Lý giải lại cuộc chiến thảm khốc nhất của Hoa Kỳ

Michael Lind
Trần Quang Nghĩa dịch
CHƯƠNG 1
SÂN KHẤU ĐÔNG DƯƠNG
Chiến tranh Lạnh ở Đông Nam Á, 1946-89
Mùa đông năm 1950, Moscow lạnh như cắt. Vào buổi tối ngày 14 tháng 2 năm 1950, trong một phòng tiệc ở điện Kremlin, ba người đàn ông có kế hoạch đưa Đông Dương vào nửa thế kỷ chiến tranh, áp đặt chế độ chuyên chế và gây ra sự đình trệ kinh tế, đồng thời tạo ra tình hình bất ổn chính trị ở Hoa Kỳ và Châu Âu, đang đứng cạnh nhau: Joseph Stalin, Mao Trạch Đông, và Hồ Chí Minh.
Vào những năm 1960, khi Hoa Kỳ đưa quân đội của mình tham chiến trong nỗ lực ngăn cản các chư hầu của Liên Xô và Trung Quốc xâm chiếm Đông Dương, nhiều người phản đối sự can thiệp của Hoa Kỳ cho rằng chủ nghĩa cộng sản của lãnh tụ Miền Bắc Hồ Chí Minh chỉ ở bề ngoài, nếu so sánh với chủ nghĩa dân tộc của ông. Trên thực tế, có một âm mưu cộng sản quốc tế, và Hồ Chí Minh là một thành viên tham gia của âm mưu đó. Bắt đầu từ những năm 1920, Hồ, một thành viên sáng lập của Đảng Cộng sản Pháp, đã từng là một đặc vụ của Quốc tế cộng sản (Comintern), một mạng lưới đặc vụ và gián điệp toàn cầu được chế độ độc tài Liên Xô đào tạo và kiểm soát bằng kỷ luật sắt. Vào những năm 1930, Hồ đã sống ở Liên Xô, tán thành một cách mù quáng mọi bước ngoặt trong chính sách của Stalin; vào những năm 1940, ông từng là đảng viên Đảng Cộng sản Trung Quốc, sau đó trực thuộc Moscow. Hồ Chí Minh không chỉ có được tiếng tăm mà còn cả cuộc sống là nhờ vào sự nghiệp của mình trong mạng lưới cộng sản bên ngoài quê hương ông. Bởi vì ông đã ra nước ngoài trong nhiều năm, ông đã sống sót khi nhiều người Việt Nam theo chủ nghĩa dân tộc khác, không cộng sản cũng như cộng sản, đã bị người Pháp hoặc người Nhật cầm tù hoặc hành quyết trong Thế chiến II.
Từ những năm 1940 cho đến những năm 1990, chế độ do Hồ thành lập lệ thuộc vào sự hỗ trợ quân sự và kinh tế từ một hoặc cả hai cường quốc của khối cộng sản. Với sự hậu thuẫn của Stalin và sự hỗ trợ quan trọng về vũ khí và cố vấn của Trung Quốc, mặt trận Việt Minh (người Việt Nam theo chủ nghĩa dân tộc) của Hồ Chí Minh đã đánh đuổi người Pháp khỏi Đông Dương vào giữa những năm 1950; với sự hỗ trợ của quân đội hậu cần Trung Quốc, nhân viên phòng không của Liên Xô và Trung Quốc, và thậm chí cả các phi công chiến đấu của Liên Xô, Miền Bắc của Hồ mới chịu đựng được các trận ném bom của Mỹ trong khi lãnh đạo cuộc nổi dậy ở miền Nam giữa những năm 1960; với viện trợ của Liên Xô và Trung Quốc, vũ khí và các cố vấn Liên Xô, những người thừa kế của Hồ ở Hà Nội vào giữa những năm 1970 đã chinh phục Miền Nam và Lào, xâm chiếm Campuchia và biến Đông Dương thành khu vực vệ tinh lớn nhất của Liên Xô trên thế giới bên ngoài Đông Âu.
Hồ Chí Minh vay mượn rất ít truyền thống Việt Nam, và hầu hết mọi thứ đều bắt chước các hình mẫu thần tượng nước ngoài của ông, Lenin, Stalin và Mao. Giống như Lenin và Stalin, Nguyễn Ái Quốc đã tự đổi tên mình (“Hồ Chí Minh” có nghĩa là Người Cực Sáng Suốt). Hồ sẽ là trung tâm của sự sùng bái cá nhân, giống như Lenin, Stalin, và Mao đã từng là như vậy. Lenin có Leningrad, và Stalin có Stalingrad; do đó Sài Gòn, sau chiến thắng của cộng sản, sẽ trở thành Thành phố Hồ Chí Minh. Lăng mộ khoa trương của Hồ ở Hà Nội được mô phỏng theo lăng mộ của Lênin ở Moscow. Chết cũng như sống, Hồ Chí Minh là một bản sao thu nhỏ của những chúa tể cộng sản lớn. Ngay cả những chi tiết nhỏ nhất trong chính phủ của Hồ cũng sẽ được vay mượn từ Liên Xô hoặc từ việc Mao bắt chước các hình mẫu của Liên Xô. Vào những năm 1950, Mao đã sao chép cuộc chiến của Stalin với nông dân Liên Xô, và Hồ, với sự giúp đỡ của các cố vấn cộng sản Trung Quốc do Mao phái đến, cũng sẽ khủng bố tương tự nhân dân Miền Bắc, bắt họ quy phục giai cấp toàn trị mới. Trong thập kỷ sau đó, giới đầu sỏ cộng sản Miền Bắc sẽ đàn áp và thanh trừng các trí thức Miền Bắc, theo gương thanh trừng của Mao đối với các trí thức Trung Quốc, bản thân nó cũng được mô phỏng theo các chiến dịch của Stalin chống lại các nhà tư tưởng bất đồng chính kiến. Văn hóa chính thống của miền Bắc, và sau này là của Việt Nam cộng sản thống nhất, sẽ là một bản sao thô thiển của văn hóa chính thức của Liên Xô, các thống đốc của nó ở Đông Âu, và hậu duệ và cuối cùng là đối thủ của nó là Trung Quốc. Cộng sản Việt Nam sẽ mô hình hóa “trại cải tạo” của họ theo mẫu các laogai (trại cải tạo lao động) của Trung Cộng và gulag của Liên Xô. Tận những năm 1980, du khách đến Việt Nam cộng sản còn nhìn thấy các chân dung thần tượng và bậc thầy của Hồ được treo trên tường các văn phòng: “X-Ta-lin,” tên Stalin được phiên âm bằng tiếng Việt.
Khó có ba người đàn ông nào khác biệt nhau về tính cách hơn là Stalin thâm hiểm, Mao bốc đồng, hướng ngoại và Hồ trầm tĩnh, khắc kỷ, nhưng tất cả đều là những tín đồ sùng đạo của thứ tôn giáo chính trị là chủ nghĩa Mác-Lê, mà đấng tiên tri của nó, Lênin, đang nhìn xuống họ từ một bức chân dung trong phòng khánh tiết Điện Kremlin. Chính môn phái Lênin thuộc Mác giáo chứ không phải là khuyết điểm của cá nhân họ đã gây tổn hại chồng chất cho các dân tộc đau khổ của đế chế Liên Xô, Trung Quốc, Bắc Triều Tiên và Đông Dương. Không phải tính xã hội đen của Stalin hay tính hưng phấn tự đại của Mao mà chính học thuyết của Lênin đã tạo ra nạn đói giết chết hàng triệu người ở Liên Xô trong những năm 1930 và thậm chí còn hàng triệu người nữa ở Trung Quốc trong thời kỳ Đại nhảy vọt năm 1958-1962. Các chiến dịch khủng bố của chính phủ đối với những dân làng bất hạnh ở Miền Bắc vào giữa những năm 1950 và ở Campuchia vào giữa những năm 1970 không phải là kết quả của tham vọng cá nhân hay sự tàn ác của cá nhân Hồ Chí Minh hay Pol Pot; tòa án nhân dân, bỏ tù, tra tấn, và chủ trương hành quyết “địa chủ” và “phú nông” và “trung nông” đã hình thành một bộ phận cấu thành trong chương trình điên rồ của chủ nghĩa Mác-Lê nhằm nghiền nát các xã hội hiện có để tạo ra một con người xã hội chủ nghĩa mới. Stalin tuyên bố mình là người thừa kế thực sự của Lenin, và quả đúng là như vậy. Như nhà sử học Martin Malia đã nhận xét: “Vì vậy, sự thật khủng khiếp của thí nghiệm Xô Viết trong dự án Mác-xit tích hợp chỉ có thể được thực hiện bằng các phương thức Lênin-nit, và các phương thức Lênin-nit chỉ có thể đạt đến mục tiêu xã hội chủ nghĩa bằng các phương pháp Stalin-nít.
Tội ác lớn nhất của Mao Trạch Đông và Hồ Chí Minh nằm ở tương lai, còn vào buổi tối mùa đông năm 1950 đó, Hồ, sau khi đến Bắc Kinh, đã hành hương đến Moscow để nhờ vả sự giúp đỡ của Liên Xô và Trung Quốc trong nỗ lực đánh đuổi người Pháp và đưa toàn bộ Đông Dương vào ách toàn trị. Khi Mao đến Moscow hai tháng trước đó vào ngày 16 tháng 12 năm 1949, ông đã được triệu tập đến Điện Kremlin để yết kiến Stalin. Cuộc họp diễn ra căng thẳng; Stalin đã sợ rằng Mao có thể tỏ ra không trung thành như Tito của Nam Tư, người mà Stalin gần đây đã trục xuất khỏi phe cộng sản vì không tuân theo mệnh lệnh của Moscow. Về phần mình, Mao muốn thay thế hiệp ước Trung-Xô năm 1945, mà Stalin đã đàm phán với nhà độc tài Quốc gia bị phế truất Tưởng Giới Thạch, bằng một hiệp ước mới có lợi hơn cho một quốc gia cộng sản đông dân nhất thế giới hiện nay. Khi Stalin hỏi Mao muốn gì, Mao đã trả lời một cách né tránh, nói rằng ông ta muốn cử ngoại trưởng của mình, Chu Ân Lai – một gợi ý cho thấy ông ta quan tâm đến một hiệp ước mới. Stalin đã ép Mao bắt đầu đàm phán ngay lập tức: “Nếu chúng ta không thể thiết lập những gì chúng ta phải hoàn thành, tại sao lại kêu gọi Chu Ân Lai?” Mao đã trả lời với một lý do không thuyết phục – ông, Mao, không có thẩm quyền đàm phán, bởi vì Stalin, với tư cách là chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, có cấp bậc cao hơn.
Stalin, vốn thích là người thao túng hơn bị thao túng, đã khó chịu trước sự lảng tránh của Mao. Cuối cùng Chu Ân Lai đã đến, và hiệp ước sửa đổi, cùng với các giao thức bí mật, đã được ký trước đó vào ngày 14 tháng 2. Tại bữa tiệc vinh danh các đồng minh Trung Quốc mới của mình, Stalin cho thấy rằng ông ta không quên sự kiện ngày 16 tháng 12. Khi Hồ Chí Minh, mong tìm kiếm một hiệp ước Xô-Việt có thể so sánh với hiệp ước Trung-Xô, thu hết can đảm để tiếp cận lãnh đạo khối cộng sản và xin “chỉ thị”, Stalin nói đủ to, cố tình cho Mao và các phiên dịch viên của ông ta ở gần đó nghe câu trả lời của mình. Bằng giọng Georgia với vẻ mỉa mai, Stalin nói với chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa: “Làm sao ông có thể xin chỉ thị của tôi? Tôi là chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, còn ông là chủ tịch nước. Cấp bậc của ông cao hơn tôi; tôi phải xin chỉ thị của ông chứ.”
Hồ Chí Minh có thể đã mong đợi bất kỳ phản hồi nào đối với kiến nghị của ông về một hiệp ước với Liên Xô. Nhưng ông ta không thể lường trước được rằng yêu cầu long trọng của mình đã tạo cơ hội cho thần tượng của mình, Stalin, chế nhạo người bảo trợ khác của ông ta, Mao.
Mặt Trận Chiến tranh Lạnh ở châu Á
Chiến tranh Lạnh là chiến tranh thế giới thứ ba của thế kỷ XX. Đó là cuộc tranh giành ưu thế quân sự và ngoại giao toàn cầu giữa Hoa Kỳ và Liên Xô, hai quốc gia đã nổi lên như hai cường quốc quân sự mạnh nhất sau Thế chiến II. Vì mối đe dọa leo thang hạt nhân đã ngăn cản cuộc chiến tranh quy ước tổng lực giữa hai siêu cường, cuộc cạnh tranh Xô-Mỹ diễn ra dưới hình thức chạy đua vũ trang, hoạt động bí mật, đấu tranh tuyên truyền ý thức hệ, cấm vận kinh tế và chiến tranh ủy nhiệm ở các khu vực ngoại vi. Tại ba trong số đó là Triều Tiên, Đông Dương và Afghanistan – một trong hai siêu cường đã gửi hàng trăm hàng ngàn binh lính của mình vào cuộc chiến chống lại các đàn em của phía bên kia.
