Lý giải lại cuộc chiến thảm khốc nhất của Hoa Kỳ

Michael Lind
Trần Quang Nghĩa dịch
CHƯƠNG 3 : ĐÁP ỨNG KHÔNG LINH HOẠT
Quân đội Hoa Kỳ và Chiến tranh Việt Nam
Chiến lược ngăn chặn toàn cầu của khối cộng sản trong Chiến tranh Lạnh của Hoa Kỳ khiến cho việc Hoa Kỳ tham gia vào một số nỗ lực lớn nhằm ngăn chặn sự tiếp quản của cộng sản ở Nam Việt Nam, Lào và Campuchia vào giữa những năm 1960 là điều thực sự không thể tránh khỏi. Chiến lược dây bẫy yêu cầu Hoa Kỳ phải tham chiến, nếu cần thiết, để ngăn chặn Nam Triều Tiên, Đài Loan hoặc Đông Dương bị sáp nhập vào khối cộng sản bằng phương tiện xâm lược hoặc lật đổ. Ý nghĩa chiến lược của ba khu vực này ở châu Á, giống như của Tây Berlin, gần như hoàn toàn mang tính biểu tượng. Bằng cách bảo vệ ba mặt trận này, Hoa Kỳ đã chứng tỏ uy tín siêu cường của mình với tư cách là một quân đội đối với kẻ thù cộng sản và đối với các đồng minh, các nước phụ thuộc và trung lập. Cơ sở chiến lược cho sự can thiệp của Hoa Kỳ về cơ bản là giống nhau trong cả hai cuộc chiến tranh Triều Tiên và Việt Nam.
Mặc dù người Mỹ quan tâm đến việc giải cứu các chế độ phi cộng sản ở Đông Dương là chính đáng, nó cũng bị hạn chế về quy mô. Để tránh phải trả giá đắt về danh tiếng của mình với tư cách là một lãnh đạo liên minh và người bảo vệ quân sự, Hoa Kỳ không thể làm quá ít ở Đông Dương; đồng thời, vì sự cần thiết phải ngăn chặn mức ủng hộ của công chúng Mỹ đối với Chiến tranh Lạnh không bị xói mòn và sụp đổ, Hoa Kỳ không thể làm quá nhiều. Điều này dường như hiển nhiên, nhưng kết luận mà nó dẫn đến thì không. Để Hoa Kỳ đạt được thành công một phần trong chính sách Đông Dương, người Mỹ không cần phải thắng chiến tranh Việt Nam. Nhượng bộ Đông Dương cho khối cộng sản là kết quả được ưa thích; nhưng nếu cái giá phải trả cho việc đó quá cao, thì việc để mất Đông Dương cũng có thể chấp nhận được, với điều kiện là sự mất mát đó có thể được quản lý theo cách bảo toàn được cả uy tín bên ngoài lẫn sự đồng thuận trong nước của Mỹ.
Hoa Kỳ đã thất bại trong việc đưa ra một chiến lược quân sự đáp ứng cả yêu cầu địa chính trị và chính trị đối nội này. Chiến lược được quân đội Hoa Kỳ áp dụng tại Việt Nam từ năm 1965 đến năm 1973 đã thành công trong chừng mực ngăn chặn được những chiến thắng của cộng sản trên khắp Đông Dương – nhưng nó đã thất bại trong chừng mực làm giảm mức hỗ trợ của công chúng Hoa Kỳ cho cả Chiến tranh Việt Nam và Chiến tranh Lạnh nói chung. Ngược lại, kết quả của sự suy giảm ủng hộ của công chúng Hoa Kỳ đối với Chiến tranh Lạnh là sự xói mòn uy tín toàn cầu của Hoa Kỳ, khi Hoa Kỳ, bị tê liệt bởi phản ứng dữ dội của chủ nghĩa biệt lập thời hậu Việt Nam, đã không đáp ứng được những thách thức ngày càng táo bạo hơn của Liên Xô trên khắp thế giới . Những gì có thể là một thất bại trong khu vực đã trở thành cuộc tháo lui toàn cầu đối với Hoa Kỳ và chỉ đảo ngược được cho đến Chiến tranh Lạnh Lần Thứ hai vào những năm 1980.
Lợi nhuận giảm dần
Cuối cùng, Đông Dương không xứng đáng với cuộc chiến hạn chế mà Hoa Kỳ đã tham gia; nhưng điều đó không có nghĩa là nó không đáng cho bất kỳ cuộc chiến hạn chế nào của Mỹ. Việc từ bỏ Đông Dương cho khối cộng sản không đáng giá 58.000 sinh mạng người Mỹ không có nghĩa là nó không đáng giá bằng một con số nào đó ít hơn 58.000 sinh mạng (nếu bác bỏ thứ đạo đức sai lầm của chủ nghĩa hòa bình, thì phép tính nghiệt ngã như vậy là không thể tránh khỏi). Một cuộc chiến để bảo vệ uy tín quân sự của một cường quốc có thể được so sánh với một cuộc đấu giá nghệ thuật vốn là, trong số những thứ khác, cuộc cạnh tranh giữa những người giàu có để giành lấy uy tín. Việc một người ngừng đấu giá một bức tranh khi giá của nó lên tới 9.000 đô la không có nghĩa là bức tranh đã vô giá trị ngay từ đầu; nó chỉ có nghĩa là người đó đã đạt đến giới hạn của ngân sách ấn định. Bức tranh có thể đáng giá bỏ ra chi phí 8.800 đô la.
Ngay cả khi một người phải trả giá cao hơn trong một cuộc đấu giá, thì y có thể đã đạt được mục đích chính là gây ấn tượng với những người quan sát rằng mình giàu có. Tuy nhiên, một quốc gia thất bại trong chiến tranh vẫn có thể bảo toàn được danh tiếng về sức mạnh quân sự và giải pháp chính trị nếu quốc gia đó đã khiến kẻ thù phải trả giá đắt trước khi rút lui. Trong chính trị quyền lực, thất bại thường tốt hơn là rút lui. Nếu Hoa Kỳ cam chịu rời khỏi Đông Dương, thì tốt nhất là bị ném ra ngoài. Như trợ lý hành chính của Johnson John McNaughton đã nói, Hoa Kỳ phải “nhạy cảm với việc khu vực này có bị mất hay không cũng như mất bằng cách nào.”
Một khi logic này được hiểu rõ, thì rõ ràng là Hoa Kỳ không có sự lựa chọn đơn giản giữa thắng và thua ở Đông Dương. Thay vào đó, Hoa Kỳ có bốn lựa chọn. Nó có thể thắng tốt, thua tốt, thắng tệ hoặc thua tệ. Thắng tốt và thua tốt cũng đồng nghĩa với việc chứng minh uy tín quân sự toàn cầu của Mỹ và đồng thời duy trì sự đồng thuận trong nước về Chiến tranh Lạnh. Thắng tệ hoặc thua tệ có nghĩa là làm tổn hại đến uy tín của quân đội Hoa Kỳ, hoặc phá hủy sự đồng thuận của công chúng ủng hộ Chiến tranh Lạnh, hoặc cả hai.
Hoa Kỳ sẽ thua tệ hại nếu nó chỉ đơn giản là “chuồn khỏi” Đông Dương vào năm 1965, như George Ball và những người khác khuyến khích. Sự đồng thuận trong nước về Chiến tranh Lạnh có thể đã được bảo toàn, nhưng uy tín của Mỹ ở nước ngoài sẽ bị giáng một đòn thảm khốc (đặc biệt khi người ta tiết lộ rằng Hoa Kỳ chịu trách nhiệm một phần trong cuộc đảo chính năm 1963 chống lại Tổng thống Diệm của Miền Nam Việt Nam). Nhường Đông Dương cho khối cộng sản mà không đánh nhau chẳng khác nào bỏ Nam Hàn cho Bắc Hàn xâm chiếm, hay bỏ Đài Loan cho đại lục Trung Quốc xâm lược. Điều gì đó giống như việc tái sắp xếp thảm khốc về phe thân Liên Xô trong nền chính trị thế giới từng đã xảy ra vào những năm 1970 gần như chắc chắn sẽ xảy ra, nhưng ở quy mô lớn hơn nhiều, khi các đồng minh và phe trung lập của Mỹ hoảng sợ vội vàng xoa dịu Moscow và có lẽ cả Bắc Kinh.
Hoa Kỳ đã thắng một cách tồi tệ trong cuộc tấn công Tết Mậu Thân năm 1968, mà về mặt kỹ thuật là một thắng lợi cho Hoa Kỳ và Miền Nam và là một thảm bại cho Việt Cộng và Miền Bắc. Nhưng cái giá phải trả quá cao của việc giành chiến thắng một cách tồi tệ bằng một chiến lược tiêu hao sai lầm ở Miền Nam Việt Nam đã khiến Hoa Kỳ phải rút quân do hậu quả của áp lực công luận trong nước không thể tránh khỏi. Chiến thắng tệ hại đã bảo toàn uy tín của Mỹ với tư cách là người bảo vệ quân sự cho các đồng minh yếu kém—nhưng với cái giá phải trả là phá hoại sự đồng thuận về Chiến tranh Lạnh trong chính nước Mỹ.
Các lựa chọn thay thế cho việc thua cuộc nặng nề bằng cách rút lui khỏi Đông Dương mà không đánh trận và giành chiến thắng tồi tệ bằng cách chồng chất thương vong của Mỹ và Việt Nam quá nhanh là thắng tốt hoặc thua tốt. Để thắng tốt hay thua tốt ở Đông Dương, Hoa Kỳ phải hạn chế chi phí cho sự tham gia của mình. Chi phí chính cần được kiểm soát là tổn thất về sinh mạng của người Mỹ. Mặc dù George Ball, khi tranh luận chống lại leo thang chiến tranh vào mùa hè năm 1965, đã sai lầm khi bác bỏ tầm quan trọng chiến lược của Đông Dương và Đông Nam Á, ông đã đúng khi nhắc nhở các nhà hoạch định chính sách của mình về mối tương quan giữa số tử vong trong trận chiến ngày càng tăng và sự bất mãn ngày càng tăng của công chúng trong Chiến tranh Triều Tiên. Dựa trên bằng chứng về các cuộc chiến tranh ở Triều Tiên và Việt Nam, Hoa Kỳ có thể chỉ mất khoảng 15.000-20.000 binh sĩ trong một cuộc chiến tranh ủy nhiệm của siêu cường trước khi phần lớn công chúng quay lưng lại với nó. Ở cả Hàn Quốc và Việt Nam, Hoa Kỳ đã tiêu tốn gần sáu mươi nghìn sinh mạng. Mặc dù Hàn Quốc vẫn tồn tại, chi phí của Chiến tranh Triều Tiên đã khiến công chúng và quân đội Hoa Kỳ cảnh giác quá mức về các can thiệp quân sự tiếp theo trong một thập kỷ. Chiến tranh Việt Nam, một thất bại chứ không phải bế tắc như Chiến tranh Triều Tiên, cũng có tác động tương tự. Điều này gợi ý rằng Chiến tranh Việt Nam nên được tiến hành theo cách mà dù thắng hay thua, công chúng Mỹ sẽ tiếp tục ủng hộ các cuộc chiến tranh nhỏ tương tự ở những nơi khác nhân danh chiến lược ngăn chặn toàn cầu đòi hỏi phải có các cuộc đấu tay đôi thường xuyên cũng như các cuộc bao vây bền bỉ. Đối với Hoa Kỳ, việc giành chiến thắng với cái giá quá cao ở Việt Nam có thể là một thảm họa chính trị lớn ngang với thất bại.
Vậy thì, ngay từ đầu, Washington lẽ ra nên áp đặt một giới hạn không chính thức đối với số lượng mạng sống của người Mỹ mà nước này sẵn sàng hy sinh vì lợi ích thực sự nhưng có giới hạn của Mỹ ở một Đông Dương không cộng sản. Con số lẽ ra phải là mức trần chứ không phải mục tiêu. Lập luận được đưa ra ở đây không phải là Hoa Kỳ nên kích động xung đột hoặc gây ra thương vong như bằng chứng cho thiện chí của mình. Gửi quân đội đến chỗ chết của họ chỉ vì mục đích thanh danh, trong một cuộc chiến không thể giành chiến thắng bằng bất kỳ phương tiện hợp lý nào, sẽ là hành động giết người. Thay vào đó, lập luận là ngay cả một nỗ lực thực tế và được cân nhắc kỹ lưỡng của Mỹ nhằm giải cứu các đồng minh ở Đông Dương lẽ ra phải bị hủy bỏ, khi thương vong của Mỹ đã đạt đến mức nghiêm trọng. Tổn thất vài trăm binh sĩ ở Việt Nam có thể là một sự hy sinh quá nhỏ để bảo toàn uy tín của Mỹ; tổn thất năm mươi tám nghìn khiến việc duy trì sự đồng thuận trong Chiến tranh Lạnh của Mỹ là không thể.
