Từ Liên Xô đến nước Nga

small_253233.jpg 

Phạm Văn Tuấn

I. Đấu Tranh Giai Cấp Tại Liên Xô

1. Kế Hoạch 5 Năm Lần Thứ Nhất

Sau khi Lenin qua đời vào ngày 21/1/1924 và trong dịp các nhân vật thuộc Bộ Chính Trị Trung Ương Đảng Liên Xô khênh chiếc quan tài của vị Đại Lãnh Tụ, rất ít nhân vật kể trên biết rằng Đại Lãnh Tụ Lenin đã để lại một di chúc. Đối với Lenin, Trotsky là con người có khả năng nhưng quá tự tin, Bukharin không phải là mẫu người Mác Xít còn về Stalin, tức là vị Tổng Bí Thư Đảng trong 3 năm vừa qua, Lenin đã nói rằng: Stalin thì quá tàn bạo, khuyết điểm này có thể tha thứ trong cách đối xử của những người Cộng Sản bình thường, nhưng không thể tha thứ đối với người nắm giữ chức vụ của Văn Phòng Tổng Bí Thư Đảng. Vì vậy tôi đề nghị các đồng chí cứu xét một cách nào loại Stalin ra khỏi chức vụ và chỉ định chức Tổng Bí Thư Đảng cho một người khác kiên nhẫn hơn, trung thành hơn, lịch sự hơn và tôn trọng các đồng chí khác hơn, người đó ít thay đổi bất thường…

Sau đó bà vợ của Lenin là Nadezhda Krupskaya đã đưa tài liệu di chúc cho Ủy Ban Trung Ương Đảng. Stalin đã xin từ chức nhưng các đồng chí cao cấp đều bác bỏ đề nghị này. Trong vài năm sau đó, phần lớn các đồng chí cao cấp kể trên đều bị mang ra xử bắn vì đã lưu trữ một tài liệu phản cách mạng: cái gọi là di chúc của Lenin

Trong cuộc Cách Mạng Cộng Sản, nhiều đảng viên đã hoàn toàn trung thành với Đảng dù cho thiếu hẳn đi tính dân chủ và người đảng viên phải hy sinh tất cả vì sự thống nhất Đảng và cũng vì vậy mà từ lúc ban đầu, các nhà chính trị xã hội Nga đã coi Lenin là kẻ độc tài. Ngay cả Trotsky đã từng nói rằng Đảng luôn luôn phải, luôn luôn đúng vì người ta không thể chống lại Đảng. Do gồm các đảng viên đã được chọn lựa cẩn thận, những người tận tụy với Đảng vì niềm tin rằng Đảng Cộng Sản lãnh đạo giai cấp vô sản tới toàn thắng, đảng Cộng Sản của Lenin đã tạo ra được một nguồn sức mạnh chính trị vượt trội. Những người Bôn-Xê-Vích của thời kỳ ban đầu đã ủng hộ niềm tin này và chính nhờ căn bản trung thành tuyệt đối với Đảng mà Stalin củng cố quyền hành rồi sau đó hàng triệu đảng viên trung kiên khác đã phải hối hận. 

Stalin không phát minh ra bộ máy Đảng thư lại nhưng nhờ Stalin, hàng ngàn đảng viên mới được thăng thưởng và họ đã trung thành tuyệt đối đối với Stalin và giúp cho viên Tổng Bí Thư này quyền hành vô hạn. Sau khi Lenin qua đời, Stalin chia quyền với hai Bí Thư Đảng của hai thành phố lớn là Grigory Zinoviev của Leningrad và Lev Kamenev của Moscow. Sự cộng tác này kéo dài cho tới khi Trotsky bị loại ra khỏi Bộ Chính Trị rồi sau đó, Stalin mới quay về hai đối thủ cũ, nắm trọn quyền hành, tức là thứ mà Lenin trước kia không muốn giao phó.

Vào ngày 7/11/1927, ngày kỷ niệm thứ 10 của Cuộc Cách Mạng Vô Sản, Trotskty tổ chức tại thành phố Moscow một cuộc biểu tình phản đối các chính sách của Stalin, nhưng cuộc biểu tình này đã bị các công an chìm của cơ quan mật vụ OGPU dẹp tan. Vị anh hùng Trotsky của Hồng Quân khi trước đã bị đánh đập tàn nhẫn, bị ném lên xe lửa và tống khứ đi miền Kazakhstan xa xôi. Stalin tố cáo Trotsky, một người tận tụy với lý tưởng Cộng Sản, là đã thông đồng với nhà độc tài Quốc Xã Adolf Hitler và bọn quân phiệt Nhật Bản để làm hại Liên Xô. Rồi từ năm 1934, cuộc thanh trừng nội bộ của Stalin bắt đầu với vụ ám sát Sergei Kirov, bí thư đảng của thành phố Leningrad. Sau đó, nhiều đối thủ của Stalin, kể cả Kamenev, Zinoviev, Rykov, Bukharin… và những kẻ chỉ bị nghi ngờ, đều bị bắt giam và hỏi cung bởi cơ quan mật vụ NKVD rồi sau đó bị xét xử. Vào năm 1936, Zinoviev và Kamenev bị kết tội phản bội và đều bị xử bắn. Tomsky cũng bị ra tòa và phải tự sát. Năm 1938 tới lượt Rykov và Bukharin chết trước đội hành quyết. Nhiều cựu đồng chí của Lenin đã được ân sủng bằng một phát đạn vào sau óc! 

Khi nắm vai trò lãnh tụ Đảng, Stalin cho rằng thời giờ quý báu đã bị phí phạm, tin rằng người Cộng Sản nên từ bỏ giấc mơ cổ xưa về một cuộc cách mạng toàn cầu, nên nhà độc tài này công bố chương trình xây dựng xã hội chủ nghĩa trong một quốc gia. Stalin nói: Chúng ta ở sau các quốc gia tiền tiến 50 hay 100 năm. Chúng ta phải bắt kịp khoảng cách này. Như vậy kể từ năm 1928, một cuộc Cách Mạng Cộng Sản thứ hai đã tới với đất nước Liên Xô, quét đi hàng triệu mạng sống. Stalin lên án đường lối bình đẳng về lương bổng, bỏ quan niệm cho công nhân quyền kiểm soát nhà máy và công bố rằng mỗi nhà máy phải do một giám đốc quản trị. Viên bí thư của Stalin là Lazar Kaganovich nói rằng nhà máy sẽ rung chuyển khi viên giám đốc đi qua! 

Vào năm 1928, Kế Hoạch 5 Năm Lần Thứ Nhất (the First Five-Year Plan) được trình cho Bộ Chính Trị, với mục tiêu phải sản xuất mọi thứ cần thiết cho một nền kỹ thuật tiến bộ đặt căn bản trên nền móng kỹ nghệ nặng. Các đảng viên cao cấp đã thảo luận về kế hoạch này. Những người chống đối bị coi là chủ bại. Thế rồi hàng triệu công nhân được vận chuyển tới các khu vực xây dựng kỹ nghệ. Họ sống trong các căn lều tạm bợ, chia nhau giường nằm theo ca ngủ để xây dựng nên nhà máy luyện kim lớn bậc nhất thế giới tại Magnitogorsk của miền núi Urals, khu kỹ nghệ Kuznetsk thuộc miền Siberia, và còn có nhiều khu kỹ nghệ khác như Krivoy-Rog, Kurk và Gornaia-Shoril chuyên về mỏ sắt, Krasnoiarsk, Irkutsk và Novosibirsk chuyên về thép và kỹ nghệ nặng, các nhà máy sản xuất máy nông nghiệp tại Chelyabinsk, Frunze, Pavlodar và Omsk,  đập thủy điện vĩ đại Dnieprostroy trên giòng sông Dnieper… Hoàn cảnh làm việc của công nhân và chuyên gia không đủ ăn, không đủ mặc, rất gian khổ, chẳng hạn các công nhân tại miền thảo nguyên Siberia phải thức dậy lúc 6 giờ sáng, làm việc trong thời tiết lạnh 45 độ âm. Các chỉ tiêu được đặt ra cho mọi ban ngành và khi không đạt được các mức ấn định đó thì giới công nhân không có ăn và giới quản lý bị hạ tầng công tác hoặc bị tù đầy, còn các chỉ tiêu khi hoàn thành chỉ được đền bù bằng các lời khen thưởng miệng hoặc các mảnh giấy chứng nhận. 

Các giám đốc nhà máy không những chỉ cạnh tranh với nhau để đạt mục tiêu quá lạc quan mà còn cố gắng làm gấp bội mục tiêu đó. Để vượt mức chỉ tiêu, nhiều giám đốc đã dùng các thủ đoạn như chặn bắt các đoàn xe tải, ăn cắp tiếp liệu đang thiếu chở trên các toa xe lửa… những thủ đoạn này được thi hành vì họ e ngại rằng nếu không đạt mục tiêu, họ sẽ bị xét xử là phá hoại. Thế nhưng các phiên tòa xét xử các kẻ phá hoại vẫn diễn ra. 53 kỹ sư trong đó có 3 người Đức bị tố cáo làm hư hỏng dụng cụ, gây ra các tai nạn, duy trì liên lạc với các tên tư bản chủ nhân cũ của các mỏ than Shakhty trong miền Donbas. Phiên tòa được mở ra trong một sảnh đường lớn (the Hall of Columns) của thành phố Moscow với tiếng hò hét tử hình dành cho các kẻ phá hoại. Trong số những người lớn tiếng đòi tử hình này, có con trai 12 tuổi của một bị cáo. Sau đó 5 bị cáo bị đem ra bắn bỏ. 

Stalin nói rằng các kẻ phá hoại như bọn Shakhtyites này hiện đang nằm sâu trong mọi ngành kỹ nghệ của chúng ta…, cách phá hoại bởi bọn tư sản là một trong các hình thức chống đối nguy hiểm nhất đối với Xã Hội Chủ Nghĩa đang phát triển. Kể từ nay hàng ngàn kỹ sư và các chuyên viên tư sản bị bắt, bị giam cầm, bị làm dê tế thầncho những khó khăn, những thất bại, là lý do để cắt nghĩa cảnh thiếu thốn bánh mì, thịt nguội… Thực ra, sự thiếu thốn thực phẩm này là do các chính sách sai lầm của chính quyền cộng sản. 

Đồng thời với chương trình kỹ nghệ hóa là cuộc đấu tranh giai cấp đối với giới nông dân. Cuộc cách mạng kỹ nghệ thường đòi hỏi một khối lượng lớn công nhân và lớp người này được tuyển mộ từ nông thôn. Như vậy trong Kế Hoạch 5 Năm Lần Thứ Nhất, 17 triệu nông dân được chuyển từ nông thôn về thành phố, họ là những người dân ít học, nghèo đói, bị xô đẩy để trở nên giai cấp công nhân mới của đất nước Liên Xô. Chín phần mười số nông dân này chỉ có trình độ 3 năm tiểu học. Giám đốc cơ xưởng máy kéo Stalingrad đã thấy công nhân đo chính xác bằng gang tay. Tại cơ xưởng Elektrozavod ở Moscow, một máy tiện của Mỹ trị giá $25,000 mỹ kim bị bỏ xó vì không ai biết xử dụng hay sửa chữa các hư hỏng nhỏ. 

Trong hoàn cảnh này, người công nhân Nga xông vào nền Kỹ Nghệ như xông ra trận. Để quảng cáo, chính quyền Nga đã đưa ra các vị anh hùng lao động. Một người thợ mỏ vùng Ukraine tên là Alexei Stakhanov được ca ngợi đã đào được 102 tấn than trong một quy định 7 tấn. Thực ra, đây là một cách lường gạt vì các người bạn của Alexei đã làm giúp anh ta rất nhiều công việc phụ. Alexei Stakhanov đã được Stalin gắn huân chương và được quảng cáo khắp nơi với khẩu hiệu Không một thành trì nào mà người Bôn-Xê-Vích không thắng nổi. 

Các thành tích tương tự như của anh hùng lao động Alexei Stakhanov được báo chí khắp nơi nói tới, ca ngợi hết lời trong khi các điều kiện làm việc của người công nhân thật sự rất khốn khổ, nhiều khi rất nguy hiểm. Thế nhưng các người công nhân không được phép phản đối vì nghiệp đoàn là công cụ của chính quyền, họ chỉ bất tuân lệnh một cách thụ động bằng cách làm việc cầm chừng, sản xuất ra các món hàng xấu, không đạt phẩm chất, họ lẩn trốn việc làm… Vì thế các luật lệ mới được đặt ra. Các kẻ vắng mặt trong cơ xưởng bị trừng trị. Kể từ năm 1930, một hệ thống giấy phép đi đường được áp dụng theo đó không một người dân một tỉnh này được phép đi qua tỉnh khác nếu không có giấy phép di chuyển của công an. 


2. Đấu tranh giai cấp
 

Tại nông thôn kể từ cuộc Cách Mạng Tháng Mười, đã có rất ít các công trình tập thể, hàng triệu nông dân bỏ ruộng đất, về thành phố làm công nhân khiến cho không còn người sản xuất ra thực phẩm. Kết quả là hàng triệu người chết đói. Giới nông dân là giai cấp mà Đảng Cộng Sản không bao giờ tin tưởng và Lenin đã nói vào năm 1917 rằng giới nông dân sẽ trở về với lối sống tư sản khi mà làn sóng cách mạng đã đi qua! 

Nông dân Nga được chia ra làm ba hạng: nghèo hay bần cố nông, trung nông vàkulak hay phú nông. Giới bần cố nông rất nghèo, không có tài sản, phải làm mướn cho chủ đất để kiếm sống nên theo lý thuyết Mác Xít, lớp người này là đồng minh của giới công nhân và của Đảng. Giới trung nông sản xuất đủ ăn cho chính họ còn giớiphú nông vào thời trước cuộc Cách Mạng, là những người cho vay tiền trong làng xã. Họ là những người bị coi là đã bóc lột các kẻ khác, thế nhưng không có tài liệu chính thức dùng cho sự phân chia ba giai cấp nông dân này. Các  đảng viên cộng sản đã tranh luận về cách xác định một người kulak hay phú nông là hạng người có 2 con bò hay 3 con bò, và người kulak đó đã mướn người làm công trong bao nhiêu ngày một năm. Ngoài ra còn có loại kulak có ý thức hệ (ideological kulak) và thật là khó khăn khi phải xác định kẻ thù của giai cấp. Thế nhưng, Stalin đã phát động một phong tràođấu tranh giai cấp và người cộng sản phải nhận diện ra các kẻ thù của giai cấp vô sản

Tại nước Nga trước cuộc Cách Mạng Cộng Sản, hai phần ba thực phẩm sản xuất do các phú nông và các địa chủ. Sau cuộc Cách Mạng thành công, giới địa chủ và phú nông đã bị loại đi, các nông dân tầm thường chỉ làm ra một số lượng nhỏ lương thực và họ ăn hết số lượng này, không còn phần dư cho các giới khác. Vào năm 1928, các thành phố của Liên Xô bắt đầu đói! Khủng hoảng thực phẩm đã làm cho giới lãnh đạo cộng sản cao cấp phải bàng hoàng. Bộ Chính Trị đồng thanh biểu quyết các biện pháp khẩn cấp. Hàng ngàn thanh niên thành phố được di chuyển về nông thôn, hợp tác với các thanh niên cộng sản địa phương, họ họp thành các toán đi kiểm kê, lục lọi, xâm chọc các vựa lúa, các đống rơm… là những nơi bị nghi ngờ cất dấu ngũ cốc của nông dân. 

Andrean Chernenkov sống trong làng Don Cossak thuộc Starocherkassk, là một thanh niên đánh cá của một gia đình nghèo. Anh ta đã tham gia vào toán thanh niên cộng sản đi lục lọi và đã nhớ lại rằng chúng tôi qua làng bên cạnh để xâm chọc tìm thực phẩm, khi trở về nhà đêm hôm đó, tôi thấy mẹ tôi đang khóc ngất. Bà nói con ở đâu từ nãy đến giờ. Trong khi con đi khỏi, bọn chúng tới nhà ta, ăn cướp hết ngũ cốc và bây giờ nhà ta chẳng còn gì ăn. 

Trước các vụ lục soát nông phẩm, nông dân đã phản kháng. Họ đã chôn lúa dưới đất, dấu trong các đống rơm, bán lúa gạo lén lút, đốt bỏ hoặc ném thực phẩm xuống sông vì giận dữ. Đã xẩy ra nhiều vụ hôi của, mất trật tự và làm loạn. Hàng ngàn đảng viên và người chỉ điểm bị ám sát. Các nông dân nào không theo đúng các quy định của nhà nước Liên Xô đều bị mất quyền đi bầu, mất quyền sở hữu và quyền canh tác đất đai. Vào năm 1929 tại Liên Xô, các thành phố thiếu lúa mì và thịt, người dân phải sống theo chế độ phân phối thực phẩm. Người ta đổ lỗi cho người dân đã chống lại Nhà Nước bằng hai mặt trận lúa gạogia súc trong khi đó các báo chí nói về chương trình tập thể ruộng đất (mass collectivisation) mà mục tiêu là giới nông dân. 

