
Tác giả: Joan Torres-Pou
Xuất bản trực tuyến: ngày 27 tháng 5 năm 2010
© Springer Science+Business Media B.V. 2010
Bản dịch của Vũ Đức Trung
Một trong những chương ít được biết đến nhất trong các cuộc chiến tranh thuộc địa mà Tây Ban Nha tham gia trong thế kỷ XIX là chiến dịch tại Đàng Trong, diễn ra từ năm 1859 đến 1863. Việc chiến dịch này nhận được rất ít sự quan tâm bắt nguồn từ quy mô hạn chế và tầm quan trọng không đáng kể của nó đối với lịch sử Tây Ban Nha. Thực tế, ngay cả việc gọi sự kiện này là một “chiến dịch thuộc địa” cũng là điều gây tranh cãi, bởi dường như ngay từ khi cuộc chiến bắt đầu, chính phủ Tây Ban Nha không hề có ý định mở rộng lãnh thổ. Trong một cuốn sách tập hợp các tài liệu do những người tham gia cuộc viễn chinh viết, linh mục Fidel Villarroel đã xem cuộc chiến này như một Cuộc Thập Tự Chinh của Tây Ban Nha tại Việt Nam (Una cruzada española en Vietnam, 1972), nhưng dù rõ ràng rằng chiến dịch đối với Tây Ban Nha là hành động trả đũa cho cuộc bách hại người Công giáo tại Đàng Ngoài, thì việc coi Chiến tranh Đàng Trong là một cuộc thập tự chinh tôn giáo vẫn là một cách nhìn có phần cường điệu.[1] Thật vậy, trong bài diễn văn khai mạc Quốc hội ngày 1 tháng 12 năm 1858, Nữ hoàng Isabel II chỉ đơn giản tuyên bố rằng cuộc viễn chinh là phản ứng trước những cuộc bách hại mà các nhà truyền giáo đang phải chịu ở châu Á (Sintes 2006: 52).
Với sự đề cập ngắn gọn và mơ hồ khi chỉ nói đến “châu Á,” có thể thấy rõ rằng triều đình không tiến hành chiến dịch này với mục tiêu mở rộng quyền lực thuộc địa, cũng không nhằm truyền bá Công giáo tại Viễn Đông. Đơn giản, đây chỉ là một sự hợp tác với Pháp trong một “chiến dịch trừng phạt,” mặc dù tham vọng của người Tây Ban Nha đã thay đổi khi họ bắt đầu nhận ra tiềm năng mà chiến dịch này có thể mang lại. Và nếu nhìn vào kết quả, có thể khẳng định rằng chiến dịch Đàng Trong chẳng qua chỉ là một trong vô số thất bại quân sự của Tây Ban Nha, xuất phát từ những liên minh không may mắn với các cường quốc thế giới.[2]
Ngoại trừ các sĩ quan chỉ huy, số người Tây Ban Nha tham gia cuộc chiến này là rất ít, phần lớn là thần dân tại thuộc địa Philippines lúc bấy giờ (chủ yếu là người Tagalog). Do không có một lực lượng quân đội chính quy nào được điều động từ chính quốc Tây Ban Nha (ngoại trừ sự quan tâm phần nào từ báo chí), cuộc chiến này hầu như không để lại dư âm lớn tại bán đảo Iberia. Do đó, sự kiện này không có được ảnh hưởng văn học như những cuộc chiến khác cùng thời. Tuy nhiên, vào thời điểm đó, một vài người tham gia chiến dịch đã ghi lại trải nghiệm và suy nghĩ của họ, dù tác phẩm của họ chỉ lưu hành trong giới quân sự hoặc tôn giáo. Ở đây, ta có thể nhắc đến hai tác phẩm: Chiến dịch Đàng Trong (Campaña de Cochinchina, 1859) của linh mục Francisco Gáinza Escobar và Tổng quan lịch sử cuộc viễn chinh Đàng Trong (Reseña histórica de la expedición a Cochinchina, 1869) của Đại tá Carlos Palanca Gutiérrez. Nền văn học đại chúng không sản sinh bất kỳ tác phẩm nào về chủ đề này, thậm chí cả Benito Pérez Galdós cũng không dành một tập nào trong bộ Những Biến Cố Quốc Gia (Episodios nacionales) để nói đến chiến dịch Đàng Trong, dù nửa thế kỷ sau đó ông đã tiểu thuyết hóa giai đoạn lịch sử đầy biến động ấy của Tây Ban Nha. Do đó, cuộc viễn chinh Đàng Trong dần rơi vào quên lãng.[3]
Mặc dù số lượng văn bản được sáng tác từ sự kiện này là ít ỏi, hai cuốn sách của cha Gáinza và đại tá Palanca vẫn rất đáng chú ý, bởi chúng là những ví dụ tiêu biểu cho thể loại biên niên sử (một bản là biên niên sử tôn giáo, bản kia là biên niên sử quân sự) được sinh ra từ các cuộc chiến tranh thuộc địa của Tây Ban Nha ở Viễn Đông. Tôi cho rằng không phải quá lời khi nói rằng thể loại văn học tiêu biểu nhất cho diễn ngôn thuộc địa của Tây Ban Nha chính là biên niên sử.
