CÂU CHUYỆN ĐẦY ĐỦ VỀ CUỘC THẢM SÁT TẠI THẾ VẬN HỘI MUNICH 1972 VÀ CHIẾN DỊCH BÁO THÙ CỦA ISRAEL “CƠN THỊNH NỘ CỦA CHÚA”

Trần Quang Nghĩa dịch
10 Chiến dịch Mùa Xuân Tuổi Trẻ
Trong khi các đặc vụ Israel truy lùng và sát hại các quan chức Palestine cấp thấp trên khắp châu Âu, họ cũng thu thập thông tin chi tiết về ba nhân vật liên quan đến vụ thảm sát Munich, những người dường như sống ngoài tầm với của Mossad. An toàn trong những ngôi nhà kiên cố ở Beirut, ba nhân vật cấp cao của Palestine, Abu Youssef (nhân vật thứ ba trong Fatah sau Yasser Arafat và Abu Iyad), Kamel Adwan (chỉ huy hoạt động của PLO) và Kamal Nasser (người phát ngôn chính thức của PLO), được cho là không thể đụng chạm.
Chính phủ Israel quyết tâm rằng họ phải chịu chung số phận với các đồng bọn trẻ tuổi. Không một quan chức Palestine cấp cao nào thoát khỏi sự trừng phạt. Đội Cơn Thịnh Nộ của Chúa đã được chỉ thị rằng bất kể vụ ám sát có phức tạp đến đâu, cả ba mục tiêu trên đều phải bị nhắm đến để ám sát.
Chiến dịch ám sát họ đã trở thành huyền thoại trong cộng đồng tình báo Israel. Thay vì sử dụng đặc vụ Mossad như các vụ ám sát trước đây, các thủ lĩnh của đội Cơn Thịnh Nộ Của Chúa đã chuyển sang sử dụng lực lượng Sayeret Matkal (“Đơn Vị”), lực lượng tinh nhuệ tương đương với Lực lượng Đặc nhiệm Không quân Anh hoặc Lực lượng Delta của Mỹ.
Vào tháng 2 năm 1973, chỉ huy đội quân này, Ehud Barak (người sẽ trở thành thủ tướng Israel năm 1999), trở về căn cứ sau một cuộc họp tại kirya, khu liên hợp quân sự Israel ở Tel Aviv. Ông tập hợp các sĩ quan cấp cao của Sayeret Matkal quanh chiếc bàn phủ formica màu nâu trong văn phòng của mình. Trong khi những người lính dày dạn kinh nghiệm tụ tập xung quanh với vẻ chờ đợi, Barak lấy ra ba tấm ảnh từ một tập tài liệu nằm trên bàn làm việc của ông.
“Abu Youssef, Kamel Adwan, Kamal Nasser,” ông vừa nói, vừa đập mạnh từng bức ảnh xuống bàn. Các chiến binh nhận ra tên tuổi và khuôn mặt. Cả ba đều có liên quan mật thiết với tổ chức Tháng Chín Đen, Barak nói, rồi tiết lộ nơi Adwan và Nasser đang sống: trên tầng hai và tầng ba của một tòa nhà ở góc phố nhỏ cuối phố VerDun, ngay gần Hamra, trung tâm mua sắm chính của Beirut. Abu Youssef đang sống trong một căn hộ trên tầng sáu của một tòa nhà ngay bên kia đường. Sayeret Matkal đã được giao nhiệm vụ ám sát họ, Barak nói. Một tiếng xì xào lan truyền giữa những người đàn ông.
Các đặc vụ tình báo Israel đã có được bản thiết kế kiến trúc chi tiết của các tòa nhà, và những người lính Sayeret Matkal ngay lập tức bắt đầu xem xét các phương thức khác nhau có thể sử dụng để mở một cuộc tấn công. Trực thăng bị loại trừ vì sẽ không gây yếu tố bất ngờ. Thay vì tấn công công khai, họ quyết định cải trang thành khách du lịch để vào Beirut.
Các sĩ quan có mặt tại cuộc họp đều hân hoan. Cuối cùng họ cũng có cơ hội giáng một đòn chí mạng vào bọn khủng bố. “Chúng tôi biết rằng chính phủ đã quyết định tấn công và giết chết từng người một, câc chỉ huy có liên quan đến sự kiện ở Munich”, Muki Betser, khi đó là chỉ huy trung đội Sayeret Matkal, cho biết. “Tôi nhớ cảm giác của mọi công dân Israel, đặc biệt là binh lính. Chúng tôi cảm thấy cần phải tiến hành một cuộc chiến tranh tổng lực chống lại mọi tổ chức khủng bố đang đe dọa chúng tôi.”
Betser lớn lên ở làng Nahalal, vùng Thung lũng Jezreel, trong khu định cư nông nghiệp đầu tiên của Israel hiện đại mà các ông bà anh thành lập nên.
Anh đã gia nhập Lực lượng Phòng vệ Israel năm 1964 và là một người lính dũng cảm, tự hào, một trong những chiến sĩ tinh nhuệ được đặt trong tình trạng sẵn sàng chiến đấu trong cuộc khủng hoảng Munich. Anh hoan nghênh cơ hội trả thù cho vụ thảm sát ở Đức.
Một máy tính quân sự Israel đã đề xuất mật danh “Chiến dịch Mùa xuân Tuổi trẻ” cho cuộc tấn công ở Beirut, và những công tác chuẩn bị đầu tiên đã sớm được tiến hành. Tóc giả và váy áo được tìm thấy cho một số binh sĩ để cải trang thành nữ du khách, trong khi những người còn lại trong đơn vị bắt đầu mua sắm quần áo du lịch. An ninh là yếu tố quan trọng; một sĩ quan tình báo thậm chí còn cảnh báo chủ một cửa hàng quần áo nam trên phố Allenby ở Tel Aviv phải giữ im lặng về một loạt những gã to con, hung hãn mua áo khoác quá khổ (mà binh lính sẽ mặc để che giấu một kho vũ khí nhỏ trước ngực).
Betser và những người còn lại trong Đơn vị sau đó dành nhiều tuần huấn luyện mỗi đêm tại một công trường xây dựng ở phía bắc Tel Aviv, thực hành các kỹ năng mà họ sẽ cần ở Beirut: đột nhập nhà nhanh chóng, tác xạ khi ngồi trên xe đang di chuyển nhanh, nhập vai thuần thục. Họ thậm chí còn tập đi bộ trên đường, với các cặp binh sĩ cải trang đóng vai cặp vợ chồng hạnh phúc.
Mỗi đội gồm 4 người được giao cho mỗi trong ba mục tiêu, đội do Muki Betser chỉ huy phải đối mặt với nhiệm vụ khó khăn nhất. Nhiệm vụ của họ là chiến đấu để vào được căn hộ trên tầng sáu của Abu Youssef, một thủ lĩnh du kích Palestine với rất nhiều vệ sĩ. Betser giờ đây mô tả nhiệm vụ này là một “vinh dự”.
Việc tiến vào Beirut và ám sát các nhà lãnh đạo Palestine là một chiến dịch gây ra những hậu quả chính trị nghiêm trọng ở cấp độ quốc tế và khu vực. Giới lãnh đạo Israel biết rằng hành động này sẽ dẫn đến sự lên án trên toàn thế giới, sự chỉ trích tại Liên Hợp Quốc, thậm chí có thể là các lệnh trừng phạt kinh tế, cũng như sự trả đũa của Palestine. Tuy nhiên, trong khi chiến dịch vẫn đang trong giai đoạn lập kế hoạch, mối lo ngại của Israel đã được xoa dịu bởi một chiến dịch Tháng Chín Đen tàn bạo ở Sudan.