Trong chiến tranh thế giới thứ ba, Đông Dương là nơi tranh giành lãnh thổ nhiều nhất trên trái đất. Khu vực có vinh dự không mong muốn này không phải vì tầm quan trọng nội tại của nó mà vì thực tế là ở những nơi khác mà hai siêu cường đối đầu với nhau, họ bị đóng băng trong thế bế tắc không thể phá vỡ nếu không có nguy cơ xảy ra chiến tranh với nhau. Liên Xô và Mỹ tiến hành chiến tranh ủy nhiệm ở Đông Dương vì họ không dám tham gia vào các cuộc thử sức lớn ở Trung Âu, Đông Bắc Á (sau 1953) hay thậm chí là Trung Đông.
Đông Dương mang tính chiến lược vì nó ở ngoại vi.
Xuyên suốt Chiến tranh Lạnh, các cuộc đấu tranh quân sự đẫm máu trên chiến trường Đông Dương được định hình gián tiếp bởi các cuộc đấu tranh ngoại giao căng thẳng nhưng không đổ máu trên chiến trường châu Âu. Bằng cách tham chiến ở Triều Tiên và đồng thời mở rộng chế độ bảo hộ quân sự của Mỹ đối với Đài Loan và Đông Dương thuộc Pháp, chính quyền Truman cho thấy quyết tâm bảo vệ các đồng minh châu Âu của mình. Các quan chức Mỹ đã nuốt trôi mối lo ngại của họ về chủ nghĩa thực dân Pháp và chi trả cho nỗ lực của Pháp trong cuộc chiến đang diễn ra ở Đông Dương từ năm 1950 đến năm 1954, với hy vọng tranh thủ được hậu thuẫn của người Pháp cho việc tái vũ trang nước Đức. Việc Khrushchev sỉ nhục Hoa Kỳ trong cuộc khủng hoảng Berlin năm 1961 đã thuyết phục chính quyền Kennedy rằng việc thể hiện quyết tâm của Hoa Kỳ trên mặt trận Đông Dương là quan trọng hơn tất cả. Năm 1968, lo ngại của các thành viên trong giới tinh hoa về chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ cho rằng sự leo thang hơn nữa ở Đông Dương sẽ gây nguy hiểm cho các cam kết khác của Hoa Kỳ, đặc biệt là ở sân khấu châu Âu, là một trong những yếu tố khiến chính quyền Johnson bắt đầu quá trình rút khỏi Chiến tranh Việt Nam. Các cuộc cách mạng Đông Âu năm 1989, dẫn đến sự sụp đổ của chính Liên Xô năm 1991 đã tước bỏ của người cộng sản Việt Nam mô hình ý thức hệ và người bảo vệ siêu cường của mình.
Mặc dù Đông Dương là nơi diễn ra nhiều trận chiến tranh ủy nhiệm nhất, nhưng cuộc đổ máu lớn nhất trong Chiến tranh Lạnh – cả về số lượng tuyệt đối người chết liên quan đến chiến tranh lẫn cường độ chiến đấu – đã diễn ra trên bán đảo Triều Tiên từ năm 1950 đến năm 1953. Tuy nhiên , trong số các khu vực xảy ra chiến tranh ủy nhiệm, Đông Dương chứng kiến số người chết trong thời bình nhiều nhất do hành động cực đoan của nhà nước, trong chiến dịch tập thể hóa triệt để của Khmer Đỏ vào giữa những năm 1970, được truyền cảm hứng bởi phiên bản Mao-ít của chủ nghĩa Mác-Lê và được báo trước trên một quy mô nhỏ hơn bởi vụ khủng bố dân chúng Miền Bắc chịu ảnh hưởng của Trung Quốc giữa những năm 1950.
Vào thời điểm Stalin gặp Mao và Hồ ở Moscow năm 1950, Chiến tranh Lạnh đã bắt đầu được bốn năm. Năm 1946, Stalin siết chặt các nước nằm trong vùng ảnh hưởng của Liên Xô ở Đông Âu. Nước Đức bại trận bị chia cắt thành các khu vực chiếm đóng của Liên Xô và phương Tây, những khu vực này cuối cùng trở thành các nhà nước riêng biệt (Áo cũng bị chia cắt cho đến giữa những năm 1950). Đồng thời, Hàn Quốc bị chia cắt thành các khu vực của Liên Xô và Mỹ. Nhật Bản đã hoàn toàn nằm dưới chính quyền Hoa Kỳ.
Mặc dù nhiều người đã mong đợi sự xuất hiện của một thế giới ba cực với trung tâm là Washington, Moscow và London, nhưng Chiến tranh thế giới thứ hai đã làm đế chế Anh suy yếu nghiêm trọng. Vào tháng 2 năm 1947, người Anh thông báo cho chính quyền Truman rằng Hoa Kỳ sẽ phải đảm nhận gánh nặng hỗ trợ các lực lượng thân phương Tây ở Thổ Nhĩ Kỳ và Hy Lạp, nơi Stalin đang hậu thuẫn cho quân nổi dậy cộng sản. Vào ngày 12 tháng 3, Truman công bố cái được gọi là Học thuyết Truman: “chính sách của Hoa Kỳ hỗ trợ những người tự do đang chống lại nỗ lực nổi dậy của các nhóm thiểu số có vũ trang hoặc bởi các sức ép từ bên ngoài. Vào tháng 6, Kế hoạch Marshall nhằm tái thiết châu Âu đã được Ngoại trưởng George Marshall công bố trong một bài phát biểu tại Harvard. Stalin, vốn coi viện trợ kinh tế của Hoa Kỳ là một mối đe dọa, đã ngăn cản các quốc gia Đông Âu dưới sự kiểm soát của Liên Xô chấp nhận kế hoạch này. Học thuyết Truman đã nhận được câu trả lời vào tháng 9 năm 1947. Andrei Zhdanov, đóng vai trò là phát ngôn viên của Stalin, đã tuyên bố rằng thế giới được chia thành hai phe, chủ nghĩa xã hội, và chủ nghĩa đế quốc. Các phong trào phi cộng sản ở các vùng thuộc địa và hậu thuộc địa, từng được ve vãn làm đồng minh của mạng lưới cộng sản quốc tế trong những ngày của Mặt trận Bình dân, bây giờ đã được bao gồm vào phe đế quốc. [Mặt trận bình dân là bất kỳ liên minh nào của các đảng thuộc tầng lớp lao động và trung lưu đoàn kết lại để bảo vệ các hình thức dân chủ trước một cuộc tấn công được cho là của Phát xít. Vào giữa những năm 1930, mối lo ngại của Cộng sản Châu Âu về thắng lợi của Chủ nghĩa Phát xít, kết hợp với sự thay đổi chính sách của Liên Xô, đã khiến các đảng Cộng sản tham gia cùng các đảng Xã hội, tự do và ôn hòa trong các mặt trận bình dân nhằm chống lại sự xâm lấn của Phát xít.] Ngược lại, Zhdanov ca ngợi cuộc chiến của Việt Minh do cộng sản kiểm soát của Hồ Chí Minh chống lại Pháp ở Đông Dương như một ví dụ về “một phong trào giải phóng dân tộc mạnh mẽ ở các nước thuộc địa và lệ thuộc.”
Stalin ra lệnh cho những người cộng sản ở Tây Âu phát động một làn sóng đình công. Hoa Kỳ đã đáp lại bằng các chuyến hàng viện trợ kinh tế. Sau khi nước cờ của Stalin ở Tây Âu thất bại, ông ta đã dàn dựng một cuộc đảo chính ở Tiệp Khắc để thay thế chính phủ dân cử bằng một chế độ độc tài cộng sản do Moscow kiểm soát. Hoa Kỳ đã phát động một chương trình bí mật để hỗ trợ các đảng thân Mỹ trong các cuộc bầu cử quốc gia ở Ý và cân nhắc can thiệp quân sự nếu liên minh do cộng sản lãnh đạo giành được quyền lực ở đó. Trong khi đó, ở ngoại vi châu Âu, các cố vấn Mỹ đã giúp một chế độ độc tài ở Hy Lạp chiến đấu chống lực lượng cộng sản, một cuộc nổi dậy do khối Xô Viết hỗ trợ trong cuộc chiến tranh ủy nhiệm lớn đầu tiên của Chiến tranh Lạnh. Cuộc nổi dậy của Hy Lạp đã bị đánh bại, một phần vì nhà độc tài cộng sản của Nam Tư, Tito, sợ bị Stalin thanh trừng, đã ly khai khỏi khối Xô Viết để đảm nhận một vị trí trung lập không dễ chịu giữa Đông và Tây.
Mặc dù chiến trường chính của Chiến tranh Lạnh thời kỳ đầu là Châu Âu, Hoa Kỳ và Liên Xô cũng đang vạch ra các chiến tuyến ở Châu Á. Vào tháng 2 năm 1948, tại một hội nghị của thanh niên cấp tiến do cộng sản bảo trợ ở Calcutta, những người cộng sản Trung Quốc và Việt Nam đã kêu gọi đấu tranh vũ trang chống lại phương Tây và các chính phủ thân phương Tây. Sau cuộc họp ở Calcutta, một loạt các cuộc nổi dậy lấy cảm hứng từ cộng sản đã nổ ra khắp khu vực. Vào tháng 3, những người cộng sản Miến Điện nổi dậy chống lại chính phủ mới độc lập; vào tháng 6, đảng cộng sản Malaysia cầm vũ khí; và vào tháng 8; lực lượng nổi dậy Hukbalahap do cộng sản cầm đầu ở Philippines lại nối lại cuộc chiến chống chính quyền thân Mỹ của Philippines. Vào tháng 9 năm 1948, phe cộng ở Indonesia xung đột với chính quyền Indonesia, sau khi nhà lãnh đạo cộng sản Indonesia lưu vong Musso trở về từ Liên Xô, người đã tuyên bố rằng phong trào của ông sẽ tuân theo “Kế hoạch Gottwald” (ám chỉ việc cộng sản lên nắm quyền ở cuộc đảo chính Tiệp Khắc gần đây). Cuộc nổi dậy của cộng sản Indonesia bị dập tắt trong vòng một tháng, nhưng các cuộc nổi dậy của người Miến Điện, Mã Lai và Philippines vẫn nóng trong nhiều năm.
Ở Đông Dương, Việt Minh của Hồ Chí Minh – một mặt trận các đảng phái quốc gia do cộng sản kiểm soát đã lên nắm chính quyền vào tháng 8 năm 1945, khi việc chiếm đóng Đông Dương thuộc Pháp của Nhật Bản đã cáo chung với Thế Chiến II. Để che giấu mục đích thực sự của mình, Hồ giả vờ giải tán đảng cộng sản Đông Dương. Vào mùa hè năm 1946, trong khi Hồ đến Paris với hy vọng thuyết phục người Pháp trao lại quyền lực một cách hòa bình cho chế độ ông ta, người phó của ông, Võ Nguyên Giáp, đã giám sát việc tiêu diệt có hệ thống tất cả các phe đối lập chính trị bằng cách giam cầm, đày ải, hoặc thảm sát hàng vạn người quốc gia không cộng sản và nhóm cánh tả. Sau thất bại của Hồ Chí Minh trong các cuộc đàm phán với Pháp, chiến sự bắt đầu vào cuối năm 1946. Pháp gửi quân đội trong nỗ lực tái lập quyền lực của Pháp tại Đông Dương. Bị ép giữa các lực lượng Pháp và nhà nước Trung Quốc theo chủ nghĩa dân tộc của Tưởng Giới Thạch (người hoàn toàn không thù địch với nỗ lực đánh đuổi người Pháp khỏi khu vực), những người cộng sản Việt Nam đã xoay sở để tồn tại cho đến khi Đảng Cộng sản của Mao, với sự hỗ trợ quan trọng về quân sự và hậu cần do Liên Xô và Bắc Triều Tiên cung cấp, đã đạt thắng lợi trong cuộc nội chiến ở Trung Quốc vào năm 1949. Đầu năm 1950, Hồ đến Moscow để gặp Mao và Stalin.
“Ở Viễn Đông,” cựu nhà báo Hồng quân, Tướng Oleg Sarin và Đại tá Lev Dvoretsky đã viết,
Trung Quốc, Bắc Triều Tiên và Bắc Việt Nam đã trở thành đồng minh vững chắc của Stalin. Trong hai trường hợp sau, Kim Nhật Thành và Hồ Chí Minh là những nhà độc tài có quyền lực to lớn, những người tuân theo đường lối của Điện Kremlin một cách nghiêm ngặt và lại được hỗ trợ rất nhiều bằng vũ khí, hàng hóa và dịch vụ của Liên Xô. Stalin đã dành cho họ rất nhiều suy tính và quan tâm, không ngừng nghiền ngẫm các kế hoạch thống nhất hai quốc gia này dưới ngọn cờ đỏ và do đó tạo ra những cơ hội mới cho truyền bá chủ nghĩa cộng sản của Liên Xô sâu hơn vào châu Á. Stalin đang ở một vị trí tuyệt vời để thực hiện phần còn lại trong giấc mơ của mình.
