Lý giải lại cuộc chiến thảm khốc nhất của Hoa Kỳ

Michael Lind
Trần Quang Nghĩa dịch
CHƯƠNG 5 : NHỮNG HUYỀN THOẠI
Huyền thoại về những cơ hội bị bỏ lỡ
Quan điểm cho rằng Hoa Kỳ đã bỏ lỡ cơ hội thiết lập quan hệ tốt đẹp với các nhà độc tài theo chủ nghĩa Marx-Lenin là một trong những mô típ dân gian quen thuộc của thần thoại tổng hợp của cánh tả Mỹ từ năm 1917 đến năm 1989. Tất cả những truyện ngụ ngôn về cơ hội bị bỏ lỡ sau này đã được mô phỏng theo huyền thoại gốc về việc nước Mỹ bỏ qua cơ hội kết bạn với Liên Xô trong những năm sau Thế chiến thứ nhất. Chuyện là người Mỹ bỏ lỡ một cơ hội tạo dựng mối quan hệ mang tính xây dựng với Lenin và các đồng chí Bolshevik của ông khi Tổng thống Wilson gửi quân đội Hoa Kỳ tới Siberia trong một nỗ lực sai lầm là nhằm giúp quân đội Bạch vệ đánh bại quân cộng sản. Trên thực tế, nhiệm vụ chính của quân đội Hoa Kỳ ở Viễn Đông Nga là bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ của Nga trước mối đe dọa có thể xảy ra từ Nhật Bản, lúc đó là đồng minh trên danh nghĩa của Hoa Kỳ. Điều này được Lenin hiểu rõ, người đã nói với Ban Chấp hành Trung ương vào tháng 5 năm 1918 rằng “một cuộc xung đột không thể tránh khỏi sẽ nảy sinh giữa Nhật Bản và Mỹ để giành quyền thống trị ở Thái Bình Dương và các bờ biển của nó. Lợi ích xung đột giữa hai nước đế quốc, hiện được che chắn bởi một liên minh chống Đức, ngăn chặn sự phát triển của chủ nghĩa đế quốc Nhật chống Nga.”
Trong suốt những năm 1960 và đầu những năm 1970, chủ đề cơ hội bị bỏ lỡ đã được các nhà bênh vực chủ nghĩa cộng sản Trung Quốc tái sử dụng, chẳng hạn như nhà sử học người Mỹ Barbara Tuchman. Trong cuốn sách được ca ngợi rộng rãi có tựa đề The March of Folly: From Troy to Vietnam (Cuộc hành quân điên rồ: Từ thành Troy đến Việt Nam) (1985), Tuchman lập luận rằng lẽ ra Hoa Kỳ nên xoa dịu cả Mao Trạch Đông và Hồ Chí Minh. Trong một bài tiểu luận trên tạp chí Đối ngoại có tựa đề “Nếu Mao đến Washington vào năm 1945”, Tuchman chỉ trích Franklin Roosevelt vì đã không lắng nghe những người ngưỡng mộ cộng sản Trung Quốc như nhà ngoại giao Hoa Kỳ John Stewart Service và vì đã không đứng về phía Mao đáng khen để chống lại Tưởng Giới Thạch xấu xa. “Vậy mà chúng ta lại lặp lại mô hình đó ở Việt Nam,” Tuchman phàn nàn, khi không đứng về phía những người Xta-lin-nit ở Hà Nội. Về Trung Quốc mà bà đến thăm vào mùa hè năm 1972, một quốc gia vẫn đang hồi phục sau cái chết bất thường của khoảng 30 người triệu người trong Bước Đại Nhảy Vọt một thập kỷ trước đó, Tuchman đã viết: “Ở một đất nước mà sự khốn khổ và thiếu thốn là nền tảng của cấu trúc xã hội, nạn đói diễn ra theo chu kỳ, chết đói là phổ biến, bệnh tật lan tràn, trộm cắp là chuyện bình thường, hối lộ và tham nhũng được coi là đương nhiên, mà Trung Quốc cộng sản loại bỏ được các điều kiện này thì quả là nổi bật đến nỗi những khía cạnh tiêu cực của nền cai trị mới trở nên lu mờ, không có gì quan trọng.”
Vào ngày 7 tháng 3 năm 1975, 38 thành viên Hạ viện Hoa Kỳ đã viết cho Tổng thống Ford một lá thư giận dữ phàn nàn rằng, viện trợ thậm chí còn hạn chế mà Hoa Kỳ lại cung cấp viện trợ cho các chế độ phi cộng sản ở Đông Dương quá hào phóng: “Như nhà sử học nổi tiếng Barbara Tuchman đã viết về những nỗ lực tương tự của Hoa Kỳ nhằm khôi phục chế độ Tưởng Giới Thạch: ‘Cuối cùng, Trung Hoa Dân Quốc đã đi theo con đường riêng của mình như thể người Mỹ chưa bao giờ đến.’ Theo nghĩa tương tự, Campuchia và Nam Việt Nam sẽ đi con đường riêng của họ; và tại thời điểm này người dân Mỹ đã tuyên bố rõ ràng rằng họ không trì hoãn sự quan tâm đến tiến trình này.” Được giảng dạy bởi Barbara Tuchman, người ngưỡng mộ Mao, những thành viên phản chiến này của Quốc hội hy vọng Mỹ không bỏ lỡ cơ hội kết thân với Khmer Đỏ.
Huyền thoại về phe thân châu Á
Liên quan chặt chẽ đến huyền thoại về cơ hội bị bỏ lỡ ở Trung Quốc là lời tuyên bố rằng cuộc thanh trừng “phe thân châu Á” trong Bộ Ngoại giao thời McCarthy diễn ra sau chiến thắng của cộng sản Trung Quốc do Liên Xô hỗ trợ vào năm 1949 đã tước đi khỏi chính quyền Hoa Kỳ các chuyên gia về châu Á đủ khôn ngoan để nhận ra rằng chống lại Mao Trạch Đông và Hồ Chí Minh là việc điên rồ. Trong cuốn The Best and the Brightest (1972), David Halberstam phổ biến lập luận rằng Hoa Kỳ đã bỏ lỡ cơ hội làm bạn với Mao Trạch Đông:
Nếu sự phân rã và xói mòn của lực lượng Tưởng là một động lực lịch sử thì sự trỗi dậy của nước Trung Quốc mới cũng vậy. Được tạo ra để đáp ứng lại tất cả những căn bệnh chính trị xung quanh nó, nó phản ánh một nỗ lực mới và quyết liệt nhằm khai thác tài nguyên của vùng đất rộng lớn và chưa được khai thác đó. Những người Cộng sản đang trỗi dậy từ đống tro tàn của Trung Quốc cũ, và họ hoàn toàn trái ngược với những gì đã tồn tại trước đó. Họ có động cơ mạnh mẽ, gần như nghiêm khắc và thuần khiết trong thái độ của họ với thế giới, quan điểm của họ về nạn tham nhũng. Trên chính đại lục, một nhóm quan chức trẻ xuất sắc của Bộ Ngoại giao đang báo cáo các sự kiện một cách sâu sắc.
Bất chấp tuyên bố của Halberstam về tính tất yếu (được củng cố bằng các ẩn dụ địa chất như “phân rã” và “xói mòn”), không có gì là không thể tránh khỏi về việc những người cộng sản phụ thuộc vào Stalin tiếp quản một quốc gia đông dân nhất thế giới này. Chiến thắng của những người cộng sản Mao trước những người Quốc dân đảng của Tưởng Giới Thạch năm 1949 là kết quả của một số yếu tố: sự suy yếu của chế độ Quốc dân đảng do cuộc chiến tranh với Nhật Bản, quân đội của Tưởng sai lầm ngớ ngẩn, quyết định của chính quyền Truman cắt giảm tổn thất của mình ở Trung Quốc – và có lẽ quan trọng nhất là viện trợ quân sự khổng lồ và hỗ trợ hậu cần do Liên Xô cung cấp. Đây không phải là một nỗ lực hợp lý để “khai thác các nguồn tài nguyên” của Trung Quốc, chủ nghĩa cộng sản Trung Quốc, giống như mô hình Liên Xô của nó, là một tín ngưỡng điên rồ gây ra nạn đói hàng loạt và tàn phá sinh thái. Hơn nữa, những người cộng sản Trung Quốc “nguyên thủy và thuần túy”, giống như các danh pháp Mác-Lênin khác, khi nắm quyền đã nhanh chóng biến thành một bọn mafia tham nhũng, gần như cha truyền con nối.
Halberstam ca ngợi John Paton Davies và John Stewart Service là quan chức ngoại giao Mỹ “nổi bật nhất;” “Họ là những người giỏi nhất trong thời đại và Bộ Ngoại giao không đào tạo ra nhiều người xuất sắc hiếm có như vậy.” Theo Halberstam, “Các quan chức ngoại giao trẻ của Mỹ đã cảnh báo rằng chúng ta phải chấp nhận sự thất bại của phe phái của Tưởng. Đó là một câu chuyện sẽ lặp lại ở Việt Nam.” Năm 1979, Halberstam, trong nỗ lực bào chữa cho nhiều sai sót về thực tế của nhóm nhà báo ở Sài Gòn mà ông là thành viên, đã tuyên bố rằng “việc đưa tin chính trị của họ bị hạn chế do thiếu vắng các chuyên gia châu Á có chuyên môn nghiêm túc tại đại sứ quán Mỹ. Thời đại McCarthy đã gây ra tình trạng đó.”
Những tay thân châu Á hàng đầu không phải là điệp viên cộng sản, như những nhà mị dân như McCarthy đã tuyên bố, nhưng không nghi ngờ gì một số họ là những kẻ cả tin bị ăn bả tuyên truyền của cộng sản Trung Quốc. John Stewart Service, đưa tin từ Diên An do cộng sản kiểm soát vào ngày 8 tháng 9 năm 1944, tuyên bố rằng những người cộng sản của Mao tương đương với Đảng Lao động Anh ở Trung Quốc: ” Đảng Cộng sản trở thành một đảng tìm kiếm sự phát triển dân chủ có trật tự hướng tới chủ nghĩa xã hội, như đang được nỗ lực thực hiện, chẳng hạn, ở một đất nước như Anh, thay vì một đảng xúi giục cách mạng bạo lực và trực tiếp . . . Chương trình chính trị của Cộng sản đơn giản là dân chủ. Điều này giống Mỹ hơn Xô Viết về hình thức và tinh thần.” Một trong những anh hùng khác của Halberstam, nhà ngoại giao John Paton Davies, trong một báo cáo từ Diên An vào ngày 7 tháng 11 năm 1944, có tựa đề “Những người Cộng sản Trung Quốc đỏ như thế nào?” đã mô tả họ là “những kẻ thoái trào”, những kẻ “ham muốn các vị thần kỳ lạ của sự thỏa hiệp giai cấp và liên minh đảng phái, thay vì tôn thờ đáng xấu hổ con bê vàng của đầu tư nước ngoài và khao khát được coi là đáng kính theo tiêu chuẩn thế giới.” Nhà sử học Michael Sheng nhận xét: “Dựa trên nhiều báo cáo khác nhau được viết bởi các sĩ quan Mỹ ở Trung Quốc, như John Service và John Davies, Mao có lý do chính đáng để tin rằng chính sách chiêu mộ người Mỹ để kiềm chế [Tưởng] của ông khá thành công. Ngày 13 tháng 7 năm 1943, Mao nói với Bành Đức Hoài rằng chiến dịch tuyên truyền của chúng ta đã đạt được kết quả tích cực.’ ” (Năm 1972, mười năm sau khi kết thúc Bước Đại Nhảy Vọt, trong đó có tới ba mươi triệu người Trung Quốc có thể đã chết đói vì chính sách cộng sản, Halberstam đã viết một cách tán thành trong cuốn The Best and the Brightest: “Davies nhấn mạnh rằng các nhà hoạch định chính sách Mỹ phải bỏ thói quen nhìn vấn đề chủ nghĩa cộng sản như một bài học đạo đức.”
Những ảo tưởng về chủ nghĩa Mác-Lê châu Á của các tay thân châu Á trong đoàn ngoại giao Mỹ được chia sẻ bởi nhiều người theo chủ nghĩa tự do ngây thơ ở Hoa Kỳ. “Họ có thể tự gọi mình một cách thích hợp hơn là những nhà dân chủ Trung Quốc,” tờ The New Republic nói về những người cộng sản Mao vào ngày 13 tháng 3 năm 1944. Cùng năm đó, Maxwell S. Stuart, biên tập viên của tờ The Nation, đã so sánh những người theo chủ nghĩa Stalin ở Trung Quốc “với các phong trào dân túy cơ sở đã xuất hiện trong lịch sử nước Mỹ.” Tờ New York Times, ngày 1 tháng 11 năm 1944, tuyên bố rằng những người cộng sản Trung Quốc – gần như liên lạc vô tuyến hàng ngày với Stalin và đã thiết lập các laogai (trại tập trung) đầu tiên trong lãnh thổ mà họ kiểm soát – “thực sự là những nhà cách mạng nông dân.” Sau này, thành tích của nhiều chuyên gia hàn lâm hàng đầu về Đông Á của Mỹ trong việc hiểu và đánh giá chủ nghĩa cộng sản châu Á cũng kinh khủng không kém. John K. Fairbank của Harvard, sinh viên có ảnh hưởng nhất về Trung Quốc tại Hoa Kỳ, đã mô tả nền cai trị của Mao, người hiện giờ được biết đến là đã hành quyết hoặc bỏ đói nhiều thần dân của mình hơn bất kỳ tên bạo chúa nào trong lịch sử, là “một trong những sự kiện tốt đẹp nhất từng xảy ra với Trung Quốc”; “tôi buộc phải xem ‘chủ nghĩa cộng sản’ là xấu cho Mỹ, nhưng là tốt cho Trung Quốc, điều tôi tin tưởng là đúng,” Fairbank viết. Warren I. Cohen, thường được mô tả là “trưởng khoa” nghiên cứu châu Á ở Hoa Kỳ, cho rằng chính quyền Truman đã bỏ lỡ cơ hội làm bạn với chế độ Mao – một tuyên bố mà một nghiên cứu gần đây đã bác bỏ. Cohen chỉ trích các nhà hoạch định chính sách đối ngoại của Mỹ vì không chịu tin rằng nhiều quốc gia sẽ trở nên tốt hơn dưới sự cai trị của cộng sản: “Vào giữa những năm 1960 , một số người theo chủ nghĩa tự do đã rũ bỏ chủ nghĩa phổ quát của mình và thừa nhận sự không phù hợp của nền dân chủ tự do và hệ thống hòa bình lấy châu Âu làm trung tâm đối với phần lớn châu Á và châu Phi. Họ kết luận, như những nhà tư tưởng cấp tiến hơn trước đây khá lâu, rằng chủ nghĩa chống Cộng là vô nghĩa khi chủ nghĩa Cộng sản có thể là giải pháp thay thế tốt nhất cho một dân tộc.” Ngày nay chính “những người theo chủ nghĩa tự do” và “những nhà tư tưởng cấp tiến” được Cohen ca ngợi – chứ không phải những người chống cộng theo chủ nghĩa tự do ở Mỹ vốn là mục tiêu chỉ trích của Cohen như Ngoại trưởng Dean Rusk. Cohen tin rằng chủ nghĩa Mác-Lê toàn trị là “sự thay thế tốt nhất” cho “phần lớn châu Á và châu Phi”, vốn trông có vẻ khờ khạo. Vào những năm 1960 và 1970, việc nghiên cứu học thuật về châu Á ở Hoa Kỳ đã bị chủ nghĩa McCarthy của cánh tả làm cho lệch lạc. Các chuyên gia Mỹ về châu Á vốn quá chỉ trích chủ nghĩa cộng sản có nguy cơ bị đồng nghiệp tẩy chay. Từ góc nhìn thuận lợi ngày nay, rõ ràng là nhiều người thân cộng mê châu Á và những kẻ ngưỡng mộ và là đồng minh của họ trong giới hàn lâm và báo chí Mỹ đã thể hiện “hội chứng thân chủ” – hội chứng ảnh hưởng đến các chuyên gia chính sách đối ngoại vốn đồng nhất mình về mặt tình cảm với một phe phái trong xứ sở mà họ đang nghiên cứu. “Sự thân thiết quá lớn có thể cản trở sự quan sát,” nhà khoa học chính trị Martin Wight từng nhận xét, “và không chỉ sự tham gia nghiên cứu dẫn đến kiến thức bị bóp méo, mà sự không tham gia gần như là một yếu tố cần thiết cho một quan điểm đúng đắn. Để đánh giá đúng, ta vẫn phải là người ngoài cuộc, cho dù có hiểu biết đến đâu.” Wight trích dẫn Lord Palmerston: “Khi tôi muốn có một thông tin sai lệch về một đất nước, tôi sẽ đi hỏi một người đã sống ở đó ba mươi năm.”