Vào buổi tối ngày 1 tháng 3 năm 1973, một đơn vị nhỏ của Tháng Chín Đen đã tấn công đại sứ quán Ả Rập Xê Út ở Khartoum (Sudan) khi quân đội Ả Rập Xê Út tổ chức một bữa tiệc cho George Moore, phó trưởng phái bộ Hoa Kỳ, người đang trên đường trở về Hoa Kỳ. Đại sứ quán Ả Rập Xê Út là một mục tiêu khá kỳ lạ được lựa chọn, nhưng cuộc tấn công được thiết kế để cho phép Tháng Chín Đen gây áp lực lên Israel thông qua một bên thứ ba là đồng minh trung thành của họ là Hoa Kỳ và cảnh báo người Ả Rập Xê Út không được hủy bỏ chính sách chuyển khoản thuế áp dụng cho công nhân Palestine tại vương quốc này vào ngân khố của PLO.
Bọn khủng bố hẳn đã bị thúc đẩy bởi cái mà chúng cho là một kết cục đáng thất vọng cho chiến dịch Tháng Chín Đen ở Bangkok, và vụ thảm sát hàng loạt 106 hành khách trên chiếc máy bay chở khách Libya bị bắn rơi ngày 21 tháng 2 do các chiến đấu cơ Israel thực hiện khi máy bay Libya bay lạc vào không phận Israel. Vụ tấn công được lên kế hoạch để chứng minh với thế giới rằng người Palestine vẫn không đánh mất quyết tâm và vẫn kiên định với sự nghiệp cách mạng. Nhưng mọi chuyện đã không diễn ra như kế hoạch.
Hầu hết quan khách ở tiệc chiêu đãi đại sứ đã chạy thoát ra ngoài vườn khi bọn khủng bố tiến vào thực địa. Khi cảnh sát Sudan đến nơi, bọn khủng bố Palestine chỉ còn giữ năm con tin: Cleo Noel (đại sứ Mỹ), George Moore, Guy Eid (đại diện lâm thời Bỉ), và các đại diện lâm thời Ả Rập Xê – Út và Jordan. Họ yêu cầu hàng chục phần tử khủng bố Đức, Palestine, và đặc biệt là nhóm Tháng Chín Đen phải được thả khỏi các nhà tù ở châu Âu và Israel.
Cũng như Golda Meir đã từ chối bọn khủng bố tống tiền ở Munich, Tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon cũng từ chối bị tống tiền ở Khartoum. Nhưng khi Tổng thống Ai Cập Sadat tìm cách can thiệp và giải quyết cuộc khủng hoảng một cách hòa bình, lực lượng biệt kích Tháng Chín Đen đã bắn chết hai người Mỹ và một con tin người Bỉ.
Bọn khủng bố sau đó đã đầu hàng lực lượng Sudan, và cảnh sát Sudan sau đó đã đột kích vào các văn phòng PLO tại Khartoum và phát hiện ra rằng Fawaz Yassin, lãnh đạo PLO tại thành phố này, đã tham gia mật thiết vào vụ tấn công, vốn được Đại tá Gaddafi của Libya hỗ trợ tài chính. Washington đã nổi giận trước vụ thảm sát này, và người Mỹ đã đồng ý nhắm mắt làm ngơ trước kế hoạch của Israel về một cuộc tấn công vào Beirut do Ehud Barak, Muki Betser và người của họ thực hiện.
Vào ngày 6 tháng 4 năm 1973, một nhóm đặc vụ tiên phong của quân đội Israel đã đến Beirut để chuẩn bị cho cuộc tấn công quân sự của Đơn vị. Đóng giả làm khách du lịch nước ngoài và mang theo hộ chiếu nước ngoài giả mạo chuyên nghiệp, các đặc vụ đã nhận phòng tại hai khách sạn cao cấp và thuê sáu chiếc xe (một chiếc Renault, ba chiếc Buick màu trắng, một chiếc sedan Plymouth và một chiếc xe bán tải) từ một công ty cho thuê xe địa phương.
Cuộc tấn công được lên kế hoạch diễn ra vào ban đêm, vì vậy người Israel cần phải thuyết phục nhân viên khách sạn rằng chẳng có gì lạ khi họ đi lại quanh quẩn Beirut vào sáng sớm. Một người Israel, mang theo giấy tờ tùy thân của Anh và tự nhận là người Anh, nói với nhân viên khách sạn rằng sở thích của anh ta là câu cá đêm. Trong vài ngày đầu ở lại thành phố, anh ta thường biến mất sau nửa đêm rồi trở lại vài giờ sau với nụ cười mãn nguyện và một mẻ cá ấn tượng.
Khi các đặc vụ Israel lên kế hoạch di chuyển Đơn vị
quanh Beirut với tốc độ cao và tập dượt các tuyến đường họ sẽ đi bằng xe thuê, nhóm của Ehud Barak đang thực hiện những bước chuẩn bị cuối cùng tại Israel.
Ngày 9 tháng 4, biệt đội rời khỏi đất nước từ một bến tàu hải quân ở cảng Haifa. Theo Muki Betser, David “Dado” Elazar, Tổng tham mưu trưởng Israel, và Eli Ze’ira, Tư lệnh Tình báo Quân đội, đều có mặt để tiễn biệt họ. Dado đã đưa ra một số chỉ thị cuối cùng cho nhóm.
“Chúng ta phải giết bọn khốn đó”, Betser trích lời Dado nói với những chiến binh.
Betser giơ tay chất vấn chỉ thị. Cho đến lúc đó, anh ta khẳng định nhóm đã được huấn luyện để bắt giữ ba mục tiêu – mặc dù có sử dụng vũ lực – và đưa họ trở về Israel để xét xử vì tội ác của họ.
“Ngài vừa nói ‘giết’ à?” Betser hỏi.
Dado liếc nhìn Ze’ira rồi nhìn lại binh lính của mình. “Phải. Giết chúng đi,” ông ta nói.
Phải mất bảy giờ, một chiếc tàu cao tốc của Israel mới đến được vùng biển ngoài khơi Beirut, nơi Đơn vị trèo xuống những chiếc xuồng bơm hơi Zodiac do người nhái điều khiển để chuyển đến Bãi biển Dove ở Beirut. Một đặc vụ Israel đóng giả làm dân Anh câu cá đêm đã hướng dẫn những chiếc xuồng vào đất liền.
Dưới màn đêm, ba chiếc xe với các tài xế Mossad đang đợi 16 chiến binh tinh nhuệ Israel cải trang nghiêm ngặt, đổ bộ lúc 1:30 sáng ngày 10 tháng 4. Muki Betser nhảy lên chiếc xe đầu tiên, cùng với Ehud Barak, Jonathan Netanyahu (anh trai của thủ tướng Israel hiện nay, Binyamin Netanyahu), và hai binh sĩ, Lonny Rafaeli và Zvika Livneh. Khi ba chiếc xe chạy 12 dặm vào trung tâm Beirut với tốc độ chậm rãi, Betser liếc nhìn Barak, chỉ huy của mình. Thủ tướng tương lai của Israel, cải trang thành phụ nữ, đội tóc giả màu đen và trang điểm, với lựu đạn cầm tay giấu trong áo ngực.
“Tôi mặc quần dài vì váy thời trang thời đó hơi ngắn và bó sát”, Barak kể lại khi nhớ lại nhiệm vụ. “Tôi cũng có một chiếc túi rất thời trang, đủ lớn để chứa rất nhiều thuốc nổ.” Lonny cải trang thành một cô gái tóc vàng.
Những chiếc xe đậu gần phố Rue Verdun và Barak cùng Betser dẫn đầu đoàn tiến về phía mục tiêu, tay Barak vòng qua eo Betser khi họ bước đi. Cách ngụy trang của họ rõ ràng rất thuyết phục đến nỗi, ngay cả khi “cặp đôi” chạm trán hai cảnh sát Lebanon có vũ trang đang đi bộ trên vỉa hè, các cảnh sát cũng không thèm liếc nhìn họ lần thứ hai.