Stalin, người ắt đã hy vọng một liên minh bao gồm những người cộng sản sẽ lên nắm quyền ở Paris, đã cẩn thận giữ vẻ ngoài có khoảng cách giữa chế độ của ông ta và chế độ của Hồ Chí Minh. Ông chỉ thị cho Mao nhận trách nhiệm giúp đỡ các đồng chí Đông Dương. Giới lãnh đạo cộng sản Trung Quốc coi Đông Dương là một trong “ba mặt trận” tranh chấp với khối “đế quốc” do Mỹ cầm đầu; hai mặt trận còn lại là Hàn Quốc và Đài Loan, nơi chế độ Quốc gia của Tưởng Giới Thạch, bị đánh bại ở đại lục, vẫn còn sống sót. Mao, mong đợi một cuộc xung đột với Hoa Kỳ về Đài Loan, vào mùa xuân năm 1950 được thông báo rằng Stalin đã cho phép đàn em Bắc Triều Tiên của mình, Kim Nhật Thành, thống nhất bán đảo Triều Tiên bị chia cắt bằng vũ lực, sau thất bại trong nỗ lực đó bằng một cuộc chiến tranh du kích đã cướp đi sinh mạng của khoảng một trăm nghìn người Hàn.
Với sự hậu thuẫn của Stalin và Mao, Kim đã phát động cuộc xâm lược Hàn Quốc vào ngày 24 tháng 6 năm 1950. Coi cuộc khủng hoảng là phép thử đối với uy tín của Hoa Kỳ trong Chiến tranh Lạnh, Hoa Kỳ, cùng với Anh và hàng chục đồng minh, đã gửi quân dưới danh nghĩa của Liên hiệp quốc để giải cứu chế độ Lý Thừa Vãn của Hàn Quốc. Bằng một cuộc đổ bộ táo bạo tại Inchon vào tháng 9, Tướng Douglas MacArthur đã đảo ngược cục diện cuộc chiến theo hướng có lợi cho nước Mỹ. Trong vòng vài tuần, những người cộng sản Triều Tiên đã bị đẩy lùi về phía biên giới Trung Quốc trên sông Áp Lục. Theo sự thúc giục của Stalin, và chống lại lời khuyên của phần lớn giới lãnh đạo quân đội cộng sản Trung Quốc, Mao đã đưa Trung Quốc vào cuộc chiến. Các lực lượng Trung Quốc ào ạt vượt qua Áp Lục với số lượng lớn vào tháng 11. Nhân viên quân sự Liên Xô cũng đã tham gia một cách hạn chế cuộc chiến trên không, một sự thật mà chính phủ Hoa Kỳ giữ bí mật như là một phần của chiến lược nhằm giữ cho cuộc chiến ủy nhiệm ở Hàn Quốc bị hạn chế
Tác động của Chiến tranh Triều Tiên là củng cố cam kết của Hoa Kỳ trong việc khước từ giao Đài Loan và Đông Dương, hai mặt trận khác ở Đông Á, cho khối Trung-Xô. Truman gửi Hạm đội 7 đến kiểm soát eo biển Đài Loan, và gửi một phái bộ quân sự để giúp đỡ người Pháp ở Đông Dương. Đến năm 1954, Hoa Kỳ đã trả phần lớn chi phí cho nỗ lực của Pháp nhằm đánh bại Hồ Chí Minh. Trung Quốc cũng coi các cuộc chiến ở Triều Tiên và Đông Dương là một phần của cuộc đấu tranh Đông-Tây duy nhất. Tướng Trần Canh, một sĩ quan quân đội hàng đầu của Trung Quốc, đã giúp tổ chức lực lượng Việt Minh trong cuộc chiến chống Pháp trước khi rời đi vào tháng 11 năm 1950 để nắm quyền chỉ huy tại Hàn Quốc.
Chiến tranh Triều Tiên, giống như Chiến tranh Việt Nam sau này, đã gây ra bất ổn chính trị ở Hoa Kỳ. Tuy nhiên, trong Chiến tranh Triều Tiên, sự phản đối triệt để đối với chính quyền đến từ cánh hữu. Tổng thống Truman, bị những kẻ chụp mũ mị dân như thượng nghị sĩ bang Wisconsin Joseph McCarthy cáo buộc là dung túng cho những tên cộng sản phản trắc trong chính phủ, và bị phỉ báng vì đã sa thải Tướng MacArthur vì tội bất phục tùng, đã chọn không tái tranh cử tổng thống. Dwight Eisenhower, được bầu làm tổng thống năm 1952, đe dọa sử dụng vũ khí hạt nhân chống lại Triều Tiên và Trung Quốc.
Những lời đe dọa này, kết hợp với cái chết của Stalin vào ngày 4 tháng 3 năm 1953, đã đưa đến đình chiến ở Hàn Quốc vào tháng 7 năm đó.
Trong khi đó, ở Đông Dương, cuộc chiến đang trở nên tồi tệ đối với người Pháp và các nhà tài trợ Mỹ của họ. Khối Trung-Xô đã sử dụng hiệp định đình chiến Triều Tiên như một cơ hội để phát động một “cuộc tấn công hòa bình” trên toàn thế giới, mà một phần trong đó là việc những người kế nhiệm Stalin ở Điện Kremlin đã đề xuất một hội nghị 5 cường quốc thảo luận về các tranh chấp quốc tế ở Đông Dương. Để củng cố vị thế đàm phán của mình, Việt Minh, với vũ khí và lực lượng cố vấn của Trung Quốc, đã bắt đầu bao vây quân Pháp tại địa điểm chiến lược quan trọng Điện Biên Phủ. Báo động trước viễn cảnh tiền đồn của Pháp thất thủ, Ngoại trưởng Hoa Kỳ John Foster Dulles đã đe dọa Hoa Kỳ sẽ can thiệp và kêu gọi “hành động thống nhất” của các nền dân chủ phương Tây. Tuy nhiên, Quốc hội Hoa Kỳ không sẵn sàng ủng hộ cuộc chiến tranh của Mỹ ở Đông Dương ngay sau khi đã có 56.000 lính Mỹ thiệt mạng ở Triều Tiên. Việt Minh chiếm Điện Biên Phủ vào ngày 7 tháng 5 năm 1954, một ngày trước khi cuộc thảo luận về Đông Dương ở Geneva dự kiến bắt đầu.
Hoa Kỳ, kiên quyết không bỏ rơi Đông Dương cho phe cộng sản của Hồ được Liên Xô và Trung Quốc chống lưng, đã nhận được rất ít sự ủng hộ từ Pháp, khi chính quyền này đã mong mỏi đạt được một lối thoát không bẽ mặt khỏi khu vực. Anh, bận lo toan các xứ sở lệ thuộc mình trong khu vực, chẳng hạn như Malaysia (bản thân nước này đang phải đối mặt với cuộc nổi dậy của cộng sản), đóng vai trò trung gian hòa giải giữa Hoa Kỳ và Liên Xô. Dưới áp lực của Liên Xô và Trung Quốc, vốn muốn xả hơi sau cuộc chiến tranh ủy nhiệm Triều Tiên, phe cộng sản Việt Nam bất đắc dĩ buộc phải chấp nhận sự chia cắt Đông Dương thuộc Pháp thành ba quốc gia—Việt Nam, Lào và Campuchia—và sự chia cắt Việt Nam tại thời điểm đó. Vĩ tuyến 17 giữa các vùng cộng sản và không cộng sản. Hiệp định Geneva quy định tiến hành bầu cử toàn quốc để thống nhất, nhưng vì hiệp định đã bị chính phủ Miền Nam bác bỏ và không được Hoa Kỳ ký kết nên điều khoản này đã chết ngay từ đầu. Trong thời gian tự nguyện ra đi hay ở lại dưới sự bảo trợ của quốc tế vào năm 1954–55, số người Việt, phần lớn là giáo dân Công giáo vì sợ sự đàn áp của cộng sản, chạy từ Bắc vào Nam nhiều gấp 10 lần số người tập kết ra Bắc.
Giữa Hai Cuộc Chiến
Vào giữa những năm 1950, tương quan lực lượng trong nền chính trị thế giới đã chuyển sang hướng có lợi cho Hoa Kỳ, nhờ vào việc xây dựng nhanh chóng quân đội Hoa Kỳ trong Chiến tranh Triều Tiên và tái thiết kinh tế của Tây Âu và Nhật Bản. Các cuộc nổi dậy của cộng sản ở Miến Điện, Philippines và Malaysia đã bị đánh bại hoặc đang suy tàn.
Ở Miền Bắc, chế độ của Hồ Chí Minh đã nghe theo lời khuyên của chính quyền Mao và tập trung vào việc củng cố nền cai trị hơn là tài trợ cho cuộc cách mạng Miền Nam. Trung Quốc đã viện trợ cho Miền Bắc, từ năm 1956 đến năm 1963 lên tới 270.000 khẩu súng, 200 triệu viên đạn, hơn 10.000 khẩu pháo cùng với hơn 2 triệu quả đạn pháo, 15.000 máy phát sóng, 28 tàu, 15 máy bay, và hơn 1.000 xe tải. Các cố vấn quân sự Trung Cộng đã giúp đồng minh Việt Nam của họ đánh bại quân Pháp giờ đã được thay thế bằng các cố vấn chính trị Trung Cộng, chỉ đạo Việt Nam trong chiến dịch tập thể hóa theo mô hình “cải cách ruộng đất” trước đây ở Trung Quốc và Liên Xô. Ít nhất mười nghìn người Việt Nam ở nông thôn đã bị lôi ra cho nhân dân tố cáo là kẻ thù giai cấp và bị xử tử sau các phiên tòa trá hình do cộng sản Việt Nam tổ chức với sự giúp đỡ của các cố vấn Trung Cộng. Khi nông dân Bắc Việt cuối cùng nổi dậy chống lại chủ nghĩa khủng bố nhà nước này, Hồ Chí Minh đã dùng quân đội của mình để đè bẹp họ. Cuộc khủng bố nông thôn theo chủ nghĩa Mao ở Miền Bắc nối gót theo sau là cuộc thanh trừng các trí thức Miền Bắc theo mô hình thanh trừng trước đó ở Trung Cộng.
Trong khi Hồ khủng bố người dân miền Bắc phải ngoan ngoãn vâng lời, thì Ngô Đình Diệm cũng đang sử dụng vũ lực và gian lận dựng lên một nhà nước ở Miền Nam . Ông Diệm từng là một người Quốc gia thuộc tầng lớp thượng lưu được trọng vọng, không bị tai tiếng dù từng hợp tác với thực dân Pháp hoặc quân Nhật chiếm đóng quê hương ông. Hồ đã từng yêu cầu Diệm phục vụ trong chính phủ liên hiệp Việt Minh buổi đầu, nhưng sau khi ông Diệm từ chối vì không muốn trở thành một nhân vật bù nhìn trong một chế độ do cộng sản thống trị, chính quyền của Hồ đã xử tử một người anh của Diệm. Diệm lật đổ Hoàng đế Bảo Đại do Pháp cài đặt và tự phong mình làm tổng thống của chính phủ Việt Nam trong một cuộc trưng cầu dân ý gian lận. Để củng cố chế độ độc tài của mình, Diệm nhờ sự giúp đỡ của các cố vấn Mỹ, bao gồm Đại tá Edward G. Lansdale và Thiếu tá Lucien Conein, cả hai đều là những chuyên gia hoạt động bí mật nổi tiếng của Mỹ. Vào nửa cuối thập niên 1950, Diệm đã tiến hành một cuộc chiến tranh man rợ chống các tàn dư của Việt Minh do cộng sản gài lại ở Miền Nam và cả Cao Đài, Hòa Hảo, và Binh Xuyên, các “giáo phái” bán quân sự giống như các nhóm xã hội đen. Giống như nhiều nhà cai trị thuộc Thế giới Thứ ba, Diệm củng cố quyền lực của mình bằng chế độ gia đình trị, thiên vị đối với những người theo đạo Công giáo như mình, ăn hối lộ và nhẫn tâm khiến nhiều người Miền Nam xa lánh, mặc dù nó ít hà khắc hơn chế độ Stalin-nít ở Miền Bắc
Vào cuối những năm 1950, thế chủ động trong chính trị toàn cầu đã dịch chuyển từ Hoa Kỳ sang Liên Xô. Tổng thống Eisenhower đã thất bại trong việc vạch ra một chiến lược quân sự hợp lý để tiến hành Chiến tranh Lạnh. Chính sách “trả đũa ồ ạt” của ông đã bị Mao và các nhà lãnh đạo khối cộng sản khác coi là một trò hù dọa ngay cả trước khi Liên Xô xây dựng xong kho vũ khí hạt nhân, tạo ra sự cân bằng khủng bố giữa các khối. Eisenhower càng ngày càng tin tưởng vào hoạt động bí mật như một công cụ trong chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ. Vào thời điểm ông rời nhiệm sở, một sự đồng thuận đã xuất hiện giữa các chuyên gia an ninh quốc gia và những người bất đồng chính kiến trong quân đội cho rằng các điều kiện của Chiến tranh Lạnh đòi hỏi “các đáp ứng linh hoạt”, khả năng sử dụng vũ lực một cách hiệu quả của quân đội Mỹ trong quang phổ xung đột từ các mối đe dọa chiến tranh hạt nhân đến hoạt động trong vòng bí mật.