Nikolai Bukharin là người chống đối Stalin về lý thuyết, đã nói: Ông ta sẽ làm cho những kẻ nổi dậy chết chìm trong biển máu. Ngày 27/12/1929, nhân dịp được các báo chí Liên Xô ca tụng Stalin là nhà Mác Xít vĩ đại bậc nhất, chưa từng thấy, Stalin đã tuyên bố rằng chúng ta phải triệt tiêu giới phú nông kulak… Chúng ta phải đánh chúng thật mạnh sao cho chúng không đứng lên nổi

Trong công tác tiêu diệt giới phú nông kulak, một báo cáo của công an ghi vào tháng 2/1930, mô tả rằng tại vùng Smolensk, các đảng viên cấp thấp đã duy trì khẩu hiệuăn, uống hết, tất cả là của chúng ta. Các kẻ đi đánh phá giới phú nông đã ăn uống tại chỗ mọi thực phẩm mà chúng kiếm được, chúng tước bỏ giầy dép nơi bàn chân trẻ em, lột bớt quần áo và chiếm đoạt tài sản của cha mẹ các em nhỏ. Một ông già dùng máy ảnh chụp cảnh nhà bị tan nát sau lần đánh tư sản này, ông ta đã bị bắt và bị bắn bỏ ngay chiều hôm đó. Trước các cảnh tượng này, một đảng viên cộng sản trẻ đã phải thốt lên: chúng ta không còn là con người nữa, chúng ta là súc vật!. Đã có hàng ngàn hoàn cảnh tương tự như kể trên. Các phú nông bị đánh tư sản đã bị chuyên chở tới các khu vực xây dựng kỹ nghệ bằng các chuyến xe lửa có ghi là than trắng

Vào mùa xuân năm 1930, Đảng Cộng Sản Liên Xô công bố rằng một nửa dân chúng nông thôn đã được tập thể hóa nhưng thực ra tại miền quê, tình trạng rối loạn vẫn tiếp tục. Người ta cho rằng đã có 14 triệu trâu bò và một phần ba số heo trên toàn quốc đã bị giết do chủ nhà vì họ không muốn tặng không cho các nông trường tập thể. Thảm cảnh vẫn là kết quả của cách tập thể hóa cưỡng bách. Tại rất nhiều địa phương, người dân chết đói hàng loạt. Người ta ăn chuột, côn trùng và vỏ cây. Người dân đào lên các con ngựa chết đã bị đem chôn. Da giầy được xay thành bột. Tại các khu vực Kiev, Kharkov, Dniepropetrovsk và Odessa, vào mỗi buổi sáng có các xe tải đi lượm xác người chết đói. Có nhiều câu chuyện rùng rợn về ăn thịt người và thịt người được bán ngoài chợ. Các người sắp chết bị kéo về gần các hố lớn, chờ chôn tập thể. Đôi khi cán bộ giúp đỡ miếng ăn cho người sắp chết đói thì bị chỉ trích là làm phí phạm bánh mì và cá

Tại miền Kazakhstan thuộc Trung Á, chương trình tập thể hóa đã khiến cho dân chúng địa phương giết đi hàng triệu súc vật và hàng ngàn người trốn qua biên giới Trung Hoa. Cũng có hàng ngàn người khác chạy lên các thảo nguyên bao la và rồi bị chết đói. Bộ Chính Trị Trung Ương Đảng Liên Xô đã trù liệu tiêu diệt từ 5 tới 6 triệu phú nông kulak nhưng nhiều đảng viên cộng sản địa phương đã làm quá tiêu chuẩn này nên về sau, Stalin đã nói với Churchill rằng chương trình diệt phú nông(dekulakization) đã tiêu diệt 10 triệu người. Từ nay, có hàng triệu con người hoạt động trong các trại lao động cải tạo để thực hiện các công trình kỹ nghệ rất lớn lao như đào kênh, khai thác gỗ rừng, đào hầm mỏ trong miền Siberia băng tuyết. Nhà văn Ilya Ehrenburg đã viết về giới phú nông như sau: không có ai trong bọn họ có tội gì cả nhưng họ thuộc vào một giai cấp bị coi là phạm đủ thứ tội

Mặc cho người dân chết đói, chính quyền Liên Xô vẫn xuất cảng thực phẩm. Trên nhiều cánh đồng, khoai tây chất thành đống và để cho hư thối trong hàng rào dây kẽm gai. Tại một số vựa lúa, người dân Nga nhìn thấy chồng chất các bao lương thực, họ đã xông vào ăn cướp chẳng hạn như vào tháng 5 năm 1933 tại Sahaydaky. Những người này hoặc bị bắn bỏ, hoặc bị cầm tù bởi vì trong cuộc đấu tranh giai cấp, cứu cánh biện minh cho phương tiện. Lev Kopolev là một thanh niên dùng que sắt đi xâm chọc vựa lúa của dân chúng vào thời gian đó, về sau trở thành nhà văn bất đồng chính kiến, đã phải viết và thú nhận rằng mùa xuân năm 1933 thực là khủng khiếp. Tôi nhìn thấy hàng ngàn người đói, kể cả đàn bà và trẻ em, da bọc xương, mắt không hồn… thế nhưng mục tiêu lớn lao của chúng tôi là chiến thắng toàn cầu của chủ nghĩa Cộng Sản và vì mục tiêu này, mọi phương tiện đều đáng làm, kể cả nói dối, ăn cướp, tiêu diệt hàng ngàn và ngay cả hàng triệu nhân mạng

Hơn 5 triệu người dân miền Ukraine và một phần tư dân số miền Kazakhstan đã bị chết vì nạn đói, và còn các nạn nhân thuộc nhiều vùng đất khác. Giới nông dân đã là một mục tiêu của Stalin trong phong trào đấu tranh giai cấp./.      

II. Joseph Stalin (1879 – 1953) Tên Đồ Tể Của Liên Xô

1. Léon Trotsky   

Buổi chiều ngày 20 tháng 8 năm 1940, Léon Trotsky tiếp một người trẻ mà ông đã quen biết từ lâu, tên là Frank Jackson, tại căn nhà của ông ở gần thành phố Mexico. Trời mùa hè tại xứ Mễ Tây Cơ rất nóng nực nhưng Jackson vẫn mặc một áo choàng dài.    

Sau một câu chuyện ngắn lúc 5 giờ 30 chiều, khi Trotsky quay người đi, chăm chú lục tìm vài giấy tờ thì Jackson rút từ trong áo choàng ra một chiếc búa sắc, bổ thẳng vào sau óc nhà Đại Cách Mạng Cộng Sản người Nga. Nghe thấy tiếng la thất thanh, các cận vệ của Trotsky vội nhào tới, tóm chặt được kẻ sát nhân. Trong lúc gần bất tỉnh, Trotsky còn cố gắng bảo cận vệ: Đừng giết nó. Hãy bắt nó khai.    

Léon Trotsky được chở ngay tới bệnh viện cấp cứu. Trong lúc hấp hối, ông đã thều thào lời cuối cùng: Tôi sắp chết vì cú đánh của một kẻ sát nhân chính trị…  Hãy nói lại với bạn bè của chúng ta… Tôi tin chắc ở vinh quang… Hãy tiến lên.…    

Tin Léon Trotsky bị giết đã bay tới Joseph Stalin ở cách xa vài ngàn dậm. Kẻ sát nhân là một điệp viên của Liên Xô, theo lệnh của Stalin, đã lần theo dấu vết của Trotsky, đạt được sự tin cẩn và đã ám hại một kẻ dám thách đố quyền lực, đối đầu với nhà độc tài Nga tại Điện Kremlin, nhà lãnh đạo phong trào Cộng Sản Quốc Tế.   

Léon Trotsky tham gia đảng Cộng Sản Bolshevik hơi trễ, vào tháng 6 năm 1917, nhưng là một con người thông minh, tháo vát và có tài, nên chẳng bao lâu đã trở nên một nhân vật thân cận với Lenin. Do biệt tài về quân sự, Trotsky đã tổ chức thành công đạo Hồng Quân, quét sạch các lực lượng phản cách mạng Bạch Vệ trong cuộc Nội Chiến Nga, đẩy lui các thế lực ngoại quốc gồm các nước Anh, Pháp, Nhật, Hoa Kỳ và Tiệp Khắc. Léon Trotsky đã từng nắm giữ chức Ủy Viên Ngoại Vụ và Ủy Viên Chiến Tranh. Ông ta là biểu tượng của tinh thần Cách Mạng Cộng Sản Nga, là lý tưởng của giới trẻ, đầy nhiệt huyết. Trotsky cũng tự hào về sự xuất sắc của mình, về lòng tận tụy đối với chế độ Cộng Sản, nhưng ông ta là một người thiếu niềm nở, thiếu lòng trắc ẩn đối với kẻ khác. Ông ta thường chỉ trích các kẻ kém thông minh, kém tận tụy hơn mình.   

Ngày 21 tháng 01 năm 1924, Vladimir Ilyich Lenin qua đời. Các đồng chí thân cận nhất của Lenin tụ họp tại Điện Kremlin để từ biệt lần cuối người Cha của cuộc Cách Mạng Cộng Sản Nga. Trong số các nhân vật của Bộ Chính Trị hay cơ quan điều hành Đảng Cộng Sản Nga, người ta thấy có mặt: Grigori Zinoviev, bí thư đảng của thành phố Petrograd, nơi mà sau này đổi thành Leningrad; Lev Kamenev, bí thư dảng của thành phố Moscow; Alexei Rykov, nguyên chủ tịch Hội Đồng Kinh Tế Tối Cao, Nikolai Bukharin, lý thuyết gia của Đảng kiêm chủ nhiệm; và Joseph Stalin, Tổng Bí Thư Đảng. Một nhân vật sáng chói, rất quan trọng, lại không có mặt vào lúc quan trọng này: Léon Trotsky. Các bác sĩ điều trị trước đó đã yêu cầu Trotsky nghỉ ngơi tại tỉnh điều dưỡng Sukhumi, bên bờ biển Hắc Hải.    

Léon Trotsky bị các đồng chí Bộ Chính Trị không ưa do cá tính và cũng do đường lối chính trị của ông. Hai năm về trước, nước Nga đã thực hiện được một phần công cuộc ổn định kinh tế bằng cách chấp nhận vài thay đổi nhỏ trong lý thuyết Cộng Sản, cho phép người dân dùng một hình thức tư bản ở tầm cỡ thấp. Đây là một số chính sách ôn hòa, được áp dụng sau cuộc Nội Chiến tàn phá, sau khi xã hội bị rối loạn. Các nhà lãnh đạo Bộ Chính Trị e sợ rằng Trotsky với bản tính cứng rắn, đầy lý tưởng, sẽ không chấp nhận bất cứ sự nhân nhượng nào về hình thức kinh tế tư bản, mà lại muốn thực hiện thật nhanh việc tập thể hóa nông nghiệp và quốc hữu hóa mọi kỹ nghệ quốc gia. Các nhân vật lãnh đạo chính quyền Nga kể trên muốn cùng nhau tước bỏ quyền hành của Trotsky trước khi ông này ra tay.    

Để chứng tỏ Léon Trotsky thiếu quan tâm tới Đảng và Đất Nước, vắng mặt trong ngày lễ an táng Lenin trọng đại, Stalin đã gửi một điện văn cho vị Bộ Trưởng Chiến Tranh trong đó có đại ý như sau: Vì tình trạng sức khỏe của đồng chí, toàn thể Bộ Chính Trị nghĩ rằng đồng chí nên tiếp tục tĩnh dưỡng tại Sukhum…  Vì lễ an táng nhằm ngày 26-1, đồng chí chắc sẽ không trở về kịp. Thực ra, buổi lẽ an táng đó được trù liệu vào ngày 27.   

Léon Trotsky sinh năm 1879 tại Ukraine, có cha mẹ giòng dõi Do Thái với họ là Bronstein. Năm 1900, ông đã bị đi đầy tại Siberia vì các hoạt động cách mạng nhưng sau đó, ông đã vượt thoát ra khỏi nước nhờ làm một thông hành giả mang tên Trotsky. Năm 1905, Trotsky tìm cách trở lại nước Nga nhưng rồi cũng phải bỏ chạy ra nước ngoài. Đầu năm 1917, Trotsky tới thành phố New York, Hoa Kỳ, làm chủ nhiệm tờ báo có tính xã hội tên là Novy Mir (Thế Giới Mới). Khi cuộc Các Mạng Cộng Sản Nga bùng nổ, Trotsky trở về nước Nga, phục vụ Lenin, đã nắm giữ các chức vụ quan trọng như ủy viên ngoại giao, ủy viên chiến tranh, lãnh đạo Hồng Quân Liên Xô rồi khi Lenin qua đời, một cuộc tranh giành quyền lực đã xẩy ra giữa Trotsky và Stalin.   

Năm 1929, Trotsky bị thua trước Stalin, phải bỏ nước Liên Xô, đi sống lưu vong và cuối cùng tới cư ngụ tại Mễ Tây Cơ. Trotsky đã viết ra nhiều cuốn sách, lên án chế độ độc tài cai trị của Stalin. Một số sách của Trotsky đã được dịch qua tiếng Anh như cuốn Cuộc Cách Mạng bị phản bội (The Revolutioln Betrayed-1937). Các cuốn sách khác gồm: Bào chữa cho đường lối khủng bố (Defense of Terrorism-1921), Lenin(1925), Cuộc đời của tôi (My Life-1930) và Lịch sử Cuộc Cách Mạng Nga (The History of the Russian Revolution-1932).  

2. Joseph Stalin   

Stalin ra đời vào ngày 21 tháng 12 (theo lịch cũ) năm 1879 tại Gori, một thị trấn gần thành phố Tbilisi thuộc tiểu bang Georgia là một miền núi ở phía tây nam của nước Nga. Tên thật của Stalin là Iosif Vissarionovich Djugashvilli. It người được biết về tuổi trẻ của Stalin. Cha của Stalin là ông Vissarion Ivanovich Djugashvilli, một người thợ giầy, được lối xóm biết đến là một gã hay say rượu, thường đánh đập con. Mẹ của Stalin là bà Ekaterina Ghedadze Djugashvilli, một nông dân thất học, sùng đạo, làm nghề giặt quần áo để phụ giúp gia đình. Gia đình Djugashvilli sống trong một căn nhà cũ, chật hẹp. Ba người con đầu đã chết sau khi sinh, nên Stalin là con duy nhất còn sống sót. Khi Stalin còn trẻ, người cha bỏ gia đình, tới ngoại ô thành phố Tbilisi, làm việc trong một xưởng đóng giầy rồi chết vào năm 1891. Cậu Iosif khi lên 6 hay 7 tuổi, đã bị bệnh đậu mùa khiến cho trên mặt có các đốm rỗ.   

Do sự cố gắng của bà mẹ, năm 1888, Stalin được gửi theo học trong 5 năm tại một trường học nhỏ, thuộc nhà thờ tỉnh Gori. Stalin tỏ ra là một học sinh xuất sắc nên sau đó được học bổng, theo học một chủng viện tại thành phố Tbilisi vào tuổi 14. Tại nơi học mới này, Stalin giỏi về đọc sách, tranh luận và chăm chỉ, nhưng cũng được các bạn cùng lớp nhớ lại sau này là một con người ganh ghét, ít khi tha thứ cho kẻ nào chống đối lại mình.   

Stalin đã theo học tại chủng viện cuả Nhà Thờ Chính Thống Giáo xứ Georgia và trong thời gian này, đã lén lút đọc các sách bị cấm đoán, nói về cuộc Cách Mạng Pháp, đã tìm hiểu nhiều truyện của Victor Hugo, mô tả các tình trạng xã hội của nước Pháp và đã đọc cả các tài liệu của Karl Marx, một nhà triết học xã hội cấp tiến người Đức. Vào thời kỳ này, có ít người biết tới lý thuyết cách mạng của Karl Marx nhưng các tập sách mỏng viết về Mácxít đã được các người lưu vong từ Moscow và St. Petersburg mang đến Tbilisi và các tỉnh nhỏ.   

Năm 1894, Sa Hoàng Alexander III qua đời, kế nghiệp là Sa Hoàng Nicholas II (trị vì 1894-1917), là người muốn tiếp tục các chính sách đàn áp bao gồm việc nghiêm ngặt kiểm duyệt báo chí, lùng bắt và hành hạ các nhà hoạt động chính trị, tước bớt quyền hành của chính quyền điạ phương, ngược đãi các sắc dân và tôn giáo thiểu số. Mặc dù nước Nga thời đó đã tiến bộ một phần nào về kinh tế và kỹ thuật nhưng không thể giải quyết được các vấn đề xã hội. Hàng triệu người thiếu ăn, nông dân đòi hỏi có thêm đất đai, giới công nhân tại thành thị bất mãn vì lương bổng thấp với giờ làm việc dài.   

