Lý giải lại cuộc chiến thảm khốc nhất của Hoa Kỳ

Michael Lind
Trần Quang Nghĩa dịch
CHƯƠNG 4 : SỰ THẤT THỦ CỦA WASHINGTON
Nền Nội Chính Mỹ trong Chiến Tranh Việt Nam
Sài Gòn rơi vào tay xe tăng Bắc Việt do Liên Xô cung cấp vào năm 1975. Nhưng theo nghĩa bóng, Washington, D.C., đã thất thủ vài năm trước đó. Trong khoảng một thập kỷ, giữa cuộc tấn công Tết Mậu Thân năm 1968 và cuộc xâm lược Afghanistan của Liên Xô năm 1979, Hoa Kỳ đã từ bỏ chính sách ngăn chặn toàn cầu mà nước này đã đi theo kể từ chính quyền Truman để ủng hộ một số chiến lược tạm thời nhằm che giấu thực tế về sự rút lui và sự mất tinh thần của Hoa Kỳ – chinh sach “hòa hoãn” của Nixon, chính sách “nhân quyền” của Carter. Nguyên nhân chính dẫn đến sự rút lui của Hoa Kỳ trong những năm 1970 là sự sụt giảm sự ủng hộ của công chúng đối với việc can thiệp quân sự ở nước ngoài do chi phí của Chiến tranh Việt Nam gây ra.
Đến năm 1968, con số thương vong cao của quân Mỹ đã làm xói mòn sự hậu thuẫn của công chúng Mỹ đối với nỗ lực của Mỹ ở Đông Dương. Thách thức đối với Richard Nixon, người nhậm chức vào năm 1969, là giảm bớt sự can dự của Mỹ vào Đông Dương theo cách duy trì được sự ủng hộ trong nước dành cho Chiến tranh Lạnh ở các vũ đài khác.
Thật không may, Nixon, quá nhấn mạnh đến uy tín địa chính trị của Hoa Kỳ và quá ít chú ý đến sự đồng thuận chính trị trong nước ủng hộ Chiến tranh Lạnh đang bị đe dọa, đã vô tình giúp kích động một phản ứng dữ dội của chủ nghĩa tân biệt lập bằng cách theo đuổi một chiến lược gỡ thoát kéo dài khiến thêm 24.000 người Mỹ thiệt mạng vào tổng số người thiệt mạng trong những năm Johnson. Được tiếp tay bởi các “con cú” hoảng sợ hoặc những người theo chủ nghĩa can thiệp ôn hòa, phe “bồ câu” chống giới quân sự, chống can thiệp trong Quốc hội Hoa Kỳ, noi gương bọn theo chủ nghĩa biệt lập tiến bộ từng phản đối chính sách đối ngoại của Franklin Roosevelt vào những năm 1930, đã nhằm tìm cách tước bỏ các đặc quyền về chính sách đối ngoại của tổng thống và áp đặt các lệnh cấm vận đối với viện trợ công khai hoặc bí mật của Hoa Kỳ cho các đồng minh và đàn em của Mỹ chống lại khối Xô Viết ở Đông Dương, Châu Phi và Trung Mỹ. Liên Xô đã lợi dụng chủ nghĩa biệt lập hậu Việt Nam của Hoa Kỳ để tham gia vào một chiến dịch xây dựng đế chế táo bạo ở Thế giới thứ ba, chiến dịch này chỉ bị đảo ngược bởi Chiến tranh Lạnh lần thứ hai tốn kém và nguy hiểm do Hoa Kỳ và các đồng minh tiến hành vào những năm 1980.
Khi đó, công luận Mỹ là nhân tố then chốt dẫn đến kết quả thảm khốc ở Việt Nam cũng như kết quả thành công của Chiến tranh Lạnh. Theo lời của Leslie H. Gelb và Richard Betts, “Công luận Mỹ là quân cờ domino thiết yếu.” Mặc dù điều này được công nhận rộng rãi, nhưng hầu hết các thảo luận về cuộc tranh luận chính trị của Hoa Kỳ về Chiến tranh Việt Nam đều coi cuộc tranh luận đó như thể diễn ra trong khoảng trống văn hóa và xã hội. Các phe đối lập thường được nhận diện theo các phạm trù “tả” và “hữu”, những phạm trù lợi ích không rõ ràng bắt nguồn từ nền chính trị của châu Âu thế kỷ 19. Trên thực tế, các nhãn hiệu hệ tư tưởng như “tự do” và “bảo thủ”, cũng như các nhãn hiệu đảng phái như “Đảng Dân chủ” và “Đảng Cộng hòa” kém hữu ích trong việc dự đoán quan điểm của bất kỳ người Mỹ nào về Chiến tranh Việt Nam nói riêng và Chiến tranh Lạnh nói chung hơn là sắc tộc, chủng tộc, tôn giáo và bối cảnh khu vực. Chiến tranh Việt Nam bị người da đen, người Do Thái và người theo đạo Tin lành da trắng ở New England và các khu vực như thượng Trung Tây, thảo nguyên phía bắc và Tây Bắc Thái Bình Dương phản đối một cách không cân xứng. Người miền Nam da trắng ủng hộ chiến tranh một cách không cân xứng. Người Thiên chúa giáo da trắng cũng có xu hướng ủng hộ chiến tranh, nhưng nhóm này rất phức tạp và chia rẽ.
Điều gì giải thích cho sự chia rẽ có tính dân tộc và khu vực này? Không giống như trường hợp trong Thế chiến I và II, số dân Mỹ gốc Đông Dương không đáng kể để so sánh được với số dân Mỹ gốc Đức và Nhật như trong Thế chiến I và II. Lợi ích kinh tế hay giai cấp cũng không ảnh hưởng đến thái độ của người Mỹ. Giả thuyết cho rằng những chia rẽ này bắt nguồn từ truyền thống văn hóa được xác nhận bởi thực tế là sự phân chia công chúng thành các nhóm ủng hộ và phản chiến đã có từ lâu và vẫn tồn tại sau Chiến tranh Việt Nam.
Sắc tộc và chiến tranh Việt Nam
Người Mỹ da đen có nhiều khả năng hơn hẳn người Mỹ da trắng để phản đối các cuộc chiến tranh nước ngoài của Hoa Kỳ mỗi khi dữ liệu về chủ đề này được thu thập. Các nhà lãnh đạo Mỹ da đen, đồng nhất chủ nghĩa bành trướng của Mỹ với chế độ nô lệ và phân biệt chủng tộc, lên án Chiến tranh Mexico và Chiến tranh Mỹ-Tây Ban Nha, kích động việc chấm dứt sự chiếm đóng của Hoa Kỳ tại Haiti bắt đầu từ năm 1915 nhằm ngăn chặn ảnh hưởng của Đức, và đặc biệt quan tâm đến điều kiện của người da đen và người lai da đen ở Khu kênh đào Panama do Mỹ cai trị. Trong thế kỷ 20, những người da đen theo chủ nghĩa tự do có xu hướng đồng cảm với các phong trào chống thực dân phi cộng sản ở Châu Phi, Châu Á và Châu Mỹ Latinh; Ấn Độ của Gandhi đã cung cấp hình mẫu cho Martin Luther King, Jr. Ngược lại, những người da đen cấp tiến như W. E. B. DuBois và Paul Robeson lại có nhiều khả năng đồng nhất với Chủ nghĩa Mác-Lê ở Liên Xô và Thế giới thứ ba.
Nhiều lính Mỹ da đen ủng hộ nỗ lực của Mỹ ở Đông Dương. Người Mỹ da đen, những người không nhận được Huân chương Danh dự trong Thế chiến thứ nhất hoặc Thế chiến thứ hai, đã nhận được 20 trong số 237 Huân chương được trao trong Chiến tranh Việt Nam. Tướng Colin Powell (một người da màu), người sau này sẽ tiếp tục chỉ huy quân đội Hoa Kỳ với tư cách là Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân trong Chiến tranh vùng Vịnh Ba Tư, đã giành được 11 huy chương ở Việt Nam, trong đó có Ngôi sao đồng và Trái tim Tím. Đồng thời, một bộ phận đáng kể người Mỹ da đen vô cùng nghi ngờ quân đội Hoa Kỳ, vốn trong phần lớn lịch sử của quân đội này đã mang tính phân biệt chủng tộc và thống trị bởi những người miền Nam phân biệt chủng tộc. Trong Thế chiến thứ hai, nhà lãnh đạo dân quyền da đen tương lai Bayard Rustin từ chối nhập ngũ, lập luận chống lại “sai lầm đạo đức cho rằng chủ nghĩa phân biệt chủng tộc (Mỹ) có thể thắng được chủ nghĩa phân biệt chủng tộc (Phát xít).” Lãnh đạo Quốc gia Hồi giáo Elijah Muhammad và một số người theo chủ nghĩa dân tộc da đen đồng hương đã bị kết án tù trong Thế chiến thứ hai vì ủng hộ việc trốn quân dịch, cũng như thành viên Quốc gia Hồi giáo Muhammad Ali vì đã từ chối nhập ngũ trong Chiến tranh Việt Nam.
Nếu tình cảm phản chiến của người Mỹ da đen phản ánh lịch sử xa lánh một xã hội phân biệt chủng tộc, thì sự phản đối của nhiều người Do Thái ở Mỹ đối với sự can thiệp quân sự của Hoa Kỳ ở nước ngoài phản ánh truyền thống mạnh mẽ của chủ nghĩa xã hội cộng sản và phi cộng sản mà nhiều người Do Thái nhập cư vào đầu thế kỷ 20 đã mang theo từ đế chế Nga hoàng cũ ở Nga và Đông Âu. Hầu hết người Do Thái ở Mỹ trong thế kỷ 20 đều trở thành những người theo chủ nghĩa tự do chính thống. Mặc dù vậy, số lượng người cấp tiến trong cộng đồng Do Thái tuy ngày càng giảm đã đóng góp nhiều hơn so với số lượng của họ cho Đảng Cộng sản Hoa Kỳ cũng như cho các đồng minh và đối thủ của nó ở cánh tả Mỹ, vốn bị thống trị bởi người nhập cư Đức và Scandinavi vào thế kỷ 19. Mặc dù chỉ có một thiểu số nhỏ người Do Thái ở Mỹ là những người cộng sản, nhưng đến những năm 1930 đa số người cộng sản Mỹ là người Do Thái. Một thế hệ sau, nhiều trí thức chống cộng hàng đầu trong Chiến tranh Lạnh là những người Mỹ gốc Do Thái trước đây là cộng sản nhưng đã đoạn tuyệt với đảng do Moscow kiểm soát. Sự chia rẽ cánh tả của người Mỹ gốc Do Thái thành các phe thân cộng, chống cộng và chống chống cộng đã khiến cho các cuộc tranh chấp nội bộ của họ trở nên phức tạp như kính vạn hoa.