Tất cả những điều này giúp hiểu rõ hơn về thách thức khó khăn mà chính quyền Johnson phải đối mặt. Đến năm 1968, tính toán sẽ thay đổi, nhưng vào năm 1965, sự cân bằng giữa uy tín ở nước ngoài và sự đồng thuận ở trong nước đã ủng hộ việc leo thang nỗ lực của Hoa Kỳ ở Đông Dương. Sự ủng hộ trong nước đối với sự can thiệp của Hoa Kỳ vẫn còn cao, trong khi quân đội Mỹ và danh tiếng ngoại giao đã bị đe dọa bởi một loạt sự sỉ nhục, đặc biệt là cuộc khủng hoảng Berlin và Cuba. Câu hỏi không phải là có nên leo thang hay không, điều mà trên thực tế đã được dự đoán trước, mà là leo thang như thế nào. Để sử dụng phép ẩn dụ mà cố vấn của Johnson là John McNaughton sử dụng, Hoa Kỳ phải chứng minh với các đồng minh của mình trên khắp thế giới rằng họ là một “bác sĩ giỏi” bằng cách nỗ lực hết sức để chữa bệnh cho bệnh nhân trước khi bó tay.
Phê phán Pháp quan
Ngay cả trước khi xe tăng do Liên Xô viện trợ tiến vào Sài Gòn năm 1975, nhiều thành viên của quân đội Hoa Kỳ và các đồng minh của họ bên phe hữu chính trị đã hoàn thiện một lời giải thích cho sự thất bại của Hoa Kỳ tại Việt Nam. Đông Dương đã bị mất vì các nhà hoạch định chính sách dân sự đã không cho phép quân đội giành chiến thắng. Tuyên bố rằng chính quyền Johnson đã bỏ qua hoặc bác bỏ các chiến lược quân sự hợp lý để giành chiến thắng trong Chiến tranh Việt Nam với cái giá phải trả mà dư luận Hoa Kỳ chấp nhận được đã cung cấp chủ đề cho các cuốn sách hồi ký của hai chỉ huy quân sự hàng đầu trong ba năm đầu tiên của cuộc chiến— Tướng William C. Westmoreland thuộc Bộ Tư Lệnh Cố Vấn Quân Sự-Việt Nam (MACV) và Đô Đốc U. S. Grant Sharp, Tư lệnh Trưởng Thái Bình Dương (CINCPAC)
Phát biểu của luận điểm này được cung cấp bởi Đại tá Harry Summers của Quân đội Hoa Kỳ trong On Strategy: A Critical Analysis of the Vietnam War (1981) (Bàn về Chiến Lược: Phân tích Phê Phán về Chiến Tranh Việt Nam). Vào những năm 1990, lập luận này đã được nhắc lại bởi một trong những người hùng của Chiến tranh vùng Vịnh, Đại úy H. R. McMaster, trong cuốn sách Dereliction of Duty:: Lyndon Johnson, Robert McNamara, the Joint Chiefs of Staff, and the Lies That Led to Vietnam (1997)(Sự xao nhãng nhiệm vụ và những Lời Dối trá Dẫn đến Việt Nam (1997).
Năm 1976, Westmoreland, nhận thấy các sĩ quan đồng nghiệp lo ngại rằng “quân đội đóng vai trò là vật tế thần trong cuộc chiến ở Việt Nam,” lập luận rằng “quân đội rõ ràng đã làm công việc mà đất nước yêu cầu và mong đợi, và tôi tin rằng lịch sử sẽ phản ánh thành tích của quân đội thuận lợi hơn thành tích của các chính trị gia và các nhà hoạch định chính sách.” Trong phần giới thiệu quyển sách Stragery of Defeat (Sách Lược của Thảm Bại) (1978) của Sharp, Hanson W. Baldwin tuyên bố “rõ ràng là trách nhiệm thất bại trong cuộc chiến không nằm trên vai những người mặc quân phục, mà trên vai các nhà hoạch định chính sách dân sự ở Washington – những người đã xây dựng và phát triển các chính sách theo chủ nghĩa tiệm tiến, phản ứng linh hoạt, đánh bom lặp đi lặp lại, chiến thắng bằng thương lượng, và cuối cùng, kiềm chế bằng một tay sau lưng, và đánh bài chuồn” Năm 1981, tổng thống Ronald Reagan nhắc lại huyền thoại này: “Cách đây vài năm, chúng ta đã mang về nhà một nhóm chiến binh Mỹ, những người đã tuân theo tiếng gọi của đất nước và chiến đấu dũng cảm và giỏi giang như bất kỳ người Mỹ nào trong lịch sử của chúng ta. Họ trở về nhà mà không có chiến thắng không phải vì họ đã bị đánh bại mà vì họ đã không được phép giành chiến thắng.” Eliot A. Cohen, một trong những chuyên gia quốc phòng dân sự hàng đầu của Hoa Kỳ, đã nhận xét vào năm 1998 rằng “Việt Nam đã trở thành trò chơi đạo đức của cơ sở quốc phòng, một câu chuyện cảnh báo về sự can thiệp của dân sự, sự rụt rè của quân đội và những thảm họa xảy ra sau đó nhưng không cần thiết. Từ đó, cả chính khách và tướng lĩnh đều rút ra được những bài học về cách chỉ đạo và chiến đấu, những bài học hầu như được chấp nhận không nghi ngờ gì bởi thế hệ chính trị gia và quân nhân trẻ tuổi mà đối với họ Việt Nam chẳng là gì khác hơn là một ký ức mơ hồ trên truyền hình thời thơ ấu.” Không phải tất cả các chuyên gia quốc phòng dân sự và quân sự đều đồng ý với phân tích này, nhưng nó có ảnh hưởng lớn trong hàng ngũ quân đội đến nỗi nó có thể được gọi là “phê phán pháp quan” về Chiến tranh Việt Nam. Ngay từ năm 1968, Đại tá Thủy quân lục chiến William R. Corson đã phàn nàn rằng “một phiên bản Mỹ về huyền thoại ‘đâm sau lưng’ của Đức [Huyền thoại đâm sau lưng là quan niệm, được tin tưởng và phổ biến rộng rãi trong giới cánh hữu ở Đức sau năm 1918, cho rằng Quân đội Đức không thua Chiến tranh thế giới thứ nhất trên chiến trường mà bị phản bội do thường dân ở mặt trận hậu phương, đặc biệt là những người cộng hòa đã lật đổ chế độ quân chủ Hohenzollern …] đang được phe diều hâu tích cực quảng bá về Việt Nam.” Năm 1980, 92 phần trăm cựu chiến binh Việt Nam do Cục Cựu chiến binh thăm dò đã đồng ý với tuyên bố: “Vấn đề ở Việt Nam là quân đội của chúng ta được yêu cầu tham gia một cuộc chiến mà các nhà lãnh đạo chính trị của chúng ta ở Washington không muốn để họ giành chiến thắng.” Phê phán pháp quan đã trở thành một quan điểm chính thống được chia sẻ không chỉ bởi hầu hết binh lính và cựu chiến binh Hoa Kỳ mà cả bởi các chính trị gia bảo thủ của Đảng Cộng hòa, những người muốn đổ lỗi thất bại Chiến tranh Việt Nam cho Lyndon Johnson, một đảng viên Đảng Dân chủ tự do, hoặc cho Richard Nixon, một đảng viên Cộng hòa nhưng không phải là một người bảo thủ kiểu Goldwater-Reagan.
Phê phán pháp quan quy lỗi cho chính quyền Kennedy và Johnson về những thất bại được cho là ở mặt trận Đông Dương. Ở mặt trận Đông Dương, Kennedy và Johnson lẽ ra không nên để nỗi sợ hãi phi thực tế về sự can thiệp của Trung Quốc ngăn cản họ xâm lược Bắc Việt Nam hoặc ít nhất là cắt đứt Bắc Việt khỏi các nhà tài trợ Trung Quốc và Liên Xô bằng các biện pháp như đánh mìn các cảng Miền Bắc. Thay vì tiến hành một cuộc xâm lược hoặc ném bom ồ ạt, không hạn chế vào miền Bắc, chính quyền Johnson lại tiến hành các chiến dịch ném bom hạn chế và không hiệu quả. Phê phán pháp quan cũng cho rằng Kennedy và Johnson và các cố vấn của họ đã phóng đại tầm quan trọng của cuộc nổi dậy ở Miền Nam Việt Nam. Được xác định đúng dắn, mối đe dọa ở Miền Nam Việt Nam không phải là một cuộc nổi dậy mà là sự xâm nhập của quân chính quy Bắc Việt qua Đường mòn Hồ Chí Minh ở Lào và Campuchia, và cuối cùng là một cuộc xâm lược quy ước từ miền Bắc. Theo các phiên bản của hầu hết các bài phê phán pháp quan, Hoa Kỳ đã mắc một sai lầm khủng khiếp khi không cắt đứt Đường mòn Hồ Chí Minh trong giai đoạn đầu của cuộc chiến.
Khi phân tích chính sách về mặt trận trong nước, lời phê phán pháp quan cho rằng chính quyền Johnson đã phạm sai lầm nghiêm trọng khi quyết định không huy động lực lượng dự bị hoặc yêu cầu Quốc hội chính thức tuyên chiến. (Mỉa mai thay, nhiều nhà phê bình quân sự và bảo thủ của chính quyền Johnson đồng ý với phe tự do và cực tả rằng Nghị quyết, tuyên bố chiến tranh có điều kiện ở Đông Nam Á, không đáp ứng các tiêu chuẩn hiến pháp.) Việc không tập hợp được quần chúng ủng hộ cuộc chiến, theo phe trường phái pháp quan, đã mang lại cho những người cộng sản Việt Nam và phe tả phản chiến ở Hoa Kỳ vốn nhại theo luận điệu cộng sản như con vẹt một lợi thế không cần thiết trong cuộc tranh luận. Nhiều thành viên của trường phái pháp quan, cả quân sự và dân sự, đã lập luận rằng trong Chiến tranh vùng Vịnh, Tổng thống Bush đã tránh được những sai lầm của Tổng thống Johnson. Người ta nói rằng không giống như Johnson, Bush đã đến Quốc hội và tập hợp công chúng trước. Được sự hỗ trợ áp đảo của công chúng, Bush sau đó đã giải phóng sức mạnh quân sự to lớn của Hoa Kỳ chống lại Iraq. Hơn nữa, chính quyền Bush, không giống như chính quyền Johnson, không quản lý vi mô các quyết định quân sự – hay như người ta nói vậy. Kết quả bị cáo buộc là một cuộc chiến ngắn ngủi, quyết đoán và được dân chúng ủng hộ như Chiến tranh Việt Nam đã bị kéo dài, bế tắc và cuối cùng không được ưa chuộng. (Tất nhiên, trên thực tế, Bush đã tiến hành một cuộc chiến hạn chế vì một mục tiêu hạn chế, vẫn để Saddam Hussein nắm quyền ở Iraq và vẫn có khả năng đe dọa các nước láng giềng; và Quốc hội đã cho phép Chiến tranh vùng Vịnh chỉ với một vài phiếu bầu, trong khi Nghị quyết Đông Nam Á được thông qua với sự nhất trí gần như tuyệt đối.)
Không phải tất cả những người đóng góp vào việc phê phán pháp quan về chiến lược của Hoa Kỳ trong Chiến tranh Việt Nam đều đưa ra tất cả các điểm được liệt kê ở đây. Với uy tín của mình, Đại tá Harry Summers chỉ trích những người đã đổ lỗi cho các nhà hoạch định chính sách dân sự về sự can thiệp của họ: “Những lời chỉ trích như vậy là không phù hợp. Vấn đề của chúng ta không do sự can thiệp quá nhiều về mặt chính trị mà là do thiếu sót một chiến lược quân sự mạch lạc- một sự thiếu sót mà các nhà lãnh đạo quân sự phải chia sẻ phần lớn gánh nặng trách nhiệm.” Tuy nhiên, thuyết pháp quan về Chiến tranh Việt Nam là quan điểm chính thống mới trong Lầu Năm Góc, Đảng Cộng hòa, và trong giới trí thức bảo thủ. Nhờ vì thế đa số của đảng Cộng hòa và sự tôn trọng mà các nhà hoạch định chính sách dân sự ngày nay được mong đợi sẽ thể hiện với các quan chức quân sự hàng đầu, lời phê phán pháp quan ắt hẳn ảnh hưởng đến chiến lược quân sự của Mỹ trong những năm đầu của thế kỷ XXI. Thật không may, những bài học về Việt Nam mà giới quân sự Hoa Kỳ và các đồng minh chính trị của họ đã học được là những bài học sai lầm. Việc chấp nhận rộng rãi sự phê phán pháp quan sai lầm về Chiến tranh Việt Nam sẽ khiến quân đội có nhiều khả năng lặp lại những sai lầm của cuộc chiến đó.