Năm 1898, Stalin tham gia vào nhóm cách mạng Mácxít bí mật trong tu viện và vào thời gian này, các tài liệu cộng sản được lén lút trao đổi tại nhiều loại trường học thuộc thành phố Tbilisi. Tháng 5 năm 1899, Stalin bị đuổi khỏi trường vì đã phổ biến các tư tưởng cách mạng. Sau khi rời khỏi chủng viện, Stalin xin được một chân thư ký tại Sở Nghiên Cứu Vật Lý Địa Chất và trong vòng một năm, Stalin đã giúp công rất nhiều vào việc tổ chức cuộc biểu tình Tháng 5 gần Tbilisi để phản đối các tình trạng làm việc của công nhân. Tháng 3 năm 1901, mật vụ của Sa Hoàng đã lùng bắt một số người theo đảng xã hội tại Tbilisi và Stalin đã thóat khỏi cuộc bố ráp. Stalin đành từ bỏ việc làm, tham gia vào phong trào cách mạng Mácxít và để tránh bị bắt giữ, ông ta đổi tên là Koba, tên một vị anh hùng trong truyền thuyết của xứ Georgia.   

Tháng 9 năm 1901, Stalin được đọc các bài cách mạng do Lenin viết ra nên cũng bắt chước, viết ra các bài báo có cùng quan điểm với Lenin cho tờ báo Mácxít của xứ Georgia có tên là Brdzola (Tranh Đấu). Tháng 11 năm 1901, Stalin được bầu vào Ủy Ban của Đảng Công Nhân Dân Chủ Xã Hội Nga (the Russian Social Democratic Workers Party). Stalin đã thực hiện nhiều hoạt động cách mạng bí mật tại miền núi Caucasus, dưới nhiều tên giả: David, Soso, Chiijikov, Nijeradze, Ivanovich. Ông cũng tổ chức được nhiều cuộc đình công của giới công nhân tại vùng mỏ dầu Batum, giúp công vào việc thiết lập một nhà in nhỏ tại nơi này và thành lập nhóm dân chủ xã hội.   

Stalin bị bắt và bị tống giam vào năm 1902 vì các hoạt động cách mạng. Tháng 3 năm 1903, nhiều nhóm dân chủ xã hội của miền Caucasus đã hội họp lại để lập nên Liên Đoàn Xứ Caucasus (All-Caucasian Federation) và mặc dù Stalin vắng mặt, Liên Đoàn vẫn bầu Stalin vào ủy ban điều hành. Tháng 11 năm 1903, Stalin bị tống đi dầy tại Siberia và cũỉng vào năm 1903 này, Đảng Lao Động Dân Chủ Xã Hội Nga, nơi bao gồm nhiều tổ chức dân chủ xã hội, đã bị phân chia làm 2 nhóm chính: Lenin đứng đầu nhóm Bolshevik (có nghĩa là đa số), chủ trương kỷ luật chặt chẽ, rút ngắn giai đoạn tư sản, có ủy ban trung ương chỉ huy và ấn định các đườỉng lối cùng kiểm soát mọi tầng lớp đảng viên, trái ngược với nhóm Menshevik (có nghĩa là thiểu số) do Martov điều khiển, cho rằng các nhà xã hội nên cộng tác với giới tư sản và mở rộng cửa đón nhận tất cả các cảm tình viên cũng như các người cấp tiến và dân chủ tư sản khác.   

Tháng 1 năm 1904, Stalin vượt ngục từ Siberia, trở lại miền Tbilisi và tham gia vào nhóm Bolshevik. Trong thời gian từ 1904 tới 1905, Stalin đã tổ chức nhiều vụ đánh cướp ngân hàng hay các xe chở tiền và hành động này được Lenin coi là quan trọng, cần thiết cho các nhu cầu của Đảng mặc dù một số người Mácxít khác lại coi đó là các hành vi ăn cướp, không xứng đáng với nhà cách mạng xã hội. Stalin đã tham dự vào các đại hội của Đảng Dân Chủ Xã Hội Nga họp tại Tampere, London và Stockholm trong các năm từ 1905 và 1906, và chính tại Phần Lan, Stalin đã gặp gỡ Lenin. Cũng vào thời gian này, Stalin kết hôn với Ekaterina Svanidze, người chị của một bạn học khi trước nơi chủng viện và bà vợ này đã chết vì bệnh lao phổi vào năm 1907. Họ có một con trai tên là Jacob, sau này bị quân Đức bắt làm tù binh và chết trong kỳ Thế Chiến II. Trong khoảng từ 1906 tới 1913, ngoài các chuyến du hành ra nước ngoài ngắn hạn, Stalin dành phần lớn thời giờ cho phong trào cách mạng, cho việc tổ chức đảng tại tỉnh Baku. Ông cũng bị bắt nhiều lần, vượt ngục nhiều lần và đã ở tù 7 năm trong khoảng từ 1907 tới 1917.   

Năm 1912, Stalin tới Crakow làm việc với Lenin và bà vợ của ông ta trong vài tháng rồi đến thành phố Vienna, theo một khóa học Mácxít liên quan tới vấn đề quốc gia. Kết quả của cuộc du khảo này của Stalin là cuốn sách nhan đề Thuyết Mácxít và vấn đề quốc gia (Marxism and the National Question). Cũng vào năm này, Stalin được chọn vào Ủy Ban Trung Ương của Nhóm Bolshevik. Sau khi từ Vienna trở về Nga, Stalin lại bị mật vụ của Sa Hoàng bắt được và bị đầy tới làng Turukhansk, thuộc Siberia, ở phía trên Cực Khuyên (the Arctic Circle). Stalin đã bị giam chặt tại nơi này cho tới cuộc cách mạng của Alexander Kerensky vào tháng 3 năm 1917, khi mọi tù nhân chính trị đều được trả tự do, Stalin trở về St. Petersburg. Cũng chính vào thời gian lưu đầy tại Siberia, ông lấy biệt hiệu là Stalin, hay Con Người Thép. 
 

3. Các năm đầu của chính quyền Xô Viết   

Năm 1917, bùng nổ Cuộc Cách Mạng Cộng Sản Nga. Stalin cùng với Lev Kamenev trở về thành phố St. Petersburg. Stalin là một đảng viên Bolshevik thâm niên. Vai trò của Stalin trong cuộc Cách Mạng Tháng 8 Nga không có gì đặc sắc so với Lenin và Trotsky nhưng sau chiến thắng, Stalin đã được cử làm Ủy viên các sắc tộc (commissar of Nationalities). Chính trong chức vụ này, Stalin đã đàn áp thẳng tay các phong trào quốc gia của những dân thiểu số, kể cả sắc dân quê hương Georgia của ông ta, vì thế người dân nước Nga đã gọi Stalin là tên đồ tể.   

Cuộc nội chiến tại nước Nga kéo dài từ 1918 tới 1921, là thời gian Stalin làm ủy viên quân sự (military commissar) tại mặt trận Tsaritsyn (Stalingrad) chống lại đạo quân Bạch Vệ, tại các mặt trạân Ba Lan và tại nhiều trận tuyến khác, và Stalin đã tỏ ra là một nhà chiến lược và chiến thuật có khả năng đặc biệt. Cũng vào năm 1918 hay 1919, Stalin cưới cô Nadezhda (Nadya) Alliluyeva, một thiếu nữ còn nhỏ tuổi, đã làm thư ký cho ông ta. Năm 1932, Nadya do thiếu thận trọng, đã cãi cọ với Stalin để bênh vực cho một phụ nữ bị tống xuất tới trại cải tạo dành cho các tù nhân chính trị, rồi sau đó, Nadya còn không tuân lệnh Stalin, đã trao đổi thư từ với một người bạn. Tất cả những người dính líu đến vụ liên lạc thư tín này đều bị hành quyết. Nadya tự sát vào ngày 7-11-1932. Với người vợ thứ hai, Stalin có một con trai và một con gái: con trai Vasily trở nên một tướng không quân, bị chết vì một tai nạn xe hơi sau khi Stalin đã qua đời. Người con gái tên là Svetlana, một cô giáo kiêm thông dịch viên tiếng Anh. Svetlana đã sang Hoa Kỳ năm 1967, dọn qua nước Anh năm 1982, trở lại Liên Xô năm 1984 và rồi lại quay về sống tại Hoa Kỳ năm 1986.   

Năm 1919, Stalin đã đảm nhận nhiều chức vụ quan trọng trong chính quyền và được chỉ định làm Ủy Viên Thanh Tra các Công Nhân và Nông Dân (commissar of the Workers and Peasants Inspectorate). Trong cơ chế đảng, Stalin đã leo dần lên các cấp bậc cao hơn, trở thành 1 trong 5 nhân viên của Bộ Chính Trị và Ủy Ban Tổ Chức Đảng. Cũng chính trong thời gian của cuộc nội chiến, Đảng Lao Động Dân Chủ Xã Hội Nga được đổi tên thành Đảng Cộng Sản Nga (the Russian Communist Party). Năm 1922, Ủy Ban Trung Ương Đảng Cộng Sản đã bầu Stalin làm Tổng Bí Thư. Vào thời bấy giờ, chức vụ Tổng Bí Thư Đảng đã bị các đảng viên cao cấp và lão thành Nga coi thường, cho là chỉ xứng đáng với một viên chủ sự, giữ hồ sơ. Nhưng Stalin đã cố gắng giành lấy vai trò tầm thường đó vào lúc ban đầu, vì ông ta đã nhận ra được tiềm năng vô giới hạn về quyền lực của vai trò đó. Stalin bắt đầu xếp đặt các người tin cẩn vào các chức vụ then chốt trong đảng và chính quyền, và những người này chỉ biết trung thành với Stalin.   

Trong nhiều năm, Lenin đã đánh giá cao Stalin vì tài tổ chức, vì khả năng cắt giảm các thủ tục hành chính và phối hợp các cộng sự viên. Stalin còn được coi là một chính trị gia chuyên giải quyết các rắc rối, một tay búa rìu quen chặt bỏ những kẻ chống đối. Thế rồi, địa vị và vai trò của Stalin trong chính quyền và trong tổ chức đảng đã cho phép ông ta toàn quyền thao túng về hành chính, huấn luyện, thăng thưởng, bổ nhiệm chức vụ cũng như dùng các biện pháp kỷ luật. Cho nên mặc dù còn là một nhân vật chưa được nhiều người ngoài biết tới và ngay cả trong hàng ngũ đảng viên, nhưng Stalin đã có quyền hành tuyệt đối, chỉ sau Lenin.   

Từ năm 1922, đảng Bolshevik đã thắng cuộc nội chiến và bắt đầu xây dựng lại đất nước Nga đã bị tàn phá. Các nhà lãnh đạo Cộng Sản Nga vào năm này đã lập nên một quốc gia mới, gọi là Liên Hiệp Các Nước Cộng Hòa Xã Hội Xô Viết (the Union of Soviet Socialist Republics) hay gọi tắt là Liên Xô (the Soviet Union). Tới tháng 5 năm 1922, Lenin bị tai biến mạch máu não khiến cho ông gặp khó khăn khi di chuyển, thì ảnh hưởng quyền lực của Stalin cũng lớn mạnh lên. Trong khi sức khỏe của Lenin suy kém dần, thì chính quyền Xô Viết do tam đầu chế là Grigori Zinoviev, Lev Kamenev và Joseph Stalin điều hành. Vào lúc này, Lenin đã thấy rõ sự bất lực của tam đầu chế và tiềm năng quyền lực của Văn Phòng Tổng Bí Thư Đảng đang tăng dần. Tháng 12 năm 1922, Lenin đã viết ra một tài liệu, được coi là di chúc cuối cùng, gồm có đoạn sau: Đồng chí Stalin đang trở thành Tổng Bí Thư Đảng đã tập trung vào trong tay quá nhiều quyền lực và tôi không tin chắc rằng đồng chí đó luôn luôn biết cách dùng quyền lực với đầy đủ thận trọng. Tháng sau, Lenin thêm vào tài liệu kể trên câu viết: Stalin thì quá tàn nhẫn… Tôi đề nghị các đồng chí tìm cách đưa Stalin ra khỏi chức vụ và chỉ định… một người khác… kiên nhẫn hơn, trung thành hơn, lễ độ hơn… Sau khi Lenin qua đời, lời dặn dò đó đã bị các nhân vật như Kamenev và Zinoviev cất dấu đi vì họ đang cần Stalin trong việc gạt bỏ Trotsky.   

 
4. Thanh toán các đối thủ   

Từ năm 1917, các người Bolshevik đã thành lập nên một tổ chức mật vụ được gọi tên là Cheka với cơ sở là nhà tù Lubyanka, với mục tiêu được công bố rõ ràng là dẹp tan tất cả các thành phần chống đối cách mạng cộng sản trong xã hội Xô Viết. Dập theo khuôn mẫu của lực lượng mật vụ Okhrana của các Sa Hoàng, thường bắt giữ các nhà cách mạng rồi tống đi đầy mà không hề xét xử, tổ chức mật vụ Cheka trong 18 tháng đầu đã bắt giam hơn 90,000 người và hành quyết hơn 11,000 nạn nhân. Đây là một công cụ của chế độ đã được Stalin xử dụng một cách tàn nhẫn, khủng khiếp, cho các tham vọng cá nhân và để thỏa mãn căn bệnh hoang tưởng (paranoia) trước những kẻ chống đối. Tổ chức mật vụ của Liên Xô về sau còn mang các danh xưng là GPU, OGPU, NKVD, NKGB và KGB, và trong thời kỳ thanh trừng 1934-39, 15 triệu người bị bắt giữ, hơn 3 triệu dân Liên Xô đã chết trước các đội hành quyết, chết vì bị tra tấn không thương tiếc hay trong các trại tù cải tạo nằm rải rác nhiều nơi trên đất nước.   

Trong 2 năm 1922-24, Lenin, nhà lãnh đạo Cộng Sản Nga 54 tuổi, đã bị tai biến mạch máu não, nên đảng Cộng Sản và chính quyền Xô Viết do tam đầu chế Zinoviev, Kamenev và Stalin điều hành. Ngày 21 tháng 1 năm 1924, Vladimir Ilyich Lenin qua đời tại Gorki, gần thành phố Moscow. Trong đám tang của Lenin và với sự vắng mặt của Trotsky, Stalin đã cố gắng phô trương sự trung thành với Người Cha của Cách Mạng Cộng Sản Nga, đã tuyên bố trước báo chí Liên Xô: Đồng chí Lenin, chúng tôi xin thề với đồng chí rằng chúng tôi sẽ không tiếc gì thân sống trong việc củng cố và bành trướng sự đoàn kết của những người lao động trên Thế Giới. Sau đó, Stalin cùng với các người đồng minh tạm, tìm cách cô lập và loại Trotsky khỏi chính quyền.   

Vào dịp Đại Hội Đảng kỳ thứ 13 tổ chức vào tháng 5 năm 1924, đã có các lời đồn về di chúc của Lenin, nhưng tam đầu chế, trong đó Stalin đã kiểm soát được Đảng, quốc gia và lấn át được bộ chính trị, đã giữ kín bản di chúc kể trên, ngoại trừ một số ủy viên trung ương đảng có biết. Và khi đề cập tới lời nhận xét của Lenin trước Ủy Ban Trung Ương Đảng, Zinoviev đã nói rằng: chúng tôi sung sướng mà nói rằng một điểm mà đồng chí Lenin e ngại, đã tỏ ra không có căn cứ. Tôi muốn nói điều nhận xét về đồng chí Tổng Bí Thư của chúng ta. Trong mấy năm qua, các bạn đã chứng kiến chúng tôi làm các công việc cùng với nhau, và giống như tôi, các bạn cũng vui lòng khi xác nhận rằng nỗi e ngại của đồng chí Lenin không thành sự thật. Trong khi đó, Léon Trotsky đã không phản kháng việc che dấu di chúc của Lenin vì ông ta tin chắc rằng tam đầu chế do các đồng chí loại hai sẽ sớm bị sụp đổ.   

Sau đó, Stalin, Kamenev và Zinoviev cùng đoàn kết lại, mở một trận tuyên truyền chống Trotsky. Họ công bố các tài liệu trước Cách Mạng của Trotsky phản đối các chương trình Bolshevik của Lenin, coi đó là các bằng chứng chống lại Lenin. Chương trình phát triển nhanh kinh tế của Trotsky bị coi là một cuộc phiêu lưu cánh tả, sẽ sớm dẫn tới các thảm họa kinh tế. Tháng 1 năm 1925, Trotsky bị bắt buộc phải từ chức Bộ Trưởng Chiến Tranh.   

Khi đã cô lập được Trotsky về chính trị, Stalin tìm cách gạt bỏ các đồng minh tạm, để một mình nắm giữ quyền lực. Các xung đột này một phần vì sự xung khắc cá tính, một phần vì sự tranh giành quyền lực và cũng vì các bất đồng chính trị tức là việc tranh luận giữa các cánh tả và cánh hữu của chủ nghĩa Bôn Xê Vích (Boshevism). Trong cuộc tranh cãi vào thời bấy giờ, Stalin đại diện cho cánh hữu của Đảng và cùng với lý thuyết gia Nikolai Bukharin, họ đã cảnh cáo các kẻ cách mạng phiêu lưu, đồng thời biện hộ cho các chính sách thận trọng hơn và kiên nhẫn hơn của Lenin, tức là chính sách kinh tế mới NEP (New Economic Policy).   

