phải do vợ cả sinh ra, nên không yêu quý, dùng Nguyễn Phương Đĩnh, Hoạn quan, làm Bảo phó chăm sóc Khải. Lúc Khải đã 9 tuổi mới cho đi học, sai Nguyễn Khản và Lý Trần Thản làm Tả tư giảng và Hữu tư giảng. Chưa được bao lâu, Trần Thản mất, Nguyễn Khản cũng ra trấn thủ Sơn Tây, nên sai Khải đến ở nhà riêng Nguyễn Phương Đĩnh, thỉnh thoảng theo lễ tiết vào phủ đường triều yết mà thôi. Viên quan Ngự sử là Nguyễn Thưởng và Vũ Huy Đĩnh trước sau nhiều lần xin với Sâm về việc lập Thế tử, đều bị giáng chức. Sau vì Đặng Thị Huệ, một thị nữ được yêu nuông, sinh con là Cán, Sâm rất yêu quý, sách phong Đặng Thị là Tuyên Phi. Đặng Thị tự gây dựng bè đảng, bên ngoài nương nhờ Hoàng Đình Bảo trợ giúp, ngầm có ý dành ngôi Thế tử cho con.
Khải không được yên tâm; lúc Sâm có bệnh, nhiều lần Khải đến phủ Chúa để thăm hỏi, thường bị quân giữ cửa ngăn cản, không được vào. Ngoài phủ đường có lời phao đồn là Sâm bị bệnh nặng; Khải bèn bàn mưu với gia thần là Đàm Xuân Thụ rằng: “Vương thượng mắc mệnh mà ta không được vào chầu, nếu xảy ra biến cố như việc tên Cao, tên Tư đã làm ngày trước (1), thì toan tính thế nào?”. Bọn Xuân Thụ xin bí mật chứa sẵn binh khí, chiêu mộ dũng sĩ, nếu một ngày kia trong phủ đường có sự không lành, thì đóng cửa thành lại, giết Đình Bảo, bắt giam Đặng Thị, rồi phi báo cho quan hai trấn Sơn Tây, Kinh Bắc đem quân vào hộ vệ, thì ngôi Chúa có thể vững vàng được. Khải cho lời bàn ấy là đúng, bèn ngầm vay Nội thị Chu Xuân Hán 1.000 lạng bạc, để nuôi dũng sĩ và sắm khí giới. Nguyễn Khản trấn thủ Sơn Tây, từng giữ chức Tư giảng cho Khải, Nguyễn Khắc Tuân trấn thủ Kinh Bắc, là con nuôi Nguyễn Phương Đĩnh, cùng Khải vốn có tình thân mật, nay đều được mật báo, để họ sẵn sàng dự bị.
Ngô Thì Nhậm, Đốc đồng Kinh Bắc, trước kia, giữ việc giảng nghĩa sách cho Trịnh Khải, rất được Khải thân yêu kính trọng. Bấy giờ Hà Như Sơn, một tên học trò Thì Nhậm, hiện làm người giữ sách cho Khải; Như Sơn biết được việc này, bèn đem nói với Nhậm. Lại có Nguyễn Huy Bá, Cấp sự trung là người giảo hoạt thâm hiểm, vì tội tham ô bị bãi chức. Bá cho con dâu vào làm Thị tỳ hầu hạ Đặng Thị, lại sai người thân tín cầu cạnh làm hầu hạ Nguyễn Khắc Tuân, nên dò biết việc này, bèn vào phủ tố cáo với Đặng Thị. Ngô Thì Nhậm muốn phụ họa với Đặng Thị, bèn cùng Huy Bá hợp mưu cáo tố là Khải lén lút cấu kết với hai viên Trấn thủ, mưu toan làm việc trái phép. Sâm giận lắm, cho triệu Đình Bảo vào phủ bàn về việc này, ý Sâm muốn sai bắt trị tội ngay. Đình Bảo can rằng: “Khải dám làm việc to lớn này, chính do viên quan hai trấn ở Tây và Bắc chủ mưu, nay họ đều cầm quân ở ngoài nếu trị tội một cách vội vàng, e sẽ xảy ra biến cố khác. Vậy chi bằng trước hết triệu hai viên trấn thủ ấy về triều, rồi sau sẽ dần dà phát giác sự trạng để trị tội“. Sâm nhận là phải, bèn hạ lệnh triệu Nguyễn Khản Trấn