Huyền thoại về cơ hội bị bỏ lỡ ở Việt Nam
Trong Chiến tranh Việt Nam, cánh tả phương Tây một lần nữa tái hiện huyền thoại về cơ hội bị bỏ lỡ bằng cách thay thế Hồ Chí Minh cho Mao Trạch Đông và chủ nghĩa cộng sản Việt Nam cho chủ nghĩa cộng sản Trung Quốc. Giống như Hoa Kỳ bị cho là đã bỏ lỡ cơ hội làm bạn với Mao, thì nước này cũng bị cho là đã bỏ lỡ cơ hội làm bạn với Hồ. Việc Hoa Kỳ hợp tác với Hồ Chí Minh trong Thế chiến thứ hai được coi là bằng chứng cho thấy mong muốn đơn phương của Hồ Chí Minh về một mối quan hệ tốt đẹp với Hoa Kỳ. Những người đưa ra lập luận này thường bỏ qua thực tế là những người bảo trợ Hồ là Stalin và Mao cũng từng là đồng minh của Hoa Kỳ trong Thế chiến thứ hai. Bằng chứng sâu hơn về cơ hội bị cho là đã bị bỏ lỡ được tìm thấy trong đoạn trích dẫn của Hồ từ Tuyên ngôn Độc lập Hoa Kỳ trong bài phát biểu tuyên bố thành lập một nước Việt Nam độc lập vào năm 1945. Thực tế là tất cả các chế độ độc tài theo chủ nghĩa Mác-Lê đều có hiến pháp chính thức tự do và dân chủ như của Hoa Kỳ và các đồng minh dân chủ của nó lẽ ra đã đủ để gây nghi ngờ về khẳng định này.
Các đặc vụ của Cơ Quan Tình báo Chiến lược Hoa Kỳ (OSS) ở Đông Dương trong Thế chiến II đã từng tin vào sự ngưỡng mộ của Hồ đối với Hoa Kỳ cũng cả tin như nhiều quan chức ngoại giao Mỹ, sứ giả của tổng thống và các nhà báo đã gặp Mao trong Thế chiến thứ hai. Cả Mao và Hồ đều giả vờ thân Mỹ, miễn là họ tin rằng họ có thể giành được sự ủng hộ của Hoa Kỳ, hoặc ít nhất đảm bảo tính trung lập của Mỹ trong cuộc đấu tranh với những người theo chủ nghĩa dân tộc phi cộng sản ở nước họ. Cả hai đều nhanh chóng tố cáo Hoa Kỳ là nước đứng đầu chủ nghĩa đế quốc toàn cầu và phản động khi điều đó phục vụ cho mục đích của họ và cho chiến lược của khối cộng sản xuyên quốc gia. Trong khi có phe thân Liên Xô và thân Trung Quốc trong tập đoàn đầu sỏ cộng sản, dường như chưa bao giờ có phe thân Mỹ. Theo thời gian, các kho lưu trữ của cộng sản Việt Nam gần như chắc chắn sẽ chứng minh rằng tuyên bố của Hồ quan tâm đến sự trung lập thực sự giữa các khối, giống như Nam Tư của Tito, là một ảo tưởng của phe cánh tả phương Tây.
Ở một mức độ đáng chú ý, sự phỉ báng của phong trào chống Chiến tranh Việt Nam đối với các nhà độc tài phi cộng sản ở Đông Dương như Tổng thống Miền Nam Việt Nam Ngô Đình Diệm và Lon Nol ở Campuchia chỉ là tiếp nối lại sự phỉ báng Tưởng Giới Thạch của Trung Quốc bởi những người cánh tả Mỹ và những người tự do đồng hành với họ vào những năm 1940. Một nhà sử học viết: “Hình ảnh một chế độ tham nhũng, áp bức và suy tàn, đứng đầu là một nhà cai trị sô-vanh chống lại lời khuyên của Mỹ, là một yếu tố quan trọng dẫn đến việc Mỹ không sẵn lòng sử dụng lực lượng ở Trung Quốc thời hậu chiến.” Ngay cả thuật ngữ được người cộng sản Việt Nam sử dụng để phỉ báng Diệm, bọn Mỹ-Diệm, cũng là phiên bản biệt danh mà cộng sản Trung Quốc dùng để phỉ báng Tưởng, bọn Mỹ-Tưởng. Ngoài việc lặp lại những lời tố cáo Tưởng Giới Thạch trước đây của phe cánh tả, việc những người phe tự do Mỹ phỉ báng Diệm vào đầu những năm 1960 đã tái hiện những lời chỉ trích đối với nhà độc tài Hàn Quốc, Lý Thừa Vãn, trong một thập kỷ trước. “Những người theo chủ nghĩa tự do,” Frank Gibney viết vào năm 1945 trên tạp chí Harper’s, “…biến Lý thành hiện thân của sự thất bại của đất nước này trong việc đảm bảo ‘nền dân chủ thực sự’ cho thế giới phi Cộng sản, người chế nhạo công cuộc xây dựng hòa bình trung thực của Liên hiệp quốc, các chiến thuật ‘độc tài’ của ông ta gây thiệt hại cho chính nghĩa của Hoa Kỳ nhiều hơn là tiếp viện của không lực Nga.”
Huyền thoại về cuộc bầu cử của người Việt
Một trong những tuyên bố trọng tâm của những người chỉ trích Chiến tranh Việt Nam là lập luận rằng toàn bộ cuộc xung đột có thể tránh được giá như Hoa Kỳ gây áp lực lên miền Nam Việt Nam để cho phép cuộc tổng tuyển cử thống nhất hai miền Việt Nam vào năm 1956 mà phe cộng sản của Hồ Chí Minh chắc chắn giành được chiến thắng. Hội nghị Geneva năm 1954 đã đưa ra những quy định cho cuộc bầu cử toàn quốc như vậy. Nhưng với sự hỗ trợ của Hoa Kỳ, nhà dân tộc chủ nghĩa chống cộng Ngô Đình Diệm đã hạ bệ nhà cai trị lâm thời đầu tiên, Hoàng đế Bảo Đại do Pháp đặt lên ngôi, tự phong làm tổng thống và cai trị độc tài, và không đồng ý tổ chức tổng tuyển cử bầu cử toàn quốc. Vì vậy, người ta nói rằng cả chế độ của Diệm và Hoa Kỳ đều “vi phạm” Hiệp định Genève.
Ngược lại với huyền thoại của phong trào chống Chiến tranh Việt Nam, không một phe chủ yếu nào trong Chiến tranh Việt Nam – Bắc Việt, Nam Việt, Lào, Campuchia hay Hoa Kỳ tán thành Hiệp định Geneva. Nước Việt Nam (Miền Nam Việt Nam) chính thức độc lập với Pháp vào ngày 21/7/1954. Tính đến thời điểm diễn ra Hội nghị Geneva, nhà nước Việt Nam đã được hơn 30 nước và một số cơ quan của Liên hiệp quốc công nhận và được Đại hội đồng tán thành cho gia nhập Liên hiệp quốc. Như vậy Nam Việt Nam tham gia đàm phán Geneva với tư cách là một quốc gia có chủ quyền chứ không phải với tư cách là thuộc địa của Pháp. (Nếu sự phụ thuộc thực tế của Miền Nam Việt Nam vào Pháp và Hoa Kỳ được cho là làm giảm bớt chủ quyền pháp lý của mình, thì theo tiêu chuẩn tương tự, Bắc Việt phải được coi là thuộc địa trên thực tế của Trung Quốc và Liên Xô.)
Chính phủ Miền Nam Việt Nam đã sử dụng chủ quyền của mình để lên án các cuộc đàm phán của Pháp nhằm mục đích ràng buộc Miền Nam tại Geneva và lên tiếng bác bỏ điều khoản về cuộc bầu cử quốc gia: “Chính phủ Nhà nước Việt Nam… long trọng phản đối cách ký kết Hiệp định cùng những điều khoản không tôn trọng nguyện vọng sâu xa của dân Việt..” Thật vậy, ngày 20 tháng 7 năm 1955, ngày kỷ niệm Hiệp định Genève được coi là “ngày quốc nhục” ở Miền Nam Việt Nam. Năm 1956, khi Liên Xô và Trung Quốc tìm cách tổ chức cuộc bầu cử quốc gia bằng cách triệu tập hội nghị Geneva lần thứ hai, Anh đã trả lời – một cách chính xác, theo đúng luật quốc tế – rằng Miền Nam Việt Nam không có nghĩa vụ phải tổ chức bầu cử. Về phần mình, Hoa Kỳ chỉ “để ý” đến các thỏa thuận và hứa sẽ “tìm cách đạt được sự thống nhất thông qua các cuộc bầu cử tự do, được Liên Hiệp Quốc giám sát để đảm bảo rằng chúng được tiến hành một cách công bằng.” Bộ Ngoại giao sau đó đã chỉ ra rằng sự vắng mặt hoàn toàn của tự do chính trị ở Miền Bắc Việt Nam và sự độc quyền về quyền lực của Đảng Cộng sản đã khiến “không thể có bất kỳ biểu hiện có ý nghĩa và tự do nào của nguyện vọng nhân dân.” Ngay cả nếu Miền Nam Việt Nam là một nền dân chủ chứ không phải là một chế độ độc tài, kết quả của một cuộc trưng cầu dân ý toàn quốc sẽ là một chiến thắng cho cộng sản, vì lý do đơn giản là cộng sản Bắc Việt có nhiều dân hơn Miền Nam phi cộng sản. Những người chỉ trích nỗ lực của Hoa Kỳ tại Việt Nam thường xuyên trích dẫn sai ý của Eisenhower cho rằng Hồ có thể thắng bất kỳ cuộc bầu cử quốc gia nào. Điều Eisenhower thực sự đã nói trong cuốn Mandate of Change (Mệnh Lệnh cho Sự Thay Đổi) (1963) là rằng “nếu các cuộc bầu cử được tổ chức vào thời điểm chiến tranh [năm 1954], có thể 80 phần trăm dân số đã bỏ phiếu bầu Hồ Chí Minh Cộng sản làm lãnh đạo của họ chứ không phải là Quốc trưởng Bảo Đại.” Không có bằng chứng nào hỗ trợ cho lập luận rằng đa số người dân Miền Nam Việt Nam vào giữa những năm 1950 hoặc 1960 muốn có sự cai trị của chủ nghĩa Stalin, bất chấp sự hiện diện của một thiểu số cộng sản lớn ở miền Nam.
Ngay cả những người ủng hộ Hồ Chí Minh nhiệt thành nhất cũng không hề cho rằng sẽ có vòng bầu cử quốc gia tự do thứ hai ở Việt Nam nếu phe cộng sản giành chiến thắng trong vòng đầu tiên. Trong cuộc bầu cử quốc gia đầu tiên được tổ chức sau khi cộng sản xâm chiếm Miền Nam Việt Nam, ngày 25 tháng 4 năm 1976, 99% cử tri đã bỏ phiếu cho các ứng cử viên cộng sản. Như cựu bộ trưởng tư pháp của Việt Cộng [tức Trương Như Tảng] đã nhận xét: “Họ không có nhiều sự lựa chọn. Hình phạt cho việc không bỏ phiếu là tịch thu sổ hộ khẩu của những người không bỏ phiếu, nếu không có sổ thì y và gia đình không thể mua được gì để ăn.”
Mặc dù không có bầu cử tự do ở cả Miền Bắc lẫn Miền Nam Việt Nam trong những năm 1950, nhưng nhiều người Việt Nam đã có cơ hội bỏ phiếu bằng chân. Hiệp định Geneva quy định rằng trong thời hạn ba trăm ngày “bất kỳ thường dân nào sống ở vùng do một bên kiểm soát và muốn đến sinh sống trong vùng được giao cho bên kia thì sẽ được chính quyền trong khu vực cho phép và giúp đỡ làm điều đó.” Số người Việt Nam từ miền Bắc di cư vào miền Nam, gần một triệu người, lớn hơn gấp khoảng 10 lần số người di cư theo hướng ngược lại. Cánh tả phương Tây cố đổ lỗi cho cuộc chạy trốn khỏi chủ nghĩa cộng sản này là do các hoạt động chiến tranh tâm lý của CIA nhằm thuyết phục người Công giáo Việt Nam tập hợp lại ở Miền Nam, do phe Công giáo của Diệm kiểm soát. Nếu đúng như thế thì cuộc tuyên truyền đó cùng lắm là chỉ đóng một vai trò nhỏ vì ta đã biết tài liệu về những cuộc trốn chạy hàng loạt khỏi các chế độ độc tài cộng sản khác như Liên Xô, Trung Quốc, Bắc Triều Tiên, Lào, Campuchia, Cuba và Đông Đức (trong đó 3 triệu trong tổng số 18 triệu dân Đông Đức đã chạy trốn trước khi số dân còn lại bị cầm tù). Cuộc di cư được lặp lại với quy mô lớn hơn trong những năm sau khi nước Việt Nam Cộng sản thống nhất vào năm 1975, khi từ một rưỡi đến hai triệu người Việt Nam rời bỏ quê hương. Cuộc di cư sau Geneva có thể còn lớn hơn nhiều so với trước đây. Theo các thành viên phái đoàn gìn giữ hòa bình quốc tế Canada, nhiều người Việt đã bị ngăn cản rời khỏi miền Bắc trong thời gian tái định cư theo Hiệp ước Geneva. Một người Canada quan sát thấy rằng “bộ đội, cán bộ chính trị và dân quân địa phương thường xuyên đóng quân trong nhà của các giáo dân Công giáo để ngăn cản họ rời khỏi nhà nhằm liên lạc với các đội công tác di cư. “
Trong phân tích cuối cùng, sẽ là một sai lầm nếu coi việc phân chia Đông Dương bằng những thuật ngữ pháp lý trừu tượng mà bỏ qua thực tế chính trị quyền lực trong Chiến tranh Lạnh. Sự phân chia Việt Nam thành các quốc gia cộng sản và không cộng sản về bản chất không khác gì sự phân chia của Đức, Trung Quốc và Triều Tiên. Các quốc gia khác có thể đã được phân chia theo cách tương tự. Nếu Liên Xô không quyết định rút khỏi Áo thì nước đó có thể đã được chia thành Đông và Tây Áo. Ý là một quốc gia khác đã thoát khỏi sự phân chia trong Chiến tranh Lạnh. Năm 1948, George Kennan, lúc đó thuộc Ban hoạch định chính sách của Bộ Ngoại giao, lo lắng rằng những người cộng sản có thể giành chiến thắng trong cuộc bầu cử quốc gia sắp tới ở Ý. Ông đề nghị chính phủ Ý đặt Đảng Cộng sản ra ngoài vòng pháp luật:
Phải thừa nhận rằng điều này sẽ dẫn đến nhiều bạo lực và có thể gây chia rẽ quân sự của Ý; nhưng chúng ta đang tiến gần đến kỳ hạn chót và tôi nghĩ có lẽ tốt hơn là một chiến thắng bầu cử không đổ máu, không có sự phản đối của chính chúng ta, điều đó sẽ khiến toàn bộ bán đảo rơi vào tay cộng sản trong một cuộc đảo chính và gây ra làn sóng hoảng loạn cho tất cả lãnh thổ xung quanh.