Từ cuộc Cách Mạng Tháng 8 của Liên Xô, theo một kinh điển của giáo điều Cộng Sản thì sự thành công của chương trình Lênin-nít tùy thuộc vào cuộc cách mạng trên toàn thế giới, nhờ đó, các nền kinh tế tiến bộ hơn của các nước Tây Phương sẽ giúp công cho chế độ Xô Viết. Để theo đuổi mục đích này, phong trào Đệ Tam Quốc Tế hay Commintern được thành lập năm 1918, có mục đích đoàn kết lại các đảng cộng sản trên thế giới và hun đúc các cuộc cách mạng ngoại quốc. Những người tin tưởng nhiệt thành vào công cuộc cách mạng thế giới là Trotsky, Kamenev và Zinoviev, lúc đó đang là lãnh tụ của Phong Trào Đệ Tam Quốc Tế. Nhưng sau cuộc Thế Chiến Thứ Nhất, các cuộc nổi dậy Cộng Sản đã không xẩy ra thành công như dự liệu mà còn bị dập tắt như tại các nước Đức, Hungari và Trung Hoa. Năm 1925, Stalin từ bỏ hy vọng đặt vào các cuộc cách mạng cộng sản thế giới mà lại đề nghị chương trình xã hội chủ nghĩa trong một quốc gia (Socialism in One Country), một điều trái ngược với các ý kiến của Kamenev và Zinoviev.   

Để lôi kéo các thành phần bảo thủ hơn trong Bộ Chính Trị, Stalin đã có được sự ủng hộ của các nhân vật: Mikhail Tomsky, lãnh tụ nghiệp đoàn; Nikolai Bukharin, lý thuyết gia của Đảng và Alexei Rykov, chủ tịch của Hội Đồng Các Ủy Viên Nhân Dân (the Council of People’s Commissars). Chủ trương của Stalin cũng hấp dẫn được quần chúng vì cho rằng chỉ một mình Liên Xô, cô đơn và không được trợ giúp, cũng có thể xây dựng nên một xã hội mới, dùng làm ngọn hải đăng cho thế giới. Kamenev và Zinoviev đã chống lại chủ trương cô lập này nhưng rồi vào cuối năm 1925, họ đã bị bất lực trước tập đoàn các nhà lãnh đạo mới gồm Stalin, Rykov, Bukharin và Tomsky. Tới lúc này Zinoviev và Kamenev mới thấy rõ con người của Stalin, bèn tìm cách hợp tác với Trotsky để giành quyền lãnh đạo, nhưng đã quá muộn. Cả 3 nhân vật chống đối đã bị loại ra khỏi Đảng. Trotsky phải bỏ xứ, đi sống lưu vong vào tháng 1-1929 còn Kamenev và Zinoviev về sau, được phép hối lỗi và được chấp thuận tạm thời trở lại Đảng.   

Sau khi đã đẩy được Trotsky ra khỏi nước và khiến cho hai đối thủ kia phải im hơi lặng tiếng, Stalin mới quay trở lại tấn công Bukharin, Rykov và Tomsky. Trước kia, Stalin thường chế riễu và chỉ trích các chương trình kỹ nghệ hóa và tập thể hóa nông nghiệp của Trotsky, thì vào năm 1928, Stalin lại nhận các chương trình đó là do mình sáng tạo ra. Bukharin, Rykov và Tomsky bèn đả phá Stalin trong Bộ Chính Trị, cảnh cáo rằng tập trung nền kinh tế vào kỹ nghệ nặng sẽ làm tổn hại tới việc sản xuất ra các sản phẩm tiêu dùng, sẽ gây chống đối trong giới công nhân, và việc tập thể hóa nông nghiệp sẽ làm cho nông dân đói ăn và nổi loạn. Thế rồi trong các cuộc bỏ phiếu, các người trung thành với Stalin đã loại ba nhân vật kể trên ra khỏi các chức vụ then chốt. Tới lúc này, Stalin đã hoàn toàn loại được tất cả các kẻ chống đối ra khỏi Đảng. Stalin đã trở nên một nhà độc tài, kiểm soát tất cả Đảng, quốc gia và toàn thể khối Cộng Sản Quốc Tế. Stalin đã cai trị một cách tuyệt đối đất nước Liên Xô gồm 160 triệu dân, các kẻ không theo đúng đường lối của Đảng đều bị bắt, bị đưa đi lưu đầy trong các trại lao động cải tạo, đồng thời các cơ quan thông tin tuyên truyền cộng sản cũng không ngừng mô tả Stalin là Lenin của ngày nay, một thiên tài, một vị cứu rỗi, một vị thánh sống.   

Vào ngày 21 tháng 12 năm 1940, ngày sinh thứ 60 của Stalin, 450 nhà văn gồm các nhà trí thức, các nhà báo, các sinh viên … đã tề tựu tại nơi sinh của Stalin, một căn nhà nhỏ tại Gori, để tìm hiểu, làm thơ phú và viết bài ca tụng Stalin. Cơ quan điện ảnh Tiflis cũng khởi đầu quay một cuốn phim nói về cuộc đời của vị Lãnh Tụ để trình chiếu tại mọi nẻo đường của đất nước Liên Xô. Cũng tại Liên Xô, đã phát hành 1 triệu cuốn sách kể lại tiểu sử của Stalin do Chủ Tịch Mikhail Kalinin viết. Ngoài ra còn đang in loại sách vẽ nhà Lãnh Tụ bởi Ủy Viên Quốc Phòng Kliment E. Voroshilov và Ủy Viên Nội Vụ Laurentius Pavlovich Beria. Trong số báo Sự Thật (Pravda) 12 trang do cơ quan thông tin của Đảng Cộng Sản Moscow phổ biến, chỉ có một cột không đề cập tới Stalin. Bài tham luận của số báo này, với tiêu đề Stalin của chúng ta (Our Own Stalin), đã viết: Các công nhân kim khí tại Detroit, các người thợ đóng tầu của Sydney, các nữ nhân viên thuộc các nhà máy dệt Thượng Hải, các thủy thủ trên bến cảng Marseille, các nữ nông dân Ai Cập, các nhà nông Ấn Độ bên bờ sông Ganges – tất cả đều nói đến Stalin với lòng yêu mến. Stalin là niềm hy vọng về tương lai của các công nhân và nông dân trên toàn Thế Giới. Và các người Cộng Sản thường khoe khoang rằng Liên Xô từ nay là một nước dân chủ nhất trên địa cầu.    

Vì danh dự của Stalin, Hội Đồng các Ủy Viên Nhân Dân đã lập ra 29 giải thưởng hạng nhất hàng năm, trị giá mỗi giải 100,000 đồng Rúp (20,000 mỹ kim) để tặng cho các thành quả phát minh về Khoa học, Y khoa, Luật pháp, Kịch nghệ, Khoa học Quân sự… đồng thời 4,150 Học Bổng Stalin cũng được công bố. Cũng vào lúc này, Chủ Tịch Đoàn của Xô Viết Tối Cao đồng thanh trao tặng Đồng Chí Stalin Huy Chương Lenin với danh hiệu Anh Hùng Lao Động Xã Hội Chủ Nghĩa (Hero of Socialist Labor).    

Các lời tuyên truyền, đề cao của Liên Xô mô tả Stalin là một con người to lớn, oai vệ, nhưng thực ra, ông ta là một người có tầm vóc thấp lùn (short stature), mang các nét nhân chủng của giống người Transcaucasian: tóc đen, mắt đen, sọ ngắn, mũi lớn. Cá tính của Stalin khác thường: ông ta là một con người thô lỗ, tàn ác và trong một số trường hợp, mang tính hoang dã (primitive). Sự đa nghi, giảo quyệt và hay trả thù một cách tàn bạo của ông ta lên tới cao độ của bệnh hoang tưởng (paranoia). Ngay từ thời mới hoạt động cách mạng, các đồng chí của Stalin đã nghi ngờ người bạn của mình giao nạp tên tuổi các đồng chí cho mật vụ của Sa Hoàng để đổi lấy sự giải thoát. Là một con người thích khoa trương và không có duyên, các lời phát biểu và bài diễn văn của Stalin đọc lên nghe giống như các sách dạy giáo lý, thiếu sức mạnh và lý luận của Lenin, nhưng trong cách tranh luận của Stalin lại chứa đựng tính phản kháng một cách khủng khiếp. Stalin là một nhân vật có năng lực rất lớn và một khả năng ghi nhớ từng chi tiết. Bằng quyền lực và khủng bố, Stalin đã tạo nên một hệ thống chính trị mới mà xưa nay chưa từng thấy với các đặc tính: kiểm soát bằng công an, tập trung quyền hành vào trung ương và độc tài cá nhân. Các sử gia cho rằng chế độ Stalin là một trong các dẫn chứng xấu xa nhất của thể chế độc tài.    

  
    

5. Kế hoạch 5 năm và thời kỳ thanh trừng   

Chính sách của Stalin đã được Đại Hội Đảng kỳ thứ 14 chấp nhận năm 1925, tới năm sau, Stalin đã hoàn toàn kiểm soát được chính quyền, rồi từ năm 1928, Stalin đã bắt đầu kế hoạch 5 năm nhằm phát triển kinh tế. Stalin tuyên bố: Chúng ta ở sau các nước tiên tiến từ 50 tới 100 năm. Chúng ta phải đốt khoảng cách này trong 10 năm. Chính quyền bắt đầu loại bỏ các cơ sở tư doanh, phá vỡ hệ thống gia đình, con cái được dạy dỗ phải tố cáo cha mẹ với công an và mỗi người dân phải rình rập những người lối xóm. Công an chìm được cài vào mọi cơ sở kỹ nghệ, nông nghiệp, hành chính, giáo dục … Kỹ nghệ chú trọng vào việc chế tạo các máy móc nông nghiệp và công nghiệp, trong khi việc sản xuất thực phẩm, quần áo và các đồ gia dụng bị coi nhẹ. 
Kế hoạch 5 năm của Stalin được tập trung vào kỹ nghệ nặng, đặc biệt là than, thép, điện khí hóa và kỹ thuật hóa. Các trung tâm kỹ nghệ lớn được thiết lập tại miền núi Urals và miền Siberia. Ngoài các thành phố mới thành lập nổi tiếng như Magnitogorsk của miền Urals, Kuznetsk thuộc miền Siberia, còn có các khu kỹ nghệ khác như Krivoy-Rog, Kurk và Gornaia-Shorii chuyên về mỏ sắt, Krasnoiarsk, Irkutsk và Novosibirsk chuyên về thép và kỹ nghệ nặng, Frunze, Pavlodar và Omsk sản xuất máy nông nghiệp… Các đập nước lớn cũng được xây dựng như đập thủy điện Dnieprostroy trên sông Dnieper. Hàng triệu công nhân bị chuyển tới các khu xây dựng này, kể cả các tù nhân cải tạo thường xuyên bị canh gác bởi công an, họ phải làm các đường lộ, đường xe lửa, đào kênh, xây nhà máy… Hoàn cảnh làm việc của công nhân và nông dân không đủ ăn, không đủ mặc, rất gian khổ, chẳng hạn các công nhân tại miền thảo nguyên Siberia phải thức dậy lúc 6 giờ sáng, làm việc trong thời tiết lạnh 45 độ âm. Các chỉ tiêu được đặt ra cho mọi ban ngành và khi không đạt được các mức ấn định đó thì giới công nhân không có ăn và giới quản lý bị hạ tầng công tác hoặc bị tù đầy, còn các vượt chỉ tiêu chỉ được đền bù bằng các lời khen thưởng miệng, hoặc các mảnh giấy chứng nhận.   

Sau khi Stalin ra lệnh tập thể hóa nông nghiệp năm 1925, 25 triệu nông trại tư bị chấm dứt hoạt động; nông cụ, gia súc … đều bị tập trung vào các nông trường tập thể, mỗi nông trường đều có chỉ tiêu sản xuất và nông dân chỉ được hưởng những gì bên ngoài chỉ tiêu đó. Khi đó, các nông gia giàu có, tên gọi là Kulaks, đã chống lệnh và phản kháng nhà nước, đã phá hủy vào khoảng một nửa hoa màu và giết hại gia súc, gây nên nạn đói cho 5 triệu nông dân tại nhiều nơi. Để trừng phạt, Stalin đã tống khoảng một triệu gia đình đi lưu đầy tại các vùng đất hoang vu hay trong các trại cải tạo lao động. Nền kinh tế Liên Xô tiến bộ bằng sự trả giá của hàng triệu mạng sống.   

Tới năm 1930, Stalin đã dùng chính sách Nga hóa (Russification). 174 sắc dân trên đất nước Liên Xô đều bị chính quyền Cộng Sản kiểm soát chặt chẽ. Năm 1939, Liên Xô chiếm đóng một phần lớn nước Ba Lan. Năm 1940, quân đội Xô Viết tràn qua xâm lăng các nước vùng biển Baltic: Estonia, Latvia và Lithuania, thiết lập nên tại các nước này các chính quyền cộng sản, tiêu diệt giới trung lưu và sát nhập họ vào Liên Bang Xô Viết, khiến cho khởi đầu từ 4 nước cộng hòa, sau Thế Chiến II, Liên Xô đã bao gồm 15 tiểu bang.   

Do sự hy sinh của hàng triệu nhân mạng, Liên Xô dưới thời Stalin đã được kỹ nghệ hóa, thành thị hóa với tốc độ khá cao và vào năm 1935, trở thành quốc gia kỹ nghệ đứng hàng thứ hai trên thế giới. Về mặt ưu điểm, các chương trình kinh tế chỉ huy của Liên Xô đã mang lại công việc làm ăn cho mọi người, các sản phẩm công nghiệp gia tăng, nạn mù chữ bị thanh toán, việc giáo dục phổ thông và đại học được cung cấp miễn phí, các chương trình bảo hiểm được tiến hành, phụ nữ được phần nào bình đẳng với nam giới. Các ngành Khoa học, Y khoa, Văn hóa … có phát triển nhưng các văn sĩ, nhạc sĩ, nghệ sĩ, học giả… chỉ được quyền ca ngợi Đảng Cộng Sản, ca ngợi các anh hùng của nước Nga quá khứ và như vậy, họ bị chỉ đạo sáng tác theo nhu cầu của Đảng.   

Stalin cũng làm thay đổi ý thức hệ Cộng Sản, biến thành một thứ giáo điều cứng ngắc trong tu từ khoa trương Macxít-Lêninnít. Stalin đã đổi các tư tưởng cách mạng thành lý thuyết thuần quốc gia, độc đoán và bảo thủ, giảng dạy kỷ luật tuyệt đối, sự vâng lời và lòng tôn sùng quá khứ của nước Nga cổ. Tuy bằng các lời nói thường xuyên ca tụng mục tiêu cách mạng của Karl Marx và Lenin, Stalin vẫn tìm cách liên lạc với các quốc gia tư bản trong khi đó, các vấn đề quốc tế đã làm cho hệ thống cai trị Stalin trở nên cô lập.   

Từ năm 1934, cuộc thanh trừng nội bộ của Stalin bắt đầu với vụ ám sát một đồng chí thân cận là Sergei Kirov, bí thư đảng của thành phố Leningrad, một nhân vật có thể thay thế Stalin. Kirov là người đã từng gọi Stalin là Vị Lãnh Tụ lớn lao nhất của mọi thời đại và mọi quốc gia (the greatest leader of all times and all nations). Tội lỗi của vụ ám hại này được đổ cho Trotsky, một kẻ bị lưu đầy, chủ mưu, và cũng kể từ lúc này, các kẻ thù của Stalin, bất kể các định hướng chính trị, đều được gắn nhãn hiệu Trốt-kít (Trotskyites). Stalin cho viết lại lịch sử về cuộc Cách Mạng Cộng Sản Nga, đề cao các đóng góp của Stalin và bôi tên Trotsky khỏi các sách giáo khoa. Bằng các chứng cớ giả, Stalin tố cáo Trotsky, một người tận tụy với lý tưởng Cộng Sản, là đã thông đồng với nhà độc tài Quốc Xã Adolf Hitler và bọn quân phiệt Nhật để làm hại Liên Xô. Nhiều đối thủ của Stalin, kể cả Kamenev, Zinoviev, Rykov, Bukharin… và những kẻ chỉ bị nghi ngờ, đều bị bắt giam và hỏi cung bởi cơ quan mật vụ NKVD rồi sau đó, bị xét xử và với sự kinh ngạc của thế giới, những người này đều thú nhận đã tham gia vào các âm mưu Quốc Xã – Trotsky để lật đổ chế độ cộng sản tại Liên xô. Năm 1936, Zinoviev và Kamenev bị kết tội phản bội và đều bị xử bắn. Tomsky cũng bị ra tòa và phải tự sát. Năm 1938 tới lượt Rykov và Bukharin chết trước đội hành quyết. Nhiều cựu đồng chí của Lenin đã được ân sủng bằng một phát đạn vào sau óc.   

