Chính chỗ khác nhau với cái gốc Thanh Nghệ mới giúp nhận ra nguồn gốc giọng Quảng

Một quán mì Quảng thời xưa

Hồ Trung Tú

Đọc bài viết “Về bài viết: Hãy thay đổi quan điểm lịch sử coi sông Hồng là trung tâm” của Giáo sư ngôn ngữ học Andrea Hoa Pham (1), phản biện một bài viết của Nguyễn Khoa (2); tôi tự thấy mình cần phải nói lại với chị Hòa đôi điều, đơn giản là vì trong bài của mình anh Nguyễn Khoa nhắc đến tôi khi viết: “Như vậy quyển sách này (Cuốn Nguồn gốc và sự hình thành giọng Quảng Nam) phủ định kết luận từ quyển sách khác cách đây hơn 10 năm, là quyển Có 500 năm như thế, của tác giả Hồ Trung Tú. Ông Hồ Trung Tú cho rằng tiếng nói vùng Quảng Nam chính là do tiếng Chàm ở địa phương mà ra”. Và cũng nhân dịp xin được nói rõ hơn đôi điều chưa được nói hết khi đọc sách của chị Hòa.

1/ Chị Hòa bảo anh Nguyễn Khoa không biết gì về phương pháp và các công cụ khoa học của ngành ngôn ngữ, nhưng chị lại rất thiếu sót khi nói “Để tìm hiểu vần Quảng Nam đã thay đổi như thế nào, nó khảo sát lịch sử giọng nói của người Việt ở Quảng Nam, và từ nơi di dân đầu tiên xuất phát là vùng Thanh – Nghệ”. Chị phủ định các yếu tố Chàm trong tiếng Quảng nhưng chị đã không khảo sát tiếng Chàm. Và chị đã đưa điều “khó khăn” đó cho những người muốn phản biện chị. Trong toàn bộ công trình, chị không một lần đưa ra ví dụ so sánh với tiếng Chàm, chị chỉ nói đến những trường hợp âm, vần, giọng Quảng giống âm vần của vài làng nào đó ở Thanh Nghệ. Chị nói “là vì cuốn sách (Nguồn gốc …) đã chỉ ra rằng không thấy bất kỳ một ảnh hưởng nào của tiếng Chăm lên những vần kỳ lạ của giọng Quảng Nam”. Chị chỉ chỗ nào trong so sánh với tiếng Chàm, ngoài việc trích dẫn hàng loạt những nghiên cứu về nguồn gốc tiếng Chàm chứ không hề có bất cứ sự đo đạc hoặc ví dụ phiên âm nào cụ thể trong so sánh ngữ âm Cham với Việt như chị đã làm với trường hợp Quảng Nam và Thanh Nghệ. Như chị nói ở trang 224 trong sách “Nguồn gốc…”: “Tóm lại, như đã nói ở trên, là chưa có một tài liệu nào cho thấy tiếng Việt bị ảnh hưởng của tiếng Chàm về mặt ngữ âm, âm vị”. Có nghĩa là chị tìm tài liệu xem có ai nói chưa thì dùng chứ chị chưa hề khảo sát tiếng Chàm.

Ở chỗ khác, trang 217 chị viết: “ Người ta (lại một người ta vô hình nào đó trong khi cho đến 2012 thì ngoài cuốn Có 500 năm thì chưa một ai đề cập đến hiện tượng này-HTT) thường giả định đó là người Chàm vì họ vốn là chủ nhân trên mảnh đất này. Nhưng để nói cho rõ đó là tiếng Chăm gì đã bị tác động và tác động như thế nào thì không hề nói đến.”