Trong chương này, tôi xem xét những sai sót trong phê phán pháp quan tiêu chuẩn về cuộc chiến ở Việt Nam. Khi làm như vậy, tôi chủ yếu dựa vào công trình của các học giả cũng từng là quân nhân, chẳng hạn như Đại tá Andrew Krepinevich, cũng như công trình của những viên chức dân sự từng tham gia vào cái mà Henry Cabot Lodge gọi là “cuộc chiến khác” chống nổi dậy ở Việt Nam, chẳng hạn như Robert W. Komer quá cố và cựu Giám đốc Tình báo Trung ương William Colby. Cuộc tranh luận hồi tưởng về chiến lược ở Việt Nam không phải là cuộc tranh luận giữa các nhà tư tưởng quân sự và dân sự; nó cũng giống như một cuộc tranh luận trong quân đội về các phản ứng thích hợp đối với các loại chiến tranh khác nhau.
Thảm bại hoàn toàn về chiến dịch: Trung Quốc và giải pháp xâm lược thay thế
Giống như bất kỳ cuộc chiến tranh nào khác, Chiến tranh Việt Nam phải được phân tích theo ba cấp độ xung đột: chiến lược, hành quân và chiến thuật. Ở cấp độ chiến lược, liên minh thuận lợi chống Mỹ giữa Liên Xô và Trung Quốc bị ghẻ lạnh từ năm 1959 đến 1975 đã cung cấp cho Miền Bắc Việt Nam sự hỗ trợ ngoại giao và vật chất không thể thiếu. Ở cấp độ hành quân (chiến trường), mối đe dọa đối đầu trực tiếp giữa Hoa Kỳ với Trung Quốc hoặc Liên Xô đã ngăn chặn hiệu quả việc Hoa Kỳ theo đuổi các biện pháp quân sự nhất định, bao gồm cả việc cô lập hoặc xâm lược Bắc Việt. Chính sách răn đe thành công của các cường quốc cộng sản buộc Mỹ phải hạn chế phạm vi địa lý và cường độ hoạt động tại chiến trường Đông Dương. Kết quả là, ở cấp độ chiến thuật, trong vài năm đầu của cuộc can thiệp quy mô lớn của mình, Hoa Kỳ đã phải đối mặt với một cuộc chiến tranh hỗn hợp mà chủ yếu tuy không hoàn toàn là cuộc nổi dậy được chỉ đạo từ bên ngoài ở Miền Nam Việt Nam.
Thật kỳ lạ, các nhà phê bình quân sự và bảo thủ có rất ít điều để nói về cấp độ chiến lược của Chiến tranh Việt Nam, mặc dù rõ ràng là chính sách của Miền Bắc Việt Nam có thể đã thất bại nếu Hoa Kỳ thuyết phục Liên Xô hoặc Trung Quốc hoặc cả hai cắt đứt viện trợ cho Hà Nội. (Nixon đã cố gắng thay đổi các biến số chiến lược bằng ngoại giao, nhưng chỉ đạt được thành công hạn chế.) Thay vào đó, nhiều thành viên của trường phái pháp quan lập luận rằng Hoa Kỳ đã thất bại ở cấp độ tác chiến, do coi trọng mối đe dọa can thiệp của Trung Quốc hoặc Liên Xô. “Tại sao chúng ta không được phép giành chiến thắng?” Đô đốc Sharp đã hỏi vào năm 1978. “Theo quan điểm của tôi, một phần là do giới chính trị và ngoại giao ở Washington lo ngại một cách quá đáng về khả năng can thiệp của Trung Quốc và Liên Xô.” Sharp đã bác bỏ huyền thoại về “bóng ma biển người” Trung Quốc tràn xuống từ phía bắc, hoặc một ‘cuộc đối đầu’ được cho là với Liên Xô.” Chủ nghĩa hoài nghi của Sharp được Westmoreland chia sẻ vào năm 1976: “Ảnh hưởng đến nhiều quyết định quan trọng là nỗi sợ hãi gần như hoang tưởng về cuộc đối đầu hạt nhân với Liên Xô và một sự lo lắng tương ứng về sự tham gia tích cực của quân đội Trung Cộng. Về những vấn đề đó, các cố vấn của Tổng thống đã cố vấn một cách thái quá về nỗi sợ hãi của họ.” Trong quyển sách có tầm ảnh hưởng Summon to the Trumpet (Hồi Kèn Kêu Gọi) (1978), Tướng Dave R. Palmer đã viết, “Chính quyền Johnson đã ngăn chặn con đường chắc chắn duy nhất dẫn đến chiến thắng – giành lấy cuộc tấn công chiến lược chống lại nguồn gốc của chiến tranh. Ký ức về phản ứng của Mao Trạch Đông khi Triều Tiên bị quân đội Liên Hiệp Quốc tràn vào năm 1950 đã ám ảnh Nhà Trắng. Nỗi sợ chiến tranh của Hoa Kỳ với Trung Quốc đỏ đã bảo vệ Bắc Việt Nam khỏi cuộc xâm lược chắc chắn hơn bất kỳ công cụ chiến tranh nào mà Hà Nội có thể sử dụng.” Harry Summers đồng ý rằng Hoa Kỳ thật ngu ngốc khi cho phép những lo ngại về sự can thiệp của Trung Quốc ngăn chặn một cuộc xâm lược vào Bắc Việt Nam. Theo Summers, “Liệu Liên Xô hay Trung Quốc có từng can thiệp hay không là vấn đề phỏng đoán.” Ông đổ lỗi cho Hoa Kỳ vì đã để mình “bị Trung Quốc lừa bịp trong suốt cuộc chiến”.
Cho đến gần đây, việc thiếu thông tin chi tiết về mối quan hệ Trung-Việt trong những năm 1960 khiến các nhà sử học không thể đánh giá liệu chính quyền Johnson có thực tế khi lo ngại về khả năng can thiệp của Trung Quốc hay, như các nhà phê bình tuyên bố, những lo ngại đó đã bị phóng đại. Tuy nhiên, trong những năm 1990, bằng chứng lưu trữ mới từ Trung Quốc và Việt Nam cho thấy rõ ràng rằng những lo ngại của chính quyền Johnson là hợp lý. Khả năng Mao gửi quân tác chiến đánh nhau với Hoa Kỳ ở Việt Nam là hoàn toàn có thật.
Giờ ta biết rằng vào cuối năm 1964 và đầu năm 1965, Trung Quốc làm rõ cam kết của mình với Miền Bắc Việt Nam. Nếu Hoa Kỳ không chỉ ném bom miền Bắc Việt Nam mà còn xâm lược nó, Trung Quốc sẽ gửi quân tham chiến, như họ đã làm trong Chiến tranh Triều Tiên. Thông qua nhiều phương tiện khác nhau, bao gồm cả các thông điệp ngoại giao gửi các quốc gia khác, chính phủ Mao, với hy vọng ngăn chặn Hoa Kỳ, đã gửi tín hiệu quyết tâm can thiệp nếu cần thiết tới Washington. Hà Nội cũng có thông điệp tương tự. “Chúng tôi sẽ đến Việt Nam nếu Việt Nam cần, như chúng tôi đã làm ở Triều Tiên,” Chu Ân Lai đảm bảo với các thành viên của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam (MTGPMN) vào tháng 5 năm 1965. Tầm quan trọng mà Mao đặt vào Chiến tranh Việt Nam có thể được đánh giá từ một tài liệu của Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc ngày 12 tháng 4 năm 1965, trong đó tuyên bố rằng ưu tiên hàng đầu của chính phủ Trung Quốc là hỗ trợ Miền Bắc Việt Nam chống lại Hoa Kỳ. Cũng trong tháng 4 năm 1965, các nhà lãnh đạo cộng sản Bắc Việt Giáp và Lê Duẩn đã bí mật đến thăm Bắc Kinh với yêu cầu cử phi công Trung Quốc đến chiến đấu với lực lượng không quân Hoa Kỳ. Mặc dù phía Trung Quốc từ chối yêu cầu đó, nhưng họ đã đồng ý với yêu cầu của Lê Duẩn về việc cho quân công binh Trung Quốc xây dựng hoặc sửa chữa đường sắt, đường bộ và cầu cống, để quân chính quy Miền Bắc rảnh tay xâm nhập Miền Nam. Cuộc gặp này được tiếp nối vào tháng 5-tháng 6 năm 1965 bằng một cuộc gặp bí mật ở Trung Quốc giữa Hồ Chí Minh và Mao. Kết quả của những cuộc thảo luận bí mật này là Trung Quốc và Bắc Việt đã vạch ra các kế hoạch cho nhiều tình huống bất ngờ khác nhau. Nếu Hoa Kỳ hạn chế ném bom Miền Bắc và đánh nhau ở Miền Nam thì CSVN sẽ tự mình chiến đấu, với sự hỗ trợ về quân sự, vật chất và ngoại giao của Trung Quốc. Tuy nhiên, nếu Hoa Kỳ xâm lược Miền Bắc Việt Nam, Trung Quốc sẽ tham chiến.
“Nếu các hành động mà [Đại tá Harry] Summers khuyến nghị được Washington tiến hành ở Việt Nam, sẽ có nguy cơ thực sự xảy ra chiến tranh Trung-Mỹ với những hậu quả thảm khốc cho thế giới,” nhà sử học Qiang Zhai viết trong một phân tích về chứng cứ tài liệu mới. “Khi nhìn lại, có vẻ như Johnson đã rút ra bài học đúng đắn từ Chiến tranh Triều Tiên và đã thận trọng trong cách tiếp cận của mình đối với cuộc xung đột Việt Nam.”
Giống như Eisenhower, Truman và các chính quyền trong Chiến tranh Triều Tiên, chính quyền Johnson giảm thiểu những gì họ biết về sự can dự của Trung Quốc và Liên Xô vào Việt Nam. Nhìn lại thì đây là một sai lầm về quan hệ công chúng, bởi vì nó cho phép các nhà phê bình cánh tả cũng như các nhà phê bình quân sự và bảo thủ lập luận rằng chính phủ đã phóng đại vai trò của các cường quốc cộng sản ở Đông Dương. John Kenneth Galbraith đã viết trên tờ New York Times vào ngày 12 tháng 7 năm 1975, sau khi quân đội Bắc Việt được Liên Xô trang bị xâm lược và chinh phục miền Nam Việt Nam: “Bạn sẽ hỏi tại sao trong mối quan hệ với Hà Nội, người Trung Quốc và người Nga đã làm tốt hơn.” Một câu trả lời là họ đã khôn ngoan hơn: Không có quân đội Trung Quốc hay Nga nào được gửi đến; không có bộ phận cố vấn nào bị sa thải… Họ không bị ném ra ngoài vì họ không có ở đó.” Galbraith không biết mình đang nói gì. Quân đội Trung Quốc và Nga đã thực ra ở đó, và trong trường hợp của Trung Quốc, với số lượng rất lớn. Theo tính toán riêng của chính phủ Trung Quốc, từ năm 1965 đến năm 1973, 320.000 binh sĩ Quân Giải phóng Nhân dân, không cải trang vẫn mặc quân phục Trung Quốc, đã được gửi đến Miền Bắc Việt Nam. Số lượng lớn nhất binh lính Trung Quốc có mặt tại Bắc Việt Nam vào bất kỳ thời điểm nào là 170.000. Để so sánh con số 170.000, cần nhắc lại rằng số lượng binh lính mà Hoa Kỳ có ở Đông Dương vào thời cao điểm của sự can thiệp vào năm 1968 là khoảng 543.000. Tóm lại, ở đỉnh cao của Chiến tranh Việt Nam, lực lượng quân đội mặc quân phục của Trung Quốc ở Miền Bắc Việt Nam có gần một phần ba nhân lực tối đa của lực lượng Hoa Kỳ ở miền Nam. Vào thời điểm những người lính Trung Quốc cuối cùng rời khỏi Việt Nam vào tháng 8 năm 1973, 1.100 người được cho là đã thiệt mạng và 4.200 người bị thương.
Quân hậu cần Trung Quốc ở Miền Bắc Việt Nam đã giải phóng quân chính quy Bắc Việt rảnh tay chiến đấu ở Miền Nam, như cuộc trò chuyện sau đây ở Hồ Nam, Trung Quốc, vào ngày 16 tháng 5 năm 1965, giữa Mao và Hồ Chí Minh cho thấy rõ:
Hồ Chủ tịch: Trước hết chúng tôi cần Trung Quốc giúp chúng tôi xây dựng 6 con đường từ khu vực biên giới. Những con đường này chạy về phía nam qua hậu phương của chúng tôi. Và trong tương lai chúng sẽ được kết nối với tiền tuyến. Hiện tại, chúng tôi có 30 nghìn binh sĩ đang xây dựng những con đường này. Nếu Trung Quốc giúp chúng tôi, họ sẽ được đưa vào Nam. Đồng thời phải giúp các đồng chí Lào làm đường từ Sầm Nưa đến Xiêng Khoảng, rồi từ Xiêng Khoảng đến Hạ Lào, rồi đến Nam Việt Nam.
Mao Trạch Đông: Bởi vì chúng ta sẽ đánh những trận chiến quy mô lớn trong tương lai, sẽ rất tốt nếu chúng ta cũng xây dựng những con đường đến Thái Lan….
Hồ Chủ tịch: Nếu Chủ tịch Mao đồng ý Trung Quốc sẽ giúp chúng tôi, chúng tôi sẽ gửi người của chúng tôi đến miền Nam.