Sự thanh trừng của Stalin không chừa một thành phần nào trong xã hội Liên Xô, và Hồng Quân cũng chịu chung số phận. Từ ngày 31 tháng 5 năm 1937, các thanh trừng bắt đầu: chưa đầy 2 tuần lễ, 8 vị tướng lãnh cao cấp, kể cả Tổng Tham Mưu Trưởng, Nguyên Soái Tukachevsky, đã bị kết tội và bị xử bắn. Rồi phần lớn nhân viên Hội Đồng Chiến Tranh Xô Viết (the Soviet War Council) cùng với 30,000 sĩ quan đã bị bắt, bị sa thải, vô số quân nhân bị thanh toán. Trong số 1,966 đại biểu của Đại Hội Đảng lần thứ 14 năm 1934, 1,108 người đã bị tống giam, một số bị giết. Ủy Ban Trung Ương Đảng năm 1934 gồm 139 nhân vật, 98 người cũng bị bắt và bị bắn bỏ. Hơn một triệu rưỡi đảng viên bị loại ra khỏi Đảng và có lẽ, có tới 5 phần trăm dân số Liên xô đã từng bị bắt giữ, hơn 8 triệu dân bị đưa đi các trại cải tạo lao động. Sau tiếng gõ cửa vào ban đêm, toán công an thường dẫn đi mất tích nhiều người thân trong gia đình. Không ai cảm thấy an toàn, dù cho quá khứ có thành tích cách mạng hay có tư tưởng trong trắng. Nhà soạn nhạc lừng danh người Nga tên là Sergei Prokofieff đã phải nói rằng: Ngày hôm nay, mọi người phải làm việc. Chỉ có việc làm, một thứ cứu rỗi (Today one must work. Work’s the only thing, the only salvation).   

Stalin đã là hiện thân của các bạo chúa trong lịch sử nước Nga, là một Ivan Kinh Khủng mới (a new Ivan, the Terrible).  Khi thăm viếng căn phòng trong điện Kremlin mà trước kia Sa Hoàng Ivan IV ngồi coi các kẻ thù bị hành quyết, Stalin đã phải nói rằng: Ivan Kinh Khủng có lý. Bạn không thể cai trị nước Nga mà không dùng tới mật vụ. Trong xã hội cộng sản Liên Xô, ngành Mật Vụ (the secret police) rất được ưu đãi vì là một công cụ cần thiết và đắc lực của chính quyền nhưng trong 5 tên trùm mật vụ trong khoảng các năm từ 1917 tới 1956, 4 tên cũng bị Stalin giết, chỉ có Felex Dzenzhinsky được chết một cách tự nhiên. Có người cho rằng Stalin là một sản phẩm không thể tránh khỏi của chế độ Cộng Sản Bôn-Xê-Vích, do sự chuyên chế của giai cấp vô sản, với các hành động tàn bạo giống như của con lợn được mô tả trong cuốn truyện Trại Súc Vật (Animal Farm) của George Orwell.
              

 6. Stalin và Thế Chiến II   

Vào cuối thập niên 1930, Hitler đã sẵn sàng chinh phục châu Âu. Các nhà lãnh đạo Liên Xô bèn tìm cách ký kết các hiệp ước quân sự với người Anh và người Pháp để chống lại quân đội Đức nhưng sự việc đã không thành. Tới ngày 23-8-1939, Đức và Liên Xô bỗng nhiên ký một hiệp ước bất tương xâm và với một phần của hiệp ước được dấu kín, Hitler và Stalin đồng ý chia đôi nước Ba Lan. Ngày 1 tháng 9 năm 1939, quân Đức tiến vào Ba Lan. Ngày 3-9, hai nước Anh và Pháp tuyên bố chiến tranh với nước Đức. Nước Ba Lan sụp đổ, phần phía tây rơi vào tay quân Đức còn Liên Xô chiếm phần phía đông. Ngày 28-9, Liên Xô và Đức ký một thỏa ước phân định ranh giới trong việc chia cắt nước Ba Lan rồi tới ngày 30-11-39, Liên Xô đưa quân qua chiếm Phần Lan.    

Tháng 12 năm 1940, Hitler dự trù tấn công Liên Xô. Thủ Tướng Anh, ông Winston Churchill, và Tổng Thống Hoa Kỳ Franklin D. Roosevelt đã báo cho Stalin rõ các dự tính xâm lăng kể trên nhưng Stalin vẫn không tin các lời báo động, dù cho cũng có các tin tình báo của chính Liên Xô.    

Từ giữa thập niên 1930, Stalin đã đích thân điều hành mọi hệ thống chính quyền, kể cả chính trị và kinh tế cho tới tháng 5-1941, ông mới chính thức là Thủ Tướng , nắm giữ Văn phòng Hội đồng Bộ trưởng. Tháng 6 năm đó, quân đội Đức Quốc Xã xâm lăng Liên Xô. Mặc dù Liên Xô đã có hai năm để chuẩn bị chiến tranh, nhưng quốc gia này vẫn chưa sẵn sàng chiến đấu. Liên Xô thiếu hẳn các sĩ quan có kinh nghiệm vì cuộc thanh trừng trong giới quân đội của Stalin và Hồng Quân cũng thiếu thốn võ khí, quân trang… Tháng 10 năm 1941, quân đội Đức tiến tới gần thành phố Moscow. Nhiều văn phòng chính phủ phải di tản tới Kuybyshev (ngày nay là Samara) nhưng Stalin vẫn ở lại thành phố Moscow để làm tăng tinh thần chiến đấu của binh sĩ. Cuối cùng, vào mùa đông năm 1941-42, quân đội Liên Xô đã đánh bại quân đội Đức và danh tiếng của Stalin vang lừng.    

Tháng 3 năm 1943, Stalin điều kiển cả quân đội và mang danh hiệu Thống Chế (Marshal). Cuối năm đó, 3 nhân vật lãnh đạo 3 nước Anh, Hoa Kỳ và Liên Xô họp tại Teheran là Tổng Thống Hoa Kỳ Franklin F. Roosevelt, Thủ Tướng Anh Winston Churchill và Thống Chế Stalin, rồi về sau năm 1945, lại họp tại Yalta trong vùng biển Crimea để thảo luận về cách chiếm đóng nước Đức, phân chia chiến lợi phẩm và sát nhập vào vùng ảnh hưởng các phần đất đai ở giữa các giòng sông Oder và Neisse.    

Tới khi quân Đức bị quân Đồng Minh đánh bại, Stalin tìm cách cắt bớt mọi liên lạc giữa Liên Xô và Thế giới Tự do, và đưa quân chiếm các nước thuộc phía đông của châu Âu: Bungari, Tiệp Khắc, Hungari, Rumani và phần phía đông của nước Đức. Cũng từ nay bắt đầu cuộc Chiến Tranh Lạnh.   

Năm 1948, Stalin trục xuất nước Nam Tư ra khỏi khối Cộng Sản Cominform (the Communist Information Bureau) và phong tỏa thành phố Berlin. Trong 11 tháng, các nước tây phương đã phải dùng cầu không vận, tiếp tế lương thực cho dân chúng thành phố này. Rồi cuộc chiến tranh Triều Tiên xẩy ra năm 1950, kéo dài trong 3 năm. Quân đội Bắc Triều Tiên đã được Liên Xô yểm trợ.    

Joseph Stalin qua đời ngày 5 tháng 3 năm 1953 vì tai biến mạch máu não. Xác của nhà độc tài đỏ được ướp và đặt nơi Công Trường Đỏ. Sau đó, tại Liên Xô đã có các cuộc tranh luận về công và tội của Stalin. Trong kỳ Đại Hội Đảng lần thứ 20 vào tháng 2 năm 1956, Thủ Tướng Liên Xô là Nikita Khrushchev đã nói trước Đại Hội Đảng trong ba giờ, lên án Stalin, coi Stalin là kẻ thù của nhân dân, tố cáo Stalin là một bạo chúa, ưa thích đề cao cá nhân, ngụy tạo lịch sử, dùng mọi cách khủng bố vì luôn luôn nghi ngờ các đồng chí của mình: ở mọi nơi, ông ta đã nhìn thấy mọi người là các kẻ thù, các kẻ hai mặt và các gián điệp. Nhưng việc đả phá hình ảnh của Stalin đã bị ngưng lại khi các phương pháp đàn áp của Stalin lại được Liên Xô dùng để dẹp tan cuộc nổi dậy của người dân Hungari vào năm 1957. Năm 1961, tại Đại Hội Đảng Cộng Sản Xô Viết lần thứ 22, công việc lên án Stalin lại được tiếp tục. Người Nga đã mang xác của Stalin ra khỏi Công Trường Đỏ và gạch tên Stalin khỏi các đường phố, các nhà máy, các công viên…Thành phố Stalingrad cũng được đổi thành Volgograd.   

Mặc dù Stalin đã qua đời và bị lên án nặng nề ngay tại Liên Xô từ năm 1956, đường lối cai trị cứng dắn, tàn bạo và quỷ quyệt của Stalin, được gọi là Stalinnít, vẫn còn được các quốc gia cộng sản xử dụng, như tại Cuba, Trung Cộng, Bắc Cộng Triều Tiên và Việt Cộng.         

III. Liên Xô Vào Thời Kỳ Khrushchev (1956-62)

Sau Thế Chiến Thứ Hai, trong khi các nước thuộc phía tây của châu Âu dần dần phục hổi được nền kinh tế, giành được độc lập về chính trị khi ảnh hưởng của người Mỹ tại châu Âu giảm bớt thì các nước Đông Âu lại theo một con đường khác. Vào cuối Thế Chiến, Liên Xô đã xiết chặt việc kiểm soát các nước được giải phóng tại miền Đông Âu, không cho phép họ tự do chọn lựa chính thể, cách quản trị kinh tế cũng như các cách phát triển khác. Vì vậy sự phục hồi kinh tế của các nước Đông Âu này đã tiến triển theo đường hướng do Liên Xô vạch ra và các cách phát triển kinh tế và chính trị của người dân Đông Âu tùy thuộc vào các thay đổi bên trong của Liên Xô. Cho nên, muốn hiểu rõ các thành quả và thất bại của người dân Đông Âu, cần phải biết rõ các biến chuyển nội bộ của Liên Bang Xô Viết.

1. Các năm cuối của Stalin 

Thế Chiến Thứ Hai được người dân Nga coi là cuộc chiến tranh bảo vệ tố quốc trước kẻ xâm lăng là quân Đức Quốc Xã. Tinh thần quốc gia của dân tộc Nga đã được đề cao và người dân Nga đã quên đi các khủng bố tàn bạo do chế độ độc tài toàn trị, tức là chế độ Cộng Sản, bởi vì người dân đã cảm thấy dễ thở hơn trong thời kỳ chiến tranh này. Đã có sự đoàn kết hiếm có giữa dân chúng và các kẻ cai trị là tầng lớp đảng viên. Một nhà khoa học người Nga gốc Do Thái, khi di cư sang xứ Israel vào năm 1972, đã cho một phóng viên người Mỹ biết rằng Thế Chiến Thứ Hai là thời kỳ tốt đẹp nhất trong lịch sử của Liên Xô bởi vì vào thời kỳ này: người dân Nga cảm thấy gần gũi với chính quyền hơn bất kỳ thời kỳ nào khác, cuộc chiến tranh đã là của chúng tôi. Vào năm 1945, đa số dân chúng Xô Viết hy vọng rằng sau chiến tranh, chính quyền Cộng Sản sẽ cho họ được tự do hơn, được hưởng dân chủ nhiều hơn. Nhưng các hy vọng này đã trở thành các vô vọng. 

Trước khi Thế Chiến tranh chấm dứt, Stalin đã hướng đất nước Nga trở về nền độc tài toàn trị. Từ đầu năm 1944, các đảng viên hàng đầu của đảng Cộng Sản đã nhận được một khẩu hiệu mới cần phải phổ biến: Khi cuộc chiến tranh chống chế độ Phát Xít chấm dứt, cuộc chiến tranh chống Chủ Nghĩa Tư Bản bắt đầu và Stalin đã từng nói rằng cuộc chiến sau này không tránh khỏi khi mà chế độ Tư Bản còn tồn tại. Một chế độ độc tài toàn trị không thể sống còn nếu không có kẻ thù,  chế độ Tư Bản là một kẻ thù của Liên Xô và tới khi cuộc Chiến Tranh Lạnh dần dần ló dạng thì sự đe dọa của Stalin đã trở thành sự thực.

Một mục đích khác của Stalin sau Thế Chiến là đàn áp hàng triệu người dân Nga sống bên ngoài Liên Bang Xô Viết. Loại này gồm hàng ngàn người là các dân sự sinh sống ở các nước ngoài và theo Liên Xô, cũng có hàng ngàn người khác chống đối Stalin và đã hợp tác với quân Đức, một số lớn khác bị quân Đức Quốc Xã cầm tù. Những người sinh sống bên ngoài Liên Xô đều từ chối trở về quê hương cộng sản. Tại Hội Nghị Yalta, Stalin đã đòi hỏi Roosevelt và Churchill rằng các kẻ phản bội này phải bị trả về cho Xô Viết rồi sau đó, hai nhà lãnh tụ Tây Phương đã giữ lời hứa và các vị chỉ huy quân sự Mỹ và Anh đã từ chối quyền tị nạn chính trí của những nạn nhân kể trên, trong bất cứ trường hợp nào. Vì vậy, gần 2 triệu con người gốc Nga đã bị trao trả về cho Stalin ngoài ý muốn của họ. Sau đó, đa số những nạn nhân này bị bắt bớ, giam cầm và bị gửi đi các trại cải tạo lao động, nơi mà 50 phần trăm tù khổ sai đã bỏ mạng. Nhờ việc thiết lập lại các trại cải tạo này mà một phần sáu các công trình xây dựng mới được thực hiện, phần khác do các người dân bị chế độ cộng sản thanh trừng trong các năm 1945 và 1946. 

Trong phạm vi văn hóa và nghệ thuật, các văn nghệ sĩ cũng bị thanh trừng. Các phong trào ý thức hệ đầy bạo lực đã được một tay lãnh tụ tin cẩn của Stalin phát động: Andrei Zhdanov. Zhdanov đã chê trách nhiều nghệ sĩ danh tiếng, kể cả hai nhà soạn nhạc lừng danh Sergei Prokofiev, Dimitri Shostakovich và nhà đạo diễn phim xuất sắc Sergei Eisentein. Nhà thơ nữ nổi tiếng Anna Akhmatova bị kết tội là một con điếm và nữ tu, đã pha trộn ổ điếm với nơi cầu nguyện.           

Andrey Aleksandrovich Zhdanov (1896-1948) đã tham gia vào đảng Bolshevik từ năm 1915, leo dần lên các cấp bực trong đảng Cộng Sản Nga rồi sau cuộc Cách Mạng Tháng 10 năm 1917, Zhdanov trở nên một lãnh tụ đảng của thành phố Leningrad, là người được Stalin tin cẩn, là một ủy viên của Bộ Chính Trị từ năm 1939. Khi thành phố này bị quân Đức Quốc Xã bao vây trong các năm 1941-44, Zhdanov đã chỉ huy công việc phòng thủ và khi Thế Chiến Thứ Hai chấm dứt, Zhdanov đã siết chặt các hoạt động văn hóa, bắt buộc các văn nghệ sĩ Liên Xô phải theo đúng các đường lối chỉ đạo của ý thức hệ cộng sản, phải bài bác tư tưởng tây phương. 

Đầu tiên, các chỉ đạo này được áp dụng cho bộ môn văn chương rồi lan qua các ban ngành khác như y học, sinh học, triết học, khoa học… Hai tạp chí văn chương Zvezda và Leningrad bị phê phán nặng nề vì đã phổ biến các công trình văn học của nhà văn hài hước (satirist) Mikhail Zoshchenko và nhà thơ nữ Anna Akhmatova. Các tác phẩm của họ bị coi như không mang màu sắc đảng, mang tính tư sản (bourgeois) và cá nhân. Anna Akhmatova và nhiều nhà văn, nhà thơ khác đã bị loại ra khỏi Hội Nhà Văn Xô Viết. Khi phong trào chống văn hóa tây phương lên cao điểm, các sáng tác văn học cổ điển Nga cũng bị phê bình và chỉ trích là bị ảnh hưởng của J.J. Rousseau, Molière, Lord Byron, Charles Dickens… Các lý thuyết, phát minh và khám phá của phương tây được sửa lại là do các nhà bác học Nga đã tìm kiếm ra. Qua năm 1949, Stalin còn đả kích tàn bạo các người Nga gốc Do Thái, tố cáo họ là thân phương tây và chống Xã Hội Chủ Nghĩa. 

Về phạm vi chính trị, từ năm 1945 Stalin đã xác nhận rằng đảng Cộng Sản kiểm soát hoàn toàn chính quyền và ông ta là chủ nhân tuyệt đối của Đảng. Các chương trình kế hoạch 5 năm lại được đưa ra để xây dựng kinh tế. Một lần nữa, kỹ nghệ nặng và kỹ nghệ quân sự được ưu tiên; nông sản, hàng tiêu dùng và nhà ở bị lơ là. Đời sống của người dân Nga lại trở về với mọi khó khăn cũ. Vào năm 1952, tiền lương của người dân thường chỉ mua được thực phẩm từ 25 tới 40 phần trăm ít hơn, so với năm 1928. Lối sống bi đát của thập niên 1930 đã trở lại dù rằng các khủng bố của công an có bớt đi, so với thời kỳ thanh trừng đỏ.