“Không ai không nhận thấy rằng trong phong trào sinh viên Mỹ những năm 1960, sinh viên gốc Do Thái đóng một vai trò đặc biệt,” Paul Berman đã nhận xét. Một cuộc khảo sát do Bộ Giáo dục tiến hành trên toàn quốc vào năm 1966-67 tiết lộ rằng yếu tố dự đoán tốt nhất về các cuộc biểu tình trong khuôn viên trường là tỷ lệ sinh viên Do Thái cao ở trường ấy. Ngoài người Do Thái, rất ít sinh viên Mỹ trong những năm 60 là người cấp tiến. Ở đỉnh cao của phong trào phản chiến năm 1970, chỉ có 11% sinh viên đại học Mỹ tự nhận mình là “cực đoan hoặc cực tả.” Nhà khoa học chính trị John E. Mueller suy đoán rằng chủ nghĩa cánh tả trong khuôn viên trường ít liên quan đến những phẩm chất được cho là bẩm sinh của trí thức như một “giai cấp mới” hay “văn hóa thù địch” hơn với di sản sắc tộc của người trí thức Do Thái:
Bên ngoài một ít bộ phận trong một ít thành phố những nơi duy nhất có thể nhận dạng được dễ dàng trong đó người Do Thái được tìm thấy chiếm tỷ số chênh lệch rõ rệt là các trường cao đẳng và đại học trên nội địa — và nhất là những trường có tiếng hơn. Do đó, chủ nghĩa tự do của những người liên kết với các trường đại học tốt hơn có thể không xuất phát từ bất cứ điều gì đặc hữu trong tình hình trường đại học. Đúng hơn, nó có thể xuất phát từ ảnh hưởng của một nhóm nhỏ trong cộng đồng đại học có khuynh hướng theo chủ nghĩa tự do và phản đối chiến tranh bất kể mối liên hệ của họ với trường đại học.
Sự hiện diện của một thiểu số cực đoan đáng kể trong cộng đồng người Mỹ gốc Do Thái là nguyên nhân dẫn đến sự khác biệt với chuẩn mực quốc gia trong thái độ của họ đối với Chiến tranh Việt Nam. Năm 1964, số người Do Thái ủng hộ việc rút khỏi Việt Nam hoàn toàn cao gấp đôi so với số người theo Tin lành và Thiên chúa giáo và thấp hơn một nửa so với số người theo đạo Tin lành và Thiên chúa giáo đồng ý với tuyên bố “Hãy giữ vững lập trường mạnh mẽ hơn ngay cả khi điều đó có nghĩa là phải xâm lược miền Bắc Việt Nam”. Năm 1970, khi đa số người Tin lành và Thiên chúa giáo ủng hộ việc chiến đấu hoặc leo thang chiến tranh trong khi đàm phán, một nửa số người Do Thái được khảo sát ủng hộ việc rút quân ngay lập tức. “Nhóm dân số lớn duy nhất không có mặt trong số những người thiệt mạng trong chiến tranh ở Việt Nam tương ứng với nhân khẩu học ở Hoa Kỳ của họ là những người tự nhận mình là Do Thái,” B. G. Burkett và Glenna Whitley viết trong Stolen Valor (1998), nghiên cứu về huyền thoại và sự thật về các cựu chiến binh Việt Nam. Mặc dù người Do Thái chiếm 2,5% dân số Hoa Kỳ, nhưng người Do Thái chỉ chiếm 0,46% số ca tử vong liên quan trong Chiến tranh Việt Nam. Lời giải thích rõ ràng cho sự khác biệt này là việc sinh viên Do Thái sử dụng luật sinh viên được hoãn thi hành nghĩa vụ quân sự cho đến sau khi tốt nghiệp cao hơn tỷ lệ trung bình để tránh phải nhập ngũ. Trong khi người Do Thái chiếm đại diện đông đảo trong phong trào cánh tả chống Chiến tranh Lạnh ở Hoa Kỳ, thì các chính trị gia và nhà tư tưởng Thiên chúa giáo lại chiếm tỷ lệ không tương xứng trong số các nhà lãnh đạo Mỹ chống chủ nghĩa cộng sản. Cộng đồng Thiên chúa giáo Hoa Kỳ bao gồm nhiều nhóm sắc tộc khác nhau, đến Mỹ vào các thời kỳ khác nhau. Tuy nhiên, có thể khái quát hóa. Sự phản đối của Thiên chúa giáo Mỹ đối với chủ nghĩa Mác-Lê được xúc tác bởi sự tàn bạo chống giáo hội của Cách mạng Bolshevik. Vào những năm 1930, nhiều người Thiên chúa giáo Mỹ có thiện cảm với Tây Ban Nha của Franco, quốc gia tự coi mình là nước bảo vệ nền văn minh Kitô giáo chống lại chủ nghĩa cộng sản. Sau Thế chiến II, chủ nghĩa chống cộng của Thiên chúa giáo ở Hoa Kỳ được củng cố bởi sự đàn áp của Liên Xô đối với giáo hội ở đế quốc Đông Âu. Theo sử gia Michael Kazin, “Các tổ chức Thiên chúa giáo này đã tạo thành một đạo quân tinh nhuệ nhất và được tài trợ tốt nhất cũng như kiên định nhất trong phong trào chống Cộng.” Bất chấp sự nổi bật của những người Cộng hòa và những người bảo thủ chống cộng theo Thiên chúa giáo như Thượng nghị sĩ Joseph McCarthy và William F. Buckley, Jr., hầu hết người Thiên chúa giáo Mỹ trong Chiến tranh Lạnh vẫn giữ lòng trung thành với Đảng Dân chủ, đảng mà theo lịch sử họ từng là đồng minh của những người Tin lành da trắng miền Nam. Những người Thiên chúa giáo Mỹ gốc Ái Nhĩ Lan vốn thống trị phong trào lao động Mỹ, như George Meany của AFL-CIO (Liên đoàn Lao động và Đại hội các Tổ chức Công nghiệp Hoa Kỳ), ra sức thanh lọc hàng ngũ lao động có tổ chức do những người cộng sản Moscow kiểm soát, đồng thời nhiệt tình ủng hộ chính sách đối ngoại chống cộng của những người theo chủ nghĩa tự do trong thời Kinh tế Mới/Chiến tranh Lạnh. Tuy nhiên, bắt đầu từ chiến dịch tranh cử tổng thống của George Wallace và Richard Nixon trong tầng lớp lao động năm 1968, nhiều Thiên chúa giáo cứng rắn đã đoạn tuyệt với Đảng Dân chủ để ủng hộ các ứng cử viên tổng thống của Đảng Cộng hòa, bác bỏ quan điểm chính sách đối ngoại ngày càng “bồ câu” của hàng giáo phẩm Thiên chúa giáo và những người chủ hòa Thiên chúa giáo như Dorothy Day và Anh em nhà Berrigan.
Điều đáng chú ý là nhóm người Mỹ duy nhất có đại diện đông đảo trong lực lượng vũ trang Hoa Kỳ trong chiến tranh Việt Nam là người Thiên chúa giáo. Mặc dù người Thiên chúa giáo chỉ chiếm khoảng 24% dân số, nhưng có khoảng 30% số lính Mỹ thiệt mạng tại Việt Nam là theo Thiên chúa giáo.
Phân Chia Vùng Miền về Chiến tranh lạnh
Mô hình chủ nghĩa biệt lập và chủ nghĩa can thiệp miền bắc miền nam, có từ thời lập quốc và hai Thế chiến, tiếp tục diễn ra trong Chiến tranh Lạnh. Thượng nghị sĩ bang Ohio Robert A. Taft đã bỏ phiếu chống lại cả Kế hoạch Marshall và NATO. Di sản của chủ nghĩa biệt lập ở vùng Đại New England giải thích sự thật kỳ lạ rằng William Langer, một thượng nghị sĩ Đảng Cộng hòa cấp tiến từ Bắc Dakota, đã phản đối thượng nghị sĩ chỉ trích Joseph McCarthy của Wisconsin và việc McCarthy được con trai của Robert La Follette là Philip ngưỡng mộ. Mặc dù tính cách mị dân của McCarthy thường được cho là xuất phát từ nền tảng Thiên chúa giáo Ái Nhĩ Lan của ông, nhưng sự căm ghét và nghi ngờ của ông đối với các cơ quan an ninh Mỹ đã gây được tiếng vang với nhiều người theo chủ nghĩa biệt lập tiến bộ cánh tả ở Wisconsin và các bang lân cận. Quả thực, không phải ngẫu nhiên mà chính khu vực này đã sản sinh ra cả thượng nghị sĩ bang Wisconsin Joseph McCarthy, người quyết tâm vạch trần âm mưu cộng sản lật đổ các cơ quan an ninh quốc gia Mỹ vào những năm 1950, và thượng nghị sĩ Idaho đầy quyết tâm Frank Church, vạch trần sự vô đạo đức của CIA trong những năm 1970. Cả Giáo hội phải được đặt trong bối cảnh hai thế kỷ vùng Đại New England phản đối quân đội thường trực và tình trạng an ninh quốc gia. Đó cũng không phải là một sự tình cờ khi McCarthy thuộc bang Wisconsinian công kích nhắm vào Tướng George Marshall nguyên quán ở Virginia và phần lớn quân đội Hoa Kỳ ở miền Nam, cuối cùng đã dẫn đến sự sụp đổ của ông ta dưới bàn tay của Quốc hội Hoa Kỳ do miền Nam thống trị.