Chỉ cần thay “Ý” bằng “Việt Nam” là có thể giải thích được logic chiến lược đã truyền cảm hứng cho các nhà hoạch định chính sách Hoa Kỳ phản đối việc thống nhất Việt Nam dưới sự cai trị của cộng sản không chỉ bằng chiến tranh mà còn bằng bầu cử.
Tội diệt chủng giai cấp ở Miền Bắc
Nỗ lực bênh vực hoặc giải thích vụ giết người hàng loạt ở Miền Bắc Việt Nam trong vụ “cải cách ruộng đất” vào những năm 1950 là một trong những chương đáng xấu hổ nhất trong lịch sử đáng tiếc của giới trí thức cánh tả Mỹ. “Cải cách Ruộng đất” là một mỹ từ sử dụng bởi các chính phủ cộng sản đang tìm cách khuất phục đa số tầng lớp nông dân trước các nhóm nhỏ các quan chức lộng quyền và tham nhũng. Các nhà lãnh đạo cộng sản như Lenin, Stalin, Mao, Hồ Chí Minh và Fidel Castro thường xuất thân từ các gia đình giàu có hoặc trung lưu (thậm chí Stalin cũng xuất thân từ tầng lớp trung lưu ở Georgia). Theo quy luật, họ coi thường những giá trị “lạc hậu” của đa số nông dân ở những nước mà họ nắm quyền. Marx, một giáo sư thất nghiệp được người bạn giàu có Engels thanh toán các hóa đơn, đã chế nhạo “sự ngu xuẩn của cuộc sống nông thôn”. Lênin, người thừa kế của một gia đình quý tộc, đã thông báo cho H. G. Wells về tầm quan trọng của việc “đánh bại hàng loạt nông dân Nga.” Năm 1930, Stalin phàn nàn về “sự gắn bó nô lệ của người nông dân với mảnh đất nhỏ bé của mình”. Các nhà lãnh đạo cộng sản mù tịt về kinh tế, cho rẵng một nông trang tập thể mặc nhiên có hiệu quả hơn một trang trại nhỏ, và những người được thúc đẩy bởi ý thức hệ (hoặc, nếu thất bại, bởi khủng bố), sẽ làm việc cần cù như những người được thúc đẩy bởi lợi nhuận cá nhân và gia đình. Khi ý thức hệ Mác-xit va chạm với tính chuyên nghiệp, khoa học giả hiệu của châu Âu thế kỷ 19 đã thắng. “Ai sẽ quản lý một trang trại?” Fidel Castro hỏi, rồi tự trả lời: “Một nhà cách mạng. Điều kiện tiên quyết của anh ta là gì? Là anh ta là một nhà cách mạng.”
Nền nông nghiệp cộng sản không thể tạo ra những vụ mùa bội thu – nhưng nó liên tục tạo ra những vụ mùa bội thu các xác chết. Ở Liên Xô, 6,5 triệu người được cho là đã chết do tập thể hóa; thêm 8 triệu người chết vì nạn đói ở Ukraine và Kazakhstan. Với sự thẳng thắn đáng kinh ngạc, Stalin nói với Churchill rằng quá trình tập thể hóa còn tồi tệ hơn Thế chiến thứ hai. Trong quá trình tập thể hóa ở các khu vực của Trung Quốc dưới sự cai trị của cộng sản từ năm 1946 đến năm 1957, số người chết ước tính vào khoảng từ 250.000 đến 5 triệu. Hầu hết các nhà sử học hiện nay đều đồng ý rằng 25 đến 30 triệu người Trung Quốc chết đói trong nạn đói do Đại nhảy vọt của Mao năm 1958-61.
Cuộc cải cách ruộng đất của Bắc Việt những năm 1950 là một sự tàn bạo có thể so sánh với những cuộc cải cách ở Liên Xô và Trung Quốc, nếu không muốn nói là thảm khốc như chiến dịch tập thể hóa của Pol Pot ở Campuchia vào những năm 1970. Quá trình tập thể hóa bắt đầu vào ngày 2 tháng 3 năm 1953 với việc ban hành “Nghị định phân loại dân cư” chia các đối tượng của chế độ độc tài Hà Nội thành năm loại, từ “địa chủ” đến “công nhân nông nghiệp”.
Đâu đó khoảng 10.000 người Việt Nam đã bị hành quyết ngay lập tức do phân loại lầm; nhiều người khác bị giam trong gulag (trại tập trung) của Việt Nam. Ở Miền Bắc Việt Nam, cũng như ở Liên Xô và Trung Quốc trước đó, tình trạng khủng bố hàng loạt đi kèm với quá trình tập thể hóa đã thúc đẩy tình trạng bất ổn trong dân chúng. Vào ngày 17 tháng 8 năm 1956, Hồ Chí Minh, bằng ngôn ngữ mị dân mà ông đã học được từ những người cố vấn và hình mẫu của mình là Stalin và Mao, đã tuyên bố: “Đã có những sai sót trong việc thực hiện sự đoàn kết ở nông thôn… phân loại sai thành địa chủ và phú nông sẽ được phân loại lại một cách chính xác”. Sự quay lưng của chế độ độc tài đã đến quá muộn để ngăn chặn một cuộc nổi dậy của quần chúng. Ngày 2 tháng 11 năm 1956, khi dân làng Nghệ An tuyệt vọng khẩn cầu xin được đưa vào miền Nam Việt Nam, gửi đơn kiến nghị tới các quan sát viên Canada, bộ đội đã can thiệp và giao tranh nổ ra. nhà báo người Pháp Bernard Fall, “Hà Nội không còn lựa chọn nào khác; họ phản ứng giống hệt như chính quyền thực dân đã làm, gửi toàn bộ Sư đoàn 325 để đè bẹp lực lượng nổi dậy. Họ đã làm như vậy với tính triệt để điển hình của Quân đội Nhân dân Việt Nam; được cho là gần 6.000 nông dân bị trục xuất hoặc bị xử tử.” Fall chỉ ra rằng việc đè bẹp cuộc nổi dậy đồng thời ở Hungary bởi một chế độ vệ tinh khác của Liên Xô đã chuyển hướng sự chú ý khỏi sự đàn áp tàn bạo của chế độ độc tài Hồ Chí Minh đối với nhân dân miền Bắc Việt Nam. “Không có thành viên Liên hiệp quốc nào – không quốc gia thuộc khối Bandung (Khối 29 quốc gia vừa mới độc lập khỏi chế độ thực dân) vốn luôn nhạy cảm đến mức lo lắng về số phận những người anh em của mình trong xiềng xích thuộc địa, cũng như các quốc gia có thói quen chống Cộng sản – đã lấy được đủ can đảm (hoặc sắp xếp đủ sự kiện) để trình bày về vụ đàn áp Nghệ An trước lương tâm thế giới.” Hồ Chí Minh – được miêu tả là “Bác Hồ” nhân từ, chu đáo trong tuyên truyền của khối cộng sản và phe cánh tả phương Tây – đã phản ứng như Stalin và Mao khi âm mưu của họ bị phản tác dụng. Ông bắt các tay chân của mình làm vật tế thần, phát động một chiến dịch sửa sai, và phủi bỏ vụ giết người hàng loạt với nhận xét chai đá: “Dẫu sao thì người chết cũng không thể sống lại.”
Sự chính trực về mặt trí tuệ của Fall, một nhà phê bình cánh tả về Chiến tranh Việt Nam, người đã nói lên sự thật về chế độ chuyên chế Stalin của Hồ Chí Minh, là một trong những điều khiến ông trở nên khác thường so với các nhà văn cánh tả phương Tây trong thời kỳ Việt Nam. Những người cấp tiến phản chiến Tom Hayden và Staughton Lynd, trong chuyến tham quan của họ ở Miền Bắc Việt Nam được đối thủ dàn dựng, The Other Side (Phía Bên Kia) (1967), đã lưu ý rằng ước tính số người thiệt mạng trong quá trình tập thể hóa ở miền Bắc Việt Nam lên tới 50 đến 100.000. “Theo hiểu biết của tôi,” một quan chức Bắc Việt nói với họ, “không có ai thiệt mạng cả.” Hayden và Lynd được cho biết rằng nếu có sự phản kháng nào đối với việc tập thể hóa là kết quả của âm mưu của những người Công giáo nham hiểm: “Các chức sắc Công giáo phản động đã lợi dụng giáo dân để phản đối.” Hayden và Lynd kết luận, “Chúng tôi đề nghị rằng tình tiết này nên được xem như một phần mở rộng của cuộc chiến chống Pháp, và bạo lực liên quan nên được đánh giá trong cùng hoàn cảnh với tính khủng bố của chính cuộc kháng chiến.” Còn lâu mới “bắt nguồn từ thời chiến nhằm đáp ứng nguyện vọng của người nghèo ở nông thôn”, như hai người cánh tả Mỹ tuyên bố, khủng bố nông thôn ở miền Bắc Việt Nam đã được thực hiện trong thời bình bởi Đảng Cộng sản có ý định khủng bố người nghèo ở nông thôn để phục tùng chính quyền của mình. Việc chấp nhận quan điểm của cộng sản cho rằng nông dân Bắc Việt nổi dậy chống lại sự khủng bố của nhà nước cộng sản là thành viên của một âm mưu phản động Công giáo thân Pháp cũng tương đương với việc tin vào tuyên bố của Stalin rằng nông dân Ukraina là một phần của âm mưu phe Trotsky Quốc tế, hoặc cáo buộc của Hitler cho rằng dân Do Thái nghèo sống trong các khu ổ chuột ở Ba Lan là thành viên của một âm mưu toàn cầu chống lại chủng tộc Aryan.
Hầu hết các sử gia hàng đầu về cuộc xung đột Đông Dương thuộc phe cánh tả Mỹ đều coi chiến dịch Cải cách Ruộng đất ở Miền Bắc Việt Nam là một nỗ lực đáng giá nhằm cải thiện đời sống nông dân miền Bắc vốn đã bị tổn hại vì một số điều thái quá. Ví dụ, trong cuốn sách The Vietnam Wars, 1945-1990, Marilyn B. Young viết: “Các đường lối thận trọng của Đảng phân biệt giữa địa chủ yêu nước và địa chủ phản động, nông dân giàu có yêu nước và nông dân việt gian, nhưng những khác biệt này ngày càng bị bỏ qua khi chiến dịch trở nên cực đoan hơn theo tiến độ thi hành.” “Các đường lối thận trọng của Đảng” mà Young đề cập đến chính là những phạm trù giai cấp giả khoa học mà Lênin đã mơ ước và Hồ đã bắt chước từ Stalin qua Mao. Sự vô lý của họ được minh họa bằng thực tế là quyền sở hữu đất đai ở miền Bắc Việt Nam ít tập trung hơn nhiều so với ở miền Nam Việt Nam. Ngay cả một nghiên cứu của Liên Xô vào tháng 9 năm 1957 cũng thừa nhận rằng trước cải cách ruộng đất ở Bắc Việt, địa chủ trung bình ở miền Bắc Việt Nam sở hữu 0,65 ha đất trồng lúa, hay ít hơn hai mẫu Anh. Vì tội sở hữu những tài sản nhỏ bé như vậy, hàng ngàn dân làng Bắc Việt đã bị tố cáo và xử bắn.
Bác bỏ Bernard Fall cùng với Richard Nixon là “những nhà tuyên truyền phương Tây”, Young trích dẫn “nhà sử học cẩn thận nhất về cải cách ruộng đất, Edwin Moise” nói chung là nhiều nhất có “mười lăm nghìn người bị hành quyết trong chiến dịch cải cách ruộng đất.” Moise, trong cuốn Land Reform in China and North Vietnam (Cải cách Ruộng đất ở Trung Quốc và Bắc Việt Nam) (1983), thừa nhận: “Ở Việt Nam có nhiều hình phạt [so với ở Trung Cộng] cho những tội ác tưởng tượng.” Lấy một ví dụ, Moise viết: “Đảng nhất định đã đưa ra con số bọn cường hào ác bá bị đem ra đấu tố tại các cuộc mít tinh quần chúng ở mỗi xã dần như gần bằng nhau so sự phân bổ thực tế của các địa chủ tàn bạo và áp bức có thể biện minh được.” Điều này có nghĩa là các quan chức cộng sản vẫn khăng khăng lên án và hành quyết “địa chủ” cho đến khi họ hoàn thành chỉ tiêu do Hà Nội giao cho. Moise lập luận để giảm nhẹ tội cho cuộc chiến mà chế độ độc tài phát động với dân cư nông thôn miền Bắc Việt Nam: “Có những lý do chính đáng cho sự cường điệu hóa chủ nghĩa giai cấp… Nhưng quan điểm cực đoan này về bản chất giai cấp của các vấn đề nông thôn đôi khi vượt quá lợi ích thực sự của cuộc cách mạng, và nó thường vượt quá giới hạn của sự thật khách quan.” Moise nói rõ rằng ông cũng đồng cảm với “lợi ích thực sự của mô hình cách mạng [cộng sản] của Bắc Việt, cũng như của Liên Xô. Đáng tiếc, theo Moise, việc nông dân Nga năm 1917 đã chủ động trưng thu đất đai mà họ đã canh tác trên đó có nghĩa là “như vậy những người Bolshevik đã không nhận được hoàn toàn tín nhiệm từ nông dân cho cuộc cải cách ruộng đất.”
Những nghiên cứu lịch sử như thế này minh họa các tiêu chuẩn khác nhau được cánh tả phương Tây áp dụng cho các chế độ độc tài cộng sản và phi cộng sản. Nếu bất kỳ chế độ phi cộng sản nào xử tử ngay 15.000 công dân của mình trong vài tháng trong thời bình vì họ được xếp vào một hạng mục kinh tế xã hội nhất định nào đó, thì cánh tả phương Tây sẽ lên án ngay hành động tàn bạo này. Những lý giải sát trùng và hầu hết tán thành về quá trình tập thể hóa Bắc Việt của hai học giả cánh tả người Mỹ này có thể trái ngược với bài tường thuật xuất bản năm 1995 của Bùi Tín, nguyên là đại tá quân đội Bắc Việt và là một trong những nhà báo hàng đầu của Hà Nội. “Cải cách ruộng đất xảy ra sau khi chúng tôi nghe hàng trăm cố vấn Trung Quốc giới thiệu quy trình này dựa trên kinh nghiệm của họ ở đất nước mình,” Tin giải thích. Về các quan chức đảng phụ trách cải cách ruộng đất, cựu quan chức Bắc Việt này viết: “Trong tay họ quyền sinh sát là tuyệt đối… Không có luật sư, và thực tế là không có luật. Các bản án được thi hành bởi một tiểu đội được lựa chọn từ các du kích địa phương vốn là những nông dân không có đất, không có người thân ở tầng lớp trung nông hoặc địa chủ.” Tín đổ lỗi vụ sát hại “hơn mười nghìn người” bởi chế độ độc tài của Hồ là do ảnh hưởng của chủ nghĩa cộng sản Trung Quốc: “Có những nạn nhân là Đảng viên hoặc những người yêu nước đã ủng hộ Cách mạng nhưng có tội là giàu có dù hợp lý . . . Họ bị bắn vì bị kết án bởi những tòa án trá hình, mặc dù được gọi là tòa án nhân dân. Đây là kết quả của việc áp dụng một cách máy móc kinh nghiệm của Trung Quốc do các cố vấn của họ áp đặt.”