Một mục tiêu khác của Stalin là xuất cảng chế độ Stalin-nít qua các xứ Đông Âu. Từ năm 1948, các đảng Cộng Sản thuộc miền Đông Âu đã thiết lập được các nước độc đảng nhờ vào Hồng Quân và tổ chức Công An chìm của Liên Xô. Tại các quốc gia này, việc nhồi sọ các ý thức hệ Cộng Sản, việc đả phá các tôn giáo và tước bỏ các tự do dân sự (civil liberties) là các sự việc hàng ngày. Kỹ nghệ bị quốc hữu hóa, giới trung lưu bị tước bớt tài sản, đời sống kinh tế phải theo khuôn mẫu do Stalin đặt ra với cách nhấn mạnh vào kỹ nghệ nặng mà không quan tâm tới thiệt hại nhân mạng. Nền nông nghiệp bị tập thể hóa và công tác này được thực hiện nhanh hơn tại 2 xứ Bulgaria và Tiệp Khắc, chậm hơn tại Hungary và Ba Lan. Cuối cùng, các xứ vệ tinh của Liên Xô chỉ được trao đổi hàng hóa với Liên Xô theo các điều kiện không thuận lợi trong khi sự liên lạc với các nước tây phương của các nước Đông Âu này bị hạn chế. 

Một xứ duy nhất tránh khỏi cách khai thác, bóc lột kinh tế của Liên Xô, là nước Nam Tư. Lãnh tụ của nước này là Josip Tito (1892-1980) đã công khai tuyệt giao với Stalin vào năm 1948 vì không có quân đội Liên Xô trú đóng trên xứ Nam Tư. Việc quảng bá thành công một chế độ cộng sản độc lập với Liên Xô của Tito đã khiến cho nhiều lãnh tụ cộng sản của Đông Âu bị trục xuất khỏi đảng, bị tố cáo tội phản bội do những lời nhận tội không tin được và do các hành hạ, tra tấn không nương tay. 

2. Phong trào bài Stalin và cải cách 

Vào năm 1953, nhà độc tài Stalin già nua phải qua đời. Từ nay, các nước Đông Âu thay đổi chậm chạp, phần lớn do các lãnh tụ kế vị của Stalin đã nhận thức rằng cải tổlà cần thiết. Sự cải tổ này đầu tiên là do những nỗi sợ hãi và căm ghét chế độ khủng bố chính trị của Stalin, đây là cách đe dọa và đàn áp mọi người thuộc cả cấp trên lẫn cấp dưới bằng các cuộc thanh trừng không ngưng nghỉ và các vụ bắt bớ bất công. 

Năm 1947, Zhdanov là một lãnh tụ rất thân cận của Stalin, đã giám sát tổ chức Cominform (Communist Information Bureau), đây là cơ quan tuyên truyền quốc tế Xô Viết. Năm sau, Zhdanov qua đời trong vòng bí mật vào ngày 31/8/1948, rồi tiếp theo đó là cuộc thanh trừng 2,000 đảng viên thân tín và bộ hạ của Zhdanov. Cuộc thanh trừng này được gọi là vụ Leningrad (the Leningrad Affair). Vài người còn tin rằng chính Stalin đã nhúng tay vào vụ thanh trừng này bởi vì bệnh đa nghi cố hữu của ông ta và vì ác ý không muốn cho các lãnh tụ trẻ của khu vực Leningrad nổi trội. 

Trong lịch sử của Liên Xô vẫn thường xẩy ra nhiều cuộc thanh trừng kẻ nội thù, tức là các đảng viên với nhau. Hiện chưa biết rõ nguyên nhân nào đưa tới cuộc thanh trừng Leningrad kể trên nhưng có lẽ là do sự tranh giành quyền lực giữa hai phe, một phe thuộc Georgi M. Malenkov và Lavrenty P. Beria còn phe kia gồm các bộ hạ trước kia theo lãnh tụ Zhdanov. Những người bị hành quyết trong vụ thanh trừng gồm có: Nikolay A. Voznesensky, ủy viên Bộ Chính Trị và chủ tịch Ủy Ban Kế Hoạch Nhà Nước (State Planning Commission); người em của ông này là Aleksandr A. Voznesensky, bộ trưởng Giáo Dục của nước Nga; Alesey A. Kuznetsov, bí thư của Ủy Ban Trung Ương (Central Committee secretary) chịu trách nhiệm về các cơ quan công an; Pyotr S. Popkov, bí thư thứ nhất của tổ chức đảng tại thành phố Leningrad; và Mikhail N. Rodionov, chủ tịch của Hội Đồng Bộ Trưởng Nga (chairman of the Russian S.F.S.R. Council of Ministers). Các vụ khủng bố và thanh trừng như vậy thường xuyên diễn ra tại nhiều nơi trên đất nước Liên Xô đã khiến cho ngay cả trùm mật vụ của Stalin là Lavrenti Beria đã phải công khai nói rằng nên chấp nhận cách nới lỏng kiểm soát. Beria sau đó đã bị bắt và bị xử bắn. Sau thời gian này, quyền hạn của công an chìm đã giảm bớt đi và nhiều trại tù lao động cải tạo đã dần dần bị đóng cửa. 

Sự thay đổi còn được coi là cần thiết vì các lý do kinh tế. Nền nông nghiệp ở trong tình trạng tồi tệ, các hoàn cảnh thiếu ăn, thiếu hàng tiêu dùng đã khiến cho người dân không muốn làm việc chăm chỉ, không nghĩ ra sáng kiến. Cuối cùng, chính sách ngoại giao hiếu chiến của Stalin đã làm cho người Mỹ giúp đỡ các nước Tây Âu bằng các liên kết quân sự. Liên Xô vì vậy đã bị cô lập và bao vây. 

Vấn đề thay đổi đã được đặt ra tại Liên Xô sau khi Stalin qua đời, nhưng các lãnh tụ cộng sản không đồng ý về mức độ thay đổi. Phe bảo thủ, dẫn đầu do Vyacheslav Molotov, vị bộ trưởng ngoại giao rất lâu dài của Stalin và cũng là người có bộ mặt lạnh như tiền, muốn rằng càng ít thay đổi càng tốt. Phe cải cách do Nikita Khrushchev (1894-1971) biện hộ nhiều cải tiến. 

Nikita Sergeyevich Khrushchev sinh ngày 17/4/1894 tại Kalinovka, gần Kursk, thuộc phía tây nam của nước Nga. Cha của Khrushchev là một nông dân nghèo, đôi khi làm nghề thợ mỏ. Nikita Khrushchev cũng là một người thợ mỏ không có học vấn, đã theo đảng Bolshevik vào năm 1918 và lên dần tới địa vị cao, vào năm 1929 đổi về thành phố Moscow và do các thành tích hoạt động, đã được các cấp trên khen ngợi.  Năm 1939, Khrushchev đã ở trong Bộ Chính Trị và trở thành một lãnh tụ mới. Khi quân Đức Quốc Xã xâm lăng và chiếm xứ Ukraine, Khrushchev đã tổ chức các toán quân kháng chiến đồng thời có công làm cho các nông trại, hầm mỏ và nhà máy thép sản xuất được nhiều. Qua năm 1949, Khrushchev trở nên bí thư của Ủy Ban Trung Ương Đảng. Khi Stalin qua đời vào năm 1953, Georgi Malenkov nắm chức thủ tướng. Sáu tháng sau, Khrushchev trở thành Tổng Bí Thư Đảng, tức là người đứng đầu của Đảng Cộng Sản trên toàn đất nước Liên Xô. Năm 1955, Khrushchev gạt Malenkov ra khỏi chức vụ Thủ Tướng, thay bằng người do mình chọn lựa là Thống Chế Nikolay A. Bulganin. 

Để củng cố địa vị của mình và của các đảng viên cải cách, Khrushchev đã phát động một cuộc tấn công Stalin, kể ra rất nhiều tội ác của nhà độc tài này, trong phiên họp kín nhân kỳ Đại Hội Đảng Lần Thứ 20 vào tháng 2 năm 1956. Khrushchev đã mô tả các chi tiết theo đó Stalin là con người tàn ác, lạm dụng quyền hành, đã tố cáo ngụy tạo các người cộng sản vô tội là làm gián điệp, hành hạ họ để lấy lời khai và giết chết hàng ngàn đảng viên trung thành. Stalin đã tin tưởng tuyệt đối vào Hitler, làm hỏng cách phòng thủ quốc gia trước khi quân Đức Quốc Xã xâm lăng vào tháng 6/1941, đã làm suy yếu Hồng Quân do thanh trừng các tướng lãnh cao cấp, đã lưu đầy nhiều sắc dân thiểu số và đề cao cá nhân bằng mọi phương pháp có thể tưởng tượng ra được. Trong hàng giờ, cuộc tấn công này nếu ở vào giai đoạn trước, bị coi như bài diễn văn chống Cộng của phe tây phương. 

Vào dịp tố cáo các tội ác to lớn của Stalin, Khrushchev còn nhắc tới vụ thanh trừng Leningrad xẩy ra vào năm 1948 và tin rằng các lời tố cáo về âm mưu và phản bội của các bị cáo đều là giả tạo. Khrushchev đã chỉ rõ Lavrenty P. Beria, tay trùm mật vụ, và V.S. Abakumov, bộ trưởng Công An (minister of state security) là phải chịu trách nhiệm tạo dựng nên vụ sát hại Zhdanov và các đảng viên dưới quyền bằng cách chứng thực các lời tố cáo với Stalin. Abakumov bị hành quyết vào tháng 12 năm 1957 vì can dự vào vụ thanh trừng Leningrad kể trên, đồng thời để củng cố vị trí lãnh tụ đảng, Khrushchev đã khai thác hữu hiệu sự nhúng tay của Malenkov vào nhiều tội ác. 

Một trong các nhân vật cộng sản hàng đầu bị Khrushchev tố cáo là Beria. Lavrenty Pavlovich Beria (1899-1953) tham gia đảng Cộng Sản năm 1917, lập nhiều công trạng tại hai xứ Azerbaijan và Georgia trước khi được huấn luyện về các hoạt động tình báo và phản tình báo từ năm 1921. Beria là trưởng cơ quan mật vụ Cheka của miền Georgia, qua năm 1932 trở nên lãnh tụ đảng của miền Transcaucasian rồi là người đích thân giám sát các vụ thanh trừng chính trị của Stalin từ năm 1936 tới năm 1938. Cũng vào năm 1938, Beria là phụ tá của Nikolay Yezhov, trùm mật vụ Xô Viết NKVD. Sau khi Yezhov bị bắt và bị hành quyết theo lệnh của Stalin, Beria là người chỉ huy mật vụ từ năm 1938 tới năm 1953, với nhiệm vụ giám sát các vụ thanh trừng, trông coi các trại cải tạo lao động trên toàn Liên Xô. Tháng 2/1941, Beria là Phó Thủ Tướng rồi trong thời kỳ Thế Chiến Thứ Hai, là ủy viên của Ủy Ban Quốc Phòng Nhà Nước (the State Defense Committee), vào lúc này, Beria vừa phụ trách phần an ninh trong nước lẫn công việc sản xuất các nguyên vật liệu do các tù nhân cải tạo. Năm 1945, Beria được phong Thống Chế (hay Nguyên Soái) của Liên Xô (a marshal). Beria là ủy viên của Ủy Ban Trung Ương Đảng (the Central Committee of the Communist Party) từ năm 1934 và ủy viên Bộ Chính Trị (the Politburo) từ năm 1946. Khi Bộ Chính Trị được tổ chức lại thành Chủ Tịch Đoàn (the Presidium) vào năm 1952, Beria vẫn còn nằm trong cơ cấu tối cao này. 

Sau khi Stalin qua đời vào tháng 3/1953, Beria là một trong bốn Phó Thủ Tướng và đứng đầu Bộ Nội Vụ. Trong cuộc tranh giành quyền lực, Beria đã muốn dùng địa vị của trùm mật vụ trong cả nước để kế nghiệp Stalin, làm nhà độc tài. Tuy nhiên, qua tháng 7/1953, tập đoàn chống Beria do Georgi M. Malenkov, Vyacheslav M. Molotov và Nikita S. Khrushchev đã thắng. Beria bị bắt, bị tố cáo công khai là một điệp viên của tư bản (an imperialist agent), đã gây nên nhiều tội ác chống Đảng và chống Nhà Nước. Sau phiên tòa xét xử vào tháng 12/1953, Beria bị hành quyết tức khắc. 

Về sau, trong cuộc tranh luận sôi nổi xẩy ra vào tháng 7 năm 1957, Khrushchev còn chỉ vào hai đệ tử trung kiên của Stalin là Molotov và Kaganovich mà nói: Bàn tay của các anh đã nhuốm máu của các lãnh tụ đảng của chúng ta và máu của vô số đồng chí Bolsheviks vô tội (Your hands are stained with the blood of our party leaders and of innumerable innocent Bolsheviks). Molotov và Kaganovich cũng lớn tiếng đáp lại:Bàn tay của anh cũng vậy (So are yours!). Với sự giúp đỡ của Thống Chế Georgy Zhukov, Khrushchev đã loại vĩnh viễn ra khỏi quyền lực Georgi Malenkov, Vyacheslav M. Molotov và vài nhân vật quan trọng khác, họ bị gán cho là các thành phần chống đảng. Vài tháng sau, vào tháng 10/1957, Thống Chế Zhukov cũng bị mất chức bộ trưởng Quốc Phòng rồi kể từ tháng 3/1958, Nikita S. Khrushchev kiêm nhiệm luôn chức Thủ Tướng của Liên Bang Xô Viết.

Bài diễn văn kín của Khrushchev đã được đọc trong các buổi họp đảng trên khắp nước Liên Xô để làm mạnh thêm phong trào cải cách. Phong trào Bài Stalin đã làm lung lay độc quyền chính trị của đảng Cộng Sản, trong khi đó phong trào cải cách đã chú ý nhiều hơn vào các nhu cầu và các ước muốn của người dân Nga, đã chuyển tài nguyên từ kỹ nghệ nặng và quân sự sang các nông phẩm và hàng tiêu dùng. Cách kiểm soát công nhân theo chế độ Stalin-nít được nới lỏng, tòa án được độc lập hơn trong việc xét xử, nhất là đối với các tội phạm không thuộc chính trị. Nhiều triệu tù nhân chính trị được thả ra khỏi các trại lao động cải tạo của Quần Đảo Ngục Tù Gulag, bầu không khí chính trị trong xứ Liên Xô được tự do hơn đôi phần và lãnh tụ Khrushchev được lòng người dân nhiều hơn.      

Trong thập niên 1960, mức sống của người dân Liên Xô đã được cải tiến dần, vào năm 1970, họ có thể mua được gấp hai lần số thực phẩm, ba lần số quần áo và 12 lần số đồ gia dụng hơn là trong thập niến 1950, dù rằng còn rất thấp so với mức sống của người dân Đông Âu. 

Phong trào bài Stalin do Khrushchev khởi xướng, đã tạo nên niềm phấn khởi cho các nhà trí thức và các nhà văn bởi vì những người này đang đói khát nền tự do văn hóa. Nhà thơ lớn Boris Pasternak (1890-1960) đã hoàn thành cuốn tiểu thuyết dày Bác Sĩ Zhivago vào năm 1956, ông ta là người đã sống sót qua thời kỳ thanh trừng của Stalin nhờ ẩn mình phiên dịch các tác phẩm của Shakespeare. Bác Sĩ Zhivago vừa là một tác phẩm văn chương cỡ lớn, vừa là một điều thách đố mạnh mẽ trước chế độ Cộng Sản bởi vì cuốn truyện này đã kể lại một nhân vật trí thức trước thời kỳ Cách Mạng Tháng 10, đã bài bác bạo lực và sự tàn nhẫn của cuộc Cách Mạng năm 1917 và của những năm do Stalin cai trị và theo như cốt truyện, nhân vật chính Iouri dù cho bị hủy diệt nhưng được coi là chiến thắng do bởi tinh thần nhân đạo và thiên chúa giáo. Nhà thơ Boris Pasternak đã được trao tặng Giải Thưởng Nobel về Văn Chương năm 1958 nhưng đã bị chính Khrushchev ép buộc phải từ chối Giải Thưởng danh tiếng kể trên. Từ nay, nhiều nhà văn, nhà thơ có tài người Nga khác đã can đảm theo gương của Pasternak trong việc biểu lộ đặc tính tự do trong sáng tạo. 

Một nhà văn danh tiếng khác là ông Alexander Solzhenitsyn (1918-2008) cũng viết ra tác phẩm Một Ngày trong Cuộc Đời của Ivan Denisovich (One Day in the Life of Ivan Denisovich) vào năm 1962. Cuốn tiểu thuyết này mô tả cuộc sống ảm đạm trong một trại tù cải tạo dưới thời Stalin, đây là kinh nghiệm thực sự của chính tác giả khi bị kết án một cách bất công và phải chịu cảnh hành hạ tàn nhẫn. 