Hay nói cách khác, chị đã đẩy điều đó cho bạn đọc, một khi ai đó phản biện chị thì chị buộc họ phải chứng minh yếu tố Chàm trong tiếng Quảng Nam. Cái này nó cũng giống như sự ngụy biện mà ta hay gặp ở các tòa án, buộc đối phương phải chứng minh mình sai, trong khi lẽ ra chị phải chứng minh mình đúng trong luận điểm đưa ra. Chí ít ở sách “Có 500 năm…” tôi cũng đã nói giọng Quảng Nam và giọng người Chàm nói tiếng Việt hiện nay ở Ninh Thuận, Bình Thuận là cùng phương ngữ. Vì người Chăm ở Quảng Nam xưa nói tiếng Việt, góp phần làm ra giọng Quảng Nam nay,  và nó cùng phương ngữ với người Chàm nay nói tiếng Việt, nên chí ít nó có cơ sở về logic khoa học.

Chưa kể tôi đã nhấn mạnh đến bản sắc phương ngữ Quảng Nam khác với phương ngữ khu Bốn cũ chính là ở chỗ giọng nói người khu Bốn cũ không có thanh sắc, mọi thanh sắc đều biến thành thanh nặng, còn phương ngữ Nam và người Quảng Nam thì có. Còn chị, ngoài việc truy ra được vài âm, vần giống Thanh Nghệ của người Quảng Nam chị đã chứng mình điều gì, chỗ nào về việc “không có mối liên hệ nào”? Giọng Quảng và giọng người Chăm nói tiếng Việt hiện nay đang cùng một phương ngữ mà không có mối liên hệ nào sao? Thêm nữa sự khác nhau giữa giọng Thanh Nghệ và giọng Quảng Nam là khác nhau chỗ nào? Chị đã không đề cập đến bất cứ một dòng nào. Tôi nghĩ chị cần xem lại phương pháp chị đã sử dụng khi viết “Nguồn gốc và sự hình thành giọng Quảng Nam” khi đi tìm chỗ giống nhau mà không đi tìm chỗ khác nhau. Giống nhau thì rõ rồi, người Việt là từ Thanh Nghệ vào, nó hiển nhiên là phải giống. Chính chỗ khác nhau với cái gốc Thanh Nghệ ta mới nhận ra thực sự nguồn gốc giọng Quảng là từ đâu, thưa chị. Chỗ khác nhau đó là gì, và “nguồn gốc” do đâu, chưa thấy chị chỉ ra ?

Tôi nghĩ rằng ở trường hợp này, không so sánh với tiếng Chàm, là vì chị không chỉ không biết tiếng Chàm mà còn vì chị đứng trước một “cái núi” đến giờ chưa thể vượt qua mà tôi đã đề cập đến trong sách “Có 500 năm..”: “Đến nay chúng ta vẫn chưa thể biết được tiếng nói người Chàm lúc đó, thế kỷ 14, là tiếng nói của người Chàm nào vì ở địa bàn này cho đến nay các nhà nghiên cứu lịch sử đã có thể kết luận được rằng đã có hai cộng đồng người Chàm nói hai ngôn ngữ khác nhau cùng sinh sống là Môn-Khmer và Nam Đào; và ngay cả người Việt lúc đó chúng ta cũng chưa thể  kết luận được đó là người Việt nào, Môn-Khmer hay Tày-Thái”. Lãng tránh so sánh với tiếng Chàm nhưng vẫn kết luận “không thấy bất kỳ một ảnh hưởng nào” hoặc nói quá lên, như đinh đóng cột, buộc người ta tin: “linh hồn Chăm ấy, cho đến nay, không thấy thể hiện trong phát âm của người Quảng Nam, như đã chỉ ra trong cuốn sách Nguồn gốc” trong khi chẳng chỉ ra chỗ nào cả; liệu đó có phải là một phương pháp làm việc khoa học chân chính không , thưa chị Adrea Hòa Phạm?

Tuy vậy, dù muốn hay không thì chúng ta cũng phải so sánh tiếng Quảng với tiếng Chàm hiện nay ở Ninh Thuận, Bình Thuân. Tôi đồ chừng rằng chị chưa từng nghe người Chàm ở đó nói giọng gì vì nếu một lần nghe thì chị đã biết nó gần với giọng Quảng như thế nào. Giọng Quảng Nam và giọng người Cham nói tiếng Việt ở Bình Thuận Ninh Thuân nó gần nhau đến mức dân ca, hát ru của họ là một. Và hơn nữa cả hai cùng một phương ngữ. Trong khi Thanh Nghệ là một phương ngữ khác. Chính vì vậy, việc chứng minh giọng người Chàm nói tiếng Việt nó giống thế nào với giọng Quảng Nam là không khó. Tôi được biết có người đang làm chuyện này. Nhưng tôi vẫn trông chờ sự chứng minh của chị là “không thấy bất kỳ một ảnh hưởng nào” bằng phương pháp đo máy hơn.

