Món quà nhỏ thân tặng các bạn CÔNG GIÁO, thay cho lời chúc mừng GIÁNG SINH và Năm Mới 2026.
Kỳ Thanh
Hiện nay, nhiều nhà nghiên cứu Hán Ngữ cổ; đang bàn tán về những ý nghĩa ẩn bí khi phân tích nguồn gốc của những chữ Hán cổ. Chữ Hán cổ đã có trên 4000 năm và có trước khi Kinh Thánh cựu ước được viết lại. Ngay từ thời Babel, sau khi loài người (ngôn ngữ) bị phân tán; người Trung Quốc (TQ) cổ đã bắt đầu có chữ viết và chữ viết của họ được ghép lại bằng nhiều hình ảnh (tượng hình) khác nhau để biểu tượng cho những ý nghĩa của chữ mới. Hiện nay, người ta đã phân tích ra được nhiều chữ gốc và phát hiện rằng: câu chuyện sáng tạo, sự cám dỗ, cơn Đại Hồng thủy, con tàu Nô ê… đã được ghi chép vào những mẫu tự của chữ Hán.
*
Trong ba triều đại của TQ là Hạ 夏, Thương 商và Châu 周 ; người TQ cổ đã tôn thờ Thiên Chúa qua danh hiệu上帝Shang Di (Thượng Đế), là 天 (Thiên – trời), là 道 (Đạo – triết lý của Lão Trang), rất nhiều năm trước các tư tưởng Khổng Mạnh, Phật Giáo, Đạo giáo ra đời…
Đạo Phật được truyền sang TQ vào khoảng năm 50. Rồi sau (đời Đường – Tống), các nhà truyền giáo Cơ-đốc (ngoại quốc) lần lượt đến TQ; lại làm chứng về Thiên Chúa trong Thánh Kinh lần nữa.
Thượng Đế 上帝 (Shang Di) là danh xưng chỉ Thiên Chúa của người TQ trước khi Phật Thích Ca ra đời. Ngài là Thiên Chúa Tối Cao (上帝 # 天 # 道 ) đã sáng tạo vũ trụ và vạn vật. Người ta dâng cho Ngài của tế lễ bằng lễ vật. Chữ Thần 神 lúc đó chỉ về đấng linh thiêng (Thiên Chúa) có một không hai. Chữ này lúc đó chỉ riêng về một Đấng Sáng Tạo chứ không chỉ thần linh nào khác.
Sử ký Tư Mã Thiên史記司馬遷 (năm 136 – 86 BC quyển 28, sách 6, trang 624) có viết: “Thượng Đế giả, Thiên chi biệt danh dã, Thần vô nhị Chủ 上帝者,天之别名也。神無二主 ”, có nghĩa là Thượng Đế là tên khác của Thiên (Trời), là một Chúa có một không có hai. Như vậy, người TQ từ xa xưa đã biết thờ Đấng Sáng Tạo mà họ gọi là Thượng Đế 上帝 (# 天 # 道 ) có một không hai; đây chính là Ya-vê Thiên Chúa 天主 hay Giê-hô-va Đức Chúa Trời có một không hai trong Thánh Kinh Cựu Ước.
Phụ chú: Câu chuyện Sáng Thế: ma quỷ cám dỗ loài người sa ngã, cơn đại hồng thủy, tàu Nô ê * = Noah’s Ark (tiếng Anh) hoặc Tav Noah (tiếng Hebrew), đề cập đến con thuyền trong câu chuyện Đại hồng thủy. Chữ gốc của tháp Babên (Tower of Babel), là Etemenanki (tiếng Akkadia); được viết đầu tiên trong sách Sáng Thế 11:1–9 bằng tiếng Aramiac (Do Thái Cổ), là một huyền thoại nhằm giải thích về sự bất đồng ngôn ngữ của các dân tộc trên thế giới.