Mao Trạch Đông: Chúng tôi chấp nhận đơn đặt hàng của ngài. Chúng tôi sẽ làm điều đó. không có vấn đề gì.
Trong khi căng thẳng nảy sinh giữa binh sĩ Trung Quốc và người Bắc Việt, Hà Nội rất vui khi nhận được sự giúp đỡ. Ngày 13-4-1966, tại Bắc Kinh, Lê Duẩn cam đoan với các nhà lãnh đạo cộng sản Trung Quốc Chu Ân Lai, Đặng Tiểu Bình và Khang Sinh:
Về sự hỗ trợ của Trung Quốc đối với Việt Nam, chúng tôi rất an tâm và không có bất kỳ lo ngại nào về điều đó. Bây giờ, có hơn một trăm nghìn quân Trung Quốc ở Việt Nam, nhưng chúng tôi nghĩ rằng bất cứ khi nào có điều gì nghiêm trọng xảy ra, cần phải có hơn 500.000 quân. . . . Chúng tôi nghĩ rằng với tư cách là một nước xã hội chủ nghĩa anh em, các đồng chí có thể làm điều đó, các bạn có thể giúp chúng tôi như thế này.
Không phải là không đáng kể, sự can thiệp quân sự của Trung Quốc vào Chiến tranh Việt Nam là nỗ lực lớn nhất và bền vững nhất của các lực lượng vũ trang Trung Quốc bên ngoài biên giới Trung Quốc kể từ Chiến tranh Triều Tiên. Ngày 23 tháng 9 năm 1968, trong cuộc nói chuyện với thủ tướng Bắc Việt Phạm Văn Đồng tại Bắc Kinh, Mao nhận xét về một sự kiện đáng chú ý là Hoa Kỳ, sợ gây ra một cuộc khủng hoảng lớn hơn, đã không công khai việc Trung Quốc sử dụng quân đội mình như một lực lượng dự bị chiến lược cho Miền Bắc và việc giao cho Bắc Việt Nam hàng trăm nghìn quân Trung Quốc:
Mao Trạch Đông: Tại sao người Mỹ không làm ầm lên về việc hơn 100.000 quân Trung Quốc giúp các bạn xây dựng đường sắt, đường bộ và sân bay mặc dù họ biết về điều đó?
Phạm Văn Đồng: Tất nhiên, họ sợ.
Mao Trạch Đông: Lẽ ra họ nên làm ầm ĩ lên về chuyện đó. Ngoài ra, ước tính của họ về số lượng quân Trung Quốc ở Việt Nam ít hơn con số thực.
Liên Xô cũng có mặt ở Việt Nam. Nhà sử học người Nga Ilya Gaiduk đã nhận xét: “Mặc dù Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được các đồng minh hùng mạnh của họ là Liên Xô và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa hỗ trợ trong suốt cuộc chiến, nhưng những người ủng hộ này hầu như đã thoát khỏi sự chú ý của các nhà sử học về cuộc xung đột ở Đông Dương.” Trong cuốn sách năm 1996 của ông Liên Xô và Chiến tranh Việt Nam, Gaiduk cho thấy Liên Xô đã cạnh tranh với Trung Quốc của Mao để giành quyền lãnh đạo khối cộng sản và các phong trào cấp tiến của Thế giới thứ ba – bằng cách thay thế Trung Quốc vào giữa những năm 1960 với tư cách là nhà tài trợ quân sự chính của Miền Bắc Việt Nam . Trong một bản ghi nhớ năm 1970 gửi cho Moscow, đại sứ quán Liên Xô tại Hà Nội đã viết: “Không loại trừ khả năng Đông Dương có thể trở thành chìa khóa cho tất cả Đông Nam Á đối với chúng ta.”
Trong Alien Wars: The Soviet Union’s Aggressions Against the World, 1919 to 1989 (Những Cuộc Chiến Nước Ngoài: Những Gây Hấn của Liên Bang Xô Viết Chống Thế Giới, 1919 đến 1989 (1996), hai cựu sĩ quan Hồng quân, Tướng Oleg Sarin, cựu biên tập viên tờ báo quân sự Liên Xô Red Star (Sao Đỏ), và Đại tá Lev Dvoretsky, từng phục vụ trong Hồng quân từ năm 1948 đến năm 1982, coi vai trò của Liên Xô trong Chiến tranh Việt Nam là một trong số những “cuộc xâm lược” của Liên Xô cùng với cuộc phong tỏa Tây Berlin, Chiến tranh Triều Tiên, các cuộc xâm lược vào Afghanistan, Hungary và Tiệp Khắc, và cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba. Ở Việt Nam, hai nhà báo Hồng quân viết, Liên Xô “không chỉ mở rộng và củng cố khối các nước xã hội chủ nghĩa nói chung, mà còn làm như vậy ở châu Á, một mục tiêu mong muốn từ lâu. Ngoài ra, những thành công ở rừng rậm Việt Nam là nâng cao danh tiếng của vũ khí Liên Xô. Việt Nam, cũng như Triều Tiên, ngoài những nhận định chính trị, cho thấy là một cơ hội rõ ràng để là một loại địa điểm thử nghiệm cho tổ hợp quân sự-công nghiệp Liên Xô.”
Thế thì Chiến tranh Việt Nam là cuộc chiến ủy nhiệm giữa Hoa Kỳ, Liên Xô và Trung Quốc và đôi khi còn hơn thế nữa. Theo Sarin và Dvoretsky, “Mặc dù sự thật về Chiến tranh Việt Nam đang được che giấu cẩn thận, nhưng sự thật về sự tham gia của quân đội Liên Xô trong khu vực này ngày càng được biết đến rộng rãi. Rõ ràng là các phi công Liên Xô đã tham gia tích cực vào các chuyến bay của Không quân Việt Nam trong những trận không kích giáng trả vào Miền Bắc của Mỹ. Các đội phòng không Liên Xô trên mặt đất ở Đông Dương đã bắn rơi hàng chục máy bay Mỹ trong Chiến tranh Việt Nam. Vào ngày 30/3/1968, khi một tổ hợp phòng không Dvina của Liên Xô bắn rơi một tiêm kích F-111 của Không Lực Hoa Kỳ, Bộ trưởng Quốc phòng Andrei Grechko coi sự kiện này đủ quan trọng đáng gọi điện thoại trực tiếp báo tin cho Tổng Bí thư Leonid Brezhnev. Về phần mình, chính phủ Trung Quốc đã thừa nhận rằng họ đã cung cấp cho Bắc Việt Nam các đội phòng không đã bắn hạ máy bay Mỹ. Bắc Kinh tuyên bố đã chịu bốn nghìn người bị thương và hơn một nghìn người chết như một kết quả của cuộc xung đột với các lực lượng Mỹ và Nam Việt Nam.
Ở Đông Dương, cũng như ở Triều Tiên, binh lính Mỹ và các đồng minh của họ, thường không nhận ra là mình đã giao chiến trực tiếp với quân đội Liên Xô và Trung Quốc. Đôi khi những người lính của Brezhnev và Mao đã giết người Mỹ ở Việt Nam. Khi đó, quyết định của chính quyền Johnson không xâm lược Miền Bắc Việt Nam dựa trên sự đánh giá đúng đắn về mối đe dọa can thiệp quân sự trực tiếp của Trung Quốc, cũng như nỗi sợ hãi được thông báo đầy đủ về việc kích động một cuộc đối đầu Xô-Mỹ. Lập luận của trường phái pháp quan cho rằng Johnson có thể khiến chiến tranh kết thúc nhanh chóng bằng cách xâm chiếm miền Bắc Việt Nam đã hoàn toàn mất uy tín.
Cuộc không chiến đánh Miền Bắc Việt Nam
Trong A Soldier Reports (Báo Cáo của Người Lính) (1976), Tướng Westmoreland viết rằng “chiến tranh vẫn có thể đã kết thúc trong vòng vài năm nữa, nếu không có chính sách thiếu cân nhắc trong việc đáp trả dần dần đối với Miền Bắc Việt Nam. Ném bom một chút, ngừng một lúc để cho kẻ thù có cơ hội nhượng bộ, sau đó ném bom thêm một chút nhưng không bao giờ đủ để thực sự gây thương tích. Đó không phải là cách để giành chiến thắng.” Theo Đô đốc Sharp, Hoa Kỳ lẽ ra nên “đánh kẻ thù vào nơi nó bị tổn thương ngay trung tâm Miền Bắc Việt Nam trước khi những người bảo trợ Hà Nội là Trung Quốc và Liên Xô xây dựng hệ thống phòng không hùng mạnh. Ngoài ra, Sharp lập luận rằng Hoa Kỳ đáng lẽ nên cắt đứt nguồn cung cấp của Liên Xô và Trung Quốc bằng cách đặt mìn các bến cảng của Bắc Việt Nam và sử dụng sức mạnh không quân để phá hủy các tuyến đường tiếp tế trên bộ từ Trung Quốc. Sharp tố cáo “những người ra quyết định chính trị, dân sự đã chọn, vì sự kiêu ngạo trắng trợn hoặc mơ tưởng ngây thơ, việc bỏ qua các nguyên tắc chiến lược quân sự hợp lý, đúng lúc để chỉ đạo cuộc chiến tranh trên không ở Việt Nam.” Đô đốc Thomas H. Moorer, chủ tịch của Tham mưu trưởng Liên quân trong giai đoạn sau của Chiến tranh Việt Nam, tuyên bố vào năm 1987 rằng nếu không có những hạn chế về hoạt động ném bom “hẳn chúng ta có thể đã quét sạch những gã hề đó trong sáu tháng.”
Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân, được hỗ trợ bởi Ngoại trưởng Dean Rusk, đã ủng hộ một chiến dịch ném bom nhanh chóng để phá hủy các mục tiêu công nghiệp quan trọng ở Miền Bắc Việt Nam. Lựa chọn này đã bị đánh bại bởi lựa chọn được ưa thích của Bộ trưởng Quốc phòng Robert McNamara: leo thang ném bom dần dần. Chiến dịch Sấm Rền, cuộc chiến trên không chống lại Miền Bắc Việt Nam do Hoa Kỳ tiến hành từ năm 1965 đến năm 1968, đã thất bại – nhưng không phải vì hạn chế gắt gao việc ném bom.
Chiến dịch Sấm Rền có hai mục đích: đập tan ý chí của chế độ Hà Nội, và làm tê liệt khả năng can thiệp của Bắc Việt vào miền Nam bằng cách phá hủy khả năng công nghiệp của Miền Bắc và bằng cách ngăn chặn dòng tiếp quân và tiếp tế vào Miền Nam. Cuộc chiến trên không của Hoa Kỳ không đạt được mục tiêu nào cả. Hoa Kỳ đã không phá vỡ ý chí của chế độ độc tài Miền Bắc, và thiệt hại gây ra cho ngành công nghiệp Bắc Việt và các đường tiếp tế không ảnh hưởng đáng kể đến cuộc xung đột ở Miền Nam. Chế độ Hà Nội tỏ ra kiên quyết và chai đá hơn trong việc gây đau khổ cho chính người dân của mình so với mong đợi của bộ máy hành pháp Johnson. Việc ngăn chặn đã thất bại, vì tầm quan trọng hạn chế của sự hỗ trợ vật chất từ Miền Bắc Việt Nam cho cuộc nổi dậy do Hà Nội chỉ đạo ở Miền Nam trước năm 1968.
Việc sử dụng sức mạnh không quân để phá hủy cơ sở công nghiệp của Bắc Việt có vấn đề vì thực tế là cơ sở công nghiệp thực sự của Bắc Việt là Liên Xô với các nước vệ tinh trong Hiệp ước Warsaw của nó và Trung Quốc. Các cường quốc cộng sản vận chuyển hàng tiếp tế cho cộng sản Việt Nam bằng đường bộ qua Trung Quốc, qua các cảng của Miền Bắc Việt Nam, và cũng qua cảng Sihanoukville của Campuchia. Tuyên bố rằng đặt mìn những bến cảng Miền Bắc như Hải Phòng lẽ ra có thể cô lập Bắc Việt Nam và đưa chiến tranh đến hồi kết nhanh chóng đã không đứng vững trước những tiết lộ mới từ phía bên kia. “Hiện tại, cảng Hải Phòng chưa bị phong tỏa,” Chu Ân Lai nhận xét trong cuộc nói chuyện với Phạm Văn Đồng tại Bắc Kinh ngày 10 tháng 4 năm 1967:
Do đó, việc sử dụng các cảng của Trung Quốc vẫn chưa được xem xét. Liên Xô từng nói rằng Mỹ sẽ không tấn công tàu của Liên Xô. Tất nhiên, trong trường hợp cảng Hải Phòng bị phong tỏa, Việt Nam không còn cảng nào khác tiếp cận được thì các lô hàng nước ngoài vào Việt Nam sẽ phải vận chuyển qua cảng của Trung Quốc. Chúng ta có một thỏa thuận cho trường hợp bất ngờ này. Nhưng về lợi ích của các cảng Trung Quốc đối với viện trợ của Liên Xô cho Việt Nam, chúng tôi sẽ xem xét tình hình và hoàn cảnh thực tế, sau đó sẽ đàm phán một thỏa thuận khác. Liên Xô muốn tiếp cận các cảng của Trung Quốc không chỉ để vận chuyển hàng viện trợ cho Việt Nam mà còn vì những động cơ thầm kín khác.