Tín mô tả số phận của bà chủ đồn điền tên Nguyễn Thị Nam có con trai là cán bộ Đảng cấp cao. “Nhưng cố vấn Trung Quốc kết luận rằng bà ta là một địa chủ độc ác cần phải loại bỏ.” Nông dân địa phương đã bênh vực bà Nam và một quan chức tên Hoàng Quốc Việt vội vã ra Hà Nội nhờ Hồ Chí Minh can thiệp thay cho bà. Hồ hứa sẽ nói chuyện với Trường Chinh, người nhiệt thành ngưỡng mộ Mao, và là người lãnh đạo chương trình tập thể hóa – nhưng ông ta đã không thực hiện. Kết quả là “bà Nam nhanh chóng bị kết án tử hình theo lời cố vấn của đại diện Mao Trạch Đông, người cáo buộc bà đã âm mưu gia nhập hàng ngũ cách mạng để phá hoại từ bên trong”.
Bùi Tín kết luận:
Nhiều năm sau, tôi hỏi Hoàng Quốc Việt nghĩ gì về vụ đó thì ông nói với tôi: “Khi tôi nói chuyện với Bác Hồ, Bác biết là không đúng nhưng không dám nói với bọn họ”. Khi dùng “bọn họ” ông muốn nói đến những đứa con trời, những đại diện của Mao Trạch Đông. Bằng cách giữ im lặng. và không can thiệp vào vụ bà Nam, ông ta tỏ ra thiếu trách nhiệm không chỉ với bà mà còn với tất cả những người dân khác là nạn nhân bị giết trong chương trình cải cách ruộng đất. Ông đã để đất nước và Đảng của mình bị người nước ngoài thao túng.
Thuật ngữ “diệt chủng”, nếu nó có ý nghĩa, phải được giới hạn trong những trường hợp người bị chọn ra và bị giết chết dựa trên nhân dạng của họ – được xác định dựa trên chủng tộc, sắc tộc, tôn giáo, xu hướng tình dục hoặc tầng lớp kinh tế xã hội thay vì dựa trên hoạt động tích cực chống phá nhà nước của họ. Việc hành quyết có hệ thống, từ làng này đến làng khác ở miền Bắc Việt Nam, ít nhất mười hoặc mười lăm nghìn cá nhân không phạm tội hay có hành vi phản kháng chính trị nào mà lại bị phân vào các phạm trù kinh tế vay mượn từ Liên Xô của Stalin và Trung Quốc của Mao trên cơ sở đã cấu thành tội diệt chủng mang bản sắc giai cấp, cho dù khi nó diễn ra ở quy mô nhỏ hơn so với các cuộc diệt chủng giai cấp theo chủ nghĩa Mác-Lê ở Liên Xô, Trung Quốc và Campuchia.
Giống như các thành viên cực hữu tỏ ra hoài nghi về sự tồn tại hoặc quy mô của nạn diệt chủng sắc tộc mà Đức Quốc xã tiến hành ỏ châu Âu, các thành viên cánh tả phương Tây đã giảm nhẹ tội hoặc bào chữa cho cuộc khủng bố cải cách ruộng đất ở Bắc Việt đều là những người bênh vực cho tội diệt chủng được nhà nước ra lệnh.
Huyền thoại về mối quan hệ hợp tác Diệm-Hồ
Một huyền thoại về Chiến tranh Việt Nam đã trở nên phổ biến trong những năm gần đây là cho rằng vụ ám sát nhà độc tài Ngô Đình Diệm của miền Nam Việt Nam năm 1963 đã phá vỡ khả năng hòa giải giữa Diệm và Hồ mà lẽ ra có thể dẫn đến sự thống nhất hòa bình giữa hai miền Việt Nam. Huyền thoại này nảy sinh từ việc cả Diệm và em trai Nhu, trong thời gian chính quyền Kennedy tiếp xúc với các tướng lĩnh âm mưu lật đổ họ, đã công khai bày tỏ ý kiến về việc yêu cầu Hoa Kỳ rút quân. Ngày 12 tháng 5 năm 1963, Nhu nói với tờ Washington Post rằng “Miền Nam Việt Nam muốn thấy một nửa trong số 12.000 đến 13.000 quân Mỹ đóng tại đây sẽ rời khỏi đất nước”. Họ cũng có những cử chỉ hướng tới việc nối lại tình hữu nghị với Hồ thông qua sự giúp đỡ tốt đẹp của nhà ngoại giao cộng sản Ba Lan ở Sài Gòn, Mieczyslaw Maneli.
Arthur M. Schlesinger, Jr., đã gợi ý rằng “thỏa thuận Diêm-Hồ có thể là phương tiện cho người Mỹ rời khỏi Việt Nam năm 1963. . . . Một cơ hội nào đó có lẽ đã bị bỏ lỡ vào mùa thu năm 1963.” Nhà báo Stanley Karnow và nhà sử học George C. Herring cũng đã suy đoán rằng các cuộc đàm phán giữa miền Bắc và miền Nam tượng trưng cho một cơ hội hòa bình đã bị bỏ lỡ do vụ sát hại Diệm. Ngay cả Henry Kissinger cũng đã viết: “Dựa vào những gì xảy ra sau cuộc đảo chính, Mỹ sẽ dễ dàng rút lui hơn bằng cách để Diệm sụp đổ vì những bất cập của chính mình hoặc, ít nhất, bằng cách không cản trở các cuộc đàm phán mà ông ấy bị nghi ngờ là đã dàn xếp với Hà Nội.” Thật không may cho những ai đang tìm kiếm lối thoát dễ dàng ra những con đường không có ai đi, gần như chắc chắn rằng Diệm và Nhu đang sử dụng lời đe dọa nối lại quan hệ hữu nghị với Bắc Việt Nam như một chiến thuật để buộc chính quyền Kennedy giảm bớt áp lực lên họ. Trong những hoàn cảnh tương tự, với những mục đích tương tự, cả Tưởng Giới Thạch của Quốc Dân Đảng và Park của Nam Hàn đều sử dụng những chiến thuật rất giống nhau.
Như Diệm sẽ làm sau này ở miền Nam Việt Nam, Tưởng trong những năm 1940 đã cố gắng biến mình thành người không thể thiếu được bằng chính sách cai trị hoặc hủy diệt khiến toàn bộ chính phủ của Quốc Dân Đảng phải phụ thuộc vào ông ta. Tuy nhiên, để so sánh với tình hình ở Miền Nam Việt Nam một thập kỷ rưỡi sau, đã có cuộc thảo luận ráo riết ở Washington về việc tìm kiếm người thay thế Tưởng, người có khả năng đoàn kết Trung Quốc tốt hơn để chống lại cuộc nổi dậy của cộng sản Mao. Ngoại trưởng George Marshall thừa nhận rằng “có áp lực liên tục nhằm loại bỏ Tưởng Giới Thạch, nhưng không ai đề xuất được người có thể thay thế ông ta.” Nhận thức được rằng Hoa Kỳ đang dự tính lật đổ mình, Tưởng đã ra lệnh cho chính phủ của ông tuyên bố vào tháng 11 năm 1947 rằng mặc dù đánh giá cao việc Hoa Kỳ gửi nhân sự hỗ trợ nhưng họ vẫn nhất quyết kiểm soát “việc sử dụng những nhân viên này”. Hai tháng trước đó, Tưởng đã nói với Ban chấp hành Trung ương Quốc dân đảng rằng Trung Quốc, trong khi vẫn duy trì liên minh với Hoa Kỳ, nên tăng cường quan hệ với Liên Xô. Đại sứ Hoa Kỳ tại Trung Quốc nói với Ngoại trưởng Marshall vào ngày 20 tháng 9 năm 1947 rằng Tưởng đưa ra tuyên bố này “chủ yếu vì tác động của nó đối với Hoa Kỳ.” Thực ra, “việc này đã được đề nghị với ngài Đại sứ rằng có thể yêu cầu Đại sứ Liên Xô tại Trung Quốc làm trung gian hòa giải cho cuộc nội chiến và chắc chắn ông ấy sẽ vui lòng chấp nhận.” Nhà sử học Tang Tsou nhận xét rằng Tưởng “cảm thấy đủ tự tin [vào cam kết chắc chắn của Mỹ] để đe dọa sẽ thực hiện một mình cuộc chiến chống lại Cộng sản và đạt được sự hiểu biết với Liên Xô khi ông ta hy vọng gây áp lực lên Hoa Kỳ.” Tang lưu ý rằng “các mối đe dọa của Tưởng và các quan chức Quốc dân đảng khác [đối với việc mở rộng những thăm dò hòa bình tới khối cộng sản] đã không đạt được mục tiêu chính của họ, đó là lôi kéo Hoa Kỳ vào cuộc nội chiến ở Trung Quốc hoặc, ít nhất, để có được viện trợ kinh tế và hỗ trợ quân sự quy mô lớn từ Hoa Kỳ.”
Một gợi ý khác tương đồng với những liên hệ giữa Diệm và Hồ vào đầu những năm 1960 có thể được tìm thấy ở Hàn Quốc một thập kỷ sau đó. Vào mùa xuân năm 1972, tổng thống Hàn Quốc Park Chung Hee, một nhà độc tài lên nắm quyền sau cuộc đảo chính quân sự năm 1961, đã cử quan chức số hai trong chế độ của mình, người đứng đầu CIA Hàn Quốc Lee Hu Rak, trong một sứ mạng bí mật tới Triều Tiên để gặp nhà độc tài cộng sản, Kim Nhật Thành. Sau các cuộc tiếp xúc khác, hai chế độ đã đưa ra một tuyên bố chung vào ngày 4 tháng 7 năm 1972, tuyên bố rằng sự thống nhất trên bán đảo Triều Tiên sẽ “đạt được thông qua những nỗ lực độc lập mà không chịu sự áp đặt hoặc can thiệp từ bên ngoài” và rằng “một sự đoàn kết dân tộc vĩ đại, cũng như một dân tộc thống nhất sẽ được tìm kiếm trước tiên, vượt qua những khác biệt về ý thức hệ, và chế độ.” Năm 1979, Tổng thống Park bị giám đốc CIA Hàn Quốc lúc bấy giờ là Kim Jae Kyu ám sát. Nếu Park bị ám sát vào năm 1972 hoặc 1973, ngay sau cuộc đàm phán của ông với Kim, có thể đã nảy sinh một huyền thoại rằng vụ sát hại bi thảm nhà độc tài Hàn Quốc đã phá vỡ sự thống nhất sắp xảy ra giữa Bắc và Nam Triều Tiên. Chứng cứ cho sự hòa giải Bắc-Nam được viện dẫn có thể được tìm thấy trong các ghi chép về cuộc trò chuyện giữa giám đốc CIA Hàn Quốc và nhà độc tài Bắc Triều Tiên Kim. Lee: “Tôi muốn nói rằng Tổng thống Park là người ghét sự can thiệp của nước ngoài nhiều nhất.” Kim: “Các cường quốc và chủ nghĩa đế quốc thích chia một quốc gia thành nhiều quốc gia hơn.”
Trên thực tế, không bên nào ở Triều Tiên nghiêm túc về việc thống nhất hòa bình. Chế độ cộng sản ở miền Bắc giải thích với Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Đông Đức rằng mục đích của cuộc tấn công hòa bình là đẩy nhanh việc rút quân Mỹ khỏi Hàn Quốc. Chính sách này “làm suy yếu nỗ lực của đế quốc Mỹ nhằm giữ quân ở Hàn Quốc, cũng như nỗ lực của đế quốc Nhật Bản. Bè lũ Park Chung Hee sẽ đầu hàng cuộc tấn công hòa bình này.” Một trong những trợ lý của Park sau này giải thích rằng về phần mình, nhà độc tài Hàn Quốc đã nhìn thấy việc liên lạc Diêm-Hồ không gì khác hơn là một chiến thuật trong một cuộc đấu tranh đang diễn ra. Park đã nói: “Chỉ cần bạn có thể chạm vào đối thủ bằng ít nhất một tay, bạn có thể biết liệu anh ta có tấn công hay không.”
Khi đó, lời giải thích hợp lý nhất về chiến thuật của Diệm và Nhu trong việc công khai những cảm xúc mà họ mở rộng tới Hà Nội là họ đang cố gắng đe dọa chính quyền Kennedy phải từ bỏ sự hợp tác với kẻ thù của gia đình họ Ngô trong số các tướng lĩnh bất mãn của miền Nam Việt Nam. Diệm, giống như Tưởng trước đó và Park sau này, muốn viện trợ kinh tế và quân sự của Mỹ mà không có sự ràng buộc nào – và không có thòng lọng kèm theo.
Huyền thoại về Chính phủ Liên hiệp
Trong suốt Chiến tranh Việt Nam, nhiều người theo chủ nghĩa cánh tả và tự do của Mỹ cho rằng mục tiêu của Mặt trận Dân tộc Giải phóng, vây cánh chính trị của Việt Cộng, là một miền Nam Việt Nam trung lập với một chính phủ đa đảng đại diện cho mọi thành phần trong xã hội miền Nam Việt Nam. Trong cuộc bút chiến phản chiến đầy ảnh hưởng của họ The United States in Vietnam [Hoa Kỳ tại Việt Nam] (1967), George McTurnan Kahin và John W. Lewis đã viết: “Cung cấp quyền đại diện cho thiểu số trong chính phủ sau bầu cử, [Mặt trận Dân tộc Giải phóng] khẳng định, sẽ đảm bảo một ‘hòa hợp dân tộc’ cuối cùng phù hợp với bản chất đa nguyên của xã hội miền Nam Việt Nam.” Bài báo tuyên truyền cộng sản này đã được nhiều nhà phê bình phái tự do về việc Mỹ tham gia vào cuộc chiến đón nhận một cách dễ dãi – trong đó có cựu Bộ trưởng Tư pháp Robert F. Kennedy. Ngày 2 tháng 3 năm 1967, Kennedy, khi đó là thượng nghị sĩ bang New York, đề xuất rằng các lực lượng đa quốc gia, thay thế quân đội Mỹ, sẽ giám sát các cuộc bầu cử bao gồm tất cả các phe phái chính trị ở miền Nam Việt Nam. Kennedy, chụp lấy cơ hội để ve vãn các người Dân chủ phản chiến trước cuộc chạy đua vào Nhà Trắng, không giải thích được tại sao bầu cử đa đảng không được yêu cầu tiến hành ở miền Bắc Việt Nam, nơi chế độ Hồ Chí Minh chưa bao giờ tổ chức bầu cử tự do và đã sát hại, lưu đày, bỏ tù phe đối lập chính trị.
Trước đó, trong một bản ghi nhớ ngày 21 tháng 4 năm 1965 phản đối việc leo thang can dự quân sự của Hoa Kỳ vào Việt Nam, cố vấn chính quyền Johnson, George Ball, đã chứng tỏ mình cũng ngây thơ hoặc gian dối không kém. Ball gợi ý rằng Hà Nội có thể hài lòng với một thỏa hiệp bao gồm việc chấm dứt chiến sự, sự giám sát quốc tế đối với lệnh ngừng bắn và một ngày được ấn định cho các cuộc bầu cử được quốc tế giám sát mà Mặt trận Dân tộc Giải phóng sẽ tham gia. “Điều mà những người ca ngợi ‘chủ nghĩa hiện thực’ của Ball đã không thể chỉ ra,” sử gia R. B. Smith viết, “là rằng gần như chính xác những điều khoản mà ông ấy đề xuất năm 1965 đã thực sự được Tổng thống Nixon đưa ra cho Hà Nội vào tháng 5 năm 1969; và ngay cả khi đó chúng đã bị bác bỏ, vào thời điểm các lực lượng Cộng sản ở miền Nam đang ở thế tương đối yếu hơn nhiều so với trường hợp 4 năm trước đó.”
