Nền báo chí Việt Nam thời thuộc Pháp (1858-1945)- Bài 2

ss

Lý Đăng Thạnh

V- MỘT SỐ NHÀ BÁO THỜI THUỘC PHÁP (1862-1945)

Một số ký giả, người quản lý báo, chủ báo, chủ nhà in và xuất bản tiêu biểu thời thuộc Pháp (1862-1945) gồm có

Alfred-Ernest Babut (1878-1962): đảng viên SFIO (Societé française de l’internationale ouvriere) với lập trường thiên tả; hội viên Hội Nhân quyền (Ligue des Droits de l’Homme et du Citoyen); năm 1905 đứng tên làm chủ nhiệm tờ Đại Việt Tân Báo (L’Annam) tại Hà Nội; sau khi biết đến đường lối tranh đấu ôn hòa của Phan Châu Trinh liền mời về cộng tác, đồng thời cho dùng Đại Việt Tân Báo làm cơ quan ngôn luận không chánh thức của Đông Kinh Nghĩa Thục; năm 1908 đã vận động Hội Nhân quyền can thiệp với toàn quyền Anthony Klobukowski xóa án tử hình và thả Phan Châu Trinh khỏi nhà giam Côn Đảo vào tháng 5-1910; năm 1929 chủ trương tạp chí song ngữ Pháp-Việt là Revue Franco-Annamite tại Hà Nội.

Alfred Raquez (1865-1907): năm 1897 du lịch sang Đông Dương; được nhà kinh doanh Francois-Henri Schneider mời làm giám đốc kiêm chủ nhiệm tạp chí Pháp ngữ Revue indochinoise tại Hà Nội (1897-1907).

André Malraux (1901-1976): năm 1923 sang Đông Dương lập nghiệp; năm 1925 cùng thành lập đảng Jeune Annam (Việt Nam Thanh Niên Đảng); đồng thời hợp tác với luật sư Paul Monin thành lập và đồng chủ nhiệm nhật báo Indochine (Đông Dương) tại Sài Gòn từ tháng 6-1925, kêu gọi ‘một chế độ công bằng hơn, nhân đạo hơn, cho phép người dân Việt Nam được bảo vệ bởi những luật lệ y như người Pháp, được hưởng những quyền tự do cá nhân như người Pháp’; vì thế hoạt động được gần 2 tháng thì bị chánh quyền gây khó khăn trong việc in ấn nên phải đình bản tháng 8-1925; đến tháng 11-1925 lại cùng với Monin thành lập báo L’Indochine enchaînée (Đông Dương bị xiềng) nhưng hoạt động đến tháng 2-1926 cũng đình bản; sau đó về Pháp viết và xuất bản các tiểu thuyết tranh đấu; sau đó là bộ trưởng Thông tin (1945-46), rồi bộ trưởng Văn hóa (1959-69) trong nội các của tổng thống Charles de Gaulle.

Ái Lan (~Lê Liễu Huê; 1910-1976; sinh tại tỉnh Quảng Trị): là vợ ký giả Công Minh Triệu Thường Thế; từ 1928 viết cho các báo: Đông Pháp Thời Báo, Đuốc Nhà Nam, Phụ Nữ Tân Văn, Phóng Sự Tuần Báo, Sông Hương, Đời Mới, Dân Ta, Tạp Chí Phổ Thông và các nhật báo: Tiếng Chuông, Buổi Sáng, Ánh Sáng, Sài Gòn Mới, Tân Sanh. Bà là em ruột ký giả Lê Trung Nghĩa (bút hiệu Việt Nam), chị ruột hai ký giả Lê Minh Đức  (bút hiệu Bút Sơn) và Lê Chuyên Pha.

Bà Tùng Long (~Lê Thị Bạch Vân; 1915-2007; sinh tại Đà Nẵng): năm 1935 thành hôn với ký giả Hồng Tiêu Nguyễn Đức Huy; thời kỳ 1933-45 cộng tác các báo như Phụ Nữ Tân Văn (1933-35), Sài Gòn Mới (mục Gỡ Rối Tơ Lòng, 1942-45) ở Sài Gòn, nhật báo Tiếng Vang (mục Tâm Tình Cởi Mở, 1940-45) ở Kontum…; đã cùng chồng trực tiếp chủ trương và điều hành báo Sài Thành (1935), chủ bút tuần báo Tân Thời (1935-36), tổng thư ký báo Phụ Nữ Diễn Đàn; đến năm 1945 do thời cuộc nên về Quảng Ngãi dạy Pháp văn; năm 1952 cùng gia đình trở vào Sài Gòn tiếp tục dạy Pháp văn và viết báo, sách, truyện cho đến 1972; cộng tác bài vở với nhiều tuần báo, nguyệt san ở Sài Gòn; các con trai sau này cũng là những nhà văn có tiếng như Nguyễn Đức Quang, Nguyễn Đông Thức…

Bạch Thái Bưởi (1874-1932; sinh tại tỉnh Hà Đông): thành lập nhật báo Khai Hóa, ra ngày 13-7-1921 tại Hà Nội, hoạt động cho đến năm 1928.

Băng Dương : là chồng bà Thụy An (Lưu Thị Yến); cùng với vợ thành lập và làm giám đốc chánh trị tuần báo Đàn Bà Mới ở Sài Gòn (1934-37).

Biến Ngũ Nhy (~Nguyễn Bính; 1886-1973; sinh tại tỉnh Trà Vinh): tốt nghiệp bác sĩ tại Đại học Y Hà Nội năm 1910; vừa hành nghề thuốc vừa viết văn và báo; cộng tác thường xuyên với các báo Công Luận Báo, Nông Cổ Mín Đàm, Nữ Giới Chung…

Bình Nguyên Lộc (~Tô Văn Tuấn, Diên Quỳnh, Hồ Văn Huấn, Phong Ngạn, Phóng Ngang Phóng Dọc, Trình Nguyên, Tôn Dzật Huân; 1914-1987; sinh tại tỉnh Biên Hòa): từ năm 1935 đến 1945 là công chức Ngân khố; từ năm 1942 bắt đầu sáng tác và viết báo, đã cộng tác với báo Thanh Niên và nhiều báo ở Sài Gòn; năm 1945 tham gia kháng chiến; năm 1946 phản đối Việt Cộng nên về ẩn cư ở Lái Thiêu rồi đến 1949 về Sài Gòn chuyên tâm viết văn làm báo; năm 1950 lần đầu in sách (tập truyện ngắn Nhốt gió); năm 1958 chủ trương tuần báo Vui Sống và nhà xuất bản Bến Nghé; năm 1985 sang Mỹ tỵ nạn, sống ở Sacramento, California nhưng hai năm sau bệnh mất; đã viết hàng trăm tác phẩm truyện, sách khảo cứu, tập thơ; chỉ tính đến 31-5-1966 đã viết 820 truyện ngắn (đã in năm tập), và 52 tiểu thuyết (đã in 11 quyển).

Bồng Dinh : xem: Nguyễn Văn Sỏi.

Bút Trà : xem: Nguyễn Đức Nhuận.

Bùi Châu Quý : quản lý Tạp chí Phụ Nữ ở Hà Nội (1938-39).

Bùi Đình Tiến : chủ nhiệm bán nguyệt san Thương Mại tại Hà Nội.

Bùi Huy Phồn (Đồ Phồn): thành viên điều hành tuần báo Tiểu Thuyết Thứ Năm tại Hà Nội (1937-42).

Bùi Huy Tín (1875-?; sinh tại Hà Nội): là một điền chủ, nhà kinh doanh và hoạt động chánh trị xã hội thời Pháp thuộc; thời kỳ 1913-37 đã kinh qua những chức vụ: uỷ viên Phòng thương mại Hà Nội, Hội đồng thành phố Hà Nội, Hội đồng Tư vấn Bắc Kỳ, Đại hội đồng Kinh tế lý tài Đông Dương, Viện Dân biểu Bắc Kỳ, Viện Dân biểu Trung Kỳ; chủ tịch Hội Từ thiện Trung Kỳ; chủ thầu xây dựng đoạn đường sắt Việt Trì – Lào Cai (1902-06), Hà Nội – Sài Gòn (1907-24); là chủ nhiều đồn điền ở Phú Thọ, Hà Tĩnh, Thanh Hóa, Quảng Ninh, khu mỏ ở Trung Kỳ; thành lập và chủ nhiệm Thực Nghiệp Dân Báo ở Hà Nội (1920), và các báo ở Huế như: Tràng An Báo (1932-35), La Gazette de Huế (từ 1936), Le Misogyne, Le People; thành lập và điều hành nhà xuất bản Bùi Huy Tín tại Huế (1936-45).

Bùi Ngọc Ái : biên tập viên tạp chí Tương Lai (L’Avenir) tại Hà Nội (1936-37).

Bùi Ngọc Thự : chủ nhiệm Kỳ Lân Báo tại Sài Gòn từ năm 1928.

Bùi Quang Chiêu (1873-1945; sinh tại tỉnh Bến Tre): năm 1923 thành lập Đảng Lập Hiến Đông Dương, năm 1926 thành lập báo Pháp ngữ La Tribune Indochinoise của Đảng Lập Hiến xuất bản ở Sài Gòn, có khuynh hướng đối lập ôn hòa với chánh quyền thực dân; ngày 29-9-1945 bị Việt Cộng thảm sát cùng với cả gia đình tại Chợ Đệm (Sài Gòn).

Bùi Thế Mỹ (Hy Tô, Lan Đình, Thông Reo; 1904-1943; sinh tại tỉnh Quảng Nam): lúc nhỏ học ở quê nhà và Huế; năm 1923 vào Sài Gòn viết báo, thơ văn với bút danh Thông Reo; làm chủ bút các tờ báo: Đông Pháp Thời Báo (1927), Trung Lập, Tân Thế Kỷ, Thần Chung; thời kỳ Mặt trận Bình Dân (1936) được giới nhân sĩ cách mạng bầu làm tổng thư ký Uỷ ban Vận động Đông Dương Đại Hội; do đó vào tháng 9-1936 cùng với Diệp Văn Kỳ và Đào Trinh Nhất bị thống đốc Pagès trục xuất khỏi Nam Kỳ về an trí tại Bình Thuận (thuộc Trung Kỳ); cuối năm 1937 trở lại Sài Gòn chủ bút nhật báo Điện Tín (với bút danh Lan Đình), rồi chủ nhiệm tờ Dân Báo (?-1943).

Bùi Thị Hiến : quản lý tuần báo Đàn Bà Mới ở Sài Gòn (1934-37).

Bùi Tuân : đồng chủ trương và điều hành báo Vì Chúa tại Huế năm 1936.

Bùi Văn Còn : chủ nhiệm tuần báo Kịch Bóng tại Sài Gòn (từ 1935).

Bùi Xuân Hạc (Bùi Xuân Học): chủ trương và chủ nhiệm các tờ báo tại Hà Nội như: báo Loa (1935-36), tuần báo Việt Nữ (1937).

Bùi Xuân Thành : thành viên Tòa soạn Đông Dương Tạp Chí (1913-19). 

Bửu Đình (~Nguyễn Phước Bửu Đình, Hà Trì, Liên Chiểu; 1903-1931; sinh tại Huế): thuộc hoàng tộc Triều đình Huế; ký giả, văn sĩ; thời kỳ 1920-30 cộng tác thường trực với các báo Đông Pháp Thời Báo, Công Luận Báo, Phụ Nữ Tân Văn, Nam Kỳ Kinh Tế Báo…; làm tổng lý kiêm chủ bút chi nhánh tại Huế của nhật báo Tân Thế Kỷ ở Sài Gòn (từ số 6, ra ngày 10-11-1926); thành viên tích cực của Việt Nam Quang Phục Hội; rồi do hoạt động chống Pháp, nhất là sau khi viết công khai những bài báo đả kích kịch liệt chánh quyền Pháp, nên bị bắt ngày 24-2-1927 và bị kết án 9 năm tù đày ra Côn Đảo; ngoài đảo tiếp tục sáng tác tiểu thuyết (Mảnh trăng thu, Bước đầu, Cậu Tám Lọ, Đám cưới cậu Tám Lọ), được cô y tá Yvonne Ngọc gửi vào Sài Gòn đăng báo Phụ Nữ Tân Văn; vượt ngục Côn Đảo tháng 10-1930 nhưng bị bắt lại; sau đó lại vượt ngục vào cuối năm 1931 nhưng mất tích từ đó.

C.I. Achard : giám đốc chánh trị tạp chí văn chương, chánh trị, châm biếm, hài hước Chantecler (con gà trống) tại Hà Nội (1932-39).

Cao Hải Để (1895-1964; sinh tại Cai Lậy, Mỹ Tho): tốt nghiệp trường Pétrus Ký, Sài Gòn; từ năm 1924 viết cho các báo Công Ích Toàn Thơ, Pháp Việt Nhất Gia; từ tháng 7-1926 làm chủ nhiệm kiêm chủ bút cho tờ Nhựt Tân Báo; tháng 8-1926 thành lập và chủ nhiệm bán tuần san Pháp ngữ L’Ere nouvelle; tháng 11-1926 tham gia hội nghị thành lập Đông Dương Lao Động Đảng và đặt hai tờ báo này làm cơ quan ngôn luận của đảng, hoạt động đến 22-6-1929 thì bị giải thể; kiêm chủ bút bán tuần san Pháp Việt Nhứt Gia (1927); ngày 25-6-1929 bị bắt giam; năm 1936 ra tù, tiếp tục hoạt động trong phong trào Dân chủ 1936-39; tháng 6-1940 lại bị Pháp bắt và đày đi Bạc Liêu; tháng 8-1945 trở về Mỹ Tho, tham gia vào Mặt trận Việt Minh, kháng chiến chống Pháp; năm 1954 ly khai Việt Cộng trở về Sài Gòn tiếp tục viết báo cho đến khi mất tại Sài Gòn vào năm 1964.

Cao Thị Khanh : xem: (Bà) Nguyễn Đức Nhuận.

Cao Văn Chánh (Cao Chánh, Thạch Lan; 1903-1945; sinh tại tỉnh Mỹ Tho): năm 1921 thi đậu bằng tú tài Pháp tại Collège Mỹ Tho; từ năm 17 tuổi (1920) viết cho Công Luận Báo và Tân Đợi Thời Báo tại Sài Gòn với bút danh Cao Chánh; từ năm 19 tuổi lần lượt làm chủ bút các tờ báo Công Luận (1922-23), Nam Kỳ Kinh Tế Báo (1-1923 đến 2-1924); năm 1924 thành lập và chủ nhiệm báo Pháp ngữ đối lập L’Essor Indochinois, hoạt động đến tháng 8-1926 bị chánh quyền Pháp ra lệnh cấm; thời kỳ 1926-27 cộng tác với báo L’Ere nouveau và bản Việt ngữ của nó là Nhựt Tân Báo; tháng 11-1926 đồng sáng lập Việt Nam Ái Quốc Liên Hiệp Hội với ký giả Lê Chơn Tâm (Mộng Trần); cũng trong tháng 11-1926 thành lập và điều hành nhật báo Tân Thế Kỷ, hoạt động đến 1927 thì bị đóng cửa theo lệnh cấm ngày 19-4-1927 của toàn quyền Đông Dương Pasquier; tháng 4-1927 thuê tờ báo Pháp Việt Nhứt Gia của Trần Quang Nghiêm để làm chủ bút và tiếp tục mở cuộc tấn công mới chống chánh quyền Pháp và Triều đình Huế, cho đến ngày 17-5-1927 ra được thêm một số cuối với 10.000 bản phân phát miễn phí trên các đường phố Sài Gòn mà không trình lên ban kiểm duyệt trước khi in, rồi bị rút hẳn giấy phép theo lệnh cấm của toàn quyền Đông Dương Varenne; tháng 1-1928 tái lập báo Pháp ngữ L’Annam đối lập nhưng bị chánh quyền đình bản sau vài số; tháng 8-1928 cùng thành lập báo L’Action Indochinoise, được xem là ‘tờ báo chánh thức đầu tiên của đạo Cao Đài’; tháng 5-1929 cùng một số cộng sự thành lập tạp chí Phụ Nữ Tân Văn; tháng 7-1929 sang Pháp học khoa chánh trị Đại học Paris, đồng thời viết cho các báo ở Pháp, báo Phụ Nữ Tân Văn và nhiều báo khác ở Sài Gòn; tại đây năm 1930 thành lập và làm tổng thư ký Hội Tương Tế Học Thuật với hơn một trăm hội viên là các du sinh quốc tế tại Pháp, rồi chuyển theo khuynh hướng Đệ Tứ Quốc Tế; từ năm 1933 về Sài Gòn tham gia Ban biên tập báo Phụ Nữ Tân Văn và hoạt động trong lực lượng Đệ Tứ Quốc Tế, tranh đấu đòi độc lập với Pháp; năm 1938 làm trợ bút cho báo Đuốc Công Lý của Nam Đình (Nguyễn Thế Phương); từ tháng 10-1938 đến 1939 cùng một số thân hữu thành lập và điều hành nhật báo Thời Đại ở Sài Gòn, là cơ quan ngôn luận của Đệ Tứ Quốc Tế; cuối năm 1945 bị Việt Cộng sát hại ở Sài Gòn, hưởng dương 42 tuổi.

Cẩm Tâm (nữ sĩ, ngụ ở Sài Gòn): ký giả, văn sĩ cộng tác thường xuyên với các báo Công Luận báo, Đuốc Nhà Nam, Phụ Nữ Tân Văn…

Charles B. Maybon (1872-1926): tốt nghiệp cử nhân văn chương; năm 1905 sang Hà Nội, được toàn quyền Paul Beau cử làm hiệu trưởng trường Pháp tại Vân Nam, sau đó về Hà Nội dạy tại môn lịch sử Phương Đông tại Đại học Đông Dương; được nhà kinh doanh Francois-Henri Schneider cử làm giám đốc kiêm chủ nhiệm tạp chí Pháp ngữ Revue indochinoise tại Hà Nội (1907-25).

Clément Edmond Koch : thành lập và chủ nhiệm tuần báo Pháp-Việt tại Hà Nội từ 1941.

Cung Đình Bính : quản lý Tạp chí Đuốc Tuệ (1935).

Cung Giũ Nguyên (1909-2008; sinh tại Huế): tốt nghiệp Trường Quốc Học Huế; sau đó vào Nha Trang dạy học và làm báo; đã cộng tác với nhiều tạp chí và nhật báo Pháp ngữ như: France-Asie, La Tribune, La Presse d’Extrême-Orient, La Gazette de Huê, cũng như báo Việt ngữ như: Đông Pháp Thời Báo, Nam Phong, Tiếng Dân, Bạn Đường…; đầu năm 1934 thành lập và chủ nhiệm nguyệt san Tương Lai Tạp Chí tại Nha Trang, ra được 4 số thì đình bản vì khó khăn tài chánh; sau đó cùng thành lập và đồng chủ bút tập san Les Cahiers de la Jeunesse tại Nha Trang (1939-40); năm 1940 vào Sài Gòn làm chủ bút nhật báo Pháp ngữ Le Soie d’Asie (Chiều Á Châu). 

Diệp Văn Cương (Thọ Sơn, Yên Sa; 1862-1929; sinh tại Cao Lãnh): được chánh quyền Pháp cấp học bổng du học và đậu tú tài tại trường Lycée d’Alger ở Algeria, cùng khóa với Nguyễn Trọng Quản; về nước dạy học trường Chasseloup-Laubat; sau đó được toàn quyền Paul Bert cử ra Huế dạy học cho hoàng tử Chánh Mông (vua Đồng Khánh); tại đây kết hôn với Công nữ Thiện Niệm (là con của Thoại Thái Vương Nguyễn Phước Hồng Y, em ruột vua Dục Đức và là cô ruột của vua Thành Thái); năm 1898 thành lập và điều hành tờ báo Việt ngữ là Phan Yên Báo ở Sài Gòn, có khuynh hướng chống đối chánh quyền thực dân Pháp nên chỉ ra được 7, 8 số trong vài tháng thì bị đình bản.

Diệp Văn Kỳ (1895-1945; sinh tại Huế): là con học giả Diệp Văn Cương và Công nữ Thiện Niệm; sau khi học xong trung học ở Huế sang Pháp du học; tại Pháp tham gia Đảng Lập Hiến Đông Dương của Bùi Quang Chiêu, Dương Văn Giáo và An Nam Độc Lập Đảng của Nguyễn Thế Truyền, viết bài trên báo Việt Nam Hồn; sau khi đậu cử nhận luật thì về Cao Lãnh hành nghề luật sư; tham gia thành lập Hội Khuyến học và tổ chức nhiều buổi diễn thuyết văn hóa; sau đó lên Sài Gòn viết cho Nam Trung Nhật Báo và Đông Pháp Thời Báo; năm 1927 mua tờ Đông Pháp Thời Báo của Nguyễn Kim Đính, làm chủ nhiệm cho đến 1928 thì bị đình bản; đầu năm 1929 thành lập và chủ nhiệm báo Thần Chung cho đến 1932; năm 1936 cộng tác với Nhóm La Lutte tổ chức phong trào Đông Dương Đại Hội, rồi bị bắt và trục xuất về an trí tại Bình Thuận cùng với Bùi Thế Mỹ và Đào Trinh Nhất; cuối năm 1937 được trở vào Sài Gòn viết báo tiếp; năm 1941 ông từ chối hợp tác với Nhật và về cư ngụ tại nhà người anh cột chèo là kỹ sư Phan Mính (con ông Phan Thúc Duyện) ở Trảng Bàng, Tây Ninh, đồng thời tích cực hoạt động trong giáo phái Cao Đài; cuối năm 1945 bị toán mật vụ Việt Cộng do Nguyễn Chín cầm đầu lùng bắt, phải giả làm linh mục trốn trong nhà thờ Trảng Bàng nhưng bị phát hiện đem về sát hại tại Củ Chi chung với Phan Mính.

Doãn Kế Thiện (Bất Ác, Long Thành, Sơn Vân, Sở Bảo; 1891-1965; sinh tại tỉnh Hà Đông): từ năm 1914 gia nhập làng báo và viết trên các báo: Khai Hóa, Mới, Nam Phong Tạp Chí, Thực Nghiệp, Trung Bắc Chủ Nhật, Trung Bắc Tân Văn…; chủ trương Tap chí Thanh Nghị tại Hà Nội năm 1941-45.

Dương Bá Trạc (Tuyết Huy; 1884-1944; sinh tại tỉnh Hưng Yên): đồng chủ bút (1918-32) Nam Phong Tạp Chí tại Hà Nội; năm 1932-33 cùng với em là Dương Tụ Quán sáng lập và điều hành nguyệt san Văn Học tạp chí ở Hà Nội chuyên về cổ văn.

Dương Bạch Mai (1905-1964; sinh tại tỉnh Bà Rịa): năm 1932 cộng tác với các báo đối lập La Cloche felée, La Lutte, Mai, Dân Quyền ở Sài Gòn; bản thân theo khuynh hướng cộng sản Đệ tam.

Dương Đình Quang : chủ bút tuần báo Trung Kỳ tại Vinh, Nghệ An (1935-37).

Dương Lâm (1847-1916; sinh tại tỉnh Hà Đông): làm chủ bút báo Đồng Văn ở Hà Nội (1891).

Dương Minh Đạt (sinh tại tỉnh Chợ Lớn): ký giả, văn sĩ cộng tác thường xuyên với Công Luận Báo.

Dương Phượng Dực (Đông Lĩnh; 1897-1958; sinh tại tỉnh Hà Đông): chủ bút báo Trung Bắc Tân Văn; quản lý Học Báo; thành viên Ban Văn học, Hội Khai Trí Tiến Đức, Hà Nội; đại biểu Nhân Dân Bắc Kỳ; chủ trương và quản lý tuần báo Trung Bắc Tân Văn Chủ Nhật tại Hà Nội (1940-43).

Dương Quang Nhiều (Phụng Các; ngụ ở Sài Gòn): ký giả, văn sĩ cộng tác thường xuyên với các báo Trung Lập, Nhựt Tân…

Dương Quảng Hàm (Hải Lượng; 1898-1946; sinh tại tỉnh Hưng Yên): cộng tác tạp chí Nam Phong thời kỳ 1920-32; bị Việt Cộng sát hại đêm 19-12-1946 tại Hà Nội, do là đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng.

Dương Trọng Thực : chủ nhiệm tuần báo Hoạt Động tại Hải Phòng.

Dương Trung Thực : chủ nhiệm tuần báo Nghề Mới tại Hải Phòng (từ 1936).