2/ Về ví dụ Haudricourt chị sử dụng để chứng minh rằng phương pháp nghiên cứu của ngôn ngữ là khoa học và đầy thuyết phục: “Bằng hai bài báo năm 1954, nhà ngôn ngữ học lỗi lạc Haudricourt đã dập tắt những tranh luận và nghi ngờ, để thuyết phục được phần lớn các nhà ngôn ngữ học chấp nhận nguồn gốc Mon-Khmer của tiếng Việt. Nếu không có cách làm việc khoa học, làm sao có thể thách thức một luận điểm nhiều người tin trước đó khi Haudricourt cho rằng tiếng Việt, một ngôn ngữ thanh điệu, lại không cùng họ hàng với tiếng Thái, một ngôn ngữ hàng xóm cũng có thanh điệu và chung rất nhiều từ vựng, để cãi rằng tiếng Việt thuộc cùng gia đình dòng tộc với các ngôn ngữ Mon-Khmer là những tiếng không có thanh điệu?”. Chuyện này nó ở ngoài phạm trù ta đang bàn là giọng Quảng nhưng nhân dịp này xin bàn sâu hơn, nghĩ bạn đọc cũng ít có dịp để tiếp xúc với những luận điểm cơ bản của ngành ngôn ngữ học như này, nên tôi xin thưa rằng:

Kết luận của Haudricourt đang được mổ xẻ xem xét lại chứ chưa hẳn là một kết luận chắc chắn. Haudricourt và các nhà ngôn ngữ phương Tây nói chung, đặt ra một chuẩn mặc định là từ vựng để xếp loại một ngôn ngữ nào đó vào cây ngữ hệ. Đó là chọn lựa của các nhà ngôn ngữ, cũng thật khó để cãi họ. Nhưng tôi nghĩ Việt Nam là một trường hợp khác.

Vâng, về từ vựng thì ta có thể xếp tiếng Việt vào ngữ hệ Nam Á, nhánh Môn-Khmer. Quan điểm này đã được Viện Ngôn ngữ xem là quan điểm chính thống suốt mấy chục năm qua, không còn bàn cãi nữa. Thế nhưng, như đã nói đó là theo chuẩn từ vựng. Các nhà ngôn ngữ phương Tây, sinh ra và lớn lên trong một không gian rộng lớn của ngôn ngữ đa âm, cùng một loại ngữ pháp dùng phụ tố để tạo từ mới. Chính vì cả cộng đồng châu Âu cho đến Ấn Độ, Nam Á tất thảy đều cùng một loại ngữ pháp phụ tố đó nên người ta phải dùng đến từ vựng để phân loại. Ở Việt Nam chúng ta hoàn toàn có một trường hợp khác, một case study khác, đó là ngữ pháp. Ở tiếng Việt phương pháp tạo từ mới không phải bằng phụ tố mà bằng láy và ghép.

Để hiểu vấn đề nhanh gọn nhất mà không phải dùng đến những ví dụ hoặc dẫn giải dài dòng, đó là, chúng ta hãy để ý rằng ngữ hệ Môn-Khmer, (đại diện ở Việt Nam là các tộc người như Mường, Bọng, Chứt, Rục, Vân Kiều, Katu, Khmer và các tộc người ở Tây Nguyên) đều cùng một loại ngữ pháp phụ tố đó. Rõ ràng đó là loại ngữ pháp rất mạnh, nó tồn tại trên địa bàn rất rộng ở Đông Nam Á, qua đến Ấn Độ và cả châu Âu (Được các nhà ngôn ngữ gọi là ngữ hệ Ấn Âu). Vì vậy câu hỏi đặt ra là tại sao những người Môn-Khmer ở Việt Nam đã từ bỏ đi loại ngữ pháp mạnh mẽ, chắc chắn là tiện dụng vì sự rộng rãi của nó, để đi dùng loại ngữ pháp láy ghép của các tộc người Tày-Thái ít người hơn?