Chữ人 nhân là người. Nếu thêm 一 (vạch ngang) ở giữa chữ 人 thành chữ大 đại, ý rằng người đứng thẳng dang hai tay ra. Con người nhờ hai bàn tay khéo léo làm nên những việc lớn lao, vĩ đại. Thêm 一 (vạch ngang) ở trên chữ大, thành chữ天 thiên, ý rằng con người có to lớn, vĩ đại đến đâu vẫn nhỏ bé so với (bầu) trời, phía trên của con người là trời (天主Thiên Chúa – Chúa trời).
Chữ王vương là vua; gồm | (vạch đứng) và 三 (ba vạch ngang), ý nói vua là người phải thông suốt “thiên — nhân — địa”. Ngụ ý: tốt đẹp, hoàn hảo, nhấn mạnh tính cách của sự vật. Thêm dấu chấm trên chữ 王 thành chữ 主 chủ ( zhǔ đọc trại ra là CHÚA), là người đứng đầu trong khu vực (không gian) có giới hạn.
Chữ Hợp 合 là liên kết, hợp lại làm một; gồm chữ Nhân人 (người) và Nhất 一(một)+ Khẩu 口 (miệng, ngôn ngữ). Chữ này hàm ý mọi người 人cùng chung một tiếng nói 一 口hợp lại với nhau 合 (hợp sức xây tháp Ba-bên 塔).
Chữ Tháp 塔 từ chữ Thổ 土 (đất, bùn) cộng với chữ Thảo (cỏ, rơm) và chữ Hợp # hiệp 合 (Nhân nhất khẩu – cũng là từ ghép nói lên sự nhất trí, đồng lòng). Điều này cho thấy từ “Tháp” ngay từ đầu đã ám chỉ đến Tháp Ba Bên, khi người ta hợp lại và lấy bùn và rơm trộn lại và tạo thành một cái tháp lớn.
Chữ Loạn乱 (lộn xộn) gồm chữ Thiệt 舌 (lưỡi, ngôn ngữ) và móc câu bên phải (乚) chỉ chân bên phải cùng đi về một hướng. Chữ Loạn 乱 hàm ý khi ngôn ngữ loài người bị xáo trộn 乱 cả một đám, bị phát tán đi chung với nhau về một hướng.
Phân tán 分散 là chia tản nát ra khắp nơi. Chữ Phân 分 (chia) gồm chữ Bát 八 (tám) và chữ Đao 刀 (dao) hợp lại thành Phân 分 . Bát 八 là tám thế hệ ở tháp Ba-bên, và họ bị phân chia ra dưới áp lực 刀. Chữ Tán 散 (tan ra, rời rã) gồm 共 (mọi người, tổng số) + Nhục肉 (thịt) giản thể nằm dưới chữ Cộng 共 + chữ Phộc đứng bên phải攵là (đánh khẽ… ) đi theo. Chữ này hàm ý mọi loài 共xác thịt 肉 bị phân tán, đi theo nhau. Hai chữ Phân Tán 分散 hợp lại, là tám thế hệ 八bị phân rẽ 分và các loài 肉xác thịt đi theo nhau 散 .
Chữ Cáo 告 (nói chuyện) gồm có các thành phần như sau hợp lại thành: Thổ 土 (đất)+ Khẩu 口 (miệng) + Phiệt 丿(chỉ sự = tượng trưng cho sự sống) = Cáo 告 (nói). Chữ Cáo hàm ý Chúa tạo ra một người bằng đất có sự sống 丿và có miệng 口để nói chuyện.
Chữ Tạo 造 nghĩa là dựng nên, làm ra. Chữ Tạo 造là chữ ghép từ: Khẩu 口 (miệng, lời phán, nói) cộng với chữ Thổ 土 (bụi đất), chữ 丿Phiệt (sự sống) và chữ 辶 Sước (bước chân, chợt bước đi, chợt dừng lại). Đức Chúa Trời tạo nên loài người từ BỤI ĐẤT và Ngài hà hơi sự sống và phán thì họ bước đi.