Dương Tụ Quán (Khái Sinh, Mễ Nhân, Thật Lang, Trúc Nhân; 1901-1969; sinh tại tỉnh Hưng Yên): là em của hai học giả Dương Bá Trạc, Dương Quảng Hàm; lúc nhỏ học chữ Nho và trường Pháp-Việt, đậu bằng Thành chung năm 1921 rồi dạy học ở Hà Nội; năm 1929 lập nhà in Đông Tây và xuất bản sách, chủ trương và chủ nhiệm các tờ báo như Văn Học Tạp Chí (1932-33), Đông Tây Báo (1934-35), Ngày Mới (1939); tham gia thành lập và quản lý Tri Tân Tạp Chí (1941-45); thời kỳ 1945-54 về ẩn cư tại quê nhà Văn Giang, Hưng Yên; năm 1954 trở lại Hà Nội dạy học tư (1955-56); sau đó bị Việt Cộng bắt lao động cải tạo 2 năm (1958-59), rồi từ trần tại Hà Nội vì già yếu (1969).

Dương Văn Giáo (1892-1945; sinh tại tỉnh Vĩnh Long): tốt nghiệp tiến sĩ luật và chánh trị học tại Pháp; tham gia các hoạt động đòi độc lập cùng Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền tại Pháp; năm 1925 về Sài Gòn mở văn phòng luật sư, cộng tác với các báo La Lutte, La Clochefêlée, Đông Pháp, Thần Chung, Mai, Dân Chúng… và cũng là luật sư đặc trách của các báo trên; năm 1928 cùng với Trần Văn Ân, Lương Trung Nghĩa thành lập nhật báo Đuốc Nhà Nam ở Sài Gòn, quyết liệt chống đối chủ nghĩa thực dân Pháp, chủ trương bệnh vực giới nông dân và lao động thành thị; thành viên Ban lãnh đạo Việt Nam Phục Quốc Đồng Minh Hội; tháng 8-1945 tham gia giành chánh quyền tại Sài Gòn; ngày 24-9-1945 bị bí thư Xứ ủy Nam Bộ Việt Cộng là Trần Văn Giàu ra lệnh cho Huỳnh Văn Nghệ và Hồng Tảo bắt cóc tại gần chợ Bà Chiểu, Sài Gòn, đến cuối tháng 9 bị sát hại tại Chợ Bến Phân, Gò Vấp cùng với Lê Quang Kim.

Dương Văn Hạp : quản lý Nữ Lưu Tuần Báo ở Sài Gòn (1936-37).

Dương Văn Lợi : ký giả viết báo Pháp ngữ L’écho Annamite.

Đào Duy Anh (Vệ Thạch; 1904-1988; sinh tại tỉnh Hà Đông): năm 1927 cộng sự đắc lực với báo Tiếng Dân đối lập ở Huế, gia nhập và là tổng thư ký đảng Tân Việt, rồi chủ trương lập báo Quan Hải Tùng Thư, cơ quan văn hóa của Đảng Tân Việt; sau khi bị bắt giam và ra tù, đã thành lập và điều hành Kim Lai Tạp Chí tại Huế từ năm 1932.

Đào Nguyên Phổ (~Đào Văn Mại; 1861-1907; sinh tại tỉnh Thái Bình): từ năm 1892 làm chủ bút Đại Nam Đồng Văn Nhật báo, tờ báo chữ Hán đầu tiên xuất bản ở Hà Nội và cũng là nhật báo đầu tiên ở Việt Nam; năm 1905 kiêm chủ bút Đại Việt Tân Báo (L’Annam); năm 1907 khi Đại Nam Đồng Văn nhật báo đổi thành tuần báo Đăng Cổ Tùng Báo, ông tiếp tục làm chủ bút ban Hán văn cho đến khi mất.

Đào Thái Hanh (1871-1916; sinh tại tỉnh Sa Đéc): thông thạo Hán ngữ và Pháp ngữ; thời kỳ 1891-94 là thư ký Sở Thương chánh Sài Gòn, rồi thông sự địa hạt Bạc Liêu; cuối năm 1894 được điều ra làm ký lục tại Tòa Khâm sứ Trung Kỳ, tùng sự tại Bình Định; thành viên sáng lập và cộng tác viên Đô Thành Hiếu Cổ Tập San (Bulletin des Amis du Vieux Huế, 1914-16); từ 1915 là tuần phủ tỉnh Quảng Trị rồi mất năm 1916, được truy phong là Lễ Bộ thượng thư.

Đào Trinh Nhất (Anh Đào, Hậu Đình, Hồng Phong, Nam Chúc, Quán Chi, Tinh Vệ, Viên Nạp, Vô Nhị, XYZ; 1900-1951; sinh tại tỉnh Thái Bình): là con của học giả Đào Nguyên Phổ; trong 35 năm làm báo đã từng làm chủ bút hoặc viết báo cho các tờ: Hữu Thanh Tạp Chí, Thực Nghiệp Dân Báo, Trung Hòa Nhật Báo, Đông Pháp, Phụ Nữ Tân Văn, Thần Chung, Công Luận, Đuốc Nhà Nam, Mai, Trung Bắc Tân Văn, Trung Bắc Chủ Nhật, Sài Gòn Mới, Anh Sáng, Tri Tân, Tiểu Thuyết Thứ Bảy, Nước Nam, Việt Thanh, Cải Tạo… ở Sài Gòn thời Pháp thuộc; thời kỳ du học ở Pháp viết báo Việt Nam Hồn của An Nam Độc Lập (1926-28); năm 1934, tổ chức làm báo xuân Đuốc Nhà Nam là tờ báo xuân đầu tiên ở Việt Nam; năm 1936 mua và điều hành báo Mai; tháng 9-1936 cùng với Diệp Văn Kỳ và Bùi Thế Mỹ bị thống đốc Pagès trục xuất khỏi Nam Kỳ về an trí tại Bình Thuận (thuộc Trung Kỳ) khi các ông đang tham gia vận động cho phong trào Đông Dương Đại Hội; cuối năm 1937 trở lại tham gia các hoạt động báo chí tại Sài Gòn cho đến khi mất.

Đào Văn Châu (?-1945): cộng tác với báo Công Luận (1922) ở Sài Gòn; sau đó bị Pháp bắt đày Côn Đảo, đến cuối năm 1945 bị Việt Cộng sát hại.

Đạm Phương nữ sử (~Công Nữ Đồng Canh, Mme Nguyễn Khoa Tùng, Quý Lương; 1881-1947; sinh ở Huế): nữ ký giả, nữ sĩ, cộng tác thường xuyên và đã viết trên 155 bài báo khảo cứu, xã thuyết, tiểu thuyết và thơ đăng trên các báo Nam Phong tạp chí, Trung Bắc Tân Văn, Hữu Thanh, Tiến Dân, Lục Tỉnh Tân Văn, Phụ Nữ Tân Văn, Thực Nghiệm, Nữ Lưu Thư Quán Gò Gông (có trong ban biên tập)…

Đặng Phúc Thông (1906-1951; sinh tại huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh): tốt nghiệp kỹ sư Địa chất và Cầu đường tại Pháp; sau đó về nước làm việc tại Thái Nguyên; năm 1941 cùng thành lập và điều hành Tạp chí Khoa Học tại Hà Nội.

Đặng Thai Mai  (Thanh Bình, Thanh Tuyền; 1902-1984; sinh tại tỉnh Nghệ An; là con học giả Đặng Nguyên Cẩn): năm 1925 tốt nghiệp Cao đẳng Sư phạm Đông Dương – Hà Nội; từ 1928 dạy học tại Trường Quốc học Huế, rồi ở Hà Nội; biên tập viên tạp chí Tương Lai (L’Avenir) tại Hà Nội (1936-37); năm 1941 cùng thành lập và điều hành Tạp chí Khoa Học tại Hà Nội.

Đặng Thúc Liêng (Đặng Huẩn, Lục Hà Tẩu, Mộng Liên, Trúc Am; 1867-1945; sinh tại tỉnh Gia Định); là con quan án sát tỉnh Gia Định Đặng Văn Duy; lúc nhỏ tên là Đặng Huẩn, đến 30 tuổi đổi là Đặng Thúc Liêng; đã trực tiếp thực hiện sáng kiến của vua Đồng Khánh, sang Hong Kong mở một văn phòng mậu dịch với Trung Hoa, lấy tên là Thông Thương Nha, hoạt động hai năm 1887-88; là một trong những học giả thời tiên phong phổ biến quốc ngữ, cùng thời với Trương Vĩnh Ký, Trương Minh Ký, Diệp Văn Cương; cộng tác với tờ báo quốc ngữ đầu tiên ở Sài Gòn là Gia Định Báo; thời kỳ 1906-08 cùng với Trần Chánh Chiếu lập Minh Tân Công Nghệ để kinh doanh cạnh tranh với Hoa kiều và Ấn kiều tại Sài Gòn; viết báo Nam Kỳ trong phong trào Duy Tân rồi bị bắt; từ năm 1911 viết các báo ở Sài Gòn như Nông Cổ Mín Đàm, Lục Tỉnh Tân Văn, Nam Trung Nhật Báo, Công Luận, Đông Pháp Thời Báo, Thần Chung, Trung Lập, Đại Việt Tạp Chí…; cũng là một trong những người tham gia phát triển sân khấu cải lương thời kỳ đầu; năm 1931 thành lập và chủ nhiệm tuần báo Việt Dân Báo, hoạt động được một thời gian thì đình bản; thời kỳ 1934-36 tục bản tuần báo Việt Dân Báo nhưng để cho luật sư Phan Văn Thiệt đứng tên; năm 1944 cùng với Lê Phát Vĩnh sáng lập tuần báo Đông Phong; ngày 16-8-1945 ông bị Việt Cộng Sài Gòn sát hại hại tại làng Tân Quy Đông, Sa Đéc, do từ 2-12-1936 ông cho Cộng Sản Đệ Tam thuê báo Việt Dân nhưng chỉ ra hai số thì bị mật thám đe dọa nên phải đòi báo lại.

Đặng Trọng Duyệt : chủ nhiệm tuần báo Nhân Loại tại Hà Nội (từ 1934).

Đặng Văn Ký (Minh Tải; 1899-1975): viết nhiều sách báo từ 1920 đến thập niên 1970.

Đặng Văn Lợi : thiền sư, tăng trưởng chùa Trấn Quốc ở Hà Nội; tham gia thành lập và làm quản lý Tạp chí Tiếng Chuông Sớm (1935-36).

Điền Ngọc Phụng : năm 1937 thành lập và điều hành báo Dân Đen (Le Peuple noir) tại Sài Gòn.

Đinh Thái Sơn (tự Phát Toán hay Nguyễn Văn Toán; sinh tại tỉnh Nghệ An): tín đồ Công giáo; lúc trẻ làm phụ in sách quốc ngữ tại nhà in giáo xứ Tân Định, Sài Gòn; năm 1909 thành lập nhà in và xuất bản Phát Toán tại số 55-57 rue Ormay, còn gọi là nhà in Nguyễn Văn Toán hay nhà xuất bản Đinh Thái Sơn.

Đoàn Như Khuê (Hải Nam, Nam Thăng Dã; 1883-1957; sinh tại tỉnh Hưng Yên): chủ nhiệm tuần báo Tiểu Thuyết Thứ Ba (1937-38) và Tiểu Thuyết Nhật Báo (1938-39) ở Hà Nội.

Đoàn Phú Tứ (Tuấn Đô; 1910-1989; sinh tại Hà Nội): đậu bằng Tú tài Pháp; viết thơ văn từ năm 1925 lúc còn học ở lớp nhất, với những bài từ khúc đăng trên báo Đông Pháp; sau đó cộng tác với các báo Phong Hóa, Ngày Nay; năm 1937 thành lập và điều hành tạp chí Tinh Hoa chuyên về văn học ở Hà Nội; là thành viên nòng cốt của nhóm Xuân Thu Nhã Tập.

Đoàn Quang Tấn (bác sĩ): năm 1932-33 tham gia chủ trương và điều hành tạp chí Đồng Nai.

Đoàn Trung Còn (1908-1988; sinh tại Vũng Tàu): thi đậu bằng Thành chung (Diplomat), rồi đi làm tư chức tại Sài Gòn; năm 1931 thành lập Nhà xuất bản Đoàn Trung Còn, đặt tại tư gia số143 rue Dixmude (~Đề Thám), Sài Gòn; cũng từ năm 1931 biên soạn và xuất bản nhiều tập sách, truyện về Phật giáo; từ năm 1932 thành lập các cơ sở tu thư và xuất bản kinh sách Phật giáo như Phật Học Tòng Thơ (chuyên xuất bản những kinh sách Phật Giáo do riêng ông soạn, dịch), Phật Học Thơ Xã (chuyên xuất bản những kinh sách Phật Giáo do các chư tăng hay cư sĩ khác soạn, dịch), hoặc xuất bản sách Khổng giáo hay Hán văn như Trí Đức Tòng Thơ; năm 1955 cùng với chư Tăng và thân hữu thành lập Hội Phật giáo Tịnh Độ Tông Việt Nam, đặt trụ sở tại chùa Giác Hải, Phú Lâm Chợ Lớn, và được cử là trị sự trưởng Ban Chấp sự trung ương; đầu thập niên 70 xuất gia, thọ giới trở thành tu sĩ Thích Hồng Tại.

Đông Hồ : xem: Lâm Tấn Phác.

Đồng Sỹ Bình (sinh tại tỉnh Nghệ An): làm nhân viên tại Tòa Khâm sứ Pháp ở Huế; gia nhập và hoạt động trong Đảng Tân Việt và Việt Nam Quang Phục Hội; từ đầu năm 1926 bỏ nghề công chức để làm đặc phái viên tại Huế và Trung Kỳ cho một số tờ báo đối lập chánh quyền tại Sài Gòn và Hà Nội như: Tân Thế Kỷ…; tháng 3-1927 bị chánh quyền Pháp bắt giam sau khi viết những bài báo đả kích kịch liệt chánh quyền…

Đỗ Như Ngọc : xem: Đỗ Xuân Mai.

Đỗ Văn : cùng với Hoàng Tích Chu chủ trương Hà Thành Ngọ Báo (1927) và Đông Tây Nhật Báo ở Hà Nội, đích thân phụ trách việc ấn loát, trình bày, áp dụng kỹ thuật mới nhất của báo chí Tây phương; từ năm 1933 thành lập và điều hành tuần báo Nhật Tân tại Hà Nội.

Đỗ Văn Hỷ : thiền sư, được triều đình Huế ban hiệu là Tăng Cương hòa thượng; trụ trì chùa Linh Quang (tức Hòa Giai, hay Bà Đá) ở Hà Nội, là hội chủ Sơn môn Linh Quang; tháng 11-1934 thành lập và chủ nhiệm Tạp chí Tiếng Chuông Sớm (1935-36).

Đỗ Văn Tình : chủ nhiệm Ly Tao Tuần Báo tại Hà Nội từ năm 1937.

Đỗ Xuân Mai (sinh tại tỉnh Phúc Yên): thường được văn hữu gọi là ‘ông Mai Lĩnh’; năm 1932 cùng với em là Đỗ Như Ngọc thành lập và điều hành Nhà xuất bản Mai Lĩnh ở Hải Phòng, Nhà in và xuất bản Mai Lĩnh ở Hà Nội, cùng các chi nhánh ở Sài Gòn, Phúc Yên, Phú Thọ, Uông Bí, hoạt động đến 1944 thì bị chánh quyền Pháp rút giấy phép; từ 21-1-1935 chủ trương Hải Phòng Tuần Báo bộ mới; thời kỳ 1938-39 cũng quản lý Tiểu Thuyết Nhật Báo ở Hà Nội; năm 1944 chuyển hẳn vào điều hành Nhà xuất bản Mai Lĩnh ở Sài Gòn. Tên Nhà Mai Lĩnh được đặt theo di nguyện của cha ông là Đỗ Văn Phong (1860-1930), là một nhà nho hoạt động trong phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục tại Phúc Yên năm 1907, bị Pháp đày biệt xứ tại Guyane, Nam Mỹ; năm 1924 vượt ngục về nước, hoạt động tại Bạc Liêu cho đến khi mất năm 1930, có di nguyện lại cho các con cháu phát triển tiệm tạp hóa Mai Lĩnh của gia đình ở Phúc Yên thành cơ sở truyền bá văn hóa phục vụ dân tộc.

Edmond Gras : học giả Pháp, đồng sáng lập nguyệt san Đô Thành Hiếu Cổ Huế, 1914.

Ernest Babut : chủ nhiệm Đại Việt Tân Báo từ năm 1905 tại Hà Nội, là báo song ngữ Hán-Việt, và cũng là tờ báo quốc ngữ ra đời đầu tiên ở Bắc Kỳ.

Ernest Hippolyte Schneider (1843-?): chủ nhân hệ thống nhà in IDEO ở Hà Nội và Sài Gòn (1914-57).

Ernest Outrey (Antoine Georges Amédée Ernest Outrey; 1863-1941): thời kỳ 1884-1910 là viên chức hành chánh thuộc địa; giữ chức khâm sứ tại Lào (1910-11), Cambodia (1911-14), rồi phó thống đốc Nam Kỳ (1914-36); năm 1917 mua lại tờ báo L’Impartial ở Phnom Penh rồi chuyển về Sài Gòn, trực tiếp làm giám đốc chánh trị, và giao cho một viên chức thuế quan trẻ là Henry Chavigny de Lachevrotière làm chủ biên, đã đạt số lượng phát hành cao nhất Sài Gòn và Đông Dương suốt thời kỳ 1917-26; năm 1918 cũng thành lập và làm giám đốc chánh trị các tờ báo như Correspondance universelle, Bulletin des Renseignements coloniaux; năm 1919 thành lập tạp chí Le Midi colonial et maritime và thường xuyên viết nhiều bài xã luận thể hiện quan điểm cai trị trong đó, nhất là chủ trương chống lại quan điểm ôn hòa của toàn quyền Albert Sarraut muốn cải cách lập hiến thuộc địa; ngoài ra đã viết nhiều bài báo về chánh trị, kinh tế trên các báo chí: Paris-Midi (1914), Courrier saïgonnais (1915), Écho de Paris (1915-19), La Revue du Pacifique (1922, 1934), La Revue politique et parlementaire (1924), La Revue indochinoise (1925), Le Petit Journal (1935)…

Ernest Potteaux : thông ngôn tại Soái phủ Nam Kỳ (1862-65); chủ nhiệm Gia Định Báo (từ 1865).

Eugène Dejean de la Bâtie (1898-1946) sinh tại Hà Nội; có cha là một viên chức ngoại giao người Pháp, mẹ là người Việt. Tốt nghiệp Cao đẳng Công chánh Hà Nội và hoàn thành quân dịch, rồi ông trở thành nhà báo từ năm 1920 ở Sài Gòn, chuyên viết về xã hội, kinh tế, chánh trị. Năm 1923 ông làm chủ bút tờ La Voix annamite (Tiếng nói An-nam), gia nhập Nghiệp đoàn Báo chí Nam Kỳ do Henry Chavigny de Lachevrotière lãnh đạo. Từ tháng 12-1923 đến 6-1924, ông cũng đứng tên làm giám đốc và viết bài cho báo La Cloche Fêlée (Cái chuông rè) của Nguyễn An Ninh.Từ năm 1924 đến tháng 6-1925, ông viết báo L’Echo annamite (Tiếng vọng An Nam) do Nguyễn Phan Long làm chủ nhiệm; tháng 4-1925 viết trên đó bài báo tựa đề ‘Tại sao chúng ta không mong ước cho dân tộc An Nam được tự do ngay lập tức, khỏi sự bảo hộ của người Pháp’, đồng thời cho rằng ‘dân tộc An Nam cần nước Pháp để tiến hành hiện đại hóa đất nước’. Tháng 6-1925, ông đứng tên quản lý nhật báo L’Indochine (Đông Dương) đối lập chánh quyền của luật sư Paul Monin và ký giả André Malraux. Trong một bài báo trên đó, ông viết: ‘Tôi chẳng thuộc về giống thịt lẫn giống cá, nên có ưu thế là thuộc về cả hai! Nhưng thiên hướng tự nhiên của tôi khiến mình nghiêng nhiều hơn về phía những người yếu thế…’. Ông xông xáo tham gia vào cuộc tranh đấu do Monin và Malraux đứng đầu nhằm ‘đòi quyền dân chủ cho người dân bản địa: quyền tự do đi lại, tự do hội họp, tự do ngôn luận với sự cho phép một ngành báo chí tự do bằng Việt ngữ’. Tháng 5-1926, ông cùng với luật sư Phan Văn Trường thành lập và điều hành báo L’Annam, với ‘giọng văn còn tấn công hơn so với La Cloche fêlée nhắm vào chánh quyền Pháp’. Tháng 11-1928, ông mua lại của Nguyễn Phan Long tờ báo Pháp ngữ L’Écho annamite (Tiếng vọng An Nam), và làm giám đốc kiêm chủ nhiệm từ 1-11-1928 đến 4-1931 thì bị đình bản, sau khi đăng nhiều bài quyết liệt chống chánh quyền. Do tờ báo có khuynh hướng chống Cộng Sản Đệ Tam Stalinist nên cuối năm 1931, ông lại bị mật vụ cộng sản đệ tam mưu sát bằng một vụ đụng xe, làm ông bị thương nặng nhưng thoát chết. Sau vụ này, ông đã viết khôi hài: ‘Vậy ra là tôi đã bị một lưỡi rìu chém. Mà sao không phải là một cái búa hoặc một cái liềm?’. Năm 1932, ông gia nhập ‘nhóm những người theo chủ nghĩa xã hội Đông Dương’ và viết trên nhật báo Le Populaire của họ. Tháng 3-1939, ông tục bản báo L’Echo annamite với cam kết ‘phải đáp ứng những đòi hỏi của ban kiểm duyệt báo chí’ dưới chế độ thân Pétain, hoạt động đến tháng 1-1943 thì bán lại cho Nguyễn Đình Nhơn, rồi tiếp tục viết báo tự do. Sau đó ông lại bị mật vụ Việt Cộng ám sát bằng thuốc độc, từ trần trong bệnh viện ngày 31-12-1946, hưởng dương 48 tuổi.

Francois-Henri Schneider (1851-?): năm 1882 sang Sài Gòn phụ trách việc in ấn cho Dinh Thống đốc Nam Kỳ; năm sau được cử làm quản đốc nhà in Bảo hộ (Imprimerie du Protectorat) mới thành lập ở Hà Nội; năm 1885 mở hẳn một nhà in riêng mới từ Pháp đưa sang Hà Nội và bắt đầu công việc kinh doanh; năm 1886 mua luôn nhà in Bảo hộ; rồi phát triển thành chủ nhân hệ thống nhà in-xuất bản Imprimerie de F.-H. Schneider và IDEO hoạt động tại Hà Nội, Hải Phòng và Sài Gòn (1885-57); sáng lập và làm chủ, giám đốc, chủ nhiệm nhiều tờ báo tại Hà Nội và Sài Gòn như: Đại Nam Đồng Văn Nhật Báo (1891-1907), Nam Việt Quan Báo (1908-13), Lục Tỉnh Tân Văn (mua lại 1909), Nam Việt Công Báo (1911-13), Đông Dương Tạp Chí (1913-18), Pháp Việt Thông Báo (1914-18), Công Thị Báo (1914-15), Journal officiel de l’Indochine, Revue indochinoise, L’Avenir du Tonkin, Trung Bắc Tân Văn…; được bầu làm ủy viên Hội đồng thành phố Hà Nội, Phòng Thương mại và nhiều ủy ban quan hệ với nước ngoài; cố vấn chánh trị Phủ Toàn quyền Đông Dương…; năm 1920 nghĩ hưu và trở về Pháp.

G. Sipière : giám đốc chánh trị tuần báo Pháp ngữ L’Indochine nouvelle tại Sài Gòn (từ tháng 11-1924). 

Gabriel Võ Lộ (Dật Sĩ Tử, Dinh Châu): là chủ bút các báo Nhựt Tân, Nam Nữ Giới Chung… ở Sài Gòn.

Giác Ngã : ký giả viết báo Lục Tỉnh Tân Văn ở Sài Gòn.

H. Cucherrousset : giám đốc kiêm chủ bút tuần báo kinh tế L’Eveil économique de l’Indochine tại Sài Gòn (1917-22) và Hà Nội (1922-35).

Hàn Mặc Tử (~Nguyễn Trọng Trí, Lệ Thanh, Minh Duệ Thị, Phong Trần; 1912-1940; sinh tại Đồng Hới): đăng thơ trên báo từ từ năm 16 tuổi với bút hiệu Phong Trần và Lệ Thanh; rồi điều hành tờ phụ trương văn chương trên báo Saigon Mới với bút hiệu Hàn Mặc Tử, và phụ trách trang văn chương trên các báo Sài Gòn, Công Luận, Tân Thời, Trong Khuê Phòng…; sau đó mắc bịnh phong, vào điều trị tại bệnh viện Qui Hòa rồi mất ngày 11-10-1940.

Hải Triều (~Nguyễn Khoa Văn; 1908-1954; sinh tại Huế; là con bà Đạm Phương nữ sử): thành lập và điều hành báo Nhành Lúa tại Huế năm 1937.