Dĩ nhiên, ở đây tôi không nói đến các biên niên sử báo chí rất phổ biến trong các tạp chí và nhật báo thế kỷ XIX (dù chúng cũng có thể cung cấp những ví dụ điển hình về diễn ngôn thuộc địa của Tây Ban Nha), mà tôi muốn nói đến những câu chuyện khám phá và chinh phục châu Mỹ mà các tác giả Tây Ban Nha thế kỷ XVI và XVII đã xuất bản dưới cái tên biên niên sử (crónicas). Khi bàn về thể loại văn học này, Walter Mignolo chỉ ra rằng dù trước thế kỷ XVI, thuật ngữ biên niên sử là từ dùng để chỉ các bản ghi chép về quá khứ hoặc các sự kiện hiện tại, được trình bày theo trình tự thời gian (Mignolo 1982: 75) — tức là một dạng danh sách có trật tự các biến cố đáng ghi nhớ — trong khi từ lịch sử lại chỉ bản tường thuật về những điều người ta chứng kiến hoặc được kể lại, không nhất thiết mang yếu tố thời gian (Mignolo 1982: 75), thì theo thời gian, hai thuật ngữ này — biên niên sử (crónica) và lịch sử (historia) — dần trở thành từ đồng nghĩa (Mignolo 1982: 76). Do đó, khi Bartolomé de las Casas gọi Lịch sử các vùng Ấn Độ (Historia de las Indias) là một biên niên sử (crónica), thì điều ông thực sự muốn nói là lịch sử, chứ không phải một biên niên sử đơn thuần. Nói cách khác, khi bàn đến các biên niên sử thời kỳ thuộc địa, ta cần hiểu rằng các văn bản đó thực chất là những văn bản lịch sử và do đó, tác giả của chúng là những nhà sử học. Chính từ góc độ đó mà ta cần đọc tác phẩm của cha Gáinza. Trong lời mở đầu của mình, chính tác giả đã viết: “Là người chép sử của tỉnh tôi, tôi xem chiến dịch này như một chương của lịch sử tổng quát nơi đây; từ đó tôi bắt đầu tìm kiếm các mối liên hệ, thu thập tư liệu, khảo sát bối cảnh […] tôi tin mình có bổn phận phải ghi lại […] tất cả những gì đáng được biết đến trong thời đại này và được truyền lại cho hậu thế với sự chính xác không thể chối cãi.” (Gáinza 1991: 7).
Nói cách khác, Gáinza không chỉ đồng nhất mình với giọng kể trong tác phẩm, mà còn tự khẳng định mình là một người biên niên sử, và cho chúng ta hiểu rằng ngài đang viết sử, dù không sử dụng từ “sử gia”, vì biết rằng mình không hội đủ các tiêu chuẩn học thuật để chính thức mang danh hiệu đó. Tuy nhiên, nếu xét theo định nghĩa của Từ điển Hoàng gia Tây Ban Nha (Real Academia Española), trong đó từ “lịch sử” (historia) được hiểu là việc trình bày những thăng trầm mà một con người đã trải qua (RAC 1992: 1114), thì không ai có thể phủ nhận rằng với tác phẩm của mình, Gáinza chính là một sử gia. Bởi như chính ngài nhấn mạnh, những điều ngài viết là kinh nghiệm trực tiếp: ngoài việc rời Manila trong toán quân đầu tiên, hiện diện trong tất cả các hoạt động quân sự, có trong tay mọi tài liệu được viết về chiến dịch này, ngài còn có quan hệ với vị lãnh sự tại Trung Hoa và Thư ký của phái bộ Pháp, với các giám mục và các thừa sai Tây Ban Nha cũng như Pháp tại An Nam. Ngài là linh mục người Tây Ban Nha duy nhất đã sống suốt mười một tháng cùng quân đội Pháp, có mối liên hệ mật thiết với nhiều sĩ quan và vô số hạ sĩ quan; ngài giao thiệp với tất cả những nhân vật quan trọng ở cả hai phe, và trong vai trò tuyên úy, ngài từng phục vụ trên một số tàu chiến Pháp, tiếp xúc trực tiếp với thuỷ thủ và binh lính, với ngôn ngữ, sách vở và báo chí của họ (Gáinza 1991: 8).
Đồng thời, Gáinza cũng tự trình bày mình với những yếu tố cho thấy ngài là một sử gia có uy tín học thuật: ngài là một tác giả được biết đến và kính trọng, các bài viết của ngài từng được đăng trên báo chí tại Manila, Madrid và các nơi khác ở châu Âu, mà chưa từng bị bác bỏ. Hơn nữa, ngài là một nhà nghiên cứu cẩn trọng, đã thực hiện một công trình điều tra chi tiết với mục đích ghi chép lại “một cách thẳng thắn và độc lập những vinh quang và thất bại, những chiến công và khuyết điểm, tất cả những gì đáng được biết đến của thời đại hiện tại, và được truyền lại cho hậu thế với sự chắc chắn không thể chối cãi” (Gáinza 1991: 7).