Trong vòng vài phút, Đơn vị đã đến được ba tòa nhà chung cư và chia thành ba nhóm để tấn công từng mục tiêu. Barak, hải quân
sĩ quan liên lạc Dov Ber và một người lính khác đợi trên phố trong khi Betser dẫn nhóm bốn người của mình đi qua cửa kính vào tòa nhà có căn hộ của Abu Youssef.
“Chúng tôi có lựu đạn và súng trường giấu dưới quần áo và không bị phát hiện, chúng tôi đã đột nhập vào căn hộ”, Betser kể lại.
Những sát thủ chạy lên cầu thang, nhảy tứng hai hoặc ba bước một, vừa chạy vừa rút súng ra. Để có hỏa lực tối đa Betser một tay cầm một khẩu súng tiểu liên Uzi, tay kia nắm chặt khẩu Beretta.
Lên đến tầng sáu, nhóm người dừng lại ở hai bên cửa trước căn hộ Youssef, trong khi Zvika cúi xuống và đặt một khối thuốc nổ lên khung cửa. Betser bấm vào máy liên lạc ba lần để báo cho Barak ở phố bên dưới biết rằng đội mình đã vào vị trí.
Một lát sau, Barak cũng nhận được tín hiệu sẵn sàng tấn công của hai đội Sayeret Matkal khác.. Trong hành lang bên căn hộ Youssef, Betser hồi hộp chờ đợi tiếng gõ năm lần của Barak để bắt đầu chiến dịch: “Cuối cùng, tiếng gõ cũng bắt đầu. Tôi đếm bằng ngón tay, một, hai, ba, bốn, năm. Đến tiếng gõ thứ năm, lòng bàn tay mở ra của tôi nắm chặt lại, và tôi chỉ vào Zvika.”
Zvika nhảy lên và kích nổ một quả bom làm cửa bật tung. Betser và đội của anh ta xông vào trong, đi theo một lộ trình đã định sẵn và rẽ trái vào hành lang chính của căn hộ rồi đi qua văn phòng của Youssef. “Lực lượng đã có hình ảnh và chúng tôi biết chính xác mục tiêu đó là ai và làm gì”, Betser nói.
Với Zvika phía sau, Betser quay lại và thấy Youssef thoáng xuất hiện ở cửa phòng ngủ chính. Ngay khi Youssef đóng sầm cửa lại định thoát thân, tiếng súng máy nổ lách tách đã xuyên thủng màn đêm. Đạn từ khẩu Uzi của Betser và Zvika xé toạc cửa và tường. Sau đó, bằng một cú đá mạnh, Betser phá vỡ phần còn lại của cánh cửa phòng ngủ và phát hiện Youssef đã nằm chết trên sàn. Trong lúc hỗn chiến, vợ của Abu Youssef cũng bị bắn chết, cùng với ba vệ sĩ của hắn.
Trong tòa nhà chung cư bên kia đường, hai đội Israel khác cũng đã tìm thấy mục tiêu của họ. Ka-
mal Nasser trốn dưới gầm bàn và bắn một phát đạn, trúng vào chân một chiến binh Israel tên là Aharon, trước khi hắn ta bị giết bởi một loạt đạn từ đồng đội của Aharon.
Khi đội ập vào căn hộ của Kamel Adwan, mục tiêu của họ nhảy khỏi giường đang ngủ với bà vợ Maha, chạy về phía một khẩu Kalashnikov. Hắn ta bị bắn cả một loạt đạn. Đáng buồn thay, khi đội rời khỏi căn hộ của Adwan, một cánh cửa khác mở ra ở cầu thang và một lính biệt kích Israel đã nổ súng theo bản năng, khiến một phụ nữ Ý 70 tuổi, tỉnh giấc vì tiếng động lớn, tò mò bước ra cửa và
bị thương nặng.
Người Israel hy vọng tìm thấy Abu Iyad và Ali Hassan Salameh, mà họ nghĩ có thể đang ở một trong ba căn hộ đêm đó, nhưng các thủ lĩnh của Tháng Chín Đen đang ngủ trên giường ở một nơi khác trong thành phố.
“Nhà tôi cách nhà Abu Youssef quá cố khoảng 55 thước,” Salameh nói sau đó. “Bọn sát thủ Israel không đến nhà tôi vì một lý do rất đơn giản: nó được canh gác bởi 14 vệ sĩ.”
Bên ngoài đường phố, tiếng súng nổ cho thấy quân Israel đang bị tấn công. Betser dẫn đội của mình ra khỏi căn hộ và chạy xuống cầu thang để tham gia chiến đấu. Khi ra đến đường, anh chứng kiến một cảnh tượng phi thường.
Một người trong đội Israel, đứng giữa đường phố với mái tóc giả màu vàng hoe, đang cầm một khẩu súng tiểu liên Uzi nã đạn vào chiếc Land-Rover của cảnh sát Liban đang lao về phía hiện trường. Một chiếc LandRover khác chở theo bốn cảnh sát xuất hiện trên đường, nhưng loạt đạn của Israel đã giết chết hoặc làm bị thương tất cả bọn họ
Ba chiếc xe tẩu thoát của Israel dừng lại gần Barak, đúng lúc một chiếc xe Jeep cảnh sát khác xuất hiện. Betser rút một quả lựu đạn từ dưới áo khoác ra và ném về phía cảnh sát. Nó bật ra khỏi mái che bạt và nổ tung trên đường phố. “Bốn tên ngã ra khỏi xe jeep, hoặc bị thương hoặc đã chết”, Betser nói.
Trong khi đó, một viên chức Mossad gọi điện cho một sĩ quan cảnh sát cấp cao người Liban. Giả dạng là một viên chức địa phương khác, anh ta nói với viên sĩ quan rằng du kích Palestine đang giao tranh với nhau gần phố Verdun. Lo lắng người của mình sẽ bị thương vong trong cuộc đấu súng giữa những người Palestin được trang bị vũ khí hạng nặng, cảnh sát trưởng dường như đã đình chỉ việc gọi lực lượng cảnh sát tăng viện khác đang trên đường đến khu vực này.
Quân Israel chui vào xe tẩu thoát và chạy thục mạng về phía bãi biển, trong khi các chiến đấu cơ Israel theo dõi cuộc đào tẩu của họ từ trên cao, và trực thăng thả các “bàn chân quạ” có gai để vô hiệu hóa lốp xe của bất kỳ lực lượng truy đuổi nào. Để ngăn chặn chính phủ Liban có hành động quân sự chống lại trực thăng, các quan chức Mossad đóng giả sĩ quan quân đội Liban điện cho cảnh sát trưởng Beirut và thông báo rằng họ đang điều trực thăng đến để xác định vị trí giao tranh. Lực lượng tuần duyên Liban sau đó cũng được các đặc vụ Mossad giả làm cảnh sát liên lạc và thông báo như vậy.
Sau khi bị kẹt nửa dặm căng thẳng phía sau những chiếc xe bọc thép chở quân Liban không hề hay biết trong chuyến tuần tra thường lệ của họ, lực lượng Israel trở lại bãi biển Dove, nơi họ đỗ xe ngay ngắn thành một hàng và được lính biệt kích hải quân chào đón, đưa họ trở lại tàu tên lửa đang chờ ngoài khơi. Từ lúc Ehud Barak, Muki Betser và Đơn vị đổ bộ lên bãi biển cho đến lúc họ rời đi, chiến dịch chỉ kéo dài đúng nửa tiếng.