Henri Blaquière : chủ tờ báo Pháp ngữ Le Courrier Saigonnais (1904-40); năm 1918 thành lập tuần báo Nữ Giới Chung tại Sài Gòn, cũng là tờ báo phụ nữ đầu tiên ở Đông Dương. 333

Henry Chavigny de Lachevrotière (1883-1951): sinh tại Sài Gòn, có cha là một phi công người Pháp và mẹ người Việt; lúc nhỏ về Pháp học, rồi trở sang Việt Nam làm việc trong ngành quan thuế ở Sa Đéc; từ năm 1917 lên Sài Gòn làm chủ biên tờ báo L’Impartial cho đến 1926 thì chuyển sang kinh doanh; năm 1928 thành lập và điều hành báo La Dépêche, đạt được số lượng phát hành cao nhất tại Sài Gòn (và cả Đông Dương) thời ấy; năm 1923 cùng thành lập và lãnh đạo Nghiệp đoàn Báo chí Nam Kỳ ở Sài Gòn; từng giữ chức chủ tịch Hội đồng Quản hạt Nam Kỳ (Conseil colonial de Cochinchine); làm chủ và giám đốc các khách sạn Majestic, Grand ở Sài Gòn, có phần hùn trong khách sạn Continental; làm chủ đồn điền cao su Lachevrotière rộng 1.100 ha ở Kampot (Cambodia), đồn điền Long Thuận rộng 240 ha ở Thành Tuy Hòa, cách Sài Gòn 64 cây số; năm 1945, ông sống ẩn dật tại Sài Gòn dưới thời Nhật chiếm đóng; năm 1946 thành lập báo L’union française, với đối tượng đọc là giới thượng lưu Pháp tại Đông Dương; ngày 12-1-1951, ông thiệt mạng vì một quả lựu đạn ám sát của mật vụ Việt Cộng tại Sài Gòn.

Hoàng Đạo : xem: Nguyễn Tường Long.

Hoàng Hoa Khôi (Bùi Thiện Chí, Hà Cương Nghị, Hoàng Giang; sinh năm 1917 tại tỉnh Nam Định): năm 1939 sang Pháp làm phiên dịch; sau đó tham gia phong trào Đệ Tứ Quốc Tế, biên tập các báo Công Binh tạp chí, Vô Sản, Tranh Đấu, Tiếng Thợ, Quan Sát, Chroniques Vietnamiennes…

Hoàng Minh Giám (Chu Thiên; 1904-1995; sinh tại tỉnh Hà Đông): là con của học giả Hoàng Tăng Bí; năm 1926 tốt nghiệp khóa 3 Trường Cao đẳng Đông Dương; sau đó dạy học ở Phnom Penh, Sài Gòn; năm 1941 cùng thành lập và điều hành Tạp chí Khoa Học tại Hà Nội; biên tập viên tạp chí Tri Tân (1941-45) ở Hà Nội.

Hoàng Minh Tuynh (1917-1977; sinh tại tỉnh Hưng Yên): chủ nhiệm tuần báo Đông Phương tại Hà Nội.

Hoàng Minh Tự (ngụ ở Sài Gòn): ký giả, văn sĩ cộng tác thường xuyên với báo Lục Tỉnh Tân Văn.

Hoàng Tăng Bí (Nguyên Phu, Tiểu Mai; 1883-1939; sinh tại tỉnh Hà Đông): viết báo Trung Bắc Tân Văn ở Hà Nội.

Hoàng Thiếu Sơn : chủ bút bán tuần san Tràng An Báo ở Huế (1942).

Hoàng Thị Tuyết Hoa : xem: Phan Thị Bạch Vân.

Hoàng Thúc Trâm (Hoa Bằng, Sơn Tùng; 1902-1977; sinh tại tỉnh Hà Đông): viết các báo Tuần Báo Tân Văn, Thế Giới Tân Văn (Sài Gòn), tạp chí Thanh Nghị và thành viên ban biên tập tạp chí Tri Tân (Hà Nội).

Hoàng Tích Chu (Hoàng Hồ, Kế Thương, Văn Tôi; 1897-1933; sinh tại tỉnh Bắc Ninh): đầu năm 1929 làm chủ bút Hà Thành Ngọ Báo; cuối năm 1929 cho đến 1932 cùng thành lập và điều hành báo Đông Tây, phổ biến lối văn mới theo cách viết báo của người Pháp ngắn gọn, sáng sủa dễ hiểu phù hợp với báo chí, làm cho Đông Tây trở thành tờ báo bán chạy nhất Bắc Kỳ thời đó.

Hoàng Trọng Miên (1918-1981; sinh tại Huế): là em hai học giả Hoàng Trọng Thược và Hoàng Trọng Quỵ; lúc nhỏ học trường Quốc học Huế; viết báo từ năm 1935 tại Huế; năm 1936 vào Sài Gòn làm phóng viên nhật báo Dân Quyền và báo Renaissance Indochinoise (1936-39); tham gia thành lập và chủ biên báo Trong Khuê Phòng (1937-39); trợ bút báo Asie Nouvelle, chủ bút báo Người Mới, cộng tác với báo Điện Tín; sau khi Nhật đảo chánh Pháp tháng 3-1945 thì về Huế cùng với Bùi Tuân, Bửu Tiến, Lưu Trọng Lư… thành lập đoàn kịch Trọng Miên; cuối năm 1945 tham gia Việt Cộng.

Hoàng Trọng Quỵ : xem: Thanh Nghị.

Hoàng Xuân Hãn (1908-1996; sinh tại tỉnh Hà Tĩnh): năm 1928 nhận được học bổng sang Pháp du học; tốt nghiệp cử nhân Xây dựng cầu đường (1934), cử nhân Khoa học, và thạc sĩ Toán (1936) tại Đại học Sorbonne, Paris; năm 1936 về Hà Nội viết sách và dạy học tại Đại học Khoa học, Đại học Nông nghiệp và Đại học Hà Nội; năm 1941 cùng thành lập và điều hành Tạp chí Khoa Học tại Hà Nội; năm 1943 cùng thành lập và điều hành Hội Truyền bá quốc ngữ tại Hà Nội; tháng 4-1945 là bộ trưởng Giáo dục – Mỹ thuật trong Nội các Chánh phủ Trần Trọng Kim, cho đến tháng 8 thì từ nhiệm.

Hồ Biểu Chánh : xem: Hồ Văn Trung.

Hồ Dzếnh (~Hà Triệu Anh; 1916-1991; sinh tại tỉnh Thanh Hóa; dạy học tại Hà Nội; làm thơ, viết báo từ năm 1931.

 – Hồ Hữu Tường (1910-1980; sinh tại tỉnh Cần Thơ): năm 1926 được bà con cho tiền sang Pháp học và đậu cử nhân Toán; năm 1927 gia nhập Đảng Cộng sản Pháp, theo khuynh hướng Đệ Tứ Quốc Tế và cùng với nhóm Nguyễn Ái Quốc viết bài trên báo Le Paria; năm 1930 chuẩn bị thi thạc sĩ thì tham gia tổ chức cuộc biểu tình phản đối bản án tử hình các thành viên Việt Nam Quốc Dân Đảng sau cuộc bạo động tại Yên Bái nên bị trục xuất về Sài Gòn; tại đây dạy học và viết báo, hoạt động trong Phái Tả Đông Dương theo khuynh hướng Đệ Tứ Quốc Tế; năm 1932 cùng với Đoàn Quang Tấn, Phan Văn Hùm điều hành tạp chí Đồng Nai; cũng trong năm này bị bắt, bị kết án ba năm tù treo; năm 1934 cùng Nguyễn An Ninh, Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm… thành lập tờ báo và nhóm La Lutte; năm 1938 tách khỏi tờ báo và nhóm La Lutte để thành lập và điều hành báo Militant, tạp chí Tháng Mười, tuần báo Tia Sáng (sau là nhật báo); giữa năm 1939 tuyên bố ly khai Đệ Tứ Quốc Tế và chủ nghĩa Marx; tháng 9-1939 bị bắt kết ám 4 năm tù giam ở Côn Đảo, cho đến 1944 mới được đưa về giam lỏng ở Cần Thơ.

Hồ Phú Viên : Nghi lễ đại thần tại Đại Nội, nghĩ hưu năm 1933; thành lập và điều hành báo Phụ Nữ Tân Tiến tại Huế (bộ mới) ở Huế (1934).

Hồ Tá Khanh (1908-1996; sinh tại tỉnh Phan Thiết): là con nghiệp chủ Hồ Tá Bang (đồng sáng lập và quản lý Tổng lý công ty Liên Thành ở Phan Thiết trong phong trào Duy Tân); tốt nghiệp bác sĩ tại Đại học Y khoa Paris; năm 1938 về nước mở phòng mạch tư, tham gia các hoạt động chánh trị, xã hội tại Sài Gòn; đồng thành lập và chủ bút tuần báo Văn Lang tại Sài Gòn năm 1939-40; giữ chức bộ trưởng Kinh tế trong Nội các Trần Trọng Kim của Đế quốc Việt Nam từ tháng 3 đến 8-1945.

Hồ Thị Thục : là con gái học giả Hồ Phú Viên; cùng chồng là Nguyễn Tấn quản lý và chủ bút tuần báo Phụ Nữ Tân Tiến (bộ mới) ở Huế (1934).

Hồ Văn Hiến (Viên Hoành; 1900-1957; sinh tại tỉnh Gò Công): là em ruột văn sĩ Hồ Biểu Chánh, từng viết cho các báo Nông Cổ Mín Đàm, Lục Tỉnh Tân Văn, Đông Pháp Thời Báo, Trung Lập, Công Luận… ở Sài Gòn trước năm 1945; sau 1945 viết báo: Dân Quyền, Trời Nam, Tiếng Dội…

Hồ Văn Kỳ Trân : là trưởng nam của nhà văn Hồ Biểu Chánh (Hồ Văn Trung); quản lý Nam Kỳ Tuần Báo tại Sài Gòn (1942-44).  

Hồ Văn Lang (Thất Lang; sinh tại tỉnh Gò Công): là em các nhà văn Hồ Biểu Chánh, Hồ Văn Hiến; chủ bút tờ Thời Báo tại Sài Gòn (1918-19); viết cho các báo ở Sài Gòn: Đại Việt Tạp Chí, Trung Lập, Công Luận, Nam Kỳ Thời Báo…

Hồ Văn Ngà (1901-1945; sinh tại Tân An): sáng lập và chủ bút báo Hưng Việt giữa năm 1945; bị Việt Minh sát hại tháng 10-1945 tại Đông Nam bộ.

Hồ Văn Nhựt (1905-1986; sinh tại tỉnh Sa Đéc): năm 1933 tốt nghiệp bác sĩ y khoa tại Paris, Pháp; năm 1938 về Việt Nam, thành lập Bệnh viện tư nhân phụ sản đầu tiên tại Việt Nam ở Phú Nhuận, ngoại ô Sài Gòn; sau đó là giám đốc Bệnh viện phụ sản Từ Dũ; năm 1939 cùng thành lập và điều hành tuần báo Văn Lang tại Sài Gòn.

Hồ Văn Sao : giám đốc nhà in và xuất bản Mékong ở Sa Đéc, chủ nhiệm Công Thương Báo (khoảng trước năm 1935).

Hồ Văn Trung (Hồ Biểu Chánh, Thứ Tiên; 1885-1958; sinh tại tỉnh Gò Công): năm 9 tuổi học chữ nho; năm 13 tuổi học quốc ngữ; năm 1905 đậu hạng nhì bằng Thành chung; năm 1906 làm ký lục dinh thượng thư Sài Gòn; năm 1911 làm ký lục ở Bạc Liêu; năm 1912 làm tùng sự ở Cà Mau; tám tháng sau về làm tùng sự ở Long Xuyên; cùng với bạn bè trong Hội Khuyến học Long Xuyên thành lập Đại Việt tạp chí (1-1918); năm 1918 làm tùng sự ở Sài Gòn; sáng lập ở Sài Gòn hai tờ báo Tribune Indigène và Quốc Dân Diễn Đàn (1918-1919); năm 1920 làm tùng sự văn phòng thống đốc Nam kỳ; năm 1921 đậu tri huyện; năm 1927 làm tri phủ-chủ quận Càng Long (Trà Vinh); năm 1932 làm chủ quận Ô Môn (Cần Thơ); năm 1934 làm chủ quận Phụng Hiệp (Cần Thơ); năm 1935 về Sài Gòn làm chủ sự và kiểm soát ngân sách thành phố; đầu năm 1936 thăng đốc phủ sứ; từ 4-8-1941 làm nghị viên Hội đồng Liên bang Đông Dương; từ 26-8-1941 đến 8-1945 làm nghị viên Hội đồng thành phố Sài Gòn kiêm phó đốc lý (như phó đô trưởng) chuyên về Bộ Đời dân Á Đông; từ 1942 đến 1944 kiêm nghị viên Hội đồng quản trị Sài Gòn-Chợ Lớn và cũng thành lập và kiêm giám đốc hai tờ báo Đại Việt Tạp Chí bộ mới và Nam Kỳ Tuần Báo cho đến 1945; năm 1946 làm đổng lý văn phòng Chánh phủ Cộng hòa Nam Kỳ; từ năm 1947 ngưng hoạt động chánh trị để chuyên tâm sáng tác văn chương; tổng cộng đã viết 64 tiểu thuyết, 12 tập truyện ngắn và truyện kể, 12 vở hài kịch và ca kịch, 5 tập thơ và truyện thơ, 8 tập ký, 2 dịch phẩm, 28 tập khảo cứu và phê bình, hàng trăm bài báo, xã luận, diễn thuyết.

Hồng Tiêu : xem: Nguyễn Đức Huy.

Huỳnh Thị Bảo Hòa (Huỳnh Thị Thái, Mme Vương Khả Lãm; 1896-1982; sinh tại tỉnh Quảng Nam): là phóng viên thường trực của Thực Nghiệp Dân Báo tại Đà Nẵng; cộng tác với các báo Nam Phong tạp chí, An Nam tạp chí, Tiếng Dân, Đông Pháp Thời Báo, Công Luận Báo, Phụ Nữ Tân Văn…

Huỳnh Thúc Kháng (Giới Sanh, Hải Âu, Khách Quan, Khỉ Ưu Sinh, Minh Viên, Ngu Sơn, Phi Bằng, Sử Bình Tử, Tha Sơn Thạch, Thức Tự Dân, Ưu Thời Khách, Xà Túc Tử; 1876-1947; sinh tại tỉnh Quảng Nam): năm 1927-43 sáng lập và làm chủ nhiệm, chủ bút báo Tiếng Dân tại Huế, đối lập với chánh quyền thực dân Pháp; đắc cử viện trưởng Viện Dân biểu Trung Kỳ.

Huỳnh Tịnh Của (Paulus Của, Tịnh Trai; 1834-1907; sinh tại tỉnh Bà Rịa): từ năm 1865 viết cho Gia Định Báo (1865-1897); từ 1869 làm chủ bút báo này.

J. Linage : chủ biên bán tuần san Le Courrier de Saïgon tại Sài Gòn (từ năm 1888).

Jean M. Hertrich : cùng với Nguyễn Mạnh Tường thành lập và đồng chủ bút nguyệt san Pháp ngữ EST (Nguyệt san Phương Đông) tại Hà Nội (1939-40).

Jules Boissière (1863-1897): nhà thơ và nhà văn Pháp; năm 1886 từ Paris sang Hà Nội làm thư ký cho thống sứ Trung-Bắc Kỳ Paul Bert; sau đó tham gia chiến đấu tại Tiểu đoàn súng trường 11 cho đến khi về Pháp năm 1891; năm 1892 cưới vợ và trở lại Hà Nội; được nhà kinh doanh Francois-Henri Schneider cử làm giám đốc kiêm chủ nhiệm tạp chí Pháp ngữ Revue indochinoise tại Hà Nội (1893-97); năm 1897 bệnh mất đột ngột lúc 34 tuổi.

Khái Hưng (~Trần Khánh Giư; 1896-1947; sinh tại Hải Phòng): tốt nghiệp Tư thục Thăng Long (Hà Nội); cùng thành lập và phụ trách về tiểu thuyết trong ban biên tập tuần báo Phong Hóa (1932-34); thành viên sáng lập Tự Lực Văn Đoàn (1933); chủ nhiệm báo Ngày Nay (1935-36); thập niên 1940 hoạt động chánh trị, là đảng viên Đảng Đại Việt Dân Chính; bị Pháp bắt giam đến tháng 3-1945 được trả tự do sau khi Nhật đảo chánh Pháp; sau đó cùng Hoàng Đạo, Nguyễn Tường Bách ra báo Ngày Nay kỷ nguyên mới; năm 1947 bị Việt Cộng bắt cóc và sát hại tại bến đò Cựa Gà, phủ Xuân Trường, tỉnh Nam Định.

Khổng Dương (~Trương Văn Hai; 1921-1947; sinh tại tỉnh Trà Vinh): lúc trẻ học trung học ở Cần Thơ, rồi trường Phú Xuân (Huế), Thăng Long (Hà Nội); cộng tác thơ văn trên các báo Tiểu Thuyết Thứ Bảy, Phổ Thông Bán Nguyệt San, Mới, Tổng Xã Báo, Đông Dương Tạp Chí, Trung Bắc Chủ Nhật, Văn Hóa…; sau đó về Sài Gòn lập nhà xuất bản Đồng Nai và cộng tác với báo Công Luận…; năm 1946 tham gia kháng chiến chống Pháp ở miền Tây, rồi tử trận vì trúng đạn từ máy bay Pháp tại Long Xuyên.

Khuông Việt : xem: Lý Vĩnh Khuông.

Kiều Oánh Mậu (Kiều Cung, Kiều Dực; 1854-1912; sinh tại tỉnh Sơn Tây): từ 1892 đến 1907 làm việc và viết cho Đại Nam Đồng Văn Nhật Báo ở Hà Nội.

Kim Giang : xem: Lê Văn Phúc.

Lan Khai (~Nguyễn Đình Khải, Nguyễn Lan Khai, Thế Hữu; 1906-1946; sinh tại tỉnh Tuyên Quang): vừa dạy tiểu học tại Tuyên Quang vừa viết bài cho tờ Ngọ Báo ở Hà Nội; năm 1929 gia nhập Việt Nam Quốc Dân Đảng rồi bị bắt, nhờ cha mẹ bán hết gia sản mới cứu được thoát chết và được thả năm 1932; năm 1934 về hẳn Hà Nội làm trong Ban biên tập báo Loa và cộng tác các báo như Tao Đàn tạp chí, Đông Tây…, chủ bút Đông Phương Tuần Báo; năm 1939 quản lý bán nguyệt san Tao Đàn; sau tháng 8-1945 về Tuyên Quang hoạt động trong Việt Nam Quốc Dân Đảng; cuối năm 1945 bị Việt Cộng sát hại tại quê nhà.

Lan Sơn (~Nguyễn Đức Phòng; 1912-1974; sinh tại Hải Phòng): phóng viên biên tập tuần báo Hải Phòng, tuần báo Phong Hóa, Ngày Nay, Tinh Hoa.

Lâm Hiệp Châu : cùng thành lập và điều hành tạp chí Học Báo (L’école indochinoise), in song ngữ Pháp-Việt tại Sài Gòn năm 1935.

Lâm Tấn Phác (Đại Ẩn Am, Đông Hồ, Lâm Trác Chi, Nhị Liễu tiên sinh, Quốc Tỷ, Thủy Cổ Nguyệt; 1906-1969; sinh tại tỉnh Hà Tiên): thành viên ban biên tập Nam Phong tạp chí và cộng tác thơ văn với các báo: Nam Phong, Trung Bắc Tân Văn, Tri Tân (Hà Nội), Phụ Nữ Tân Văn, Đông Pháp Thời Báo, Việt Dân, Mai (Sài Gòn); thời kỳ 1926-37 thành lập và điều hành Trí Đức Học Xá chuyên dạy Việt ngữ cho học sinh trong vùng Hà Tiên; năm 1935-36 thành lập và chủ bút tuần báo Sống ở Hà Tiên và Sài Gòn, nhưng chỉ ra được vài chục số thì đình bản vì gặp khó khăn về tài chánh; sau đó trở về Hà Tiên chuyên nghiên cứu văn học miền Nam; năm 1949 về Sài Gòn xuất bản tập san Nhân Loại, rồi mở nhà xuất bản Bốn Phương (1950).

Léopold Michael Cadière (Cố Cả; 1869-1955): linh mục thừa sai Công giáo tại Quảng Bình; chủ trương thành lập Hội Đô Thành Hiếu Cổ, chủ bút nguyệt san Đô Thành Hiếu Cổ Huế, 1914-44; bị Việt Cộng bắt giam cùng 6 linh mục khác tại Vinh và chiến khu từ 1-1947 đến 6-1953; sau đó được biệt kích Pháp giải thoát đưa về Huế.

Lê Chơn Tâm (Mộng Trần; 1887-?): chức sắc cao cấp Đạo Cao Đài; tháng 11-1926 đồng sáng lập Việt Nam Ái Quốc Liên Hiệp Hội với ký giả Cao Văn Chánh (Thạch Lan); chủ bút nhật báo Tân Thế Kỷ tại Sài Gòn (1926).

Lê Cường : chủ nhiệm Hà Nội Báo tại Hà Nội từ năm 1936; thành lập và điều hành nhà in-xuất bản Lê Cường tại Hà Nội.

Lê Đình Thám (Tâm Minh; 1897-?; sinh tại tỉnh Quảng Nam): là con của Binh Bộ thượng thư Lê Đỉnh triều vua Tự Đức; tốt nghiệp thủ khoa Đông Dương y sĩ khóa 1916 và đậu Y khoa bác sĩ khóa 1930; thời kỳ 1929-32 quy y tại gia với hòa thượng Thích Phước Huệ và Giác Tiên; tháng 12-1933 thay mặt An Nam Phật Học Hội thành lập và chủ nhiệm Tạp chí Viên Âm tại Huế.

Lê Đức : năm 1918 làm chủ nhiệm tuần báo Nữ Giới Chung tại Sài Gòn.

Lê Hoằng Mưu (Cao Hiển Vinh, Hoằng Bảo, Lê Hoằng, Lê Hoằng Bút, Mộng Huê Lầu; 1879-1941; sinh tại tỉnh Bến Tre): hoạt động văn bút từ năm 1917; chủ bút các báo Nông Cổ Mín Đàm (1912, 1915), Lục Tỉnh Tân Văn (1921-1930), Long Giang Độc Lập (1930, 1931); tổng lý Công Luận Báo (1924)…

Lê Hữu Nhơn : chủ nhiệm tuần báo Tiểu Thuyết Thứ Hai tại Vinh, Nghệ An (1935).

Lê Kim Tỵ (1893-1948): chức sắc nhóm Cao Đài Tiên Thiên, chức hiệu là Thiên Bồng Nguyên Soái, chủ trương sáng lập báo Cao Đài Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ (1938-1940) ở Tây Ninh và Sài Gòn; năm 1948 bị Việt Cộng sát hại tại tỉnh Gia Định.

Lê Ngọc Thiều : quản lý Tiểu Thuyết Tuần San ở Hà Nội năm 1933-37.

Lê Quang Khải : quản lý tuần báo thể thao Đời Nay tại Sài Gòn.

Lê Quang Liêm (1881-1945; sinh tại tỉnh Gò Công): tốt nghiệp trường trung học Chasseloup Laubat, Sài Gòn; sau đó làm thư ký tại Phủ thống đốc Nam Kỳ, thư ký Phủ Toàn quyền tại Hà Nội (1899-1906), tri huyện (1909-13), tri phủ (1913-14); thời kỳ 1914-20 tình nguyện sang Pháp phục vụ trong Đệ nhất thế chiến; năm 1920 về nước, chủ bút Đại Việt Tạp Chí (1920-21); năm 1921 cùng với Nguyễn Văn Của bỏ tiền ra mua lại và làm cố vấn tuần báo Lục Tỉnh Tân Văn (1921-44); được cử làm đốc phủ sứ (1923-26); năm 1923 cùng thành lập Đảng Lập Hiến Đông Dương, sáng lập viên và cùng điều hành, viết bài trên các cơ quan ngôn luận của Đảng, như báo La Tribune Indochinoise, Lục Tỉnh Tân Văn, Đuốc Nhà Nam…; năm 1926 được bầu vào Hội đồng Quản hạt Nam Kỳ, từng giữ chức phó chủ tịch hội đồng này thời kỳ 1937-38; tháng 9-1945 bị mật vụ Việt Cộng sát hại tại Sài Gòn.

Lê Quang Trình : năm 1924 chủ nhiệm báo Le Progrès annamite (Tiến bộ An Nam) ở Sài Gòn, có khuynh hướng đối lập ôn hòa. 

Lê Sum (~Lê Khánh Sum, Trường Mậu; 1878-1927; sinh tại tỉnh lỵ Gò Công): dạy chữ nho tại quê nhà ít lâu, rồi lên Sài Gòn cộng tác với các báo: Nông Cổ Mín Đàm, Lục Tỉnh Tân Văn, Trung Lập, làm chủ bút Công Luận Báo (1916-22), kiêm phụ bút Nam Trung Nhựt Báo (1917-21).