Xét những khẳng định của tác giả, không thể phủ nhận rằng với tác phẩm Campaña de Cochinchina (Chiến dịch tại Đàng Trong), Gáinza đã tự đặt mình vào vai trò viết nên lịch sử của cuộc chiến mà ngài đã chứng kiến. Tuy nhiên, nếu như Mignolo chỉ ra rằng, lịch sử là sự quan tâm đến các sự thật cụ thể, thì mục tiêu công cộng của những sự thật cụ thể ấy là phục vụ lợi ích cộng đồng. Nhưng mục tiêu ấy lại khác nhau tùy theo ý định của người viết (Mignolo 1982: 77). Vậy cần xác định: đâu là những sự thật cụ thể mà Gáinza quan tâm? Mục đích của ngài biến đổi ra sao theo từng mục tiêu? Và đặc biệt, đâu là những mục tiêu ấy? Nhưng để trả lời được những câu hỏi này, điều tối quan trọng là phải tiến hành một cuộc phân tích cẩn trọng cách mà tác giả đã xây dựng lời kể và trình bày các ý tưởng của mình.
Năm 1859, chính phủ Tây Ban Nha đã cử Gáinza đến tổng hành dinh của quân đội Pháp với vai trò là đại diện tỉnh dòng và là người đại diện cho Dòng Đa Minh trong chiến dịch tại Đàng Trong — nhiệm vụ mà, như đã nói ở trên, ngài đã đảm nhận trong suốt mười một tháng. Là tác giả của nhiều tác phẩm và giáo sư môn giáo luật tại Đại học Santo Tomás, tác phẩm của ngài không nghi ngờ gì nữa chính là công trình của một người trí thức quen thuộc với sử học, nhưng như có thể suy ra từ bản văn, ngài cũng là người am tường văn chương và hiểu tâm lý độc giả.
Tác phẩm Campaña de Cochinchina (Chiến dịch tại Đàng Trong) được chia thành mười bảy chương có tiêu đề như: “Những người dẫn đường” (Los cursores), “Can thiệp của châu Âu” (Intervención europea), “Cuộc viễn chinh” (La expedición), “Cuộc oanh tạc” (El bombardeo),… Những tiêu đề này khiến người ta có cảm tưởng đây là một tiểu thuyết hơn là một tác phẩm lịch sử. Chương đầu tiên càng làm nổi bật ấn tượng đó, vì được kể ở ngôi thứ ba toàn tri và bắt đầu bằng một lối viết rất văn chương:
“Năm 1857 đã đi qua nửa chặng đường. Tháng Tám sắp sửa kết thúc, một tháng u ám, đầy biến động và tai họa đối với vùng biển dữ dội của Trung Hoa, bởi ngoài những cơn địa chấn kinh hoàng thường báo hiệu mùa gió mùa Tây Nam sắp đến và khiến người ta lo lắng gấp bội phần vì có thể tiên liệu trước được, còn là những trận bão khủng khiếp tràn về — tại Trung Hoa gọi là ‘Tay-fon’ hay ‘Tifón’, và tại quần đảo Philippines gọi là ‘baguio’ […] Nhưng không phải là do cơn địa chấn dữ dội, cũng không phải do những đợt cuồng phong của trận bão ‘Tay-fon’ đang cuồng nộ, mà là một điều khác đã làm phủ bóng u sầu lên ngày 25 tháng 8 tại Tòa Tổng Quản của các sứ vụ Tây Ban Nha ở thành phố Macao.” (Gáinza 1991: 11)
Như có thể dễ dàng nhận thấy, với việc nhắc đến các thảm họa thiên nhiên, giọng kể đã tạo nên khung cảnh lý tưởng để dẫn vào một câu chuyện không kém phần bi thương và tàn khốc: cuộc chiến tại Đàng Trong. Sau phần mô tả ngắn gọn về bối cảnh, các nhân vật được giới thiệu – đó là các linh mục Đa Minh đến yêu cầu vị lãnh sự Tây Ban Nha giúp đỡ nhằm giành lại tự do cho Đại diện Tông tòa, linh mục José Díaz Sanjurjo – và họ được khắc họa như những con người “có phong thái khiêm nhường và gương mẫu, mặc những chiếc quần rộng giống như loại quần zaraguëlles của người Valencia” (Gáinza 1991: 12).
Phần mở đầu và cách giới thiệu như vậy mời gọi người đọc tiếp cận bản văn như một tiểu thuyết: trước hết là bằng cách sử dụng một thủ pháp tiêu biểu của lối kể chuyện lãng mạn – đó là mô tả khung cảnh phù hợp với bi kịch sẽ được kể lại; tiếp đến là bằng nét đặc trưng của văn chương phong tục – qua những nhân vật khiêm tốn, gần gũi, khiến người đọc cảm thấy đồng cảm bởi sự đơn sơ và dáng dấp giống như nông dân Tây Ban Nha.
Việc trích dẫn một đoạn từ sách của cha Manuel Rivas, Idea sobre el Imperio de Annam (Suy tư về Vương quốc An Nam), trong đó mô tả ấn tượng của tác giả trước sự tàn tạ thể xác của cha Sanjurjo vì những khổ đau ngài phải chịu trong sứ vụ truyền giáo tại Đàng Ngoài, nhằm củng cố thêm quan điểm của người kể chuyện về vị linh mục này, đồng thời tạo thêm sắc thái văn chương cho bản văn. Gáinza cũng từng quen biết cha Sanjurjo và hoàn toàn có thể tự mô tả ngài mà không cần dựa vào người khác, nhưng việc trích dẫn ấy cho phép ông trình bày Sanjurjo như một vị thánh, bởi theo lời cha Rivas, cha Sanjurjo là “bản sao sống động của chân dung mà Thánh nữ Têrêsa thành Giêsu từng vẽ về vị anh hùng tuyệt vời của đời sống khổ hạnh: Thánh Phêrô Alacantara” (Gáinza 1991: 13). Việc sánh ngài với một vị thánh như thế khiến người đọc không lấy làm ngạc nhiên khi cuộc đời ngài mang đậm nét thánh sử, và thay vì hình ảnh người anh hùng chinh phục – vốn là kiểu mẫu của các biên niên sử chinh phục – ta lại gặp hình ảnh của một vị anh hùng tử đạo.