Chữ Tiên 先 có nghĩa là đầu tỉên, trên hết. Bao gồm: Phiệt 丿(sự sống) + Thổ 土 (đất) + Nhân 儿 (người). Chữ này hàm ý người 儿đầu tiên bằng đất 土có sự sống丿.
Chữ Phúc 福 nghĩa là hạnh phúc, vui sướng, thịnh vượng. Trong những dịp Tết cổ truyền Âm lịch (Chinese New Year) mà người Hoa + Việt cùng ăn mừng, thì có đầy chữ Phúc (phước) 福ở khắp mọi nơi, ý chỉ phước lành được Chúa ban trong năm mới. Chữ Phúc bao gồm chữ Thị示 ( 礻) : chỉ thị; thần linh; tượng trưng cho chữ Thần 神 (là Thiên Chúa) nằm bên trái chữ Phúc 福, cộng với chữ Nhất 一 (một) + Khẩu 口(miệng, mạo từ đếm người như “nhất khẩu一口” là một người)+ Điền 田 (ruộng, vườn). Chữ Phúc 福hàm ý, nếu một người 一口cùng ở trong vườn địa đàng 田với示Thiên Chúa ( 神) thì thật là phước hạnh福.
Chữ Viên 園 là vườn cây, bao gồm chữ Thổ 土 (đất) + Khẩu 口(miệng, tiếng đếm người)+ Nhân 人 biến thể (người nam)+ Nữ女giản hóa (đàn bà) ở dưới chữ Thổ 土và Khẩu 口 là viên 袁 + Vi囗 (vườn có rào quanh). Như vậy chữ Viên 園 (vườn) hàm ý là trong một cái vườn 囗bằng đất 土 có hai người, một nam một nữ 人, 女 (A-đam và Ê-va là cha mẹ đầu tiên của loài người).
Chữ Tây 西gồm có Nhất 一(một)+ Nhân 儿 (người) + Vi 口 (ở đây có nghĩa là một cái vườn được rào quanh)Như vậy chữ Tây西 chứa đựng ý nghĩa một người一人 ở trong vườn口, (tức là A-đam). Hướng tây 西 (địa lý tính từ TQ) là vườn Ê-đen.
Chữ Yếu 要 = Tây 西 + Nữ 女nghĩa là cần, ước muốn. Chữ này hàm ý người đàn ông (A-đam) ở vườn hướng tây 西cần một người đàn bà 女. Cổ nhân TQ đã chọn hai chữ tây西 và nữ女 , để chỉ ý nghĩa là muốn, cần đến; hàm ý A-đam cần Ê-va làm bạn đời của mình.
Chữ Nguyên 元có nghĩa là đầu tiên, trước hết. Nguyên 元gồm có Nhị二(hai)+ Nhân儿 (người). Như vậy, ban đầu Thiên Chúa dựng nên chỉ có hai người 二儿trên mặt đất thôi.
Chữ Cấm 禁 (cấm đoán, không được làm điều gì) gồm hai chữ hợp lại: Lâm 林 (nghĩa gốc là cây điều thiện điều ác và cây sự sống) và chữ Thị 示 (báo cho biết, lệnh truyền). Chữ Cấm hàm ý Chúa có lệnh cấm 示liên quan đến một trong hai cây 林đặc biệt này.
Chữ Lam 婪 nghĩa là tham lam, ước muốn, ham hố. Chữ này gồm chữ Lâm 林 (hai cây) và chữ Nữ 女 (đàn bà) hợp thành. Chữ này hàm ý người đàn bà 女 (Ê-va) ở chỗ có hai cây 林 (hình ảnh của cây điều thiện điều ác và cây sự sống). Sự tham muốn đầu tiên ám chỉ một người nữ ham ăn trái cấm婪.