Lê Thanh Cảnh : đồng sáng lập và điều hành báo Pháp ngữ Le Rigolo (Kẻ ngộ nghĩnh) tại Huế từ năm 1914; chủ trương và chủ nhiệm Thần Kinh Tạp Chí tại Huế từ năm 1927.

Lê Thành Lư : ký giả ở Sài Gòn, cộng tác điều hành và viết bài trên nhật báo Tân Thế Kỷ (1926-27); chủ bút bán tuần san Pháp Việt Nhứt Gia (tháng 4 và 5-1927).

Lê Thành Tuyển : đồng sáng lập và điều hành tuần báo Cười tại Huế từ năm 1936.

Lê Thành Tường : tháng 7-1921 mua lại của Võ Văn Thơm tờ báo Pháp ngữ L’Écho annamite (Tiếng vọng An Nam) tại Sài Gòn, và làm giám đốc từ 19-7-1921 đến 26-6-1922, sau đó bán lại cho Nguyễn Phan Long; tháng 4-1922 thành lập và chủ nhiệm tuần báo Nhựt Tân Báo (đến 7-1926).

Lê Thành Tường (bà ~): thành lập và chủ nhiệm kiêm chủ bút bán nguyệt san Phụ Nữ Tân Tiến ở Huế (1932-33); năm 1933 bán tờ báo cho Ngô Phú Viên, rồi chủ trương và điều hành Tiên Long Báo tại Huế từ năm 1933.

Lê Thọ Xuân : xem: Lê Văn Phúc.

Lê Tràng Kiều (~Lê Tài Phúng, Lê Tùng, Nàng Lê, Phan Hữu, Trường Phấn, Trường Thiên; 1912-1977; sinh tại tỉnh Nam Định): từ năm 1931 viết các bài về nhận định văn học, đăng trên Văn Học Tạp Chí ở Hà Nội; sau đó liên tục sáng lập và điều hành các báo ở Hà Nội: tạp chí Văn Học (1935) chuyên về kim văn, tuần báo Tân Thiếu Niên (1935) chuyên về thiếu niên nhi đồng, tuần báo Tiến Hóa (Bộ mới, 1935), Hà Nội Báo (chủ bút 1935-36) chuyên về sáng tác văn học; sau khi Hà Nội Báo bị đóng cửa thì ra tiếp tuần báo Tiểu Thuyết Thứ Năm để thay thế; năm 1939, Tiểu Thuyết Thứ Năm tạm đình bản, ông vào Sài Gòn thành lập báo Lá Lúa (1940-45).

Lê Trung Cang : chủ nhiệm nhật báo Điển Tín tại Sài Gòn (1935-45).

Lê Trung Nghĩa (Việt Nam; 1904-1947; sinh tại tỉnh Phú Yên): viết cho các báo: Đông Pháp Thời Báo, Đuốc Nhà Nam, Phóng Sự, L’Indochine nouvelle, Tribune Indochinoise… nổi danh với loạt bài điều tra về Đồng Nọc Nạn.

Lê Văn Bái (J. Leiba, Thanh Tùng Tử; 1912-1941; sinh tại tỉnh Yên Bái): năm 1935 thi đậu bằng Thành chung, rồi vào ngạch thư ký Tòa sứ Bắc Kỳ; làm thơ từ năm 1930, đăng trên các báo: Hà Thành Ngọ Báo, Loa, Tân Báo, Tin Văn, Ích Hữu, Việt Báo, Nam Cường, L’Annam nouveau, Tiểu Thuyết Thứ Bảy, Tri Tân…; thời kỳ 1936-38 được Vũ Đình Long mời làm phụ tá chủ bút về thơ của tuần báo Ích Hữu; mất khi 29 tuổi vì bệnh tim và lao phổi.

Lê Văn Hoàng : thành lập và chủ nhiệm tuần báo Chuyện Đời tại Hà Nội (1938-39).

Lê Văn Hòe (Vân Hạc; 1911-1968; sinh tại tỉnh Hà Đông): tốt nghiệp Trung học Bảo Hộ (trường Bưởi), Hà Nội; sáng tác thơ văn và viết sách từ năm 16 tuổi; năm 1936 là biên tập viên báo Đời Mới, chủ bút tờ Ngọ Báo (1936) và phụ trách phần nghiên cứu của tờ Trung Bắc Chủ Nhật (1940-41); từ năm 1941 mở Nhà xuất bản Quốc Học Thư Xã tại số 36 bis Tien Tsin, Hà Nội, vừa làm giám đốc vừa viết sách nghiên cứu văn học và sử học cho đến 1954; sau năm 1954 dạy học tại Bắc Việt.

Lê Văn Phúc (Kim Giang; ?-?): quản lý Nam Phong Tạp Chí tại Hà Nội (1917-34), rồi  thời kỳ 1933-34 làm chủ nhiệm tạp chí này; giám đốc Vệ Nông Báo (1923-32).

Lê Văn Phúc (Lê Thọ Xuân; 1904-1978; sinh tại tỉnh Bến Tre): tốt nghiệp trường Sư phạm Sài Gòn; dạy học và viết văn tại Sài Gòn và các tỉnh miền Nam; chuyên viết biên khảo trên các báo, tạp chí như: Đồng Nai, Đại Việt Tập Chí (từ 1942), Văn Lang, Nam Kỳ Tuần Báo (từ 1942), Tri Tân (từ 1941), Sông Hương, Việt Bút…

Lê Văn Siêu (1911-1995; sinh tại Hà Nội): tốt nghiệp trường Công nghệ thực hành ở Hải Phòng; năm 1932 làm đốc công Nhà máy gạch Đáp Cầu thuộc Sở Công chánh Hà Nội; thời kỳ 1934-36 làm chánh văn phòng nghiên cứu kỹ thuật Sở Hỏa xa Hồ Nam – Quảng Tây; thời kỳ 1938-44 trở về làm việc ở Sở Công chánh Hà Nội; thập niên 1940 cộng tác với với nhóm Hàn Thuyên ở Hà Nội, giữ chức trưởng ban Khánh tiết Hội Truyền bá quốc ngữ Hải Phòng; viết báo Tiếng Trẻ và một số sách về thanh niên và thực nghiệp do Nhà Hàn Thuyên xuất bản trước 1945.

Lê Văn Thiết : đồng sáng lập và điều hành báo Pháp ngữ Le Rigolo (Kẻ ngộ nghĩnh) tại Huế từ năm 1914.

Lê Văn Thử (Việt Tha; 1906-1969; sinh tại Sài Gòn): cộng tác báo La Lutte, Đồng Nai đối lập ở Sài Gòn từ 1933.

Lê Văn Trung (Thượng Trung Nhựt; 1876-1934; sinh tại tỉnh Chợ Lớn): làm chủ bút Nông Cổ Mín Đàm từ khoảng 1920 đến 1924; sau đó là một trong những lãnh tụ khai sáng đạo Cao Đài và được tôn là Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt.

Lê Văn Trương (Cô Lý; 1906-1964; sinh tại Hà Nội): khởi sự viết truyện ngắn đăng báo từ năm 1934; khi viết báo ở Hà Nội ký bút danh là Cô Lý; thời kỳ 1939-45 đã xuất bản 90 tiểu thuyết và truyện dài; từ năm 1932 cộng tác vơi báo Trung Bắc Tân Văn, nhà xuất bản Tân Dân Thư Quán và các cơ quan ngôn luận của Tân Dân Thư Quán như Tiểu Thuyết Thứ Bảy, Phổ Thông Bán Nguyệt San, Truyền Bá; cuối năm 1936 cùng với Vũ Đình Long chủ trương và điều hành tuần báo Ích Hữu chuyên về văn học; thời kỳ 1942-46 thành lập cơ sở xuất bản Lê Văn Trương; cuối năm 1946 tham gia kháng chiến chống Pháp; đến 1953 trở về Hà Nội rồi vào Sài Gòn, ngụ tại số 67, hẽm 100, đường Trần Hưng Đạo; vừa viết truyện vừa làm việc ở Nha Chiến tranh tâm lý và Đài Phát thanh Sài Gòn.

Lucie Saillard (bà ~): chủ nhiệm và quản lý bán tuần san Tràng An Báo (tháng 7-1942 đến 12-1945) ở Huế.

Louis Marty : giám đốc chánh trị và an ninh Phủ Toàn quyền Đông Dương; năm 1917 thành lập và làm giám đốc chánh trị Nam Phong Tạp Chí tại Hà Nội.

Lư Khê (~Trương Văn Em, Bá Âm; 1916-1950; sinh tại tỉnh Hà Tiên): đậu bằng Thành chung năm 1928; sau đó lên Sài Gòn dạy học và viết văn báo; cộng tác với các báo: Thế Giới Tân Văn, Nữ Lưu Tuần Báo, Văn Nghệ, Tự Do, Nay, Đông Tây, Gió Mùa…;  năm 1935 cùng với Đông Hồ, Mộng Tuyết, Trúc Hà trong nhóm ‘Hà Tiên tứ tuyệt’ xuất bản tờ báo Sống ở Hà Tiên, nhưng phát hành ở Sài Gòn; sau đó kết hôn với Nữ sĩ Manh Manh (Nguyễn Thị Kiêm) vào ngày 11-11-1937; sau năm 1945 làm chủ bút báo Tân Việt…

Lương Đức Thiệp (1904-1946; sinh tại tỉnh Hưng Yên): thành viên nhóm Hàn Thuyên ở Hà Nội và cộng tác với các tạp chí Văn Mới, Tri Tân, Thanh Nghị, Tao Đàn…; đóng góp nhiều chuyên đề về văn học Việt Nam và xã hội học Việt Nam từ cổ đại đến hiện đại; năm 1946 bị Việt Cộng sát hại vì là một thành viên Cộng Sản Đệ Tứ.

Lương Hiểu Chi : thành lập và giám đốc tuần báo Nữ Giới ở Sài Gòn (1938-39).

Lương Khắc Ninh (Dị Sử Thị, Dũ Thúc; 1862-1943; sinh tại tỉnh Bến Tre): thông thạo Hán ngữ, Pháp ngữ, quốc ngữ; nhân viên Thương chánh Bến Tre (1882-89); thông ngôn Tòa án Bến Tre, nghị viên Hội đồng Quản hạt Bến Tre (1889-1901); năm 1901 về Sài Gòn làm báo và hoạt động nghị trường; là nghị viên Hội đồng Tư vấn Nam Kỳ (từ 1901); chủ bút các báo Nông Cổ Mín Đàm (1901-06), Lục Tỉnh Tân Văn (1908-12)…

Lương Trung Nghĩa : ký giả viết báo Đuốc Nhà Nam ở Sài Gòn từ thập kỷ 30.

Lưu Hữu Phước (Anh Lưu, Hồng Chí, Huỳnh Minh Siêng, Long Hưng; 1921-1989; sinh tại tỉnh Cần Thơ): sau khi Nhật đảo chánh Pháp 9-3-1945, thành lập và điều hành báo Tiến là cơ quan ngôn luận của tổ chức Thanh Niên Tiền Phong.

Lưu Thoại Khải (Việt Đông; ngụ ở Sài Gòn): cộng tác với Công Luận Báo (1930-1931)…

Lưu Trọng Lư (Hy Kỳ, Lưu Thần; 1912-1991): sinh tại tỉnh Quảng Bình trong một gia đình quan lại; là em nhà thơ Lưu Kỳ Linh (Lưu Trọng Lai); học trường Quốc Học Huế rồi đi làm báo, viết văn dưới bút hiệu Hy Kỳ, Lưu Thần; chánh thức bước vào làng thơ từ năm 1932 và là là một trong những người khởi xướng phong trào thơ mới; chủ trương Ngân Sơn Tùng Thư; quản lý tuần báo Tiến Hóa (Bộ mới) tại Hà Nội (1935); viết báo Phụ Nữ Tân Văn, Phụ Nữ Thời Ðàm, Tiến Hóa, Tao Ðàn…

Lý Vĩnh Khuông (Khuông Việt, Phong Vũ, Thúy Lãnh, Việt Hà; 1912-1978; sinh tại tỉnh Sóc Trăng): trước 1945 viết báo trên Tri Tân Tạp Chí (từ 1941), Nam Kỳ Tuần Báo và Đại Việt Tập Chí (từ 1942), tuần báo Thanh Niên (từ 1943); sau 1945 thành lập và làm giám đốc báo Nay…Mai ở Sài Gòn (1947); đến tháng 11-1947 gia nhập Đảng Xã hội Pháp và sang Pháp; tiếp tục gửi bài về đăng các báo Việt Báo (1949, ký Thúy Lãnh), Mới (1952-1953, ký Việt Hà).

Mai Du Lân : tháng 7-1920, cùng thành lập và làm giám đốc chánh trị nhật báo Thực Nghiệp Dân Báo tại Hà Nội, hoạt động đến tháng 6-1935.

Mai Đăng Đệ : biên tập viên Tạp chí Tiếng Chuông Sớm (1935-36) ở Hà Nội.

Mai Huỳnh Hoa (~Mai Kim Ba; 1910-1987; sinh tại tỉnh Mỹ Tho; là vợ học giả Phan Văn Hùm): viết bài cho nhiều báo, tạp chí ở Sài Gòn.

Mai Lâm : xem: Nguyễn Đắc Lộc.

Mai Lĩnh : xem: Đỗ Xuân Mai.

Mai Văn Bộ : thay mặt tổ chức Thanh Niên Tiền Phong thành lập và điều hành báo Tiến tại Sài Gòn năm 1945.

Manh Manh (~Nguyễn Thị Kiêm, nữ sĩ Manh Manh; 1914-2005; sinh tại tỉnh Gò Công): cộng tác với báo Phụ Nữ Tân Văn ở Sài Gòn, tích cực cổ xúy cho phong trào thơ mới năm 1932-1934; năm 1937 kết hôn với nhà văn Lư Khê (Trương Văn Em); năm 1950 sang Pháp, ngụ tại Paris, sau khi Lư Khê từ trần tại Sài Gòn.

Michel Phan Huy Đức : đồng chủ trương và điều hành báo Vì Chúa tại Huế năm 1936.

Mộng Đài (~Trần Dũ Lương; 1920-2004; sinh tại tỉnh Quảng Ngãi): năm 1936 đậu trung học ở Huế, sau đó học trường Thương mại Quy Nhơn; năm 1939 vào Sài Gòn viết báo và thơ; thời kỳ 1940-42 là biên tập viên nhật báo Sài Gòn Mới của bà Bút Trà; thời kỳ 1943-45 tham gia điều hành tờ Dân Báo và tuần báo Thanh Niên Đông Pháp.

Mộng Sơn (~Vũ Thị Mai, Sơn Tiên, Vũ Thị Mai Hương; 1916-1992; sinh tại tỉnh Nam Định): năm 17 tuổi đăng bút ký ‘Đời Nhật Anh’ trên báo Phụ Nữ Thời Đàm (1933) ở Hà Nội với bút danh Sơn Tiên; sau đó cộng tác thơ văn trên các báo: Phụ Nữ Thời Đàm, Đông Phương, Văn Học Tạp Chí, Bắc Hà, Tiến Bộ, Đông Tây Báo, Mai, Tân Việt Nam, Tri Tân, Bạn Đường, Tiểu Thuyết Thứ Bảy, Phổ Thông Bán Nguyệt San, Thanh Nghị…; năm 1936 tham gia Nhóm Tao Đàn Bạch Nga của Nguyễn Vỹ và sáng tác nhiều bài thơ theo trường phái Bạch Nga; năm 1937 được Bùi Xuân Hạc mời làm chủ bút tuần báo Việt Nữ ở Hà Nội; thời kỳ 1938-39 tham gia phong trào đấu tranh Mặt trận dân chủ Đông Dương, viết nhiều bài báo đấu tranh, trong đó có loạt bài phóng sự ‘Vất vưởng’, ghi lại nỗi khổ của những đứa trẻ lang thang, không ai nuôi dưỡng ở Hà Nội; năm 1940 kết hôn với nhà văn Nguyễn Uyển Diễm, rồi giữ mục ‘Đàn Bà đọc sách’ trên tờ tuần báo Đàn Bà do nữ sĩ Thụy An chủ trương.

Nam Trân (~Nguyễn Học Sỹ; 1907-1967; sinh tại tỉnh Quảng Nam): đã viết bài trên các tạp chí Nam Phong, Văn Học, các tuần báo Sông Hương, Phong Hóa, Tràng An, Tân Tiến…

Nghiêm Thượng Văn : chủ nhiệm kiêm quản lý Kiến Văn Tùng Báo tại Hà Nội (từ 1936).

Ngô Đức Kế (Tập Xuyên; 1878-1929; sinh tại tỉnh Hà Tĩnh): đậu tiến sĩ Nho học và thông thạo quốc ngữ, Pháp ngữ nhưng không ra làm quan; năm 1907 cùng Đặng Nguyên Cẩn lập Chiêu Dương thư quán ở Vinh để tuyên truyền cách mạng và tham gia phong trào Đông Du, Duy Tân; năm 1908 bị Pháp bắt kết tội tiềm thông dị quốc đày ra Côn Đảo; năm 1921 được trả tự do về quê nhà ít lâu rồi ra Hà Nội viết báo, từ 1922 tham gia biên tập tạp chí Hữu Thanh; năm 1927 mở Giác Quần thư xã để xuất bản sách nhưng chỉ hai năm thì bệnh mất tại Hà Nội.

Ngô Quang Lý (1906-1976; sinh tại Sài Gòn): là bác sĩ và văn sĩ, viết trên các báo ở Sài Gòn, như Nam Kỳ tuần báo, tạp chí Phổ Thông…

Ngô Tất Tố (Bắc Hà, Hy Cừ, Lộc Đình, Lộc Hà, Phó Chi, Tân Thôn Dân, Thiết Khẩu Nhi, Thôn Dân, Thục Điểu, Thuyết Hải, Tuệ Nhơn, Xuân Trào…; 1894-1954): trong 28 năm đã viết hơn 1.360 bài báo (gần 4.500 trang) với 29 bút danh cho 27 tờ báo như: An Nam Tạp Chí (1926-27), Đông Pháp Thời Báo, Thần Chung, Phổ Thông, Đông Dương, Đông Phương, Hải Phòng Tuần Báo, Thực Nghiệp, Con Ong, Việt Nữ, Tiểu Thuyết Thứ Ba, Tương Lai, Công Dân, Thời Vụ, Hà Nội Tân Văn…; thời kỳ 1945-54 tham gia kháng chiến; năm 1954 bị lãnh đạo Hội Văn nghệ Việt Cộng tổ chức họp đấu tố trên đồi Nhã Nam vào đêm 20-4-1954, đả kích ông viết hai tập phóng sự Lều chõng và Việc làng trước 1945 là phạm tội phục cổ và truy bức ông phải ‘cho biết ý định phục cổ nhằm mục đích gì’; đến sáng thì dân làng thấy thi hài Ngô Tất Tố bị tháo xuống trong tư thế bị thắt cổ tại một căn nhà ở Yên Thế, Bắc Giang; sau đó bị địa phương không cho chôn tại nghĩa trang xã, mà buộc gia đình phải hỏa táng.

Ngô Thúc Địch : chủ bút nhật báo Phụ Nữ Thời Đàm ở Hà Nội (1930-31).

Ngô Văn Phú : quản lý tuần báo Nữ Giới ở Sài Gòn (1938-39).

Nguyên Hồng (~Nguyễn Nguyên Hồng): cộng tác các báo Tiểu Thuyết Thứ Bảy, Ngày Nay, Thế Giới, Mới, Người Mới, Đông Dương…

Nguyễn An Khương (sinh tại tỉnh Gia Định): lúc trẻ tốt nghiệp và hành nghề y sĩ; năm 1906 tham gia phong trào Minh Tân; thời kỳ 1900-1910 viết sách, báo ở Sài Gòn.

Nguyễn An Ninh (1900-1943; sinh tại Cần Giuộc, tỉnh Chợ Lớn): là con nhà văn Nguyễn An Khương; trong thời gian hoạt động ở Pháp (1918-25) đã viết nhiều bài đăng trên các báo Diễn Đàn Thông Tin Quốc Tế (của Quốc tế Cộng Sản), Inprekorr, L’Humanité (Nhân Đạo, của Đảng Cộng sản Pháp), La Revue Communiste, La Viie Ouvrière, Le Journal du Peuple (của Đảng Xã hội Pháp), Le Libertaire, Le Paria…; tháng 1-1922 cùng thành lập báo Le Peria (Người Cùng Khổ) ở Paris; năm 1923 thành lập báo La cloche fêlére (cái chuông rè) ở Sài Gòn để đấu tranh chống Pháp, chăm sóc tờ báo về mọi mặt và đích thân ôm báo đi bán để nắm dư luận độc giả và dân lao động.

Nguyễn Bá Học (1857-1921; sinh tại Hà Nội): từ 1918 đến 1921 viết cho Đông Dương tạp chí và tham gia Ban biên tập Nam Phong tạp chí ở Hà Nội.

Nguyễn Bá Trác (Tiêu Đẩu; 1881-1945; sinh tại tỉnh Quảng Nam): đậu cử nhân Hán học (1906), thông thạo quốc ngữ và Pháp ngữ; năm 1907 tham gia phong trào Đông Du, sang Nhật du học; năm 1908 bị Nhật trục xuất về Quảng Tây và vào học khóa võ bị chung với Trần Hữu Lực; năm 1914 bỏ về Hà Nội làm việc trong phòng Báo chí phủ Toàn quyền Đông Dương, làm chủ bút (1914-16) tờ Công Thị Báo bằng Hán ngữ; năm 1917 là trưởng Ban Hán ngữ Nam Phong Tạp Chí; sau đó được bổ làm tá lý Bộ Học ở Huế, tuần phủ Quảng Ngãi; cuối tháng 8-1945 bị Việt Cộng sát hại tại tỉnh Quảng Ngãi.

Nguyễn Bảo Toàn : thành viên Nhóm Tả Đối Lập – Đệ Tứ Quốc Tế ở Sài Gòn; cùng thành lập và làm chủ nhiệm các nhật báo Nhựt Báo (1937-39), Dân Mới (1938-39), là cơ quan ngôn luận của Nhóm Tả Đối Lập.

Nguyễn Bính : xem: Biến Ngũ Nhy.

Nguyễn Bính (~Nguyễn Trọng Bính; 1919-1966; sinh tại tỉnh Nam Định): thi sĩ; thành viên điều hành tuần báo Tiểu Thuyết Thứ Năm tại Hà Nội (1937-42).

Nguyễn Cát Tường (họa sĩ Le Mur; 1911-1946; sinh tại tỉnh Sơn Tây): tham gia ban biên tập tạp chí Phong Hóa ở Hà Nội.

Nguyễn Chánh Chiếu : mua lại của Nguyễn Đình Nhơn tờ báo Pháp ngữ L’Écho annamite (Tiếng vọng An Nam) tại Sài Gòn, và làm giám đốc từ 24-2 đến 14-9-1944 thì đình bản do biến động thời cuộc.

Nguyễn Chánh Sắt (Bá Nghiêm, Du Nhiên Tử, Tân Châu, Vĩnh An Hà; 1869-1947; sinh tại Tân Châu, Châu Đốc): thời trẻ từng làm thông ngôn đề lao Côn Nôn, công chức các sở Canh nông, Công chánh, Địa chánh và dạy Hán ngữ ở Sài Gòn; sau đó làm chủ nhiệm (1902-07) và chủ bút (1908-12, 1915-16) của tuần báo Nông Cổ Mín Đàm, chủ bút báo Lục Tỉnh Tân Văn (1907); từ khoảng 1906 bắt đầu dịch truyện Tàu; đồng thời tham gia phong trào Minh Tân, được cử về Mỹ Tho mở Minh Tân khách sạn (1906-08); đồng sáng lập Nam Kỳ Nhật Báo Ai Hữu Hội tại Sài Gòn khoảng năm 1918.

Nguyễn Công Tiễu : thành lập và điều hành tờ Khoa Học Tạp Chí tại Sài Gòn thời kỳ 1931-40.

Nguyễn Cửu Thạnh : tham gia điều hành báo Sông Hương tại Huế trong hai năm 1936-37.

Nguyễn Doãn Vượng : chủ trương và quản lý tuần báo Trung Bắc Chủ Nhật tại Hà Nội (1943-45).

Nguyễn Duy Hợi : chủ nhiệm tờ Hữu Thanh tạp chí (1921-1925) của Hội Ái hữu công thương Bắc Kỳ.

Nguyễn Duy Thanh : năm 1941 cùng thành lập và điều hành Tạp chí Khoa Học tại Hà Nội.