Chương đầu tiên còn được bổ sung bằng ba chú thích làm nổi bật thêm cấu trúc và sắc thái văn học của tác phẩm. Chú thích thứ nhất là phần trích nguyên văn bằng tiếng Latinh một đoạn thơ trong Eneida, những câu đã được nhắc đến trước đó; chú thích thứ hai lại trích dẫn một đoạn khác từ tác phẩm của cha Rivas, lần này nhằm cung cấp thông tin về các tập tục tôn giáo của người An Nam; còn chú thích thứ ba là phần thánh sử dành cho cha José Díaz Sanjurjo, trong đó cũng dựa vào lời chứng của những tác giả khác để thuật lại những gì Gáinza không được tận mắt chứng kiến – cụ thể là việc ngài bị xử trảm (tử đạo).
Xuyên suốt tác phẩm, các chú thích là yếu tố thường xuyên hiện diện trong hầu hết các chương. Thậm chí, trong một số trường hợp, nội dung chú thích còn dài hơn cả chương, từ đó có thể suy ra rằng Campaña de Cochinchina là một văn bản có thể được đọc theo hai cách: một cách đầy đủ, dành cho độc giả quan tâm đến các sự kiện dưới góc độ chuyên sâu hơn; và một cách giản lược, bỏ qua các chú thích, dành cho những ai chỉ tò mò muốn biết về những tình tiết ly kỳ của chiến dịch. Do đó, có thể khẳng định rằng với giọng văn đậm chất tiểu thuyết, Gáinza mong muốn lôi cuốn đông đảo độc giả, trong khi các chú thích lại cung cấp phần thông tin mà nếu được lồng ghép trực tiếp vào phần thân chương sẽ khiến mạch kể mất đi sự linh hoạt. Đồng thời, các chú thích cũng là cách để tác giả thể hiện trình độ uyên bác, như một nỗ lực để được nhìn nhận như một người có học thức trong giới học thuật. Hơn nữa, trong các chú thích cũng như trong toàn bộ bản văn, có rất nhiều trích dẫn từ các tác phẩm khác, các bức thư và lệnh truyền do những người liên quan đến sự kiện viết ra, các bản báo cáo chiến sự chi tiết, các lời bình cá nhân và nhiều đoạn văn dài trích từ các tác phẩm lịch sử và văn học – tất cả tạo nên một hình thức đối thoại liên văn bản rất rõ rệt mà Campaña de Cochinchina muốn thiết lập.
Thật vậy, yếu tố đối thoại – hay đúng hơn là tính đa thanh – là một trong những đặc điểm nổi bật nhất của Campaña de Cochinchina, bởi dù Gáinza vẫn kiên định với cách nhìn của mình về các sự kiện, thì việc ông đưa vào nhiều quan điểm và lập trường khác nhau đã giúp văn bản thoát khỏi sự đơn điệu. Với giọng văn mang tính đối thoại ấy, chương đầu tiên kết thúc bằng việc mở ra một cuộc tranh luận sẽ được triển khai ở chương hai. Giọng kể khẳng định rằng đây là lần đầu tiên các nhà truyền giáo Tây Ban Nha yêu cầu chính phủ châu Âu can thiệp giúp đỡ, và dù họ biết rằng hệ quả của hành động này là không thể lường trước – có thể dẫn đến sự khoan dung và chấp thuận cho việc rao giảng đức tin Công giáo, nhưng cũng có thể làm bùng lên chủ nghĩa cực đoan và khiến công cuộc truyền giáo tại Đàng Ngoài gặp chung số phận với Nhật Bản – thì câu hỏi được đặt ra là: liệu có chính đáng và thích hợp không khi áp đặt đức tin bằng vũ lực? (Gáinza 1991: 14).