Ngay cả sau khi Sài Gòn sụp đổ, những người theo chủ nghĩa tự do chống Chiến tranh Lạnh như James C. Thomson vẫn tiếp tục lập luận rằng Johnson đã bỏ lỡ một cơ hội được cho là để chuyển giao miền Nam Việt Nam cho một chính phủ liên hiệp trung lập: “Nếu ông ấy [Johnson] am tường hơn vào các vấn đề đối ngoại, nếu ông ấy được thông tin sâu sắc về Việt Nam và Đông Nam Á, và nếu ông ấy nêu ra một số câu hỏi khó mà sự nhất trí đã nhấn chìm, thì vị tổng thống này có thể đã sử dụng giải pháp bầu cử lớn nhất trong lịch sử để xuống thang ở Việt Nam, với kỳ vọng rõ ràng rằng trong trường hợp xấu nhất chính phủ trung lập sẽ lên nắm quyền ở Sài Gòn và lịch sự mời chúng ta ra ngoài.” Trên thực tế lựa chọn như thế không hề tồn tại. Các tài liệu lưu trữ của khối cộng sản giờ đây đã làm rõ rằng những người cộng sản Việt Nam nói dối khi tuyên bố rằng một Miền Nam trung lập là mục tiêu của họ. Bàn về vấn đề chính phủ liên hiệp với Chu Ân Lai tại Bắc Kinh ngày 17/9/1970, Phạm Văn Đồng thừa nhận: “Đối với chúng tôi và đối với Nixon, ngoại giao là trò chơi chữ. Cả chúng tôi và ông ấy đều không có ảo tưởng nào về ngoại giao”. Nhà lãnh đạo Bắc Việt giải thích rằng những đề xuất yếm thế của Mặt trận Dân tộc Giải phóng và chính phủ Bắc Việt về một chính phủ liên hiệp và việc quân Mỹ rút quân vô điều kiện là nhằm mục đích chiến lược: “Trước tiên, chúng tôi phải chiếm được thiện cảm của người dân Miền Nam, đặc biệt là những người ở vùng thành thị. Hơn nữa, chúng tôi có thể tác động đến dư luận phản chiến ở Hoa Kỳ, không chỉ bao gồm người dân nói chung mà còn cả giới chính trị, kinh doanh, học thuật và giáo sĩ để đảm bảo một sự hậu thuẫn mạnh mẽ hơn cho các đề xuất ấy.”
Tuyên bố rằng Hà Nội sẽ hài lòng với việc đưa những người cộng sản miền Nam Việt Nam vào một chính phủ liên hiệp là một tuyên truyền khác được tái chế từ những người biện hộ cho quân nổi dậy cộng sản Trung Quốc của Mao. Vào tháng 11 năm 1944, nhà ngoại giao Mỹ John Paton Davies nói với Washington: “Một Chính phủ Trung Quốc liên hiệp trong đó những người Cộng sản tìm được một chỗ đứng thỏa đáng là giải pháp cho tình trạng bế tắc này [nội chiến Trung Quốc] mà chúng tôi mong muốn nhất. Nó mang lại sự đảm bảo lớn nhất cho chúng tôi về một Trung Quốc mạnh mẽ, thống nhất, dân chủ và thân thiện.” Trước đó vào tháng 9 năm 1944 John Stewart Service đã tuyên bố rằng những người cộng sản của Mao sẽ bằng lòng chia sẻ quyền lực với phe Quốc dân đảng trong một chính phủ liên hiệp của Tưởng trong một thời gian không xác định: “Họ không có ảo tưởng rằng Trung Quốc có thể hy vọng xây dựng được một nhà nước vô sản trong tương lai gần.” Trong cuộc nội chiến ở Trung Quốc, cũng như trong cuộc nội chiến ở Việt Nam, việc nói về một chính phủ liên hiệp bao gồm cả những người cộng sản là một mưu mẹo nhằm đánh lừa những người theo chủ nghĩa tự do phương Tây.
Cuộc xâm chiếm miền Nam Việt Nam của quân đội Bắc Việt năm 1975 đã chứng minh rằng lời hứa về một chính phủ liên hiệp trung lập từ lâu đã là một trò lừa bịp – ngay cả khi một số nhà bất đồng chính kiến ở miền Nam đã tin vào điều đó. Những tuyên bố rằng miền Bắc không có ý định áp đặt chủ nghĩa Mác-Lê lên miền Nam bằng vũ lực “đã bị vứt vào xọt rác trong vòng vài tháng sau chiến thắng”, cựu Bộ trưởng Tư pháp Việt Cộng Trương Như Tăng viết vào năm 1985. “Lúc đó rõ ràng là không cần phải thu phục các phương tiện truyền thông hoặc các phong trào phản chiến phương Tây nữa, hoặc thậm chí đối với chính Mặt trận Giải phóng Miền Nam.”
Trong chiến dịch tranh cử tổng thống Mỹ năm 1972, ứng cử viên Đảng Dân chủ George McGovern đã mời Ngô Công Đức, một thành viên của Quốc hội thuộc Đảng Xã hội ở miền Nam Việt Nam và là đối thủ của chế độ Thiệu, cùng ông đi công du Hoa Kỳ để lên án chiến tranh Việt Nam. Sau khi cộng sản xâm chiếm Miền Nam, Ngô Công Đức làm đồng biên tập tờ báo tư nhân duy nhất ở Việt Nam, và rồi tờ báo này đã bị chế độ đóng cửa vào năm 1980. Chính quyền cộng sản đã khen thưởng lãnh đạo Đảng Dân Xã, Trần Văn Tuyên, vì đã phản đối chế độ độc tài Thiệu trước đó bằng cách ném ông vào tù, và chết trong đó.
Huyền thoại về sự tranh chấp Trung-Việt không thể kiềm chế được
Một trong những khẳng định được lặp đi lặp lại thường xuyên nhất trong các bài viết của phong trào chống Chiến tranh Việt Nam cho rằng mức độ thù địch sâu sắc trong lịch sử của Việt Nam đối với Trung Quốc có nghĩa là các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ có thể đã mong đợi sự bất hòa giữa những người cộng sản Trung Quốc và Việt Nam. Nếu điều này thực sự đúng thì Việt Nam sẽ là một ngoại lệ đối với quy luật cho rằng sự liên kết quốc tế thường là kết quả của những tính toán ngắn hạn của giới tinh hoa kiểm soát các quốc gia, chứ không phải từ những thành kiến phổ biến chống lại hoặc ủng hộ các quốc gia khác. Các quốc gia có lịch sử thù địch lẫn nhau thường hòa giải khi các điều kiện hoặc chế độ địa chính trị thay đổi. Đức và Pháp, kẻ thù không đội trời chung trong một thế kỷ rưỡi, ngày nay là đối tác của Liên minh Châu Âu. Sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, chính phủ Mexico, vì những lý do chiến lược, đã tìm kiếm một mối quan hệ chặt chẽ hơn với Hoa Kỳ hiện không ai kiềm chế, bất chấp có người dân Mexico bày tỏ sự ngờ vực và bất mãn đối với Hoa Kỳ.
Hồ sơ cho thấy mối quan hệ Trung-Việt bị ảnh hưởng nhiều bởi các yếu tố ý thức hệ và chiến lược hơn là bởi những hận thù dân tộc được cho là có từ thời Trung Cổ. Những người phản đối chiến tranh Việt Nam thích trích dẫn câu nói của Hồ Chí Minh với các đồng chí mình năm 1946: “Thà ngửi phân Pháp một lát còn hơn ăn phân Tàu cho đến hết đời.” Nhưng như Nguyễn Vũ Tùng của Bộ Ngoại giao Việt Nam thừa nhận vào năm 1998, “Bác Hồ tất nhiên đang đề cập đến Trung Quốc dưới thời Quốc Dân Đảng của Tưởng Giới Thạch.” Từ thời điểm giành thắng lợi ở Trung Quốc vào năm 1949 cho đến đầu những năm 1970, những người cộng sản Trung Quốc và Việt Nam, mặc dù đôi khi có những khác biệt, đã liên minh chặt chẽ với nhau. Như tôi đã nhận xét ở trên, thực ra Hồ và các đồng chí của ông bắt chước mô hình của Mao đến mức đôi khi mời các cố vấn cộng sản Trung Quốc giúp các cán bộ cộng sản Việt Nam xác định địa chủ nào và nông dân Việt nào phải bị xử tử trong thời kỳ khủng bố “cải cách ruộng đất” theo kiểu Mao những năm 1950. Phe thân Trung Quốc quan trọng trong giới tinh hoa cộng sản Việt Nam bao gồm Trường Chinh, tên được gọi theo “Trường Chinh”, một trong những giai đoạn trong cuộc cách mạng cộng sản Trung Quốc. Hoàng Văn Hoan, Ủy viên Bộ Chính trị, đào thoát sang Trung Quốc vào thời điểm xảy ra Chiến tranh Trung-Việt; ông đã viết một cuốn sách phản bác việc các bộ lịch sử chính thức của Hà Nội đã giảm thiểu tầm quan trọng của việc Trung Quốc đóng góp vào Chiến tranh Việt Nam. Bản thân Chiến tranh Trung-Việt năm 1979 phản ánh, không phải những hận thù Trung-Việt cổ xưa, mà là sự chia rẽ giữa Liên Xô, lúc đó là nước bảo vệ duy nhất của Việt Nam, và Trung Quốc, liên minh với Khmer Đỏ Campuchia. Sự chia rẽ Trung-Xô cũng không thể được hiểu là kết quả của sự thù hận Trung-Nga cổ xưa, vì có những người cộng sản Trung Quốc thân Liên Xô như Lâm Bưu đã thua trong cuộc đấu tranh với Mao vào những năm 1960. Vấn đề trong việc giải thích chính sách đối ngoại của một quốc gia theo truyền thống thù địch dân tộc là rõ ràng: Nó có thể giải thích các giai đoạn thù địch, nhưng không thể giải thích các giai đoạn hợp tác và đoàn kết.
Cho dù tâm lý bài Trung cổ xưa và không thể kìm nén của người Việt đã khiến liên minh giữa cộng sản Việt và Trung Quốc trở nên không bền vững, thì nó cũng không dẫn đến việc Hoa Kỳ chắc chắn sẽ được hưởng lợi từ sự ly khai Trung-Việt. Chừng nào Liên Xô còn tồn tại, người cộng sản Việt Nam còn có thể đạt được cả tính hợp pháp lẫn sự bảo vệ bằng cách đi theo khối Xô Viết. Một liên minh với Hoa Kỳ hoặc thái độ trung lập khó chịu sẽ kém hấp dẫn hơn đối với các nhà cầm quyền cộng sản ở Hà Nội. Chỉ sau khi Liên Xô sụp đổ và chủ nghĩa Mác-Lê bị mất uy tín trên toàn thế giới, chế độ độc tài Việt Nam mới thận trọng tìm cách xích lại gần Hoa Kỳ.
Ngày nay lập luận cho rằng người cộng sản Việt Nam là những người theo chủ nghĩa dân tộc chống Trung Quốc đều cùng phục vụ mục đích của hai nhóm – các nhà lãnh đạo cộng sản ở Hà Nội, những người tìm cách giảm thiểu tài liệu về sự hợp tác Trung-Việt trong thời kỳ đầu Chiến tranh Lạnh nhằm giành được sự ủng hộ của Mỹ để chống lại Trung Quốc, và những người cánh tả, những người theo chủ nghĩa tự do và những người theo chủ nghĩa hiện thực phương Tây vẫn còn bảo vệ lời tuyên bố quá giản đơn của phong trào phản chiến những năm sáu mươi cho rằng Chiến tranh Việt Nam về cơ bản là một cuộc đấu tranh chống thực dân chứ không phải là một cuộc chiến ủy nhiệm trong Chiến tranh Lạnh như cuộc chiến ở Hàn Quốc và Afghanistan.
Campuchia: Huyền thoại và hiện thực
Hầu hết những huyền thoại của cánh tả cấp tiến về Chiến tranh Việt Nam và chủ nghĩa cộng sản Việt Nam, sau đó, là phiên bản cập nhật của các chủ đề tuyên truyền cũ: cơ hội bị bỏ lỡ, những người cộng sản thân Mỹ, chính phủ liên hiệp. Bên cạnh những mô típ truyền thống này, cánh tả cấp tiến trong những năm 1970 và 1980 đã thêm vào một huyền thoại độc đáo của riêng họ, khi họ đổ lỗi cho nạn diệt chủng kiểu Mao do Khmer Đỏ của Pol Pot thực hiện ở Campuchia lên Hoa Kỳ nói chung và Tổng thống Richard Nixon nói riêng.
Trong Chiến tranh Việt Nam, nhiều người cánh tả và tự do Mỹ đã chia sẻ quan điểm có thiện cảm với Khmer Đỏ do phóng viên Harrison Salisbury của tờ New York Times phát biểu năm 1973: “Tất nhiên, sau Giải phóng, không phải Sihanouk mới là chủ nhân thực sự của Campuchia. Đó sẽ là Khmer Đỏ. Nhưng họ đã lên kế hoạch để Campuchia vẫn là một vương quốc, với nội các của chính họ bao gồm cả những thành viên không cộng sản.” Khi tin tức về việc các thành phố bị bỏ hoang, các vụ hành quyết nhanh chóng và nạn đói hàng loạt ở Campuchia sau khi Khmer Đỏ tiếp quản bị rò rỉ ra thế giới bên ngoài, phản ứng đầu tiên của nhiều người cánh tả phương Tây là không cho là điều khủng khiếp đó đang xảy ra. Theo George McTurnan Kahin, một trong những nhà phê bình học thuật nổi bật nhất về Chiến tranh Việt Nam, viết vào năm 1976, việc buộc phải sơ tán khỏi các thành phố Campuchia “khi đó không phải là vận dụng một số hệ tư tưởng phi lý, mà phản ánh các giải pháp thực tế của các nhà lãnh đạo vốn phải phụ thuộc hoàn toàn vào nguồn lương thực yếu kém của Campuchia và thiếu phương tiện vận chuyển nội địa.” Năm 1975, Kahin đã làm chứng trước Thượng viện Hoa Kỳ để phản đối các biện pháp tiếp theo của Hoa Kỳ. ủng hộ chính phủ Lon Nol, bác bỏ khả năng xảy ra một cuộc tắm máu ở Campuchia nếu Khmer Đỏ lên nắm quyền. Gareth Porter của Viện Nghiên cứu Chính sách cánh tả phát biểu trước Ủy ban Hạ viện vào tháng 5 năm 1977: “Không có lý do gì để nghi ngờ rằng một số bạo lực đã diễn ra. Nhưng có lý do để tin rằng đó không phải là ý định của chính phủ.” Porter cũng biện minh cho việc Khmer Đỏ để bệnh viện thành phố trống trơn: “Và tôi thực sự cho rằng người ta có thể lập luận đó là một giải pháp thay thế hợp lý để di chuyển bệnh nhân càng nhanh càng tốt đến các địa điểm bên ngoài thành phố nơi thực tế có các cơ sở y tế khác, cơ sở y tế này có thể không tốt nhưng, trong hoàn cảnh tồn tại ở Phnom Penh vào cuối chiến tranh, có lẽ tốt hơn những gì tồn tại ở bệnh viện thành phố.” Năm 1967, Tom Hayden và Staughton Lynd đã sử dụng lý do tương tự để bào chữa cho vụ giết người hàng loạt đi kèm với chương trình cải cách ruộng đất theo chủ nghĩa Mao ở miền Bắc Việt Nam vào giữa những năm 1950, cho rằng nó “dường như bắt nguồn từ thời chiến để đáp ứng nhu cầu của người nghèo ở nông thôn.”
Một khi không còn có thể phủ nhận thực tế hoặc mức độ của nỗi kinh hoàng ở Campuchia, những người cánh tả phương Tây có xu hướng phản ứng bằng một trong ba lập luận. Để gia tăng sự phi lý, chiến thắng của Khmer Đỏ lại bị đổ lỗi cho việc tướng Campuchia Lon Nol do Mỹ hậu thuẫn lật đổ Hoàng thân Norodom Sihanouk; hành động của Khmer Đỏ bị đổ lỗi cho chủ nghĩa dân tộc phân biệt chủng tộc, chứ không phải do ý thức hệ cộng sản; và hành động của Khmer Đỏ bị đổ lỗi cho vụ đánh bom của Mỹ, được cho là đã truyền cảm hứng cho một nạn diệt chủng điên cuồng các nông dân Campuchia.