Nguyễn Đắc Lộc (Mai Lâm, Nguyễn Càn Khôn; sinh năm 1897 tại tỉnh Hà Nam, tự sát ngày 30-4-1975 tại Sài Gòn): học sinh trường Bưởi (1915-18); thời kỳ 1920-24 là nhân viên Sở Vô tuyến điện thuộc Phủ Toàn quyền; năm 1924 sang Paris, tham gia điều hành và phụ trách về mặt nghệ thuật và văn chương (với bút hiệu Nguyễn Càn Khôn) của các các báo của người Việt như: Le Paria (Người Cùng Khổ, 1924-26), Việt Nam Hồn (1926), Phục Quốc (1926), L’Âme Annamite (Hồn An Nam, 1927), La Nation Annamite (Dân tộc An Nam, 1927); năm 1927 về Hà Nội cộng tác với các báo Pháp ngữ như L’argus Indochinois, L’Ami du Peuple Indochinois, Oeuvre Indochinois; từ năm 1935 tham gia điều hành báo Union Indochinoise của Vũ Đình Dy.

Nguyễn Đình Hòe (1866-1942; sinh tại Huế): thông thạo Hán ngữ và Pháp ngữ; giáo sư thời đầu của trường Quốc Học Huế; giám đốc Trường Sư phạm Pháp Việt (1901-11); phó hiệu trưởng Trường Hậu bổ Huế (1911-17); thành viên sáng lập và cộng tác viên Đô Thành Hiếu Cổ Tập San (Bulletin des Amis du Vieux Huế, 1914-42); từ năm 1923 giữ chức thượng thư Bộ Lễ, sung Cơ Mật Viện đại thần, thái tử thiếu bảo, rồi về hưu năm 1935.

Nguyễn Đình Nhân : chủ nhiệm Cẩm Thành Tạp Chí tại Quảng Ngãi (từ 1936).

Nguyễn Đình Nhơn : mua lại của Eugène Dejean de la Batie tờ báo Pháp ngữ L’Écho annamite (Tiếng vọng An Nam) tại Sài Gòn, và làm giám đốc từ 6-1-1943 đến 24-2-1944, sau đó bán lại cho Nguyễn Chánh Chiếu.

Nguyễn Đình Thấu : năm 1931 chủ trương tạp chí Duy Tân, mở đầu cho ‘một khuynh hướng văn nghệ mới’.

Nguyễn Đình Thụy : năm 1941 cùng thành lập và điều hành Tạp chí Khoa Học tại Hà Nội.

Nguyễn Đỗ Mục (Trọng Hữu; 1866-1949; sinh tại tỉnh Sơn Tây): thành viên ban biên tập cựu học Đông Dương tạp chí.

 – Nguyễn Đôn Phục (Hy Cán, Tùng Văn; ?-1954; sinh tại tỉnh Thanh Hóa): thành viên ban biên tập cựu học Nam Phong tạp chí.

Nguyễn Đông Trụ : chủ bút tuần báo Nông Cổ Mín Đàm khoảng 1918-1920.

Nguyễn Đức Bính (Tiêu Viên): năm 1934 chủ bút tuần báo Sao Mai tại Huế; từ tháng 1-1935 chủ bút tuần báo hoạt kê Pháp ngữ Le canard déchainé tại Vinh.

Nguyễn Đức Huy (Hồng Tiêu, Như Hoa; 1902-1985; sinh tại tỉnh Quảng Ngãi): đã cộng tác với các báo Trung Lập, Công Luận, Đuốc Nhà Nam, Đông Pháp, Thần Chung…; cùng với anh là Bút Trà Nguyễn Đức Nhuận thành lập nhật báo Sài Gòn; chủ bút báo Sài Thành ở Sài Gòn, trực tiếp chuyên trách mục Tranh Xã Hội (Film du Jour), chuyên đả phá thói hư tật xấu đương thời với bút danh Như Hoa; vợ ông là Bà Tùng Long cũng là một cây bút tiểu thuyết nổi tiếng.

Nguyễn Đức Long : xem: Thượng Sỹ.

Nguyễn Đức Nhuận (1900-1968; sinh tại tỉnh Trà Vinh): chủ nhiệm tuần báo Phụ Nữ Tân Văn (2-5-1929 đến 18-3-1933).

Nguyễn Đức Nhuận (Huyền Đức, Phú Đức; 1901-1970; sinh tại tỉnh Gia Định): sáng lập và làm chủ bút các báo: Trung Lập (1924), Công Luận (2-1926 đến 8-1931), Bình Dân (1953-1954), Dân Thanh (196x), Điện Báo (196x); cộng tác các báo: Thần Chung, Tiếng Chuông, Sài Gòn Mới, Đuốc Nhà Nam…

Nguyễn Đức Nhuận (Bút Trà; 1900-1987; sinh tại tỉnh Quảng Ngãi): năm 1921 vào Sài Gòn viết văn, cộng tác với các báo Lục Tỉnh Tân Văn (1921), Đông Pháp Thời Báo (1923), Công Luận (1925); sau đó thành lập và chủ nhiệm các nhật báo Sài Thành (1929-33), Sài Gòn (1933-42), Sài Gòn Mới (1942-74); là anh của ký giả Hồng Tiêu-Nguyễn Đức Huy.

(Bà) Nguyễn Đức Nhuận (~Tô Thị Thân, Bà Bút Trà; 1903-1978; sinh tại Tân An): là vợ ký giả Bút Trà – Nguyễn Đức Nhuận; cùng với chồng thành lập và quản lý các nhật báo Sài Gòn (1933-42), Sài Gòn Mới (1942-74).

(Bà) Nguyễn Đức Nhuận (~Cao Thị Khanh): là vợ nhà báo Nguyễn Đức Nhuận (sinh 1900 tại Trà Vinh); thành lập và điều hành tuần báo Phụ Nữ Tân Văn tại Sài Gòn từ năm 1929 đến 1935.

Nguyễn Đức Phiên : thư ký tòa soạn bán tuần san Tràng An Báo ở Huế (tháng 9-1942 đến 12-1945).

Nguyễn Đức Phong : xem: Thái Phỉ.

Nguyễn Đức Quỳnh (Hà Việt Phương, Hoài Đồng Vọng, Hoài Nam Hoài, Vương Thương Thương; 1909-1974; sinh tại tỉnh Hưng Yên): năm 1926 nhận học bổng du học Pháp; năm 1931 nhận bằng kỹ sư điện toán và về nước, viết bài trên tờ Khoa Học Tạp Chí tại Sài Gòn; từ năm 1934 viết báo Tiếng Trẻ, Thời Thế, Quốc Gia (ở Hà Nội); năm 1936 thành lập nhóm Hàn Thuyên với tạp chí Văn Mới do ông làm chủ bút; năm 1946 cùng nhóm Hàn Thuyên tham gia kháng chiến; năm 1952 bỏ về Hà Nội, sau đó vào Huế, Sài Gòn tiếp tục sự nghiệp văn báo.

Nguyễn Gia Trí (1908-1993; sinh tại Hà Tây): họa sĩ, thành viên ban biên tập tạp chí Phong Hóa.

Nguyễn Giang (1910-1969; sinh tại Hà Nội): là con của học giả Nguyễn Văn Vĩnh; sau thời gian du học tại Pháp đã về Hà Nội tổ chức tu thư và xuất bản Tủ sách Âu Tây Tư Tưởng, đồng thời tái lập và làm chủ nhiệm Đông Dương Tạp Chí bộ mới từ năm 1937 đến 1943.

Nguyễn Háo Vĩnh (Hốt Tất Liệt; 1893-1941; sinh tại tỉnh Long Xuyên): viết văn, làm báo ở Sài Gòn; đã thành lập và điều hành Nhà xuất bản Xưa Nay ở Sài Gòn (1922-41), Nhà in Xưa Nay ở Gia Định (1926-41); đồng thời quản lý tờ báo Pháp ngữ L’Écho annamite (Tiếng vọng An Nam) từ tháng 4-1925 đến 10-1928.

Nguyễn Huy Bảo : đồng sáng lập và điều hành đặc san Pháp ngữ Les Responsables (Những người hữu trách) tại Huế từ năm 1936.

Nguyễn Huy Tưởng : cộng tác Tri Tân tạp chí.

Nguyễn Hữu Thu (Paul Sen): sinh tại Hải Phòng; là nhà kinh doanh khai thác mỏ, vận tải ở Bắc Kỳ; cùng với Bùi Hữu Tín thành lập và điều hành nhật báo Thực Nghiệp Dân Báo (10-7-1920 đến tháng 6-1935) tại Hà Nội.

Nguyễn Hữu Tiến (Đông Châu; 1874-1941; sinh tại tỉnh Hà Đông): thi đậu hai khoa tú tài Nho học, thông thạo quốc ngữ và Pháp ngữ; đã làm phiên dịch cho Đông Kinh An Quán và thành viên Ban Biên tập cựu học của Nam Phong Tạp Chí tại Hà Nội.

Nguyễn Khánh Toàn (1905-1993; sinh tại tỉnh Nghệ An): năm 1925 vào Sài Gòn viết báo, cùng với Tạ Thu Thâu thành lập báo Le Nhà quê, đăng nhiều bài chống Pháp nên bị bắt giam; năm 1928 ra tù, nhận được học bổng sang Pháp du học, rồi đến 1930 trốn sang Liên Xô học trường Đại học Phương Đông, hoạt động cho Quốc Tế Cộng Sản Đệ Tam; năm 1946 được Liên Xô cử về nước hoạt động, nhưng do bất đồng ý kiến với cố vấn Trung Cộng tin cậy nên chỉ được giao những nhiệm vụ trong ngành giáo dục và khoa học.

Nguyễn Khắc Hiếu (Tản Đà; 1888-1939; sinh tại tỉnh Sơn Tây): từ 1915 đến 1918 là thành viên ban biên tập cựu học của Đông Dương tạp chí; thời kỳ 1921-25 làm chủ bút Hữu Thanh tạp chí của Hội Ái Hữu công thương Bắc Kỳ; từ 1-7-1926 thành lập An Nam tạp chí ở Hà Nội nhưng bị khó khăn về tài chánh phải đình bản rồi tái lập đến ba lần, cuối cùng đến năm 1933 phải đình bản hẳn An Nam tạp chí; thời kỳ 1927-28 vào Sài Gòn giúp Diệp Văn Kỳ trong Ban biên tập Đông Pháp Thời Báo; sau khi đóng cửa An Nam Tạp Chí thì giữ mục ‘Vi Đàn’ trên Tiểu Thuyết Tuần San ở Hà Nội (1933-34), rồi làm biên tập viên Hán ngữ cho tạp chí Phật học Tiếng Chuông Sớm (1935-36).

Nguyễn Khoa Toàn (1898-1965; sinh tại Huế): tốt nghiệp trường Sư phạm năm 1923, rồi sang Pháp theo học trường Hội họa Fontainebleau; sau đó hành nghề họa sĩ; dưới triều vua Bảo Đại được cử làm tham tri Bộ Học, rồi tá lý thị lang tham tri Bộ Lại; năm 1941 thành lập và chủ nhiệm Giáo Dục Tạp Chí, là nguyệt san song ngữ Pháp-Việt ấn hành tại Huế; đầu năm 1948 tham gia cuộc vận động đòi độc lập cho Quốc gia Việt Nam, giữ chức tổng trưởng Bộ Giáo dục-Nghi lễ trong nội các của thủ tướng Nguyễn Văn Xuân; ngày 5-8-1948 tham gia phái đoàn Việt Nam đàm phán với Pháp tại Vịnh Hạ Long để ký hiệp định Pháp trao trả độc lập cho Việt Nam; thời kỳ 1951-55 là đại sứ Việt Nam tại Thái Lan.

Nguyễn Kim Đính : sáng lập và chủ nhiệm tờ báo đối lập Đông Pháp Thời Báo (15-3-1923 đến tháng 10-1927) ở Sài Gòn; đồng thời làm quản lý tờ báo Pháp ngữ L’Écho annamite (Tiếng vọng An Nam) từ tháng 10-1924 đến 1-1925.

Nguyễn Kim Hoàn : giám đốc tập san Ngày Nay ở Hà Nội (1936).

Nguyễn Lân : xem: Từ Ngọc.

Nguyễn Mạnh Bổng (Mân Châu; 1901-1952; sinh tại tỉnh Hà Đông): thông thạo Hán ngữ, Pháp ngữ; làm nghề thầy thuốc đông y, mở hiệu thuốc Hương Sơn Đường tại số 6, đại lộ Gia Long, Hà Nội; cộng tác viên tạp chí Nam Phong (1917-1934); biên tập viên các tạp chí Hữu Thanh, Tiếng Chuông Sớm (1935-36); thành lập và điều hành nhà xuất bản Hương Sơn tại số 6, đại lộ Gia Long (1937-50); năm 1950 vào Sài Gòn.

Nguyễn Mạnh Chất : đồng chủ trương tuần báo Trung Tâm tại Hà Nội.

Nguyễn Mạnh Tường (1909-1997; sinh tại Hà Nội): năm 1932 tốt nghiệp tiến sĩ luật tại Pháp; năm 1936 về Hà Nội dạy học; cùng với Jean M. Hertrich thành lập và đồng chủ bút nguyệt san Pháp ngữ EST (Nguyệt san Phương Đông) tại Hà Nội (1939-40).

Nguyễn Năng Quốc : tổng đốc tỉnh Thái Bình (tháng 7 -1927 đến 9-1929); tham gia Phong trào chấn hưng Phật giáo và đứng tên xin thành lập Hội Phật giáo Bắc Kỳ (1934-35) và được bầu làm hội trưởng đầu tiên; thành lập và chủ nhiệm Tạp chí Đuốc Tuệ (1935).

Nguyễn Nhược Pháp (1914-1938; là con học giả Nguyễn Văn Vĩnh): đã viết trên các báo Hà Nội Báo, Đông Dương tạp chí bộ mới, Tinh Hoa, Ngày Nay, Annam Nouveau…

Nguyễn Phan Lãng (Đàm Xuyên; ?-1948; sinh tại Hà Nội): cộng tác viên trường Đông Kinh Nghĩa Thục tại Hà Nội (1907); cộng tác viên tạp chí Nam Phong (1917-1934).

Nguyễn Phan Long (1889-1960; sinh tại Sài Gòn): thành viên Đảng Lập Hiến Đông Dương; tháng 6-1922 mua lại của Lê Thành Tường tờ báo Pháp ngữ L’Écho annamite (Tiếng vọng An Nam), và làm giám đốc từ 29-6-1922 đến tháng 10-1928, sau đó bán lại cho Eugène Dejean de la Batie; ngoài ra cũng thành lập và làm chủ nhiệm các báo ở Sài Gòn như La Tribune Indochinoise, L’Echo du Việt Nam, Đuốc Nhà Nam (1928); sau năm 1945 hoạt động trong phong trào Cách mạng quốc gia, là tổng trưởng Ngoại giao (1948); từ năm 1949 là thủ tướng Quốc gia Việt Nam.

Nguyễn Phó : cộng tác viên của báo L’Annam tại Sài Gòn (1926).

Nguyễn Quang Độ : thiền sư, trụ trì chùa Bảo Phúc ở Hà Đông; tham gia thành lập và làm phó chủ bút Tạp chí Tiếng Chuông Sớm (1935-36).

Nguyễn Quang Oánh (Băng Hồ; 1888-1946; sinh tại tỉnh Hải Dương): chủ trương Cổ Kim thư xã và Việt Nam thư xã ở Hà Nội (là anh ruột của văn sĩ Nguyễn Văn Ngọc).

Nguyễn Quốc Túy : đại biểu Viện Dân biểu Trung Kỳ; chủ trương báo Ánh Sáng tại Huế năm 1936.

Nguyễn Quý Hương (Lạc Nhân): từ năm 1927 làm phóng viên rồi chủ bút báo Tiếng Dân của Huỳnh Thúc Kháng ở Huế; sau năm 1954 là chủ bút báo Công Lý (ở Huế).

Nguyễn Tấn : đồng quản lý và chủ bút tuần báo Phụ Nữ Tân Tiến (bộ mới) ở Huế (1934).

Nguyễn Tấn Phong : quản lý tuần báo Nông Cổ Mín Đàm từ 1902 đến 1907.

Nguyễn Thành Út : chủ bút tuần báo Nam Kỳ Kinh Tế Báo tại Sài Gòn (1920-23).

Nguyễn Thế Phương (Lang Đình, Minh Tâm nữ sĩ, Nam Đình, Nguyễn Kỳ Nam, Nguyễn Thị Cẩm Vân; 1906-1978; sinh tại Tân An): từ 1926 làm phóng viên nhiều tờ báo Sài Gòn, chuyên về tin tức tòa án; làm chủ bút các báo Công Luận Báo (tháng 4 đến 10-1926), Tin Điển (1945-46), Thần Chung (1948-54); năm 1929 cùng với Diệp Văn Kỳ và Nguyễn Văn Bá sáng lập nhật báo Thần Chung ở Sài Gòn và làm chủ nhiệm kiêm chủ bút báo này từ cuối tháng 12-1948 đến 1954; năm 1938 cộng tác với báo Điển Tín và chủ trương ra một phụ trương báo Điện Tín lấy tên là Đuốc Công Lý, đối lập tranh đấu với chính quyền thực dân, nhất là chống lại chính sách Nam kỳ tự trị; quản lý tờ Đuốc Công Lý (1938-39); làm đổng lý văn phòng Bộ Tư pháp của bộ trưởng Trịnh Đình Thảo (1945); sau năm 1954 cũng chủ trương các báo Đuốc Nhà Nam, Dân Chủ Mới; được bầu uỷ viên kiểm soát Hội chủ báo Việt Nam niên khóa 1967-68.

Nguyễn Thế Truyền (1898-1969; sinh tại tỉnh Nam Định): lãnh tụ sáng lập Đảng An Nam Độc Lập (1923-27), Đảng Việt Nam Độc Lập (1927-39) tại Pháp; trong thời gian hoạt động ở Pháp (1920-27) đã viết nhiều bài đăng trên các báo Diễn Đàn Thông Tin Quốc Tế (của Quốc tế cộng sản), Inprekorr, L’Humanité (của Đảng Cộng sản Pháp), La Revue Communiste, La Viie Ouvrière, Le Journal du Peuple (của Đảng Xã hội Pháp), Le Libertaire, Le Paria…; tháng 1-1922 cùng thành lập báo Le Peria (Người Cùng Khổ) ở Paris; thành lập tại Pháp và làm chủ nhiệm kiêm chủ bút các báo Việt Nam Hồn (1-1926),  Hồn Việt Nam (9-1926), L’Ame Annamite (cuối 1926), La Nation Annamite (cuối 1926), Phục Quốc (cuối 1926), Résurrection (6-1927), Việt Nam (tháng 9-1927); năm 1953 chủ trương và điều hành tờ báo Thân Dân (L’Ami du peuple) ở Sài Gòn cho tới đầu thập niên 1960s.

Nguyễn Thị Lý : thành lập và chủ nhiệm báo Bạn Gái ở Hà Nội cuối năm 1945.

Nguyễn Thị Thanh Tú : chủ bút tuần báo Việt Nữ tại Hà Nội (1937).

Nguyễn Thị Oanh : chủ trương và chủ nhiệm tuần báo Việt Nữ tại Hà Nội (1945-46).

Nguyễn Thị Thảo : thành lập và chủ nhiệm kiêm chủ bút Tạp chí Phụ Nữ ở Hà Nội (1938-39).

Nguyễn Thị Thục Viên : chủ bút tuần báo Việt Nữ tại Hà Nội (1945-46).

Nguyễn Thúc Hào (1912-2009; sinh tại tỉnh Nghệ An): năm 1935 nhận bằng thạc sĩ Toán tại Đại học Khoa học Marseille, Pháp; sau đó về nước dạy học tại Quốc học Huế; từ năm 1936 đồng sáng lập và điều hành đặc san Pháp ngữ Les Responsables (Những người hữu trách) tại Huế; năm 1941 cùng thành lập và điều hành Tạp chí Khoa Học tại Hà Nội.

Nguyễn Thứ Lễ : xem: Thế Lữ.

Nguyễn Tiến Lãng (Hán Thu, Thượng Uyển; 1909-1976; sinh tại tỉnh Thái Nguyên): là em nhà văn Nguyễn Mạnh Bổng; thi đậu tú tài Pháp năm 1929; đã viết nhiều bài báo và sách bằng Pháp ngữ và Việt ngữ trên các báo Pháp-Việt; thời kỳ 1926-32 cộng tác với Nguyễn Văn Vĩnh trong tủ sách Âu Tây Tư Tưởng và Tản Đà trong An Nam Tạp Chí; thời kỳ 1932-34 là chủ nhiệm kiêm chủ bút cuối cùng của Nam Phong Tạp Chí tại Hà Nội; biên tập viên Pháp ngữ Tạp chí Tiếng Chuông Sớm (1935-36); năm 1940 kết hôn với con gái học giả Phạm Quỳnh là Phạm Thị Ngoạn; và cũng là em vợ của Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu và Phan Khôi.

Nguyễn Triệu Luật (Dật Lang, Phất Văn Nữ Sĩ; 1903-1946; sinh tại Hà Nội): nhà cách mạng, văn sĩ, ký giả; tốt nghiệp trường sư phạm Hà Nội, dạy học ở Tuyên Quang, Hà Nội, Hải Phòng, Vinh; tham gia hội nghị thành lập Việt Nam Quốc Dân Đảng (1927); sau cuộc nổi dậy Yên Bái (1930) bị Pháp bắt giam một thời gian rồi được thả nhưng bị cấm dạy học; chuyển sang viết truyện ngắn và viết cho các tờ báo như Nam Phong Tạp Chí, Trung Bắc Tân Văn, Ích Hữu, Tao Đàn, Tiểu Thuyết Thứ Bảy, Nhật Tân…; quản lý bán nguyệt san Tao Đàn tại Hà Nội năm 1939; đồng thời vẫn hoạt động trong Việt Nam Quốc Dân Đảng tại Hà Nội; bị Việt Cộng sát hại năm 1946.

Nguyễn Trọng Cẩn (Hoài Nam; 1900-1947; sinh tại tỉnh Quảng Bình): từ năm 1927 chủ bút tạp chí Thần Kinh của Lê Thanh Cảnh ở Huế; bản thân sáng tác văn chương trào phúng, thơ, khảo luận văn học, lịch sử, nhiều bài rất có giá trị.

Nguyễn Trọng Thuật (Đồ Nam Tử, Quảng Tràng Thiệt Cư Sĩ; 1883-1940; sinh tại tỉnh Hải Dương): hoạt động văn báo tại Hà Nội; thành viên Ban biên tập cựu học của Nam Phong Tạp Chí từ năm 1917 và Ban biên tập tạp chí Đuốc Tuệ của Hội Phật giáo Bắc kỳ; từ năm 1931 chủ bút Tân Thanh Tạp Chí; đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng.

Nguyễn Trung Như : biên tập viên Tạp chí Tiếng Chuông Sớm (1935-36) ở Hà Nội.

Nguyễn Tường Bách (Viễn Sơn; 1916-…; sinh tại tỉnh Hải Dương): là bác sĩ, em út của Nguyễn Tường Thụy, Nguyễn Tường Cẩm, Nguyễn Tường Tam, Nguyễn Tường Long, Nguyễn Thị Thế, Nguyễn Tường Lân; chủ trương tờ Ngày Nay-Kỷ Nguyên Mới năm 1945 định nối tiếp truyền thống báo Phong Hoá và Ngày Nay của Tự Lực văn đoàn trước đây, nhưng do thời cuộc nên chỉ thời gian ngắn sau là bị đình bản.

Nguyễn Tường Cẩm (1903-1947; sinh tại tỉnh Hải Dương): kỹ sư canh nông; sáng lập, làm giám đốc (5 số đầu) kiêm chủ nhiệm tuần báo Ngày Nay của nhóm Tự Lực Văn Đoàn ở Hà Nội trong hai năm 1935-36; năm 1947 bị Việt Cộng sát hại cùng với anh là Nguyễn Tường Thụy.

Nguyễn Tường Lân (Thạch Lam; 1910-1942; sinh tại tỉnh Hải Dương): viết văn báo ở Hà Nội từ năm 1931; thời kỳ 1932-34 trực tiếp phụ trách biên tập truyện ngắn trên tuần báo Phong Hóa; sau đó làm quản lý (1935-36) rồi chủ bút (1936-40) của báo Ngày Nay và là một trong những trụ cột của nhóm Tự Lực Văn Đoàn.

Nguyễn Tường Long (Hoàng Đạo, Tứ Ly; 1906-1948; sinh tại tỉnh Hải Dương): cùng với anh là Nhất Linh và em là Thạch Lam điều hành báo Phong Hóa, Ngày Nay, Chủ Nhật của nhóm Tự Lực văn đoàn, trực tiếp phụ trách biên tập nghị luận, pháp luật và giáo dục công dân trên tờ báo Phong Hóa.

Nguyễn Tường Phượng (Tiên Đàm; 1899-1974; sinh tại tỉnh Bắc Ninh): đồng sáng lập và làm chủ nhiệm kiêm biên tập viên tạp chí Tri Tân (1941-45) ở Hà Nội. 