Chương thứ hai, có tựa đề “Can thiệp của châu Âu” (Intervención europea), bắt đầu bằng cuộc tranh luận ấy, và như thể là một cuộc đối chất tôn giáo thời Trung Cổ, Gáinza giới thiệu quan điểm của một người tự do tư tưởng: Sinibald de Mas – tác giả tác phẩm L’Angleterre, la Chine et l’Inde (1858) – về người mà ông nói rằng dù là bạn thân nhưng ông hoàn toàn bất đồng với các lập luận của Mas, vốn cũng là quan điểm được nhiều người khác chia sẻ, nên ông quyết tâm phản bác. Việc đưa ra cuộc tranh luận với hai nhân vật chính – một người tự do tư tưởng và một người tu sĩ – đồng nghĩa với việc từ bỏ ngôi thứ ba toàn tri của chương đầu và chuyển sang ngôi thứ nhất. Tuy nhiên, việc bác bỏ các luận điểm của Mas không được thực hiện dưới hình thức đối thoại giả tưởng, mà qua việc trích dẫn thư từ của nhiều linh mục và những đoạn bài báo trên báo chí Pháp – những tư liệu vốn đã tự thân phản bác các quan điểm của nhà tự do tư tưởng, đồng thời hé lộ nhiều khía cạnh của chính sách thuộc địa của Pháp.[4]
Chương này là một ví dụ điển hình về sự đối thoại giữa các văn bản, một sự liên văn bản thông qua đó các nguyên cớ bề ngoài của cuộc chiến bị tháo gỡ, để lộ ra những động cơ thật sự ẩn giấu phía sau. Trên hết, Gáinza muốn khẳng định rõ rằng chưa từng có lúc nào các linh mục mong đợi sự can thiệp của các cường quốc sẽ dọn đường cho họ, cho phép họ tự do thiết lập sứ vụ tại Đàng Ngoài; ngược lại, họ xác tín rằng hạt giống Tin Mừng sẽ nảy nở mạnh mẽ hơn nếu được tưới bằng máu của các nhà truyền giáo (Gáinza 1991: 27). Lập luận của Gáinza cũng cho thấy rõ những động cơ thực sự của cuộc chiến – những điều được trình bày một cách gián tiếp qua các trích dẫn, đặc biệt là trích đoạn một bài viết của một nhân vật tên Lovollée, đăng trên Revue des deux mondes ngày 1 tháng 3 năm 1858. Đối với Lovollée, theo Hiệp ước Whampoa (1844), việc bách hại Công giáo chỉ là cái cớ hoàn hảo để Pháp can thiệp vào Trung Hoa.[5] Gáinza trích dẫn một đoạn trong bài viết của Lovollée và kết thúc bằng một lời bình luận đầy ý nghĩa:
“[Vì] việc thực hành phụng tự Công giáo không còn là tội ác theo luật Trung Hoa, nên mọi hành vi bách hại đều cấu thành một sự vi phạm hiệp ước, và chúng ta có quyền đòi hỏi bồi thường […] Một linh hứng tuyệt vời! – ta có thể nói như thế hôm nay khi nhìn lại các biến cố đang diễn ra, bởi vì chính linh hứng đó đã chuẩn bị mảnh đất để nước Pháp có thể đóng một vai trò vẻ vang trong các vấn đề tại châu Á, và cho phép chúng ta vào thời điểm hiện tại không để một mình nước Anh gánh lấy trách nhiệm điều chỉnh các quan hệ chính trị giữa châu Âu và Trung Hoa.” Tôi cho rằng mình không cần phải phân tích đoạn văn có tầm quan trọng chính trị sâu xa này; mỗi người đều có thể dễ dàng rút ra những hệ quả mà nó hàm chứa. (Gáinza 1991: 22)
Kết luận là điều hiển nhiên: Pháp đã lợi dụng cuộc bách hại đạo Công giáo như một cái cớ để phục vụ cho các mục tiêu thuộc địa của mình tại châu Á, và đối với Gáinza, điều đó đặt ra một vấn đề nghiêm trọng đối với công cuộc truyền giáo, bởi lẽ, một mặt, bạo lực làm sai lệch tinh thần hy sinh và từ bỏ của các tu sĩ; mặt khác, nó đặt mạng sống của các linh mục và giáo dân vào tình thế hiểm nguy.
Sau khi cuộc tranh luận đã được thiết lập và quan điểm của Gáinza được trình bày rõ ràng, chương thứ ba trở lại với giọng kể ở ngôi thứ ba để thuật lại cuộc hành quân cứu thoát cha Sanjurjo – một sự kiện mà tác giả không trực tiếp chứng kiến nên đã dựa vào các văn bản của người khác để tái hiện diễn biến.
Các chương sau trình bày bối cảnh trước chiến dịch, cả tại An Nam và tại châu Âu. Chương thứ tư trích lại lá thư mà Thư ký của phái bộ Pháp tại Trung Hoa đã gửi cho Tổng trấn tỉnh Đàng Trong – người đã bắt giữ và xử tử cha José Díaz Sanjurjo. Chương thứ năm thuật lại các cuộc tranh chấp hoàng tộc tại Đàng Ngoài vốn là nguyên nhân dẫn đến việc bách hại người Kitô hữu, sự cai trị hà khắc của quan lại triều đình, những cuộc nổi dậy diễn ra để phản ứng lại sự lạm quyền của họ, và cách mà các cuộc nổi dậy này đã bị quy trách một cách bất công cho những người Công giáo. Chương thứ sáu mô tả liên minh giữa Pháp và Tây Ban Nha, mà tác giả gọi là “cuộc thập tự chinh nhỏ” (pequeña cruzada) (Gáinza 1991: 60), để nhấn mạnh tinh thần tôn giáo đã thôi thúc quân đội Tây Ban Nha. Chương này cũng trích dẫn một phần của Sắc lệnh Hoàng gia đề ngày 31 tháng 12 năm 1857, cho thấy việc trừng phạt cuộc bách hại tôn giáo là nguyên nhân và mục tiêu chính của cuộc viễn chinh. Nhờ đó, Gáinza có thể trình bày chiến dịch này như một cuộc chiến thánh, tương tự như những cuộc chiến mà theo ông, Tây Ban Nha từng thực hiện trong thời kỳ huy hoàng của Đế quốc Tây Ban Nha. Tác giả đã đưa ra một khẳng định đầy vấn đề rằng đối với người Tây Ban Nha: “Thánh Giá luôn là mục tiêu tối thượng; vô số lần là mục tiêu duy nhất, và chưa bao giờ là thứ yếu!” (Gáinza 1991: 57). Tuy vậy, ông cũng không tránh được nỗi xót xa khi nhận thấy con cháu của Pelayo, của Charles V, Cortés, Balboa, Magellan và biết bao anh hùng vĩ đại trong lịch sử Tây Ban Nha lại đang có một vai trò quá mờ nhạt trong cuộc chiến này, vì họ đang “được chở bằng tàu của Pháp, ăn lương thực của Pháp, dưới quyền chỉ huy của một đô đốc Pháp.” (Gáinza 1991: 62)