Chỉ với câu hỏi đó thôi chúng ta cũng đã có thể hình dung việc kết luận của Haudricourt không phải là sai nhưng chắc chắn là không đầy đủ. Tiếng Việt xét về từ vựng thì xếp vào Môn-Khmer nhưng xét về ngữ pháp thì xếp vào Tày-Thái. Dĩ nhiên, Haudricourt cũng đã xét đến các dấu vết phụ tố vẫn còn trong tiếng Việt như chết/giết, cọc-nọc, kẹp-nẹp, con-non… Thế nhưng câu hỏi vẫn còn nguyên đó, tại sao nhóm Môn-Khmer đã từ bỏ một loại ngữ pháp phổ biến toàn cầu để dùng loại ngữ pháp giới hạn không gian hơn là Tày-Thái? Nếu câu giải thích là do tiếp xúc thì ta sẽ không giải thích được hiện tượng các nhóm ngôn ngữ hiện đang sống rất gần nhau tiếp xúc mấy ngàn năm qua nhưng vẫn linh hồn ai nấy giữ, ngôn ngữ ai người nấy nói, không biến đổi như người Thái và các cộng đồng thuộc Môn-Khmer ở Lào, hoặc các tộc người ở Tây Nguyên; ai nói tiếng nấy, không xảy ra hiện tượng hòa nhập hoặc biến đổi lớn.

 Và vấn đề Môn-Khmer đã thanh điệu hóa cũng như thay đổi ngữ pháp để thành tiếng Việt, hoặc chẳng có Môn-Khmer nào cả mà chính Việt là Tày-Thái Thái đã phải dùng từ vựng của Môn-Khmer thôi. Chị thấy đó, toàn là những giả định đầy khả thi, tôi tin là rồi đây sẽ là chìa khóa để chúng ta có thể vén bức màn về câu chuyện nguồn gốc người Việt, Haudricourt chưa phải là kết luận cuối cùng, thưa chị. Nếu một mai chúng ta nhận ra yếu tố Thái là đậm đà trong tiếng Việt, nó như lưu giữ linh hồn của tiếng Việt, cách nói, cách nghĩ, các cảm xúc chúng ta biểu đạt bằng ngôn ngữ nó gần gũi với Thái hơn thì việc vài chục từ vựng gốc thuộc Môn-Khmer có liệu nên khăng khăng xếp tiếng Việt vào nhóm Môn-Khmer như Haudricourt nói? Chị đã đọc các tục ngữ Thái chưa, nó giống tục ngữ Việt đến nổi gai ốc. Hy vọng sẽ sớm cung cấp đến chị những bài viết về chuyện này.

Phản biện điều chị xem như là chân lý này là chúng tôi cũng muốn nhấn mạnh đến điều chị vững tin vào các quy luật biến âm nội tại để bảo rằng giọng Quảng Nam có nguồn gốc từ Thanh Nghệ; để nhắc chị rằng,  dầu gì thì cũng khoan vội khẳng định, chân lý, sự thật còn rất dài ở phía trước.

3/ Về chuyện : “phương pháp internal reconstruction, phục dựng lại bộ mặt trước đây của một ngôn ngữ cụ thể bằng chính các chứng cứ trong nội bộ ngôn ngữ đó”.

Tôi nghĩ rằng phương pháp này không ổn. Vì nó bảo ngôn ngữ tự nó biến đổi. Quan điểm này sao tôi thấy giống các cụ lão nông, mấy bà già trầu hay nói: giọng nói khác nhau là bởi do nước uống hoặc những người hiểu biết hơn thì bảo do hoàn cảnh môi trường, như nơi đầu sóng ngọn gió thì giọng nói phải khác nơi đô thành. Nếu vậy thì ta lại phải xét nguyên tố nào đã ảnh hưởng đến thanh quản, hoặc tiếng sóng biển liệu có khiến người ta phải nói khác đi không. Liệu chị có thực tin điều chị viết ở trang 244 sách chị: “Nói đến âm thanh biến đổi tức là nói đến một âm nào đó qua thời gian được phát âm dần dần khác đi”. Có nghĩa là những người Việt di cư vào Nam đã đi và tự thay đổi giọng nói?