Nguyễn Tường Tam (Nhất Linh; 1905-1963; sinh tại tỉnh Hải Dương): năm 1932 chủ trương tuần báo Phong Hóa, thành lập Tự  Lực Văn Đoàn; tháng 3-1936, báo Phong Hóa bị đình bản nên ông cho tục bản báo Ngày Nay làm cơ quan của Tự Lực Văn Đoàn cho đến năm 1939 chuyển sang hoạt động chánh trị.

Nguyễn Tử Thức (sinh tại tỉnh Gò Công): thành lập và làm chủ nhiệm Nam Trung Nhựt Báo tại Sài Gòn từ năm1917 đến 1921.

Nguyễn Uyển Diễm : nhà văn biên khảo; thời kỳ 1936-38 đồng chủ trương và điều hành tuần báo Tiến Bộ tại Bắc Ninh; năm 1940 kết hôn với nữ sĩ Mộng Sơn (Vũ Thị Mai Hương); từ năm 1950 cùng với Mộng Sơn thành lập Nhà xuất bản Vỡ Đất tại Hà Nội, hoạt động cho đến 1954.

Nguyễn Vạn An : chủ bút tuần báo Nghề Mới tại Hải Phòng (từ 1936).

Nguyễn Văn Bá : tốt nghiệp trường Sư phạm Hà Nội, sau đó dạy học ở Hà Nội; năm 1925 vào Sài Gòn viết cho tờ Đông Pháp Thời Báo, rồi làm chủ bút (1927-28) báo này; thời kỳ 1929-32 cộng tác với Diệp Văn Kỳ và Nguyễn Thế Phương điều hành (làm chủ bút) nhật báo Thần Chung (1929-1930) ở Sài Gòn theo chủ trương đối lập ôn hòa, thể hiện ý thức quốc gia dân tộc.

Nguyễn Văn Cổn (Thần Ðiện Tử; 1911-?; sinh tại tỉnh Thanh Hóa): năm 1926 sang du học ở Paris rồi London; từ năm 1931 về nước, cộng tác thơ văn với các báo: L’Ami du Peuple, Tiếng Dân…; năm 1939 vào Sài Gòn làm trưởng ban nhân viên tại Tòa soạn báo L’Echo Annamite (Tiếng vọng An Nam, 1939-43); phó giám đốc Đài Vô tuyến truyền thanh Sài Gòn (1943-45).

Nguyễn Văn Của : cùng hùng vốn duy trì tuần báo Nông Cổ Mín Đàm (1915-21); thành lập và điều hành nhà in Imprimerie de l’Union và báo Lục Tỉnh Tân Văn tại Sài Gòn, làm giám đốc nhật báo Lục Tỉnh Tân Văn từ 3-10-1921 đến tháng 12-1944; đồng sáng lập Nam Kỳ Nhật Báo Ái Hữu Hội tại Sài Gòn khoảng năm 1918.

Nguyễn Văn Đa (bà ~): năm 1930 thành lập nhật báo/tuần báo Phụ Nữ Thời Đàm ở Hà Nội và làm chủ nhiệm cho đến khi báo bị đóng cửa năm 1938; trong đó thời kỳ 1936-38, bà cho thuê tuần báo Phụ Nữ Thời Đàm làm cơ quan của Đệ Tứ Quốc Tế Cộng Sản ở Bắc Kỳ.

Nguyễn Văn Hữu : quản lý báo Nhi Đồng Họa Bản ở Hà Nội từ năm 1941.

Nguyễn Văn La : chủ nhiệm tuần báo Đọc tại Hà Nội trong hai năm 1938-39.

Nguyễn Văn Luận : thành viên Tòa soạn Đông Dương Tạp Chí (1913-19). 

Nguyễn Văn Luyện : bác sĩ; thành lập nhật báo Tin Mới tại Hà Nội, hoạt động thời kỳ 1939-45.

Nguyễn Văn Minh (Long Điền): thành viên ban biên tập tạp chí Tri Tân (1941-1945) ở Hà Nội.

Nguyễn Văn Ngọc (Ôn Như; 1890-1942; sinh tại tỉnh Hải Dương): cộng tác tạp chí Nam Phong (1917-1934) ở Hà Nội.

Nguyễn Văn Nguyễn (Ngũ Yến; 1910-1953; sinh tại tỉnh Mỹ Tho): từ 1934-1937 viết báo La Lutte, l’Avant garde, Dân Quyền, Mai ở Sài Gòn; thành viên Cộng Sản Đệ Tam.

Nguyễn Văn Nhựt : chủ trương và điều hành báo Zân tại Sài Gòn từ năm 1935.

Nguyễn Văn Quới : quản lý tuần báo Tiểu Thuyết Nam Kỳ tại Sài Gòn năm 1935.

Nguyễn Văn Sâm (1898-1947; sinh tại tỉnh Sóc Trăng): trước năm 1939 là thành viên Đảng Lập Hiến Đông Dương, viết báo La Turbune indigène (Diễn Đàn Bản Xứ), làm chủ nhiệm báo Đuốc Nhà Nam, chủ tịch Hội ký giả Nam Kỳ; năm 1938, thành lập báo Tự Do làm cơ quan tranh đấu của Đảng Việt Nam Quốc Dân Độc Lập do ông làm chủ tịch; ngày 10-10-1947, bị Việt Cộng ám sát trên xe buýt Sài Gòn-Chợ Lớn.

Nguyễn Văn Sinh (1917-1950; sinh tại tỉnh Quảng Ngãi): thời kỳ 1935-45 vào Sài Gòn viết bài đăng trên các báo: Đông Dương, Dân Quyền, Sài Gòn, Tin Điễn, Dân Báo, Công Lý, Truyền Tin, Presse Indochinoise (Báo Đông Dương), Soie dAsie (Chiều Á Châu); làm biên tập viên các báo: Tân Thời, Thời Sự, Dân Quý, Nghĩa Thầy, Renaissance Indochinoise (Phục Hưng Đông Dương); thời kỳ 1943-45 kiêm thêm thông ngôn cho hãng tin API của Nhật; sau năm 1945 tham gia Việt Cộng và viết báo tại Sài Gòn với bút danh Nam Quốc Cang và Nguyễn Thạch Sơn.

Nguyễn Văn Sỏi (Bồng Dinh, Giáo Sỏi, Liêm Khê, Thanh Phong): ký giả ở Sài Gòn từ thập niên 1920 đến thập niên 1950, ngoài viết báo còn dịch nhiều truyện Tàu với bút hiệu Thanh Phong.

Nguyễn Văn Sự : quản lý tuần báo Chuyện Đời tại Hà Nội (1938-39).

Nguyễn Văn Tạo (1908-1970; sinh tại Long An): đảng viên cộng sản, từ 1930 làm chủ bút báo Trung Lập của Trần Thiện Quý và cộng tác các báo La cloche félée, La Lutte, Mai, Dân Quyền, Đuốc Nhà Nam ở Sài Gòn.

Nguyễn Văn Thinh (1888-1946): sinh trong một gia đình đại điền chủ, có quốc tịch Pháp; năm 1907 tốt nghiệp thủ khoa khóa đầu tiên Đại học Y khoa Đông Dương; sau đó sang Pháp học tại Y Khoa Đại học Đường Paris (Faculté de Médecine de Paris), lấy bằng bác sĩ y khoa Pháp; năm 1926 gia nhập Đảng Lập hiến Đông Dương, đấu tranh đòi cho Đông Dương có quyền lập Hiến và tự chủ; năm 1937 thành lập và làm tổng thư ký Đảng Dân chủ Đông Dương; sáng lập viên Hội Truyền bá quốc ngữ Nam Kỳ, hội trưởng Hội Cứu đói Nam Kỳ, chủ tịch Hội Mễ cốc Đông Dương; sáng lập viên và viết bài trên các báo: Tribune Indochinoise (1926-42), L’Echo Annamite, Đuốc Nhà Nam…; tháng 10-1945 thành lập Mặt trận Bình dân Nam Việt (FPC) và các tờ báo Phục Hưng, Tiếng Gọi, để vận động thành lập nước Cộng hòa Nam Kỳ để cùng Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Lào, Cambodia trở thành các bang tự trị trong Liên bang Đông Dương; ngày 4-2-1946 được bầu vào Hội đồng Tư vấn Nam Kỳ; ngày 26-3-1946 được Hội đồng Tư vấn Nam Kỳ bầu làm thủ tướng đầu tiên của Chánh phủ Cộng hòa tự trị Nam Kỳ thuộc Liên bang Đông Dương; ngày 10-11-1946 bị mật vụ Việt Cộng sát hại tại tư gia trên đường Lê Văn Duyệt, Gia Định.

Nguyễn Văn Tính : đồng chủ trương tuần báo Học Sinh tại Sài Gòn (từ 1936).

Nguyễn Văn Tố (Ứng Hòe; 1889-1947; sinh tại Hà Nội): viết báo chuyên về văn học cổ Việt Nam cho các tạp chí ở Hà Nội như Đông Dương tạp chí, Trí Tri, Viễn Đông Bác Cổ, Tri Tân, thành viên ban biên tập Đông Dương tạp chí và Tri Tân tạp chí.

Nguyễn Văn Vĩnh (Đào Thị Loan, Lang Gia, Mũi Tẹt Tử, N.V.V., Quan Thành, Tân Nam Tử, Tông Gia; 1882-1936; sinh tại tỉnh Hà Đông): năm 1896 tốt nghiệp thủ khoa trường Thông ngôn (Collège des interprètes), được bổ làm thư ký Dinh Khâm sứ tại Hà Nội; năm 1906 sau khi dự cuộc đấu xảo ở Marseille, Pháp, trở về Hà Nội quyết định nghĩ làm công chức để ra kinh doanh, mở nhà in, làm báo, dịch sách; lần lượt làm chủ bút các báo ở Hà Nội như Đăng Cổ Tùng Báo (1907), Notre Journal (1908), Notre Revue Journal (1908), Đông Dương Tạp Chí (1913-18), Trung Bắc Tân Văn (1915-19), Nam Học Niên Khóa (sau đổi là Học Báo, 1919), An Nam Nouveau (1931); chủ nhân và chủ nhiệm báo Trung Bắc Tân Văn (1919-36); thành lập và làm chủ nhiệm kiêm chủ bút báo L’Annam nouveau; là một trong những người cùng sáng lập và giảng dạy ở Trường Đông Kinh Nghĩa Thục; năm 1936 sang Lào với ý định tìm vàng rồi bị bệnh kiết lỵ, mất ngày 1-5-1936 tại Tchépone (Lào).

Nguyễn Vỹ (Cô Diệu Huyền, Lệ Chi, Tân Phong, Tân Trí; 1912-1971; sinh tại tỉnh Quảng Ngãi): trước 1945 hoạt động báo chí tại Hà Nội; cộng tác với các báo Tiếng Dân, Văn Học tạp chí, Tuần báo Đông Tây (1936), Tiểu Thuyết Thứ Năm (1936), Phụ Nữ (1936), L’Ami du peuple, La Patrie Annamite; đồng sáng lập và điều hành báo La Revue Franco-Annamite và Le Cygne Bạch-nga. 

Nguyễn Xiển (1907-1997; sinh tại tỉnh Nghệ An): nhận được học bổng sang Pháp du học; năm 1932 tốt nghiệp Đại học Toulouse, Pháp; sau đó về Hà Nội dạy học; năm 1941 cùng thành lập và làm chủ bút Tạp chí Khoa Học tại Hà Nội.

Nguyễn Xuân Lương : chủ nhiệm Tạp chí Văn Mới tại Hà Nội.

Nguyễn Xuân Mai : đồng sáng lập và chủ nhiệm tuần báo Phong Hóa tại Hà Nội năm 1932, được vài tháng thì chuyển giao cho nhóm Tự Lực Văn Đoàn.

Nguyễn Xuân Thái : quản lý điều hành tuần báo Đông Tây, Tiểu Thuyết Báo (từ 1937), Văn Hóa Tạp Chí (từ 1939) tại Hà Nội.

Ngụy Như Kon Tum (1913-1991; sinh tại tỉnh Kontum): nhận được học bổng sang Pháp du học; năm 1936 nhận bằng thạc sĩ Lý-Hóa tại Đại học Sorbonne, Paris; năm 1939 về Sài Gòn dạy học; năm 1941 cùng thành lập và điều hành Tạp chí Khoa Học tại Hà Nội.

Nhất Linh : xem: Nguyễn Tường Tam.

Như Phong (~Nguyễn Đình Thạc; 1917-1985; sinh tại Hà Nội): đã viết bài trên các báo Tiểu Thuyết Thứ Bảy, Ích Hữu, Thời Vụ Mới…

Nhượng Tống (~Hoàng Phạm Trân, Mạc Bảo Thần; 1904-1949; sinh tại tỉnh Nam Định): nhà cách mạng, văn sĩ, ký giả; thông thạo quốc ngữ, Hán ngữ, Pháp ngữ; năm 1921 bắt đầu viết trên các báo Khai Hóa, Nam Thành, Thực Nghiệp Dân Báo (trợ bút, 1924), Hồn Cách Mạng, Hà Nội Tân Văn; năm 1927 gia nhập Nam Đồng Thư Xã và tham gia hội nghị thành lập Việt Nam Quốc Dân Đảng để hoạt động chống Pháp; năm 1929 bị bắt đày ra Côn Đảo; năm 1936 được ra tù nhưng bị quản thúc ở quê nhà; thời kỳ 1937-46 chuyên tâm sáng tác văn báo; đã viết bài cho tờ Thực Nghiệp Dân Báo (1924), Hà Nội Tân Văn (1940); năm 1947 hết bị quản thúc và trở lại Hà Nội hoạt động trở lại trong Việt Nam Quốc Dân Đảng; ngày 8-11-1949 bị mật vụ Việt Cộng ám sát tại tư gia là tiệm thuốc bắc số 128 phố Chợ Hôm, Hà Nội.

Paul Édouard Vivien (1858-1931): giám đốc điều hành tạp chí Pháp ngữ Le Midi colonial et maritime tại Sài Gòn từ năm 1919 đến 1927.

Paul Monin (1890-1929): luật sư; đảng viên Xã hội Pháp, thành viên Hội đồng Quản hạt Nam Kỳ; kịch liệt tranh đấu đòi các quyền tự do cho dân thuộc địa Việt Nam; cùng thành lập và đồng chủ nhiệm tại Sài Gòn các báo Pháp ngữ đối lập cấp tiến: nhật báo L’Indochine (1925), L’Indochine enchaînée (1925-26); sau đó từ trần vì bệnh sốt rét vào tháng 1-1929; hưởng dương 39 tuổi.

Phan Anh (1912-1990; sinh tại tỉnh Hà Tĩnh): luật sư, tốt nghiệp Khoa Luật, Đại học Đông Dương năm 1937; biên tập viên tạp chí Tương Lai (L’Avenir) tại Hà Nội (1936-37); sau đó cùng thành lập và điều hành Tạp chí Thanh Nghị (1941-45); giữ chức bộ trưởng Bộ Thanh niên trong Chánh phủ Trần Trọng Kim từ tháng 3 đến tháng 8-1945.

Phan Châu Trinh (1872-1926; sinh tại tỉnh Quảng Nam): lãnh tụ phong trào Duy Tân ở Việt Nam (1906-08); trong thời gian hoạt động ở Pháp (1912-25) đã viết nhiều bài đăng trên các báo Inprekorr, La Viie Ouvrière, Le Journal du Peuple (của Đảng Xã hội Pháp), Le Libertaire, Le Paria…; tháng 1-1922 cùng thành lập báo Le Paria (Người Cùng Khổ) ở Paris.

Phan Kế Bính (Bưu Văn; 1875-1921; sinh tại tỉnh Hà Đông): năm 1906 thi đậu cử nhân Hán học nhưng không ra làm quan, sống với nghề dạy học ở Hà Nội; viết báo từ năm 1907, phụ trách biên tập Hán văn trên Đăng Cổ Tùng Báo; cộng tác với các báo Lục Tỉnh Tân Văn, Đông Dương Tạp Chí, Trung Bắc Tân Văn…; từ năm 1913 là thành viên ban biên tập cựu học Đông Dương tạp chí và Trung Bắc Tân Văn.

Phan Khôi (Chương Dân, Tú Sơn; 1887-1959; sinh tại tỉnh Quảng Nam): năm 18 tuổi đậu tú tài Hán học; năm 1907 ra Hà Nội tham gia phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục và làm việc cho tạp chí Đăng Cổ Tùng Báo. Khi tờ tạp chí bị cấm, ông về Nam Định rồi về Hải Phòng ẩn náu. Ít lâu sau ông lén về Quảng Nam hoạt động trong phong trào Văn Thân cùng với Huỳnh Thúc Kháng. Trong cuộc Trung Kỳ dân biến, ông bị bắt và giam tại nhà tù Quảng Nam đến năm 1914 thì được ân xá. Ra khỏi tù, ông lại về Hà Nội viết cho Nam Phong Tạp Chí. Vì bất bình với Phạm Quỳnh, năm 1915 ông bỏ vào Sài Gòn viết cho báo Lục Tỉnh Tân Văn. Năm 1920, ông lại trở ra Hà Nội viết cho Thực Nghiệp Dân Báo và báo Hữu Thanh. Năm 1924, Thực Nghiệp Dân Báo và Hữu Thanh bị đóng cửa, ông lại trở vào Sài Gòn viết báo Lục Tỉnh Tân Văn, rồi từ 1929 là Thần Chung và Phụ Nữ Tân Văn. Năm 1932 trên báo Phụ Nữ Tân Văn, ông đăng bài thơ ‘Tình già’ làm phát động phong trào thơ mới ở Sài Gòn. Từ tháng 9-1933 đến 2-1935, ông trở ra Hà Nội làm chủ bút tuần báo Phụ Nữ Thời Đàm. Thời kỳ 1933-45, ông là một đảng viên nòng cốt của Việt Nam Quốc Dân Đảng. Năm 1935, ông vào Huế làm chủ bút tờ Tràng An Báo (tháng 3-1935 đến 2-1936), rồi năm 1936 xin giấy phép xuất bản báo Sông Hương, làm cơ quan bí mật của Quốc Dân Đảng tại Trung Kỳ. Tháng 3-1937, ông bán lại báo Sông Hương cho Đệ Tam Quốc Tế, rồi trở vào Sài Gòn dạy chữ Nho và viết tiểu thuyết.

Phan Nhung : tham gia điều hành báo Sông Hương tại Huế trong hai năm 1936-37.

Phan Thanh (Trạc Anh; 1908-1939; sinh tại tỉnh Quảng Nam): từ năm 1926 vừa dạy học vừa viết báo công kích chế độ thực dân Pháp; cộng tác với các báo ở Hà Nội từ 1928  như Le Travail, Rassemblement, Notre voix, Demain, Tin Tức, Thời Thế, Đời Nay…

Phan Thị Bạch Vân (~Phan Thị Mai, Hoàng Thị Tuyết Hoa, Madame Võ Đình Dần; 1903-1980; sinh tại tỉnh Biên Hòa): cộng tác với các báo Đông Pháp Thời Báo (trợ bút), Phụ Nữ Tân Văn… vào cuối thập niên 1930; thành lập Nữ Lưu Thơ Quán ở Gò Công (1928) nhưng do công khai truyền bá tư tưởng cách mạng nên chỉ không đầy hai năm thì thư quán bị cấm; ngày 10-2-1930 bị ra tòa về tội ‘phá rối cuộc trị an trong xứ bằng văn chương tư tưởng’.

Phan Thị Ngọc (Mỹ Ngọc): thành lập và giám đốc nguyệt san Nữ Công Tạp Chí tại Sài Gòn (1936-38).

Phan Trần Chúc (1907-1946; sinh tại tỉnh Thái Bình): cộng tác với các báo Tân Việt Nam, Ngọc Báo, Việt Báo xuất bản ở Hà Nội; sau ngày Nhật đảo chánh Pháp 9-3-1945 hoạt động chánh trị và tham gia Đại Việt Quốc Gia Liên Minh; đầu năm 1946 bị Việt Cộng sát hại tại Hoài Đức, Hà Đông.  

Phan Văn Giáo : đồng chủ trương tuần báo Học Sinh tại Sài Gòn (từ 1936).

Phan Văn Hùm (Phù Dao; 1902-1946; sinh tại tỉnh Thủ Dầu Một): năm 1932 cùng với bác sĩ Đoàn Quang Tấn và Hồ Hữu Tường, chủ trương và điều hành tạp chí Đồng Nai, rồi năm 1933 cộng tác với Tạ Thu Thâu, Nguyễn An Ninh, Trần Văn Thạch, Lê Văn Thử xuất bản báo La Lutte, làm cơ quan công khai đấu tranh với chánh quyền Pháp tại Sài Gòn; đã viết các báo như: Mai, Phụ Nữ Tân Văn, Việt Thanh, Dân Quyền, Thần Chung…; tháng 10-1945 bị Việt Cộng sát hại tại miền Đông Nam Bộ.

Phan Văn Tài : đồng sáng lập và điều hành báo Pháp ngữ Le Rigolo (Kẻ ngộ nghĩnh) tại Huế từ năm 1914.

Phan Văn Thiết (Lan Đình, Thân Việt; 1902-1987; sinh tại Cao Lãnh): là con của nhà thơ Trà Giang Thôn Lão (tức Phan Văn Dược, Hội đồng Phu); du học tại Pháp, đậu bằng Cử nhân Luật năm 1934; sau đó về Sài Gòn, vừa làm luật sư vừa làm chủ nhiệm kiêm chủ bút ba tuần báo: Tân Văn (1934-36), Việt Dân Báo (1934-36), Thế Giới Tân Văn (1936-37), viết nhiều bài chánh luận đối lập với chánh quyền thực dân; sau đó chủ trương và biên tập các tờ báo Dân Sanh (1938-39), Tiếng Dội, Blanc et jaune – Blanc et Noir; từ năm 1952 thôi làm báo để chuyên tâm làm công chức ngành luật pháp, thỉnh thoảng góp mặt trên một vài tờ báo ở Sài Gòn.

Phan Văn Trường (1876-1933; sinh tại tỉnh Hà Đông): nhận được học bổng sang Pháp du học và nhận bằng tiến sĩ luật; trong thời gian làm luật sư và hoạt động cách mạng ở Pháp (1908-25) đã viết nhiều bài đăng trên các báo Diễn Đàn Thông Tin Quốc Tế (của Quốc Tế Cộng Sản), Inprekorr, L’Humanité (Nhân Đạo, của Đảng Cộng sản Pháp), La Revue Communiste, La Viie Ouvrière, Le Journal du Peuple (của Đảng Xã hội Pháp), Le Libertaire, Le Paria; tháng 1-1922 tham gia thành lập báo Le Peria (Người Cùng Khổ) ở Paris; năm 1925 về Sài Gòn làm chủ bút báo La Cloche Félée (1925), đến 1926 đổi thành báo L’Annam, đối lập với chính quyền thực dân.

Phạm Bá Nguyên : chủ nhiệm tuần báo Phụ Nữ Tân Tiến (bộ mới) ở Huế (1934); từ năm 1936 thành lập và điều hành tạp chí Kinh Tế Tân Văn tại Huế.

Phạm Cao Củng (Phượng Trì; 1913-2012; sinh tại tỉnh Nam Định): chủ trương báo Học Sinh (1939) và nhà xuất bản Mai Lĩnh ở Sài Gòn.

Phạm Duy Tốn (Thọ An, Thời Mẫn; 1881-1924; sinh tại tỉnh Hà Đông): năm 1907, vào Sài Gòn cộng tác với báo Lục Tỉnh Tân Văn, đến 1913, trở ra Hà Nội tham gia ban biên tập tân học cho các tạp chí Đông Dương, Nam Phong và viết cho các báo Thực Nghiệp Dân Báo, Trung Bắc Tân Văn.

Phạm Ðình Bách (Hoa Sơn; 1910-?; sinh tại tỉnh Quảng Nam): năm 1928 hoạt động cho đảng Tân Việt, bị bắt giam; ra tù viết cho các báo ở Sài Gòn: Tranh Ðấu, Sống.

Phạm Ðình Tân (1913-?; sinh tại tỉnh Nam Ðịnh): cộng tác các báo Phụ Nữ Thời Ðàm, Thanh Nghị.

Phạm Huy Lục : thành viên Tòa soạn Đông Dương Tạp Chí (1913-19); giám đốc điều hành Revue judiciaire franco-annamite (Pháp-Viện Báo) tại Hà Nội từ tháng 5-1931.

Phạm Hữu Ninh : thành lập và quản lý tuần báo Phong Hóa ở Hà Nội, số đầu tiên ra ngày 16-6-1932, đến tháng 9-1932 nhượng lại cho Tự Lực Văn Đoàn; chủ nhiệm tuần báo Tiếng Trẻ (từ 1935).