Lực lượng Israel đã tấn công vào một số nơi khác ở Beirut đêm đó, chủ yếu là để đánh lạc hướng từ ba vụ ám sát chính. Đội tiền trạm của các đặc vụ Mossad đã thuê sáu chiếc xe. Ba chiếc được dùng để chở đội của Ehud Barak, trong khi ba chiếc còn lại chở lính dù do chiến binh gan dạ Amnon Shahak chỉ huy đến trại tị nạn Sabra. Tại đây, họ đã cho nổ tung trụ sở sáu tầng của Mặt trận Dân chủ Nhân dân Giải phóng Palestine của Naif Hawatmeh và tiến hành một trận chiến ác liệt với du kích của Mặt trận này. Thêm nhiều chiến binh Israel tấn công “các cơ sở sản xuất vũ khí” và các kho nhiên liệu của PLO.
Tuy nhiên, chính những vụ tấn công trên phố Verdun mới là những vụ được truyền thông chú ý nhiều nhất. Cuộc tấn công đã bị cả thế giới nghi ngờ, và trong khi báo chí Liban thắc mắc về danh tính của “hai nữ quỷ xinh đẹp, tóc vàng và tóc nâu, đã chống trả cảnh sát và quân đội như những ả lên đồng cầm súng máy”,
Báo chí phương Tây đưa tin về vụ giết người với một chút ngưỡng mộ. Tất cả đều đồng ý rằng vụ tấn công được thực hiện với phong cách đặc trưng của Israel và sự khéo léo của quân đội.
Muki Betser không hề nghi ngờ về tính hợp pháp của chiến dịch này. Ông nói rằng vụ thảm sát Munich là “một sự kiện đau thương, nó là một phần ký ức chung của chúng ta. Đối với những người còn sống vào thời điểm đó, những người đã đọc về nó, đó là một chấn thương sẽ được ghi nhớ trong nhiều năm. Và có một cảm giác tức giận và một nhu cầu sâu sắc phải trừng phạt các tổ chức, một lần và mãi mãi, để loại bỏ cái gọi là cuộc chiến của những kẻ khủng bố chống lại thường dân.
“Chiến dịch này, ‘Mùa xuân Tuổi trẻ’, nhằm trừng phạt những kẻ đã lên kế hoạch và thực hiện tội ác giết hại các vận động viên ở Munich. Chiến dịch này là nguồn vinh dự và tự hào cho người Israel. Tôi nghĩ rằng mọi quốc gia tự trọng nên biết cách trừng phạt những kẻ làm hại mình. Tôi nghĩ rằng việc tấn công các thủ lĩnh của họ đã khiến họ, thay vì lên kế hoạch hành động, sẽ quay ra tự vệ.”
Chắc chắn, khát vọng trả thù của Israel dường như đã được thỏa mãn. Golda Meir vui mừng: “Chúng ta đã tiêu diệt những kẻ sát nhân đang âm mưu giết người lần nữa”, bà nói với Knesset.
Cuộc đột kích chắc chắn đã hoàn thành một trong những mục tiêu đã công khai của hoạt động Cơn Thịnh Nộ của Chúa rộng lớn hơn: đó là ép buộc du kích Palestine vào thế phòng thủ, sử dụng các chiến thuật khủng bố chống lại giới lãnh đạo của họ. Chỉ vài ngày sau vụ tấn công Beirut, hàng chục lính gác đã được điều động đến bảo vệ các nhà lãnh đạo Palestine, gia đình của họ được đưa đến nhà mới ở Ai Cập, và những người Palestine nổi tiếng nhất được yêu cầu thay đổi địa chỉ ít nhất mỗi tháng một lần, giữ bí mật thông tin.
Sự xâm nhập của Israel vào Beirut không phải là nơi kết thúc các nhiệm vụ ám sát. Vào ngày 11 tháng 4, chỉ vài giờ sau vụ tấn công Beirut, người Israel đã di chuyển đến Athens để giết nạn nhân thứ tám của họ. Zaiad Muchasi đã thay thế Hussein Abad Al Chir làm thủ lĩnh của tổ chức Tháng Chín Đen ở Síp và đang ở thủ đô Hy Lạp để họp. Y không trụ được lâu. Các đặc vụ của Cơn Thịnh Nộ của Chúa đã đặt một quả bom trong phòng khách sạn của y và cho nổ tung y thành từng mảnh khi y thay quần áo chuẩn bị đi ngủ.
Nạn nhân thứ chín và thứ mười là hai tên khủng bố trẻ tuổi của nhóm Tháng Chín Đen. Abdel Hamid Shibi và Abdel Hadi Nakaa đã bị đánh bom trong chiếc Mercedes của họ ở Rome khi đang chuẩn bị tấn công một mục tiêu của Israel. Cả hai đều bị thương nặng. Nhưng người Israel vẫn đang săn đuổi những con cá lớn hơn.
Khi Barak và những người của ông đang chuẩn bị cho cuộc đột kích táo bạo vào Liban, những đặc vụ nam và nữ được giao nhiệm vụ tiêu diệt những tên liên quan đến vụ thảm sát Munich di chuyển về Paris và bắt đầu theo dõi một mục tiêu khác. Đó là thủ lĩnh mới của tổ chức Tháng Chín Đen tại Pháp, Mohammed Boudia, một trí thức người Algeria 41 tuổi, với những lạm dụng tình dục khiến Mossad khó chịu đến mức họ đặt cho con mồi biệt danh là “Râu Xanh”.
Sự dính líu của Boudia vào hoạt động khủng bố dường như đã rõ ràng. Vào thời điểm người Israel đến Paris để truy lùng hắn, hắn cũng đã bị cảnh sát Ý truy đuổi – họ nghi ngờ hắn đã tấn công một nhà máy lọc dầu ở Trieste vào ngày 5 tháng 8 năm 1972, bằng 20 kg thuốc nổ. Cuộc tấn công đã thành công vang dội, thiêu rụi hơn 250.000 tấn dầu trị giá 2,5 tỷ đô la.
Boudia cũng đã được Evelyne Barges, một tên khủng bố trẻ tuổi đầy nhiệt huyết đã bị người Israel bắt giữ khi đang thực hiện nhiệm vụ Tháng Chín Đen ở Tel Aviv, nêu tên là một thủ lĩnh khủng bố. Barges, một cô gái tóc vàng xinh đẹp, 25 tuổi, có nét giống minh tinh Brigitte Bardot quyến rũ, được cử đi cùng một cặp vợ chồng lớn tuổi người Pháp và Nadia và Marlene Bardali, các cô con gái của một thương gia giàu có người Maroc, để phát động chiến dịch đánh bom các khách sạn du lịch trong mùa nghỉ lễ Phục sinh.
Nhóm này đã xâm nhập Israel như những quả bom di động. Lớp lót áo khoác của chúng được tẩm các hóa chất. Chất này, khi kết hợp với các chất khác được Barges tuồn lậu vào Israel, tạo thành một loại bom napalm cực mạnh. Ba người phụ nữ cũng mang theo chất nổ dạng bột và dạng lỏng được giấu trong đồ lót, giày dép, son môi, và thậm chí cả băng vệ sinh Tampax. Sau khi bị các nhân viên an ninh Israel chặn lại và thẩm vấn tại sân bay, hai chị em đã tiết lộ chi tiết về âm mưu, và Boudia bị nêu tên là kẻ chủ mưu. Mossad ngay lập tức lần theo dấu vết của y.
Boudia lúc đó đang làm giám đốc Nhà hát Théâtre de l’Ouest Parisien, nhưng y là một con người khó gần. Là bậc thầy cải trang, y liên tục thay đổi danh tính (và thậm chí còn cải trang thành phụ nữ) để tránh sự truy đuổi của các đặc vụ chính phủ Pháp được giao nhiệm vụ theo dõi hành tung của y. Kỹ năng của y trong việc xây dựng một đội ngũ ủng hộ viên nữ trẻ tuổi dễ bị lôi kéo, họ có thể được sử dụng để che chắn, làm tình và bảo vệ, được mọi người ngưỡng mộ và sau đó được chính tên khủng bố khét tiếng Ilich Ramirez Sanchez, hay còn gọi là “Carlos Chó Rừng” bắt chước.