Là một chuyên gia cao cấp của ngành ngôn ngữ học quốc tế, học hàm học vị đầy mình mà chị tin rằng ngôn ngữ tự thân nó thay đổi theo thời gian hay sao? Tôi tin Paul Jules Antoine Meillet, ngôn ngữ chỉ thay đổi khi có tác động từ bên ngoài. Cứ như hiện nay, thời mạng xã hội thì nhiều từ mới được hình thành, thì đó là tác động của mạng xã hội. Như trước đây vài trăm năm thì khi tiếp xúc với một ngôn ngữ khác thì một ngôn ngữ sẽ thay đổi.

Là nhà khoa học chị phải chỉ ra cho được đó là những tác động nào chứ? Vì sao mà giọng Thanh Nghệ đã biến thành giọng Quảng Nam ? Nó không phải biến ở một vài âm hay vần mà chị chỉ ra nó có gốc ở Thanh Nghệ mà biến đổi hẳn thành một phương ngữ khác.

 Sách chị hoàn toàn không đề cập đến phương ngữ, tôi là dân nghiệp dư nhưng cũng cố có đến gần chục trang để bàn về phương ngữ. Phương ngữ Bắc và phương khu Bốn cũ khác nhau một trời một vực, và tiếp theo phương ngữ khu Bốn cũ khác rất xa với phương ngữ Nam, bắt đầu từ Quảng Nam đến tận Cà Mau. Tại sao giọng Thanh Nghệ biến đổi sâu xa đến mức tạo hẳn nên một phương ngữ lớn là phương ngữ Nam, từ Quảng Nam đến Cà Mau, hỡi Giáo sư Andrea Hoa Phạm? Nó biến đổi tận gốc rễ, gốc rễ đó là gì, vì sao mà biến đổi và biến đổi vào lúc nào mong chị cố gắng đi tiếp công trình này chứ không phải chỉ dừng lại ở một vài âm, vần. Tôi là dân nghiệp dư nhưng cũng đã cố gắng chạm vào tất cả những câu hỏi đó. Tiếc là chị đọc không kỹ, nhất là sự phân kỳ, chính lát cắt 50 năm thời thuộc Minh và 200 năm của Trịnh Nguyễn phân tranh đã tạo điều kiện để giọng Quảng Nam định hình.

Cả cuốn sách chị chỉ cố chứng minh những biến đổi ngôn ngữ ở Quảng Nam là do chính nội tại của những người Thanh Nghệ, “theo nguyên tắc tiết kiệm bằng việc giản hóa cấu trúc” (trang 37, 65, 71…)  ví dụ như ao/aw thành ô/o/ (bao thành bô). Vâng, hiện tượng xảy ra rồi thì chị bảo vậy nhưng tại sao nguyên tắc biến âm này chỉ xảy ra ở Quảng Nam mà không xảy ra với nơi khác, những nơi cận kề với Thanh Hóa như Nam Đinh hoặc Hòa Bình, hoặc cũng người Bắc vào Nam nhưng ở các tỉnh phía Nam Quảng Nam thì chị lơ, không nói đến, hoặc chỉ nhắc đến hời hợt.