Ma quỷ đến cám dỗ bà Ê-va ăn trái cấm. Nói về Sa-tan thì có chữ Quỷ 鬼là từ ghép từ ba chữ: 厶 khư, tư (riêng tư, cổ văn 私) = nhân vật không xác định, NHÂN 儿 (người) chữ丿PHIỆT (tượng trưng cho sự sống) và chữ ĐIỀN 田 (vườn, ruộng). Hàm ý ma quỷ chính là vật bí ẩn có sự sống núp ở sau vườn.
Chữ Ma 魔 (kẻ dỗ dành, dụ dỗ) gồm chữ YỂM 广 (mái che) là bao phủ, che đậy, kín giấu + Lâm 林 (2 cây) + Quỷ 鬼 (con quỷ) nằm ở dưới chữ Lâm林. Chữ Quỷ hàm ý con quỷ 鬼đến ẩn núp 广ở giữa hai cây trái cấm林đã cám đỗ bà Ê-va. Từ kép là Ma Quỷ 魔 鬼thật là đúng ý nghĩa chỉ về Satan. Từ MA魔: kẻ dỗ dành, là ma quỷ núp bên dưới hai cây trong vườn Eden để cám dỗ người phụ nữ.
Chữ Khốn 困 là khó khăn, đau khổ; gồm chữ Vi 囗 (vườn bao quanh) và chữ Mộc 木 (cây). Hàm ý khi ông bà A-đam và Ê-va ăn trái cấm 木 thì sanh ra sự khó khăn, đau khổ giống như cây bị nhốt trong vòng vây 囗 không cựa quậy được.
Vì không vâng lời Thiên Chúa mà tổ tiên loài người đã phạm tội 罪. Chữ Tội 罪 (việc làm trái luật pháp) gồm chữ Tứ 四 (bốn) + Phi非 (điều trái lẽ phải, sai lầm). Chữ Tội 罪 hàm ý có bốn 四 điều sai lầm, nghịch lại 非lẽ thật của Thiên Chúa; trong Sáng Thế ký chương 3. Bốn điều sai lầm này đưa đến sự sa ngã của tổ tiên loài người, do không vâng lời Thiên Chúa.
Sau khi phạm tội “mắt hai người đều mở ra, biết rằng mình lỏa lồ, bèn lấy lá cây vả đóng khố che thân.” (Sáng Thế Ký 3:7)
Chữ Lõa 倮 (trần truồng) gồm chữ Nhân人 (người) và chữ Quả 果 (trái cây) hợp lại. Chữ này hàm ý khi ông bà (tổ tiên loài người) 人ăn trái cấm果rồi thì nhận biết mình lõa lồ 倮.
Chữ Lõa裸cũng có nghĩa là trần truồng (nhưng viết hơi khác). Gồm chữ Y衤( # 衣quần áo ) đứng ở bên trái và chữ Quả 果 (trái cây) ở bên phải. Chữ này hàm ý khi ông bà ăn trái cấm果 rồi mới biết mình không mặc quần áo裸, phải lấy lá cây làm khố che thân (chữ khố thay cho quần áo 衣).
Có lẽ, trước khi loài người phạm tội, sự vinh quang từ Thiên Chúa bao phủ con người nên sự trần truồng không bị lộ ra, không có sự hổ thẹn và không gợi ra những ý tưởng tà dâm. “Lối chiều, nghe tiếng Giê-hô-va Thiên Chúa đi ngang qua vườn, A-đam và vợ ẩn mình giữa bụi cây, để tránh mặt Giê-hô-va Thiên Chúa.” (Sáng Thế Ký 3:8)
Chữ Đóa 躲 (né tránh, ẩn mình) gồm chữ Thân 身 (mình, thân thể) + Nãi 乃 (bèn) + Mộc 木 (cây). Chữ Đóa 躲 hàm ý khi hai ông bà phạm tội rồi thì xấu hổ với Chúa bèn 乃ẩn mình 身dưới bụi cây 木để tránh mặt Chúa 躲.