Trong khi Hoa Kỳ trôi dạt dưới thời Eisenhower, thì sự trỗi dậy quyền lực của Nikita Khrushchev đã sản sinh cho đế chế Xô Viết một nhà lãnh đạo năng động và khoa trương. Năm 1956, Khrushchev lợi dụng việc Anh, Pháp và Israel thất bại trong việc chiếm kênh đào Suez từ Ai Cập để xâm lược Hungary; việc phóng thành công vệ tinh Sputnik vào năm sau đã khởi đầu cuộc chạy đua vào không gian và tạo cho thế giới ấn tượng rằng Liên Xô là một cường quốc công nghệ năng động. Sự tan rã các đế chế Âu châu ở châu Á, châu Phi và Trung Đông đã tạo ra hàng chục quốc gia mới, không ổn định mà Hoa Kỳ và Liên Xô tranh giành lôi kéo về phe mình. Trong cuộc cạnh tranh này, luận điệu chống chủ nghĩa phân biệt chủng tộc của Liên Xô, và sự vắng mặt trong lịch sử chế độ thuộc địa của Nga bên ngoài Á-Âu, đã mang lại lợi thế cho Moscow vào thời điểm mà sự phản kháng của người da trắng đối với phong trào đòi dân quyền của người da màu đã cho thế giới thấy khía cạnh xấu xa của xã hội Mỹ.
Ở Đông Nam Á, xung đột giữa hai khối lại nóng lên vào cuối những năm 1950. Tại Lào, một cuộc chiến ủy nhiệm không tuyên bố đã diễn ra giữa các lực lượng bảo hoàng do Hoa Kỳ hậu thuẫn và Pathet Lào cộng sản, được hỗ trợ bởi quân đội Bắc Việt, với sự cổ vũ của Liên Xô và Trung Cộng. Trong khi đó, Hà Nội bật đèn xanh cho một cuộc nổi dậy của cộng sản Miền Nam chống lại chế độ Diệm. Tháng 5 năm 1959, Hà Nội thành lập Đoàn 559, làm nhiệm vụ đưa quân và vũ khí xâm nhập Miền Nam qua đường mòn Hồ Chí Minh ở Lào và Campuchia, và Đoàn 759, làm nhiệm vụ xâm nhập bằng đường biển. (Chế độ Bắc Triều Tiên đã nhiều lần cố gắng xâm nhập Hàn Quốc theo cách tương tự nhưng không đạt được thành công đáng kể.) Từ năm 1959 đến năm 1961, số quan chức Miền Nam bị ám sát tăng từ 1.200 lên 4.000 mỗi năm. Khi cuộc nổi dậy ở Miền Nam trở nên mạnh mẽ hơn, Hoa Kỳ đã trang bị cho quân đội của Diệm và cung cấp hàng trăm cố vấn, có nhiệm vụ thường xuyên huấn luyện cho quân đội Miền Nam lối chiến tranh quy ước thường không áp dụng được cho chiến trường Miền Nam. Vào ngày 8 tháng 7 năm 1959, du kích đột kích vào một bộ chỉ huy quân đội Miền Nam ở Biên Hòa gần Sài Gòn, cùng với một số lính Miền Nam, các quân nhân Mỹ đầu tiên ở Đông Dương đã thiệt mạng.
Vào ngày 6 tháng 1 năm 1961, hai tuần trước khi John F. Kennedy nhậm chức tổng thống Hoa Kỳ, Khrushchev công bố một bài phát biểu kêu gọi sự ủng hộ của Liên Xô đối với “các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc” như một giải pháp thay thế cho cuộc chiến tranh hạt nhân đang đe dọa thế giới. Kennedy đã đưa cho các phụ tá của mình các bản sao của bài phát biểu, khuyến khích họ “đọc, học và tự suy ngẫm.” Kennedy đã được Eisenhower cảnh báo rằng cuộc chiến ủy nhiệm cấp thấp ở Lào giữa các phe được Hoa Kỳ hậu thuẫn và các đối thủ của họ, lệ thuộc vào Bắc Việt, đang tiến gần đến điểm khủng hoảng. Vào ngày 9 tháng 3, Kennedy xem xét các kế hoạch chi tiết cho việc đưa lực lượng Hoa Kỳ vào Lào.
Sự chú ý của thế giới đã chuyển hướng từ Đông Dương sang vùng Caribe vào ngày 12 tháng 4 năm 1961, khi những người Cuba lưu vong do Mỹ hậu thuẫn xâm chiếm Cuba tại Vịnh Con Heo. Cuộc xâm nhập, được thiết kế dưới thời chính quyền Eisenhower và được Kennedy chấp thuận, đã thất bại trong việc kích động cuộc nổi dậy của quần chúng chống nhà độc tài thân Xô Viết Fidel Castro. Mùa hè năm 1961, Kennedy và Khrushchev tham gia vào một cuộc đối đầu ở Berlin. Khi buộc phải chấp nhận cho Đông Đức xây dựng Bức tường Berlin [do Khrushchev ra lệnh], với mục đích ngăn chặn công dân Đông Đức cộng sản chạy trốn sang phương Tây, Hoa Kỳ đã phải chịu một thất bại nhục nhã. [Dù khổ sở về việc này, nhưng Kennedy đã kêu lên, “Một bức tường dù sao cũng tốt hơn một cuộc chiến.]
Sau hậu quả của những sỉ nhục ở Cuba và Đức, chính quyền Kennedy cảm thấy buộc phải thể hiện quyết tâm của Hoa Kỳ tại chiến trường Đông Dương trong Chiến tranh Lạnh. Vào mùa thu năm 1961, Kennedy bác bỏ lời khuyên của quân đội Hoa Kỳ cho rằng bất kỳ sự can thiệp nào của người Mỹ đều phải có quy mô đồ sộ và ông giải quyết “việc trung lập hóa” Lào trong các cuộc đàm phán tại Geneva – nhưng thỏa hiệp đã thất bại trong việc chấm dứt chiến tranh ủy nhiệm. Bước rút lui mới nhất này của chính quyền Kennedy càng làm cho việc bảo vệ Nam Việt Nam trở nên cần thiết hơn.
Được báo động bởi một báo cáo về tình hình Nam Việt Nam của Edward Lansdale, vào tháng 5 năm 1961, Kennedy đã cử Phó Tổng thống Lyndon Johnson đến Nam Việt Nam trong chuyến đi tìm hiểu thực tế. Diệm từ chối lời đề nghị đưa quân đội sang của Hoa Kỳ, thay vào đó yêu cầu Hoa Kỳ tăng viện trợ để mở rộng quân đội và gửi thêm các cố vấn quân sự. Tháng 10 năm 1961, Tướng Maxwell Taylor, Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân, đến thăm Miền Nam và đề nghị Hoa Kỳ gửi quân tham chiến. Kennedy khước từ lời khuyên của Taylor, nhưng thành lập Bộ Tư lệnh Hỗ trợ Quân sự, Việt Nam (MACV) và tăng mạnh số lượng cố vấn quân sự Hoa Kỳ tại Miền Nam.
Trong khối cộng sản, sự rạn nứt ngày càng tăng giữa Liên Xô của Khrushchev và Trung Quốc của Mao đang tạo ra một mối nguy hiểm mới cho Hoa Kỳ và các đồng minh của họ. Hai gã khổng lồ cộng sản cạnh tranh để thể hiện vai trò lãnh đạo của mình đối với chủ nghĩa chống phương Tây trên toàn thế giới bằng cách ra sức vượt mặt nhau trong việc hậu thuẫn Bắc Việt. Tố cáo những kẻ khuyên hãy thận trọng trong việc đối đầu với Hoa Kỳ là “bọn xét lại”, Mao đã gửi các sứ giả cao cấp đến Hà Nội vào mùa xuân năm 1962 để thảo luận về hợp tác Trung-Việt trong sự kiện chiến tranh nổ ra với Hoa Kỳ.
Đồng thời, du kích Việt Cộng do Hà Nội kiểm soát ở Miền Nam tiếp tục đạt được tiến bộ, kêu gọi được sự bất mãn trong quần chúng trong khi vẫn gia tăng ám sát một số lượng lớn các quan chức chính phủ và những người ủng hộ chế độ. Chương trình bình định của chính phủ Diệm đã phản tác dụng, khi việc di dời gần một phần tư dân số nông thôn đã tạo ra nỗi căm ghét mới đối với chính quyền. Vào ngày 22/2/1962, hai phi công Miền Nam tìm cách ám sát Diệm bằng cách đánh bom dinh tổng thống. Ngay sau đó, khả năng quân sự hạn chế của chế độ Diệm đã bị phơi bày trong một cuộc đột kích bất thành của quân đội Miền Nam và các cố vấn Mỹ chống lại Việt Cộng tại làng Ấp Bắc.
Ngày 8 tháng 5 năm 1962, tại thành phố Huế, một số người đã thiệt mạng khi một phó tỉnh trưởng theo Công giáo đưa lính đến ngăn cản Phật tử treo cờ kỷ niệm ngày Phật Đản. Vào ngày 11 tháng 6, các Phật tử đã sắp xếp trước để các phương tiện truyền thông phương Tây đưa tin về vụ tự thiêu của một nhà sư Phật giáo. Những bức ảnh kinh hoàng của cuộc tự thiêu đã góp phần biến ông Diệm thành ma quỷ trong mắt người Mỹ. (Không cần nói rằng, các nhà báo phương Tây đã không có mặt để ghi lại các cuộc biểu tình chống đối và cách chính quyền đàn áp khốc liệt hơn nhiều ở Miền Bắc.)
Vào mùa hè năm 1962, Hồ Chí Minh dẫn đầu một phái đoàn đến Bắc Kinh, và đã thành công khi được Trung Cộng cam kết trang bị cho 230 tiểu đoàn mới của Miền Bắc. Mùa xuân năm sau, các phái đoàn Trung Quốc đến Hà Nội hứa rằng Trung Quốc sẽ viện trợ thêm cho Miền Bắc nếu Hoa Kỳ tấn công và đảm bảo với các nhà cầm quyền Miền Bắc rằng họ có thể “chắc chắn trông cậy vào Trung Quốc như một hậu phương chiến lược.”
Tại Washington, chính quyền Kennedy bị chia rẽ giữa những người thúc giục hợp tác với các tướng lĩnh Miền Nam âm mưu phế truất Tổng thống Diệm, người mà năng lực kém cỏi và không được lòng dân đã cản trở cuộc chiến chống lại quân nổi dậy cộng sản, và những người khác phản đối động thái đó. Sau chiến thắng của phe ủng hộ đảo chính ở Washington, vào ngày 1 tháng 11 năm 1963, Diệm bị phế truất bởi các tướng lĩnh nổi dậy, và sau đó đã sát hại ông và em trai Ngô Đình Nhu sau khi hứa hẹn sẽ đưa họ an toàn ra khỏi đất nước. Theo sau vụ ám sát ở Sài Gòn vài tuần là vụ sát hại Tổng thống Kennedy ở Dallas, Texas, bởi Lee Harvey Oswald, một người từng đào thoát đến Liên Xô, coi Castro là thần tượng. Vào thời điểm Kennedy qua đời, Hoa Kỳ đã chi 500 triệu đô la mỗi năm cho Miền Nam; ở đó có 15.000 cố vấn Mỹ, và 50 lính Mỹ đã thiệt mạng.
Người kế nhiệm Kennedy, Lyndon Johnson, đã phản đối việc lật đổ ông Diệm. Diệm đã được minh oan sau cuộc đảo chính của Miền Nam, khi hàng loạt chính phủ phù du được thành lập rồi tan rã do các sĩ quan quân đội Miền Nam tranh giành quyền lực. Sự hỗn loạn chính trị đã tạo cơ hội cho quân nổi dậy do Hà Nội chỉ đạo giành được những thắng lợi lớn. Trước cuộc đảo chính Diệm, Việt Cộng đã kiểm soát ít hơn 30 phần trăm lãnh thổ của Miền Nam; đến tháng 3 năm 1964, họ kiểm soát từ 40 đến 45 phần trăm.
Tình hình tuyệt vọng ở Miền Nam đi đôi với tình trạng hỗn loạn khắp Đông Nam Á. Bắt đầu từ năm 1962, nhà độc tài Indonesia Sukarno đã liên kết với Mao và đảng Cộng sản Indonesia, đảng lớn thứ ba trên thế giới. Sau khi chiếm được phần phía tây thuộc Hà Lan trước đây của New Guinea vào năm 1962, Sukarno đã khởi xướng một cuộc chiến tranh du kích chống lại Malaysia. Để giúp đỡ người Malaysia chống lại lực lượng Sukarno và các đồng minh Malaysia của họ, người Anh gửi đến các đơn vị Đặc nhiệm Không quân (SAS). Gần bên, ông hoàng Norodom Sihanouk kỳ vọng mong chờ một chiến thắng của phe cộng sản ở Miền Nam, đã cho phép Việt Cộng và quân chính quy Bắc Việt sử dụng lãnh thổ Campuchia để xâm nhập vào Nam Việt Nam. Đầu năm 1964, Sihanouk bí mật đồng ý cho Trung Quốc sử dụng cảng biển Sihanoukville của Campuchia để vận chuyển quân nhu cho Việt Cộng. Sihanouk đã ra lệnh các đám đông tấn công tòa đại sứ Hoa Kỳ và Anh, và khi nhà độc tài của Thái Lan, Nguyên soái Sarit, chết ngay sau vụ sát hại Diệm và Kennedy, Sihanouk đã đọc một bài diễn văn trên đài phát thanh trong đó ông ăn mừng cái chết của cả ba nhân vật.