Về phương diện ngoại giao, Khrushchev cũng bài Stalin trong các chính sách đối ngoại bằng cách biện luận rằng đối với chế độ tư bản, có thể sống chung hòa bình được và có thể tránh khỏi cuộc chiến tranh toàn cầu. Trong cuộc họp thượng đỉnh đầu tiên với Tổng Thống Hoa Kỳ Dwight Eisenhower, Khrushchev đã đồng ý vào năm 1955 về một nước Áo (Austria) trung lập sau khi nước này ở dưới quyền chiếm đóng của các quốc gia Đồng Minh. Đây là cách giảm bớt căng thẳng trong cuộc chiến tranh lạnh và Khrushchev còn tuyên bố rằng có nhiều con đường dẫn tới Xã Hội Chủ nghĩa, tức là hòa dịu với lãnh tụ Josif Tito của nước Nam Tư. Đồng thời, Khrushchev cũng ve vãn các nước thuộc châu Á và châu Phi, hứa hẹn với họ các trợ giúp. 

Chủ trương bài Stalin của Khrushchev đã khuyến khích các nước vệ tinh Đông Âu nổi dậy. Do phải chịu đựng quá nhiều đau khổ dưới thời Stalin, các nhà cải cách Cộng Sản và dân chúng Đông Âu đã lợi dụng cơ hội này để sớm tìm kiếm thêm các thứ tự do và nền độc lập quốc gia. Ba Lan là nước dẫn đầu trong cách đòi hỏi dân chủ vào tháng ba năm 1956. Tại nước Ba Lan, giới nông dân không bị bắt buộc tham gia vào các nông trường tập thể và đạo Cơ Đốc (Catholic) còn được phép hoạt động. Các cuộc bạo động phản đối chính quyền tại Ba Lan đã khiến cho nhà cầm quyền cộng sản địa phương phải thả ra khỏi nhà tù hơn 9,000 tù nhân chính trị, kể cả một nhân vật trước kia bị thanh trừng là ông Wladyslaw Gomulka. Ông Gomulka đã bị tống giam vào năm 1951 vì muốn thiết lập nên một chính quyền cộng sản độc lập với Liên Xô. Khi lên nắm quyền hành lần này, ông Gomulka đã khéo léo làm dịu các tư tưởng chống Liên Xô và đạt được nhiều quyền tự trị cho xứ Ba Lan. 

Xứ Hungary đã trải qua một cuộc nổi dậy bi thảm. Khởi đầu do các sinh viên và các công nhân, tức là thành phần cách mạng đô thị cổ điển, người dân Budapest đã thiết lập nên một chính quyền cộng sản cải cách mới vào ngày 23 tháng 10 năm 1956, đòi hỏi quân đội Liên Xô phải rút ra khỏi xứ này, đòi hủy bỏ chế độ độc đảng độc tài và hứa hẹn các tự do bầu cử, tự do biểu lộ tư tưởng cũng như nhiều thay đổi xã hội. Điều đáng lo ngại nhất đối với Liên Xô vào thời kỳ đó là chính quyền Hungary mới chủ trương trung lập, từ bỏ liên kết quân sự với Liên Xô. Giống như năm 1849, Liên Xô đã cho quân đội đàn áp tàn bạo cuộc cách mạng dân chủ này. 

Vào ngày 4 tháng 11 năm 1956, lực lượng Xô Viết gồm 4,000 chiến xa, đã tấn công và chiếm thành phố Budapest cũng như nhiều thành phố khác. Từ 25,000 tới 50,000 người nổi dậy bị giết cùng với 7,000 quân Xô Viết thiệt mạng. Hơn 200,000 người dân Hungary bỏ chạy ra khỏi xứ trong khi đó hàng ngàn người khác bị bắt, bị hành quyết hay đưa qua các trại tù lao động cải tạo bên trong xứ Liên Xô. Người cộng sản Nga đã thiết lập tại đây một chính quyền mới, thân Liên Xô, dưới quyền lãnh đạo của ông Janos Kadar. 

Người dân Hungary đã chống cự quân đội ngoại quốc Liên Xô vì tin tưởng rằng Hoa Kỳ sẽ can thiệp và giúp đỡ theo như lời tuyên truyền, nhưng khi sự việc này không xẩy ra bởi vì Hoa Kỳ không muốn vướng mắc vào một cuộc chiến tranh toàn diện, dân chúng Hungary đành phải khuất phục trước bạo quyền và từ nay, đất nước này lại phải theo đúng các đường lối do Liên Xô vạch ra.         

3. Khrushchev bị hạ bệ

Vào tháng 10 năm 1962, nhà thơ trẻ được nhiều người biết tới là Yevgeny Yevtushenko đã phổ biến trên tờ báo Sự Thật (Pravda) một bài thơ có tên là Các Người Thừa Kế của Stalin (Stalin’s Heirs), công kích các đảng viên bảo thủ Stalin-nít. Bài thơ có tính cách chính trị này đã được sự chấp thuận của chính Khrushchev. Đây là lời phản kháng cuối cùng, bởi vì trong vòng hai năm, Khrushchev bị hạ bệ khi đang đi nghỉ ngơi trên bờ biển Crimea, bởi nhóm đảng viên cao cấp theo Leonid Brezhnev. Phong trào bài Stalin lan rộng đã khiến cho quyền hành độc tài của đảng Cộng Sản bị đe dọa, các chỉ trích có thể tới tầm vóc không thể kiểm soát nổi và đảng Cộng Sản phải siết lại phong trào này khi còn hạn chế được, vì vậy đây là lúc Khrushchev phải ra đi.

Một lý do khác khiến cho Khrushchev bị hạ bệ là chính sách ngoại giao của ông ta. Mặc dù vài thành công tại Ai Cập và Ấn Độ, đường lối của Khrushchev bị coi là không thành công. Vào năm 1958, Khrushchev đã ra lệnh cho các đồng minh phương tây phải rời khỏi Tây Bá Linh trong vòng 6 tháng, sự việc này đã khiến cho phe phương tây đoàn kết lại. Rồi sau đó liên lạc với Trung Cộng suy giảm thảm hại và ông ta còn ra lệnh xây dựng bức tường ngăn cách giữa hai miền Đông và Tây Bá Linh, vi phạm các thỏa ước với các siêu cường khi trước. Khrushchev còn ra lệnh đặt các phi đạn nguyên tử tại xứ cộng sản Cuba khiến cho Tổng Thống Kennedy đã phong tỏa Cuba, khủng hoảng ngoại giao rất căng thẳng khiến cho các hỏa tiễn Liên Xô phải bị tháo gỡ và rút lui, rồi sau biến cố này, uy tín của Khrushchev xuống dốc rất nhanh.

Sau khi Brezhnev lên nắm quyền vào năm 1964, các người Cộng Sản chỉ nhắc tới các ưu điểm của Stalin mà cố quên đi các tội ác to lớn của nhà độc tài này. Họ chỉ ca tụng các thành quả nhanh chóng về kỹ nghệ hóa và các chiến thắng Đức Quốc Xã của thời đại Stalin và nhắc nhở cho dân chúng Nga biết rằng sẽ không có các thay đổi đáng kể. Liên Xô từ nay lại bắt đầu các chương trình lớn lao xây dựng các lực lượng hải quân và không quân để có thể can thiệp vào các nơi xa xôi như Cuba, Afganistan và Việt Nam. Brezhnev đã theo đuổi đường lối thận trọng hơn, tránh đối đầu trực tiếp với Hoa Kỳ và tỏ ra sẵn lòng sống chung hòa bình với khối phương tây.

Các cố gắng cải tiến hệ thống cộng sản Xô Viết của Nikita S. Khrushchev đã gây được nhiều ảnh hưởng đáng kể tới giới trẻ tại Liên Xô, những người này về sau đã phục vụ chính quyền dưới thời của nhà lãnh tụ Mikhail Gorbachev .

IV. Boris N. Yeltsin (1931-2007) Nhà Cải Cách của Nước Nga

I. Tuổi trẻ của Boris N. Yeltsin

Boris Nikolayevich Yeltsin ra đời vào ngày 01 tháng 2 năm 1931 tại làng Butka, quận Talisky, thuộc tỉnh Sverdlovsk Oblast, nước Nga. Cha của Boris là ông Nikolay Yeltsin, là người đã bị kết án vì khuấy động chống Xô Viết vào năm 1934, nên bị đưa đi tù cải tạo trong 3 năm. Sau khi được thả ra khỏi nhà tù, ông Nikolay đã bị thất nghiệp một thời gian rồi làm công nhân xây dựng. Bà mẹ của Boris tên là Klavdiya Vasilyevna Yeltsina, làm nghể thợ may. 

Cậu Boris Yeltsin đã theo học trường trung học Puskin tại Berezniki và là một học sinh rất yêu thích thể thao, nhất là các môn bóng rổ, trượt tuyết, chạy việt dã, quyền Anh và môn vật, mặc dù cậu đã bị mất ngón tay cái và ngón chỏ của bàn tay trái trong một tai nạn cưa lựu đạn khi cậu cùng vài người bạn lẻn vào một kho đạn của quân đội để ăn cắp vài trái lựu đạn. 

Sau khi học xong trung học, Yeltsin theo học ngành xây dựng (construction) tại trường kỹ thuật Miền Ural (the Ural State Technical University) tại thành phố Sverdlovsk, tốt nghiệp năm 1955. Từ năm 1955 tới năm 1957, ông Yeltsin làm đốc công (a foreman) trong tổ hợp xây dựng Uraltyazhtrubstroy rồi tới năm 1963, làm việc tại thành phố Sverdlovsk, được thăng chức từ giám đốc công trình (construction site superintendent) lên Giám Đốc Xây Dựng (chief of the Construction Directorate) của Liên Hiệp Công Ty (Trust) Yuzhgorstroy. Năm 1963, ông Yeltsin được nâng lên hạng kỹ sư trưởng (chief engineer) rồi 2 năm sau là người đứng đầu Cơ Quan Nhà và Cao Ốc tại thành phố Sverdlovsk (the Sverdlovsk House-Building Combine). 

Năm 1968, ông Boris Yeltsin được tham gia vào Giới Nomenclatura, đây là thành phần cao cấp của Đảng Cộng Sản Liên Xô. Ông trở nên Bí Thư (secretary) của Ủy Ban địa phương, phụ trách phần phát triển kỹ nghệ vào năm 1975 rồi năm sau, 1976, được Bộ Chính Trị (the Politburo) đề cử làm Bí Thư Thứ Nhất (the first secretary) của Ủy Ban Đảng tại thành phố Sverdlovsk Oblast và đây cũng là một trong các nơi kỹ nghệ quan trọng nhất của Liên Xô. Ông Yeltsin giữ chức vụ này cho tới năm 1985. 

Vào năm 1977, khi là một đảng viên cao cấp của thành phố Sverdlovsk, ông Yeltsin đã theo lệnh của Moscow, đứng ra trông coi công việc phá hủy tòa nhà Ipatiev, là nơi vị Sa Hoàng cuối cùng Nicholas II và gia đình đã bị toán quân Bolshevik giết hại. 

Ông Yeltsin được kết nạp vào Bộ Chính Trị (the Politburo) từ ngày 24/12/1985 tới năm 1987, được cử làm Thị Trưởng của thành phố Moscow, đồng thời ông cũng là Bí Thư Thứ Nhất của Ủy Ban Đảng Thành Phố Moscow (the First Secretary of the CPSU Moscow City Committee). Sự thăng chức này là do hai ông Mikhail Gorbachev và Yegor Ligachev. Ngoài ra, ông Yeltsin còn được tặng một tòa nhà ở miền quê (dacha), nơi mà trước kia gia đình ông Gorbachev đã từng cư ngụ. Trong thời gian làm thị trưởng này, ông Yeltsin nổi tiếng là một người chủ trương cải cách (a reformer) và bình dân (a populist). 

Vào năm 1987, ông Yeltsin đã đụng độ với nhân vật chủ trương cứng dắn Yegor Ligachev và ông Mikhail Gorbachev về vấn đề bà Raisa, vợ của ông Gorbachev, đã vi phạm vào các công việc quốc gia. Tới ngày 21/10/1987, trước Ủy Ban Trung Ương Đảng Cộng Sản Liên Xô, ông Yeltsin đã tỏ ra bất mãn vì đà cải cách quá chậm chạp và ông đã yêu cầu từ chức khỏi Bộ Chính Trị và khi đó, ông Gorbachev đã tố cáo ông Yeltsin là chưa trưởng thành về chính trị (politicle immaturity)tuyệt đối vô trách nhiệm (absolute irresponsibility). Vào lúc này, không ai trong Bộ Chính Trị ủng hộ ông Yeltsin và ông Boris Yeltsin còn bị chỉ trích cho tới ngày 11/11/1987 rồi bị loại khỏi chức vụ Bí Thư Thứ Nhất của Ủy Ban Đảng Thành Phố Moscow. 

Sau khi bị giáng chức, ông Yeltsin phải nằm bệnh viện và đã có lần muốn tự sát. Khi đã bình phục, ông Yeltsin bèn tìm cách phục thù. Khi ông Gorbachev thành lập Nghị Hội của Các Đại Biểu Nhân Dân (the Congress of People’s Deputies), ông Yeltsin đã chỉ trích mạnh mẽ ông Gorbachev vì các cải cách quá chậm chạm, và vì vậy, ông Yeltsin đã bị Tạp Chí Sự Thật (Pravda) bêu xấu, mô tả ông Yeltsin là kẻ say rượu khi thuyết trình tại Hoa Kỳ, nhưng vì sự bất mãn của dân chúng đối với chế độ vào thời kỳ đó tăng cao, khiến cho sự nói xấu kể trên càng làm lợi cho ông Boris Yeltsin. 


II. Tổng Thống của Liên Bang Nga
 

Vào thán 3 năm 1989, ông Boris Yeltsin được dân chúng thành phố Moscow bầu làm đại biểu trong Nghị Hội của Các Đại Biểu Nhân Dân (the Congress of People’s Deputies) rồi sau đó lại là một nhân viên của Xô Viết Tối Cao của nước Nga (the Supreme Soviet of Russia). Qua ngày 29/5/1990, ông  Yeltsin được đề cử vào chức vụ Chủ Tịch của Chủ Tọa Đoàn Xô Viết Tối Cao Nga (Chairman of the Presidium of the Supreme Soviet of the Russian SFSR) và đã giữ chức vụ này tới ngày 10/7/1991. Ông Yeltsin được sự ủng hộ của các nhân vật dân chủ và bảo thủ của Xô Viết Tối Cao. 

Trong cuộc bầu cử Tổng Thống của Nước Cộng Hòa Nga (the Russian Republic) vào ngày 12/6/1991, ông Boris Yeltsin đã giành được 57 % phiếu bầu, đánh bại đối thủ được ông Gorbachev ủng hộ, là ông Nikokai Ryzhkov, ông này chỉ có được 16 % phiếu bầu. 

Vào giai đoạn này, các nhân vật chính yếu chống đối chương trình cải tổ Perestroika của ông Gorbachev, đã dựng nên một cuộc đảo chính vào ngày 18/8/1991. Khi đó ông Gorbachev bị giữ tại vùng biển Crimea, còn ông Yeltsin vội vã chạy lại Tòa Nhà Trắng của Nước Nga (the White House of Russia), đây là trụ sở của Xô Viết Tối Cao tại thành phố Moscow. Chính vào lúc biến động này, ông Yeltsin đã diễn thuyết trên nóc của một chiến xa. Cuộc đảo chính đã thất bại bởi vì đa số dân chúng đã biểu tình phản đối phe nổi loạn rồi qua ngày 21/8, tất cả các lãnh tụ đảo chính phải bỏ chạy khỏi thành phố Moscow và ông Gorbachev được giải cứu và trở về thành phố kể trên. Sau thắng lợi này, ông Boris Yeltsin được khắp nơi trên thế giới ca tụng. 

Với tư cách là Tổng Thống, vào ngày 6/11/1991, ông Yeltsin đã ra một nghị định giải tán đảng Cộng Sản trên khắp đất nước Nga. Tiếp theo, vào đầu tháng 12/1991, xứ Ukraine đã bỏ phiếu, đòi độc lập khỏi Liên Bang Xô Viết rồi một tuần lễ sau vào ngày 8/12/1991, ông Yeltsin đã gặp Tổng Thống xứ Ukraine là ông Leonid Kravchuk và một lãnh tụ của xứ Belarus là ông Stanislav Shushkevich rồi cả ba nhân vật này đã công bố việc giải thể (the dissolution) Liên Bang Xô Viết và sẽ thành lập Khối Thịnh Vượng của các Quốc Gia Độc Lập (the Commonwealth of Independent States = CIS). Ông Boris Yeltsin đã hành động như vậy để loại trừ ông Gorbachev khi mà ông Gorbachev đang tìm cách phục hồi quyền hành sau cuộc đảo chánh vào tháng 8 vừa qua. Mặt khác, ông Gorbachev đã tố cáo ông Yeltsin là đã vi phạm nguyện vọng của toàn dân trong cuộc trưng cầu dân ý, bởi vì đa số dân chúng đã muốn duy trì Liên Bang Xô Viết. 