Chữ Quý 愧 (mắc cở, xấu hổ) gồm chữ Tâm 忄(tim, lòng) + Quỷ 鬼 (quỷ quyệt, xấu xa). Chữ Quý 愧 hàm ý cảm thấy lòng mình 忄khi phạm tội thì xấu xa quá, có ma quỷ xúi giục 鬼nên mắc cở 愧 không dám nhìn mặt Chúa nữa 躲.
Hình Phạt Người Đàn Bà Phải Chịu Sau Khi Phạm Tội. Thánh Kinh nói, sau khi bà Ê-va ăn trái cấm rồi, Chúa phán với bà: “Ta sẽ thêm điều cực khổ bội phần trong cơn thai nghén; ngươi sẽ chịu đau đớn mỗi khi sanh con; sự dục vọng ngươi phải xu hướng về chồng, và chồng sẽ cai trị ngươi.” (Sáng Thế Ký 3:16).
Chữ Sở 楚là khổ sở **, đau đớn; gồm chữ Thất 疋 (một miếng) + Lâm林 (hai cây). Chữ Sở hàm ý bà Ê-va chỉ cắn có một miếng 疋trái cấm ở giữa hai cây 林mà phải chịu đau đớn khổ sở.
Chữ Khổ 苦 là khổ sở, vất vả, gồm chữ Cổ 古 (xưa) ở dưới và chữ Thảo 艹 (cỏ dại) ở trên, hàm ý người đàn ông xưa 古làm cực khổ vì cỏ dại 艹gây trở ngại cho sự trồng trọt.
Hình Phạt của Người Đàn Ông với Cỏ Dại và Gai Gốc. Chúa phán với A-đam: “Vì ngươi nghe theo lời vợ mà ăn trái cây, Ta đã dặn không nên ăn; vậy, đất sẽ bị rủa sả vì ngươi; trọn đời ngươi phải chịu khó nhọc mới có vật từ đất sanh ra mà ăn. Đất sẽ sanh chông gai và cây tật lê, và ngươi sẽ ăn rau của đồng ruộng; ngươi sẽ làm đổ mồ hôi trán mới có mà ăn, cho đến ngày nào ngươi trở về đất, là nơi mà có ngươi ra; vì ngươi là bụi, ngươi sẽ trở về bụi.” (Sáng Thế Ký 3:17-19)
Thiên Chúa cho A-đam và Ê-va sanh được hai người con trai. Con lớn là Ca-in làm nghề nông, con kế là A-bên làm nghề chăn chiên. Chúa chấp nhận đồ tế lễ của A-bên mà không chấp nhận đồ tế lễ của Ca-in. Ca-in nổi giận, ông tấn công và giết chết A-bên, người em của ông (Sáng Thế Ký 4:1-8).
Theo văn hóa cổ TQ, người anh cả (trưởng nam) là người phát ngôn trong gia đình. Chữ Huynh兄gồm chữ Khẩu口 (miệng) + Nhân儿 (người) = Huynh 兄 (người anh). Chữ này hàm ý là người儿biết chuyện 口 (kinh nghiệm sống) nên người ấy nói thay mặt cho gia đình, kể lại những câu chuyện đã xảy ra trong quá khứ.
Người anh đầu tiên trên đất hung dữ. Chữ Huynh兄 (anh cả) và chữ Hung兇 (dữ tợn) được phát âm giống nhau trong tiếng phổ thông TQ là “xiong” hàm ý tánh nết của người anh 兄là hung dữ兇. Chữ Hung có dấu “x” ở trên và ở trong 兇là cái dấu Chúa ghi trên mình người anh hung dữ 兇đã giết em mình, phòng khi có ai gặp ông thì ông khỏi bị giết (Sáng Thế Ký 4:14,15). Thật là phù hợp với Thánh Kinh! (Âm Hán Việt huynh 兄 là anh cả và hung 兇 là hung dữ, đọc khác nhau).