Các tài liệu lưu trữ của Trung Quốc nói rõ rằng nếu Hoa Kỳ, ngay từ đầu cuộc chiến, đã phong tỏa các cảng của Bắc Việt Nam và cắt đứt dòng tiếp tế của Liên Xô qua cảng Sihanoukville của Campuchia, thì các nguồn cung cấp của khối Liên Xô sẽ tiếp tục chảy vào Bắc Việt Nam thông qua cảng Trung Quốc cũng như bằng đường sắt từ Liên Xô, miễn là Bắc Kinh chắc chắn rằng Moscow không lợi dụng những nỗ lực hạn chế của Trung-Xô thay mặt cho Hà Nội.
Các tuyến đường sắt từ Trung Quốc hội tụ tại hai cây cầu ở Miền Bắc Việt Nam, cầu Paul Doumer ở Hà Nội và cầu Thanh Hóa. Việc phá hủy hai cây cầu này sẽ làm tê liệt khả năng của Bắc Việt trong việc tiếp tế cho cuộc nổi dậy ở miền Nam (mặc dù, chừng nào mà cuộc nổi dậy phụ thuộc chủ yếu vào nguồn tiếp tế và tuyển mộ địa phương trong những năm đầu, bản thân cuộc nổi dậy không nhất thiết gặp trở ngại). Nếu Hoa Kỳ sở hữu công nghệ như đã có trong Chiến tranh vùng Vịnh, việc đánh sập hai cây cầu này sẽ tương đối dễ dàng. Thật không may, công nghệ thời đó không đáp ứng được nhiệm vụ. Cả hai cây cầu đều tồn tại sau rất nhiều cuộc không kích của Hoa Kỳ đến nỗi quân đội Hoa Kỳ đã từ bỏ hoàn toàn các cuộc tấn công cầu Doumer vào năm 1967. Chỉ đến năm 1972, bằng cách sử dụng bom “thông minh” mới được phát triển, máy bay Hoa Kỳ mới có thể làm tê liệt cả hai cây cầu cho đến khi Hoa Kỳ rời khỏi Việt Nam. Tuy nhiên, ngay cả khi Hoa Kỳ sở hữu công nghệ đó sớm hơn, nó có thể không thích hợp vì Việt Cộng trước năm 1968 có khả năng tiến hành chiến tranh du kích mà không cần tiếp tế từ Miền Bắc Việt Nam, Trung Quốc và Liên Xô.
Cũng không có cơ sở nào để lập luận rằng một “cú đánh mạnh” thay vì ném bom dần dần sẽ thay đổi kết quả của cuộc chiến. Một nghiên cứu cẩn thận lưu ý rằng chiến dịch ném bom kéo dài 12 tuần từ tháng 8 đến tháng 10 năm 1967 “gần đúng với kế hoạch của các chỉ huy trưởng không quân. Không có bằng chứng nào cho thấy việc thực hiện cú đánh mạnh vào năm 1965, thay vì năm 1967, sẽ mang lại kết quả tốt hơn.” Một huyền thoại được lặp đi lặp lại bởi các nhà phê bình quân sự và bảo thủ về việc tiến hành chiến tranh cho rằng việc tạm dừng ném bom do chính quyền Johnson áp đặt trước sự phản đối của quân đội cho phép Miền Bắc tiếp tế cho cuộc nổi dậy ở Miền Nam. Tuy nhiên, các lần tạm dừng quá ít để có thể phát huy tác dụng do chúng gây ra; trong Chiến dịch Sấm Rền, việc ném bom đã bị tạm dừng tám lần tổng cộng 60 ngày trong số 1.337 ngày, và trong số 60 ngày đó, 37 ngày là một phần của đợt tạm dừng ném bom đơn lẻ bắt đầu vào Giáng sinh năm 1965.
Tuyên bố rằng sự thành công của chiến dịch ném bom Linebacker II của Nixon đã buộc Hà Nội phải nối lại đàm phán vào năm 1972 là do không hiểu rõ các tình huống khác nhau mà chính quyền Johnson và Nixon phải đương đầu. Giữa những năm 1968 và 1972, Hà Nội đã không còn nhấn mạnh vào chiến tranh du kích để đẩy mạnh chiến lược chiến tranh quy ước vốn rất dễ bị oanh tạc. Hơn nữa, một trong những yếu tố chính khiến Johnson thận trọng trong cuộc chiến chống lại Bắc Việt, khả năng Trung Quốc can thiệp quy mô lớn vào cuộc chiến, đã giảm tầm quan trọng sau năm 1968, khi rạn nứt Trung-Xô ngày càng sâu sắc, khi Hà Nội ngày càng về phe với Moscow đã khiến nhiều nhà lãnh đạo của nước này ngày càng xa lánh Bắc Kinh, và khi Hoa Kỳ và Trung Quốc bắt đầu nối lại quan hệ. “Cả Rolling Thunder (Sấm Rền) và Linebacker đều phá hủy các mục tiêu ở miền Bắc Việt Nam có liên quan đến quân sự,” Robert A. Pape viết. “Tuy nhiên, cái này thất bại trong khi cái kia thành công.” Sự khác biệt là cuộc chiến giữa 1965 và 1968 chủ yếu là một cuộc nổi dậy:” Trong những năm nhiệm kỳ Johnson, các cuộc tấn công bằng máy bay không thể ảnh hưởng đến chiến tranh du kích và do đó không ảnh hưởng đến cách hành xử của Hà Nội. Trong những năm nhiệm kỳ Nixon, việc phá hủy các mục tiêu quân sự đã ảnh hưởng đến cách hành xử của Hà Nội bởi vì miền Bắc đã áp dụng một chiến lược xâm lược quy ước mà sức mạnh không quân có thể làm chệch hướng một cách hiệu quả.”
Đó cũng là một sai lầm khi tin tưởng rằng sự thành công của sức mạnh không quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh vùng Vịnh và Kosovo có nghĩa là Hoa Kỳ có thể đã sử dụng các biện pháp tương tự để đạt được một kết quả tương tự ở Đông Dương. Cựu Bộ trưởng Hải quân James Webb chỉ ra sau Chiến tranh vùng Vịnh: “Không phải để bôi nhọ những gì chúng ta đã đạt được trước Hussein, nhưng Hussein không phải là nhà chiến lược quân sự”. “Nếu Hồ Chí Minh đặt sáu mươi phần trăm quân đội của ông ấy vào một chỗ không có cây cối, thì chúng ta cũng sẽ thổi bay chúng trong bốn mươi ngày.”
Năm 1999, một Serbia công nghiệp hóa dễ bị tổn thương hơn nhiều trước sức mạnh không quân so với Miền Bắc Việt Nam làm nông nghiệp vào những năm 1960. Và Serbia thiếu khả năng phòng thủ hiệu quả trước các cuộc ném bom của NATO; không một phi công NATO nào bị giết hoặc thậm chí bị bắt.
Cuối cùng, không có giá trị gì cho tuyên bố rằng Tổng thống Johnson “trói tay quân đội.” Sau giai đoạn đầu của cuộc ném bom, Johnson đã không đích thân giám sát các chi tiết của cuộc chiến – điều gì đó gần như không thể trong bất kỳ trường hợp nào. Thay vào đó, theo lời khuyên của các cố vấn quân sự và dân sự, Tổng thống Johnson đặt ra các mục tiêu chính sách tổng thể và giao việc thực hiện cho quân đội. Theo lời của nhà sử học John Prados, “Ông ấy đã cư xử thông minh như nhà chỉ huy chiến lược.”
“Ném bom, ném bom, ném bom,” Johnson được cho là đã phàn nàn trong một cuộc họp với các chiến lược gia quân sự. “Đó là tất cả những gì các ông biết. Chà, tôi muốn biết tại sao lại không có gì khác. Các ông tướng đều đã được giáo dục bằng chi phí của người đóng thuế, và các ông không cho tôi bất kỳ ý tưởng và giải pháp nào cho cái đất nước nhỏ bé khốn kiếp này. Bây giờ, tôi không cần mười tướng đến đây mười lần và lần nào cũng bảo tôi ném bom.” Ngay từ ngày 30 tháng 12 năm 1964, trong một bức điện tín gửi Đại sứ Maxwell Taylor ở Sài Gòn, Johnson phàn nàn: “Mỗi lần tôi nhận được một khuyến nghị quân sự, đối với tôi, có vẻ như nó kêu gọi một cuộc ném bom quy mô lớn. Tôi chưa bao giờ cảm thấy rằng cuộc chiến này sẽ giành chiến thắng từ trên không, và đối với tôi, điều cần thiết hơn nhiều và sẽ hiệu quả hơn là sử dụng nhiều hơn và mạnh mẽ hơn Biệt kích và Lực lượng Đặc biệt và thủy quân lục chiến hoặc sức mạnh quân sự thích hợp nào khác trên mặt đất và tại chiến trường.” Sự hoài nghi của phương thuốc thần dược “dội bom” của giới quân sự được biện minh. Trước khi cuộc xung đột phát triển thành một cuộc xâm lược quy ước của Miền Bắc sau Tổng Công kích Tết 1968, không thể giành chiến thắng trong cuộc chiến ở Việt Nam bằng cách “giải phóng” sức mạnh không quân của Hoa Kỳ. Thật vậy, có thể cho rằng chính quyền Johnson đã ném bom quá nhiều chứ không phải quá ít. Trái ngược với những gì các nhà phê bình chiến tranh tuyên bố vào thời điểm đó, Chiến dịch Sấm Rền, với tất cả sự tàn bạo không thể tránh khỏi của nó, tiến hành chính xác hơn so với chiến dịch ném bom ở Triều Tiên và Thế chiến II. Mặc dù vậy, tỷ lệ giữa những đau thương gây ra cho dân thường ở Miền Bắc Việt Nam và kết quả quân sự hạn chế đã khiến những người hiếu hòa, những người cánh tả thân cộng và những người theo chủ nghĩa tự do ở phương Tây miêu tả Hoa Kỳ như một đế chế quái đản tham gia vào cuộc diệt chủng công nghệ giống như Đức Quốc xã. Cuộc không chiến chống lại Miền Bắc Việt Nam từ năm 1965 đến năm 1968 đã biến thành một thảm họa chính trị mà lẽ ra có thể tránh được bằng một chiến dịch ném bom thậm chí được điều chỉnh trong phạm vi hẹp hơn.
Loại chiến tranh nào?
Các phiên bản khác của quy tắc phê phán pháp quan cho rằng điều cần thiết không phải là một cuộc xâm lược Bắc Việt Nam mà là một cuộc tấn công sớm vào Đường mòn Hồ Chí Minh ở Lào và Campuchia. Chính quyền Johnson đã bác bỏ các kế hoạch xâm nhập như vậy vì đơn giản là Hoa Kỳ không có đủ quân để tiến hành cuộc chiến tranh tiêu hao của Tướng Westmoreland ở Miền Nam Việt Nam và đồng thời cắt đứt Đường mòn Hồ Chí Minh. Người ta ước tính rằng một tuyến phòng thủ tại chỗ có chiều sâu từ khu phi quân sự trên vùng cán xoong của Lào sẽ cần đến 6 sư đoàn Mỹ, với 2 sư đoàn nữa đóng vai trò dự bị chiến lược; ở đỉnh điểm của cuộc chiến năm 1968, Hoa Kỳ chỉ có 11 sư đoàn ở Đông Dương. Đáng lẽ phần lớn lực lượng Hoa Kỳ có thể đã được sử dụng để cắt đứt Đường mòn Hồ Chí Minh, để lại cuộc chiến ở Miền Nam Việt Nam cho binh lính Sài Gòn. Nhưng việc chính quyền Miền Nam Việt Nam không thể đạt được tiến bộ chống lại cả du kích Việt Cộng và các đơn vị chủ lực là lý do đã thúc đẩy sự can thiệp quân sự của Hoa Kỳ ngay từ đầu.
Điều này không có nghĩa là một cuộc xâm nhập vào Lào và Campuchia là không cần thiết vào một thời điểm nào đó trong cuộc chiến. Thật vậy, một sự bế tắc kiểu Hàn Quốc ở Đông Dương có thể đã đòi hỏi Hoa Kỳ và các đồng minh của họ tạo ra đạo quân đồn trú đóng tại khu phi quân sự giữa Việt Nam và Thái Lan. Câu hỏi duy nhất là ấn định thời điểm cho một cuộc xâm nhập như vậy. Đến lượt mình, câu hỏi đó phải được trả lời bằng cách phân tích bản chất của cuộc chiến tranh ở miền Nam.