Việc truy tìm Boudia đã tiêu tốn hàng chục đặc vụ Israel, và vào đêm 27 tháng 6 năm 1973, họ đã theo dõi khi y để chiếc Renault 16 màu xanh của mình trên phố Rue des Fossés St. Bernard, bên ngoài nhà một trong số rất nhiều bạn gái của hắn. Nhóm Israel biết rằng y luôn đi xung quanh xe, kiểm tra chiếu lệ để tìm thiết bị nổ, vì vậy họ đã đột nhập vào xe và luồn một “mìn” kích hoạt bằng áp suất, chứa đầy đai ốc và bu lông nặng, dưới ghế lái.
Sáng hôm sau, Boudia xuất hiện, kiểm tra sơ qua rồi ngồi vào ghế lái. Chân trái của y vẫn còn đặt trên mặt đất khi “quả mìn” dưới ghế y phát nổ. Các đai ốc và bu lông bắn lên, xuyên qua cơ thể y, để lại những vết thương hở và xé toạc áo y. Các điều tra viên cảnh sát tìm thấy những mảnh thịt của Boudia khắp chiếc xe đậu phía trước.
Các quan chức Israel muốn gia đình của các vận động viên thiệt mạng biết rằng họ đang truy đuổi những kẻ giết người trong vụ thảm sát Tháng Chín Đen. Khi các đội đặc nhiệm của Cơn Thịnh Nộ của Chúa lùng sục khắp châu Âu và Trung Đông để truy lùng những kẻ mà Mossad cho là chịu trách nhiệm cho vụ thảm sát Munich, một đặc vụ Mossad sẽ liên lạc với Ankie Spitzer và những góa phụ khác sau mỗi vụ ám sát để thông báo với họ rằng những người đã chết ở Fürstenfeldbruck đang được báo thù.
Thân nhân các vận động viên có những cảm xúc lẫn lộn về các hoạt động này. “Tôi biết chuyện đó”, Ankie xác nhận. “Họ gọi điện cho tôi và cung cấp thông tin: ‘Hãy nghe tin tức lúc mười giờ sáng nay… Đây là một chiến dịch khác cho Andre…” Trong khi một số người thân thừa nhận riêng rằng họ cảm thấy thỏa mãn khi lật ngược tình thế bọn khủng bố, Ankie nói rằng điều đó chẳng mang lại cho cô chút thỏa mãn nào. “Tôi chẳng thấy vui khi nghĩ rằng, ‘Ồ, tuyệt quá, giờ thì Andre được báo thù rồi,’ bởi vì tôi chưa bao giờ tìm kiếm sự trả thù đó. Tôi không sống để trả thù, tôi sống vì công lý.” Ankie nói, tất cả những gì cô muốn là những kẻ khủng bố đã giết chồng cô phải trả giá trước tòa cho những gì chúng đã làm.
Nurit Cohen, góa phụ của Baruch, đặc vụ Mossad bị Tháng Chín Đen ám sát tại Tây Ban Nga vào tháng 1 năm 1973, cũng vô cùng đau buồn trước tất cả những vụ giết chóc trả đũa này. Đội Cơn Thịnh Nộ của Chúa cũng được giao nhiệm vụ điều tra vụ ám sát Cohen và trả thù cho cái chết của ông. Ít nhất ba nhà hoạt động Palestine tham gia vào việc lên kế hoạch và ám sát Baruch Cohen đã bị Israel tiêu diệt, nhưng các vụ hành quyết chẳng mang lại chút an ủi nào cho người góa phụ. Nurit cho biết, “Thỉnh thoảng, các sĩ quan dịch vụ
đến thăm tôi và hỏi, như thể họ đang nói đùa, ‘Chị có thấy trên báo nói về tên này bị giết, hay kẻ kia bị nổ tung không?’ Anh nghĩ điều đó an ủi tôi sao? Nó có nghĩa là một gia đình khác đã bị tổn thương, một người phụ nữ khác bị bỏ lại một mình, thêm vài đứa trẻ mất cha.’
Vào thời điểm Boudia bị giết ở Paris, ba chiến binh Palestine còn sống sót tham gia vào vụ Munich đã nhận ra rằng họ đang bị truy đuổi ráo riết. Nhưng Jamal Al-Gashey, lúc đó mới ngoài mười mấy tuổi, giờ đây tuyên bố mình không sợ bị giết. “Tôi chẳng sợ gì cả,” cậu nói một cách thách thức. Al-Gashey được đưa đến Libya sau Chiến dịch Munich và được thả. Sau đó, anh kết hôn với người yêu và lập gia đình. Nhưng tự do lại là một cái lồng, bởi Al-Gashey đã sống ẩn dật hàng thập kỷ.
Nỗi sợ hãi chính của anh ta trong thời gian này là bảo vệ gia đình mới của mình khỏi cơn thịnh nộ của người Israel: “Tôi chỉ sợ vợ tôi phải sống cuộc sống không chồng và các con tôi không cha. Tôi không muốn chúng phải sống như vậy. Vì vậy, chúng tôi đã cố gắng hết sức để sống một cuộc sống bình thường… đi chơi, đi nghỉ mát, dành thời gian ngoài trời trong lành.”
Hai người sống sót khác của vụ tấn công Munich, Adnan Al-Gashey (người đã bắn súng máy vào nhóm con tin Israel trên chiếc trực thăng ở Fürstenfeldbruck) và Mohammed Safady, cũng phải đối mặt với mối đe dọa trả thù của Israel. “Tôi bắt đầu lo sợ sau khi đứa con đầu lòng của chúng tôi chào đời rằng tôi có thể mất con, bởi vì tôi rất yêu con”, vợ của Adnan Al-Gashey nói. “Anh ấy không bao giờ chia sẻ nỗi sợ hãi này. Ngược lại, anh ấy chỉ tiếp tục cuộc sống bình thường của mình. Nỗi sợ hãi là ở tôi sau chiến dịch.” Adnan và vợ anh ta trốn ở Liban và di chuyển từ ngôi nhà an toàn này sang ngôi nhà an toàn khác vào ban đêm để tránh các đội sát thủ của Israel.
Tuy nhiên, theo lời vợ ông, “Cuộc sống vẫn cứ tiếp diễn.” Adnan có một thái độ phó mặc định mệnh trước mối đe dọa từ Israel. “Anh ấy nói rằng Israel sẽ phải trả thù. Họ không thể để yên cho bọn anh. Nhưng anh ấy vẫn tiếp tục cuộc sống như bình thường. Tôi bị bao vây bởi cảm giác rằng Israel sẽ chia cắt chúng tôi, bởi vì Golda Meir đã hứa rằng các vận động viên Israel sẽ được trả thù bằng cái chết của những người Palestine không bị giết ở Đức.”
Không ai có thể trốn tránh mãi mãi. Vài năm sau vụ thảm sát Munich, Adnan Al-Gashey đã đến một quốc gia vùng Vịnh để tìm việc làm. “Anh ấy ra nước ngoài làm việc để kiếm tiền nuôi gia đình, vì nhu cầu của chúng tôi ngày càng tăng. Đó là bằng chứng cho thấy anh ấy không hề sợ hãi.” Adnan có một người anh họ ở nước này mà Mossad đã lần ra. Ngay khi Adnan đến, anh ta đã liên lạc với anh họ mình và một đội đặc nhiệm của Cơn Thịnh Nộ của Chúa đã được báo động. Adnan Al-Gashey đã bị đội sát thủ Israel âm thầm hành quyết.