Chương tiếp theo thuật lại việc chiếm cảng Tourane với một giọng văn giàu chất tiểu thuyết và ngôi kể thứ ba, người kể viết: “Đây là câu chuyện tóm tắt về cảng nổi tiếng Tourane: nước Pháp đã chiếm lấy nơi này bằng cách viện dẫn lại những quyền lợi mà độ chính đáng không còn là điều cần bàn cãi. Tôn giáo chỉ là cái cớ, chính trị mới là động cơ đích thực.” (Gáinza 1991: 69) Trong chương tám, “Tư tưởng chính trị: Quyền lợi” (Pensamiento político: Derecho), lại có sự chuyển trở về ngôi thứ nhất, và qua việc trích dẫn nhiều nguồn khác nhau, tác giả trình bày rõ hơn nữa các động cơ thực sự của nước Pháp. Nhờ đó, ông đi sâu vào giải thích điều mà trước đó ông nói là “không cần thiết phải bàn đến”: chính là Hiệp ước năm 1787 được nhắc tới trong chú thích số tám.[6] Gáinza chỉ ra rằng hiệp ước này đã bị cả hai bên vi phạm và do đó người Pháp không còn cơ sở pháp lý nào để đòi lại cảng Tourane. Để nhấn mạnh tham vọng thuộc địa của Pháp, ông lưu ý rằng trước đó đã từng có nhiều linh mục Công giáo bị hành quyết tại An Nam mà chính phủ Pháp khi ấy không hề xem đó là lý do đủ để thực hiện bất kỳ chiến dịch quân sự nào. Gáinza kết luận rằng ngay từ đầu, mục tiêu của Pháp trong chiến dịch này là để chiếm hữu cảng Tourane; còn Tây Ban Nha chỉ hợp tác vì không hề được thông báo rằng đây là một cuộc chiếm đất, mà chỉ được trình bày như một chiến dịch bảo vệ đức tin (Gáinza 1991: 84).
Kể từ thời điểm này, với Gáinza, kẻ thù không còn là người An Nam nữa, mà chính là người Pháp — những người mà ông xem là cơ hội chủ nghĩa, vì họ chỉ muốn Tây Ban Nha cung cấp một lực lượng quân đội đã quen chiến đấu trong vùng nhiệt đới (tức binh lính Tagalog); là những kẻ bài Kitô giáo vì họ không chấp nhận để linh mục tuyên úy đồng hành trong các trận đánh và báo chí của họ thường xuyên công kích Giáo hội Công giáo; là những kẻ độc đoán vì họ ngược đãi tù binh, người bản địa – ngay cả Kitô hữu – và cả các nhà truyền giáo; là những kẻ kích động bạo lực vì sự hiện diện của hạm đội Pháp tại những nơi không nên có mặt đã dẫn đến việc người Công giáo địa phương bị bách hại; là kẻ phân biệt đối xử vì họ trừng phạt các binh sĩ Tây Ban Nha (xin nhớ rằng họ là người Tagalog chứ không phải người gốc Tây Ban Nha tại bán đảo) vì những hành vi mà họ lại dung túng nơi binh lính Pháp; và là những kẻ thao túng vì họ cố ý kéo dài chiến dịch ngay cả khi chiến thắng đã cận kề, nhằm làm giảm vai trò của Tây Ban Nha trong chiến công, và để sau khi hòa bình lập lại, Tây Ban Nha không thể đòi các khoản bồi thường – điều mà người Pháp muốn giữ riêng cho họ. Về điểm cuối cùng này, người kể thậm chí còn khẳng định rằng, vì Đàng Ngoài (vùng phía Bắc) vốn có thiện cảm với Tây Ban Nha, người Pháp đã cố tình đổi hướng chiến dịch để chinh phục Sài Gòn (vùng phía Nam) trước tiên – một thành phố mà họ đã cướp phá và tiêu diệt, nhằm xây dựng một “Sài Gòn mới” hoàn toàn mang dấu ấn Pháp (Gáinza 1991: 152).[7]
Gáinza đặc biệt chỉ trích Charles Rigault de Genouilly (1807–1873), viên sĩ quan chỉ huy chiến dịch, người mà hành động của ông ta cũng hứng chịu nhiều phê phán nặng nề tại Paris và vì thế đã bị thay thế vào năm 1859. Theo Gáinza, Genouilly, dù xét trên phương diện quân sự hay ngoại giao, đều là một kẻ bất tài: ông ta đã kéo dài cuộc chiến một cách phi lý, gây ra nhiều gian khổ không cần thiết cho binh sĩ và sĩ quan, phê chuẩn những mệnh lệnh bất công, ra lệnh cướp phá và hủy diệt Sài Gòn — một hành động làm hoen ố hình ảnh người Kitô hữu —, đặt mạng sống các nhà truyền giáo vào vòng nguy hiểm, và thất bại trong mọi nỗ lực nhằm đạt được một thỏa thuận hòa bình có lợi cho liên minh Pháp – Tây Ban Nha. Tuy nhiên, lời chỉ trích gay gắt nhất của ông lại dành cho vị chỉ huy quân đội Tây Ban Nha: đại tá Bernardo Ruiz de Lanzarote, người mà ông mô tả là một kẻ thiếu tầm nhìn và trí tuệ, hay khoác lác, bất tuân kỷ luật, và hoàn toàn không có khả năng tôn trọng thẩm quyền và trách nhiệm của các cấp chỉ huy (Gáinza 1991: 203).