Đặc điểm của cuộc chiến tranh ở Việt Nam đã thay đổi hoàn toàn từ năm 1959 đến năm 1975. Cuộc chiến bắt đầu như một cuộc nổi dậy du kích cấp thấp, đến giữa những năm 1960 đã phát triển thành một cuộc nổi dậy với các yếu tố chiến tranh thông thường, và cuối cùng, sau Tổng Công kích Tết Mậu Thân, đã phát triển thành một cuộc chiến tranh quy ước với một bộ phận du kích đi kèm. Diễn biến của cuộc chiến đã được Lewis R. Ward, một trung tá về hưu trong Lực lượng Dự bị Quân đội Hoa Kỳ, nắm bắt đúng đắn trong số ra năm 1989 của Military Review (Tạp chí Quân sự):
Vì mục đích phân tích, mặc dù có nguy cơ đơn giản hóa quá mức, chúng ta có thể xem Chiến tranh Việt Nam như hai cuộc xung đột riêng biệt nhưng liên kết với nhau—vừa là nổi dậy vừa là xâm lược. . . . Hai cuộc xung đột có một người quản lý, bộ chính trị ở Hà Nội, bộ chính trị này đã hợp nhất và phối hợp cả hai cuộc xung đột một cách rất hiệu quả thành một cuộc chiến. Cuộc nổi dậy đi trước cuộc xâm lược. Các lực lượng xâm lược ban đầu hỗ trợ quân nổi dậy và sau đó tiếp quản nó. Cuộc nổi dậy và cuộc xâm lược trở nên phụ thuộc lẫn nhau sau khi Hoa Kỳ tham chiến với các lực lượng quân sư. Hai cuộc chiến này một mình đã không thể thành công chừng nào Hoa Kỳ còn hỗ trợ Miền Nam Việt Nam. Cùng với nhau, chúng đã kịp thời đủ hiệu quả để buộc chính phủ Hoa Kỳ rút quân khỏi Việt Nam và giảm hỗ trợ quân sự, chính trị và kinh tế cho Miền Nam.
Eliot A. Cohen đã thể hiện một sự hiểu biết đầy sắc thái tương tự về bản chất của Chiến tranh Việt Nam khi ông viết vào năm 1984 rằng
vào năm 1965, quân Mỹ giao chiến với một kẻ thù chủ yếu là người Việt Nam được tổ chức và trang bị cho chiến tranh du kích; vào năm 1972, nó đã giúp chống lại một kẻ thù có tổ chức hơn nhiều; và vào năm 1975, đồng minh Nam Việt Nam kém may mắn của họ đã hoàn toàn khuất phục trước một cuộc xâm lược quy ước, dẫn đầu là mũi tấn công thiết giáp. Các lực lượng xâm lược này được hỗ trợ bởi một bộ máy hậu cần và hải quân của Liên Xô lớn hơn nhiều so với những năm 1950 và 1960, và có thể so sánh (tuy kém hơn) với bộ máy do Hoa Kỳ triển khai.
Mặc dù chiến tranh kéo dài cho đến năm 1975, nhưng những năm quan trọng là những năm từ 1965 đến 1968, khi sự ủng hộ của công chúng Mỹ đối với cam kết của Mỹ với Đông Dương đã bị xói mòn đến mức không thể quay lại. Cho đến Tết Mậu Thân năm 1968, những người cộng sản chủ yếu theo chiến lược du kích nổi dậy. chiến tranh Trong hầu hết các cuộc giao tranh, các đơn vị nhỏ của Việt Cộng đối đầu với lực lượng Hoa Kỳ và Nam Việt Nam. Từ 1965 đến 1967, các cuộc tấn công cấp tiểu đoàn của các đơn vị Việt Cộng giảm từ 9,7 mỗi tháng xuống còn 1,3 mỗi tháng. Đến năm 1967, các đơn vị Việt Cộng cỡ đại đội hoặc nhỏ hơn chịu trách nhiệm cho hơn 96 phần trăm các cuộc giao tranh. Trong cùng thời kỳ, ước tính có 245.000 du kích Việt Cộng đông hơn rất nhiều so với ước tính 55.000 quân Bắc Việt ở Miền Nam. Sự phụ thuộc của Việt Cộng về nguồn cung cấp từ Miền Bắc bị hạn chế, nhờ họ có thể kiếm lương thực và tiếp tế từ các làng mạc ở Miền Nam bằng cách tuyên truyền hoặc sử dụng khủng bố.
Theo Ward, “Chiến thắng trong Chiến tranh Việt Nam đòi hỏi Hoa Kỳ phải có hai chiến lược: một chiến lược giúp Miền Nam đánh bại cuộc nổi dậy của Việt Cộng và một chiến lược giúp các lực lượng Hoa Kỳ ngăn chặn sự xâm nhập và xâm lược của Miền Bắc vào Miền Nam.” Ward nhận xét rằng “Chiến thuật ‘tìm và diệt’ của Mỹ không hiệu quả vì chúng liên quan đến việc tìm kiếm quá nhiều so với số đơn vị [Quân đội Bắc Việt] của Quân đội Bắc Việt được tìm thấy có thể bị tiêu diệt. Quân đội Bắc Việt đã đưa ra sáng kiến chiến thuật chỉ để duy trì tinh thần của những người ủng hộ họ và làm hao mòn sự kiên nhẫn của Mỹ theo thời gian trong một cuộc chiến tranh kéo dài.” Ward lập luận rằng Hoa Kỳ lẽ ra nên chuyển sang chiến lược quy ước chỉ vào giữa năm 1968, khi Việt Cộng đã bị tiêu diệt đến mức Hoa Kỳ có thể “chuyển giao cho quân lực miền Nam Việt Nam cuộc chiến chống lại cuộc nổi dậy của Việt Cộng.” Quân đội Hoa Kỳ sau đó sẽ được rảnh tay thả mìn và phong tỏa các bến cảng của Bắc Việt Nam và cắt đứt Đường mòn Hồ Chí Minh “bằng cách bố trí quân đội Hoa Kỳ qua Lào và vào Bắc Việt Nam ngay phía bắc của khu phi quân sự.”
Chiến thuật sai lầm
Sự hiểu biết về việc Chiến tranh Việt Nam đã thay đổi bản chất như thế nào theo thời gian đã hỗ trợ cho những người chỉ trích chiến lược của Tướng Westmoreland. Làm việc trong những hạn chế do chính quyền Johnson áp đặt, bao gồm việc không xâm lược Miền Bắc Việt Nam và không xâm nhập lớn vào Lào và Campuchia, Westmoreland và bộ tham mưu của ông đã nghĩ ra một kế hoạch trong đó quân đội và lực lượng cảnh sát Miền Nam Việt Nam chịu trách nhiệm chính trong việc bình định các khu vực đông dân cư của Miền Nam, trong khi các lực lượng Hoa Kỳ tập trung vào một cuộc chiến tranh tiêu hao chống quân nổi dậy Việt Cộng và quân xâm nhập Bắc Việt ở Miền Nam. Westmoreland giải thích trong một bài phát biểu tại khách sạn Waldorf-Astoria ở thành phố New York năm 1967: “Thực tế là chúng ta đang tiến hành một cuộc chiến tiêu hao. Giải pháp thay thế duy nhất là một cuộc chiến tranh hủy diệt.” Tương tự, Westmoreland nói với Tổng thống Johnson, “Trong phân tích cuối cùng, chúng ta đang chiến đấu trong một cuộc chiến tranh tiêu hao ở Đông Nam Á.” Tiến bộ trong cuộc chiến tiêu hao của Westmoreland được đo lường không phải bằng lãnh thổ mà chính quyền Sài Gòn chiếm lại vĩnh viễn, mà bằng việc “đếm xác” gây tranh cãi, tức đếm số lượng du kích Việt Cộng và lính Bắc Việt bị quân đội Hoa Kỳ và Miền Nam Việt Nam giết chết.
“Mỹ tiếp tục tập trung phần lớn nguồn lực và sức mạnh quân sự vào việc kiểm soát địa hình và tìm kiếm đội hình ồ ạt của kẻ thù”, Carl Bernard, một cựu cố vấn cao cấp của tỉnh năm 1969. “VC tiếp tục tập trung tài năng của mình vào việc kiểm soát dân chúng. Hầu hết đều thành công.” Những người ủng hộ chiến lược “bình định” hoặc “an ninh nhân dân” đã tuyên bố rằng trước năm 1968, nhiệm vụ chính là cắt đứt dòng tân binh và tiếp tế cho Việt Cộng từ các vùng ven biển đông dân cư và sử dụng sự kết hợp giữa quân đội và cảnh sát để triệt phá cơ sở hạ tầng chính trị cộng sản bí mật ở Miền Nam Việt Nam. Trong cuốn Quân đội và Việt Nam (1986), Andrew F. Krepinevich, Jr., cựu đại tá quân đội Hoa Kỳ, lập luận rằng Hoa Kỳ và quân đội miền Nam Việt Nam lẽ ra triển khai các đơn vị nhỏ dọc theo vùng đồng bằng ven biển đông dân cư của Miền Nam Việt Nam để tuần tra các làng vào ban ngày và ngăn chặn sự di chuyển của Việt Cộng ra vào các làng vào ban đêm. Trong số những thứ khác, những người ủng hộ lập luận rằng một chiến lược bình định sẽ cho phép tiếp cận khác biệt và ít tốn kém hơn trong việc sử dụng hỏa lực, đồng thời giảm thiểu tổn thất của quân Mỹ. Nếu ban đầu Hoa Kỳ thiếu nhân lực để phong tỏa toàn bộ khu vực ven biển đông dân, thì quá trình bình định có thể tiến hành theo kiểu “vết mực loang”, với một khu vực ngày càng mở rộng ở Miền Nam Việt Nam được giải phóng khỏi cuộc nổi dậy. Nếu Việt Cộng bị buộc phải rút vào vùng hoang dã, cố gắng tấn công quy mô lớn, họ sẽ dễ bị tổn thương trước các lực lượng quy ước của Hoa Kỳ. Nếu Hà Nội quyết định tiến hành một cuộc xâm lược quy ước thì lực lượng và cơ sở hạ tầng của họ sẽ dễ bị tổn thương trước sức mạnh không quân của Mỹ, giống như trong cuộc tấn công Phục sinh năm 1972.
Vào thời điểm đó, tầm quan trọng của bình định đã được công nhận trong quân đội Hoa Kỳ, chủ yếu là Thủy quân lục chiến, đơn vị đã thành công đáng kể với Đội Tuần tra Hoạt động Phối hợp (CAP) trong việc tuần tra các làng quê Việt Nam và hỗ trợ các nỗ lực chống nổi dậy của chính phủ Miền Nam Việt Nam. Không giống như các binh chủng khác, Thủy quân Lục chiến sở hữu một ký ức mang tính thể chế về “Cuộc chiến vườn chuối” đầu thế kỷ 20 do Hoa Kỳ tiến hành ở Caribe và Trung Mỹ. Tướng Thủy quân lục chiến Lewis W. Walt, khi suy ngẫm về Chiến tranh Việt Nam, đã viết vào năm 1970: “Tôi nhớ lại những ngày đầu còn là một sĩ quan trẻ, học hỏi những nguyên tắc cơ bản về nghề nghiệp của mình từ những người từng chiến đấu với Sandino ở Nicaragua hoặc Charlemagne ở Haiti”. .. “Chiến dịch Caribe có nhiều bài học áp dụng cho Việt Nam bốn mươi hay năm mươi năm sau.” Hầu hết quân đội Hoa Kỳ muốn tiến hành chiến tranh bằng cách sử dụng các kỹ thuật chiến đấu quy ước. “Nhưng chiến tranh Việt Nam không phải là một vấn đề đơn giản trong đó chúng ta chỉ tìm kiếm, dàn quân và tiêu diệt một lực lượng mặc đồng phục khác.” Thật không may, theo Walt, “Những ý tưởng này dường như mới đối với thế hệ [lính Mỹ] này, với Dachau và Belsen, Hamburg và Coventry, Nagasaki và Hiroshima, Seoul, và Bình Nhưỡng mới được ghi vào sử sách.” Walt và những người lính thủy quân lục chiến khác đã được khen thưởng vì sự hiểu biết sâu sắc của họ trước những lời chỉ trích từ Tướng Westmoreland, người cho rằng họ nên ngừng tuần tra các ngôi làng (theo yêu cầu của học thuyết bình định hóa) và xông vào rừng để đuổi theo du kích.
Nhìn lại nỗ lực quân sự của Hoa Kỳ tại Việt Nam, cựu giám đốc của tình báo trung ương William Colby, người đã hỗ trợ chính phủ Miền Nam Việt Nam trong các nỗ lực bình định, đã bối rối: “Việc Mỹ bác bỏ kinh nghiệm của Pháp ở Đông Dương và Algeria, của người Anh ở Malaya, và những lời cảnh báo rõ ràng của Mao Trạch Đông, Khrushchev và Hồ Chí Minh và các cấp dưới của ông cho rằng Việt Nam sẽ là một kiểu chiến tranh khác với những gì người Mỹ dự tính ở vùng đồng bằng Bắc Đức hoặc đã trải qua ở Triều Tiên, là điều khó hiểu.” Rốt cuộc, Colby chỉ ra rằng, quân đội Hoa Kỳ đã có kinh nghiệm trước đó trong việc “bình định các thế lực thù địch khác nhau như bộ lạc người Mỹ da đỏ, lực lượng du kích Aguinaldo ở Philippines và Sandino ở Nicaragua.” Nhưng đó chủ yếu là kinh nghiệm trước đây của thủy quân lục chiến. Ký ức chung về các lực lượng lục quân và không quân, các lực lượng thống trị Lầu Năm Góc, được hình thành bởi kinh nghiệm sử dụng hỏa lực để nghiền nát cơ sở hạ tầng lực lượng quy ước của Đức, Nhật Bản, Bắc Triều Tiên và Trung Quốc.