thủ Sơn Tây, rồi cho triệu Nguyễn Khắc Tuân, trấn thủ Kinh Bắc. Khi Tuân đã về, bắt giam lại cùng với Nguyễn Khản và Nguyễn Phương Đĩnh, rồi sai Ngô Thì Nhậm cùng với hoạn quan là Phạm Huy Thức tham dự việc tra hỏi. Gặp lúc ấy, Thì Nhậm vì cha mất, từ chức về; nên sai Lê Quý Đôn tra hỏi lại, bọn Xuân Thụ nhận hết tội lỗi. Sâm bèn truất Khải xuống làm quí tử [con út], giam ở nội phủ. Bọn Xuân Thụ đều bị giết, Nguyễn Khản và Nguyễn Khắc Tuân bị giam vào ngục; Phương Đĩnh vì nuôi dưỡng Trịnh Khải nên bị lột hết chức tước đuổi về làng. Khắc Tuân và Chu Xuân Hán đều uống thuốc độc chết. Trịnh Khải đã bị phế, giữ trong ngôi nhà ba gian, ăn uống ra vào không được tự do, người ta đều lo ngại cho Khải, nhưng không ai dám nói. Trước kia, Ngô Thì Nhậm sắp phát giác tội của Khải, đem việc ấy bàn với cha là Ngô Thì Sĩ, Thì Sĩ cố sức can ngăn, đến nổi phải đem cái chết để thề với con, nhưng chung quy Nhậm vẫn không theo. Kịp khi nghe tin Nhậm đã phát giác việc ấy, Sĩ buồn bực, bèn uống thuốc độc tự tử; về phần Nhậm, vì có công phát giác, được thăng chức Hữu thị lang bộ Công. Bấy giờ trong dân gian có lời chê Nhậm rằng: “Sát tứ phụ nhi nhị lang“, nghĩa là giết 4 người cha để được lên chức Thị lang. Có thuyết cắt nghĩa rằng giết 4 người cha, gồm cha đẻ Ngô Thì Sĩ, và 3 bạn của cha [phụ chấp] là Nguyễn Khản, Nguyễn Khắc Tuân, Nguyễn Phương Đỉnh.
Tháng 11[26/11-25/12/1780], dân thiểu số nhà Thanh chiếm đất sáu châu ở phủ An Tây. Nguyên mười châu ở phủ An Tây thuộc Hưng Hóa, tiếp giáp với đất đai Vân Nam. Từ khi Hoàng Công Toản thua trận, chạy sang nhà Thanh xin tá túc [1769], các châu Quảng Lăng và Hoàng Nham bị huyện Kiến Thủy thuộc phủ Khai Hóa, Vân Nam lấn chiếm. Triều đình nhiều lần tư giấy biện bạch, nhưng chưa được nhà Thanh trả lời. Đến nay, bầy tôi giữ trấn Hưng Hóa lại báo cáo về triều “Bốn châu Khiêm Châu, Tuy Phụ, Hợp Phì và Lễ Tuyền đều bị huyện Kiến Thủy xâm chiếm. Họ cứ thu thuế theo nóc nhà hiện có“. Chúa Trịnh Sâm họp bầy tôi trong triều làm văn thư gởi sang Tổng đốc Vân Quý [Vân Nam, Quý Châu] biện bạch để mong lấy lại đất. Nhưng sau đó, Trịnh Sâm bị bệnh mất, việc ấy bèn thôi; từ đấy, đất đai sáu châu, suốt thời nhà Lê không sao khôi phục lại được.
Tại miền Nam vào ngày Quý Mão tháng giêng [28/2/1780] Nguyễn vương Phúc Ánh chính thức lên ngôi Vương ở Sài Gòn. Văn thư đưa xuống gọi là chỉ truyền, sai phái gọi là chỉ sai, dùng ấn Đại Việt quốc Nguyễn chúa Vĩnh trấn chi bảo, nhưng vẫn theo niên hiệu nhà Lê.
Luận công tôn phù, thăng Đỗ Thanh Nhân làm Ngoại hữu phụ chính thượng tướng công; Ngoại tả Tống Phước Khuông, Nội hữu Tống Phước Lương, Nội tả Nguyễn Đình Thuyên, Tham nghị Trần Đại Thể, Lại bộ Hồ Đồng, Hộ bộ Trần Phước Giai, Lễ bộ Nguyễn Nghi, Binh bộ Minh (không rõ họ), Hình bộ Trần Minh Triết và các tướng sĩ đều được thăng thưởng theo thứ bực.