Hai chương cuối của tác phẩm được dành để — chương thứ nhất — chứng minh rằng thảm bại của chiến dịch không phải lỗi của người Tây Ban Nha, và chương thứ hai — tổng hợp lại các sai lầm đã mắc phải. Trước hết, Gáinza cho rằng, biết rõ người Pháp, như thường lệ, sẽ quy trách phần lớn thất bại của liên minh Pháp – Tây Ban Nha cho Tây Ban Nha, nên ông muốn trích dẫn chính lời của Genouilly, được củng cố bởi lời của Toàn quyền Philippines là Fernando Norzagaray y Escudero, để làm bằng chứng rằng nếu chiến dịch không đạt được thành công như kỳ vọng, thì điều đó không phải vì “thiếu hợp tác, thiện chí hay hy sinh từ những người Tây Ban Nha vị tha” (Gáinza 1991: 191), và vì Tây Ban Nha sẽ không thu được lợi ích gì từ cuộc chiến, thì chí ít danh dự của quốc gia cần phải được gìn giữ. Mặt khác, trong chương cuối, ông bắt đầu bằng việc khẳng định rằng lịch sử là thầy dạy của các thế hệ tương lai (Gáinza 1991: 195), nên cần phải chỉ ra những sai lầm mà Tây Ban Nha đã phạm để không tái diễn trong các liên minh sau này. Sai lầm đầu tiên, theo Gáinza, là việc chấp nhận liên minh với Pháp mà không bàn bạc rõ ràng về mục tiêu, không đánh giá phạm vi hành động, không điều phối nguồn lực, không lường trước hậu quả và không quy định các nền tảng hay điều kiện cụ thể nào (Gáinza 1991: 195). Tuy nhiên, Gáinza cũng nói rằng ông biết Bộ trưởng Francisco Martínez de la Rosa đã hỏi đại sứ Pháp tại Madrid về mục tiêu và phạm vi chiến dịch, nhưng không hiểu sao ông ấy lại hài lòng với câu trả lời rằng không thể trả lời những câu hỏi đó do khoảng cách xa xôi với An Nam và khó khăn trong việc nắm bắt ý định của những người đại diện cho quyền lợi của Pháp tại đó (Gáinza 1991: 196).
Hậu quả của sự tin tưởng mù quáng từ phía chính phủ Tây Ban Nha đối với người Pháp là việc Tây Ban Nha bị đặt vào vị thế lệ thuộc trong chiến dịch. Vì ở Madrid người ta không biết rõ mình đang dấn thân vào điều gì, nên không thể gửi cho Toàn quyền Manila những chỉ thị cụ thể, và người này đã phải tự soạn ra một bản hướng dẫn mà Lanzarote lại không biết cách vận dụng sao cho có lợi cho Tây Ban Nha. Mặt khác, một hành động khác của chính phủ Tây Ban Nha mà Gáinza coi là đáng chê trách là việc cho phép người Pháp tuyển mộ 1.200 người Tagalog để lập thành một đại đội bộ binh và một đại đội kỵ binh, dù phía Tây Ban Nha đang cần chính những người này để phục vụ cho hải quân của mình.
Một sai lầm khác của người Tây Ban Nha là việc sử dụng sai mục đích các tàu thuê. Theo Gáinza, đó là một khoản tiền bị lãng phí, vì các tàu đó hầu như không phát huy được tác dụng, trong khi lại thiếu ngân sách để cung cấp lương thực cho quân đội Tây Ban Nha, vốn phải lệ thuộc hoàn toàn vào khẩu phần do Pháp cấp phát (Gáinza 1997: 202).
Cuối cùng, ông xem là điều hoàn toàn đáng xấu hổ khi Tây Ban Nha lại giao việc tiếp tế cho quân đội vào tay những cậu bé vị thành niên, những “sĩ quan bất đắc dĩ” mới mười bốn tuổi bị bắt cóc ngoài đường phố, những đứa trẻ đã làm tổn hại nghiêm trọng đến hình ảnh chuyên nghiệp của quân đội Tây Ban Nha. Tóm lại, lời than phiền của Gáinza phản ánh sự thiếu đầu tư và tình trạng bỏ mặc hoàn toàn — một hiện tượng phổ biến trong chính trị và hành chính Tây Ban Nha suốt thế kỷ XIX, từ các dự án trong nước đến các chiến dịch quốc tế.