Trong cuốn Việc lật đổ Sihanouk. Todd Gitlin, cựu chủ tịch của Sinh viên vì một Xã hội Dân chủ (SDS), một tổ chức cánh tả cấp tiến những năm 1960, gần đây đã nhắc lại một huyền thoại lịch sử về Campuchia của phe cánh tả phản chiến: “Tất cả những con người văn minh đang ghê tởm trước sự tàn bạo hàng loạt của Khmer Đỏ cũng nên nhớ rằng chính chính quyền Nixon, chứ không phải phong trào [phản chiến], đã khuyến khích việc lật đổ Hoàng thân Sihanouk và làm suy yếu sức chống đối đối với chế độ giết người hàng loạt này.”
Trong suốt những năm 1960, chính phủ Sihanouk, để đáp lại tiền hối lộ từ Hà Nội, đã cho phép phe Bắc Việt vận chuyển quân đội và hàng tiếp tế trên lãnh thổ Campuchia dọc theo Đường mòn Hồ Chí Minh. Nguồn cung cấp của Liên Xô và Trung Quốc cũng chảy qua Campuchia từ cảng Sihanoukville. Sihanouk giải thích vào năm 1964, “Để hiểu điều tôi đang cố gắng đạt được, chỉ cần nhớ điều này: Toàn bộ Đông Nam Á đều có số phận trở thành Cộng sản. . . . Khi nó xảy ra ở Campuchia, tôi muốn nó xảy ra mà không bị gián đoạn.” Đến năm 1970, Bắc Việt đã thực sự sáp nhập phần phía đông Campuchia, đến mức độ hạn chế sự tiếp cận của các quan chức Campuchia cũng như đánh thuế và bắt lính nông dân Campuchia. Trong khi đó, Sihanouk – môt Nero hoặc Caligula của Đông Nam Á – cống hiến sức lực của mình để làm phim truyện với sự tham gia của chính ông và các quan chức trong chế độ của ông cũng như tình nhân của họ (một số phim có sẵn ở Hoa Kỳ dưới dạng video). Dưới áp lực của dân chúng Campuchia bực bội phải làm gì đó với quân xâm lược Bắc Việt, Sihanouk đã ngầm chấp thuận vụ ném bom “bí mật” vào các căn cứ của Bắc Việt trên lãnh thổ Campuchia vào năm 1969. Điều này không cứu được ông khỏi bị tướng Lon Nol lật đổ vào ngày 18 tháng 3 năm 1970. Chế độ của Lon Nol, tuy tham nhũng như, nhưng không kỳ quặc như chế độ của Sihanouk, đã kêu gọi sự hỗ trợ của Hoa Kỳ trong việc trục xuất quân đội Bắc Việt khỏi Campuchia và đánh bại Khmer Đỏ.
Sihanouk ngay lập tức liên minh với Khmer Đỏ. Trong khi đó, Hoa Kỳ và Nam Việt Nam xâm chiếm khu vực Campuchia do Bắc Việt kiểm soát. Trong cuộc tấn công thứ hai vào Campuchia năm 1971, quân đội Miền Nam Việt Nam được không quân Mỹ hỗ trợ đã chịu tổn thất nặng nề trong các trận đánh với quân chính quy Bắc Việt. Năm 1973, sau khi liên minh do Khmer Đỏ lãnh đạo từ chối tham gia các cuộc đàm phán hòa bình sau Hiệp định Paris, Hoa Kỳ đã ngăn chặn Khmer Đỏ chiếm lấy Campuchia bằng cách thả 250.000 tấn bom xuống đất nước Chùa Tháp. Mặc dù phe cực tả trích dẫn những con số cao hơn nhiều, nhưng những ước tính thực tế nhất là từ ba mươi nghìn đến một phần tư triệu người Campuchia đã bị giết chết. Việc Quốc hội Hoa Kỳ ngăn cấm không quân Mỹ hỗ trợ thêm cho chế độ Lon Nol đã đảm bảo chiến thắng cho Pol Pot và bè lũ của ông ta.
Cho đến giai đoạn cuối của cuộc chiến, Khmer Đỏ vẫn là một nước lệ thuộc của Hà Nội. “Bản thân Pol Pot là người được dựng lên trong một cuộc xung đột ở Việt Nam trước đó, đã được dìu dắt vào trong phong trào Campuchia phụ trợ,” David P. Chandler viết trong Brother Number One: A Political Biography of Pol Pot [Anh Em Số Một: Một Tiểu Sử Chính Trị của Pol Pot] (1992). “Cho đến cuối năm 1972, quân đội của y đã được trang bị vũ khí, được đào tạo và thường do người Bắc Việt lãnh đạo. Những thất bại mà Lon Nol phải gánh chịu trong những năm 1970-1971 đều nằm trong tay lực lượng chính quy của Miền Bắc Việt Nam.” Mặc dù sau đó họ đã đoạn tuyệt với cộng sản Việt Nam, nhưng Khmer Đỏ có được chiến thắng ở Campuchia là nhờ quân đội Bắc Việt.
Còn Sihanouk, người phần nào ra sức kiềm chế các đồng minh Khmer Đỏ của mình thì sao? Một vài năm sau khi Khmer Đỏ lên nắm quyền, Sihanouk phải sống lưu vong và khoảng 1/8 đến 1/4 dân số Campuchia – bao gồm nhiều thành viên trong gia đình Sihanouk – đã bị cộng sản xử tử hoặc bỏ đói. Các kết quả có lẽ sẽ tương tự nếu liên minh Khmer Đỏ do Bắc Việt bảo trợ giành chiến thắng với Sihanouk là bù nhìn vào năm 1970 hoặc 1972. Khác hơn suy nghĩ mơ ước của cánh tả phương Tây, dường như không có cơ sở nào đối với ý kiến cho rằng Sihanouk có thể đã lãnh đạo một “lực lượng thứ ba” có khả năng vừa đánh bại chế độ Lon Nol vừa đẩy Khmer Đỏ ra ngoài lề mà không cần dựa vào quân đội Bắc Việt. Quả thực, vào năm 1981, chính Sihanouk đã tuyên bố: “Hôm nay tôi tỏ lòng kính trọng trước mộ của ông ấy. John Foster Dulles đã đúng. Không có quốc gia phi liên kết nào cả.”
Như sự kiện đã xảy ra, trong những năm 1970, một phe có ảnh hưởng của cánh tả phương Tây lặng lẽ thay đổi câu chuyện về chuỗi nhân quả ở Campuchia. Sau khi Khmer Đỏ nắm quyền, nhiều người cánh tả phương Tây đổ lỗi cho sự trỗi dậy của họ là do chế độ Lon Nol do Mỹ hậu thuẫn đã tiêu diệt một “lực lượng thứ ba” có thể có ở Campuchia và do sự xa lánh của giới nông dân do Mỹ ném bom. Tuy nhiên, trước khi Khmer Đỏ lên nắm quyền, trong Ủy ban Học giả Quan tâm về Châu Á một nhóm bao gồm Noam Chomsky, Edwin Moise, John Dower và Bá tước C. Ravenal được thành lập năm 1968 “để phản đối chủ nghĩa đế quốc Mỹ ở châu Á” đã kể một câu chuyện hoàn toàn khác. Trong The Indochina Story [Câu chuyện Đông Dương] (1970), đây là những gì Ủy ban đó đã nói về Khmer Đỏ, sau cuộc đảo chính Lon Nol: “Sự ủng hộ mạnh mẽ dành cho Sihanouk trong tầng lớp nông dân, và sự viện trợ vũ trang của Khmer Đỏ bí mật, một nhóm nổi loạn đã kiên nhẫn chờ đợi thời cơ kể từ một thời gian ngắn đấu tranh vũ trang vào năm 1967, chắc chắn đã lật đổ chính phủ [khi không có sự hỗ trợ của Hoa Kỳ] nếu chính phủ này không tự mình sụp đổ.” Năm 1970, Ủy ban phàn nàn rằng nỗ lực quân sự của Hoa Kỳ đang ngăn chặn Khmer Đỏ, với Sihanouk là bù nhìn, lên nắm quyền; sau năm 1974-1975, hầu hết cánh tả đều loan truyền một câu chuyện mới – Nỗ lực quân sự của Mỹ đã tạo điều kiện cho Khmer Đỏ lên nắm quyền.
Có phải Khmer Đỏ là Phát xít chứ không phải Cộng sản không? Một số người cánh tả phương Tây đã tìm cách giảm thiểu sự giống nhau đáng xấu hổ của nạn diệt chủng giai cấp ở Campuchia với các chiến dịch khủng bố nhà nước đi kèm với quá trình tập thể hóa nông thôn ở các nước cộng sản khác, bao gồm cả Bắc Việt Nam. Lập luận này được đưa ra một cách mạnh mẽ nhất bởi Ben Kiernan, một học giả cánh tả người Úc và từng là người bênh vực cho Khmer Đỏ. Năm 1977, Kiernan tuyên bố: “Có rất nhiều bằng chứng ở Campuchia và các nguồn tin khác cho thấy Khmer Đỏ không phải là con quái vật như báo chí gần đây đã đưa tin.” Sau khi từ bỏ quan điểm này, Kiernan được bổ nhiệm làm giám đốc Chương trình Diệt chủng Campuchia, một viện nghiên cứu do người đóng thuế trả tiền đặt tại Đại học Yale (cứ như thể một cựu cảm tình viên Đức Quốc xã và một người phủ nhận Holocaust đã được bổ nhiệm làm giám đốc) để chỉ đạo bảo tàng Holocaust của Washington).
Trong cuốn Chế độ Pol Pot (1996), Kiernan tuyên bố rằng “quan niệm của người Khmer Đỏ về chủng tộc đã làm lu mờ quan niệm về giai cấp.” Cánh tả đã nhanh chóng phổ biến một lý thuyết bào chữa cho chủ nghĩa cộng sản. Năm 1997, nhà văn cánh tả người Anh Tom Nairn, dựa vào Kiernan, đã tuyên bố một cách nhẹ nhõm: “Địa ngục Campuchia thực sự là một sai lầm của sự phát triển theo chủ nghĩa dân tộc hơn là của chủ nghĩa xã hội.” Trong tờ The Nation năm 1998, John Pilger đã viết, “ Cuộc xâm lược của Mỹ vào Campuchia đã cung cấp cho một nhóm nhỏ những người dân tộc chủ nghĩa cực đoan khuynh hướng Mao-it, nhóm Khmer Đỏ, chất xúc tác cho một cuộc cách mạng không được cộng đồng người dân Campuchia ủng hộ.” Trên thực tế, mặc dù Khmer Đỏ đàn áp nhiều dân tộc thiểu số ở Campuchia, nhưng hầu hết nạn nhân của nó là kẻ thù chính trị và giai cấp. Như Ross H. Munro, một chuyên gia hàng đầu của Mỹ về châu Á, đã chỉ ra, Kiernan “ra sức chứng minh rằng Khmer Đỏ hoàn toàn không phải là cánh tả hay cộng sản, bất chấp cái tên đỏ theo đúng nghĩa đen của họ và hệ tư tưởng tân-Mao mà họ nhiệt thành tuyên bố.”
Bất chấp nỗ lực của Kiernan và những người khác nhằm biến người Khmer Đỏ (cộng sản) thành người Khmer Áo Nâu (phát xít), thật dễ dàng lần theo nguồn gốc của các chính sách của Khmer Đỏ đến hệ tư tưởng Mác-xit trong Cuộc Cách mạng Văn hóa Trung Quốc vào giữa thập niên 1960. Pol Pot đến thăm Trung Quốc vào năm 1966 vào lúc Mao đang ở đỉnh cao nhiệt tình với Cách mạng Văn hóa và chiến tranh nhân dân. Haing Ngor, bác sĩ Campuchia, người đã có vai diễn đoạt giải Oscar trong phim Cánh đồng chết, đã viết rằng hầu hết “mọi thứ về Khmer Đỏ đều xa lạ”, lấy từ Trung Quốc. Họ đã mượn ý thức hệ của mình từ Mao… giống như khái niệm Đại nhảy vọt. Gửi trí thức về nông thôn để học hỏi từ nông dân là một ý tưởng của Cách mạng Văn hóa Trung Quốc.” Thật không may cho người dân Campuchia, Pol Pot “không nhận ra rằng Cách mạng Văn hóa của Mao đã là một thảm họa và những nỗ lực của Stalin đã khiến nền kinh tế Liên Xô tụt hậu hàng thập kỷ.”
Nếu chỉ xem xét các vụ hành quyết của các chế độ, thay vì nạn đói hàng loạt do các chính sách nông nghiệp xã hội chủ nghĩa gây ra, thì Campuchia của Pol Pot trông không giống nước Đức của Hitler cho bằng giống Bắc Việt Nam của Hồ Chí Minh. Quả thực, hầu hết những cái chết ở Campuchia là sản phẩm phụ ngoài ý muốn của các chính sách kinh tế xã hội chủ nghĩa, giống như những cái chết vì nạn đói trước đó ở Liên Xô và Trung Quốc cộng sản. Số người Campuchia bị hành quyết không qua xét xử dưới thời Khmer Đỏ được ước tính là khoảng 100 nghìn người. Vào giữa những năm 1950, chính phủ Hồ, theo lời khuyên của các cố vấn từ Trung Quốc của Mao, đã chủ trì vụ thảm sát có hệ thống từ mười đến một trăm nghìn kẻ thù giai cấp (chủ yếu là chủ nông) trong chiến dịch tập thể hóa lấy cảm hứng từ Mao, và có lẽ đã trục xuất 100.000 người vào các trại lao động cưỡng bức. Ngay cả khi chỉ có 10.000 dân Bắc Việt bị hành quyết trong những năm 1950, họ vẫn bị hành quyết vì lý do tương tự như nhiều người dân Campuchia bình thường. Họ bị xếp vào loại kẻ thù giai cấp trong một cuộc thanh trừng ác độc được thực hiện bởi chế độ độc tài cộng sản Khmer Đỏ của Pol Pot sau này, mô phỏng theo Trung Quốc của Mao.
Có phải việc ném bom của Nixon đã làm người Campuchia hóa điên không? Câu chuyện hư cấu kỳ cục nhất trong huyền thoại về cuộc chiến chống Việt Nam còn sót lại là tuyên bố rằng Tổng thống Nixon, bằng cách ném bom Bắc Việt và các đồng minh của họ ở Campuchia, đã biến người dân Campuchia thành những kẻ giết người điên cuồng. Lời giải thích này được lan truyền vào cuối những năm 1970 bởi những người cánh tả như Gareth Porter và George Hildebrand, những kẻ tuyên bố rằng cuộc tắm máu ở Campuchia “chủ yếu là do vụ đánh bom của Mỹ”. Nhà báo William Shawcross gieo rắc tin vịt này trong cuộc bút chiến của ông: Màn Trình diễn phụ: Kissinger, Nixon và sự hủy diệt Campuchia (1979).
Việc Mỹ ném bom Campuchia có thể đã giúp Khmer Đỏ chiêu mộ được nông dân Campuchia cho mục đích của họ. Nhưng lập luận cho rằng các vụ thảm sát và nạn đói ở Campuchia dưới sự cai trị của Khmer Đỏ không phải do hệ tư tưởng Mác-Lê mà là do sự điên cuồng của nông dân Campuchia gây ra do việc Mỹ ném bom, là vô nghĩa. Lào, chứ không phải Campuchia, là quốc gia bị ném bom nặng nề nhất trong Chiến tranh Việt Nam. Chiến dịch ném bom đơn lẻ lớn nhất trong chiến tranh diễn ra ở Miền Nam Việt Nam, sau cuộc tấn công Tết Mậu Thân, khi 1,2 triệu quả bom được thả xuống, một con số lớn hơn nhiều so với số bom thả xuống Campuchia.