Chữ Ngã 我 (tôi) gồm chữ Thủ 手 (tay) bên trái và chữ Qua 戈 (cây giáo); hàm ý: trên tay có vũ khí, tức là đã tự bảo vệ, đã trưởng thành. Còn hàm ý đã tự dùng tay 手lấy cây giáo 戈 đâm vào con chiên con 羔để dâng tế lễ.
Từ chữ Ngã我 (tôi) sinh ra chữ Nghĩa 義 (việc phải nên làm, bổn phận phải làm, công chính).
Chữ Nghĩa 義 gồm chữ羊dương *** (Chiên Con) nằm trên chữ Ngã 我 (tôi) = Nghĩa 義 (công bình, công chính). Chữ Nghĩa 義 hàm ý, nếu羊dương ( # Cao羔dê con) làm chủ cuộc đời tôi 我 thì tôi được xưng công bình 義. Ngày nay, hình ảnh con Chiên tượng trưng cho Chúa Giêsu. Thế như, ngay từ đầu Đức Chúa Trời đã cài đặt sẳn hình ảnh con Chiên sinh tế hi sinh cho nhân loại vào tận trong ngôn ngữ chữ viết lâu đời Hán ngữ.
Chữ Nghĩa cũng hàm ý, tay 手cầm cây giáo 戈giết con chiên con羔để dâng tế lễ cho Chúa thì được ơn tha tội và xưng công bình hay xưng nghĩa 義. Vào thời Cựu Ước, dùng con chiên làm của tế lễ chuộc tội là hình bóng Chiên Con Thiên Chúa sẽ chịu chết để làm của lễ chuộc tội cho con người.
Chữ THIỆN 善 có hình con cừu trên môi miệng. Người thiện có môi miệng phát ra những lời nói với đặc tính của con Cừu hoặc của CHIÊN CON.
Chữ Mĩ 美 (vẽ đẹp, sự hoàn mĩ) là hình ảnh con cừu ở trên chữ ĐẠI hoặc chữ Nhất và Nhân.
Chữ DƯƠNG 洋 (Rộng Lớn, biển cả) gồm có 氵thủy và羊con trừu (cừu = 绵羊): biển cả; là nguồn sống của con người, của sinh vật.
Từ kép羊 水 dương thủy, nghĩa là nước ối trong bào thai; nguồn nước đầu tiên nuôi sống ta.
Chữ TIÊN 鮮 có hình con cá bên cạnh con chiên, ám chỉ về tính tươi, non: mới lạ, thú vị, hay ho …Như: tiên hoa 鮮 花 hoa tươi; 鮮 明tiên minh; 鮮 妍tiên nghiên: tươi đẹp, rực rỡ.
Chữ tường 詳 (biết rõ, tỏ tường, kỷ càng tỉ mĩ…) có những lằn gạch có thể là số đếm nhất nhị tam… và chữ口khẩu, là chữ ngôn言 (lời nói); đứng kế bên hình con chiên.
Con sinh tế trong chữ Hán là Hy 犧 gồm Ngưu 牛 (bò) + 羊dương ( # Cao羔dê con) + Tú秀 (tốt lành, không tì vết) + Qua 戈 (cây giáo). Chữ Hy犧hàm ý lấy con bò 牛và con chiên con 羔 không tì vết 秀 (lúa trổ đòng đòng: hoàn thiện) giết 戈làm của lễ犧dâng lên Thiên Chúa.
Từ thời cổ xưa, loài người đã biết giết chiên bò… để tế lễ, dâng hiến, cầu nguyện, và chuộc tội cho họ, vì vậy hai từ Hy 犧 (hy # hi sinh, sinh tế) và Nghĩa 義 (Công chính, công minh) cũng chứng minh phong tục Hán Cổ và Do Thái có rất nhiều điểm giống nhau.