Ngày Tân tỵ tháng 3 [6/4/1780], Hoàng tử Cảnh sinh. Mẹ Cảnh là Tống thị, con gái Ngoại tả Tống Phước Khuông, năm Mậu tuất [1778-1779] Nguyễn vương làm lễ cưới, tấn phong Nguyên phi.
Tháng 4 [4/5-2/6/1780], sai Đỗ Thanh Nhân đánh phủ Trà Vinh chiếm được. Trước kia người Chân Lạp hằng năm tuân nộp thuế ; gặp thời loạn lạc, Tù trưởng là Ốc Nha Suất mưu làm phản. Nơi này rừng sâu chằm lớn, rậm rạp um tùm, Suất dựa địa thế hiểm trở để chống, quan quân đánh không được. Vương bèn sai Đỗ Thanh Nhân đốc chiến, Dương Công Trừng phụ tá. Công Trừng sai các quân dùng vòng sắt móc liền các chiến thuyền với nhau, bắc sàn ở trên, kèm dựng cây chuối để đỡ tên đạn, nhân nước thủy triều lên cho thuyền ép sát lũy để đánh; giặc mất thế hiểm, bỏ chạy. Thanh Nhân đem quân tinh nhuệ đuổi đánh, chặt phá cây rừng, mở thông đường lối, lại đặt phục binh trong rừng, bốn bề nổ súng. Suất cùng đường bị quan binh bắt được. Thanh Nhân chiêu dụ dân chúng trở về làm ăn; Trà Vinh được yên.
Tháng 6 [2/7-30/7/1760], sai Cai cơ là Sâm và Tĩnh sang Xiêm để giao hảo. Gặp lúc thuyền buôn Xiêm từ Quảng Đông trở về đến biển Hà Tiên, bị lưu thủ Thăng giết và cướp hết của cải; vua Xiêm giận, đem Sâm và Tĩnh giam vào ngục. Lại có người Chân Lạp nói gièm với vua Xiêm rằng Gia Định đã gửi mật thư bảo Tôn Thất Xuân và Mạc Thiên Tứ làm nội ứng, mưu lấy thành Vọng Các. Vua Xiêm rất ngờ, liền bắt hết mọi người để tra hỏi. Con Thiên Tứ là Mạc Tử Duyên hết sức cãi, cho là chuyện vu cáo, bị vua Xiêm đánh chết. Thiên Tứ tự tử; Tôn Thất Xuân cùng Sâm, Tĩnh và quyến thuộc của Thiên Tứ cộng 53 người đều bị hại. Nhân dân nước ta ngụ ở Xiêm đều bị dời hết ra nơi biên thùy.
Tháng 7 [31/7-29/8/1780], đôn đốc đóng binh thuyền. Đỗ Thanh Nhân sai thủy quân lấy gỗ kiền kiền để đóng thuyền trường đà [bánh lái dài] hai tầng, trên gác đặt sàn chiến đấu, tầng dưới thủy binh chuyên sức mà chèo. Do đó đi biển thuận lợi, mà sở trường thủy quân càng tinh thêm.
Tháng 10 năm Cảnh Hưng thứ 42 [16/11-14/12/1781], (Thanh Càn Long thứ 46); tại miền Bắc Trịnh Sâm lập người con nhỏ là Trịnh Cán làm Thế tử. Cán mắc bệnh từ khi còn bế ẳm, chân tay và thân thể gầy mòn, thuốc thang đều trị mấy năm vẫn không khỏi. Từ khi Khải bị tội, bệnh của Cán ngày một bớt dần, đậu mùa qua khỏi, Sâm lấy làm vui vẻ. Bầy tôi chúc mừng, đều khuyên Sâm nên sớm lập làm người nối nghiệp, để thống nhất lòng người, Sâm theo lời. Mẹ Sâm là Trịnh Thái Phi nói với Sâm rằng:
“Khải với Cán đều là cháu của già này, nhưng già nghĩ cháu Khải đã trưởng thành, mà cháu Cán còn nhỏ tuổi lại quặt quẹo luôn, già mong vương thượng coi tôn miếu xã tắc làm trọng hơn, hãy để trống ngôi kế tự, ngõ hầu Khải có lòng răn chừa; nếu không thế thì đợi khi Cán đến tuổi trưởng thành cũng chưa có gì là muộn“.