Phạm Lê Bổng (1905-?; sinh tại Hà Nội): tốt nghiệp Đại học Đông Dương; là chủ hiệu bán pháo Tường Ký và nhà in Tường Ký ở số 51 phố Hàng Bồ, Hà Nội và còn sở hữu nhiều đất đai đồn điền ở nông thôn; sáng lập viên và thủ quỹ Hội Khai trí Tiến Đức; năm 1926 đắc cử nghị viên Viện Dân biểu Bắc Kỳ, rồi sau đó là chủ tịch Viện Dân biểu; thành viên của Hội đồng Cơ mật Bắc Kỳ, Đại hội đồng Kinh tế tài chánh Đông Dương, Hội đồng Quản lý sản xuất công nghiệp Đông Dương, Ủy ban địa phương về Thông tin và Tuyên truyền, Hội đồng quản trị Phòng Thương mại tại Hà Nội; thành lập và giám đốc kiêm chủ nhiệm tờ báo Pháp ngữ La Patrie Annamite (1933-45), và các báo Việt Báo (1936-42), Việt Cường (1942-45); tháng 9-1945 bị Việt Cộng tịch thu các cơ sở Tường Ký ở số 51 phố Hàng Bồ làm trụ sở báo Lao Động và trụ sở Xứ ủy Việt Cộng Bắc Bộ và Khu bộ Việt Minh Bắc Bộ.

Phạm Minh Kiên (Tuấn Anh; ngụ ở Sài Gòn): ký giả, văn sĩ cộng tác với các báo Nông Cổ Mín Đàm, Đông Pháp Thời Báo, Lục Tỉnh Tân Văn, Nam Kỳ Kinh Tế…; làm chủ bút các báo Nông Cổ Mín Đàm (từ số 123 tháng 8-1924 đến số 133 tháng 10-1924), Nhựt Tân Báo.

Phạm Ngọc Khuê (1913-1995; sinh tại tỉnh Hưng Yên): bác sĩ; thành lập báo Ngòi Bút năm 1941.

Phạm Ngọc Khuê (bà ~): thành lập và chủ nhiệm báo thiếu nhi Nhi Đồng Họa Bản tại Hà Nội từ năm 1941.

Phạm Quỳnh (Hồng Nhân, Thượng Chi; 1892-1945; sinh tại tỉnh Hải Dương): năm 1913-18 tham gia ban biên tập tân học Đông Dương Tạp Chí ở Hà Nội; làm chủ nhiệm kiêm chủ bút nguyệt san Nam Phong Tạp Chí từ Số 1 (1917) tới Số 192 (1934); sau đó, tiếp tục cộng tác mật thiết với chánh quyền Pháp, làm thượng thư Bộ Lại đứng đầu Triều đình Huế; ngày 23-8-1945 bị Việt Cộng sát hại ở Quảng Trị.

Phạm Trung Chánh : quản lý báo quốc ngữ Nhựt Tân Báo (L’Ere nouvelle, 1922-29) và bán tuần san Pháp ngữ L’Ere nouvelle (1926-29) của An Nam Lao Động Đảng tại Sài Gòn.

Phạm Văn Ký : đồng sáng lập và điều hành nhật báo Pháp ngữ La Gazette de Huế từ 1936.

Phú Đức : xem: Nguyễn Đức Nhuận.

Phùng Tất Đắc (Cố Nhi Tân, Lãng Nhân; 1907-2008; sinh tại Hà Nội): cộng tác với các báo: Đông Dương Tạp Chí, Đông Tây, Hải Phòng Tuần Báo, Ích Hữu, Nhựt Tân, Thời Báo; làm giám đốc hai tờ báo Pháp ngữ tại Hà Nội là: Fléchettes, Le Cri de Hanoi.

Pierre Fauquenot : năm 1934 thành lập và điều hành báo L’Alerte (Sự báo động) tại Sài Gòn; đến tháng 12-1939 bị mật vụ Pháp bắt giữ đem về xử án tù tại Pháp với cáo buộc ‘làm gián điệp cho Nhật Bản’; đến tháng 6-1940 được quân Đức thả ra sau khi chiếm được Paris.

Pierre Jeantet Sombsthay : thành lập, giám đốc kiêm chủ nhiệm tuần báo Lục Tỉnh Tân Văn ở Sài Gòn (1907-21); đến năm 1909 bán báo lại cho Francois-Henri Schneider làm chủ, nhưng vẫn tiếp tục làm giám đốc kiêm chủ nhiệm; từ năm 1912 là giám đốc kiêm quản lý tuần báo Le Cri de Saïgon tại Sài Gòn.

Quách Tấn (Đăng Đạo, Trường Xuân; 1910-1992; sinh tại tỉnh Bình Định): cộng tác với Phụ Nữ Tân Văn ở Sài Gòn từ năm 1929.

Raoul Serène (1909-1980): tiến sĩ; viện trưởng Viện Hải học Nha Trang; năm 1939-40 cùng với Cung Giũ Nguyên thành lập và đồng chủ nhiệm nguyệt san Pháp ngữ Les Cahiers de la Jeunesse (Tập san Thanh Niên) tại Nha Trang.

Sảng Đình (~Nguyễn Văn Thích; 1891-1978; sinh tại tỉnh Bình Định): thụ phong linh mục năm 1926; đã dạy tiểu học ở Khánh Hòa, rồi Huế (1911-17), Dòng Thánh Tâm Huế (1927-33), trường Providence Huế (1933-37), Tiểu chủng viện An Ninh Quảng Trị (1937-42), tuyên úy trường Pellerin và giáo sư Trung học Khải Định (Quốc Học Huế, 1942-46); sáng lập và điều hành tuần báo Vì Chúa tại Huế, xuất bản từ năm 1936 đến 1946 với tam ngữ Việt-Hán-Pháp.

Sương Nguyệt Anh (~Nguyễn Xuân Khuê; 1864-1922; sinh tại tỉnh Bến Tre): là con gái thứ tư của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu; năm 1918 về Sài Gòn làm chủ bút tuần báo Nữ Giới Chung (Tiếng chuông giới nữ). 

Tam Lang (~Vũ Đình Chí, Ba Phải, Chàng Ba, Linh Phương; 1901-1986; sinh tại Hà Nội): là nhà văn, nhà báo ở Hà Nội, chuyên viết phóng sự và nổi danh ngay với thiên phóng sự đầu tay có tựa đề ‘Tôi kéo xe’ (1935); năm 1938-39 sáng lập và điều hành tuần báo trào phúng, châm biếm Vịt Đực; thời kỳ trước năm 1945 từng làm chủ bút các báo như: Tin Mới, Cậu Ấm Cô Chiêu, Dân Chúng, Tia Sáng.

Tạ Quang Bửu (1919-1986; sinh tại tỉnh Nghệ An): nhận được học bổng sang Pháp du học; năm 1934 tốt nghiệp khoa Toán Đại học Bordeaux; sau đó về dạy học tại Huế; từ năm 1936 đồng sáng lập và điều hành đặc san Pháp ngữ Les Responsables (Những người hữu trách) tại Huế; năm 1941 cùng thành lập và điều hành Tạp chí Khoa Học tại Hà Nội.

Tạ Thành Kỉnh (Thành Kỉnh, Thẩm Thệ Hà; 1923-2009; sinh tại tỉnh Tây Ninh): năm 14 tuổi (1937) về Sài Gòn học và làm chủ bút tạp chí Bạn Trẻ, đồng thời viết thơ với bút hiệu Thành Kỉnh, đăng các báo ở Sài Gòn và Hà Nội như  Chúa Nhật, Điện Tín, Đồng Thinh, Phổ Thông bán nguyệt san, Thanh Niên; năm 1946 bắt đầu sử dụng bút hiệu Thẩm Thệ Hà; năm 1949 cùng với Vũ Anh Khanh thành lập nhà xuất bản Tân Việt Nam ở Sài Gòn.

Tạ Thu Thâu (1906-1945; sinh tại tỉnh Long Xuyên): năm 1926 cùng với Nguyễn Khánh Toàn xuất bản báo Le Nhà Quê, tranh đấu chống thực dân nhưng ít lâu bị cấm. Trong thời gian hoạt động tại Pháp, ông đã cùng thành lập (6-1927) và làm chủ bút (1928-29) của báo La Résurrection (hồi sinh). Tháng 5-1930 bị trục xuất về Sài Gòn, ông cộng tác với báo La Cloche Félée của Nguyễn An Ninh, rồi thành lập và điều hành các tờ báo: Tiền Quân (1930-36), Đông Tây Công Luận (1931-32), Đông Dương Tã Phái Cộng Sản Báo (La Gauche communiste indochinoise, 1932-36), La Lutte (tranh đấu, 1933-36) để tiếp tục chống Pháp; bị Pháp bắt từ tháng 4-1936 chung với Nguyễn An Ninh và một số nhà yêu nước khác, đến 1943 mới được thả. Do có thời gian chống lại Đảng Cộng sản trên báo chí thời Pháp nên ông bị Việt Cộng sát hại tại Quảng Ngãi cuối năm 1945. Về cái chết của Tạ Thu Thâu, Hồ Chí Minh đã trả lời đảng viên Xã hội Daniel Guérin trong buổi phỏng vấn ngày 25-6-1946 như sau: Ce fut un patriote et nous le pleurons… Mais tous ceux qui ne suivent pas la ligne tracée par moi seront brisés/(Tạ Thu Thâu) là một nhà ái quốc, chúng tôi đau buồn khi hay tin ông mất… Nhưng tất cả những ai không theo con đường chúng tôi đã vạch ra đều sẽ bị tiêu diệt. (Daniel Guérin. Ci-gît le colonialisme: Algérie, Inde, Indochine, Madagascar, Maroc, Palestine, Polynésie, Tunisie; témoignage militant. Walter de Gruyter, 1973. Trang 20. ISBN 3111654362).

Tâm Kính : là một thiếu nữ vừa đậu tú tài rất giỏi Pháp ngữ, làm chủ bút báo Pháp ngữ L’Essor Indochinois (Đông Dương Cất Cánh) tại Sài Gòn từ năm 1924 đến 1926.

Tân Dân Tử (~Nguyễn Hữu Ngỡi, Tân Vân Tử; 1875-1955; sinh tại tỉnh Gia Định): cộng tác với các báo Nông Cổ Mín Đàm, Công Luận, Lục Tỉnh Tân Văn…

Thanh Nghị (~Hoàng Trọng Quỵ; 1917-1988; sinh tại Huế): năm 1936 đậu tú tài Pháp-Việt trường Quốc học Huế; năm 1937 vào Sài Gòn làm chủ bút báo Trong Khuê Phòng chung với Hàn Mặc Tử; năm 1939 khi Đệ nhị thế chiến bùng nổ thì ra sống ở Hải Phòng; cuối năm 1945 tham gia Việt Cộng.

Thanh Tịnh (~Trần Văn Ninh, đến năm 6 tuổi được đổi thành Trần Thanh Tịnh; các bút hiệu khác là Pathé, Thinh Không; 1911-1988; sinh tại tỉnh Bình Định): tốt nghiệp trung học Pellerin của Giáo hội Công giáo ở Huế; từng làm hướng dẫn viên du lịch, đạc điền, dạy học; từ năm 1930 đăng thơ trên các báo: Phong Hóa, Ngày Nay, Tinh Hoa, Hà Nội Báo…; thành viên ban biên tập tuần báo Phong Hóa của Tự Lực Văn Đoàn ở Hà Nội.

Thao Thao (~Cao Bá Thao): phóng viên nhật báo Tin Mới tại Hà Nội (1939-45).

Thái Phỉ (~Nguyễn Đức Phong): là nhà giáo, năm 1935 thành lập báo Cậu Ấm (chuyên về thiếu niên nhi đồng), và tạp chí Tin Văn ở Hà Nội.

Thạch Lam : xem: Nguyễn Tường Lân.

Thạch Lan : xem: Cao Văn Chánh.

Thâm Tâm (~Nguyễn Tuấn Trình; 1917-1950; sinh tại tỉnh Hải Dương): đã viết trên các báo Tiểu Thuyết Thứ Bảy, Truyền Bá, Phổ Thông Bán Nguyệt San…

Thân Trọng Huề (1869-1925; sinh tại Huế): cựu thượng thư triều Nguyễn; thành viên ban biên tập cựu học Đông Dương tạp chí.

Thân Việt : xem: Phan Văn Thiết.

Thế Lữ (~Nguyễn Thứ Lễ, Lê Ta; 1907-1989; sinh tại Hà Nội): học trường Mỹ thuật, nhưng bỏ học giữa chừng để theo nghiệp văn chương; gia nhập Tự Lực Văn Ðoàn và cộng tác với các báo: Phong Hóa, Ngày Nay, Tinh Hoa…; thành viên ban biên tập tuần báo Phong Hoá của Tự Lực Văn Ðoàn.

Thiếu Sơn (~Lê Sỹ Quý; 1908-1978; sinh tại tỉnh Hải Dương): năm 1927 đậu bằng Thành chung và làm công chức ở Sở Bưu điện Gia Định; cộng tác viên báo Phụ Nữ Tân Văn (1929-1934) ở Sài Gòn.

Thiều Chửu (~Nguyễn Hữu Kha; 1902-1954; sinh tại Hà Nội): cư sĩ Phật giáo, tác giả biên soạn từ điển và dịch thuật; năm 1934 tham gia thành lập Bắc Kỳ Phật Giáo Hội và được cử làm quản lý và biên tập báo Đuốc Tuệ; năm 1945 được Việt Cộng cử làm bộ trưởng Bộ Cứu tế xã hội nhưng từ chối với lý do để thời gian tiếp tục giảng dạy các lớp Phật học và chăm sóc Viện cô nhi; năm 1946 tham gia kháng chiến chống Pháp với nhiệm vụ lao động sản xuất và dịch sách Hán-Việt cho Việt Minh; do nhiều lần tỏ ý thương xót những nông dân bị đấu tố và sát hại trong chiến dịch Cải cách ruộng đất, vì thế năm 1954 bị Việt Cộng đem ra đấu tố, quy tội là địa chủ và dùng Phật giáo để mê hoặc quần chúng, rồi đêm 15-6 âm lịch Giáp Ngọ (1954), ông leo lên thác Huống (xã Vạn Thắng, Phú Bình, Thái Nguyên) nhảy xuống sông Cầu tự vẫn; có để lại thư tuyệt mệnh ghi: ‘Cái án mạc tu hữu mà ông Nhạc Phi phải chịu đời phong kiến còn có lẽ, ai ngời đời nay chính bản thân tôi lại bị, thì tôi còn biết van vỉ làm sao được nữa’.

Thiện Đắc  : cộng tác với Lục Tỉnh Tân Văn từ 1907.

Thích Bảo Giám : thiền sư, trụ trì chùa Đông Lâm ở Bắc Ninh; tham gia thành lập và làm chủ bút Tạp chí Tiếng Chuông Sớm (1935-36).

Thích Chánh Tâm : hòa thượng; trụ trì chùa Thiên Phước (Trà Ôn); năm 1933 về Sài Gòn làm chủ nhiệm tạp chí Từ Bi Âm cho đến khoảng 1945.

Thích Doãn Hải (~Dương Văn Hiển): trụ trì chùa Tế Cát, Hà Nội; phó chủ bút Tạp chí Đuốc Tuệ (từ 1935).

Thích Khánh Hòa (~Lê Khánh Hòa, Thích Như Trí; 1877-1947; sinh tại tỉnh Bến Tre): xuất gia từ nhỏ, sau đó trụ trì chùa Tuyên Linh (Bến Tre); năm 1929 thành lập tờ báo Phật giáo bằng quốc ngữ đầu tiên tại Việt Nam là tập san Pháp Âm tại Mỹ Tho, để phát động phong trào chấn hưng Phật giáo từ Nam ra Trung Bắc; năm 1931 chủ trương thành lập và làm đệ nhất phó hội trưởng Nam Kỳ Nghiên Cứu Phật Học Hội; năm 1932 thành lập và làm chủ nhiệm Tạp chí Từ Bi Âm tại Sài Gòn đến 1933.

Thích Liên Tôn : hòa thượng tại chùa Long Khánh (Quy Nhơn); năm 1932 được hòa thượng Thích Khánh Hòa mời vào Sài Gòn làm phó chủ bút (1932-37), rồi chủ bút (1937-45) tạp chí Từ Bi Âm; năm 1945 trở về Quy Nhơn làm giáo thọ, dạy tại Phật học đường Long Khánh, rồi ra Huế dạy tại Phật học đường Ấn Ban ở chùa Báo Quốc.

Thích Thanh Tường (~Đinh Xuân Lạc; 1858-?): thiền sư, trụ trì chùa Trầm (ở Hà Đông) và chùa Vũ Thạch (phố Gia Long, Hà Nội); tham gia thành lập và quản lý Tạp chí Tiếng Chuông Sớm (1935-36); được tôn cử làm thiền gia pháp chủ đời thứ hai (từ 1936) của Bắc Kỳ Phật Giáo Hội.

Thích Thiện Chiếu (~Nguyễn Văn Tài, Xích Liên; 1898-1974; sinh tại tỉnh Gò Công): năm 1929 hưởng ứng phong trào chấn hưng Phật giáo, đã thành lập tập san Phật Hóa Tân Thanh Niên tại Gia Định để vận động trong giới thanh niên trí thức tham gia.

Thích Trí Hải (~Nguyễn Trọng Khải, Bích Liên, Mai Đình, Thận Thần Thị; 1876-1950): thi đậu tú tài, đã lập gia đình và dạy học ở quê nhà An Nhơn, Bình Định; năm 43 tuổi xuất gia, tu tại chùa Thạch Sơn (Quảng Ngãi); năm 1928 được hòa thượng Thích Khánh Hòa mời vào Nam tham gia phong trào chấn hưng Phật giáo; làm chủ bút tạp chí Từ Bi Âm (1932-37); năm 1934 trở về An Nhơn tạo lập chùa Bích Liên rồi năm 1935 trở về tiếp tục chủ bút tạp chí Từ Bi Âm; năm 1937 ra làm chủ bút tạp chí Tam Bảo tại Đà Nẵng; năm 1938 về Quy Nhơn làm giáo thọ, dạy tại Phật học đường Long Khánh; năm 1941 về trụ trì chùa Bích Liên cho đến khi viên tịch.

Thích Trung Thứ (~Phan Trung Thứ): hòa thượng, trụ trì chùa Bằng Sở, tại Thái Hà Ấp, Hà Đông; chủ bút Tạp chí Đuốc Tuệ (1935-36).

Thúc Tề (~Nguyễn Phước Nhuận, Nguyễn Thúc Nhuận, Lãng Tử; 1916-1946; sinh tại Huế): học trường Quốc Học Quy Nhơn; viết trên các báo: Hà Nội Báo, Văn Học Tạp Chí, Dân Quyền; thời kỳ 1935-45 chủ trương và điều hành các tờ báo ở Sài Gòn như: Mai (1935-45), Đông Dương (1938-45), Trong Khuê Phòng (1939-45); chủ bút Ðông Dương Tuần Báo ở Sài Gòn.

Thụy An (~Lưu Thị Yến, Băng Dương; 1916-1989; sinh tại tỉnh Hà Đông): là vợ ký giả Băng Dương; cộng tác tạp chí Nam Phong (từ 1929 ở Hà Nội); làm chủ nhiệm báo Phụ Nữ Tân Văn (Sài Gòn); thành lập và làm chủ nhiệm kiêm chủ bút tuần báo Đàn Bà Mới (ở Sài Gòn, 1934-37), tuần báo Đàn Bà (ở Hà Nội, 1939-45), quyền giám đốc Việt Tấn Xã; từ năm 1954 tiếp tục sống tại Hà Nội; năm 1958 bị Việt Cộng bắt và gán tội là ‘gián điệp phản động’ trong vụ án Nhân Văn-Giai Phẩm, năm 1960 bị kết án tù rồi tự chọc mù một mắt của mình; năm 1973 được trả tự do; năm 1976 vào Sài Gòn tu trong một ngôi chùa cho đến khi mất.

Thượng Sỹ (~Nguyễn Đức Long, Đức Long, Hoàng Lan, Huỳnh Bội Hoàng; 1906-1998; sinh tại Hà Nội): nhà nhà báo và nhà phê bình văn học; năm 1936 bắt đầu viết cho các báo chí ở Hà Nội; năm 1938-39 làm quản lý tờ báo trào phúng, châm biếm là tuần báo Vịt Đực (le Canard) của Tam Lang (Vũ Đình Chí); năm 1939-40 thành lập và chủ nhiệm báo trào phúng, châm biếm Con Ong (l’Abeille); thời kỳ 1940-45 chuyên viết phê bình văn nghệ trên bán nguyệt san Tin Văn và nhật báo Tin Mới.

Tô Ngọc Vân (Ái Mỹ, Tô Tử; 1906-1954; sinh tại tỉnh Hưng Yên): hoạ sĩ tốt nghiệp Đại học Mỹ thuật Đông Dương ở Hà Nội; từ năm 1931 cộng tác với các báo Nhân Loại, Phong Hóa, Ngày Nay, Thanh Nghị ở Hà Nội.

Tô Thị Để : thành lập và chủ nhiệm kiêm chủ bút Nữ Lưu Tuần Báo ở Sài Gòn (1936-37).

Tôn Thất Bình (?-1945): sinh tại Huế, là con của Tôn Thất Cung, một viên quan nhỏ ở Huế; dạy học ở trường Gia Long, rồi làm hiệu trưởng Trung học Thăng Long (Ngõ Trạm) ở Hà Nội; năm 1932 kết hôn với cô Phạm Thị Giá là trưởng nữ của học giả Phạm Quỳnh; từ năm 1934 đến 1945 kiêm chủ bút báo La Patrie Annamite (Tổ quốc An Nam) ở Hà Nội; tối 7-9-1945 bị mật vụ Việt Cộng đến nhà bắt đi giữa lúc ông cùng gia đình đang ăn tối, rồi sau đó bị sát hại, với lý do “là con rể thân cận của ‘Việt gian’ Phạm Quỳnh”.

Tôn Thất Hân : thượng thư Triều đình Huế; thành viên sáng lập và cộng tác viên Đô Thành Hiếu Cổ Tập San (Bulletin des Amis du Vieux Huế) từ năm 1914.

Tôn Thất Sa : họa sĩ; thành viên sáng lập và cộng tác viên Đô Thành Hiếu Cổ Tập San (Bulletin des Amis du Vieux Huế) từ năm 1914.

Tôn Thọ Tường (1825-1877; sinh tại tỉnh Gia Định): làm biên tập viên tờ báo Việt ngữ đầu tiên tại Việt Nam, là tờ Gia Định Báo từ 1865 đến 1877.

Trần Bá Vinh : dân biểu Trung Kỳ; tháng 1-1934 thành lập và chủ nhiệm tuần báo Sao Mai tại Huế, hoạt động đến đầu năm 1935.

Trần Chánh Chiếu (~Gilbert Trần Chánh Chiếu, Đông Sơ, Gilbert Chiếu, Kỳ Lân Các, Quang Huy, Tố Hộ, Trần Nhựt Thăng, Trần Thiên Trung; 1867-1919): sinh tại tỉnh Rạch Giá, thuộc gia đình giàu có; sau khi học xong trường tỉnh Rạch Giá, lên Sài Gòn học trường College dAdran; sau đó làm giáo học, rồi thông ngôn cho tham biện chủ tỉnh Rạch Giá; đứng ra khẩn đất vùng Tràm Chẹt và cất một phố chợ tại Rạch Giá, rồi về làm xã trưởng xã Vĩnh Thanh Vân ở quê nhà và vào Pháp tịch; năm 1906 trở lại Sài Gòn tham gia tổ chức Phong trào Minh Tân để hưởng ứng Phong trào Duy Tân và Phong trào Đông Du, công khai hô hào quốc dân tham gia phong trào duy tân cứu nước và đối lập ôn hòa với chánh quyền thực dân; chủ bút tuần báo Nông Cổ Mín Đàm (1906-07), Lục Tỉnh Tân Văn (1907-08); chủ bút tuần báo Nông Cổ Mín Đàm (1906-08), kiêm chủ bút báo Lục Tỉnh Tân Văn (1907-08); thời kỳ 1906-08 bỏ vốn lập Nam Kỳ kỹ nghệ công ty chuyên sản xuất xà bông hiệu Con Rết và hàng gia dụng, Minh Tân công nghệ xã, Nam Trung khách sạn ở Sài Gòn, Minh Tân khách sạn ở Mỹ Tho làm cơ sở kinh tài và giao liên cho phong trào; bị Pháp bắt giam từ tháng 10-1908 đến 4-1909; sau khi ra tù lại hoạt động tiếp nên lại bị bắt năm 1917 và mất trong tù năm 1919.

Trần Đắc Nội : quản lý tuần báo Nghề Mới tại Hải Phòng (từ 1936).

Trần Đình Phiên (sinh tại tỉnh Quảng Nam): từ năm 1928 cộng tác với báo Tiếng Dân do Huỳnh Thúc Kháng thành lập ở Trung kỳ, đối lập chống Pháp.

Trần Đức Bích : đồng chủ trương và điều hành tuần báo Tiến Bộ tại Bắc Ninh (1936-38).