Những người ủng hộ chiến lược bình định không cho rằng bình định lẽ ra phải là nhiệm vụ duy nhất của quân đội Hoa Kỳ trước năm 1968 (sau năm 1968 họ thừa nhận rằng chiến tranh chủ yếu là quy ước). Robert W. Komer, “sa hoàng chống nổi dậy” của Johnson và là người ủng hộ mạnh mẽ bình định hóa, đã viết rằng “việc ngăn cản ‘lực lượng chủ lực’ của VC/Quân đội Bắc Việt đã trở nên không thể thiếu để tạo ra một bầu không khí trong đó quá trình bình định hóa có thể bắt đầu lại. Sau năm 1964, điều cần thiết là phải chiến đấu cả với lực lượng chủ lực và các cuộc chiến ở làng xã.” Những người ủng hộ việc tăng cường vào bình định hóa cũng không lập luận rằng Chiến tranh Việt Nam có thể đã giành được chiến thắng chỉ bằng việc chống nổi dậy. Đúng hơn, mục đích của bình định hóa là buộc Hà Nội phải lựa chọn giữa việc tiến hành một cuộc chiến tranh quy ước kiểu Triều Tiên (trong đó Hoa Kỳ có lợi thế hơn) hoặc từ bỏ nỗ lực chinh phục Miền Nam Việt Nam.
Ý kiến cho rằng việc chú trọng đến bình định hóa nhiều hơn là tiêu hao vào giữa những năm 1960 có thể đã làm thay đổi kết quả của Chiến tranh Việt Nam đã bị chỉ trích trên một số cơ sở. Harry Summers đã trích dẫn một cách tán thành lời cựu sĩ quan Bộ Ngoại giao Norman Hannah: “Ở miền Nam Việt Nam, chúng tôi phản ứng chủ yếu trước cuộc nổi dậy đội lốt của Hà Nội hơn là hành động gây hấn thực sự nhưng có kiểm soát của nó, như một con bò đực tấn công chiếc áo choàng của tay đấu bò, chứ không phải tay đấu bò.” Nhưng từ năm 1965 đến năm 1968 , cuộc nổi dậy của Việt Cộng do Hà Nội kiểm soát ở miền Nam không phải là chiếc áo choàng của tay đấu bò mà là tay đấu bò. Summers viết rằng Hoa Kỳ “đã thay thế mục tiêu tiêu cực của việc chống nổi dậy bằng mục tiêu tích cực là cô lập chiến trường.” Nhưng mục tiêu của chiến lược chống nổi dậy là cô lập chiến trường – không phải khỏi Đường mòn Hồ Chí Minh, mà khỏi dân chúng Miền Nam Việt Nam. Cuộc nổi dậy sẽ tàn lụi nếu lực lượng Hoa Kỳ và Nam Việt Nam cắt đứt nguồn tân binh và tiếp tế cho Việt Cộng từ các làng ở vành đai ven biển đông dân cư của Miền Nam Việt Nam.
Nhà khoa học chính trị D. Michael Shafer đã tuyên bố rằng bình định hóa không thể thành công ở Việt Nam vì các chương trình bình định được Mỹ tài trợ ở mọi nơi trên thế giới đều thất bại. Trong những trường hợp mà các nỗ lực chống nổi dậy được Hoa Kỳ hậu thuẫn dường như đã thành công, như ở Hy Lạp và Philippin, Shafer lập luận rằng những thắng lợi đó là do các yếu tố khác hơn là bình định hóa. Như James Wirtz nhận xét một cách hoài nghi, Shafer “sau đó để người đọc giải thích sự trùng hợp kỳ lạ đã khiến [nhà lãnh đạo Philippin Ramon Magsaysay] hình thành những chính sách độc lập giống như những chính sách được các cố vấn Mỹ của ông ủng hộ.” Tuyên bố rằng quân nổi dậy gần như không thể bị đánh bại là trái ngược với sự thật. Hầu hết các cuộc nổi dậy của cộng sản hoặc cánh tả trong Chiến tranh Lạnh, bao gồm cả những cuộc nổi dậy ở Hy Lạp, Philippines, Malaya, Guatemala, Salvador và Peru, đã bị các chính phủ quyết chiến đánh bại, đôi khi, như ở Guatemala, với cái giá rất lớn những sinh mạng vô tội.
Ngược lại, một số người lập luận rằng nỗ lực bình định hóa ở Miền Nam Việt Nam đã thất bại ngay từ đầu vì chế độ Sài Gòn đã bất hợp pháp ngay từ đầu, hoặc có lẽ sau vụ ám sát Diệm, người tương đối hợp pháp với tư cách là một nhà lãnh đạo theo chủ nghĩa dân tộc. Tuy nhiên, sự hiện diện của một cuộc nổi dậy ở Miền Nam chứ không phải ở Miền Bắc có thể chỉ cho thấy rằng cộng sản Bắc Việt tàn bạo hơn chính quyền độc tài Miền Nam. Cuộc đào thoát của gần hai triệu người tị nạn khỏi chế độ cộng sản sau khi thống nhất vào năm 1975, và cuộc di cư của gần một triệu người khỏi Miền Bắc Việt Nam cộng sản vào giữa những năm 1950, làm dấy lên nghi ngờ về tuyên bố rằng đa số người dân Việt Nam ủng hộ Hồ Chí Minh và những người kế nhiệm ông. Bằng chứng cho thấy hầu hết người Việt Nam đều kinh hãi chứng kiến hai nhóm thiểu số có vũ trang, mỗi nhóm được hỗ trợ bởi các cường quốc bên ngoài là chế độ Hà Nội và chế độ Sài Gòn – chiến đấu để giành quyền kiểm soát lãnh thổ và dân cư. Trên cơ sở kinh nghiệm của mình với CAP Thủy quân lục chiến ở Việt Nam, Đại tá William R. Corson năm 1968 đã viết: “Người nông dân ở Việt Nam ít quan tâm đến hệ tư tưởng của VC cũng như quan tâm đến hệ tư tưởng của Chính phủ Miền Nam. Thực tế này tự nó tạo cho Chính phủ Miền Nam cơ hội xây dựng sự ủng hộ phi ý thức hệ của quần chúng như phe VC, và sự ủng hộ phi ý thức hệ là điều cần thiết để giành chiến thắng.”
Trong chừng mực mà kết quả phụ thuộc vào việc sử dụng khéo léo biện pháp cưỡng chế, Hoa Kỳ có khả năng giúp đỡ chế độ Sài Gòn bằng cách cung cấp cả cố vấn và quân đội. Xây dựng một xã hội công bằng, thuận lòng dân, tự do, dân chủ ở Miền Nam Việt Nam là vượt quá khả năng của Hoa Kỳ. Giúp chính quyền Miền Nam Việt Nam đánh bại Việt Cộng bằng cách tách quân nổi dậy ra khỏi các khu vực đông dân cư, phá bỏ các mạng lưới bí mật của chúng, đồng thời sử dụng sức mạnh quân sự của Mỹ để đánh bại các âm mưu xâm lược của Bắc Việt vào Miền Nam Việt Nam, nằm trong khả năng của Mỹ. Đây là lập luận của một trường phái học thuyết chống nổi dậy do hai nhà phân tích của tổ chức Rand, Nathan Leites và Charles Wolf, Jr dẫn đầu. Họ chỉ trích trường phái “trái tim và khối óc” của các nhà học thuyết chống nổi dậy đã ảnh hưởng đến chính quyền Kennedy và Johnson vì đã nhấn mạnh quá mức vào cải cách kinh tế và xã hội như một phương pháp chữa trị cho chiến tranh chống nổi dậy. “Chính quyền xấu ác có thể dập tắt các cuộc nổi dậy chính nghĩa, và chính quyền đạo đức có thể thảm bại trước một cuộc nổi dậy xấu ác.”
Biến số chính là dư luận Mỹ. Liệu Hoa Kỳ có ủng hộ một cuộc chiến tranh bình định ở mức độ thấp và lâu dài ở miền Nam Việt Nam không? Richard A. Hunt, cựu đại úy quân đội ở Việt Nam, lập luận rằng một chiến lược dựa trên bình định “rất có thể sẽ mất quá nhiều thời gian và trong mọi trường hợp sẽ làm cạn kiệt sức kiên nhẫn của người dân Mỹ, chắc chắn sẽ làm xói mòn sự ủng hộ chính trị ở Hoa Kỳ. “ Nhưng sự ủng hộ của công chúng Mỹ đối với các cuộc chiến tranh Triều Tiên và Việt Nam giảm với tốc độ xấp xỉ theo số thương vong chứ không phải theo thời gian. Thật hợp lý khi tin rằng sẽ có nhiều sự ủng hộ của công chúng cho nỗ lực lâu dài hơn của Mỹ nếu có ít người Mỹ thiệt mạng hơn. Chừng nào chiến tranh chủ yếu là nổi dậy thì chiến lược bình định hứa hẹn sẽ giảm mức thương vong cho Hoa Kỳ. Lực lượng Tuần tra Hành động Kết hợp Thủy quân lục chiến và các “đội tấn công” hay lực lượng du kích cơ động của Hoa Kỳ chịu ít thương vong hơn, đồng thời đạt được tỷ lệ tiếp xúc với kẻ thù cao hơn so với các tiểu đoàn cơ động quân đội quy ước.
Hơn nữa, một chiến lược nhấn mạnh đến việc bình định hóa trong những năm đầu của Chiến tranh Việt Nam sẽ cần ít quân đội Hoa Kỳ hơn ở Miền Nam Việt Nam và sẽ ít phụ thuộc hơn vào các thiết bị công nghệ cao, đắt tiền cần được bố trí và bảo trì. Vào cuối năm 1968, theo ước tính hào phóng nhất, chỉ có khoảng 200.000 trong số 536.000 lính Mỹ ở Miền Nam Việt Nam phục vụ trong các vị trí chiến đấu. Các yêu cầu về hậu cần của lực lượng Hoa Kỳ sẽ bị giảm đi rất nhiều nếu áp dụng chiến lược buộc lính Mỹ phải sống sót. ở những đơn vị nhỏ giữa dân làng, thay vì ở những căn cứ có tiện nghi như ở nước Mỹ. Theo sử gia Russell F. Weigley, “nỗ lực nhằm duy trì mức sống gần đúng của người Mỹ trong Quân đội và thậm chí cả trong các khu vực chiến đấu đã làm chuyển hướng một lượng lớn nhân lực ra khỏi các đơn vị chiến đấu thiết yếu của Quân đội.” Sự xung đột sinh ra do việc sử dụng Quân đội Mỹ nhằm đảm bảo an ninh cho người dân khó có thể tệ hơn những gì được tạo ra bởi sự tập trung quân đội mà các chiến lược tiêu hao và ném bom đòi hỏi.
Nếu bình định thành công, kết quả có thể không phải là hòa bình mà là một cuộc chiến tranh rộng lớn hơn – Hoa Kỳ xâm nhập vào Campuchia và Lào để cắt đứt Đường mòn Hồ Chí Minh, một tuyến đường xâm lược truyền thống của phương Bắc.
Cuối cùng, “điểm giao nhau” trong dư luận Mỹ có thể đã đạt được, mặc dù trong những hoàn cảnh khác nhau, và có lẽ ở một thời điểm muộn hơn. Nhưng như Robert W. Komer đã nói vào năm 1973 trong những suy ngẫm của ông về quá trình bình định ở Việt Nam:
Ít nhất, việc thực hiện thậm chí nửa vời của nó có lẽ sẽ dẫn đến việc ít quân sự hóa và Mỹ hóa cuộc xung đột hơn, đồng thời giảm đáng kể thiệt hại về nhân mạng và tài nguyên cũng như các tác dụng phụ bi thảm. Và chính sự tương phản giữa tổn thất to lớn này và những kết quả mơ hồ đạt được đã khiến Mỹ vỡ mộng về cuộc chiến. Do đó chính cách thức chúng ta tiến hành Chiến tranh Việt Nam có thể là nguyên nhân đã ngăn cản chiến lược bình định “dài hạn, chi phí thấp” mà nhìn lại có lẽ mang lại hy vọng tốt nhất để đạt được các mục tiêu của Hoa Kỳ.
Một chiến lược hỗn hợp nhấn mạnh đến việc bình định hóa trong những năm đầu của Chiến tranh Việt Nam có thể đã mang lại hoặc chưa mang lại cho Hoa Kỳ và các đồng minh miền Nam Việt Nam cơ hội tốt nhất để giành chiến thắng tốt đẹp. Một điều có vẻ rõ ràng: Việc nhấn mạnh ban đầu vào bình định hẳn sẽ mang lại cơ hội tốt nhất để thua một cách tốt đẹp.