Sâm nói:
“Việc lớn nhà nước, chỉ cốt phó thác được người xứng đáng, nếu bệnh của Cán vẫn không khỏi, thì thà rằng lập Bồng, để trả lại cơ nghiệp cho ngành cả của nhà bác (2), chứ không đành lòng phó thác cho đứa con bất hiếu làm gì!”.
Vì thế Thái phi không nói lại nữa; Sâm bèn tâu nhà Vua xin lập Cán làm Thế tử, lúc ấy Cán mới 5 tuổi. Sâm dùng Huy quận công Hoàng Đình Bảo làm A bảo để nuôi dưỡng giúp đỡ Cán. Sâm mắc bệnh trĩ, ở nhà kín không ra ngoài; Đặng Thị Huệ ở trong cung xếp đặt mọi việc, bè đảng đều giữ địa vị trọng yếu.
Tại miền Nam vào tháng 3 [25/3-23/4/1781], Đỗ Thanh Nhân bị giết. Thanh Nhân cầm quân Đông Sơn, thường có ý vượt quyền; cậy mình có công tôn phù, lòng kiêu ngạo càng tăng. Chưởng cơ Tống Phước Thiêm nói riêng với Nguyễn vương:
“Thanh Nhân lòng muốn theo Mãng Tháo (3), không thể để được. Nếu dùng đến kế mà trừ thì chỉ một tay võ sĩ cũng đủ”.
Nguyễn vương cho là phải, bèn giả cách ốm rồi vời Thanh Nhân vào bàn việc. Vệ sĩ nhân đó bắt giết, rồi tuyên bố tội trạng của Thanh Nhân và tha tội cho các tướng hiệu dưới quyền. Sai chưởng Thủy dinh là Hoảng lãnh bộ binh, Phước Thiêm lãnh thủy binh, rồi chia quân Đông Sơn ra làm bốn quân, sai Lê Văn Quân coi Tiền quân, Vũ Doãn Triêm coi Hữu quân, Tống Phước Lương coi Tả quân, Trương Văn Bác coi Hậu quân. Thanh Nhân chết rồi, đồ đảng phần nhiều trốn đi Ba Giồng [Định Tường], Vương sai chiêu dụ, nhưng đều chống cự.
Thống nhung trấn Bình Thuận Nguyễn Văn Hoằng và Lễ bộ Nguyễn Nghi đều ốm chết; sai Tôn Thất Dụ coi trung quân, tiết chế bộ binh để trấn giữ Bình Thuận. Thăng chức cho Chu Văn Tiếp làm Khâm sai đô đốc chưởng cơ quận công, trông coi tướng sĩ và binh dân ở Phú Yên.
Tháng 5 [23/5-21/6/1781], Vương sai duyệt số quân các dinh thủy bộ, không dưới 3 vạn người; thuyền đi biển 80 chiếc, thuyền chiến lớn 3 chiếc, tàu tây 2 chiếc, bèn cử đại binh đánh Tây Sơn. Sai tiết chế Tôn Thất Dụ đem bộ binh ở Bình Thuận, Chưởng cơ Tống Phước Thiêm, Nguyễn Hữu Thụy và Dương Công Trừng đem thủy quân ở Gia Định cùng tiến đi. Bọn Dụ đến Nha Trang và Hòn Khói [tỉnh Khánh Hòa] cùng Chu Văn Tiếp hợp quân, đắp lũy đối diện quân địch. Thủy binh địch ít không dám ra đánh, bèn đem bộ binh bày trận, voi chiến rất nhiều; quân ta thấy thế lùi, Văn Tiếp không ngăn cản nổi, bèn lùi giữ núi Trà Lang [tỉnh Phú Yên]. Vừa lúc đó, ở Gia Định thuộc tướng Đông Sơn gây biến, bọn Dụ đều rút quân về.
Tháng 5 nhuận [22/6-20/7/1781], thuộc tướng quân Đông Sơn là Võ Nhàn và Đỗ Bảng giữ đất Ba Giồng [Định Tường] làm phản. Nguyễn vương sai Nguyễn Đình Thuyên và Tống Phước Lương chia đường tiến đánh. Phước Lương đánh ở sông tại thôn Lương Phú bị thua; Thống binh cai cơ Tống Văn Phước chết trận.
Vương bãi chức Phước Lương; rồi tăng thêm quân hợp đánh. Lại sai Cai cơ Nguyễn Văn Quý và Phan Văn Huyên giả nhập bọn với giặc, bắt được tên Nhàn tên Bảng giết đi, dư đảng đều dẹp yên.