Trần Đức Lai (~Bùi Bá Nhân, Mã Giang Tử, Thiềm Cung; sinh tại tỉnh Thanh Hóa): viết báo từ 1938, làm thông tín viên cho nhật báo Đông Pháp ở Thanh Hóa; thời kỳ 1940-45 làm thông tín viên tại Thanh Hóa cho nhật báo Tin Mới ở Hà Nội; viết văn từ 1942 với bút hiệu Thiềm Cung; thỉnh thoảng cộng tác với các báo Đàn Bà, Tiểu Thuyết Thứ Bảy với bút hiệu Mã Giang Tử; năm 1946 tham gia kháng chiến chống Pháp ở Thanh Hóa.

Trần Huy Liệu (Ẩm Hân kiếm bút, Côi Vị, Dân Nam, Hải Khánh, Nam Kiều; 1901-1969; sinh tại tỉnh Nam Định): từ 1924 vào Nam cộng tác với các báo Nông Cổ Mín Đàm, Rạng Đông, rồi làm chủ bút báo đối lập Đông Pháp Thời Báo của Nguyễn Kim Đính; đầu năm 1928 thành lập Cường Học thư xã xuất bản sách cổ võ tinh thần yêu nước, nâng cao dân trí; giữa năm 1928 gia nhập Việt Nam Quốc Dân Đảng và giữ chức bí thư Kỳ Nam Bộ; tháng 8-1928 bị Pháp bắt, bị kết án 5 năm tù và đày ra Côn Đảo; trong tù đã ly khai Quốc Dân Đảng để gia nhập Cộng Sản Đệ Tam và chống lại các đồng chí cũ của mình trong tù; năm 1935 bị trục xuất về Bắc Kỳ và được trả tự do; sau đó hoạt động tích cực cho Cộng Sản Đệ Tam; tháng 10-1939 lại bị bắt đày đi Sơn La, Bá Vân, Nghĩa Lộ; đến tháng 8-1945 tham gia cướp chánh quyến tại Hà Nội; nhưng sau đó chỉ được giao nhựng nhiệm vụ ‘có tánh chất tượng trưng’. 

Trần Mai Ninh (~Nguyễn Thường Khanh; 1917-1947; sinh tại tỉnh Thanh Hóa): đã cộng tác và biên tập các báo Bạn Dân, Thời Thế (1937), Tin Tức Thế Giới, Người Mới (1938), Bạn Đường (1939).

Trần Nguyên Bí : quản lý tuần báo Pháp-Việt tại Hà Nội từ năm 1941.

Trần Phong Sắc  (~Trần Đình Diệm, Đằng Huy, Giáo Sỏi, Phong Sắc; 1873-1928; sinh tại Tân An): từ khoảng 1899-1900 viết sách báo và cộng tác với các báo Nông Cổ Mín Đàm, Lục Tỉnh Tân Văn.

Trần Quang Nghiêm : quản lý tờ báo Pháp ngữ L’Écho annamite (Tiếng vọng An Nam) tại Sài Gòn (tháng 2 đến 4-1925); thành lập và làm chủ nhiệm bán tuần san và nhà in Pháp Việt Nhứt Gia tại Sài Gòn từ tháng 2-1927; đến tháng 4-1927 cho Cao Văn Chánh thuê báo làm phương tiện đấu tranh ngôn luận chống Pháp nên báo bị đình bản tháng 5-1927.  

Trần Quang Nghiệp (1907-1983; sinh tại tỉnh Mỹ Tho): nhà văn chuyên viết truyện ngắn; cộng tác với các báo Đông Pháp Thời Báo, Thần Chung, Công Luận, Trung Lập…

Trần Quang Tập : quản lý tuần báo Nghề Mới tại Hải Phòng (từ 1936).

Trần Tấn Quốc (~Trần Chí Thành, Anh Thành, Cao Trần Lãnh, Chàng Ba, Chí Thành, Nghệ Sĩ Mù, Thanh Huyền, Thanh Tâm, Trần Tích Lương, Trần Tử Văn; 1914-1987: sinh tại Cao Lãnh): năm 1930 đậu bằng Certificat d Etudes primaires (tiểu học); ngày 3-5-1930 tham gia rải truyền đơn và biểu tình chống Pháp nên bị bắt, kết án 5 năm tù, đầu năm 1931 bị đày ra Côn Đảo cho đến tháng 10-1934; năm 1936 lên Sài Gòn làm phóng viên báo Việt Nam của Nguyễn Phan Long; từ năm 1938 viết cho các báo Công Luận, Điển Tín, Nhựt Báo…; thời kỳ 1940-45 biên tập và chủ bút nhật báo Điển Tín.

Trần Thanh Địch (1912-2007; sinh tại Huế; là em nhà văn Trần Thanh Mại): cùng điều hành báo Trong Khuê Phòng (1938-39) tại Sài Gòn.

Trần Thanh Mại (1908-1965; sinh tại Huế): đồng sáng lập và điều hành tuần báo Cười tại Huế từ năm 1936.

Trần Thiên Dư (Tam Hà): đặc phái viên của nhật báo đối lập Tân Thế Kỷ tại Trung Kỳ; tháng 3-1927 bị chánh quyền Pháp bắt giam sau khi viết những bài báo đả kích kịch liệt chánh quyền…

Trần Thiện Quý : mua lại ấn bản Việt ngữ của báo Pháp ngữ L’Impertial là báo Trung Lập làm cơ quan đấu tranh đối lập với chánh quyền thực dân, giao cho Nguyễn An Ninh làm chủ bút.

Trần Thị Hiệp : thành lập và điều hành tuần báo Tân Văn tại Sài Gòn (1934-36).

Trần Trọng Khiêm (Lê Kim; 1821-1866; sinh tại tỉnh Phú Thọ): từ nhỏ làm thủy thủ đi nhiều nơi thế giới; năm 1853-1854 làm nhân viên tòa soạn và viết báo Daily Evening (California, Mỹ), có lẽ là người Việt Nam làm nghề báo đầu tiên.

Trần Trọng Kim (Lệ Thần; 1882-1953; sinh tại tỉnh Hà Tĩnh): thành viên ban biên tập tân học của Đông Dương tạp chí (1913-1918) và Nam Phong tạp chí (1917-1934).

Trần Tuấn Khải (Á Nam, Đông Á Thị, Đông Minh; 1895-1983; sinh tại tỉnh Nam Định): cộng tác với các báo Phụ Nữ Thời Đàm, Hữu Thanh tạp chí, Văn học tạp chí,  Đông Tây tuần báo… ở Hà Nội trong khoảng 1921-1932.

Trần Văn Ân (1903-2002; sinh tại Lấp Vò, tỉnh Long Xuyên): nhận được học bổng sang Pháp du học; năm 1926 thành lập và làm chủ bút báo L’Annam Scolaire (An Nam Học Báo) tại Pháp; năm 1928 về Sài Gòn, cộng tác với luật sư Dương Văn Giáo thành lập nhật báo Đuốc Nhà Nam (1929), quyết liệt chống đối chánh quyền thực dân, chủ ý bênh vực giới nông dân, lao động.

Trần Văn Chim (Phi Vân): năm 1918 làm tổng lý tuần báo Nữ Giới Chung tại Sài Gòn, là tờ báo phụ nữ đầu tiên ở Việt Nam; chủ bút nhật báo Trung Lập.

Trần Văn Giao (Vân Trình): chủ bút nhật báo Trung Lập (Trung Lập Báo) ở Sài Gòn. 

Trần Văn Giàu (1911-2010; sinh tại Tân An): cùng thành lập và điều hành tạp chí Học Báo (L’école indochinoise), in song ngữ Pháp-Việt tại Sài Gòn năm 1935.

Trần Văn Hanh : chủ nhà in Tín Đức Thư Xã tại Sài Gòn; thành lập và điều hành nhật báo Dân Báo.

Trần Văn Quý : chủ nhiệm nhật báo Tin Mới tại Hà Nội (1939-45).

Trần Văn Thạch (1903-1945; sinh tại Sài Gòn): từ năm 1923 đến 1939 là cộng tác viên đắc lực của các báo đối lập chống Pháp như  La Cloche Félée, La Lutte, Đồng Nai; thuộc nhóm cách mạng Đệ Tứ Quốc Tế Cộng Sản nên cuối năm 1945 bị Việt Cộng sát hại tại Sài Gòn.

Trần Văn Tuyên : quản lý bán nguyệt san Thẳng Tiến (1935).

Trần Văn Quang : chủ nhiệm bán tuần san Bình Dân tại Sài Gòn.

Trịnh Đình Rư (1893-1962; sinh tại tỉnh Hà Đông): cộng tác thơ văn trên các báo Hữu Thanh (Hà Nội), Phụ Nữ Tân Văn (Sài Gòn); biên tập viên Tạp chí Tiếng Chuông Sớm (1935-36) ở Hà Nội.

Trịnh Đình Thảo (1901-1986; sinh tại tỉnh Hà Đông): luật sư; biên tập viên báo Phụ Nữ Tân Văn ở Sài Gòn (1929-35).

Trịnh Hưng Ngẫu : là thành viên nhóm cách mạng quốc gia của Nguyễn An Ninh, thành viên Ban biên tập các tờ báo đối lập chống Pháp ở Sài Gòn như: Tiền Quân (19310-37), Đông Tây Công Luận (1932-36), La Lutte (1933-39)…

Trọng Lang (~Trần Tân Cửu; 1905-1986): khoảng năm 1935-41 viết nhiều bài phóng sự trên báo Hà Nội Tân Văn, Phong Hóa, Ngày Nay…

Trúc Hà (~Trần Thiêm Thới; 1909-1943; sinh tại tỉnh Hà Tiên): cộng tác với các báo Phụ Nữ Tân Văn (1929-30), Nam Phong Tạp Chí (1932), Nay (1937), Đại Việt Tập Chí (1942-43), Nam Kỳ Tuần Báo (1942-43); thời kỳ 1935-36 cùng thành lập và làm chủ nhiệm tuần báo Sống tại Hà Tiên và phát hành tại Sài Gòn; sau đó dạy Việt văn ở các trường tư thục Lê Bá Cang, Huỳnh Khương Ninh ở Sài Gòn rồi mất vì bệnh.

Trúc Khê (~Ngô Văn Triện, Cấm Khê, Đỗ Giang, Hạo Nhiên Đình, Khâm Trai, Kim Phượng, Ngô Sơn; 1901-1947; sinh tại tỉnh Hà Đông): thông thạo chữ Hán, Pháp và quốc ngữ; bắt đầu viết báo năm 19 tuổi trên tờ Thực Nghiệp Dân Báo (1920-28); năm 1927 gia nhập Việt Nam Quốc Dân Đảng; năm 1929 bị Pháp bắt giam ở Hỏa Lò (Hà Nội), bị kết án 2 năm tù treo và 5 năm quản thúc; năm 1930 ra tù, bị quản thúc đến 1932 thì tiếp tục viết sách báo, làm chủ bút báo Bắc Hà (1933), và cộng tác bài trên Tạp chí Văn Học (1932-33); từ 1935 viết báo Tiểu Thuyết Thứ Bảy, Phổ Thông Bán Nguyệt San, Tao Đàn; từ 1941 còn viết cho các báo Tri Tân, Nước Nam, Đông Tây, Ích Hữu, Dân Báo, Khuyến Học, Tri Tân, Quốc Gia, Truyền Bá, Thương Mại, Đông Phương Nhật Báo…; thời kỳ 1937-45 đã trước tác, biên khảo và dịch thuật khoảng 60 cuốn sách; năm 1933 thành lập Trúc Khê Thư Cục và tham gia thành lập Hội Uẩn Hoa tại Hà Nội; thời kỳ 1941-45 tham gia hoạt động Hội Truyền bá học quốc ngữ tại Hà Nội; tháng 8-1945 cùng với Việt Nam Quốc Dân Đảng giành chánh quyền tại phủ Quốc Oai, tỉnh Hà Đông, đóng ở Trại Ro, xã Nghĩa Hương; ngày 26-8-1947 bị quân Việt Cộng tấn công căn cứ và mất trong biến loạn.

Trương Anh Tự : làm chủ nhiệm và biên tập về Pháp ngữ và Việt ngữ của tạp chí song ngữ chuyên về dịch thuật Le Traducteur tại Hà Nội từ năm 1940.

Trương Duy Toản (Đổng Hồ, Mạnh Tự; 1885-1957; sinh tại tỉnh Vĩnh Long): viết văn, làm báo tại Sài Gòn; chủ bút các báo: Lục Tỉnh Tân Văn (1912), nhật báo Trung Lập (1924-26); biên tập viên tờ Thời Báo (1918-19); thành lập và chủ nhiệm kiêm chủ bút Sài Thành Nhật Báo (1926-1931), Sài Thành (từ tháng 1-1934); cộng tác với các báo Trung Lập Báo (1910s), Tiến Thủ (1956)…; do hoạt động chống Pháp trong phong trào Đông Du, Duy Tân, Minh Tân, nên bị Pháp bắt giam ngày 26-8-1915 đến tháng 4-1916; sau khi ra tù chuyên về sáng tác.

Trương Minh Biện (sinh tại tỉnh Gò Công): nhà báo thời trước năm 1945.

Trương Minh Ký (Mai Nham, Thế Tải, Trương Minh Ngôn; 1855-1900; sinh tại tỉnh Chợ Lớn): lúc nhỏ học trường đạo với thầy Trương Vĩnh Ký dù không theo Công giáo; sau đó học trường Chasseloup-Laubat Sài Gòn, rồi ở lại trường này dạy học sau khi tốt nghiệp; từ năm 1869 là cộng tác viên thường trực của báo Việt ngữ đầu tiên là Gia Định Báo; sau dó làm chủ bút báo này (1881-89) thay Huỳnh Tịnh Của; đồng thời dạy Pháp ngữ trường Thông ngôn Sài Gòn 1885-89 chung với Trương Vĩnh Ký; năm 1889 làm thông ngôn phái đoàn Triều đình Huế dự hội chợ Paris, về nước xin vào Pháp tịch và làm thông ngôn tại Sài Gòn.

Trương Quang Tiền (ngụ ở Sài Gòn): chủ bút An Hà Báo ở Cần Thơ; cộng tác với báo Nông Cổ Mín Đàm…

Trương Thị Nghĩa : chủ bút báo Bạn Gái ở Hà Nội cuối năm 1945.

Trương Tửu (Mai Viên, Nguyễn Bách Khoa; 1913-1999; sinh tại Hà Nội): viết cho nhiều báo ở Hà Nội như tuần báo Loa (1935-1939), Mùa Gặt Mới (1940), Phổ Thông Bán Nguyệt San (1940); đồng chủ trương báo La Revue Franco-Annamite và Le Cygne Bạch-nga. 

Trương Vĩnh Ký (Jean Baptiste, Pétrus Ký, Sĩ Tải; 1837-1898; sinh tại tỉnh Bến Tre): trợ bút công báo Pháp ngữ Bulletin du Comité Agricol et Industriel de la Cochinchine (1865-82); trợ bút (1865-69) rồi chủ biên (1869-86) Gia Định Báo, là tờ báo quốc ngữ đầu tiên tại Việt Nam.

Trường Sơn Chí (~Ung Ngọc Ky): trước năm 1945 đã viết bài trên các báo Nghệ Thuật Việt Nam (1941), Nam Kỳ Tuần Báo (1942-45), Đại Việt Tập Chí (1942-45), Thanh Niên (1943-44)…; thời kỳ 1957-59 làm tổng biên tập tuần báo Hòa Bình Trung Lập của mật vụ Việt Cộng ở Phnom Penh (Cambodia).

Tuyết Nga (ngụ ở Sài Gòn): phụ trách mục ‘Phụ nữ và nhi đồng’ trên báo Đông Pháp Thời Báo ở Sài Gòn cùng với Phan Thị Bạch Vân.

Tú Mỡ (~Hồ Trọng Hiếu; 1900-1976; sinh tại Hà Nội): từ năm 1936 cộng tác với báo Phong Hóa, Ngày Nay và Tự Lực văn đoàn ở Hà Nội.

Tùng Lâm (~Lê Cương Phụng; 1891-1958; sinh tại Huế): từ 1929 vào Sài Gòn viết cho các báo: Đông Pháp Thời Báo, Công Luận, Thần Chung, Thời Cuộc.

Tương Phố nữ sĩ (~Đỗ Thị Đàm; 1896-1973; sinh tại Bắc Giang): thành viên Ban biên tập Tân học của Nam Phong Tạp Chí.

Từ Bộ Hứa : chủ nhiệm bán nguyệt san Pháp ngữ L’Incorrigible tại Hà Nội.

Từ Ngọc (~Nguyễn Lân; 1906-2003; sinh tại tỉnh Hưng Yên): năm 1932 tốt nghiệp Cao đẳng Sư phạm Đông Dương; sau đó dạy học tại Hà Nội; thời kỳ 1935-45 ngụ tại Huế, dạy học, làm báo và viết văn; đồng sáng lập và điều hành đặc san Pháp ngữ Les Responsables (Những người hữu trách) tại Huế từ năm 1936 đến 1945; năm 1945 được tổng lý Trần Trọng Kim cử làm đốc lý (như thị trưởng) thành phố Huế; năm 1946 trở ra Hà Nội dạy học, sau đó tham gia kháng chiến, hoạt động trong ngành giáo dục.

Võ Chiêm Khôi : sa môn Phật giáo, trụ trì chùa Thiên Tích ở Hà Nội; thành lập và chủ bút Quan Âm Tạp Chí (1938-43).

Võ Chuẩn (1896-?; sinh tại Huế): là con Lễ Bộ thượng thư Võ Liêm triều vua Bảo Đại; đồng sáng lập và điều hành báo Pháp ngữ Le Rigolo (Kẻ ngộ nghĩnh) tại Huế (từ năm 1914); tốt nghiệp Trường Thuộc địa Paris; sau đó về nước làm quan; giữ chức quản đạo Kontum (1933-38), tuần vũ Quảng Bình (1938-39), tuần vũ Quảng Ngãi (1939-40), tổng đốc tỉnh Quảng Nam (1940-45); mất ở Huế vì bệnh trong những năm chiến tranh Việt-Pháp.

Võ Liêm Sơn (1888-1949; sinh tại tỉnh Hà Tĩnh): năm 1926 cùng Đào Duy Anh thành lập Quan Hải Tùng Thư ở Huế.

Võ Nguyên Giáp : biên tập viên tạp chí Tương Lai (L’Avenir) tại Hà Nội (1936-37).

Võ Văn Nhiêu : quản lý bán tuần san Bình Dân tại Sài Gòn.

Võ Văn Thơm : thành lập và giám đốc báo Pháp ngữ L’Écho annamite (Tiếng vọng An Nam) tại Sài Gòn từ 8-1-1920 đến 19-7-1921, sau đó bán lại cho Lê Thành Tường.

Vũ Công Nghị : tổng thư ký bộ biên tập tuần báo Tiếng Trẻ tại Hà Nội (từ 1935).

Vũ Đình Dy : năm 1935 thành lập và điều hành báo Pháp ngữ Union Indochinoise tại Hà Nội.

Vũ Đình Hòe (1912-2011): chủ nhiệm Tạp chí Thanh Nghị tại Hà Nội năm 1941-45.

Vũ Đình Huỳnh (1906-1990): chủ trương, chủ nhiệm kiêm chủ bút tạp chí Tương Lai (L’Avenir) tại Hà Nội (1936-37).

Vũ Đình Hy : chủ bút bán tuần san L’Ère Nouvell tại Sài Gòn (1926-29).

Vũ Đình Liên (1913-1996; sinh tại Hà Nội): thành viên ban biên tập tuần báo Phong Hóa của Tự Lực văn đoàn (1934-1936) ở Hà Nội.

Vũ Đình Long (1896-1960; sinh tại tỉnh Hà Đông): năm 1925 mở hiệu sách và nhà xuất bản Tân Dân Thư Quán ở Hà Nội; từ 1936 lần lượt chủ trương và điều hành cùng lúc các báo ở Hà Nội như Tiểu Thuyết Thứ Bảy, Phổ Thông Bán Nguyệt San, Ích Hữu, Tạp Chí Tao Đàn, tuần báo  Thiếu Nhi, Truyền Bá và các loại sách: Những tác phẩm hay, Tủ sách Tao Đàn.

Vũ Trọng Can (1915-1943; sinh tại tỉnh Phú Thọ): thư ký tòa soạn kiêm biên tập Hà Nội Báo (1936-37); tham gia thành lập và điều hành tuần báoTiểu Thuyết Thứ Năm tại Hà Nội (1937-42).

Vũ Trọng Phụng (Thiên Hư; 1911-1939; sinh tại Hà Nội): chuyên viết truyện, phóng sự cho các báo như Ngọ Báo, Công Dân, Tân Thiếu Niên, Hà Nội Báo, Tiểu Thuyết Thứ Bảy, Đông Dương tạp chí, Sông Hương, Nhật Tân (1933), Tao Đàn…

Vũ Văn Hiền (1911-1963; sinh tại tỉnh Hưng Yên): đậu thủ khoa cử nhân Luật tại Hà Nội năm 1937; nhận được học bổng du học và tốt nghiệp tiến sĩ Luật khoa Đại học Paris năm 1939; thời kỳ 1939-41 là trợ tá cho giám đốc Nha Tài chánh Đông Dương tại Hà Nội, trước khi mở văn phòng luật sư riêng; năm 1941 cùng thành lập và điều hành Tạp chí Thanh Nghị tại Hà Nội cho đến 1945; bộ trưởng Bộ Tài chánh trong Nội các Trần Trọng Kim (tháng 4 đến 8-1945); tổng thư ký phái đoàn Việt Nam dân chủ cộng hòa đàm phán với Pháp tại Hội nghị Đà Lạt (1946); năm 1954 vào Sài Gòn hành nghề luật sư; giáo sư khoa Luật Đại học Sài Gòn.

Vũ Văn Hoàn : đồng chủ trương tuần báo Trung Tâm tại Hà Nội.

– v.v…

Chân dung một số nhà báo thời kỳ 1900-1945

anh-01anh-06anh-05anh-04anh-03anh-02

 

Một số tờ báo thời thuộc Pháp

1.jpg

An Nam Tạp Chí; Annuaire de la Cochinchine Francaise

2.jpg

Bulletin de la Société d’enseignement mutuel du Tonkin; Bulletin de la Société des Etudes Indochinoises; Bulletin des Amis du Vieux Huế (Đô Thành Hiếu Cổ Tập San)

3

Bulletin Financier

4

Chantecler Revue

5.jpg

Đại Nam Đồng Văn Nhật Báo 6a.jpg

Đại Việt Tập Chí; Đông Dương Tạp Chí

7

Đông Tây Tuần Báo; Đông Pháp Thời Báo

8

Đuốc Nhà Nam số Xuân Đinh Sửu (2-1937); Đuốc Tuệ

9

Gia Định Báo

10

Ích Hữu Tuần Báo; Khai Hóa Nhật Báo

11

L’Écho Annamite

12

L’Ère Nouvell (Nhựt Tân Báo) số 1

13

L’Eveil Economique

14

L’Exposition de Hanoi

15

Le Courrier de Saigon

16

Le Cri de Saigon

17

Le Merle Mandarin

18

Lục Tỉnh Tân Văn số 223, số 243, số 320, số 665

19

Nam Kỳ Nhựt Trình, Số 1 ra ngày 21-10-1897; và Số 80 năm thứ hai ra ngày 11-5-1899; Nam Kỳ Tuần Báo

20

Nam Phong Tạp Chí số 140 (7-1929); Nam Triều Quốc Ngữ Công Báo số 8 (1938)

21

Số Tết Đinh Sửu (2-1937), Số 96 Tết Mậu Dần (1-1938), Số Tết Kỷ Mão (2-1939), Số 198 Tết Canh Thìn (2-1940)

22

Số 54 (11-4-1937), Số 72 (15-8-1937), Số 144 (7-1-1939), Số 203 (10-3-1940)

23

Nông Cổ Mín Đàm; Nữ Giới Chung

24

Tuần báo Phong Hóa, số 81 (19-1-1934), số 84 (Xuân Giáp Tuất, 9-2-1934), Số Trung Thu (28-9-1934), Số Xuân Ất Hợi (1-1935) 25

PTBNS số 19; PTBNS số 21 bis; PTBNS số 22; PTBNS số 23

26

PTBNS số 24; PTBNS số 57; PTBNS số 74; PTBNS số 103

27

PTBNS số 24; PTBNS số 57; PTBNS số 74; PTBNS số 103

28

Phụ Nữ Tân Tiến số 1 bộ mới; Phụ Nữ Thời Đàm

29

Radio – Saigon

30

Saigon-potins

31

Tân Văn Tuần Báo  32

Tân Văn Tuần Báo  33

Việt Nam Hồn

Trích: Lý Đăng Thạnh – LỊCH SỬ  VIỆT NAM – Tập 8: Đông Dương thuộc Pháp 

 

Bình luận về bài viết này