Tính liên tục trong khu vực trong chính sách đối ngoại của Mỹ trong Chiến tranh Lạnh là rõ ràng bất chấp sự tái tổ chức chính trị năm 1964-94, trong đó hai đảng đã thay đổi khu vực bầu cử của mình. Khi phong trào Goldwater cánh hữu, có trụ sở ở miền Nam và miền Tây, trở nên mạnh mẽ hơn trong Đảng Cộng hòa, ngày càng có nhiều đảng viên Cộng hòa tiến bộ và tự do từ các bang New England và các bang miền Bắc như Ohio, Michigan, Wisconsin, Dakotas và Oregon gia nhập đảng Dân chủ. Đồng thời, người da đen rời bỏ đảng của Lincoln và gia nhập các đồng minh da trắng Do Thái và Tin Lành truyền thống ở miền bắc của họ trong liên minh Dân chủ. Trong khi đó, người miền Nam da trắng và chậm hơn là người Thiên chúa giáo da trắng miền Bắc gia nhập Đảng Cộng hòa. Đến đầu những năm 1970, liên minh Do Thái-Da đen-Tin lành ở Đại New England chiếm ưu thế trong Đảng Dân chủ. Năm 1972, các lãnh đạo Đảng Dân chủ Thiên chúa giáo miền Bắc như Thị trưởng Richard Daley của Chicago và nghị sĩ bang Massachusetts Tip O’Neill đã bị từ chối ghế tại đại hội toàn quốc của Đảng Dân chủ, đã đề cử George McGovern. Sau cuộc bầu cử quốc hội năm 1974, các chủ tịch ủy ban Dân chủ miền Nam bảo thủ và ôn hòa đã bị hầu hết các nhà cải cách cánh tả tự do miền Bắc thanh trừng. (Năm 1955-56, hai phần ba số chủ tịch đảng Dân chủ của các ủy ban Hạ viện là người miền Nam.)
Nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ của chủ nghĩa tự do Chiến tranh Lạnh trong Đảng Dân chủ không phải là Chiến tranh Việt Nam mà là sự chuyển biến trong cơ sở của Đảng Dân chủ. Ngay cả nếu không có Chiến tranh Việt Nam, Đảng Dân chủ có lẽ cũng đã nghiêng theo chủ nghĩa biệt lập hơn trong những năm 1960 và những năm 1970 khi cơ sở nhân khẩu học của nó di chuyển về phía bắc. Lyndon Johnson, một sản phẩm của liên minh Chính sách Kinh tế Mới theo Thiên chúa giáo miền Nam/Bắc cũ, nhận thấy mình đang đứng đầu một đảng ngày càng được đồng nhất với những người theo đạo Tin lành và người Do Thái chống quân đội ở miền Bắc. Lady Bird Johnson vào năm 1967 đã ngạc nhiên về cách mà Đảng Cộng hòa ủng hộ Chiến tranh Lạnh trong khi Đảng Dân chủ đang từ bỏ nó: “Lyndon và tôi đã xem thượng nghị sĩ John Tower của Đảng Cộng hòa và thượng nghị sĩ Joe Clark của Đảng Dân chủ trên truyền hình-chương trình Today nói về Việt Nam. Thật là một sự xoay chuyển của số phận khi thấy Chính quyền- thực sự là chúng ta đang được giải thích, được ủng hộ-vâng,
thậm chí còn được bảo vệ bởi John Tower, trong khi đảng viên Đảng Dân chủ nóng nảy Joe Clark đả kích chính sách của chính quyền bằng sự thù hận và cảm xúc.” Điều mà Đệ nhất phu nhân không chú ý là thực tế rằng sự khác biệt ít mang tính đảng phái hơn so với khu vực: Tower đến từ Texas, Clark từ Pennsylvania (Thượng nghị sĩ George Aiken, người nổi tiếng với câu nói rằng Hoa Kỳ nên tuyên bố chiến thắng và rút khỏi Việt Nam, đến từ Vermont.)
Khi tiếp quản Đảng Dân chủ, những người theo chủ nghĩa tự do cánh tả và các nhà hoạt động cấp tiến, nhiều người trong số họ xuất thân từ những người theo chủ nghĩa Cộng hòa hoặc Marxist tiến bộ – đã loại bỏ tính hợp pháp của những thành phần lớn tuổi hơn trong đảng bằng cách bôi nhọ họ.
Lính Mỹ, có nhiều khả năng là người miền Nam hơn là người miền Bắc, là những kẻ “giết trẻ em” và “Đức Quốc xã”; cảnh sát đông bắc, có nhiều khả năng là người Thiên chúa giáo người Mỹ gốc Ireland, người Mỹ gốc Ba Lan hoặc người Mỹ gốc Ý hơn là người Yankee hay người Đức- hoặc
Những người theo đạo Tin lành người Mỹ gốc Scandinavi, người Do Thái hoặc người da đen, bị tố cáo là “lợn” và “phát xít”. Các nhà lãnh đạo lao động ủng hộ Chiến tranh Lạnh, phần lớn là người Thiên chúa giáo Ireland, là “những kẻ phát xít lao động”. Trong những năm 1960 và 1970, các thể chế trong đó liên minh cánh tả theo đạo Tin Lành/Do Thái ở miền Bắc chiếm đa số – đó là báo chí, các trường đại học và tòa án liên bang được xác định bởi
phương tiện truyền thông và Hollywood với sự tự do và công lý, trong khi các thể chế mà Đảng Dân chủ Chính sách Kinh tế Mới theo Thiên chúa giáo da trắng miền nam/miền bắc thống trị – bộ máy chính trị đô thị, quân đội Hoa Kỳ, cảnh sát, Quốc hội Hoa Kỳ và các cơ quan lập pháp đều phỉ báng nhà nước là chuyên chế và tham nhũng. Những cuộc đấu tranh trong nội bộ Đảng Dân chủ trong thời kỳ Việt Nam chỉ mang tính chất bề ngoài về mặt tư tưởng. Họ thực sự nói về văn hóa nhóm khu vực, sắc tộc và chủng tộc. Tương tự, các phép chia. trong Đảng Cộng hòa về vấn đề Việt Nam và Chiến tranh Lạnh đã đi theo những ranh giới địa lý quen thuộc trong các cuộc chiến tranh trước đây của Mỹ. Đảng Cộng hòa miền Bắc
có xu hướng ôn hòa hơn các đảng viên Đảng Dân chủ miền Nam. Tại một hội nghị thống đốc đảng Cộng hòa năm 1965, hai thống đốc duy nhất từ chối ký nghị quyết ủng hộ chiến tranh là hai chính trị gia thuộc vành đai chống can thiệp của Đại New England – George Romney của Michigan và Mark Hatfield, lúc đó là thống đốc bang Oregon.34 Vào mùa xuân Năm 1967, ba thượng nghị sĩ Đảng Cộng hòa từ Đại New England – Jacob Javitz của New York, Charles Percy của Illinois, và Margaret Chase Smith của Maine – đã gặp nhau để thúc đẩy đường lối ôn hòa hơn của Đảng Cộng hòa. Mark Hatfield, thượng nghị sĩ được bầu, bắt đầu kêu gọi đảng Cộng hòa là đảng
“đảng hòa bình” năm 1968. Sự chuyển đổi của các đảng viên Cộng hòa Đại New England sang đảng Dân chủ được tượng trưng bằng sự cải đạo của thượng nghị sĩ Floyd Haskell của bang Colorado, một đảng viên Cộng hòa phản chiến.
sự tương phản
Sự khác biệt giữa chủ nghĩa chống can thiệp của miền Bắc và chủ nghĩa can thiệp của miền Nam có thể được minh họa bằng sự so sánh giữa thượng nghị sĩ Frank Church của Idaho và Dân biểu Mendel Rivers của Charleston, Nam Carolina, người từng là chủ tịch Ủy ban Quân vụ Hạ viện từ năm 1965 đến năm 1970. Các cơ quan chính sách chiến tranh và an ninh quốc gia như CIA, đã tham gia một cơ hội chụp ảnh vào năm 1966, trong đó ông
giơ cao bức ảnh của người anh hùng và người tiền nhiệm của ông tại Thượng viện bang Idaho: thượng nghị sĩ Đảng Cộng hòa theo chủ nghĩa biệt lập giữa hai cuộc chiến, William Borah. Rivers, phản ánh truyền thống “những kẻ ăn lửa” Nam Carolina trong thế kỷ 19, đã tóm tắt thái độ của ông đối với Chiến tranh Việt Nam do đó: “Lời nói không có kết quả, công hàm ngoại giao cũng vô ích. Chỉ có thể có một câu trả lời cho nước Mỹ: trả thù, trả thù, trả thù, trả thù! Họ nói, ‘Bỏ ném bom đi’. Tôi nói, ‘Bom!’ “
Chỉ với năm trường hợp ngoại lệ, mỗi người trong số 15 thành viên Quốc hội lên án chiến dịch ném bom Linebacker II của Tổng thống Nixon chống lại miền Bắc Việt Nam đều được trích dẫn trong
báo chí uy tín đến từ một bang nằm trong vành đai biệt lập Greater New England. Không một thượng nghị sĩ miền nam hay tây nam nào được tìm thấy có tiếng nói phản đối vụ đánh bom Giáng sinh.39 trong số những người
Đảng Dân chủ miền Bắc tại Quốc hội vào những năm 1970, quay lưng lại với chính sách Chiến tranh Lạnh theo chủ nghĩa can thiệp mà những người theo chủ nghĩa tự do Chiến tranh Lạnh ở miền Nam và Thiên chúa giáo đã ủng hộ, khôi phục các kỹ thuật được sử dụng bởi những người Cộng hòa miền Bắc theo chủ nghĩa biệt lập trong những năm 1930, chẳng hạn như cấm viện trợ quân sự của Hoa Kỳ cho các phe phái ở các nước như Angola và Nicaragua, và cố gắng tước bỏ quyền chủ trì chính sách đối ngoại
quyền lực. Người lãnh đạo của
phong trào ủng hộ chiến tranh
Đạo luật Quyền lực là của Đảng Dân chủ từ
người theo chủ nghĩa chống can thiệp lịch sử
Wisconsin, Clement J. Zablocki.
Peter Trubowitz viết, sự chia rẽ trong nước về chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ trong những năm 1980 “mang tính cục bộ chứ không phải ý thức hệ. Trong khi chủ nghĩa quốc tế tiếp tục Chiến tranh để tạo ra sự hưởng ứng tích cực ở miền Nam, thì nó đã mất đi phần lớn sự hấp dẫn ở vùng Đông Bắc.” (Như chúng ta đã thấy, Chiến tranh Lạnh chưa bao giờ có nhiều sức hấp dẫn ở vùng Đông Bắc, ngoại trừ ở những khu vực có số lượng lớn người Thiên chúa giáo chống cộng.) Theo Trubowitz, “Hầu hết những người được gọi là chim bồ câu đều có tư tưởng tự do.