Một chữ Nghĩa 義viết theo lối giản thể (thể viết tắt) là 义 (công chính) mang hình dáng thập tự giá 十có giọt máu ở trên义tượng trưng cho huyết báu của Chúa Giê-xu đã đổ ra trên thập tự giá, chuộc tội cho chúng ta. Nếu ai tiếp nhận Ngài thì được ơn tha tội và xưng công bình hay xưng nghĩa义.
Chữ Thuyền 船 (tàu) hoặc tàu lớn là từ ghép của chữ CHU 舟 (ghe, đò nhỏ, tàu nhỏ) cộng với chữ BÁT八 (con số 8) và chữ KHẨU 口 (như là 8 nhân khẩu, số người). Chữ này hàm ý có 8 người 八口trong con tàu Nô-ê. 舟. Thật là lạ lùng! Rất phù hợp với chuyện đại hồng thủy!
Chữ Cộng共 (tổng số) cũng có ý nghĩa là tám người. Chữ này gồm chữ Bát 八(tám) nằm ở dưới chữ Củng 廾 (hợp lại). Chữ này hàm ý dân số lúc đó chỉ có 8 người 八口hợp lại 廾, sống sót sau nạn lụt thôi.
Chữ Hồng 洪 (lụt) được cấu tạo bởi chữ Bát 八 (tám), chữ Củng 廾 (hợp lại) và chữ Thủy水 (nuớc) nằm bên trái chữ Hồng 洪. Chữ Hồng hàm ý ở trong nước lụt 洪, tất cả 廾chỉ còn có 8 người 八thôi.
Chữ Diên 沿có nghĩa là (dọc theo) truyền xuống đời sau để tiếp tục nhớ. Chữ này gồm có chữ Thủy 水 (nước) nằm bên trái, bên phải có bát khẩu 八口là tám người trong nạn lụt 水. Chữ này hàm ý sau nạn lụt 洪có tám người 八口sống sót trên mặt đất đã truyền miệng 沿cho con cháu câu chuyện đã xảy ra.
Ghi chú:
* Sự trùng hợp lạ kỳ, linh thiêng, ngẫu nhiên giữa đông và tây:
Phương Tây cổ đại có truyền thuyết: Ông Nô-ê (Noah) đóng con tàu này theo ý Chúa là để cứu ông và gia đình cùng các loài động vật nhằm khỏi bị diệt vong bởi trận trừng phạt đại hồng thủy của Thiên Chúa.
Phương Đông cổ đại với truyền thuyết: Nữ Oa ( 女媧 ), hay Nữ Oa thị (女媧氏), tục gọi là Nữ Oa nương nương (女媧娘娘), là một thủ lĩnh thị tộc của Trung Quốc cổ đại, dần được tôn xưng như một vị nữ thần thủy tổ trong Thần thoại Trung Quốc, hình thành nên thị tộc mẫu hệ; (bà cũng có vai trò trong thần thoại Việt Nam). Đương thời bà là nữ thần thượng cổ vĩ đại nhất trong thần thoại Trung Hoa, được liệt vào một trong Tam Hoàng Ngũ Đế. Quan trọng nhất là lập nên hôn nhân, là Nữ thần bảo trợ cho gia đình.
Các vị thần linh đã có công tạo ra vũ trụ, con người; giúp con người vượt qua mọi thiên tai bằng tất cả tình yêu thương và tâm trí của mình.
** khổ sở 苦楚 : đau khổ.
*** Nhiều người chưa hiểu rõ (chữ Hán), nghe nói đến chữ Dương 羊thì họ thường hay dịch là “dê.” Đây là một sự thiếu xót, nếu chữ Dương 羊đứng một mình là thay cho từ kép Miên Dương绵羊nghĩa là con chiên hay cừu con hiền lành, nghĩa bóng chỉ người tốt, tín đồ trung tín. Còn nếu muốn nói đến “dê” thì phải dùng từ kép là Sơn Dương 山羊mới đúng, nghĩa bóng chỉ người xấu hay kẻ ác, kẻ giả hình, tín đồ bội đạo. Như vậy, chữ Dương 羊đứng một mình phải hiểu là chiên hay cừu (trừu). Cũng như chữ Ngưu 牛thường nhiều người dịch là con trâu, nhưng thực ra là con bò. Nếu muốn nói đến con trâu, phải nói là Thủy Ngưu 水牛 mới đúng.