Đổi tên dinh Trường Đồn [Định Tường] làm dinh Trấn Định.
Tháng 10 [16/11-14/14/1781], Xiêm La sai tướng là Chất Tri và Sô Si xâm lấn nước Chân Lạp. Vua Chân Lạp Nặc ấn, đem sự việc báo lên.
Về phía nhà Thanh, năm nay Cống sứ An Nam đến kinh đô tiến cống; nhưng vào dịp hè Vua Càn Long tránh nóng tại hành cung Nhiệt Hà [Thừa Đức, tỉnh Hà Bắc], nên sai quan đưa Cống sứ đến gặp tại hành cung:
“Ngày 7 Kỷ Mão tháng 5 năm Càn Long thứ 46 [29/5/1781]. Lại dụ:
Năm nay Cống sứ An Nam đến kinh đô. Lệnh cử một Ðường quan thuộc bộ lễ đưa đến Nhiệt Hà làm lễ chiêm cận, sau đó sai Cống sứ trở về nước.” (ThanhThực Lục, Cao Tông Thực Lục quyển 1130, trang 17)
Vào tháng 7 lúc Cống sứ trở về, nếu theo đường cũ lúc đến, phải băng qua Vận Hà (4), bấy giờ có thể gặp mưa lụt. Do đó Vua Càn Long tiên liệu nếu qua Vận Hà bị cản trở, thì cho Cống sứ theo đường từ Bắc Kinh, xuống Hà Nam, Hồ Bắc, Hồ Nam, Quảng Tây để trở về nước:
“Ngày 22 Nhâm Tuất tháng 7 năm Càn Long thứ 46 [9/9/1781]. Lại dụ:
Hiện cứ theo lời bộ lễ lãnh việc dẫn dắt Sứ thần An Nam, đã đến hành lễ tạ ơn, sau lễ xong lệnh trở về nước. Lúc bọn Sứ thần đến kinh đô theo đường thủy từ Hồ Nam, lần lượt đến Hồ Bắc, Giang Nam [Giang Tô, An Huy], Sơn Ðông. Hiện nay tại các huyện như Tao Ðơn thuộc tỉnh Sơn Ðông, nước lụt từ sông Hoàng Hà đổ xuống, Vận Hà [運河] nước lớn, đường bị ngập, thuyền đi qua không phải không gặp trở ngại.
Nay truyền lệnh cho Quốc Thái, nếu thủy trình trên Vận Hà không bị cản trở, nơi đi qua không quá hoang vu thê lương, thì cứ tâu sự thực; để lệnh cho Cống sứ theo đường cũ trở về. Nếu thủy trình tại Vận Hà thuộc tỉnh Sơn Ðông bị cản trở, thôn trang hai bên đường bị ngập, chiêm ngưỡng quang cảnh có phần bất tiện; bất nhược cho sứ giả đi đường bộ từ Từ Châu Trực Lệ vào tỉnh Hà Nam, đến Tương Dương, tỉnh Hồ Bắc; rồi lại theo thủy trình tiếp tục thì ỗn thỏa hơn.
Lại truyền lệnh cho Phú Lặc Hồn họp với Quốc Thái ước lượng chi tiết tình hình, rồi tâu lên.” (ThanhThực Lục, Cao Tông Thực Lục quyển 1137, trang 23)
Chú thích:
1.Cao, Tư: Thời đại Tần Thủy Hoàng, Triệu Cao giữ chức lang trung lệnh, Lý Tư giữ chức tả thừa tướng. Khi Thủy Hoàng đi tuần du, đem người con nhỏ được cưng chiều là Hồ Hợi đi theo, rồi Thủy Hoàng bị bệnh mất ở Sa Khâu, Triệu Cao bàn với Lý Tư lập Hồ Hợi làm vua mà phế truất thế tử là Phù Tô.
- Ngành cả của nhà bác: Trịnh Giang là con trưởng Trịnh Cương, khoảng năm Vĩnh Hựu (1735-1739) Giang có bệnh, nên em là Trịnh Doanh tự lập làm Chúa. Trịnh Bồng là con Trịnh Giang, tức thuộc ngành cả của nhà bác.
- Mãng, Tháo: tức Vương Mãng và Tào Tháo là hai gian thần ở đời Tây Hán và Đông Hán.
4 Đại Vận Hà: dài 1794 km, phía bắc từ Bắc Kinh, nam đến Hàng Châu; qua các tỉnh Hà Bắc, Sơn Ðông, Giang Tô, Chiết Giang.