Trong hoàn cảnh đó, chính quyền Johnson quyết định tăng cường các cuộc đột kích bí mật chống lại Miền Bắc. Hầu hết các toán biệt kích Miền Nam xâm nhập vào Miền Bắc đều bị giết hoặc bị bắt. Các phi công Hoa Kỳ và Thái Lan cũng bắt đầu ném bom Bắc Việt và quân Pathet Lào đồng minh ở Lào bằng các máy bay của Lực lượng Không quân Hoàng gia Lào. Ngoài ra, Hoa Kỳ bắt đầu tuần tra tình báo hàng hải dọc theo bờ biển Bắc Việt. Tiếp theo sau một cuộc tấn công của Miền Nam do Hoa Kỳ tài trợ vào hai hòn đảo của Bắc Việt vào ngày 31 tháng 7 là cuộc đụng độ vào ngày 3 tháng 8 ở Vịnh Bắc Bộ giữa một tàu hải quân Mỹ, Maddox và thuyền phóng ngư lôi Bắc Việt. Vào ngày 4 tháng 8, những người điều khiển radar trên một con tàu khác, C. Turner Joy, tuyên bố đã nhìn thấy ngư lôi địch. Chính quyền Johnson, tuyên bố rằng các tàu Mỹ là mục tiêu của các cuộc tấn công vô cớ, đã sử dụng các sự cố Vịnh Bắc Bộ như một cái cớ để quốc hội thông qua Nghị quyết Đông Nam Á, một tuyên bố chiến tranh có điều kiện được mô phỏng theo các Nghị quyết Đài Loan và Trung Đông được thông qua dưới thời Eisenhower. “Thử thách mà chúng ta đối mặt ở Đông Nam Á ngày nay cũng chính là thử thách mà chúng ta đã dũng cảm đương đầu và đã vượt qua bằng sức mạnh ở Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ, ở Berlin và Triều Tiên, ở Liban và Cuba,” Johnson nói với công chúng Mỹ trong một bài phát biểu trên truyền hình đặt cuộc khủng hoảng ở Đông Dương trong bối cảnh Chiến tranh Lạnh. Ngày 7 tháng 8 năm 1964, Nghị quyết Đông Nam Á được thông qua tại Hạ viện với tỷ lệ 416-O và tại Thượng viện với tỷ lệ 98-2.
Phản ứng của Trung Quốc là tố cáo Hoa Kỳ, công khai tuyên bố ủng hộ Bắc Việt, và huy động hơn 20 triệu người Trung Quốc tham gia các cuộc biểu tình chống Mỹ. Bắt đầu từ giữa tháng 8, lực lượng không quân Trung Quốc di chuyển các đơn vị đến biên giới Trung-Việt. Trung Quốc bắt đầu xây dựng hai sân bay tại vùng biên giới. Trung Quốc đã hứa sẽ gửi quân nếu Hoa Kỳ xâm lược Bắc Việt.
Khi năm 1965 bắt đầu, tình hình ở Miền Nam tiếp tục xấu đi. Vào ngày 7 tháng 2, trong khi Cố vấn An ninh Quốc gia McGeorge Bundy đang ở Sài Gòn, Việt Cộng đã giết 8 cố vấn Mỹ trong một cuộc tấn công vào căn cứ quân sự của Miền Nam tại Pleiku. Trong Chiến dịch Flaming Dart, bốn mươi chín máy bay tiêm kích-ném bom của hải quân Hoa Kỳ đã tấn công một cơ sở quân sự của Bắc Việt tại Đồng Hới. Việt Cộng đã đáp trả bằng cách giết chết 23 lính Mỹ khi họ cho nổ tung một khách sạn ở Quy Nhơn.
Johnson và các cố vấn của ông hy vọng rằng các cuộc không kích chống lại Miền Bắc sẽ thuyết phục Hà Nội chấm dứt hỗ trợ cho cuộc nổi dậy ở Miền Nam, do đó việc triển khai lực lượng bộ binh của Hoa Kỳ sẽ không cần thiết. Chiến dịch Rolling Thunder (Sấm Rền), một chiến dịch ném bom miền bắc bắt đầu vào ngày 2 tháng 3 năm 1965, đã không đạt được kết quả này. Ngày 8 tháng 3, hai tiểu đoàn TQLC đến bảo vệ căn cứ Hoa Kỳ tại Đà Nẵng. Vài tuần sau, Johnson bác bỏ sự phản đối của Tướng Maxwell Taylor, lúc đó là Đại sứ Hoa Kỳ tại Sài Gòn, và gửi thêm hai tiểu đoàn và 18.000 quân hậu cần. Lính Mỹ bắt đầu tham gia vào các sứ mạng tìm-và-diệt. Trong khi đó, vào tháng 4 năm 1965, Johnson phái 28.000 quân tới Cộng hòa Dominica để đảm bảo rằng một cuộc nội chiến ở đó không tạo cơ hội cho Liên Xô và nước vệ tinh Cuba của họ lập tiền đồn mới ở Caribe.
Sau khi việc tạm dừng ném bom vào ngày 13 tháng 5 không thuyết phục được Hà Nội đàm phán, các cuộc ném bom lại tiếp tục. Yêu cầu khẩn cấp của Tướng William Westmoreland ở Miền Nam đã buộc Nhà Trắng phải đưa ra những quyết định cứng rắn. Thứ trưởng Ngoại giao George Ball, người từng cảnh báo về những khó khăn khi chiến đấu chống quân du kích, đã từ lâu chỉ trích việc Hoa Kỳ can dự vào Chiến tranh Lạnh trên toàn châu Á. Hầu hết các cố vấn mà Johnson thừa hưởng từ Kennedy, kể cả Bundy và Bộ trưởng Quốc phòng Robert McNamara, đều không sẵn lòng bỏ rơi các đồng minh Đông Dương của Mỹ cho khối cộng sản mà không đánh nhau.
Không chỉ có Việt Nam đang lâm nguy. Phần lớn hoặc toàn bộ Đông Nam Á dường như đang trên bờ vực sáp nhập vào một khối cực đoan, chống phương Tây do Trung Quốc và Indonesia lãnh đạo. Với sự khuyến khích của Mao, Sukarno, người đã áp dụng khẩu hiệu “Đè bẹp Mỹ,” đã rút ra khỏi Liên Hiệp Quốc và công bố thành lập một tổ chức đối lập, ¹¹Hội nghị các Lực lượng Mới Nổi Lên.” Phát biểu vào năm 1965 về trục “Djakarta – Phnom Penh – Hà Nội – Bắc Kinh – Bình Nhưỡng,” Sukarno dự đoán rằng Trung Quốc sẽ “giáng đòn quân đội Mỹ ở Việt Nam từ phía bắc trong khi Indonesia sẽ tiến đánh từ phía nam.” Viễn ảnh cộng sản lên nắm quyền ở Indonesia rồi liên kết với Trung Quốc của Mao khiến Hoa Kỳ, Anh và các đồng minh của họ trong khu vực, như Malaysia, Singapore, Thái Lan và Úc hoảng sợ. Thậm chí còn quan trọng hơn khả năng sụp đổ kiểu domino là uy tín của Mỹ như một siêu cường với các cam kết quân sự trên toàn thế giới đối với các đồng minh và các quốc gia lệ thuộc yếu ớt và đang gặp nguy hiểm. Hoa Kỳ đã bị khối Xô Viết sỉ nhục ở Berlin, Cuba và Lào; một cuộc rút lui khác đe dọa vừa khuyến khích Liên Xô và Trung Quốc, vừa làm mất tinh thần các đồng minh của Mỹ. Với lý do chính đáng, Sukarno đã tuyên bố năm 1965 là “năm sống trong nguy hiểm.”
Ngày 28 tháng 7, sau một cuộc tranh luận nội bộ về các lựa chọn ở chiến trường Đông Dương, chính quyền Johnson tuyên bố gửi thêm 125.000 quân tới Miền Nam . Trong bối cảnh của trận đấu Chiến tranh Lạnh cho Đông Nam Á, việc triển khai quân sự vẫn còn xa mới là quá mức. Vào cuối năm 1964, Anh, một cường quốc hạng hai, có nhiều binh lính ở phía đông Suez hơn ở châu Âu như một phần của lực lượng NATO. Để bảo vệ Malaysia chống lại sự lật đổ của Indonesia, Anh đã phái 30.000 quân. Năm 1964, Anh có 54.000 quân ở Đông Nam Á – nhiều hơn quân Mỹ ở Nam Việt Nam vào thời điểm đó. Chiến tranh biên giới của Sukarno với Malaysia đã dẫn đến việc triển khai 80 tàu từ Khối thịnh vượng chung Anh.
Leo Thang
Các lực lượng bộ binh của Hoa Kỳ bắt đầu giao tranh ác liệt với các đơn vị Việt Cộng vào cuối mùa hè và mùa thu năm 1965. Khi quân đội Hoa Kỳ tràn vào Miền Nam , tình trạng hỗn loạn chính trị ở Sài Gòn đã chấm dứt. Một cuộc đảo chính đã đưa hai sĩ quan quân đội, Nguyễn Cao Kỳ và Nguyễn Văn Thiệu lên nắm quyền, những người sẽ cai trị Miền Nam trong một thập niên cho đến khi nó sụp đổ.
Bắt đầu từ ngày Giáng sinh năm 1965, chính quyền Johnson đình chỉ ném bom Miền Bắc trong 37 ngày. Hoa Kỳ đã thực hiện 55.000 phi vụ tấn công các mục tiêu ở Bắc Việt. Trong cuộc tranh luận giữa chính quyền và quân đội Hoa Kỳ về chiến lược và chiến thuật, phe nhấn mạnh vào một cuộc chiến tranh theo lối quy ước đã giành chiến thắng trước phe chủ trương chiến lược nhấn mạnh đến “bình định hóa” hoặc chống nổi dậy. Các lực lượng Hoa Kỳ ở Đông Dương được tiếp tay bởi các lực lượng dự phòng từ các đồng minh khu vực của Hoa Kỳ, bao gồm Hàn Quốc, Úc, New Zealand và Philippines.
Ở Indonesia, hai triệu đảng viên Cộng sản rõ ràng được sự cổ vũ của Sukarno và Mao, đã phát động một cuộc đảo chính chống lại các nhà lãnh đạo quân sự chống cộng. Cuộc phản công của quân đội đã biến thành một cuộc thảm sát, trong đó khoảng hàng chục đến hàng trăm nghìn người bị xẻ thịt. Sukarno bị tước bỏ quyền lực và bị thay thế bởi Suharto, một vị tướng cai trị Indonesia cho đến năm 1998. Dưới thời Suharto, Indonesia cắt đứt quan hệ với Trung Quốc và thực hiện chính sách trung lập nghiêng về phía Hoa Kỳ. Giấc mơ của Mao về một Liên Hiệp Quốc Đỏ và một trục Bắc Kinh – Jakarta đã bị cản trở. Giờ đây, ông hướng nội, phát động cuộc Cách mạng Văn hóa, một cuộc thanh trừng cực đoan theo kiểu Stalin đã đẩy Trung Quốc vào tình trạng giống như thời nội chiến. Năm sống trong nguy hiểm là một năm khủng khiếp đối với Bắc Kinh.
Hoa Kỳ, Trung Quốc và Liên Xô hiện đang tham gia vào một cuộc xung đột ủy nhiệm dữ dội nhất trong Chiến tranh Lạnh kể từ sau Chiến tranh Triều Tiên. Trong khi Hoa Kỳ chiến đấu để không bị sỉ nhục với tư cách là người bảo vệ các quốc gia yếu kém, Trung Quốc và Liên Xô cạnh tranh với nhau để giành lấy vị thế trong khối cộng sản và khối các nước đang phát triển.
Giữa năm 1965 và 1968, Trung Quốc đã hỗ trợ rất nhiều cho Bắc Việt. Ngoài việc cung cấp cho Hà Nội các thiết bị quân sự và hàng hóa dân sự, chính phủ của Mao đã điều động các đội pháo binh phòng không đến phía bắc của Miền Bắc. Quan trọng hơn nữa, theo yêu cầu của Hà Nội, Trung Quốc đã gửi công binh đến sửa chữa và mở rộng hệ thống đường sắt Bắc Việt để nó không bị các cuộc ném bom của Mỹ vô hiệu hóa. Quân đội Trung Quốc cũng giải phóng quân chính quy Bắc Việt cho mặt trận Lào và tiếp tục vận chuyển hàng hóa theo Đường mòn Hồ Chí Minh. Từ tháng 6 năm 1965 đến cuối năm 1969, lực lượng hậu cần Trung Quốc đã xây dựng 20 nhà ga đường sắt mới, 39 cây cầu mới, 14 đường hầm và 117 km đường sắt mới và sửa chữa 362 km đường sắt hiện có. Tổng cộng, Trung Quốc đã gửi 327.000 quân đến Bắc Việt. Như nhà sử học Chen Jian đã nhận xét, “mặc dù sự hỗ trợ của Bắc Kinh có thể không đáp ứng được kỳ vọng của Hà Nội, nhưng nếu không có sự hỗ trợ đó, thì lịch sử, thậm chí cả kết quả, của Chiến tranh Việt Nam có thể đã khác.”
Tháng 10 và 11 năm 1966, nhân vật số hai trong chế độ Hồ Chí Minh, Lê Duẩn, hội đàm với các nhà lãnh đạo Trung Quốc tại Bắc Kinh. Chu Ân Lai kêu gọi người Việt tiếp tục cuộc chiến ít nhất cho đến năm 1968. Sáu tháng sau, vẫn còn lo lắng rằng Bắc Việt sẽ đàm phán với Hoa Kỳ, các quan chức Trung Quốc khăng khăng yêu cầu Võ Nguyên Giáp và Phạm Văn Đồng trao cho họ một “lời hứa long trọng” rằng họ sẽ không kết thúc chiến tranh.