“Lúc đầu rất khó khăn,” người góa phụ kể. “Sau một thời gian, tôi bắt đầu coi anh ấy như một anh hùng của chiến dịch Munich, một người mà bọn Israel không thể để yên. Tôi đã trải qua một bi kịch như người ta vẫn nói, cũng như bất kỳ ai đã mất chồng trong một chiến dịch hoặc một cuộc chiến, nhưng tôi còn có những đứa con mà tôi đã nuôi dạy được, tạ ơn Chúa.”
Mohammed Safady cũng bị Mossad truy đuổi và ám sát, rõ ràng là vì y vẫn tiếp tục giữ mối quan hệ với gia đình mình ở Liban.
Nhưng Adnan và Mohammed chỉ là những người chiến binh quèn trong chiến dịch Munich. Người Israel đang tuyệt vọng tìm kiếm các thủ lĩnh, những người đứng sau bọn fedayeen: Abu Daoud, Abu Iyad và Ali Hassan Salameh, Ông Hoàng Đỏ.
Salameh không bao giờ có thể là một bóng ma đào tẩu, lẩn trốn khỏi những kẻ truy đuổi Israel. Hắn ta là một nhân vật công chúng, người đã chế giễu nhóm Cơn Thịnh Nộ của Chúa bằng cách ra lệnh tấn công nhiều hơn vào các mục tiêu Israel. Salameh vô cùng tức giận trước vụ sát hại Mohammed Boudia ở Paris đến nỗi hai ngày sau, hắn ta đã ra lệnh cho một sinh viên Palestine trẻ tuổi ở Mỹ thực hiện chiến dịch trả thù một mình.
Mục tiêu được chọn cho sinh viên là Đại tá Yosef
Alon, phó tùy viên quân sự Israel tại Washington, người chịu trách nhiệm giám sát việc chuyển giao máy bay chiến đấu cho không quân Israel. Alon vừa trở về nhà sau một bữa tiệc với vợ Deborah thì một sát thủ trẻ người Palestine xông vào và bắn ông năm phát khi ông đang đứng trên bãi cỏ nhà mình.
Hành động này mang tất cả dấu ấn của Salameh, và chính phủ Israel đã quyết định rằng việc Đội ám sát của Cơn Thịnh Nộ của Chúa nhắm quan chức Palestine cấp cao này là ưu tiên hàng đầu. Nhưng không chỉ vì sự liên quan của hắn ta trong cái chết của Alon, chiến dịch Munich, và hàng chục vụ tấn công khác mà Israel muốn giết Salameh; họ biết hắn ta đang thăng tiến trong hàng ngũ lãnh đạo Palestine.
Salameh không chỉ là một tên khủng bố Palestine quyến rũ, hắn còn là một nhà lãnh đạo tương lai tiềm năng của PLO, và hắn cũng đang tranh thủ được một việc mà chưa một du kích Palestine nào từng đạt được: hắn ta đã thiết lập được mối quan hệ có lợi với CIA Hoa Kỳ. Vì tất cả những lý do này, Ali Hassan Salameh trở thành mục tiêu ưu tiên của Mossad.
CIA đã nói chuyện với PLO kể từ năm 1969, khi Robert Ames, nhà phân tích Trung Đông nổi tiếng của họ và là người đứng đầu chi nhánh CIA ở Beirut, đã có những móc nối thăm dò với Fatah, mà ông coi là một trong các phe phái ôn hòa hơn trong PLO. Vào thời điểm Salameh và Ames bắt đầu đàm phán, người Mỹ này tuyên bố rằng ông ta có sự hậu thuẫn hoàn toàn của Tổng thống Nixon và Cố vấn An ninh Quốc gia toàn năng Henry Kissinger, cả hai đều được cho là muốn mở ra một kỷ nguyên đối thoại mới giữa siêu cường và những người Palestine vô chính phủ.
Salameh, người đã trở thành đại diện cá nhân của Yasser Arafat tại các cuộc họp với người Mỹ, chính là tấm vé đưa Ames lên một vị trí cấp cao trong chính quyền Hoa Kỳ. Trong khi Salameh xem các cuộc gặp gỡ là con đường dẫn đến sự chấp thuận cuối cùng của Nhà Trắng, Ames lại coi nhân vật Palestine này là một ứng viên tiềm năng, hay “tài sản” của CIA ngay từ đầu mối quan hệ. CIA nhanh chóng đề nghị Salameh ba triệu đô la tiền mặt để làm việc cho họ, nhưng Salameh là một người có lý tưởng, kinh hoàng trước lời đề nghị bán mình cho người Mỹ để đổi lấy một thứ gì đó tầm thường như tiền. Hắn ta từ chối nói chuyện với Ames trong nhiều tháng sau đó.
Mối quan hệ giữa Salameh và CIA trở nên lạnh nhạt sau vụ thảm sát Munich, vì người Mỹ không chắc chắn về mức độ liên quan của hắn trong Tháng Chín Đen. Nhiều đặc vụ Mỹ cũng thực sự bị sốc trước mức độ tàn bạo của những kẻ khủng bố Palestine, những kẻ mà trước đây họ đã từng coi là những chiến binh có học thức đấu tranh cho tự do Nhưng mọi thứ nhanh chóng ấm lên trở lại.
Nỗ lực thứ hai của CIA nhằm chiêu mộ Salameh thực sự diễn ra sau Munich, khi Salameh được một sĩ quan CIA cấp cao khác đến thăm ở Beirut và đưa cho hắn một tấm séc trắng. “Tôi thấy ai đó đưa cho ông ấy một tấm séc không ghi số tiền, bảo: ‘Ông viết số tiền ông muốn'”, Um Hassan, vợ đầu của Salameh, kể lại. “Chồng tôi lúc đó rất tức giận, vì điều đó xúc phạm đến ông. Ông ném trả tờ séc và bỏ đi.”
Việc Salameh trở thành mục tiêu của Israel là điều không thể tránh khỏi, và hắn đã chấp nhận sự chú ý này với thái độ kiên cường: “Việc tên tôi bị chỉ trích và cái đầu của tôi bị treo thưởng là điều tự nhiên… vì chúng tôi tìm cách tấn công… vào lợi ích và tính cách của người Israel. Kẻ thù tập trung vào những cái tên và tính cách cụ thể để miêu tả chúng tôi là những băng đảng khủng bố. …Đó là lý do tại sao kẻ thù bắt đầu nói về việc ngăn chặn khủng bố bằng khủng bố và ám sát … và tôi là một trong những mục tiêu chính… Chúng đang cố gắng biến việc ám sát chúng tôi thành một hành động hợp pháp. Đó là lý do tại sao chúng tập trung vào việc hủy hoại hình ảnh của tôi: miêu tả tôi như một tay chơi, một kẻ giết người, một tên sát nhân khát máu không thể ngủ mà không nhìn thấy máu. Chủ tâm rõ ràng là để dọn đường cho việc thủ tiêu tôi.”
Người Israel thực sự đang chuẩn bị cho một âm mưu ám sát Salameh. Khắp châu Âu và Trung Đông, đội quân Cơn Thịnh Nộ của Chúa bắt đầu truy lùng hắn. Các đặc vụ Israel đã lùng sục các đầu mối liên lạc của họ trong nhiều tháng cho đến khi có tin báo vào tháng 6 năm 1973 rằng Salameh đã bay đến Paris từ Trung Đông (đi qua ngõ Đông Đức cộng sản) để gặp các du kích Palestine khác. Tin báo thậm chí còn cho biết địa chỉ mà Salameh được cho là đang trú ngụ: một khách sạn yên tĩnh ở Bờ Trái tại Paris.