Hình ảnh con Chiên (bộ 羊dương), tượng trưng cho Chúa Giêsu; dùng con chiên làm của tế lễ chuộc tội, là hình bóng Chiên Con (= Cao羔dê con # Thiên Chúa) sẽ chịu chết để làm của lễ chuộc tội cho con người. Đa phần chữ Hán đi kèm với bộ 羊dương, thường mang hàm ý: tốt, đẹp, thiện lành, có ích…
| 羊 | dương | – 绵羊 (mián yáng): con trừu (cừu).
– đồng âm với chữ 陽 dương (yáng ) |
nghĩa gốc.
con dê, con cừu; biểu trưng cho sự tốt lành, thiện, hữu ích. |
| 美 | mỹ | bên dưới thêm chữ 大đại. | tốt đẹp, mỹ mãn. |
| 善 | thiện | bên dưới thêm chữ song thập十十 và bộ 口 khẩu (kǒu). | sự việc, hay hành động được nhiều người tán dương, khen ngợi… (món thịt dê hạp khẩu vị nhiều người ăn và khen ngon). |
| 養 | dưỡng | bên dưới thêm chữ人 nhân và chữ 良lương: tốt lành. | nuôi dưỡng; là thức ăn (vật chất, tinh thần) thích hợp cho con người. |
| 南 | nam | bên trên: bộ + thảo (bỏ bớt một +) + bộ 冂quynh (hướng nam) bên trong là chữ羊 dương (bỏ bớt một vạch ngang). | hướng nam, (nơi có cỏ cây xanh tươi, loài vật sinh trưởng nhanh). Theo Ngũ Hành thì hỏa火tượng trưng cho hướng nam 南. |
| 義 | nghĩa | bên dưới thêm chữ我 ngã: tôi. | cá nhân phải sống tốt, hoàn thiện bản thân và hành động hữu ích với xã hội; (cống hiến cho đời của loài dê, cừu..). |
| 洋 | dương | – bên trái thêm bộ氵thủy.
– từ kép羊 水 dương thủy, nghĩa là nước ối trong bào thai; nguồn nước đầu tiên nuôi sống ta. |
biển cả; là nguồn sống của con người, của sinh vật. |
| 群 | quần | bên trên trái với chữ 尹doãn: sửa trị (với ba ngón của bàn tay phải đang cầm vật nhọn để chữa bịnh cho người).
bên dưới trái với chữ口 khẩu: miệng; thành chữ 君 quân: cai trị; biết dùng lời nói để quản trị nhiều người. |
bầy, đàn, nhóm (người, vật). |
| 祥 | tường | bên trái thêm bộ礻thị: cầu, xin. | cầu mong được may mắn, hy vọng mọi việc tốt lành. |
| 详 | tường | bên trái với bộ言 (讠) ngôn. | tỏ rõ; rõ ràng. |
| 痒 | dưỡng | bên trái thêm bộ 疒 nạch: bệnh tật.
Mặt trái, hậu quả sau việc ăn trái cấm của thủy tổ loài người… |
bệnh ngứa; (ngứa ngái, háo hức như loài dê – mùa giao phối). |
Nguồn tham khảo:
– “Chinese, Language of God” của WBS. Mã Thiên Ân dịch 05/11/2012.
– Xem bài “Về Danh Xưng Thượng Đế” tại đây: https://www.timhieutinlanh.com/danh-xung-thuong-de/
– http://www.thanhkinhvietngu.online/tiengviet/
– http://www.worldbibleschool.org/
– “Chiết tự chữ Hán” – Kỳ Thanh, biên tập t.08/2018.
Kỳ Thanh biên khảo, t 10/2025.
***