Tuy nhiên, để tiếp tục chiến tranh, Bắc Việt cần vũ khí và thiết bị mà Trung Quốc không thể cung cấp. Đồng và Giáp dẫn đầu một phái đoàn khác đến Moscow vào tháng 4 năm 1967.
Dù nghi ngại, Liên Xô đã chọn tiếp tế cho Bắc Việt, vì sợ rằng nếu từ chối sẽ dẫn đến sự gia tăng ảnh hưởng của Trung Quốc đối với Hà Nội. Thật vậy, Liên Xô đã vượt qua Trung Quốc để trở thành nhà cung cấp viện trợ quân sự lớn nhất cho Bắc Việt. Từ năm 1964 đến 1974, viện trợ cho Miền Bắc chiếm 50% viện trợ của Liên Xô cho các chế độ vệ tinh cộng sản (phần còn lại chủ yếu được chia cho Cuba và Bắc Triều Tiên).
Có tới ba nghìn cố vấn Liên Xô đã tham gia Chiến tranh Việt Nam từ năm 1965 đến năm 1968. Họ hướng dẫn các binh sĩ Bắc Việt cách sử dụng vũ khí và thiết bị do Liên Xô cung cấp, bố trí người cho các hệ thống phòng không đặt trên mặt đất, và tham gia các hoạt động chiến đấu chống lại người Mỹ và Miền Nam. Chính phủ Liên Xô cẩn thận che giấu mức độ can dự của mình vào Đông Dương, cấm nhân viên Liên Xô và gia đình họ tiết lộ về điểm đến của đơn vị họ. Những người lính đến Việt Nam mặc quần áo dân sự và khi đến nơi thì mặc quân phục Việt Nam. (Trong Chiến tranh Triều Tiên, các phi công Liên Xô và các “tình nguyện viên” quân sự khác đã mặc đồng phục Trung Quốc hoặc Triều Tiên.) “Người Mỹ biết quá rõ rằng các máy bay Việt Nam do Liên Xô thiết kế thường do các phi công Liên Xô lái,” cựu đại tá Liên Xô Alexei Vinogradov đã viết. Trong Chiến tranh Việt Nam, cũng như trước đó trong Chiến tranh Triều Tiên, chính phủ Hoa Kỳ đã giữ bí mật mức độ tham gia của quân đội Liên Xô để áp lực dư luận không gây khó khăn trong việc hạn chế cuộc chiến tranh ủy nhiệm này.
Cuộc chiến giữa Israel và các nước láng giềng nổ ra vào ngày 5 tháng 6 năm 1967 đã làm gia tăng căng thẳng giữa Mỹ và Liên Xô hơn nữa. Tại một hội nghị thượng đỉnh nhỏ ở Glassboro, New Jersey, vào ngày 23 tháng 6 năm 1967, thủ tướng Liên Xô Aleksei Kosygin đã thông qua lời đề nghị của Hà Nội là quay trở lại bàn đàm phán nếu ngừng ném bom (một số sáng kiến ngoại giao của Hoa Kỳ, dán nhãn “Mayflower”, “Marigold” và “Sunflower” đã không thành công). Thông qua Liên Xô, Johnson trả lời rằng Hoa Kỳ sẽ xem xét việc ngừng ném bom, nhưng sẽ tiếp tục nếu các cuộc đàm phán thất bại.
Vào mùa thu năm 1967, sự ủng hộ của công chúng đối với Chiến tranh Việt Nam ở Hoa Kỳ đã xuống mức thấp một cách nguy hiểm. Phong trào phản chiến nhỏ, do những người cánh tả cực đoan và những người chủ hòa lãnh đạo, đã thất bại trong việc thuyết phục công chúng Mỹ rằng chiến tranh là vô đạo đức; thực ra, luận điệu chống Mỹ của nhiều nhà hoạt động phản chiến đã tạo ra một phản ứng ngược dữ dội mà từ đó các chính trị gia bảo thủ sẽ kiếm được lợi ích trong nhiều thập niên. Thay vào đó, mức ủng hộ cho cuộc chiến đã giảm như là một hậu quả của số lượng thương vong gia tăng với tốc độ tương đương với tốc độ đã giảm trong Chiến tranh Triều Tiên. Trước sự ủng hộ ngày càng giảm của công chúng và bị phe cánh tả của Đảng Dân chủ thách thức, Tổng thống Johnson trong một bài phát biểu tại San Antonio vào ngày 27 tháng 9 năm 1967, đã rút lại lời khẳng định trước đó rằng ông sẽ ngừng ném bom chỉ để đổi lấy các cuộc đàm phán và lời yêu cầu Bắc Việt chấm dứt xâm nhập Miền Nam.
Nhưng Hà Nội đã lên kế hoạch tấn công và nổi dậy ở Miền Nam. Kế hoạch này đi ngược lại mong muốn của Trung Quốc về một cuộc chiến tranh du kích quy mô nhỏ và lâu dài, nhưng Miền Bắc đã tranh thủ được viện trợ quân sự bổ sung và tuyên bố hậu thuẫn từ Moscow. Nhà sử học Ilya V. Gaiduk viết rằng “lần đầu tiên kể từ khi Liên Xô bắt đầu hỗ trợ toàn diện cho Hà Nội, một thông cáo thậm chí còn nêu rõ loại hỗ trợ quân sự nào được cung cấp… Sự tuyên bố công khai như thế về sự hỗ trợ toàn diện chưa từng có tiền lệ đối với Moscow trong mối quan hệ với các đồng minh và các nước ủy nhiệm.”
Ngày 30 tháng 1 năm 1968, trong dịp Tết Nguyên Đán, Việt Cộng mở đợt tổng công kích, đánh phá khắp Miền Nam , tấn công dinh tổng thống và bộ tổng tham mưu tại chính Sài Gòn. Lực lượng Hoa Kỳ và các đồng minh Miền Nam đã tập hợp lại và tiêu diệt quân nổi dậy. Tại thành phố Huế, quân cộng sản đã bị đánh bại chỉ sau ba tuần khủng bố tàn khốc. Sau khi chiếm lại Huế, thi thể của gần 3.000 thường dân Miền Nam, bị Việt Cộng tra tấn và hành quyết, được tìm thấy trong các hố chôn tập thể.
Thất bại của cuộc tổng công kích Tết Mậu Thân là một thất bại quân sự thảm hại đối với cộng sản. Tuy nhiên, cuộc tấn công Tết Mậu Thân được coi là một thất bại đối với Hoa Kỳ. Một lý do là xu hướng loan tin giật gân của các nhà báo phương Tây, những người đã nhào nặn cho công chúng Mỹ một ấn tượng sai lệch về sức mạnh và mức độ được lòng dân của Việt Cộng. Nhưng một lý do quan trọng hơn là sự kiện các báo cáo lạc quan của Tướng Westmoreland từ Miền Nam đã bị mất uy tín. Cuộc chiến là có thể chiến thắng – nhưng chiến thắng vượt quá cái giá mà công chúng Mỹ chấp nhận được.
Để Mất Đông Dương
Cuộc tấn công Tết Mậu Thân đã gây ra tình trạng hỗn loạn chính trị ở Hoa Kỳ. Thượng nghị sĩ Eugene McCarthy, một người chỉ trích chiến tranh, đã suýt đánh bại Tổng thống Johnson trong cuộc bầu cử sơ bộ tổng thống của đảng Dân chủ vào ngày 12 tháng 3 tại New Hampshire. Cũng trong tháng 3 năm 1968, Clark Clifford, vốn hoài nghi về chiến tranh từ lâu, đã thay thế Robert McNamara làm Bộ trưởng Quốc phòng, và Tướng Westmoreland được bổ nhiệm lại làm Tham mưu trưởng Lục quân. Vào ngày 31 tháng 3, sau khi được “Những người thông thái” – một nhóm các chính khách lớn tuổi trong đó có cựu Ngoại trưởng Dean Acheson – khuyên rằng chiến tranh phải được chấm dứt, Johnson phát biểu rằng mình sẽ không tái tranh cử và tuyên bố ngừng ném bom. Vào ngày 10 tháng 5, các cuộc đàm phán hòa bình bắt đầu ở Paris. Vào mùa thu, cử tri Mỹ – mệt mỏi vì chiến tranh, nhưng chán ghét chủ nghĩa bài Mỹ của bọn cực đoan phản chiến như những kẻ đã xúi giục cảnh sát bạo loạn tại Đại hội Đảng Dân chủ 1968 ở Chicago – bầu Richard Nixon làm tổng thống. (Ban lãnh đạo Liên Xô, lo sợ về kết quả này, đã khuyên Bắc Việt rằng họ sẽ có lợi khi giúp đỡ phe Hubert Humphrey bằng cách làm ra vẻ rằng hòa bình đã gần kề.)
Khi nhậm chức, Nixon bắt đầu cuộc tìm kiếm gian khổ “một nền hòa bình trong danh dự” ở Đông Dương. Chiến lược của ông kết hợp áp lực quân sự lên Hà Nội với những nỗ lực khuyến khích Moscow và Bắc Kinh xa rời đàn em của họ.
Hai tháng sau khi vào Nhà Trắng, Nixon ra lệnh đánh bom các căn cứ địa cộng sản tại Campuchia. Ông hoàng Sihanouk chấp thuận, với điều kiện phải giữ bí mật và các khu vực đông dân cư của Campuchia sẽ không bị ảnh hưởng. Năm 1970, Sihanouk bị lật đổ, và chế độ thân Mỹ mới của Tướng Lon Nol ra lệnh cho quân chiếm đóng Bắc Việt rời khỏi đất nước mình. Nixon đã tận dụng cơ hội này bằng cách ra lệnh một cuộc tấn công kéo dài hai tháng của Mỹ vào Campuchia để tìm kiếm các bộ chỉ huy của Cộng sản ở Miền Nam và phân tán mỏng quân đội Bắc Việt. Bắc Việt phản ứng bằng cách chiếm đóng phần lớn Campuchia và giúp Khmer Đỏ của Pol Pot chống lại lực lượng của Lon Nol.
Chiến dịch ném bom của Nixon ở Campuchia và Miền Nam đi đôi với việc rút quân của Hoa Kỳ và “Việt Nam hóa” chiến tranh. Đến cuối năm 1970, 280.000 lính Mỹ đã ra đi; chỉ còn lại 140.000 người vào cuối năm 1971. Tinh thần của binh lính Hoa Kỳ sa sút, không ai trong số họ muốn trở thành nạn nhân cuối cùng. Đồng thời, Việt Nam hóa đã được chứng minh là có giá trị đáng ngờ vào tháng 2 năm 1971, khi quân đội Miền Nam thất bại trong nỗ lực cắt đứt Đường mòn Hồ Chí Minh ở Lào.
Quốc hội, vốn từng đã do dự thách thức các đời tổng thống Johnson, Nixon khi binh sĩ còn đang chiến đấu trên chiến trường, giờ trở nên cứng rắn hơn trong việc ban hành luật chế tài khi tổng số quân giảm dần. Ngày 12-1-1971, Quốc hội bãi bỏ Nghị quyết Đông Nam Á; cùng ngày Tổng thống Nixon đã ký Tu chính án Cooper-Church, cấm sử dụng lực lượng bộ binh Hoa Kỳ tại Campuchia. Ngày càng có nhiều “con cú” ôn hòa, lo sợ về những phí tổn của Chiến tranh Việt Nam đối với các cam kết quân sự khác của Hoa Kỳ và nền kinh tế, đã gia nhập phe “bồ câu” phản chiến để ủng hộ việc Mỹ nhanh chóng rút khỏi Đông Dương.
Chính quyền Nixon đã cố gắng cân bằng Việt Nam hóa chiến tranh với nỗ lực khai thác sự chia rẽ giữa các ông chủ bảo trợ của Hà Nội ở Moscow và Bắc Kinh. Cuộc xâm lăng của Liên Xô vào Tiệp Khắc vào năm 1968, mà hầu như không tạo ra bất kỳ phản ứng nào từ phương Tây, được Mao lý giải là Moscow đã tái khẳng định quyền hành trong toàn khối cộng sản. Vào tháng 9 năm 1971, sau nhiều năm lo sợ về chiến tranh Trung-Xô, người thừa kế được chỉ định của Mao, Lâm Bưu, đã chết trong một vụ tai nạn máy bay bí ẩn khi ông cố gắng đào thoát sang Liên Xô sau khi bị cáo buộc âm mưu với quân đội Trung Quốc để lật đổ Mao.
Những diễn biến này khiến Nixon có thể mở cửa một cách ngoạn mục với Trung Quốc và làm một chuyến đến Bắc Kinh vào tháng 2 năm 1972. Tuy nhiên, việc Trung-Mỹ xích lại gần nhau đã không truyền cảm hứng cho Trung Quốc chấm dứt hỗ trợ Miền Bắc. Việc Nixon tán tỉnh giới lãnh đạo Liên Xô cũng không mang lại kết quả tại chiến trường Đông Dương. Thật vậy, vào tháng 10 năm 1971, Liên Xô, lo sợ sự thông đồng Trung-Mỹ, đã cử Nikolai Podgorny đến Hà Nội, nơi ông đề xuất một liên minh giữa Liên Xô và Bắc Việt chống lại Trung Quốc. Vào mùa xuân năm 1972, Moscow tăng cường viện trợ quân sự, gửi xe tăng T-54 và pháo tầm xa cùng các vũ khí khác đến Bắc Việt qua cảng Hải Phòng. Vài tháng sau, mức viện trợ vũ khí của Liên Xô lên đến đỉnh cao thứ hai trong chiến tranh (đỉnh cao trước đây là vào năm 1967).