Nỗ lực công phu nhất nhằm giảm thiểu nỗi kinh hoàng ở Campuchia và đổ lỗi cho Hoa Kỳ đã được Noam Chomsky hợp tác với Edward Herman chấp bút. Để giảm nhẹ tội cho chế độ Khmer Đỏ, Chomsky và Herman đã viết vào năm 1988 rằng “khi những người nông dân nghèo bị đuổi vào rừng từ những ngôi làng bị bom đạn tàn phá, họ có thể tìm cách trả thù.” Nỗ lực của Chomsky và Herman miêu tả các chính sách của Khmer Đỏ là những hành động tự phát nhằm trả thù của một phần đám đông không được kiểm soát cũng tương tự như lập luận của Staughton Lynd và TomHayden, đã đề cập trong chương trước, cho rằng vụ sát hại hàng loạt nông dân Bắc Việt trong thời bình bởi chế độ độc tài Hồ Chí Minh vào giữa những năm 1950, dưới ảnh hưởng của Trung Quốc của Mao, không gì khác hơn là hành động hành quyết tự phát những kẻ phản bội thân Pháp.
Hầu hết những người đổ lỗi cho Nixon về hành động tàn bạo của Pol Pot đều cho rằng Nixon đã vô tình biến nông dân Campuchia thành những kẻ tâm thần giết người bằng cách ném bom xuống đất nước họ. Tuy nhiên, Chomsky và Herman đã đề cao một thuyết âm mưu đáng để Oliver Stone dựng thành phim. Họ thấy “khá hợp lý” với gợi ý của một người cánh tả khác, Michael Vickery, cho rằng “khi các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ thấy rõ rằng họ không thể thắng ở Campuchia, họ thích làm mọi thứ có thể để đảm bảo rằng chính phủ cách mạng thời hậu chiến của Campuchia sẽ cực kỳ tàn bạo, giáo điều và đáng sợ đối với các nước láng giềng, chứ không phải là một chủ nghĩa xã hội ôn hòa mà người Thái chẳng hạn có thể nhìn với vẻ ghen tị.” Chomsky và Herman sau đó đã trình bày lại luận điểm rằng sự tàn bạo là một “phản ứng trực tiếp và dễ hiểu đối với một cuộc tấn công của Hoa Kỳ còn tập trung và dã man hơn nữa, vốn có thể một phần đã được thiết kế để gợi lên phản ứng này.”
Ghi chép lịch sử cho thấy rõ rằng việc Mỹ ném bom Campuchia, dù bị phản đối vì lý do chiến lược hay nhân đạo, đã không biến “chủ nghĩa xã hội ôn hòa” của Khmer Đỏ thành một thứ gì đó “tàn bạo, giáo điều và đáng sợ”, hoặc do vô tình hoặc là kết quả của một kế hoạch bí mật của Nixon và Kissinger. Các chính sách theo chủ nghĩa Stalin/Mao của Pol Pot, bao gồm tập thể hóa nông nghiệp, xô đuổi dân cư thành thị và áp đặt một đồng phục tiêu chuẩn cho nông dân, lần đầu tiên được thử nghiệm trên quy mô lớn tại các vùng lãnh thổ mà Khmer Đỏ kiểm soát vào đầu năm 1973. Ách cai trị của Pot Pot trong vùng Campuchia “giải phóng” kinh hoàng đến mức hơn 20.000 người Campuchia phải trốn chạy sang Miền Nam Việt Nam không cộng sản để xin tị nạn. Dân tị nạn Campuchia kể về một nỗ lực triệt để nhằm biến đổi xã hội, sử dụng khủng bố hàng loạt, di chuyển dân cư và các kế hoạch kinh tế không tưởng.
Quả thực, một trong những lập luận mà chính quyền Nixon và Ford đưa ra khi kêu gọi Quốc hội giúp đỡ chế độ Lon Nol đang bị bao vây ở Campuchia là điều cần thiết để ngăn chặn Khmer Đỏ nắm quyền và chủ trì một cuộc tắm máu. Ngày 6 tháng 3 năm 1975, Philip Habib, Trợ lý Ngoại trưởng đặc trách Đông Á và Thái Bình Dương đã đưa ra trước Ủy ban Đối ngoại Hạ viện một dự đoán chính xác đến rùng mình về điều gì sẽ xảy ra nếu lực lượng của Pol Pot lên nắm quyền: “Nếu chính phủ hiện tại sụp đổ, tôi nghĩ tác động ở Campuchia… sẽ là một cuộc biến đổi không thế tin được của xã hội đó đi ngược lại ước muốn của toàn dân và thông qua việc sử dụng vũ lực. Tôi nghĩ rằng chắc chắn sẽ có cái mà mọi người gọi là cuộc tắm máu, nhưng trong mọi trường hợp là hành động rất tàn bạo.” Vào ngày 11 tháng 3, một trong những đảng viên Đảng Dân chủ cánh tả tự do hàng đầu tại Hạ viện, Donald Fraser của bang Minnesota, nói với Quốc hội rằng Quốc hội chỉ nên bỏ phiếu viện trợ cho Campuchia với điều kiện chính phủ Campuchia phải đầu hàng Khmer Đỏ: “Đó phải là một kết thúc được thương lượng – bạn có thể gọi đó là sự đầu hàng được thương lượng, nếu bạn muốn, nhưng là một sự chuyển giao quyền lực có trật tự.” Vài ngày sau, trong phiên điều trần của ủy ban, Dân biểu Fraser lặp lại yêu cầu này với Quyền Ngoại trưởng Robert Ingersoll. Ingersoll trả lời: “Vậy thì ông đang yêu cầu đầu hàng phải không, ông Fraser?” Fraser trả lời: “Phải; trong những hoàn cảnh được kiểm soát để giảm thiểu thiệt hại về nhân mạng… Nếu ngài không sẵn sàng đi theo hướng đó thì tôi cũng không sẵn sàng bầu cho việc chi tiền”.
Richard Nixon phạm một số tội ác; nhưng gây ra các hành động tàn bạo tại nước Campuchia cộng sản không phải là một trong số đó. Nếu bất kỳ người Mỹ nào đáng phải chịu một phần trách nhiệm trong các vụ thảm sát và nạn đói của Khmer Đỏ, thì đó chính là các thành viên Quốc hội phản chiến như Donald Fraser, người đã tìm cách đẩy nhanh chiến thắng của Khmer Đỏ bằng cách từ chối viện trợ quân sự và hỗ trợ trên không của Mỹ cho các đồng minh Campuchia của Mỹ.
Huyền thoại về cựu chiến binh trong Chiến tranh Việt Nam bị rối loạn tâm thần
Hầu hết các nam thanh niên thuộc thế hệ bùng nổ dân số trong tầng lớp uu tú của giới truyền thông Mỹ ngày nay đều tránh phục vụ trong Chiến tranh Việt Nam, thường là bằng cách hoãn dịch vì đang học đại học. Nhà báo nổi tiếng người Mỹ James Fallows là thành viên nổi bật duy nhất của nhóm này đã viết một cách trung thực về việc phong trào phản chiến đã “tỏ ra khinh thường những người da trắng tầng lớp thấp” đã chiến đấu trong cuộc chiến như thế nào. Ông mô tả việc những người cánh tả và những người theo chủ nghĩa tự do giàu có sử dụng “cụm từ ‘con lợn’ để chỉ những người cổ cồn xanh, thuộc tầng lớp thấp hơn, những người đang làm công việc mà họ nghĩ mình có bổn phận phải làm. Họ từng là những ‘con lợn’ đã ra tay trấn áp người da đen ở Mississippi, con cái của những ‘con lợn’ này đã bị đưa đi chết ở Việt Nam, và bây giờ ‘những con lợn’ đang đánh đập những người được chọn của chúng ta, những người biểu tình, ở Chicago.”
Sau khi chiến tranh kết thúc, sự trịch thượng của tầng lớp thượng lưu Mỹ vốn đã tránh né chiến tranh và đẩy nó cho những người Mỹ thuộc tầng lớp lao động và trung lưu chiến đấu đã tìm thấy một biểu hiện mới trong huyền thoại cho rằng một cuộc chiến tranh vô đạo đức, điên rồ đã biến người lính Mỹ trở thành những kẻ suy sụp tinh thần. Năm 1975, nhà báo Tom Wicker của tờ New York Times tuyên bố rằng “hàng trăm ngàn cựu chiến binh trong Chiến tranh Việt Nam” đang phải chịu đựng những tổn thất tâm lý nghiêm trọng do chiến tranh gây ra. Hội chứng này, giờ được dán nhãn Rối loạn Căng thẳng Sau Chấn thương (PTSD), trong thế hệ trước đây được biết là những “cú sốc bom đạn” hay “mệt mỏi trong chiến đấu.” Sự rối loạn này, hay đúng hơn là nhóm rối loạn này, là có thật. Tuy nhiên, những nghiên cứu kỹ càng cho thấy hầu hết các cựu chiến binh Việt Nam không bị ảnh hưởng từ PTSD ở mức độ tỷ lệ lớn hơn so với cựu chiến binh của Thế chiến II. Thật vậy, bản thân số ca tử vong về tâm thần ở Việt Nam rất thấp (12 phần nghìn) so với ở Hàn Quốc (37 phần nghìn) và Thế chiến thứ hai (28-101 phần nghìn). Điều này xảy ra ngay cả khi một cựu chiến binh Việt Nam trung bình dành nhiều thời gian ở vùng chiến sự hơn so với người đồng nhiệm của ông trong Thế chiến thứ hai. Cựu chiến binh Việt Nam được so sánh thuận lợi không chỉ với các cựu chiến binh trong các cuộc chiến trước mà còn với toàn thể dân chúng. Hàng năm kể từ năm 1974, cựu chiến binh Chiến tranh Việt Nam Nam đều có tỷ lệ thất nghiệp thấp hơn mức trung bình toàn quốc. Tỷ lệ ly hôn ở các cựu chiến binh này không cao hơn phần còn lại của dân số. Tom Wicker tuyên bố rằng năm 1975 có 500.000 cựu chiến binh Việt Nam đã toan tính tự sát. Con số này hoàn toàn không có thật; Wicker đã lấy được nó từ tạp chí Penthouse. Trên thực tế, tỷ lệ tự tử trong số các cựu chiến binh Việt Nam cũng tương tự như ở những người không phải cựu chiến binh. Nhiều cựu chiến binh dường như đã phải chịu đựng sự phơi nhiễm chất độc màu da cam làm rụng lá cây, và lạm dụng ma túy là một vấn đề khi còn ở Việt Nam (mặc dù tỷ lệ chỉ tăng khi hơn 90 phần trăm những người phục vụ đã rời đi).
Hầu hết cựu chiến binh Việt Nam không mặc cảm tội lỗi hay cay đắng về vai trò của họ trong chiến dịch thất bại của Mỹ chống lại chế độ toàn trị ở Đông Dương. 71 phần trăm cựu chiến binh Việt Nam được thăm dò vào năm 1980 đồng ý với tuyên bố, “Nhìn lại, tôi vui mừng vì đã phục vụ đất nước của mình.” Không hề bị vỡ mộng bởi kinh nghiệm quân sự của minh, các cựu chiến binh Việt Nam còn thể hiện sự ủng hộ lớn hơn đối với sự can thiệp quân sự của Hoa Kỳ ở nước ngoài so với những người Mỹ khác. Không lâu trước Chiến tranh vùng Vịnh Ba Tư, theo một cuộc khảo sát, 58% cựu chiến binh Việt Nam đồng ý tiến hành chiến tranh với Iraq nếu nước này không rút khỏi Kuwait – so với chỉ 39% dân số nói chung. Trong khi 18 phần trăm công chúng Mỹ cho rằng Hoa Kỳ nên ra khỏi Vịnh Ba Tư, thì chỉ có 8 phần trăm cựu chiến binh Chiến tranh Việt Nam xác nhận Mỹ nên rút lui.
Sự thiên vị liên tục của các phương tiện truyền thông được thể hiện vào năm 1998, khi CNN công bố một tuyên bố sai lầm trong một báo cáo đặc biệt của Peter Arnett cho rằng lính Mỹ đã sử dụng khí độc thần kinh để giết những binh lính Mỹ đào ngũ ở Việt Nam (trong vụ việc được đề cập, hơi cay đã được sử dụng và không có người Mỹ đào ngũ nào có mặt). Việc gieo rắc những thông tin sai lệch về ảnh hưởng của Chiến tranh Nam và các cuộc chiến tranh khác lên binh lính Mỹ nhằm phục vụ cho mục đích của phe cánh tả phản chiến. Như nhà sử học Eric T. Dean, Jr., đã nhận xét, “Hình ảnh các cựu binh Chiến tranh Việt Nam đã tái thích nghi trở lại tốt đẹp và không gặp rối loạn do chiến tranh sẽ làm suy yếu chương trình hoạt động của phe phản chiến, và do đó bằng chứng cho thấy các cựu chiến binh Việt Nam đang tái thích nghi hoặc đã thích nghi tốt đẹp trở lại với xã hội Mỹ có xu hướng bị nhấn chìm bởi sự lên án gay gắt và kích động chống lại chính phủ Hoa Kỳ.”
Việt Nam và các nhà sử học
Năm 1988, sử gia Robert Divine lưu ý rằng “gần như tất cả các phân tích lịch sử đương thời về Chiến tranh Việt Nam đều có chung một tình cảm chán ghét sâu sắc đối với sự can thiệp của Mỹ.” Đối với thế hệ trước, hầu hết các nhà báo và sử gia nào viết về Chiến tranh Việt Nam và chủ nghĩa cộng sản Việt Nam, ngoại trừ các chuyên gia quân sự, đều đã viết như vậy từ quan điểm của cánh tả thân cộng hoặc phản chống cộng. Nó giống như thể lịch sử chiến dịch Thái Bình Dương trong Thế chiến thứ hai được viết bởi những người theo chủ nghĩa biệt lập, những kẻ tin rằng Franklin Roosevelt, một bạo chúa và một tội phạm chiến tranh, đã lừa dối người dân Mỹ tin rằng đã có một mối đe dọa nghiêm trọng của phe Trục nhằm mục đích thưởng cho ngành công nghiệp Mỹ các hợp đồng quân sự béo bở.
Những thành kiến của cánh tả tự do thập niên sáu mươi được thể hiện rõ ràng nhất trong các bài bút chiến được viết vào thời điểm Chiến tranh Việt Nam bởi các nhà báo như Frances Fitzgerald và David Halberstam. Fitzgerald kết thúc bài viết đoạt giải Pulitzer Fire in the Lake [Ngọn lửa trong hồ] với một viễn cảnh đầy hy vọng về một thời kỳ mà “ngọn lửa gay gắt của cách mạng sẽ tẩy sạch mặt hồ của xã hội Việt Nam” và thanh lọc nó khỏi ‘chủ nghĩa cá nhân’ và nạn tham nhũng đi kèm.” Sự ngưỡng mộ không che giấu tương tự đối với những người cộng sản cũng tràn ngập trong Hồ (1971) của David Halberstam. Cuốn sách của Halberstam có lẽ là bức chân dung đồng cảm nhất về một nhà độc tài theo chủ nghĩa Stalin từng được viết bởi một nhà báo Mỹ có uy tín được coi là người theo chủ nghĩa tự do hơn là cực tả.