Chị đã rất thiếu sót khi chỉ khoanh vùng nghiên cứu giọng nói người Quảng Nam ở các nguyên âm mà không thấy rằng đặc điểm giọng Quảng Nam không chỉ vậy. Giọng Huế không cùng các nguyên âm với làng Thạc hoặc Kẻ Chay nhưng Huế, bao gồm cả Bình Trị Thiên, và Thanh Nghệ là cùng phương ngữ, thưa chị. Chị đã bao giờ nghĩ Huế và Thanh Nghệ lại cùng phương ngữ chưa? Tại sao nhà ngôn ngữ học Hoàng Thị Châu lại xếp Thanh Nghệ và cả Bình Trị Thiên Huế vào cùng nhóm phương ngữ? Cả một công trình lớn để lấy hàm giáo sư đại học Mỹ mà chị không một lần bàn đến sự khác nhau của các phương ngữ, tức định nghĩa các phương ngữ. Giọng Huế khác giọng Quảng Nam thế nào thưa chị? Chị đã nêu đặc điểm thanh điệu của Thanh Nghệ và Quảng Nam là hỏi ngã thành một, thế nhưng một đặc điểm vô cùng đặc biệt khác, nó quyết định bản sắc phương ngư khu Bốn cũ, phương ngữ Thanh Nghệ đó chính là không có thanh sắc thì chị không một lần đề cập đến (Copyright với Andrea Hoa Phạm, có thể là chị biết về hiện tượng này nhưng nguyên cuốn sách chị không nhắc đến đặc điểm nổi bật nay mặc dù nhiều lần nhắc đến hỏi ngã thành một). Sách “Có 500 năm..” tôi có bàn đến chuyện này rất kỹ đó, thưa chị.

Nhẽ nào chị chưa đọc được phát biểu của Meillet: “Khi một ngôn ngữ biến đổi thì ta phải nghĩ rằng đã có một bộ phận dân cư nào đó đã từ bỏ tiếng nói mẹ đẻ của mình để nói một ngôn ngữ khác”? Trong sách “Nguồn gốc…” chỉ chỉ loay hoay phân tích và suy luận, tìm sự biến đổi trong việc tiếp xúc Chăm – Việt, và tiếng Chăm đã ảnh hưởng thế nào đến tiếng Việt mà chị quên rằng có một không gian rất lớn cho việc biến đôi mà không do tiếp xúc gì cả, không do ảnh hưởng lẫn nhau gì cả, đó là câu chuyện của nguyên một làng, nguyên một xã, huyện, thậm chí là một quận, tỉnh người Chăm đã từ bỏ tiếng mẹ đẻ của mình để nói tiếng Việt. Chuyện gì xảy ra khi cả một cộng đồng lớn cỡ quận huyện hay  tỉnh đồng loạt bỏ tiếng nói mẹ đẻ của mình để nói một ngôn ngữ khác? Trong sách chị nói rất nhiều đến các trường hợp người Chăm bị tàn sát, bị khinh miệt nên bỏ đi cả nhưng chị quên rằng khi không còn chỗ nào để đi, chính vì bị khinh miệt nên một khi được mang một họ Việt họ đồng loạt thành người Việt, nói tiếng Việt. Cả một quận một tỉnh nói cùng một cách nói của người Chàm nói tiếng Việt mà không do ảnh hưởng hay tiếp xúc gì cả. Chuyện này xin được bàn tiếp ở bài sau, bài bàn về chuyện chị suy diễn các cứ liệu lịch sử một cách tùy tiện như thế nào để bảo vệ cho quan điểm người Việt vào là người Chăm đã bỏ đi cả, người Việt vào là đến chốn không người.

 Ở trang 153 chị viết: “Không tìm ra những mối liên hệ đặc biệt này giữa mối liên hệ giữa thổ ngữ Hà Tĩnh và giọng Quảng Nam, câu hỏi từ đâu mà có giọng Quảng Nam sẽ mãi mãi là lời đánh đố hóc hiểm cho người Quảng Nam nói riêng và cho những người làm nghiên cứu về phương ngữ hoặc biến âm nói chung”. Hy vọng là qua đây chị sẽ nhìn nhận lại là con đường còn rất dài phải trước chứ không phải như chị nói là đã giải quyết xong.

4/ Khi chị nói “Cuốn sách “Nguồn gốc” đo đạc và xác định đặc trưng âm học của một số vần và nguyên âm đặc biệt được tìm thấy ở một số thổ ngữ nhỏ ở vùng Thanh – Nghệ để tìm hiểu lịch sử hình thành giọng Quảng Nam, chẳng hạn với dấu vết của nguyên âm viết bằng “a” và phát âm của vần viết bằng “oa”” thì tôi nghĩ chị đã vội vàng rồi.