Do đó, được Moscow khuyến khích và trang bị vũ khí, Bắc Việt đã phát động cuộc tấn công Phục sinh, chiếm được thủ phủ tỉnh Quảng Trị của Miền Nam và đe dọa các khu vực trọng điểm khác. Nixon đã ngăn chặn cuộc xâm lược bằng Chiến dịch Linebacker, chiến dịch ném bom đầu tiên của Hoa Kỳ xuống Miền Bắc kể từ khi Johnson đình chỉ ném bom vào năm 1968. Ngoại giao khéo léo của Nixon đã đảm bảo rằng phản ứng của Trung Quốc sẽ tắt ngấm và hội nghị thượng đỉnh giữa Nixon và nhà lãnh đạo Liên Xô Leonid Brezhnev sẽ diễn ra .
Tháng 10 năm 1972, Cố vấn An ninh Quốc gia Henry Kissinger và Lê Đức Thọ, lãnh đạo phái đoàn Bắc Việt tại hòa đàm Paris, đạt được thỏa thuận sơ bộ. Mặc dù Kissinger đã tuyên bố rằng hòa bình đã ở trong tầm tay, nhưng Tổng thống Thiệu ở Sài Gòn ngờ vực, và Bắc Việt đã đình chỉ các cuộc đàm phán. Nixon liền tung ra 11 ngày ném bom ác liệt vào Miền Bắc , đưa Miền Bắc trở lại bàn đàm phán, nhưng lại cho phép các đối thủ cánh tả và tự do của Nixon trong giới truyền thông và Quốc hội Mỹ miêu tả ông ta như một tội phạm chiến tranh. Ngày 27-1-1973, hiệp định hòa bình chấm dứt chiến tranh được ký kết tại Paris
Ngày 29 tháng 3 năm 1973, các đơn vị Mỹ cuối cùng rời khỏi Việt Nam.
Trong cuộc chiến tranh ủy nhiệm lần thứ hai của Mỹ ở châu Á trong Chiến tranh Lạnh, Hoa Kỳ đã mất số binh sĩ (58.000) tương đương với số binh sĩ thiệt mạng ở Triều Tiên (56.000). Nhưng Hoa Kỳ đã để lại hàng chục ngàn quân để bảo vệ Nam Triều Tiên khỏi miền Bắc cộng sản. Ngược lại, Hoa Kỳ đã bỏ rơi đồng minh yếu ớt Miền Nam phải tự vệ một mình.
Cái mà Nixon gọi là “hòa bình trong danh dự” hóa ra không phải là hòa bình cũng chẳng phải là danh dự. Hiệp định Paris là một hành động đầu hàng Hà Nội được ngụy trang mỏng manh. Quân chính quy Bắc Việt được phép ở lại các khu vực ở Miền Nam mà họ đã kiểm soát. Đầu tiên bị suy yếu và sau đó bị lật tẩy bởi vụ bê bối Watergate, Nixon đã không thể thực hiện lời cam kết bí mật với Tổng thống Thiệu rằng Hoa Kỳ sẽ giải cứu chế độ bằng cách sử dụng không lực nếu cần thiết.
Trong khi phe Dân chủ chiếm đa số trong Quốc hội Hoa Kỳ từ chối cung cấp mức viện trợ mà chính quyền Nixon và Ford yêu cầu, Liên Xô đã tăng cường viện trợ cho Bắc Việt, cung cấp cho các lực lượng ủy nhiệm của họ những vũ khí tối tân, bao gồm cả xe tăng chiến đấu hiện đại và súng phòng không. Vào cuối năm 1974, Hà Nội bắt đầu tấn công nhằm dọn đường cho một cuộc tổng tấn công cuối cùng. Trước sự bất ngờ của Hà Nội, sức kháng cự nhanh chóng sụp đổ, và trong khi Tổng thống Thiệu và các nhà lãnh đạo miền Nam khác bỏ chạy khỏi đất nước một cách nhục nhã, thì quân đội Bắc Việt nhanh chóng tràn vào Miền Nam. Vào ngày 17 tháng 4 năm 1975, Khmer Đỏ, những người hưởng lợi từ cuộc chiến của quân đội Bắc Việt chống lại quân đội Campuchia, đã lên nắm quyền ở Campuchia. Hai tuần sau, vào ngày 30 tháng 4, Sài Gòn rơi vào tay quân đội Bắc Việt, khi quân nhân Mỹ và người Miền Nam tuyệt vọng tìm cách di tản trong hoảng loạn cuống cuồng. Miền Nam, bị vượt trội về quân số và vũ trang, thất thủ, nhưng không phải trước một cuộc tổng nổi dậy của nhân dân, mà trước một trong những quân đội lớn nhất và thiện chiến nhất thế giới, được hai nhà nước toàn trị hùng mạnh nhất kể từ thời Đức Quốc xã trang bị.
Nước Mỹ Rút Lui
Việc xáp nhập tàn bạo Miền Nam nhanh chóng theo sau bởi việc tiếp quản tất cả các khía cạnh của đời sống chính trị, văn hóa và xã hội. Hàng trăm ngàn sĩ quan và viên chức Miền Nam bị gom lại và ném vào các “trại cải tạo”; một con số không xác định đã bị hành quyết ngay lập tức. Các thành viên miền nam cao cấp của Mặt trận Dân tộc Giải phóng bỗng thấy mình bị đẩy sang một bên nhường chỗ cho các quan chức cộng sản từ Miền Bắc vào, những người đã tiếp quản biệt thự và điền trang của giới thượng lưu Sài Gòn và tự biến mình thành một giai cấp thống trị mới tham nhũng và chuyên quyền.
Ở Đức, Trung Quốc, Cuba và các quốc gia khác nơi người cộng sản lên nắm quyền, hàng nghìn công dân đã bỏ phiếu bằng chân bằng cách chạy tị nạn ra nước ngoài. Nhà nước Đông Đức đã phải tự xây tường để ngăn các thần dân của mình đào thoát. Vào những năm 1950, gần một triệu người Miền Bắc đã chạy trốn khỏi chế độ đàn áp của Hồ Chí Minh để vào vùng đất tương đối tự do Miền Nam. Giờ đây, khi những người kế vị Hồ đã củng cố quyền kiểm soát của họ trên toàn bộ đất nước, một trong những cuộc xuất hành đồ sộ nhất vào cuối thế kỷ XX bắt đầu. Vào giữa những năm 1990, hơn 750.000 người Việt Nam đã trốn sang Hoa Kỳ và hơn một triệu người sống ở các nước phương Tây khác. Một số lớn cũng trốn sang Trung Quốc và các nước khác trong khu vực. Không có cuộc chiến tranh nào ở Đông Dương tạo ra nhiều người tị nạn ở nước ngoài trong thời bình như dưới sự cai trị của cộng sản đã tạo ra. Một thảm họa thậm chí còn lớn hơn đã xảy ra ở Campuchia, nơi Khmer Đỏ, lấy cảm hứng từ phiên bản cực tả của Mao về chủ nghĩa Mác-Lê, đã thực hiện một chiến dịch tập thể hóa tàn bạo, trong đó khoảng một phần tám đến một phần tư dân số Campuchia bị hành quyết đến chết hoặc chết đói.
Chiến thắng của các lực lượng ủy nhiệm Việt Nam và nỗi nhục nhã và tình trạng tê liệt của Hoa Kỳ trong chính sách đối ngoại sau sự sụp đổ của Sài Gòn đã khiến giới lãnh đạo Liên Xô táo bạo hơn trong chiến dịch giành ảnh hưởng ở Châu Á, Châu Phi, Trung Đông và Châu Mỹ Latinh. Kế thừa đế chế cũ của Pháp ở Đông Dương, Liên Xô giờ đây đã nhặt nhạnh những mảnh vỡ của đế chế Bồ Đào Nha cũ ở Châu Phi. Vào cuối nhiệm kỳ của chính quyền Carter, Liên Xô đã cử khoảng 50.000 cố vấn quân sự đến các nước thuộc Thế giới thứ ba. Vào những năm 1960, các nhà nước duy nhất bên ngoài Đông Âu và Trung Quốc với “các đảng tiên phong” theo chủ nghĩa Mác-Lê là Mông Cổ, Bắc Việt Nam, Bắc Triều Tiên và Cuba. Đến những năm 1980, các chế độ này đã tiếp thêm các chính quyền Lênin-nit thân Nga ở Afghanistan, Angola, Ethiopia, Mozambique, Nam Yemen, Benin và Congo-Brazzaville, cùng với các chế độ liên kết lỏng lẻo ở Zaire, Guinea-Bissau, Cape Verde và Madagascar. Để mở rộng ảnh hưởng của mình ở Thế giới Thứ ba, Liên Xô đã dựa vào các lực lượng phụ trợ từ đế chế của họ. Cơ quan An ninh Nhà nước Đông Đức đã giúp các chế độ thân Liên Xô như Angola, Ethiopia, Libya, Mozambique, Zambia và Nam Yemen thiết lập các hệ thống an ninh nội bộ. Nhân viên Cuba đã huấn luyện đội cận vệ của các nhà độc tài và sĩ quan an ninh nội địa ở một số nước thuộc Thế giới thứ ba, bao gồm Angola, Nicaragua và Ethiopia. Trong khi đó, việc xây dựng quân đội của Liên Xô bắt đầu sau cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba vẫn tiếp tục không suy giảm. Trong những năm 1960 và 1970, các nhà phê bình cho rằng CIA, cơ quan ước tính rằng 12 đến 16% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Liên Xô được dành cho quân đội, đã phóng đại quá mức quy mô xây dựng quân lực của Liên Xô. Sau Chiến tranh Lạnh, người ta biết rằng CIA thực ra đã đánh giá thấp chi tiêu quân sự của Liên Xô, chinh xác lên tới 25% GDP của Liên Xô.
Vào giữa những năm 1970, vị thế của Hoa Kỳ trên thế giới đã suy giảm nghiêm trọng. Sự yếu kém của Hoa Kỳ, thể hiện rõ trong việc từ bỏ Đông Dương, càng được thể hiện rõ hơn vào tháng 10 năm 1973, khi tất cả các đồng minh châu Âu của Hoa Kỳ ngoại trừ Bồ Đào Nha từ chối cho phép Hoa Kỳ sử dụng các sân bay của họ để tiếp tế cho Israel trong Chiến tranh Ả Rập-Israel. Hệ thống tỷ giá hối đoái cố định Bretton Woods đã bị chính quyền Nixon từ bỏ, chính quyền này đã đưa Hoa Kỳ ra khỏi chế độ kim bản vị. Lệnh cấm vận dầu mỏ của OPEC, được thực hiện mà không sợ bị Mỹ trừng phạt, đã gây tổn hại cho nền kinh tế của Hoa Kỳ và các nền dân chủ công nghiệp khác. Hiệp ước Helsinki đã phê chuẩn tính hợp pháp của đế chế Đông Âu mà Stalin đã tạo ra và chỉ duy trì được sau các cuộc xâm lược của Liên Xô vào năm 1953, 1956 và 1968. Một đa số các nước ủng hộ Liên Xô đã hình thành trong Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc.
Chính quyền Carter bị chia rẽ giữa một thiểu số những người theo đường lối cứng rắn chống Liên Xô, chẳng hạn như cố vấn An ninh Quốc gia Zbigniew Brzezinski, và đa số những người theo chủ nghĩa tự do chống Chiến tranh Lạnh, chẳng hạn như Ngoại trưởng Cyrus Vance, người đã nhún vai coi thường chủ nghĩa đế quốc của Liên Xô thông qua các lực lượng ủy nhiệm của Cuba ở Thế giới thứ ba và từ chức để phản đối khi Tổng thống Carter sử dụng vũ lực trong một nỗ lực thất bại để giải cứu con tin người Mỹ ở Iran. Đại sứ Liên Hiệp Quốc của Carter, Andrew Young, thậm chí còn mô tả các lực lượng hỗ trợ Cuba của Moscow ở Châu Phi là một “ảnh hưởng tạo ổn định”. Cựu tổng thống Lyndon Johnson, qua đời vì một cơn đau tim vào năm 1973, đã không sống để chứng kiến những cơn ác mộng tồi tệ nhất của mình trở thành hiện thực: Hoa Kỳ rút lui trên khắp thế giới trước một đế chế Xô Viết đang tiến tới, tình trạng gần như sụp đổ của liên minh NATO vì những ngờ vực về uy tín Hoa Kỳ, và một cuộc chiến tranh ủy nhiệm giữa Hoa Kỳ và các đàn em của Liên Xô và Cuba ở Nicaragua, một vệ tinh Xô Viết tại lục địa Bắc Mỹ.