Có một số phiên bản về những gì xảy ra tiếp theo, nhưng lời kể hợp lý nhất là, ngay khi hai đặc vụ Mossad tiến gần đến khách sạn để bắt đầu theo dõi Salameh, mục tiêu của họ đã lẻn ra khỏi khách sạn bằng lối vào phía sau và biến mất.
Với các đặc vụ Israel đang bám sát theo dấu vết của mình, Salameh đã bắt đầu một chiến dịch thông tin sai lệch tài tình. Một số nguồn tin cho rằng Salameh bắt đầu lan truyền tin đồn rằng hắn đã chuyển đến sống ở Scandinavia, và Mossad bắt đầu nhận được báo cáo từ Geneva, Zurich và Paris, tất cả đều nói rằng Salameh đã thoát khỏi sự kiểm soát của họ và di chuyển về phía bắc.
Hầu hết các đặc vụ trong nhóm Cơn Thịnh Nộ của Chúa đã thi hành các vụ giết người trước đó đã kiệt sức vào tháng 7, năm 1973, “Mike”, đặc vụ cấp cao của Israel phụ trách nhóm ám sát, đã nhanh chóng bắt đầu thành lập một đội đặc vụ mới để truy lùng Salameh ở Scandinavia và giết hắn ta.
Ít nhất 15 đặc vụ Israel đã được chọn để ám sát Salameh: “Mike” là trưởng nhóm, hai người thực hiện vụ ám sát, hai người che chắn, hai đặc vụ chuyên về hậu cần, một chuyên gia truyền thông và bảy người nữa là lực lượng dự bị để trám chỗ khi cần thiết. “Mike” đi du lịch bằng hộ chiếu Pháp với tên Edouard Stanislas Laskier. Phó của ông, “Abraham”, người từng làm việc cho Mossad tại đại sứ quán Israel ở Paris, giả danh Leslie Orbaum, một giáo viên đến từ thành phố Leeds của Anh.
“Mike” cũng đưa “Sylvia”, một phụ nữ xinh đẹp gốc Nam Phi được Mossad tuyển dụng khi đang làm việc tại một khu định cư. Cô đã đi khắp thế giới để thực hiện các nhiệm vụ cho Israel, mang hộ chiếu Canada giả và đóng vai một nhiếp ảnh gia báo chí tên là Patricia Roxborough. Các điệp viên khác tham gia bao gồm “Gustav Pistauer”, “Nora Heffner”, “Raoul Cousin”, “Jean-Luc Sévenier” và một nữ điệp viên tóc nâu đỏ tuyệt đẹp được gọi là “Tamar”.
“Marianne,” một phụ nữ tóc hoe có hai quốc tịch Thụy Điển và Israel, cũng được tuyển mộ. “Mariane” lớn lên ở Scandinavia trước khi di cư sang Israel và làm việc như một chuyên gia xử lý dữ liệu cho tình báo Israel. Cô được giao nhiệm vụ giúp nhóm sát thủ này tìm lộ trình đi trong khu vực và giải quyết trơn tru mọi khó khăn mà người Israel gặp phải thích nghi với miền Bắc xa lạ.
Trong nhiệm vụ lớn đầu tiên của Mossad, một người Do Thái Brazil 36 tuổi tên là “Zwi” đã được tuyển dụng để giúp đỡ, và “Mike” cũng thu nạp “Michael”, 27 tuổi, làm chuyên gia truyền thông.
Đội sát thủ vẫn giữ được tình trạng nặc danh ở một mức độ nào đó, nhưng một người cao ráo, tóc hoe, có vẻ ngoài rõ ràng là người Scandinavia, theo lời các nhân chứng, và đi du lịch bằng hộ chiếu Anh giả mạo với tên là Jonathan Ingleby đến từ Manchester.
Vào ngày 8 tháng 7 năm 1973, Mossad cũng tiếp cận “Dan”, một người Do Thái Đan Mạch 36 tuổi làm việc như một doanh nhân ở Herzliyya, phía bắc Tel Aviv, người đã sống ở Israel được hơn hai năm, và hỏi liệu anh ấy có sẵn sàng làm phiên dịch cho đơn vị không. “Dan”, rất vui được giúp đỡ đất nước mình, đã sẵn sàng đồng ý.
Người Đan Mạch đến Stockholm, Thụy Điển, cùng với hai đặc vụ Mossad khác vào ngày 11 tháng 7 và thuê một căn hộ lớn trong sáu tháng, dự kiến dùng làm nơi trú ẩn an toàn cho chiến dịch. Anh ta cũng cắt mười lăm chìa khóa cho căn hộ và sắp xếp việc giao sáu bộ ga trải giường và chăn giường.
Vào thời điểm này, phía Israel vẫn chưa tiến gần hơn đến việc xác định vị trí mục tiêu. Mãi đến ngày 14 tháng 7, “Mike” và đơn vị của ông mới nhận được tin báo rằng Salameh đang sống ở Na Uy. Hắn ta sắp được một người đưa tin tên là Kemal Benamane đến thăm, kẻ được cho là đang chuyển thông tin hoặc một gói hàng cho Ông Hoàng Đỏ. Mossad ngay lập tức bắt đầu truy lùng người đưa tin này, hy vọng y sẽ dẫn dắt họ đến mục tiêu của mình, cuối cùng lần ra dấu vết của y đến Oslo.
Sau khi phát hiện ra những gì họ cho là mối liên kết ban đầu với Salameh, phần còn lại của nhóm Israel chuẩn bị lên đường đến Scandinavia. Mặc dù con số chính xác chưa bao giờ được xác nhận, nhưng người ta tin rằng khoảng 14 đặc vụ được cho là nhận được chỉ thị cuối cùng tại phòng chờ VIP ở Sân bay Ben Gurion, Tel Aviv vào sáng ngày 18 tháng 7 năm 1973. Các quan chức nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đạt được mục tiêu của họ. Họ không thể để vuột mất con mồi.
Vào thời điểm nhóm đến Oslo trên nhiều chuyến bay theo lịch trình khác nhau, dưới nhiều vỏ bọc và danh tính khác nhau, người được cho là đưa tin cho Salameh, Benamane, đã biến mất khỏi Oslo và xuất hiện trở lại tại thị trấn nhỏ Lillehammer, nằm dọc theo bờ hồ Mjøsa, cách đó 160 km về phía bắc. Đó là một điểm đến kỳ lạ đối với một tên
mà người Israel nghi ngờ sẽ chuyển giao những thông tin và tài liệu cho một thành viên cấp cao của PLO. Chỉ có thể có một kết luận duy nhất: Benamane đến Lillehammer để gặp Ali Hassan Salameh.
Mười thành viên của nhóm Israel đã thuê xe, lái đến Lillehammer và tìm thấy Benamane đang ở tại khách sạn nhỏ Skotte, cách ga xe lửa một quãng đi bộ ngắn. Giả làm khách du lịch, hai đặc vụ Israel thậm chí còn ngồi cạnh Benamane trong phòng chờ khi y xem một cách nhàn nhã một bộ phim truyền hình buồn tẻ về câu cá bằng tiếng Thụy Điển có tên là Fishery East in the Mountains.
Ngày hôm sau, khi phần còn lại của nhóm Israel bắt đầu di chuyển đến Lillehammer để gia nhập với hai đặc vụ đầu tiên, đơn vị tiền trạm đã mất dấu Benamane, rồi sau đó bắt gặp y đang nói chuyện chăm chú với một người Ả Rập khác tại quán cà phê Karoline nhỏ gần tòa thị chính Lillehammer.