Lạnh lẽo
và Đảng Cộng hòa” Đảng Dân chủ và từ vùng Đông Bắc, trong khi ngược lại “[t] ông ấy là những người diều hâu là nhóm được tạo thành từ Đảng Dân chủ bảo thủ từ miền Nam và Đảng Cộng hòa từ phương Tây.”
Khối chống can thiệp Đại New England đã liên kết lại một lần nữa vào những năm 1980 đằng sau phong trào đóng băng hạt nhân, phong trào này đã giành được sự tán thành của 446 cuộc họp ở thị trấn New England. Các nhà tài trợ cho nghị quyết đầu tiên ủng hộ việc đóng băng hạt nhân tại Quốc hội đến từ Massachusetts (Thượng nghị sĩ Edward Kennedy và Dân biểu Edward J. Markey) và Oregon (Thượng nghị sĩ Mark Hatfield). Ba trong số bốn cử tri ở Massachusetts
ủng hộ việc đóng băng hạt nhân; Cambridge, Massachusetts, và Ashland, Oregon, cùng các thành phố khác trong vành đai biệt lập từ New England đến Oregon, đã tự tuyên bố là các khu vực phi hạt nhân.”
Trong khi đó, các đảng viên Đảng Dân chủ da trắng miền Nam tập hợp lại ủng hộ chính sách Chiến tranh Lạnh mang tính quân sự của Ronald Reagan. Những người da trắng miền Nam ủng hộ chi tiêu quốc phòng cao hơn là 52% đảng Dân chủ đến 34% đảng Cộng hòa vào năm 1980; chỉ bốn năm sau, họ là 49% đảng viên Cộng hòa và 38% đảng viên đảng Dân chủ. Bảy mươi chín phần trăm người da trắng miền Nam bỏ phiếu cho Reagan tin rằng chi tiêu quốc phòng nên được
tăng vượt quá Reagan
xây dựng cuộc xây dựng thời bình lớn nhất trong lịch sử Hoa Kỳ.
Đến những năm 1990, Tidewater South là khu vực vững chắc nhất của Đảng Cộng hòa và Greater New England là pháo đài của Đảng Dân chủ. Từ những năm 1960 đến 1994, đã có đủ số người miền Nam rời bỏ Đảng Dân chủ để giúp Đảng Cộng hòa chiếm đa số tại cả hai viện của Quốc hội và gần như chiếm được Nhà Trắng từ năm 1968 đến năm 1992. Sự phân cực khu vực của hai đảng được phản ánh trong cuộc bỏ phiếu tại Quốc hội. cho phép Tổng thống Bush tiến hành chiến tranh ở Iraq. Đa số đảng viên Đảng Dân chủ đã bỏ phiếu phản đối chiến tranh; hầu hết các đảng viên Dân chủ bất đồng chính kiến có liên minh với thiểu số đảng Cộng hòa
cho phép lời tuyên chiến được thông qua là người miền Nam.
Sự chia rẽ quen thuộc trong khu vực về thái độ đối với chiến tranh lại thể hiện một lần nữa trong cuộc tranh cãi về cuộc chiến của NATO chống lại Serbia vào mùa xuân năm 1999. Vào ngày 28 tháng 4, Hạ viện đã bỏ phiếu về một số đề xuất tán thành cuộc chiến. Phần lớn, cuộc bỏ phiếu phản ánh tinh thần đảng phái: đa số đảng viên Cộng hòa, vốn đã bỏ phiếu luận tội Clinton, đã bỏ phiếu chống lại việc tán thành chính sách Balkan của Clinton, trong khi đa số đảng viên Đảng Dân chủ bỏ phiếu tán thành lãnh đạo đảng của họ. Tuy nhiên, những sai lệch so với chuẩn mực đảng phái mang tính giáo dục. Đại diện từ Greater
Các bang New England như Wisconsin, Minnesota, Washington, Oregon, Illinois và Ohio có đại diện áp đảo trong số các đảng viên Đảng Dân chủ đã đoạn tuyệt với đảng của họ để bỏ phiếu chống lại chính sách quân sự của tổng thống. Đảng viên Đảng Dân chủ Texas duy nhất làm như vậy là Lloyd Doggett, người có khu vực bầu cử phản ánh chủ nghĩa tự do của Austin, một thị trấn đại học lớn. Điều quan trọng không kém là bản sắc khu vực của những người Cộng hòa đã bỏ phiếu ủng hộ việc chính thức cho phép tiến hành chiến tranh Balkan. Khoảng một nửa trong số này đến từ các bang phía nam hoặc tây nam. Chỉ riêng bang Virginia đã cung cấp 1/5 số đảng viên Cộng hòa đã đoạn tuyệt với đảng của họ để bỏ phiếu cho một
phép chiến tranh. Điều quan trọng hơn nữa có lẽ là thực tế rằng Other đã đề xuất một nghị quyết trong đó Quốc hội thay mặt chính phủ Hoa Kỳ sẽ chính thức tuyên chiến với Nam Tư chỉ được ủng hộ bởi hai thành viên Hạ viện, một từ Texas (đại diện Đảng Cộng hòa Joe Barton) và một đến từ Texas. một từ Mississippi (đại biểu Đảng Dân chủ Gene Taylor).
Chiến Tranh Lạnh và Giới Trí Thức
Giống như mọi nỗ lực nhằm khái quát hóa về hành vi chính trị, lý thuyết sắc tôc-vùng miền của nền chính trị Mỹ phải tuân theo nhiều điều kiện. Nó dự đoán hành vi của các nhóm cử tri lớn và các chính trị gia phản ứng với họ tốt hơn là quan điểm hoặc hành động của các cá nhân hoặc nhóm nhỏ. Nhưng mặc dù không nên đi quá xa, lý thuyết sắc tôc-vùng miền đã thành công một cách đáng kinh ngạc trong việc giải thích mô hình phản đối và ủng hộ Chiến tranh Việt Nam trong giới trí thức cũng như trong chính trị đảng phái.
Sự chia rẽ vùng miền và sắc tộc trong cộng đồng trí thức Mỹ trong những năm chiến tranh Việt Nam phản ánh sự chia rẽ đảng phái giữa hai đảng quốc gia và trong mỗi đảng. Sự hiện diện quá mức của những người Tin lành và người Do Thái miền bắc trên các phương tiện truyền thông và các trường đại học danh tiếng có nghĩa là các trung tâm quyền lực thể chế trong thế giới trí thức có xu hướng được đồng nhất với phe cánh tả chống quân sự, chống can thiệp của Đảng Dân chủ. Trong cuốn sách The Last Intellectuals (Những trí thức cuối cùng) xuất bản năm 1987, Russell Jacoby đã trích dẫn danh sách của Charles Kadushin: “Năm 1970, mười trí thức hàng đầu là Daniel Bell, Noam Chomsky, John Kenneth Galbraith, Irving Howe, Dwight McDonald, Mary McCarthy, Norman. Mailer, Robert Silvers, Susan Sontag, và ‘đồng hạng’ ở vị trí thứ mười, Lionel Trilling và Edmund Wilson.” Nếu mẫu này là một hướng dẫn, thì “trí thức chung” điển hình của Mỹ kỷ nguyên 1960 là nhà phê bình văn học có sinh quán ở vùng đông bắc, có tổ tiên là người Do Thái hoặc người Tin lành miền bắc, và thuộc chính trị xã hội chủ nghĩa hoặc dân chủ xã hội. Việc tính chất tả phái của nhiều trí thức người Do Thái và Tin lành miền bắc phản ánh di sản chính trị sắc tộc của họ, hơn là vì địa vị của họ là “trí thức” được chứng minh bằng sự tồn tại, trong cùng thời kỳ, của một tầng lớp trí thức chống cộng, bảo thủ miền nam và theo Thiên chúa giáo đầy ấn tượng, trong đó William F. Buckley, Jr., là ông bầu. Mặc dù thực tế là họ đã có nhiều ảnh hưởng hơn vào nền chính trị Mỹ cuối thế kỷ 20 trước, các trí thức miền nam và theo Thiên chúa giáo hiếm khi được đưa vào danh sách các nhà tư tưởng lớn của Mỹ, vì lý do đơn giản là các danh sách này có xu hướng được lập ra bởi các đảng viên Dân chủ cấp tiến và cánh tả, những người thống trị báo chí uy tín và giới học thuật ưu tú.
Thực tế là phần lớn sự phản đối “trí thức” đối với Chiến tranh Việt Nam liên quan nhiều đến tổ tiên hơn là chiến lược địa chính trị được thấy rõ trong trường hợp của hai trí thức phản chiến nổi tiếng, các nhà thơ Allen Ginsberg và Robert Lowell. Giống như nhiều nhà phản chiến cánh tả, Ginsberg là một “đứa bé mặc tã đỏ”, con trai của một người Nga gốc Do Thái nhập cư thuộc Đảng cộng sản Mỹ do Moscow kiểm soát. Trong bài thơ “Trở về miền Bắc lốc xoáy” (1967), người con của một gia đình theo chủ nghĩa Stalin này đã viết: “Hãy để Việt Cộng thắng quân Mỹ!… Và nếu mơ ước của tôi hiện thực thì quân đội chúng ta sẽ tan rã và tám loạn.” Bạn bè Beat của Ginsberg, tiểu thuyết gia Jack Kerouac, ủng hộ Chiến tranh Việt Nam – có lẽ vì ông xuất thân từ tầng lớp lao động Công giáo
Việc nhà thơ Robert Lowell từ chối tham dự một buổi họp mặt các nghệ sĩ ở Nhà Trắng vào năm 1965 với lý do ông “chỉ có thể tuân theo chính sách đối ngoại hiện tại của chúng ta với sự thất vọng và ngờ vực lớn nhất” đã được đăng trên trang nhất của tờ New York Times. Biên tập viên của Điểm Sách New York, Robert Silvers, đã xếp hàng một số trí thức lỗi lạc, hầu hết trong số họ là trí thức cánh tả, tán thành quan điểm của Lowell trong bức điện tín gửi Tổng thống Johnson, bức điện này cũng được đăng trên tờ New York Times. Bức thư của Lowell gửi Tổng thống Johnson lặp lại bức thư mà ông đã gửi cho Tổng thống Roosevelt năm 1945 để thông báo rõ ràng rằng ông sẽ là người phản đối lương tâm đối với Thế chiến thứ hai. Viết với tư cách là một nhà quý tộc vùng đông bắc cho một nhà quý tộc khác, Lowell nói với FDR: “Ngài sẽ hiểu một quyết định như vậy đau đớn như thế nào đối với một người Mỹ mà truyền thống gia đình của y, giống như truyền thống gia đình của ngài, luôn khao khát được giữ gìn, thông qua sự tham gia có trách nhiệm vào cả nghĩa vụ dân sự lẫn quân sự, sự tự do và danh dự của đất nước chúng ta. Thưa ngài, tôi có vinh dự được ghi tên mình, với lòng trung thành và sự tôn trọng chân thành nhất, người đồng hương của ông, Robert Trail Spence Lowell, Jr.”. Khi phản đối Thế chiến thứ hai và Chiến tranh Việt Nam, Lowell đã sống theo truyền thống của dòng dõi New England của mình. Người họ hàng xa của ông, nhà thơ nổi tiếng James Russell Lowell, trong Chiến tranh Mexico đã viết thơ phản chiến bằng phương ngữ New England dân gian.