Người Quảng Nam là người Thanh Nghệ vào là chuyện hiển nhiên. Tất cả các gia phả của các tộc họ ở Quảng Nam đều ghi vậy, và trong tiềm thức cũng như ý thức của người Việt nói chung và người Quảng Nam , người miền Trung nói riêng, tất cả họ, tất cả chúng ta đều từ miền Bắc vào. Điều đó là hiển nhiên. Người Việt từ Bắc vào và vẫn đang nói tiếng Việt chứ không hề nói một ngôn ngữ khác, thì dĩ nhiên, thì tất nhiên là phải nói ngôn ngữ mẹ đẻ, cho dù “uống nước” lạ hay ăn muối mặn, đầu sóng nói to mà giọng nói có khác đi thì đó vẫn là tiếng mẹ đẻ, là tiếng Việt. Chị hào hứng chứng minh giọng Quảng Nam là từ Thanh Nghệ thì thực sự là tôi không hiểu chị chứng minh sự hiển nhiên đó để làm gì? Vấn đề là nó khác, nó khác nhau chỗ nào, và thực tế nó thuộc hai phương ngữ khác nhau, thì chị không một lần nói đến.

Ở đây, anh Nguyên Khoa đã nói đến điều nhạy cảm và khó diễn đạt, đó là chị đã hùng hồn chứng minh “Có 500 năm như thế” sai là chị nhằm bảo vệ quan điểm chính trị về sự thống nhất xuyên suốt 4 ngàn năm của người Việt, tất cả từ đồng bằng sông Hồng ra đi. Cho dù đi vào Nam và thay đổi giọng nói thế nào đi nữa thì đó vẫn là những người Việt trăm phần trăm chứ không có Chăm hay Triều Châu, Katu nào xen vào đây cả. Anh Nguyễn Khoa gọi đó là quan điểm lấy sông Hồng làm trung tâm. Tôi thì không nghĩ chị hoàn toàn có ý thức này, bảo vệ sự toàn vẹn của người Việt, tiếng Việt mà nghĩ rằng chẳng qua chị chỉ muốn chứng minh tôi sai, “Có 500 năm…” là sai, vì quá dễ để chứng minh hiện tượng a/oa không phải là Chàm. Qua đó tôi đã sai tất cả.

Việc nỗ lực loại bỏ các yếu tố Chăm ảnh hưởng vào tiếng Việt bất kể cho việc suy diễn tùy tiện các tư liệu lịch sử trong sách “Nguồn gốc…” xin hẹn chị trong bài kế tiếp.

5/ Và điều cuối cùng tôi muốn bàn đến là câu này: “Những âm xưa nay ai cũng cho rằng thuộc các âm làm nên “căn cước” của giọng Quảng Nam, nay được tìm thấy ở Hà Tĩnh”.