Vào ngày 24/12/1991, Liên Bang Nga (the Russian Federation) đã thay thế vị trí của Liên Bang Xô Viết trong Hội Đồng Liên Hiệp Quốc rồi ngày hôm sau, ông Mikhail Gorbachev từ chức và kết quả là Liên Bang Xô Viết đã bị giải thể. 

Sau khi giải thể Liên Bang Xô Viết, ông Boris Yeltsin muốn thực hiện một cuộc cải cách kinh tế tận gốc, tái cấu trúc từ hệ thống kinh tế chỉ huy lớn nhất thế giới, sang một nền kinh tế thị trường tự do (a free market economy). Vào lúc này, các cố vấn của ông Yeltsin đã tranh luận giữa hai cách thực hiện nhanh hay chậm. Nhưng tới cuối năm 1991, ông Yeltsin đã theo các lời khuyên của các nhà kinh tế học phương tây và các cơ sở kinh tế như Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế (IMF), Ngân Hàng Thế Giới (the World Bank) và Bộ Ngân Khố Hoa Kỳ (the U.S. Treasury Department) là những cơ quan đã khai triển các chính sách tiêu chuẩn dùng việc chuyển hóa kinh tế trong thập niên 1980. Chính sách kinh tế mới này của Liên Bang Nga được gọi là sự đồng ý Washington (the Washington Consensus) hay cách điều trị va chạm mạnh (shock therapy), đây là cách phối hợp các biện pháp dùng để giải tỏa giá cả (to liberalize prizes) và ổn định ngân quỹ quốc gia. Các biện pháp này đã được thử nghiệm tại Ba Lan nhưng các nhà hoạch định chính sách nghi ngờ khi được dùng tại nước Nga, trong khi đó người phụ tá cho ông Yeltsin là ông Yegor Gaidar, một nhà kinh tế 35 tuổi, lại ủng hộ kế hoạch này. 

Ngày 02 tháng 1 năm 1992, ông Boris Yeltsin đã ra lệnh lưu động hóa các nền ngoại thương, giá cả và tiền tệ, đồng thời nước Nga đi theo cách ổn định kinh tế vĩ mô (macro-economic stabilization), một chế độ khắc khổ để kiểm soát nạn lạm phát. Theo chương trình ổn định này của ông Yeltsin, lãi xuất phải được tăng thật cao, phải hạn chế tiền tệ và giới hạn tín dụng. Để cân bằng các nguồn lợi tức và chi phí quốc gia, ông Yeltsin đã tăng thuế, cắt các trợ cấp của chính quyền dành cho kỹ nghệ và xây dựng, cắt giảm các trợ cấp xã hội. 

Vào đầu năm 1992, giá cả bắt đầu tăng vọt trên khắp đất nước Nga, nhiều kỹ nghệ phải đóng cửa và nền kinh tế đang đứng trước cảnh suy thoái. Các cải cách đã tàn phá các mức sống bình thường, các nhóm dân đã hưởng trợ cấp của chính quyền bị ảnh hưởng nặng nề nhất, trong khi đó, lợi tức giảm, thất nghiệp cao, nhiều phạm vi kinh tế bị xóa sạch. Nền lạm phát quá mức này (hyperinflation) đã tiêu hủy các tiết kiệm cá nhân và 10 triệu người Nga lâm vào cảnh bần cùng. Vài kinh tế gia còn cho rằng nước Nga vào thời kỳ này đã chịu cảnh suy sụp kinh tế nặng nề hơn cuộc Đại Suy Thoái (the Great Depression) của năm 1930 tại Hoa Kỳ và tại nước Đức. Vì vậy nhiều nhà chính trị tìm cách xa lánh chương trình cải cách của ông Yeltsin và vào tháng 2/1992, ông Alexander Rutskoy, Phó Tổng Thống của nước Nga, đã gọi chương trình cải tổ kinh tế của ông Yeltsin là tiêu diệt kinh tế (economic genocide). 

Trong suốt năm 1992, ông Boris Yeltsin đã phải tranh đấu với Xô Viết Tối Cao của nước Nga (the Supreme Soviet of Russia), với Nghị Hội của Các Đại Biểu Nhân Dân (the Congress of People’s Deputies) về các vấn đề kiểm soát chính quyên, về các chính sách của chính phủ, về ngân hàng và tài sản, rồi Nghị Hội lần thứ 7 đã bác bỏ đề nghị của ông Yeltsin đề cử ông Yegor Gaidar vào chức vụ Thủ Tướng. Qua ngày 26/3/1993, Nghị Hội lần thứ 9 đã đòi cách chức ông Boris Yeltsin, nhưng không thành vì thiếu 72 phiếu, tức là chưa đủ 2/3 đa số phiếu. 

Ngày 21/9/1993, ông Boris Yeltsin tuyên bố trên đài truyền hình quyết định của ông là giải tán bằng sắc lệnh Xô Viết Tối Cao và Nghị Hội của các Đại Biểu Nhân Dân, rồi cũng vào đêm hôm đó, Xô Viết Tối Cao công bố rằng họ đã giải nhiệm chức vụ Tổng Thống của ông Boris Yeltsin và ông Phó Tổng Thống Alexander Rutskoy đã tuyên thệ chức vụ Tổng Thống mới. Đây là cuộc khủng hoảng Hiến Pháp của tháng 10 năm 1993. 

Tại thành phố Moscow, đã có các cuộc biểu tình đông tới hàng chục ngàn người phản đối đời sống mới dưới thời ông Boris Yeltsin, đồng thời nạn tham nhũng cũng gia tăng cùng với số tội phạm, thực phẩm và nhiên liệu trở nên khan hiếm, tài sản dồn vào tay của các nhóm nhỏ của những người đầu cơ, lợi dụng… 

Qua đầu tháng 10 năm 1993, ông Yeltsin đã dùng tới quân đội và lực lượng an ninh, đã ra lệnh cho các chiến xa pháo kích vào Tòa Nhà Trắng Nga (the Russian White House) là trụ sở của Quốc Hội Nga, biến cố này đã làm cho hơn 500 người bị chết và 1,000 người bị thương. 

Vì Xô Viết Tối Cao đã bị giải tán, các cuộc bầu cử vào tháng 12 năm 1993 được tổ chức để bầu lên một Quốc Hội mới gọi là Duma Quốc Gia (the State Duma) đồng thời một cuộc trưng cầu dân ý đã chấp thuận một Hiến Pháp mới, theo đó quyền hành của Tổng Thống được tăng thêm, cho phép ông Boris Yeltsin có quyền chỉ định các nhân viên chính phủ, quyền giải nhiệm Thủ Tướng và trong trường hợp đặc biệt, có quyền giải tán Duma.

Vào tháng 12 năm 1994, ông Boris Yeltsin đã ra lệnh xâm lăng quân sự vào xứ Chechnya, việc  làm này đã làm cho khối tây phương bất mãn bởi vì ông Yeltsin đã trở nên một lãnh tụ Cộng Sản kiểu cũ, đã không còn là một người cải cách dân chủ (a democratic reformer). 

Sau khi đế quốc Liên Xô sụp đổ vào cuối tháng 12 năm 1991, ông Yeltsin đã đề cao chương trình tư nhân hóa (privatization) như là cách san xẻ tài sản, vì thế vào cuối năm 1992, ông Yeltsin đã phát động một chương trình tặng các quỹ phiếu miễn phí (free vouchers) cho dân chúng, như là một cách để khởi đầu chương trình tư nhân hóa kể trên. Mỗi người dân được lãnh một quỹ phiếu (voucher) có giá trị tương đương với 10,000 đồng rúp (rubles) để mua các xí nghiệp quốc doanh mà họ chọn lựa. Việc làm này khiến cho chỉ sau vài tháng, các quỹ phiếu kể trên đã rơi vào tay các kẻ trung gian, chuyên đầu cơ, họ đã mua lại các quỹ phiếu bằng tiền mặt. Ngoài ra còn có các chương trình khác để làm thăng tiến cách tư nhân hóa (privatization) nhưng tất cả các biện pháp kinh tế kể trên chỉ làm lợi cho các nhóm đầu cơ (oligarchs), họ đã thu gom các phạm vi tài chánh, năng lượng, kỹ nghệ, truyền thông… thành các quyền lợi riêng, họ là các nhân vật ủng hộ ông Boris Yeltsin. 
III. Tổng Thống nhiệm kỳ II

Vào tháng 2 năm 1996, ông Boris Yeltsin tuyên bố rằng ông sẽ ra tranh cử chức vụ Tổng Thống nhiệm kỳ II, điều này làm cho nhiều người nghi ngờ bởi vì vấn đề sức khỏe và các hành vi bất thường như say rượu, vấp ngã của ông Yeltsin, bởi vì sự mất tín nhiệm của ông ta đối với dân chúng. Nhưng ông Yeltsin đã thay đổi nội bộ của nhóm vận động tranh cử, giao quyền hành cho người con gái tên là Tatyana Dyachenko và chỉ định ông Anatoly Chubai làm trưởng ban vận động tranh cử kiêm cố vấn về chương trình tư nhân hóa, đồng thời hai ông Yeltsin và Chubai đã tuyển một số nhân vật đầu cơ tài chính và truyền thông (oligarchs) vào công việc vận động tranh cử qua truyền hình và qua các báo chí lớn. Hai giới này đã mô tả sự tương phản giữa chính quyền của ông Yeltsin so với sự trở về của chế độ Cộng Sản độc tài toàn trị và sự đe dọa sẽ có một cuộc nội chiến nếu một người cộng sản được bầu vào chức vụ Tổng Thống. 

Kết quả của cuộc bầu cử vào tháng 7 năm 1996 là ông Boris Yeltsin giành được 53.8 % phiếu bầu, ông Gennady Zynganov được 40.3 % và còn lại 5.9 % thuộc về các ứng cử viên khác. Cũng vào cuối năm này, ông Yeltsin phải vào bệnh viện vì giải phẫu ghép 5 mạch tim (quintuple heart bypass surgery). 

Trong nhiệm kỳ Tổng Thống thứ hai này của ông Yeltsin, nước Nga đã vay của Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế (IMF) và một số ngân hàng khác món tiền 40 tỉ mỹ kim, và các người chống đối ông Yeltsin cho rằng món tiền này đã bị ăn cắp bởi các người phụ tá của ông Yeltsin rồi chuyển vào các ngân hàng ngoại quốc. Vào năm 1998, đồng rúp (rubles) của nước Nga bị suy sụp, tạo nên cuộc khủng hoảng tài chính (the 1998 financial crisis). 

Trong cuộc chiến tranh Kosovo vào năm 1999, ông Yeltsin đã phản đối kịch liệt Khối Quân Sự NATO chống lại Nam Tư và cảnh cáo rằng sẽ có chiến tranh thế giới nếu người Mỹ, người Đức can thiệp vào vấn đề này. 

Vào ngày 15/5/1999, ông Boris Yeltsin đã thoát khỏi một cuộc truất phế do không đủ 2/3 số phiếu của các đại biểu Duma. Các đối thủ của ông Yeltsin đã tố cáo ông phạm phải nhiều hành vi vi hiến (unconstitutional activities), gồm việc ký Hiệp Ứơc Belavezha (the Belavezha Accords), giải thể Liên Bang Xô Viết vào năm 1991, cuộc đảo chính tháng 10 năm 1993 và gây ra cuộc chiến tranh Chechnya năm 1994. 

Tới tháng 9 năm 1999, ông Boris Yeltsin đã bãi nhiệm Thủ Tướng Sergei Stepashin và giải tán Nội Các, đây là cuộc giải tán lần thứ tư. Ông Vladimir Putin, một người chưa nổi danh, được bổ nhiệm vào chức vụ Thủ Tướng và ông Yeltsin còn công bố rằng ông hy vọng sẽ để ông Putin thay thế mình sau này. 

Cuối cùng vào ngày 31 tháng 12 năm 1999, lúc 12 giờ trưa, ông Boris Yeltsin đã công bố trên đài truyền hình rằng ông từ chức, quyền hành do Thủ Tướng Vladimir Putin đảm nhiệm, cho tới cuộc bầu cử sắp tới vào ngày 26/3/2000. Ông Boris Yeltsin đã xin dân chúng Nga tha thứ cho ông vì các nhầm lẫn trong thời gian vừa qua khi ông cầm quyền và nói rằng nước Nga cần có các nhà lãnh đạo chính trị mới để đi vào kỷ nguyên mới. 

Sau khi từ chức, ông Boris Yeltsin trở về cư ngụ trong tòa nhà Gorky-9 tọa lạc tại phía tây thành phố Moscow. Ông không xuất hiện ra bên ngoài nhưng đã cùng với ông Mikhail Gorbachev công khai chỉ trích chương trình mới của ông Putin là xa lánh nền dân chủ dành cho nước Nga và trở về hình thức trung ương tập quyền chính trị của thời đại Xô Viết khi trước.  

Ông Boris Yeltsin qua đời vào ngày 23 tháng 4 năm 2007, ở tuổi 76, vì nghẽn mạch tim (congestive heart failure). Tang lễ của ông Yeltsin được tổ chức tại Nhà Thờ Chúa Cứu Thế của thành phố Moscow (the Cathedral of Christ the Saviour). Ông Boris Yeltsin là chính khách người Nga đầu tiên có tang lễ được cử hành tại một nhà thờ sau 113 năm, trước đó là Hoàng Đế Alexander III. Khi qua đời, ông Yeltsin để lại bà vợ góa Naina Iosifovna Yeltsina mà ông đã kết hôn vào năm 1956 và hai cô con gái Yelena và Tatyana, sinh vào các năm 1957 và 1959. 

Vào ngày Tang Lễ của ông Boris Yeltsin, 25/4/2007, Tổng Thống Putin đã công bố ngày này là Ngày Quốc Tang với các lá cờ được kéo lên nửa cột cùng với các chương trình giải trí bị tạm ngưng. 

Ông Boris Yeltsin là Tổng Thống đầu tiên của Liên Bang Nga (the Russian Federation), giữ chức vụ này từ năm 1991 tới năm 1999. Khi mới lên nhậm chức, ông Boris Yeltsin được đa số dân chúng tin tưởng và ủng hộ, nhưng sự tín nhiệm này suy giảm thật nhiều về sau (còn 2 %). 

Thời đại của ông Yeltsin là giai đoạn tràn lan các vụ tham nhũng, suy sụp kinh tế, sự bất công và nạn thất nghiệp tăng cao, với nhiều vấn đề rắc rối về xã hội và chính trị. Các cải tổ của ông Yeltsin đã tác hại tới các mức sống tiêu chuẩn của người dân bình thường, làm giàu cho một số người biết đầu cơ, trục lợi. 

Ông Boris Yeltsin đã thực hiện một cuộc cách mạng để lật đổ chế độ cộng sản Liên Xô nhưng chưong trình cải cách của ông tại nước Nga đã gặp thất bại, bởi vì ông Yeltsin đã muốn xây dựng nền dân chủ bằng sức mạnh. 

Sau khi Đế Quốc Liên Xô sụp đổ, ông Boris Yeltsin đã thừa hưởng một nước Nga bị lạc hướng (disoriented) bởi vì trong thời gian các người cộng sản cầm quyền, họ đã xóa sạch không những Thượng Đế (God) mà ngay cả các nhận thức căn bản về đúng hay sai (right or wrong). Theo các người cộng sản, một sự việc được coi là đúng (right) khi phục vụ giai cấp công nhân mà không cần quan tâm tới các căn bản đạo đức thông thường. 

Khi nắm quyền hành, ông Boris Yeltsin và các cố vấn kinh tế đã cho rằng ưu tiên hàng đầu trong các công việc phải làm là chuyển giao các tài sản của nhà nước vào tay các tư nhân, và kết quả của sự nhầm lẫn này là tài sản của đất nước bị lọt vào tay của các kẻ tham nhũng, các kẻ đầu cơ và cơ hội, các băng đảng…, khiến cho đa số dân chúng bị sinh sống trong cảnh nghèo khó hơn thời trước. 

Trong thời gian từ năm 1992 tới năm 1998, tổng sản lượng quốc nội (gross domesticproduct) đã giảm đi 50 %, khiến cho các công nhân nhà máy trong nhiều tháng không có tiền lương và do vậy, sự bất mãn của dân chúng tăng cao. Tại nước Nga, người dân quen với lối sống theo phân phối của nhà nước, tới ngày nay, họ bị bất mãn vì các trợ cấp xưa kia đã bị cắt bỏ, ngoài các lý do khác như các nạn trộm cắp, băng đảng, tham nhũng… Cũng vì số tội phạm gia tăng trong thời gian ông Boris Yeltsin cầm quyền mà ông Vladimir Putin, một nhân vật chỉ huy mật vụ, đã được chọn lựa, để rồi ông Putin này lại đưa đất nước Nga trở về chế độ toàn trị (authoritarianism). 

Chế độ Cộng Sản sau khi toàn trị trên đất nước Nga trong 74 năm, đã để lại một thứ di sản rất khó cải tiến thành chế độ dân chủ và công việc canh tân đòi hỏi một khoảng thời gian rất dài, có lẽ cả một thế kỳ.

Nguồn bài đăng

Bình luận về bài viết này