Viết vào năm 1975, Daniel Patrick Moynihan, một nhà xã hội học trước khi trở thành người công chức nhà nước, đã lưu ý đến cuộc xung đột giữa “quân đoàn sĩ quan Mỹ, với nước da Tin lành, ở nông thôn, phản đô thị” và những “trí thức” hàng đầu của Mỹ, những người không theo đạo Tin lành và không có gốc nông thôn. Giá trị quan sát của Moynihan đã được minh họa một cách vô tình bởi Mary McCarthy, một thành viên của nhóm Điểm Sách New York tả khuynh miền đông bắc, người đã bắt đầu một bản báo cáo năm 1967 từ miền Nam Việt Nam với lời thừa nhận: “Tôi thú nhận rằng khi tôi đến Việt Nam vào đầu tháng 2 năm ngoái tôi tìm kiếm chất liệu gây tổn hại cho lợi ích của người Mỹ.” McCarthy phàn nàn rằng “phần lớn những người Mỹ tôi gặp trên chiến trường ở Việt Nam là WASP (người Mỹ gốc Anh da trắng, theo đạo Tin lành) đến từ Nam California; hầu hết những người khác đến từ vùng nông thôn miền Nam.” (Những bêtes noires (tiếng Pháp, nghĩa đen là các con thú đen, tiếng lóng có nghĩa những kẻ bị ghét cay ghét đắng) đó thuộc cánh tả phía đông bắc, Richard Nixon và Lyndon Johnson, lần lượt đến từ miền nam California và vùng nông thôn miền Nam). McCarthy phàn nàn: “Khi chúng tôi lái xe vào trung tâm thành phố Sài Gòn, Tôi có một cú sốc mới khi ở một nơi trông giống như một thành phố của Mỹ, một thành phố rất tồi tàn ở Bờ Tây.” McCarthy ca ngợi chủ nghĩa bãi nô của New England Yankee là “điều gần nhất với một phong trào phản kháng mà Cộng hòa từng có.”
Nếu phe tả trong Chiến tranh Lạnh ở Hoa Kỳ có một trung tâm thu hút trí tuệ bên ngoài Thành phố New York và Cambridge, Massachusetts, thì đó là Madison, Wisconsin. Đây là nơi ra đời “Trường phái Wisconsin” chống Chiến tranh Lạnh cực tả của nền học thuật lịch sử Hoa Kỳ và là nơi thành lập các tạp chí cấp tiến có ảnh hưởng The Progressive (Tiến Bộ) và Studies on the Left (Nghiên Cứu về Cánh Tả). Truyền thống Tiến bộ liên kết với Đại học Wisconsin Madison đã thu hút các thành viên cánh tả của cộng đồng người Do Thái gốc Nga/Đông Âu ở Hoa Kỳ. “Tôi choáng váng trước sự thiếu vắng những người sinh ra ở Wisconsin [tại Madison] và sự chiếm ưu thế lớn của người Do Thái New York,” một thành viên của SDS tại Đại học Wisconsin đã viết vào những năm 1960. Sự tổng hợp giữa chủ nghĩa biệt lập tiến bộ của Greater New England Yankee và chủ nghĩa Mác Do Thái nhập cư được tượng trưng bằng thực tế là hai thành viên hàng đầu của Trường phái Wisconsin trong những năm 1960 là William Appleman Williams, một người gốc Iowa,, và một người theo chủ nghĩa Marx cấp tiến Harvey Goldberg, cháu trai của một giáo sĩ Do Thái người Nga.
Đại học Dallas tượng trưng cho truyền thống trí thức Công giáo/miền Nam đối thủ trong Chiến tranh Lạnh. Ngôi trường Thiên chúa giáo ở Texas này, có lập trường nghiêng về phía cánh hữu cũng nhiều như Đại học Wisconsin ở Madison nghiêng về cánh tả, bao gồm các trí thức bảo thủ miền Nam như M. E. Bradford, cũng như các nhà tư tưởng Thiên chúa giáo như Frederick Wilhelmsen trong bangiangr dạy, Willmoore Kendall, một nhà dân túy bảo thủ đến từ Oklahoma, đã gia nhập ban giảng huấn của trường sau khi Đại học Yale trả tiền cho ông ta từ bỏ chức vụ nhằm đuổi ông ra khỏi khuôn viên trường. Đệ tử của Kendall, William F. Buckley, Jr., con trai Thiên chúa giáo của một ông chủ dầu mỏ ở Texas, là một biểu tượng sống động cho sự kết hợp giữa Thiên chúa giáo và truyền thống bảo thủ miền Nam.
Trong những năm 1970 và 1980, ngày càng nhiều trí thức Do Thái, nhiều người trong số họ trước đây là những người cấp tiến hoặc theo chủ nghĩa tự do, gia nhập tầng lớp trí thức bảo thủ (trước đây luôn có một số ít). Nhà triết học có ảnh hưởng lớn nhất đối với cánh hữu người Mỹ là Leo Strauss, một người di cư Đức gốc Do Thái, người đã bảo vệ trí tuệ cổ xưa chống lại tư tưởng hiện đại đã thu hút những người Mỹ theo đạo Thiên chúa giáo và truyền thống bảo thủ ở miền Nam.
Trong khi hầu hết các trí thức có uy tín của thập niên 1960 phản đối Chiến tranh Việt Nam, một số nhà văn và nhà tư tưởng hàng đầu của Mỹ lại ủng hộ nỗ lực của Hoa Kỳ. Các nhà văn da đen Ralph Ellison và Albert Murray từ chối tham gia cùng Martin Luther King, Jr., và những người da đen cực đoan phản đối chiến tranh. Những người từng thuộc cánh tả như John Steinbeck, John Dos Passos và James T. Farrell ủng hộ nỗ lực của Hoa Kỳ tại Việt Nam vì họ phản đối chủ nghĩa cộng sản. Tiểu thuyết gia John Updike chắc chắn đã lên tiếng thay mặt hầu hết các trí thức ủng hộ chiến tranh khi ông viết vào năm 1966: “Tôi không tin rằng Việt Cộng và Hồ Chí Minh có lợi thế đạo đức hơn chúng ta, tôi cũng không tin rằng các cường quốc luôn có thể tránh sử dụng lợi thế quyền lực của họ”.
Nixon trong tầm ngắm
Lý thuyết vùng miền tộc trong nền chính trị Hoa Kỳ có thể đặt chức vụ tổng thống của Richard Nixon vào tầm ngắm. Sau năm 1968, việc liên minh cánh tả tự do dựa trên những người theo đạo Tin lành, người Do Thái và người da đen ở Đại New England chiếm giữ đảng Dân chủ theo chủ nghĩa tân biệt lập có nghĩa là việc tiếp tục tiến hành Chiến tranh Lạnh phụ thuộc vào một liên minh (trong chính sách đối ngoại, nếu không phải là chính sách đối nội) giữa các đảng viên Dân chủ chống cộng phần lớn là người miền Nam và Thiên chúa giáo và các đảng viên Cộng hòa bảo thủ. Việc một đảng viên Đảng Dân chủ được bầu vào Nhà Trắng vào năm 1968 hoặc 1972 có thể sẽ dẫn đến thảm họa địa chính trị hoặc thảm họa chính trị trong nước hoặc cả hai. Nếu tổng thống của đảng Dân chủ đứng về phe cánh tả tự do theo chủ nghĩa biệt lập tự do đang lên trong đảng của ông, kết quả sẽ là một chính sách xoa dịu Liên Xô, có lẽ sẽ kết thúc bằng một cuộc tái vũ trang trong hoảng loạn, như đã xảy ra dưới thời chính quyền Carter năm 1977-81. Nếu một tổng thống Dân chủ kiểu Roosevelt quyết tâm theo đuổi chính sách kiểu Truman trong việc ngăn chận đế chế Xô Viết, thì nếu Lyndon Johnson tái đắc cử, ông ta sẽ thấy mình bị hầu hết đảng viên của mình tấn công và chủ yếu được ủng hộ bởi đảng Cộng hòa. Sau năm 1968, các tổng thống của Đảng Cộng hòa có nhiều khả năng hơn các tổng thống của Đảng Dân chủ trong việc thực hiện chiến lược ngăn chặn của Truman, Kennedy và Johnson.