Trong Hồ, Halberstam bỏ qua bất kỳ đề cập nào đến sự áp bức và tàn ác của chế độ Hồ Chí Minh. Ví dụ, Halberstam viết rằng vào tháng 8 năm 1945, “Việt Minh trong một cú chớp nhoáng đã giành quyền tiếp quản chủ nghĩa dân tộc của đất nước, rằng Hồ đã đạt được tính hợp pháp của quyền lực.” Khi đọc Halberstam, người ta sẽ không bao giờ đoán được rằng vào năm 1945-46 người phó của Hồ là Giáp đã thực hiện một làn sóng khủng bố, trong đó hàng ngàn người theo chủ nghĩa dân tộc phi cộng sản hàng đầu trên lãnh thổ do chế độ Hồ kiểm soát đã bị ám sát, bỏ tù, hành quyết, hay lưu đày. Halberstam lên án tội đàn áp của chế độ Sài Gòn: “Diệm và Mỹ đã ngăn chặn bầu cử vào năm 1956 và Diệm đã tiến hành những cuộc bắt giữ quy mô lớn tất cả các đối thủ chính trị của ông, đặc biệt là những người đã chiến đấu với Việt Minh.” Đối với sự đàn áp nghiêm trọng hơn nhiều ở miền Bắc Việt Nam, không có một từ nào trong cuốn sách của Halberstam. Nạn khủng bố theo kiểu Mao trong tập thể hóa nông nghiệp vào giữa những năm 1950, trong đó ít nhất 10.000 người Bắc Việt bị xử tử ngay lập tức vì họ ở nhầm “giai cấp” không được nhắc đến. Cũng không được nhắc đến là cuộc nổi dậy của nông dân chống cộng diễn ra sau đó, cũng không nhắc lại việc sử dụng bộ đội Miền Bắc để đè bẹp nông dân; cũng không cuộc thanh trừng giới trí thức Miền Bắc; cũng như sự kiện thực tế là số người Việt chạy trốn khỏi chế độ cộng sản trong thời gian tái định cư sau khi Hội nghị Geneva được ký kết gần gấp mười lần số người rời miền Nam ra miền Bắc. Tương đương với cuốn sách của Halberstam chính là một cuốn tiểu sử tâng bốc về Stalin ca ngợi sự lãnh đạo của ông trong Thế chiến thứ hai trong khi bỏ qua bất kỳ đề cập nào đến trại cải tạo, các cuộc thanh trừng và nạn đói ở Ukraine, hoặc một cuốn tiểu sử đáng ngưỡng mộ về Mao mà không đề cập đến Cách mạng Văn hóa hay nạn đói của hàng chục triệu người trong thời kỳ Đại Nhảy vọt.
Halberstam thậm chí còn ít bộc lộ hơn khi chủ đề là quan hệ giữa miền Bắc Việt Nam, Trung Quốc, và Liên Xô. Ông mô tả chính xác lai lịch của Hồ trong Đảng Cộng sản Pháp và nơi ông ấy cư trú ở Liên Xô vào những năm 1930. Nhưng Halberstam bỏ qua bất kỳ đề cập nào đến sự hậu thuẫn của Liên Xô và Trung Quốc dành cho miền Bắc Việt Nam sau năm 1949. “Cho dù siêu cường Mỹ đang viện trợ cho miền Nam; Hồ nhận ra rằng chính quyền Sài Gòn không có sự ủng hộ cơ sở của quần chúng.” Không đề cập đến thực tế là chính quyền Hà Nội được sự giúp đỡ của siêu cường Liên Xô và Trung Quốc, một cường quốc. Việc năm 1950, trước áp lực của Hồ, Stalin ra lệnh cho Mao ủng hộ chế độ Hồ; thực tế là chiến thắng chống Pháp của miền Bắc Việt Nam phụ thuộc vào nguồn viện trợ và cố vấn quân sự của khối Trung-Xô; thực tế là chế độ độc tài của Hồ đã mô phỏng cấu trúc và chính sách của nó theo Trung Quốc của Mao và Liên Xô của Stalin; việc răn đe của Liên Xô và Trung Quốc đã buộc Mỹ phải chiến đấu trong điều kiện bất lợi ở Việt Nam; thực tế là hàng trăm nghìn binh sĩ hậu cần của Trung Quốc, cũng như lực lượng phòng không của Trung Quốc và Liên Xô cũng như các phi công chiến đấu của Liên Xô đã tham gia Chiến tranh Việt Nam; thực tế là Bắc Việt sẽ buộc phải từ bỏ nỗ lực chinh phục miền Nam Việt Nam nếu không có sự trợ cấp khổng lồ của Liên Xô và Trung Quốc – tất cả những sự kiện này đã bị lược bỏ trong cuốn Hồ của Halberstam.
Việc những sự thật đáng nguyền rủa này đã bị cố tình lược bỏ chứ không phải do nhầm lẫn sẽ trở nên rõ ràng khi người ta xem xét các nguồn tư liệu mà Halberstam liệt kê trong thư mục của ông. Cuốn sách của Halberstam loại bỏ mọi nội dung phê phán của tác giả viết về Hồ Chí Minh mà Halberstam đã sử dụng làm nguồn thông tin cho mình. Ví dụ, một trong những người có thẩm quyền với Halberstam, Joseph Buttinger, đã mô tả rất chi tiết sự đàn áp của chính quyền Hồ, và lên án gay gắt nó, trong cuốn Vietnam: A Dragon Embattled [Việt Nam: Một Con Rồng Ứng Chiến (1967). Nguồn tài liệu chính cho Hồ của Halberstam dường như là cuốn sách Hồ Chí Minh do nhà báo phản chiến người Pháp Jean Lacouture xuất bản năm 1968.
Trong một cuộc phỏng vấn vào cuối những năm 1970 với một tờ báo ở Milan, Lacouture, khi đề cập đến chế độ độc tài cộng sản ở Campuchia, đã nói về “nỗi xấu hổ của tôi vì đã góp phần thiết lập một trong những chế độ áp bức nhất mà lịch sử từng biết đến”. Ông ấy nói thêm:
Đối với Việt Nam, hành vi của tôi đôi khi giống một chiến binh hơn là một nhà báo. Tôi đã che đậy một số khuyết điểm của Bắc Việt trong cuộc chiến chống Mỹ, vì tôi tin rằng chính nghĩa của Bắc Việt là tốt đẹp và đủ chính đáng nên tôi không vạch trần những sai sót của họ. Tôi tin rằng đó không phải là lúc để vạch trần bản chất Xta-lin-nit của chế độ Bắc Việt. . . . Nếu xem xét lại tài liệu đúng là tôi chưa kể hết những gì tôi biết về Việt Nam.
Lacouture mô tả các nhà báo ủng hộ Hà Nội ở phương Tây giống như ông là “phương tiện và trung gian cho việc tuyên truyền dối trá và phạm tội, những phát ngôn viên khéo léo cho chế độ chuyên chế nhân danh tự do.” Dựa trên lời thú nhận này, việc Halberstam thậm chí còn ít chỉ trích Hồ hơn so với nguồn tin của ông là Lacouture, khi đó là người ủng hộ Hà Nội, đã đặt ra những câu hỏi nghiêm túc. Halberstam kết thúc cuốn sách của mình với lời tri ân đầy tình cảm đối với người học trò Việt Nam của Stalin: “Trong cuộc đời Hồ Chí Minh đã không chỉ giải phóng đất nước của mình và thay đổi đường lối cai trị của thực dân ở cả Châu Phi và Châu Á, ông còn làm được một điều còn đáng chú ý hơn; ông đã chạm vào văn hóa và tâm hồn của kẻ thù. . . . Đó là một cuộc sống trọn vẹn.”
Lịch sử học thuật Mỹ về Chiến tranh Việt Nam có xu hướng thể hiện những thành kiến tương tự như trong tác phẩm của các nhà báo như Fitzgerald và Halberstam. Nhà sử học Gabriel Kolko thậm chí còn kết thúc tính học thuật lại nhiệt tình một cách trắng trợn với chủ nghĩa Mác-Lê. Lịch sử điển hình của các cuộc chiến tranh Đông Dương được viết theo phong cách chủ nghĩa xét lại cánh tả cuối Chiến tranh Lạnh cũng ra sức củng cố tuyên bố rằng Chiến tranh Việt Nam là một “cuộc chiến chống thực dân” hơn là chiến tranh ủy nhiệm thời Chiến tranh Lạnh bằng cách dành nhiều sự quan tâm cho vai trò của người Pháp từ năm 1945 đến năm 1954 trong khi cẩn thận giảm thiểu vai trò quan trọng của Liên Xô và Trung Quốc ở Đông Dương trong khoảng thời gian từ những năm 1940 đến những năm 1990. Ví dụ, cuốn Vietnam: A History [Việt Nam: Một lịch sử] (1983) của nhà báo Stanley Karnow, có dự định là một cuốn lịch sử toàn diện về cuộc xung đột, chỉ đề cập đến quan hệ Xô-Việt trên 20 trang và quan hệ giữa Trung Cộng và Bắc Việt chỉ trong 22 trang. trong số 684 trang của tác phẩm. Một trong những nỗ lực ngoạn mục nhất gần đây để viết lại lịch sử nhằm loại bỏ Chiến tranh Lạnh khỏi Chiến tranh Việt Nam xuất hiện vào ngày 22 tháng 6 năm 1997, trong chuyên mục Week in Review của tờ New York Times. Trong bài báo có tựa đề “Chiến tranh tiếp diễn (và tiếp diễn) ở Campuchia như thế nào”, Barbara Crossette mô tả những người cộng sản của Hồ là “phong trào dân tộc cánh tả”. (Dường như ngay cả trong những năm 1990, từ “chủ nghĩa cộng sản” cũng không thể được dùng để mô tả những người theo chủ nghĩa Stalin ở Đông Dương trên tờ Times.) Crossette mô tả lịch sử Đông Dương từ thế kỷ 19 cho đến những năm 1990 mà không một lần nhắc đến Liên Xô, quê hương của Hồ Chí Minh trong một thập kỷ, hình mẫu chính cho chế độ của ông, đồng thời là người bảo vệ, tài trợ và cung cấp chính cho miền Bắc Việt Nam từ giữa những năm 1960 cho đến đầu những năm 1990.
Khía cạnh kỳ dị nhất của lịch sử theo chủ nghĩa xét lại cánh tả là xu hướng các nhà sử học chống Chiến tranh Lạnh xem các nhận thức chính xác của các nhà hoạch định chính sách Chiến tranh Lạnh của Mỹ như thể chúng chỉ là ảo tưởng. Trong cuốn sách President’s Secret Wars [Những cuộc chiến bí mật của các tổng thống] (1990), nhà sử học John Prados, sau khi mô tả cách Liên Xô vận chuyển vũ khí và vận chuyển từ 25 đến 30 nghìn quân Cuba đến giúp đỡ các đàn em Liên Xô ở Angola, đã viết: “Viện trợ của khối Liên Xô dường như biến Angola trở thành chiến trường Chiến tranh Lạnh trong mắt Washington.” Sự can thiệp quy mô lớn của khối Liên Xô đúng là đã biến Angola trở thành chiến trường Chiến tranh Lạnh. Để có một công thức tương đương với công thức của Prados, người ta phải tưởng tượng một nhà sử học viết “Cuộc xâm lược Hy Lạp của Hitler để giúp Mussolini đối với các nhà hoạch định chính sách chống phát xít ở London và Washington có vẻ như để xác nhận sự tồn tại của một ‘âm mưu phát xít quốc tế’ bao gồm cả cái gọi là các cường quốc phe Trục.” Trong nghiên cứu Masters of War: Military Dissent and Politics in the Vietnam Era [Các Bậc thầy Chiến tranh: Bất đồng Quân sự và Chính trị trong Kỷ nguyên Việt Nam (1996), Robert Buzzanco đề cập đến “cuộc giải phóng Sài Gòn năm 1975” và viết về “nam Việt Nam” để không “chuyển tải vị thế quốc gia nơi nó chưa được thành lập” (theo lý thuyết này, cả Tây Đức lẫn Hàn Quốc đều không phải là những quốc gia hợp pháp).
Sách giáo khoa Trung học cũng như đại học cũng đã thể hiện sự thiên kiến về ngữ nghĩa của cánh tả cực đoan và tự do. Martin F. Herz, khi nghiên cứu sáu cuốn sách giáo khoa trung học hàng đầu vào năm 1978, đã phát hiện ra rằng hầu hết chúng đều sử dụng những uyển ngữ như “người theo chủ nghĩa dân tộc đại chúng” và “thân cộng” thay cho từ “cộng sản”. Theo Herz, “Điều đáng chú ý là trong khi tất cả các sách giáo khoa đều mô tả chế độ của Diệm là ‘đàn áp’, không cuốn nào cho rằng cần phải đưa ra bất kỳ nhận xét tương tự nào về chế độ ở Bắc Việt, vốn là chế độ toàn trị, còn đàn áp hơn nhiều.”
Xu hướng xét lại chống Chiến tranh Lạnh trong các bộ phận lịch sử và khoa học chính trị Hoa Kỳ do phe cánh tả thống trị vào nửa sau cuộc Chiến tranh Lạnh gợi lại làn sóng chủ nghĩa xét lại trước đó. Sau Thế chiến thứ nhất, hầu hết các nhà sử học Mỹ đều là những người theo chủ nghĩa Wilson hoặc những người theo chủ nghĩa biệt lập, những người phản đối việc can thiệp quân sự ở nước ngoài, đặc trưng cho cách họ đối xử với chính sách của Mỹ ở Châu Âu, Châu Mỹ Latinh và Châu Á. Trong Tạp chí Yale tháng 6 năm 1951, Dexter Perkins, khi mô tả các nhà sử học ngoại giao chính thống của Hoa Kỳ thuộc thế hệ giữa các cuộc chiến, đã lưu ý rằng họ có xu hướng kết luận “rằng chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ hầu như đều không phù hợp; rằng mọi cuộc chiến mà đất nước này tham gia đều thực sự không cần thiết hoặc vô đạo đức hoặc cả hai, và trong tương lai chúng ta cần theo đuổi những chính sách rất khác với những chính sách đã theo đuổi trong quá khứ.” Nhưng trong những năm sau Trân Châu Cảng, theo nhà sử học Jerald A. Combs trong một cuộc khảo sát về lịch sử ngoại giao Hoa Kỳ, hầu hết các nhà sử học Mỹ “có xu hướng nghiên cứu chủ nghĩa biệt lập như một loại bệnh lý.” Sau đó, sau hậu quả của Chiến tranh Việt Nam, “chủ nghĩa hiện thực cứng rắn nhấn mạnh đến việc không thể tránh khỏi xung đột” đã trở nên lỗi thời trong giới sử gia học thuật Mỹ. Trong một phần tư cuối của thế kỷ 20, các trường phái thống trị là chủ nghĩa hiện thực tối thiểu, chống can thiệp và chủ nghĩa xét lại biệt lập của cánh ta-tự do. “Hầu hết tất cả các nhà sử học chính thống đều nghiêng về đường lối phê bình của Kennan-Lippmann về chính sách Chiến tranh Lạnh của Mỹ và cho rằng Hoa Kỳ phải chịu một phần trách nhiệm trong việc leo thang và làm căng thẳng Chiến tranh Lạnh, nếu không muốn nói là khởi xướng nó.”
Năm 1983, Combs kết thúc cuộc khảo sát của mình bằng câu “Tôi tin rằng chúng ta vẫn đang ở Thời đại Việt Nam”. Không có sự thay đổi mạnh mẽ trong văn hóa chính trị của các sử gia hàn lâm Mỹ, “hầu hết các sử gia có lẽ sẽ tiếp tục sử dụng ảnh hưởng của mình để chống lại sự can thiệp và ủng hộ sự kiềm chế.” May mắn thay, làn sóng mới của lịch sử hậu và chống chủ nghĩa xét lại được viết trong những năm gần đây bởi các học giả không cảm tình với chủ nghĩa toàn trị của phe cánh tả và có thiện cảm với các mục tiêu của Mỹ trong Chiến tranh Lạnh cho thấy rằng chỉ là vấn đề thời gian trước khi con lắc quay trở lại hướng tới một cách tiếp cận hợp lý và cân bằng hơn đối với chính sách đối ngoại của Mỹ. Trong bài phát biểu tổng thống năm 1989 của mình trước Tổ chức các Nhà Sử học Hoa Kỳ, David Brion Davis đã nhận xét rằng “bây giờ chúng ta có thể thấy sự vô lý của quan điểm thời thượng gần đây cho rằng trong hai thế kỷ, Hoa Kỳ đã đấu tranh để bảo tồn một Hiện tại xơ cứng và đẩy lùi Tương lai, như được thể hiện bởi một thế giới cách mạng phục hưng.