Một thất bại quân sự
Nhìn lại, hồ sơ của chính quyền Kennedy và Johnson được so sánh thuận lợi với hồ sơ Lầu Năm Góc. Những hạn chế do chính quyền Johnson áp đặt đối với hoạt động của chiến trường đã không khiến chiến tranh thất bại – và những hạn chế đó có thể đã ngăn chặn một cuộc chiến tranh Trung-Mỹ lần thứ hai chỉ trong hơn một thập kỷ. Lập luận cho rằng Kennedy và Johnson đã sai khi yêu cầu quân đội Mỹ tiến hành một cuộc chiến tranh chống nổi dậy khó khăn và mơ hồ tại một nước ngoại vi là không thuyết phục. Chiến tranh Lạnh sẽ được tiến hành trong những điều kiện khó khăn ở những nơi như Việt Nam, hoặc nó sẽ bị Hoa Kỳ khước từ.
Quân đội Hoa Kỳ đã thành công trong lĩnh vực “bao vây” của Chiến tranh Lạnh bằng cách tích lũy bom hạt nhân và tên lửa, đưa quân đội quy ước hạng nhất đến Đức, Nhật Bản và Hàn Quốc cũng như triển khai các hạm đội tàu nổi và tàu ngầm. Nhưng quân đội Hoa Kỳ đã bỏ qua loại lực lượng hữu ích nhất trong các cuộc đấu tay đôi quan trọng không kém trong Chiến tranh Lạnh – lực lượng viễn chinh dành cho các cuộc xung đột cường độ thấp kéo dài ở Thế giới thứ ba, chẳng hạn như Chiến tranh Việt Nam. Viết vào năm 1961, một chuyên gia người Anh đã nhận xét rằng trong khi Anh có “lực lượng chiến đấu” để sử dụng trong các tình huống bất ngờ của Thế giới thứ ba thì Hoa Kỳ chỉ có “lực lượng ngăn chặn”.
Mặc dù chỉ có thể so sánh một phần, sự thành công của người Anh trong việc tiến hành một cuộc chiến tranh chống nổi dậy hiệu quả chống lại chế độ Sukarno dọc biên giới Indonesia/Malaysia vào những năm 1960 cho thấy các cường quốc quân sự lớn khác trong kỷ nguyên Chiến tranh Lạnh đã có thể thành thạo nghệ thuật bình định.
Nhìn lại, lý thuyết về phản ứng linh hoạt được các nhà tư tưởng quân sự và dân sự của chính quyền Kennedy và Johnson ủng hộ dưới nhiều hình thức khác nhau đã đưa ra một sự tương phản thông minh với quan điểm chính thống được ăn cả ngã về không của quân đội chính thống. Trong bài phát biểu năm 1962 trước lớp tốt nghiệp ở West Point, Tổng thống Kennedy đã kêu gọi quân đội thích nghi với sự cần thiết phải tiến hành các cuộc chiến tranh ủy nhiệm cường độ thấp:
Hàn Quốc không phải là chiến trường duy nhất kể từ khi kết thúc Thế chiến thứ hai. Chúng ta đã chiến đấu và hy sinh ở Malaya, Hy Lạp, Philippin, Algeria và Cuba, Síp và gần như liên tục trên bán đảo Đông Dương. Không có vũ khí hạt nhân nào đã bắn ra. Không có sự trả đũa hạt nhân quy mô lớn nào được coi là phù hợp. Đây là một loại chiến tranh khác, mới về cường độ, cổ xưa về nguồn gốc – chiến tranh bằng du kích, lật đổ, nổi dậy, sát thương, chiến tranh bằng phục kích thay vì chiến đấu; bằng cách xâm nhập, thay vì gây hấn, tìm kiếm chiến thắng bằng cách làm xói mòn và làm kiệt sức kẻ thù thay vì giao chiến với y.
Nó đòi hỏi trong những tình huống mà chúng ta phải chống lại nó… một loại chiến lược hoàn toàn mới, một loại lực lượng hoàn toàn khác, và do đó một loại huấn luyện quân sự mới và hoàn toàn khác.
Thật không may, trước áp lực từ chính quyền Kennedy và Johnson phải làm chủ những vấn đề phức tạp của cuộc chống nổi dậy, phản ứng của quân đội là đã xem thường nó chỉ như một thứ mốt nhất thời. Tướng Lyman L. Lemnitzer, Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân năm 1960-61, cho rằng chính quyền Kennedy đã “rao giá quá cao” cho loại chiến tranh bất quy ước. Tướng George Decker, tham mưu trưởng quân đội năm 1960-1962, tuyên bố rằng “bất kỳ người lính giỏi nào cũng có thể xử lý được quân du kích.” Maxwell Taylor, người từng là Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân giai đoạn 1961-1964 đã ủng hộ phản ứng linh hoạt, tuyên bố rằng “Bất kỳ tổ chức được huấn luyện tốt nào cũng có thể chuyển nhịp độ theo yêu cầu trong tình huống này.” John A. Nagl, đại úy quân đội Hoa Kỳ và giáo sư tại West Point, gợi ý rằng “chính văn hóa tổ chức của quân đội Anh đã cho phép họ học hỏi các nguyên tắc chống nổi dậy một cách hiệu quả trong tình trạng khẩn cấp ở Mã Lai, trong khi văn hóa tổ chức của Quân đội Hoa Kỳ lại cản trở việc học tập về tổ chức trong—và sau—Chiến tranh Việt Nam.” Trong cuộc xung đột ở Đông Dương, một sĩ quan quân đội Hoa Kỳ ẩn danh được trích dẫn đã nói rằng, “Tôi sẽ không phá hủy truyền thống và học thuyết của Quân đội Hoa Kỳ chỉ để giành chiến thắng trong cuộc chiến tồi tệ này.”
Sự cố chấp về mặt thể chế của quân đội Hoa Kỳ đã được thể hiện trong các cuộc khủng hoảng khác trong Chiến tranh Lạnh. Trong cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba, khuyến nghị hoàn toàn có thể đoán trước được của Bộ tham mưu liên quân là tiến hành một cuộc không kích chống lại Cuba, sau đó là xâm lược và chiếm đóng như là “hành động có rủi ro thấp nhất”. Tổng thống Kennedy đã bác bỏ lời khuyến nghị ủng hộ việc phong tỏa của họ, mà cùng với việc thỏa thuận bí mật với người Xô Viết dỡ bỏ tên lửa Cuba đổi lấy việc dỡ bỏ tên lửa Mỹ khỏi Thổ Nhĩ Kỳ, kết thúc sự đối đầu. Trong cuộc khủng hoảng ở Lào năm 1961, Bộ tham mưu liên quân đã nói với Kennedy rằng cần triển khai ít nhất sáu mươi nghìn quân. Tướng Lemnitzer và Tướng Decker nói với tổng thống rằng ông không nên thực hiện bất kỳ hành động nào ở Lào trừ khi ông sẵn sàng sử dụng vũ khí hạt nhân để “đảm bảo chiến thắng”. Trước đó vào năm 1954 khi Hoa Kỳ cân nhắc việc can thiệp của Mỹ vào Đông dương về phía người Pháp và đồng minh Việt Nam của họ, Ngoại trưởng Dulles đã hoảng hốt trước đề nghị của Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân, mà ông đã tóm tắt trong một bản ghi nhớ là lập luận “rằng sức mạnh của Hoa Kỳ nên được hướng vào việc chống lại nguồn gốc của mối nguy hiểm, ít nhất trước tiên là Trung Quốc, và về phương diện này vũ khí nguyên tử nên được sử dụng.” Trong Chiến tranh Việt Nam, Johnson đã tâm sự với Thủ tướng Canada Lester Pearson rằng Tướng Curtis LeMay, người đứng đầu trước đây của Bộ Tư lệnh Không quân Chiến lược, cũng như những diều hâu khác trong quân đội, đã thúc giục ông ta ném bom Bắc Kinh.
Trong suốt Chiến tranh Lạnh, quân đội Hoa Kỳ đã chuẩn bị để chiến đấu với Thống chế Rommel và Đô đốc Yamamato, trong khi lẽ ra họ phải chuẩn bị bổ sung việc chiến đấu với các đối thủ như Sandino của Nicaragua và Charlemagne của Haiti. Theo nguyên tắc, Tổng thống Johnson phải chịu trách nhiệm cuối cùng về thảm họa ở Việt Nam từ năm 1965 đến năm 1968. Mặt khác, các chính trị gia dân sự trong một nền dân chủ không có trách nhiệm phải hướng dẫn các chuyên gia quân sự những kiến thức cơ bản về nghệ thuật tác chiến của họ. Một lập luận nhằm giảm nhẹ những thất bại ở Việt Nam của Tổng thống Kennedy, Johnson và Nixon có vẻ hợp lý hơn khi người ta xem xét chuỗi thất bại quân sự đầy ấn tượng trong một phần tư thế kỷ 20 dưới sự kế nhiệm của các tổng thống rất khác nhau: Chiến dịch Sa mạc Một ở Iran; vụ đánh bom doanh trại thủy quân lục chiến Mỹ ở Beirut; cuộc xâm lược Grenada vụng về; cuộc xâm lược Panama thất bại; sự sụp đổ ở Somalia. Nếu không có Chiến tranh Kosovo, vốn thất bại trong việc ngăn chặn việc trục xuất hầu hết người Kosovo gốc Albania, và Chiến tranh vùng Vịnh, vẫn giữ Saddam duy trì quyền lực, bất chấp việc nối lại cuộc chiến trên không dưới thời Tổng thống Clinton, thì quân đội Mỹ sẽ không thể hiện được gì nhiều kể từ Chiến tranh Triều Tiên ngoại trừ một chuỗi thảm họa hoặc những thành công vụng về – tất cả những điều này, những kẻ biện hộ của Lầu Năm Góc muốn chúng ta tin, thể hiện các thất bại nằm trong quan điểm và chỉ đạo của tổng thống hơn là trong việc triển khai quân sự. Các tướng Colin Powell và Norman Schwarzkopf đã giành chiến thắng Chiến tranh vùng Vịnh, nhưng Đô đốc Sharp và Tướng Westmoreland không thua trong Chiến tranh Việt Nam. Vấn đề không phải là công kích sự liêm chính của quân nhân Mỹ với tư cách cá nhân, mà là tự hỏi làm thế nào giới lãnh đạo quân sự có thể gánh chịu trách nhiệm nếu luôn có thể đưa ra bằng chứng ngoại phạm cho những thất bại quân sự bằng cách đổ lỗi cho các nhà lãnh đạo chính trị dân sự.
Quả thực, có thể thấy rằng Tổng thống Johnson đã nuông chiều quá nhiều cho quân đội chứ không phải quá ít. Nhớ lại cuộc tranh cãi xung quanh việc Harry Truman sa thải Tướng Douglas MacArthur, người đã trở thành một vị tử đạo trong mắt những người bảo thủ trong Quốc hội và cả nước, Johnson với vai trò Tổng tư lệnh cẩn thận thể hiện sự ủng hộ đối với người chỉ huy quân sự ở Việt Nam. “Tướng quân, tôi phải nhờ cậy vào ngài nhiều,” Johnson bảo với Westmoreland. “Tôi hy vọng ngài không kéo một vụ MacArthur lên tôi.” Johnson đã nâng hạng Westmoreland bằng cách thăng chức cho ông ta vào năm 1968. Đáng lẽ Johnson phải thay thế ông ta từ lâu trước đó.
Vào năm 1976 Tướng Westmoreland đã viết: “Tôi tin rằng lịch sử sẽ đánh giá hoạt động của quân đội tốt hơn hoạt động của các chính trị gia và các nhà hoạch định chính sách.” Nhìn lại, nhiều lựa chọn được các nhà hoạch định chính sách dân sự ủng hộ trong chính quyền Johnson là đáng bị chỉ trích, bao gồm cả nỗ lực gây ảnh hưởng đến Hà Nội bằng cách ném bom hạn chế và sự nhiệt tình mang tính kỹ thuật của Bộ trưởng Quốc phòng Robert McNamara đối với hàng rào điện tử dọc theo Đường mòn Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, trong phân tích cuối cùng, sự ủng hộ của công chúng Mỹ đối với một đại chiến lược quân sự toàn cầu ngăn chặn khối cộng sản bằng phản ứng linh hoạt đã sụp đổ trong hầu hết những năm 1970 vì quân đội Mỹ ở Việt Nam quá thiếu linh hoạt trong phản ứng trước chiến thuật của kẻ thù.
Ghi chú: Việc công chúng Mỹ ủng hộ cuộc chiến trong hai năm rưỡi, cho đến khi số người chết trong trận chiến đã vượt quá 15.000 người, có thể gợi ý mức trần hợp lý không chính thức cho tổn thất của Hoa Kỳ lẽ ra phải là bao nhiêu. Điều thú vị cần lưu ý là chính phủ Liên Xô, rõ ràng là để đáp lại một số áp lực không chính thức của công chúng, đã rút lực lượng khỏi Afghanistan sau khi mất khoảng 15.000 binh sĩ.