Các đặc vụ Mossad gần như không thể kiềm chế được sự phấn khích của mình. Benamane
chắc chắn đang gặp Ali
Hassan Salameh. “Marrianne” lững thững bước vào trong để nhìn kỹ hơn, gọi một ly nước và so sánh gã Ả Rập trong quán cà phê với một tấm ảnh mờ nhòe chụp Ông Hoàng Đỏ mà cô đang mang trong túi. Cô ấy không tin gã Ả Rập là Salameh, nhưng một đồng đội cấp cao của cô ấy thì chắc chắn. Sự kiện gã Ả Rập rời khỏi quán cà phê và cưỡi xe đạp đi không làm lay chuyện niềm tin người đặc vụ cho rằng gã đó chính là mục tiêu của họ. Salameh được biết là một tay chơi quốc tế giàu có, nhưng người Israel cũng bắt đầu gán cho hắn ta những khả năng lừa dối huyền thoại, một bậc thầy ngụy trang: do đó nhiều người tin rằng biết đâu hắn ta đang vào vai ngụy trang bất ngờ.
Benamane, công việc dường như đã hoàn tất, rời Lillehammer trên chuyến tàu lúc 2:08 chiều và trở về Oslo, và người Israel chuyển sự chú ý sang gã đàn ông Ả Rập đi xe đạp. Khi gã đi bơi ở nhà tắm địa phương, “Marianne” nhảy xuống nước và tìm cách đến đủ gần để nghe gã nói chuyện bằng tiếng Pháp với một người đàn ông khác trên hồ bơi. Đây là yếu tố quyết định đối với người Israel. Họ biết Ổng Hoàng Đỏ có học thức và thông thạo nhiều ngôn ngữ: gã đó chắc chắn là Salameh.
Một nửa đội ngay lập tức
đã quy tụ về nhà tắm địa phương, và khi gã Ả Rập rời đi sau khi bơi xong họ cẩn thận theo đuôi gã trở lại căn hộ nhỏ của mình tại
Rugdeveien 2A. Sau đó, đội Israel bắt đầu theo dõi liên tục nơi cư trú từ những chiếc xe thuê đỗ ngoài phố, trước sự chứng kiến tận tường của người dân địa phương.
Một số thành viên của nhóm Israel dường như khó tin rằng gã Ả Rập rời khỏi quán cà phê Karoline bằng xe đạp lại là mục tiêu của họ và tiếp tục theo dõi Benamane. Tuy nhiên, y đã đặt phòng tại Khách sạn Stephen ở Oslo, trao đổi với nhân viên rằng y sẽ sớm lên đường đến Geneva (Thụy Sĩ) ngay ngày hôm sau. Sau khi Benamane rời khỏi đất nước Na Uy, “Mike” và nhóm của ông ta tin chắc rằng gã Ả Rập đi xe đạp kia chính là mục tiêu của họ. Toàn bộ nhóm tập trung tại Lillehammer.
Đội sát thủ sẽ xuống tay – “Jonathan Ingleby,” “Rolf Baehr,” và “Gérard-Emile Lafond” – đã đến vào khoảng 2:00 chiều ngày 21 tháng 7 trên một chiếc Mercedes màu xanh lá cây đậm và làm thủ tục tại
Khách sạn Du lịch Oppland của Lillehammer. Một giờ sau, Zvi Zamir, người đứng đầu Mossad, nhân vật đã đích thân chứng kiến cái chết của các con tin Israel tại Munich, được cho là cũng đã đến khu vực này để giám sát hoạt động; ông ta đã đăng ký vào Khách sạn Esso Olrud ở phía nam Lillehammer cùng với một vệ sĩ. Israel sẽ sớm trả thù kẻ đã lên kế hoạch tấn công Munich.
Nhưng cùng lúc đó một vụ khủng bố tàn bạo đang diễn ra ở một nơi khác tại châu Âu. Buổi chiều trước khi những sát thủ Israel đến Lillehammer, một chuyến bay Boeing 747 của Japan Airlines từ Amsterdam đến Tokyo với 123 hành khách đã bị một nhóm không tặc khủng bố hỗn hợp gồm người Nhật và người Ả Rập, chúng tuyên bố đổi tên mã chuyến bay thành “Chiến dịch Núi Carmel”.
Nghe được tin này, sự hoảng loạn bùng lên trong giới chỉ huy quân sự Israel. Trong nhiều tháng, tình báo Israel đã nghe được tin đồn rằng người Palestine đang âm mưu một cuộc tấn công tự sát quy mô lớn vào nhà nước Do Thái. Những kẻ khủng bố dường như đã thuyết phục được một phi công Ả Rập cố tình đâm một chiếc máy bay chở đầy chất nổ vào trung tâm một thành phố của Israel – Haifa được xây dựng dưới chân núi Carmel.
Tuy nhiên, tên nữ không tặc cầm đầu đã bất cẩn giết chết chính mình bằng một quả lựu đạn tay trong vụ tấn công và những tên khủng bố khác lái máy bay tới Dubai để chờ chỉ thị tiếp theo từ người điều khiển chúng.
Vậy là ngay khi đội sát thủ ở Lillehammer đang yêu cầu chính phủ Israel chỉ đạo thêm, các quan chức ở Tel Aviv gần như chỉ lo tập trung vào vụ không tặc. Đường dây giữa Lillehammer và Tel Aviv vang lên báo cáo ngắn ngủi rằng Mossad đã tìm thấy Ali Hassan Salameh, và lúc 6 giờ chiều, chính quyền Israel đã bật đèn xanh cho vụ ám sát.
Làm việc theo ca, các đặc vụ Israel đã theo dõi Salameh suốt 24 giờ tại nhà riêng của hắn ở Lillehammer. Tối ngày 21 tháng 7 năm 1973, họ theo dõi hắn rời nhà cùng một phụ nữ trẻ để đến rạp chiếu phim địa phương. Rạp chiếu phim đang chiếu bộ phim bom tấn “Where Eagles Dare“, một bộ phim giật gân lố bịch về Thế chiến thứ hai, trong đó Richard Burton và Clint Eastwood đối đầu với sức mạnh của quân đội Đức chỉ để phát hiện ra những kẻ phản bội trong hàng ngũ của mình. Khi Salameh và bạn gái rời đi, đội đặc nhiệm Israel bám theo. Cặp đôi bắt xe buýt đến trạm dừng ở Furubakken rồi chậm rãi đi bộ về nhà, vừa trò chuyện vừa cười đùa.
Họ đã trong tầm mắt của ngôi nhà Rugdeveien 2A, đang chậm rãi đi lên đồi về đó thì một chiếc Mazda màu trắng dừng lại ngay trước mặt họ. Với Rolf
Baehr và Gérard-Emile Lafond bảo vệ họ từ bên trong xe, Jonathan Ingleby và nữ đặc vụ Tamar nhảy ra, rút súng trong một động tác uyển chuyển và ngay lập tức bắt đầu khai hỏa.
Họ bắn liên tục, bắn những loạt đạn chì vào người Salameh. Y ngã xuống đất, ôm bụng đầy máu, và Tamar bắn bồi tiếp khi y nằm hấp hối trên mặt đất. Một người dân địa phương mô tả 14 phát đạn nghe như tiếng nổ khi bật “nút chai sâm panh”
Tiếng la hét của Salameh vang vọng khắp đường phố khi nhóm Israel nhảy lên xe tẩu thoát. Họ phóng đi với tốc độ cao, và nạn nhân chết ngay trên vỉa hè.
Nhưng người Israel đã không giết Ali Hassan Salameh, Ông Hoàng Đỏ, “bộ não” của vụ thảm sát Munich, hậu duệ giàu có của một gia đình Palestine huyền thoại và là đồng chí của Yasser Arafat. Họ đã giết Ahmed Bouchiki, một bồi bàn người Maroc vừa đi xem phim cùng người vợ đang mang thai Turil và đang trên đường trở về căn nhà nhỏ của mình. Đó là một trong những thảm họa tồi tệ nhất trong lịch sử Mossad.