Vào thời điểm đó, điều này là hiển nhiên đối với các kẻ thù của Mỹ trong Chiến tranh Lạnh. Richard Nixon viết trong hồi ký của mình: “Tôi chắc chắn rằng [Tổng bí thư Leonid] Brezhnev và [Thủ tướng Andrei] Kosygin không mong tôi giành chiến thắng năm 1968 hơn Krushchev trong năm 1960. … Trên thực tế, tôi nghi ngờ rằng Liên Xô có thể đã khuyên Bắc Việt đề nghị bắt đầu các cuộc đàm phán ở Paris với hy vọng rằng việc ngừng ném bom sẽ tạo thế cân bằng cho Humphrey trong cuộc bầu cử và nếu đó là chiến lược của họ thì điều đó đã gần như đã thành công.” Những nghi ngờ của Nixon kể từ đó đã được xác nhận bởi hồ sơ giải mật của Liên Xô. Vào mùa thu năm 1968, Brezhnev và Kosygin nói với Thủ tướng Bắc Việt Phạm Văn Đồng rằng việc hỗ trợ ứng cử viên Đảng Dân chủ Hubert Humphrey trong cuộc bầu cử tổng thống Hoa Kỳ bằng cách làm cho có vẻ như hòa bình đã gần kề là có lợi cho Bắc Việt. Để gây áp lực nhiều hơn cho Bắc Việt, Boris Ponomarev, Bí thư Trung ương và Vụ trưởng Vụ Quốc tế, đề xuất gửi Hà Nội đánh giá hậu quả bất lợi của việc Nixon đắc cử. Trương Văn Thu, một thành viên Việt Cộng đã trở thành sĩ quan cấp cao sau 1975, sau này viết rằng “một sự kiện lớn của năm 1968 không mấy khích lệ. Vào ngày 7 tháng 11, Richard Nixon đắc cử tổng thống. Đối với chúng ta, không phải bàn cãi chắc chắn Nixon sẽ chứng tỏ là một đối thủ ngoan cố, sẽ dùng tận dụng mọi cơ bắp để đạt được một giải pháp quân sự.”
Tuyên bố rằng Robert Kennedy, nếu không bị ám sát và giành được đề cử của đảng Dân chủ và đắc cử chức tổng thống vào năm 1968, có thể đã đưa Hoa Kỳ ra khỏi Đông Dương với tổn thất tối thiểu đối với danh tiếng của Hoa Kỳ ở nước ngoài và với tình trạng hỗn loạn tối thiểu trong nước là không thể chấp nhận được khi phân tích. Trọng tâm trong chiến lược Việt Nam của Kennedy năm 1968 là lời kêu gọi thành lập một “chính phủ liên hiệp” ở Miền Nam Việt Nam. Bắc Việt sau năm 1975 thừa nhận điều mà các nhà quan sát thông minh đã biết ngay từ đầu rằng đề xuất thành lập một chính phủ liên hiệp ở Miền Nam chỉ là một mưu mẹo để tạo điều kiện thuận lợi cho Hà Nội tiếp quản Miền Nam Việt Nam. Trong cuộc nói chuyện bí mật lúc bấy giờ với Chu Ân Lai tại Bắc Kinh vào ngày 17 tháng 9 năm 1970, Phạm Văn Đồng thừa nhận rằng các đề xuất của cộng sản Việt Nam kết hợp việc rút quân Mỹ với một chính phủ liên hiệp chỉ là những mưu đồ: “Nhưng lý do chúng tôi tập trung vào chúng là vì chúng tôi muốn dồn Nixon vào sát chân tường hơn nữa bằng cách gây ảnh hưởng đến công luận ở Mỹ và phần còn lại của thế giới, ủng hộ cuộc đấu tranh quân sự và chính trị ở Miền Nam. Chúng tôi không hề ảo tưởng rằng chúng sẽ mang lại kết quả nào đó.” Vài tháng trước đó, ngày 7 tháng 7 năm 1970, Mao đã nhắc nhở Kaysone Phomvihane, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Lào: “Mục đích của việc thành lập Chính phủ liên hiệp là để tiêu diệt chính phủ liên hiệp.” Khi Phomvihane trả lời: “Đúng vậy,” Mao lặp lại: “Một chính phủ liên hiệp thường trực? Không có lý do gì để tin vào điều đó.”
Nếu Kennedy thực sự tin vào tuyên truyền của cộng sản Việt Nam về một chính phủ liên hiệp thì ông thật quá ngây thơ để làm một tổng tư lệnh. Nếu, hình như có nhiều khả năng hơn, Kennedy không tin vào lời hùng biện trong chiến dịch tranh cử của mình về một chính phủ liên hiệp ở Miền Nam Việt Nam, thì ông ta đã cố tình nói dối cử tri Mỹ, và như làm suy yếu khả năng thương lượng của Hoa Kỳ và nước đàn em Miền Nam Việt Nam. Ngược lại, Richard Nixon, trong chiến dịch tranh cử tổng thống của mình, đã tỏ ra dè dặt một cách thích hợp về “kế hoạch bí mật” của mình nhằm giải quyết tình hình ở Đông Dương.
Nếu Kennedy đắc cử vào năm 1968, ông sẽ buộc phải đưa ra những lựa chọn chắc chắn sẽ làm bộ phận này hay bộ phận khác trong đảng Dân chủ và công luận Mỹ xa lánh. Nếu ông ta thiên về cánh tả quá nhiều, kết quả có thể là nhiều người Dân chủ chống cộng bỏ sang đảng Cộng hòa vào năm 1972. Nếu vai trò gián tiếp của John F. Kennedy trong vụ ám sát Diệm bị bại lộ, thì đảng Cộng hòa có thể đã tuyên bố rằng một người anh em của Kennedy đã ném Miền Nam Việt Nam vào hỗn loạn bằng cách khuyến khích lật đổ, rồi sau đó là sát hại một đồng minh của Mỹ, sau đó một Kennedy khác đã bỏ rơi Miền Nam và các nước láng giềng Lào và Campuchia cho cộng sản chinh phục. Mặt khác, nếu Kennedy tìm cách kêu gọi những cử tri theo cánh trung dung bằng cách theo đuổi một chính sách rút lui trong danh dự giống như Nixon, thế thì ông ta sẽ bị những người ủng hộ ông ấy ở cánh tả vỡ mộng và cay đắng lên án.
Cuộc thảo luận này sẽ không trọn vẹn nếu không đề cập đến những câu hỏi rắc rối được đặt ra bởi những tiết lộ sau Chiến tranh Lạnh về những thỏa thuận bí mật của Robert Kennedy với giới lãnh đạo Liên Xô trong những năm 1960. Khi nghiên cứu năm 1997 về cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba, “One Hell of a Gamble (Một Canh Bạc Khốn Kiếp)“, các nhà sử học Aleksandr Fursenko và Timothy Naftali đã có một khám phá đáng kinh ngạc trong kho lưu trữ của Liên Xô. Vào năm 1963-1964, Bộ trưởng Tư pháp lúc đó Robert Kennedy được cho là đã gửi những người bạn của gia đình William Walton và Charles Bartlett đến gặp các trợ lý của thủ tướng Liên Xô Nikita Khrushchev mà Tổng thống Lyndon Johnson và các quan chức chính phủ Hoa Kỳ khác không hề hay biết. Các sứ giả của Kennedy, theo các kho lưu trữ của Liên Xô mà Fursenko và Naftali có thể tiếp cận, đã nói với giới lãnh đạo Liên Xô:
Gia tộc Kennedy coi việc lựa chọn Johnson là một sai lầm khủng khiếp. Walton giải thích: “Ông ấy là một kẻ xu thời thông minh”, người “không có khả năng thực hiện những kế hoạch còn dang dở của Kennedy”. Walton kể lại nỗi lo sợ của chính ông và của Robert Kennedy rằng mối quan hệ chặt chẽ của Johnson với các doanh nghiệp lớn sẽ khiến nhiều đại diện của họ tham gia hơn.vào hành pháp. Điều này chắc chắn không được thiết kế để làm hài lòng Khruschchev. Đáng ngạc nhiên là Walton tin rằng niềm hy vọng duy nhất cho mối quan hệ Mỹ-Xô lại là cựu giám đốc điều hành ô tô Robert McNamara, người có thể sẽ vẫn ở trong nội các với tư cách là bộ trưởng quốc phòng. Walton mô tả McNamara là người “hoàn toàn chia sẻ quan điểm của Tổng thống Kennedy về các vấn đề chiến tranh và hòa bình.” Vì lợi ích của mối quan hệ tốt đẹp giữa Moscow và Washington, Walton đảm bảo với Bolshakov rằng việc McNamara ở lại còn quan trọng hơn việc Ngoại trưởng Dean Rusk ở lại.
Mục đích của Walton rất rõ ràng khi thảo luận về tương lai chính trị của Robert Kennedy. Ông ấy nói rằng Kennedy có ý định tiếp tục làm Bộ trưởng Tư pháp cho đến cuối năm 1964. Sau đó, ông sẽ tranh cử chức thống đốc bang Massachusetts để xây dựng vốn chính trị của mình cho cuộc tranh cử tổng thống cuối cùng. Walton, và có lẽ là Kennedy, muốn Khrushchev biết rằng chỉ RFK mới có thể thực hiện được tầm nhìn của John Kennedy và rằng sự nguội lạnh có thể xảy ra trong quan hệ Mỹ-Liên Xô vì Johnson sẽ không kéo dài mãi mãi. Ông nói thêm rằng ông rất ngạc nhiên khi nghe một số người Nga nói rằng Bobby có quan điểm phản động về Liên Xô hơn anh trai mình. Walton khẳng định: “Điều này không đúng sự thật”. “Nếu Robert khác với Jack thì chỉ ở chỗ anh ấy là người cứng rắn hơn; nhưng về quan điểm của anh trai mình, Robert hoàn toàn đồng ý với anh ấy, và, quan trọng hơn là tích cực tìm cách biến những ý tưởng của John F. Kennedy thành hiện thực.”
Các nhà sử học viết: “Không thể giải thích được, các cộng sự của gia đình Kennedy tiếp tục gửi thông tin tới Moscow để hạ bệ tổng thống mới và làm tăng thêm nỗi lo sợ của Khrushchev về sự thay đổi trong nền chính trị Hoa Kỳ”. Vào tháng 1 năm 1964, Charles Bartlett, một bạn tâm giao của Kennedy, đã tiếp cận một nguồn tin KGB ở New York. Thông điệp mà ông chuyển tới giới lãnh đạo Liên Xô là “tổng thống mới sẽ không bao giờ sánh bằng với Kennedy về tính nhất quán và chân thành trong suy nghĩ của mình về quan hệ với Liên Xô.” Theo Fursenko và Naftali, “Bartlett tiếp tục những lời chỉ trích Johnson của gia đình Kennedy.”