Khi chị viết vậy không biết cái tên Hồ Trung Tú có hiện lên trên mành hình máy tính của chị hay không. Hiện tượng a/oa trước tôi không hề một ai nhấn mạnh. Các nhà ngôn ngữ mà chị nhắc đến như Cao Xuân Hạo, Vương Hữu Lễ, Nguyễn Quang Hồng, Lý Toàn Thắng, Phạm Văn Hảo… đều nói đến hiện tượng nguyên âm của giọng nói người Quảng Nam nói chung chứ không dành hẳn cả 3 trang in để nói về âm a/oa của người Quảng Nam như tôi. Và ngay cả chị, chị cũng bảo là chị nói rồi ở công trình lấy học vị cử nhân, nhưng xin thưa chị không nhận ra sự đặc biệt của nó, cả trăm trang luận án chỉ một lần duy nhất có ba/boa, nó nằm lẫn trong hàng trăm các ví dụ khác. Nay bỗng dưng chị nói a/oa là “Những âm xưa nay ai cũng cho rằng thuộc các âm làm nên “căn cước” của giọng Quảng Nam”. Ai vậy thưa chị? Chị hãy một lần thừa nhận rằng chị hoàn toàn chưa ý thức đầy đủ về hiện tượng a/oa cho đến khi đọc cuốn sách “Có 500 năm như thế” . Mặc dù chị đã viết hai bài báo khoa học về cuốn sách đó, thế nhưng khi triển khai hai bài báo đó thành sách “Nguồn gốc và sự hình thành giọng Quảng Nam” thì chị làm như không biết đến cuốn sách của tôi đó vậy. Và khi được hỏi thị chị bảo nó không phải là công trình chuyên môn. Lạ chưa , tôi thấy phần trích dẫn có rất nhiều những bài viết, tư liệu, không phải là công trình chuyên môn kia mà, sao chị vẫn tham khảo trích dẫn được. Thật tiếc, nếu chị chỉ để một dòng có tham khảo, tham khảo thôi chứ không cần trích dẫn, sách “Có 500 năm…” thôi thì chị đã có thể sử dụng được ví dụ rất hay mà tôi đã nghĩ ra: “Choa ơi choa, anh Boa ảnh câu con cóa ảnh để trên hòn đóa con gòa hén em” rồi. Chị có thừa nhận đó là một ví dụ sinh động chứ! Chị lãng tránh làm như không biết đến ví dụ sinh động này thật đáng tiếc!

Và trong sách chị cũng rất nhiều lần lãng tránh “Có 500 như thế” và thay vào đó là những đại từ như bóng ma “người ta”, “nhiều người cho rằng”, “nhiều người nghĩ rằng”… Chuyện này xin hẹn chị ở bài viết tiếp theo tôi sẽ liệt kê đầy đủ những nội dung mà cái người ta vô hình đó là ai nói mà chị kỳ công tranh luận vậy.

(1) https://nongnghiep.vn/tri-thuc-nong-dan/ve-bai-viet-hay-thay-doi-quan-diem-lich-su-coi-song-hong-la-trung-tam-d332333.html?fbclid=IwAR0dk9hmd6Rp1t7mx8Sirk2UXEqK4VEWErB2VeYrMLonSqFhb32TwJ6qtYc

(2) https://www.viet-studies.net/NguyenKhoa_ThayDoiQuanDiemLichSu.html

Paul Jules Antoine Meillet (1866 – 1936)

“Khi một ngôn ngữ biến đổi thì ta phải nghĩ rằng đã có một bộ phận dân cư nào đó đã từ bỏ tiếng nói mẹ đẻ của mình để nói một ngôn ngữ khác”

Ngữ hệ Ấn-Âu là một ngữ hệ lớn có nguồn gốc từ Tây và Nam đại lục Á-Âu. Nó bao gồm hầu hết ngôn ngữ của châu Âu cùng với các ngôn ngữ ở sơn nguyên Iran và miền bắc tiểu lục địa Ấn Độ. Một số ngôn ngữ Ấn-Âu, chẳng hạn như tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Bồ Đào Nha và tiếng Tây Ban Nha, Iran, German, Rôman và Balt-Slav, Hindustan, tiếng Bengal, tiếng Marathi, tiếng Punjab và tiếng Nga. Tổng cộng, 46% dân số thế giới (3,2 tỷ người) có tiếng mẹ đẻ là ngôn ngữ Ấn-Âu.

3 thoughts on “Chính chỗ khác nhau với cái gốc Thanh Nghệ mới giúp nhận ra nguồn gốc giọng Quảng

  1. Chữ “Quảng” trong mì Quảng có chắc là quảng nam hay quảng ngãi ? Có khi nó được du nhập từ Quảng Đông hay Quảng Tây, cũng có 1 loại mì tương tự .

    Mì Quảng Đông hay Quảng Tây có sợi lớn, và thường có màu mè . Có loại vàng, có loại xanh & 1 loại nữa là nâu đen .

    Thích

  2. Pingback: Trao đổi với Andrea Hoa Pham (2) | Nghiên Cứu Lịch Sử

Gửi phản hồi cho montaukmosquito Hủy trả lời