Trong khi Liên Xô mở rộng quyền lực và ảnh hưởng của mình trên khắp thế giới sau vụ thất thủ của Sài Gòn, thì ở Đông Dương, tình hình lại thay đổi liên tục. Trung Quốc, mất ảnh hưởng đối với Việt Nam, đã tài trợ cho Khmer Đỏ trong các cuộc xung đột biên giới với Việt Nam. Sau một thời gian ngắn quan hệ xấu đi, liên minh Xô-Việt đã hồi sinh trong các cuộc gặp ở Moscow vào tháng 5 và tháng 6 năm 1977. Đầu năm 1978, Giáp bí mật sang Lào, tại đây ông hỏi ý kiến Tướng G. Pavlovsky, tư lệnh bộ binh Liên Xô ở Đông Dương, Hà Nội nên làm gì về tình hình Campuchia. Pavlovsky đề nghị Hà Nội nên “làm một Tiệp Khắc.” Vào tháng 8 năm 1978, Liên Xô bắt đầu cung cấp cho Việt Nam thiết bị để sử dụng trong cuộc xâm lược Campuchia, và tăng số lượng cố vấn Liên Xô ở Đông Dương từ 2.000 lên 3.500. Ngày 3 tháng 11 năm 1978, Hà Nội đã ký Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác 25 năm với Liên Xô. Được đảm bảo sự hậu thuẫn như thế, ngày 18 tháng 12 năm 1978 Việt Nam xâm lăng Campuchia, và chiếm được Phnom Penh không đầy một tháng sau đó. Khmer Đỏ bỏ chạy về biên giới Thái Lan, nơi họ và các nhóm khác chiến đấu với quân chiếm đóng Việt Nam đã nhận được sự hỗ trợ từ Trung Quốc, Hoa Kỳ và Thái Lan. Ngày 17 tháng 2 năm 1979, Trung Quốc xâm lược các tỉnh biên giới phía bắc Việt Nam và gánh chịu tổn thất nặng nề trước khi rút quân sau 16 ngày xâm lược. Xung đột Trung-Việt và việc Việt Nam chiếm đóng Campuchia đã truyền cảm hứng cho sự leo thang viện trợ quân sự lớn nhất của Liên Xô từ trước đến nay. Vào thời kỳ đỉnh cao, nó đã vượt quá mức viện trợ của Liên Xô dành cho Bắc Việt trong cuộc chiến tranh với Hoa Kỳ. Ngoài việc hiện đại hóa lực lượng không quân và hải quân Việt Nam, Moscow còn cung cấp nhân sự Xô Viết và viện trợ hậu cần cho việc chiếm đóng Campuchia. Các hoạt động ở Campuchia phụ thuộc vào các phi công Liên Xô, và hàng trăm binh sĩ và thường dân Liên Xô dỡ hàng tiếp tế của khối Liên Xô tại các cảng của Việt Nam. Để đổi lại việc hỗ trợ cộng sản Việt Nam thực hiện được việc thống nhất toàn bộ Đông Dương, Liên Xô được phép tiếp cận các cơ sở quân sự của Việt Nam. Căn cứ của Liên Xô tại Vịnh Cam Ranh trở thành cơ sở quân sự lớn nhất và quan trọng nhất của Liên Xô bên ngoài Đông Âu.
Đến giữa những năm 1980, quân đội Việt Nam được Liên Xô trợ cấp có đến hơn 1 triệu lính chính quy và hai triệu lính bán quân sự bổ sung, là lực lượng quân sự lớn thứ ba trên thế giới, sau Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc và các lực lượng vũ trang Liên Xô. Người dân Việt đã phải trả giá đắt cho chủ nghĩa quân phiệt của những nhà cai trị độc tài của họ. Vào cuối những năm 1970, hệ thống nông nghiệp xã hội chủ nghĩa của Việt Nam đang trên bờ vực sụp đổ. Mặc dù có những cải cách nhỏ theo định hướng thị trường vào năm 1979 và 1980, nhưng chỉ có viện trợ khổng lồ của Liên Xô mới giúp Việt Nam không chìm trong nạn đói như hai quốc gia chư hầu khác của Liên Xô: Ethiopia theo chủ nghĩa Mác-Lê của Mengistu vào những năm 1980 và Bắc Triều Tiên vào những năm 1990.
Chiến tranh Lạnh lần thứ hai,
Ở Afghanistan, một cuộc đảo chính năm 1978 đã đưa một chế độ thân Liên Xô lên nắm quyền, sau đó là một cuộc nội chiến và cuộc xâm lược của Liên Xô vào ngày 27 tháng 12 năm 1979. Khối Xô Viết lúc này đang ở đỉnh cao quyền lực toàn cầu. Trong khi Liên Xô tham gia vào cuộc chiến toàn diện đầu tiên bên ngoài đế chế Đông Âu kể từ năm 1945, các phó vương Việt Nam của họ đang chinh phục Đông Dương và các lực lượng ủy nhiệm của Cuba đang chiến đấu ở Châu Phi và khuyến khích các cuộc nổi dậy ở Trung Mỹ và sự liên kết của chế độ độc tài Sandinista ở Nicaragua với khối Xô viết.
Cuộc xâm lược Afghanistan, cùng với việc nghiền nát phong trào lao động chống cộng có tên Công đoàn Đoàn kết bằng lệnh thiết quân luật ở Ba Lan vào năm 1981, đã giúp củng cố tình cảm chống Liên Xô ở phương Tây. Những người bảo thủ chống cộng lên nắm quyền ở các quốc gia lớn của Cộng đồng Đại Tây Dương – Margaret Thatcher ở Anh (1979), Ronald Reagan ở Hoa Kỳ (1981) và Helmut Kohl ở Tây Đức (1983). Trước sự phản đối của những người cánh tả ở nước họ, các nhà lãnh đạo phương Tây, bao gồm cả tổng thống xã hội chủ nghĩa của Pháp François Mitterrand, đã triển khai tên lửa NATO để chống lại mối đe dọa đáng sợ từ tên lửa tầm trung của Liên Xô. Dưới thời Reagan, Hoa Kỳ đã từ bỏ chính sách hòa hoãn của thời Nixon – Kissinger và chính sách dao động và nhân nhượng của Carter, trở lại một cái gì đó giống như chính sách Truman-Kennedy-Johnson về ngăn chặn quân sự toàn cầu của khối Liên Xô. Tăng cường quân sự của Reagan, hỗ trợ quân nổi dậy chống cộng sản ở Afghanistan, Nicaragua, Angola, và những nơi khác, và cuộc chiến ý thức hệ không khoan nhượng (bao gồm cả sự mô tả chính xác nhưng bị chế nhạo của ông về Liên Xô như một “đế chế tà ác”), đã thành công trong việc thúc đẩy hệ thống Xô Viết đến thời điểm mà các nhà lãnh đạo Liên Xô phải lựa chọn giữa rút lui và phá sản. Chính sách rút lui do nhà lãnh đạo Liên Xô Mikhail Gorbachev lựa chọn vào những năm 1980 không đủ để ngăn chặn sự sụp đổ kinh tế của Liên Xô.
Năm 1989, dưới áp lực của Moscow, Hà Nội tuyên bố rút quân khỏi Campuchia. Kinh hoàng trước các cuộc cách mạng dân chủ đang càn quét Đông Âu, những người theo chủ nghĩa Stalin già nua ở Hà Nội đã thẳng tay đàn áp những người bất đồng chính kiến ở chính đất nước của họ. Việt Nam, được Trung Quốc gọi là “Cuba châu Á” do sự phụ thuộc của nước này vào Moscow, đã thấy mình bị trôi dạt khi Liên Xô tan rã vào năm 1991. Các nhà cầm quyền theo chủ nghĩa Mác-Lê tiếp tục nắm quyền ở Việt Nam cũng như ở Trung Quốc, Bắc Triều Tiên, Lào và Cuba. Nhưng chủ nghĩa cộng sản, với tư cách là một đức tin chiến đấu, đã tàn lụi. Và chiến tranh thế giới thứ ba cuối cùng đã kết thúc.
Người thắng và người thua ở Việt Nam
Ai thắng ai thua trong chiến tranh Việt Nam?
Những người duy nhất thua cuộc hoàn toàn là các quan chức của Miền Nam, nhà nước của họ đã bị xóa khỏi bản đồ thế giới. Những người cộng sản Bắc Việt đã thắng, nhưng phải trả giá bằng sự phá sản và cô lập khi nhà tài trợ của họ là Liên Xô sụp đổ.
Người dân Việt Nam nói chung là kẻ thua cuộc. Tổn thất của khoảng hai triệu người Việt Nam ở cả hai bên, và sự tàn phá của phần lớn cảnh quan, tiếp theo là sự áp đặt hệ thống Stalin-nít tàn bạo và phi lý của Miền Bắc mở rộng cho toàn quốc vào năm 1975. Mọi người dân Việt đều phải cam chịu từ thắng lợi của cộng sản – những người ở lại và gần hai triệu người trốn thoát. Dân Lào lâm vào cảnh ngộ tương tự. Đau thương khủng khiếp nhất rơi xuống đầu nhân dân Campuchia, phải chịu đựng cuộc tàn sát tập thể và nạn đói quy mô lớn dưới ách cai trị của cộng sản Campuchia.
Trong số các cường quốc chủ yếu từng can thiệp vào Đông Dương trong thời Chiến tranh Lạnh, Pháp, Hoa Kỳ, Trung Quốc, tất cả đều thua trận. Pháp hi sinh gần 100.000 quân và còn đánh mất đế chế Đông Á, mà nhờ đó vị thế cường quốc của Pháp sau Thế chiến II phần nào có cơ sở. Trung Quốc phát hiện quá muộn màng vì việc giúp đỡ Hà Nội, họ đã tạo ra một đồng minh cho Liên Xô đáng ghét ở biên giới của mình.
Về phần mình, Hoa Kỳ đã phải gánh chịu một thảm bại nặng nề. Trong trò chơi tiếng tăm có tổng bằng không của trật tự thế giới lưỡng cực, thất bại của Washington chính là thắng lợi của Moscow. Đồng thời, cái giá phải trả về số người thương vong của Mỹ đã tạm thời phá hủy sự đồng thuận trong nước về việc ủng hộ Chiến tranh Lạnh. Hoa Kỳ đã đàm phán một hiệp định đình chiến bất lợi với đế chế Liên Xô và từ bỏ chính sách ngăn chặn toàn cầu trong hơn một thập niên, chỉ quay trở lại chính sách cứng rắn chống Liên Xô vào cuối những năm 1970. Vậy là chiến tranh Việt Nam là cuộc chiến thứ hai thảm bại nặng nề nhất mà Hoa Kỳ phải gánh chịu trong Chiến tranh Lạnh. (Thất bại lớn nhất trong chính sách Chiến tranh Lạnh của Hoa Kỳ, mặc dù không phải bằng vũ lực, là chiến thắng của những người cộng sản Trung Quốc do Liên Xô bảo trợ năm 1949 – một chiến thắng mà nếu không có nó, chiến tranh Triều Tiên và Đông Dương sẽ không diễn ra theo hình thức như vậy, nếu chúng có thực sự xảy ra.)
Người ta thường nói rằng Hoa Kỳ, một siêu cường kiêu ngạo, đã bị đánh bại bởi ý chí quật cường của một quốc gia nhỏ yếu ở Châu Á. Nhưng không phải như vậy. Thế tiến công mà Liên Xô và Trung Quốc cung cấp cho người cộng sản Việt Nam- đặc biệt là mối đe dọa rằng Trung Quốc có thể nhảy vào can thiệp bằng lực lượng chiến đấu, như ở Hàn Quốc – đã ngăn cản Hoa Kỳ xâm chiếm hoặc tiến hành cuộc chiến tổng lực chống lại Miền Bắc. Và các tổ hợp công nghiệp-quân sự của Liên Xô và Trung Quốc đã duy trì nỗ lực của Miền Bắc cho đến khi nó kết thúc thắng lợi vào năm 1975, sau đó mức viện trợ thậm chí còn cao hơn của Liên Xô đã giúp cho đế chế Việt Nam ở Lào và Campuchia trở nên khả thi. Thành công của Hà Nội là không thể tưởng tượng được nếu không có sự hỗ trợ của hai trong số ba nhà nước toàn trị tàn ác và hùng mạnh nhất trong lịch sử.
Chiến tranh Việt Nam mở đầu cho kỷ nguyên những thành tựu lớn nhất của Liên Xô trong Chiến tranh Lạnh. Nếu việc áp đặt chế độ cộng sản bởi Hồng quân và đặc vụ Liên Xô ở Đông Âu không được coi là cách mạng chân chính, thế thì thắng lợi lớn nhất của Liên Xô trong việc bảo trợ các chế độ Mác-Lê trên khắp thế giới là vào những năm 1970, khi Hoa Kỳ, đẫm máu ở Đông Dương, tạm thời từ bỏ chiến lược ngăn chặn và bắt đầu rút lui vào chủ nghĩa biệt lập. Bằng cách ủng hộ các đệ tử của Stalin, Hồ Chí Minh, và những người kế nhiệm ông ta trong một cuộc chiến tranh ủy nhiệm, các nhà lãnh đạo Liên Xô, với một cái giá tương đối nhỏ cho bản thân, đã giành lại quyền lãnh đạo cách mạng thế giới từ tay Trung Quốc của Mao, chèn ép Trung Quốc ở biên giới phía nam, và làm mất mặt và gây tê liệt tạm thời cho Hoa Kỳ.
Vậy là người chiến thắng duy nhất trong Chiến tranh Việt Nam rõ ràng là Liên Xô.