Nếu các kho lưu trữ của Liên Xô là chính xác và nếu những tuyên bố của Walton và Bartlett được ông ta cho phép, thì Robert Kennedy đã phạm tội chống đối và phản bội chính trị mà rất ít trường hợp tương tự xảy ra trong lịch sử Hoa Kỳ. Một bộ trưởng tư pháp đương nhiệm, bằng các kênh được chọn để tránh thu hút sự chú ý của tổng thống mà ông phục vụ và các quan chức khác của chính phủ Hoa Kỳ, đã gièm pha sau lưng vị tổng thống mới nhậm chức – và tệ hơn nữa, đang thúc giục các kẻ thù Liên Xô của Mỹ hãy đứng vững cho đến khi ông ta, Robert Kennedy, có thể trở thành tổng thống vào năm 1968 và theo đuổi một chính sách phù hợp hơn với Moscow. Những giao dịch bí mật của Richard Nixon với chính phủ Miền Nam Việt Nam trong cuộc bầu cử năm 1968, và việc ông ta thông đồng sau đó với chế độ độc tài quân sự Hy Lạp, chỉ là những tội nhẹ khi so sánh; những chế độ đó là đồng minh chứ không phải đối thủ. (Những tuyên bố của Robert Dallek và các sử gia khác viết về tổng thống cho rằng nỗi lo sợ của Lyndon Johnson về sự phá hoại của phe Kennedy là “hoang tưởng” phải được đánh giá lại, dựa trên những tiết lộ từ Moscow.)
Việc Moscow và Hà Nội đã nỗ lực hết sức để thúc đẩy Humphrey chiến thắng năm 1968, và chắc chắn sẽ hoan nghênh lời cảm ơn của vị Tổng thống Kennedy thứ hai, đối với những liên lạc bí mật của Robert Kennedy vào năm 1963-64, hẳn phải khiến ngay cả những người từng ủng hộ Humphrey và Kennedy trước đây cũng nghĩ khác về các ứng cử viên của họ. Sự ô nhục và sự sụp đổ của Richard Nixon trong vụ bê bối Watergate đã khiến một thế hệ người Mỹ khó có thể nhìn nhận nhiệm kỳ tổng thống của ông một cách khách quan mà việc phân tích lịch sử đòi hỏi. Tuy nhiên, nỗ lực đã được thực hiện. Nixon hẳn phải là một chính trị gia thiếu đạo đức, nhưng khó có thể là nhân vật kiểu Hitler như những kẻ thù đương thời của ông thuộc phe cánh tả tự do và cấp tiến miêu tả. Ông được người dân Mỹ bầu hai lần – lần thứ hai thắng áp đảo – không phải vì tội lỗi hay thành kiến cá nhân của ông ta, mà vì chính sách đối ngoại và đối nội của ông ta đã lôi cuốn đại đa số người Mỹ, bao gồm nhiều đảng viên Đảng Dân chủ cũng như Đảng Cộng hòa. Về mặt chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ, Richard Nixon không phải là vị tổng thống Mỹ tốt nhất có thể tưởng tượng được vào năm 1968 và 1972. Thật không may, so với những lựa chọn có thể thay thế được, ông lại là tổng thống tốt nhất hiện có.
Nixon đã biến cuộc rút lui khu vực thành thất bại toàn cầu như thế nào
Đến năm 1968, cái giá phải trả cho cuộc chiến ở Việt Nam đã tăng lên do nỗ lực sai lầm nhằm đánh bại quân nổi dậy bằng chiến thuật và công nghệ chiến tranh quy ước – đã làm giảm sự ủng hộ của công chúng đối với cam kết không giới hạn của Hoa Kỳ đối với Đông Dương xuống thấp đến mức nguy hiểm. Ngoài ra, chi phí bắt đầu gây nguy hiểm cho sự ủng hộ của công chúng đối với các cam kết khác trong Chiến tranh Lạnh.
Những gì nước Mỹ cần vào năm 1969 là một Charles de Gaulle. Một De Gaulle Mỹ sẽ nhanh chóng rút quân Mỹ ra khỏi Đông Dương để đảm bảo rằng số người Mỹ thiệt mạng không vượt quá nhiều so với con số xảy ra trong khoảng thời gian từ năm 1965 đến năm 1968. Bằng cách làm như vậy ông ta có thể duy trì sự hậu thuẫn của công chúng để bảo vệ Đông Dương khỏi sự chiếm đóng của cộng sản bằng không lực; và nếu điều đó thất bại, vị de Gaulle Mỹ có thể lợi dụng những nỗi kinh hoàng không thể tránh khỏi xảy ra sau những chiến thắng của cộng sản để làm mất uy tín của cánh tả cực đoan Mỹ và tập hợp người dân Mỹ đằng sau một cuộc thập tự chinh mới chống Liên Xô tại các chiến trường khác của Chiến tranh Lạnh. Trung Quốc có thể trở thành một đồng minh trên thực tế, nhưng liên minh Trung-Mỹ đáng nghi ngờ về mặt đạo đức không nên đặt nặng. Thay vì phục hồi cho tên Mao sát nhân, de Gaulle Mỹ sẽ bay tới Berlin và vung nắm đấm trước Bức tường Berlin – sau khi chủ trì một buổi lễ tưởng niệm đầy xúc động dành cho các anh hùng Mỹ và Đông Dương đã ngã xuống trong chiến dịch Đông Dương thất bại.
Thay vì một de Gaulle Mỹ, Hoa Kỳ chỉ có Richard Nixon. Quyết tâm ngoan cố của Nixon nhằm bảo vệ uy tín của quân đội Mỹ ở nước ngoài quá lâu sau khi dư luận Mỹ đã đạt ngưỡng nguy hiểm là một sai lầm chứ không phải một tội ác. Ngay cả George Kennan, người tin rằng cam kết của Hoa Kỳ với Đông Dương là một sai lầm, đã phát biểu trước Ủy ban Đối ngoại Thượng viện vào năm 1966 rằng uy tín của Hoa Kỳ sẽ bị đe dọa nếu đánh mất hoàn toàn cuộc chiến: “Một cuộc rút lui gấp rút và hỗn loạn có thể thể hiện trong hoàn cảnh hiện tại một tổn hại cho lợi ích của chúng ta, và thậm chí cho cả hòa bình thế giới, lớn hơn bất kỳ điều gì có thể xảy ra nếu chúng ta không tham gia ngay từ đầu.” Thật không may, trong chính sách đối ngoại, con người được đánh giá bằng kết quả chứ không phải bằng ý định. Kế hoạch hòa bình trong danh dự ở Đông Dương của Nixon kết hợp ngoại giao tam giác với Trung Quốc và Liên Xô, ở cấp độ đại chiến lược, với kế hoạch chiến thuật dựa trên việc sử dụng sức mạnh không quân của Mỹ để giúp đỡ các đồng minh Đông Dương của Mỹ sau khi lực lượng mặt đất của Mỹ đã rút đi. Chiến lược đã thất bại và chiến thuật ắt hẳn cũng sẽ không đạt hiệu quả.
Màn mở cửa với Trung Quốc đầy ấn tượng của Nixon đánh dấu sự khởi đầu của một liên minh Trung-Mỹ không chính thức chống lại Liên Xô và sẽ tồn tại cho đến khi Chiến tranh Lạnh kết thúc. Tuy nhiên, chế độ của Mao vẫn tiếp tục cạnh tranh với Moscow để giành ảnh hưởng ở Đông Dương bằng cách cung cấp lực lượng chống Mỹ cho đến cuối năm 1975. Chiến lược chia để trị của Nixon đối với hai cường quốc cộng sản khổng lồ cũng không thành công trong việc giảm bớt hỗ trợ vật chất hoặc ngoại giao của Liên Xô cho miền Bắc Việt Nam. Liên Xô không sẵn sàng cho phép căng thẳng Xô-Mỹ về Việt Nam làm gián đoạn các cuộc đàm phán của họ về các vấn đề khác, chẳng hạn như phê chuẩn nguyên trạng ở châu Âu và hạn chế chạy đua vũ trang (có lợi cho Liên Xô, quốc gia có lợi thế so sánh về lực lượng quân sự quy ước ở Đông Âu). Nhưng Liên Xô cũng không thấy phù hợp để giảm nguồn cung cấp cho miền Bắc Việt Nam, hoặc thực hiện nỗ lực nghiêm túc để gây áp lực buộc Hà Nội phải chấm dứt chiến tranh. Moscow đã có thể đạt được cả hai cách. Nó có thể tham gia vào tình trạng hòa hoãn toàn cầu (được định nghĩa là sự chấp nhận của Mỹ đối với sự bình đẳng của đế quốc Liên Xô với tư cách là một siêu cường quân sự và ngoại giao) ngay cả khi nó giúp Hà Nội làm tổn thương Hoa Kỳ ở Đông Nam Á.
Ngoài việc không thể tách Hà Nội ra khỏi những người bảo trợ Liên Xô và Trung Quốc, chính sách Nixon-Kissinger đã làm suy yếu nghiêm trọng khả năng Hoa Kỳ phát động chiến tranh ý thức hệ vốn là một thành tố thiết yếu trong chiến lược ngăn chặn. Ngay cả khi ông ta nhận được đáp lại nhiều hơn, việc ăn uống và chèo thuyền của Nixon với các nhà cai trị toàn trị của đế chế Liên Xô và chế độ độc tài Trung Quốc có xu hướng làm suy yếu tuyên bố rằng có sự khác biệt về mặt đạo đức giữa hai bên trong Chiến tranh Lạnh. Những ám chỉ của Kissinger về nền chính trị thực tế châu Âu thế kỷ 19 cũng có hiệu quả tương tự.
Khi đó, chính sách của Nixon đối với Liên Xô và Trung Quốc đã thừa nhận quá nhiều trong cuộc chiến tranh ý thức hệ, trong khi lại tạo ra rất ít lợi ích trong Chiến tranh Việt Nam. Chiến thuật của Nixon cũng có sai sót như chiến lược của ông ta. Nixon hy vọng rằng chỉ riêng sức mạnh không quân là đủ để đảm bảo sự sống còn của miền Nam Việt Nam, một khi quân chiến đấu của Mỹ đã rút hoàn toàn. Vụ bê bối Watergate và cuộc khủng hoảng kết thúc bằng việc Nixon từ chức và người thay thế ông là Gerald Ford khiến bức thư bí mật của Nixon gửi tới Tổng thống miền Nam Việt Nam Thiệu bảo đảm rằng Hoa Kỳ sẽ đáp trả bằng các cuộc không kích nếu Bắc Việt vi phạm hiệp định hòa bình Paris trởthành một bức thư chết. Ngay cả khi Quốc hội không cắt đứt sự tham gia quân sự của Hoa Kỳ vào Đông Dương, dường như không có bất kỳ kết cục nào không dẫn đến một cam kết vô thời hạn theo kiểu Triều Tiên của các lực lượng Hoa Kỳ đối với Đông Dương có thể sẽ khiến Nam Việt Nam cùng với Lào và Campuchia sụp đổ.
Thế thì chính sách Việt Nam của Nixon là một thất bại vang dội theo mọi mặt. Tệ hôn hết, trong khi theo đuổi một kế hoạch vô hiệu, Nixon đã góp thêm 24.000 sinh mạng người Mỹ trong Chiến tranh Việt Nam. Sau tất cả những hy sinh bổ sung đó, Hoaky cũng vẫn từ bỏ ĐôngDương. Sự khác biệt giữa việc cho phép Đông Dương sụp đổ vào năm 1970 và cho phép nó sụp đổ vào năm 1975 có thể là sự khác biệt giữa việc mất đi sự ủng hộ của công chúng đối với một cuộc can thiệp vào Chiến tranh Lạnh và phản ứng dữ dội của công chúng chống lại Chiến tranh Lạnh nói chung.
Các cuộc thăm dò dư luận theo dõi tiến trình tan vỡ của sự đồng thuận trong Chiến tranh Lạnh do Chiến tranh Việt Nam gây ra. Công chúng chưa bao giờ đồng ý rằng phong trào phản chiến là đúng đắn. Trong một cuộc thăm dò của Gallup năm 1970,
đánh giá bất lợi cho Miền Nam Việt Nam (13%) thấp hơn nhiều so với đánh giá bất lợi cho Sinh viên vì một Xã hội Dân chủ (42%) và Việt Cộng (69%). Sau cuộc bạo loạn của cảnh sát mà những kẻ cánh tả kích động cánh tả trong đại hội đảng Dân chủ năm 1968 ở Chicago, đa số áp đảo công chúng Mỹ đã đứng về phía cảnh sát để chống lại những người biểu tình. Một tuyên bố của một chính trị gia lão thành người Ái Nhĩ Lan ở Boston đã tóm tắt thái độ của nhiều người nếu không muốn nói là hầu hết người Mỹ vào thời điểm đó: “Dân tôi muốn kết thúc chiến tranh và bắn bọn trốn quân dịch.” Tuyên bố rằng giới trẻ phản đối chiến tranh một cách áp đảo là sai. Thật vậy, theo một cuộc thăm dò của Gallup được thực hiện vào cuối tháng 5 năm 1970, số người cho rằng chính phủ nên “rút toàn bộ quân khỏi Việt Nam ngay lập tức” tăng theo độ tuổi, trong khi vẫn còn là thiểu số: 21-29 tuổi (23%) và 30-49 tuổi (22%) ít có khả năng đồng ý với tuyên bố này hơn những người trả lời trên 50 tuổi (25%). Kết quả chính của phong trào phản chiến là bầu Nixon vào chức tổng thống và truyền cảm hứng cho công chúng nghi ngờ khả năng tiến hành công việc đối ngoại của Đảng Dân chủ chủ trương tân biệt lập. Hầu hết những người thuộc thế hệ bùng nổ trẻ sơ sinh da trắng (sinh trong khoảng 1946-1964) đều trở thành đảng viên Đảng Cộng hòa.
Công chúng Mỹ quay lưng chống lại Chiến tranh Việt Nam không phải vì họ bị thuyết phục bởi phe cánh tả cực đoan và tự do cho rằng nó bất công, mà vì nhạy cảm với cái giá sinh mạng phải trả ngày càng tăng của nó. Theo dữ liệu thăm dò ý kiến, sự ủng hộ của công chúng đối với Chiến tranh Việt Nam cao hơn so với Chiến tranh Triều Tiên ở mức độ thương vong tương đương. Trong cả hai cuộc chiến ủy nhiệm ở châu Á, sự ủng hộ đều giảm khi số lượng thi thể tăng lên. Năm 1965, chỉ có 25% công chúng Mỹ cho rằng gửi quân tới Việt Nam là một sai lầm. Con số này tăng lên 31% vào tháng 11 năm 1966 và 46% vào tháng 10 năm 1967. Đến tháng 6 năm 1968, hơn 50% đồng ý rằng việc gửi quân đến Đông Dương là một sai lầm. Trong vài năm tiếp theo, sự phản đối Chiến tranh Việt Nam đã di căn thành sự phản đối hành động can thiệp của Chiến tranh Lạnh ở bất cứ đâu. Theo một cuộc thăm dò ý kiến, vào năm 1975, đa số người Mỹ được khảo sát phản đối việc gửi quân đội Mỹ đến để bảo vệ bất kỳ đồng minh nào khỏi bị xâm lược – ngoại trừ Canada.
Lưu ý rằng một phần tư công chúng Hoa Kỳ đã phản đối Chiến tranh Việt Nam ngay từ đầu. Để có mức độ ủng hộ cho cuộc chiến rơi xuống dưới 50 phần trăm, không quá một phần tư công chúng – những “con cú”, được phân biệt với những con diều hâu và chim bồ câu – cần phải chuyển sang phe đối lập. Để theo đuổi cuộc Chiến tranh Lạnh, tổng thống phải tập hợp hoặc duy trì một liên minh gồm những con cú và những con diều hâu để cho ra rìa những con chim bồ câu trong Quốc hội. Điều này có nghĩa là phải trấn an những con cú, những người nhạy cảm hơn nhiều so với những con diều hâu phần đông ở miền Nam về chi phí của các cuộc giao tranh quân sự của Hoa Kỳ và ít chắc chắn hơn ủng hộ một chiến dịch quân sự Hoa Kỳ đến kết cục cay đắng. Là một nhà chiến thuật tài năng trong lĩnh vực đối ngoại, Nixon đã thất bại trong nhiệm vụ chính trị đối nội quan trọng này.
Chuỗi nhân quả rất rõ ràng: Cái giá phải trả về sinh mạng của người Mỹ do việc Nixon kéo dài cuộc rút quân khỏi Đông Dương đã khiến nhiều chiến binh lạnh lùng ôn hòa từng ủng hộ trước đây gia nhập những người theo chủ nghĩa cánh tả-tự do và cánh tả tạo thành một đa số mới theo chủ nghĩa biệt lập mới trong Quốc hội. Khối bỏ phiếu mới này không loại bỏ hoặc giảm bớt các cam kết quân sự hiện có của Mỹ với NATO, Nhật Bản và Hàn Quốc, nhưng nó đã tìm cách ngăn cấm những nỗ lực mới của Mỹ nhằm ngăn chặn sự mở rộng ảnh hưởng của khối Liên Xô ở các quốc gia như Angola và Ethiopia và một cách không nhất quán. Nicaragua và El Salvador. Ngược lại, những giới hạn do Quốc hội áp đặt đối với chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ đã truyền cảm hứng cho Liên Xô hành động táo bạo hơn những gì họ có thể đã làm. Chủ nghĩa phiêu lưu của Liên Xô ngày càng gia tăng, đỉnh điểm là cuộc xâm lược Afghanistan, sau đó tạo ra phản ứng dữ dội chống lại Liên Xô ở phương Tây, làm mất uy tín của chủ nghĩa biệt lập vào giữa những năm 70 và phục hồi sự can thiệp trong Chiến tranh Lạnh trong nửa sau nhiệm kỳ của chính quyền Carter và trong nhiệm kỳ đầu tiên của Reagan.
Một trong những điều trớ trêu của thời đại Việt Nam là việc những chiến binh lạnh lùng ôn hòa đoạn tuyệt với Nixon để đoàn kết với phe bồ câu bỏ phiếu chống lại chính sách Việt Nam của Nixon có thể đã đặt nền móng cho việc xây dựng lại sự ủng hộ của công chúng đối với những chính sách thành công của Hoa Kỳ trong thời Chiến tranh Lạnh lần thứ hai vào những năm 1980. Ví dụ hàng đầu là thượng nghị sĩ Washington Henry M. “Scoop” Jackson, một đảng viên Đảng Dân chủ tự do chống cộng theo truyền thống Roosevelt-Truman-Johnson, người đã tuyên bố rằng ông “không phải là diều hâu cũng không phải là chim bồ câu” mà là một “con cú khôn ngoan”. Đến đầu những năm 1970, Jackson, một người từng ủng hộ Chiến tranh Việt Nam, tin rằng Hoa Kỳ nên rút nhanh khỏi Đông Dương. Sự hiểu biết nhiều sắc thái của ông về các vấn đề đang bị đe dọa được thể hiện qua việc ông đã bỏ phiếu cho Tu chính án Cooper-Church, cấm mở rộng chiến tranh, nhưng lại phản đối Tu chính án McGovern-Hatfield, vốn sẽ làm giảm ảnh hưởng của Mỹ trong các cuộc đàm phán bằng cách áp đặt một hạn chót độc đoán cho việc Mỹ rút quân. Đây là tư duy chiến lược có mức độ cao.
Trong phân tích cuối cùng, có thể chính những con cú như Jackson đã ngăn cản tình trạng xuất huyết ủng hộ do chiến tranh Việt Nam của công chúng dành cho Chiến tranh Lạnh, cứu vớt các cam kết của Mỹ với Tây Âu, Nhật Bản và Hàn Quốc khỏi bị những người theo chủ nghĩa biệt lập trong Quốc hội thu hồi, và tạo điều kiện cho Tổng thống Reagan tiến hành Chiến tranh Lạnh lần thứ hai vào những năm 1980. Bằng cách tạm thời hợp tác với chim bồ câu vì lý do chiến thuật, những con cú đã ngăn chặn được chim bồ câu gây tác hại nhiều hơn. Những con cú đảm bảo rằng Đạo luật Quyền lực Chiến tranh chỉ được thông qua dưới hình thức nhẹ nhàng hơn. Và trong khi hợp tác với phe bồ câu để ngăn chặn những cam kết mới của Mỹ, phe cú đã tìm cách ngăn chặn nỗ lực ôn hòa nhằm giảm bớt các cam kết hiện có của Hoa Kỳ với các đồng minh bên ngoài Đông Dương.
Những con cú còn xảo quyệt hơn nhiều so với con diều hâu Nixon. Nhưng cú cũng như diều hâu đều là loài chim săn mồi – và chính cú, chứ không phải diều hâu, mới nổi tiếng là khôn ngoan.