Tuy nhiên, như đã được gợi ý trước đó, đối với Gáinza, sai lầm lớn nhất vẫn là việc chọn Lanzarote làm người chỉ huy quân đội Tây Ban Nha. Một sai lầm mà, theo ông, không thể được sửa chữa chỉ bằng việc thay thế ông ta bằng đại tá Carlos Palanca, người mà ông không cho là sẽ thể hiện tốt hơn người tiền nhiệm. Tác phẩm của Gáinza kết thúc trong một nốt trầm đầy bi quan, tuy nhiên vẫn kèm theo niềm hy vọng rằng ông sẽ sai, và chiến dịch rốt cuộc sẽ đem lại thắng lợi cho Tây Ban Nha.
Tại thời điểm này, cần phải quay lại với những câu hỏi đã được nêu ra ở phần đầu của phân tích cấu trúc văn bản Gáinza: đâu là những “sự thật cụ thể” mà Campaña de Cochinchina (Chiến dịch tại Đàng Trong) muốn trình bày? Mục đích của tác giả thay đổi như thế nào theo các ý đồ? Và những ý đồ ấy là gì?
Ban đầu, Gáinza nói rằng với tư cách là người chép sử của tỉnh mình, ông muốn ghi lại một chương của lịch sử tổng quát, điều mà quả thực ông đã làm — nhưng là theo một cách rất đặc biệt, vì Campaña de Cochinchina, dù cung cấp thông tin quân sự rất chi tiết, lại là một tác phẩm thiên về việc tố cáo tham vọng bành trướng của Pháp và sự quản lý yếu kém của Tây Ban Nha trong chiến dịch, hơn là một bản tường thuật đơn thuần của một người chứng kiến cuộc chiến. Trái ngược với điều ta có thể trông đợi từ một biên niên sử chinh phục, trong sách của Gáinza không có mô tả về các dân tộc bị chinh phục, cũng không nhắc đến tiềm năng của những vùng đất chiếm được; quân đội đối phương cũng không được mô tả; và gần như không có hình ảnh văn học nào về các vùng đất đã đi qua — trừ phi để thu hút độc giả hoặc để tạo sắc thái tiểu thuyết cho câu chuyện. Vì thế, dù tác giả có nền tảng học thuật, ta không hề thấy trong tác phẩm bất kỳ dấu hiệu nào của một diễn ngôn phương Đông luận (orientalismo), dù là thứ phương Đông luận giản lược mà Edward Said đề cập trong Orientalism, hay thứ phương Đông luận “có thiện chí muốn đề cao giá trị các nền văn hóa Á Đông” như Robert Irwin mô tả trong For Lust of Knowing. The Orientalists and their Enemies.
Mặt khác, mối tương giao của Gáinza với các thành viên khác trong đoàn viễn chinh, vốn theo lời tác giả là rất thân thiết, lại không hề được thể hiện qua bất kỳ giai thoại hay tình tiết nào đáng kể, mà chỉ là việc trích dẫn các thư từ và tài liệu. Điều này cho thấy rõ ý định của tác giả là muốn trình bày cho người đọc một bản tường thuật khách quan về các sự kiện. Tuy nhiên, xét cho cùng, vì đây là sự tái hiện có chọn lọc của các thư từ và tài liệu, nên cái nhìn mà ta có được về sự việc là có tính định hướng, và do đó rất đáng nghi vấn. Điều này càng trở nên rõ ràng hơn do sự vắng mặt của các giai thoại cá nhân, khiến cho văn bản mất đi tính nhân bản thường thấy nơi các bản tường thuật chứng nhân, và hiện ra trước mắt người đọc với sự lạnh lùng của một bản báo cáo về điều mà tác giả xem là một thất bại về quân sự, ngoại giao, luân lý và ý thức hệ.
Sự thất vọng của Gáinza khiến cho mục đích của bản văn không gì khác hơn là một hình thức trả đũa cho việc bản thân ông bị lợi dụng trong một cuộc “thánh chiến giả hiệu” — bằng cách vạch trần, một mặt, những tham vọng đế quốc của Pháp, và mặt khác, chỉ trích vai trò tồi tệ mà Tây Ban Nha đã thể hiện trong một cuộc chiến mà họ sẽ chẳng thu lại được gì. Như vậy, xét lại những gì Mignolo đã trình bày, ta có thể nói rằng mục tiêu của tác phẩm – vốn là viết một biên niên sử – đã bị chuyển hướng bởi ý định tố cáo chính trị, và thay vì là một lát cắt lịch sử, văn bản của Gáinza trở thành một lời phê phán chủ nghĩa thực dân Pháp cũng như chính sách đối ngoại thảm hại của Tây Ban Nha. Do đó, cái gọi là “sự thật không che đậy và không né tránh” (Gáinza 1991: 7) mà ông tuyên bố, trên thực tế lại là một văn bản phơi bày chính sách bành trướng tàn nhẫn của Pháp, sự suy tàn của Tây Ban Nha, và vị thế hoàn toàn mờ nhạt của đạo Công giáo trong những tính toán của các cường quốc — những nước vào giữa thế kỷ XIX tự xưng là bảo vệ đức tin, nhưng thực chất chỉ nhằm củng cố quyền lực lãnh thổ hoặc, trong vài trường hợp, là bảo vệ thể diện quốc gia nơi hải ngoại một cách hời hợt.
Bản tường thuật về chiến dịch tại Đàng Trong mà Gáinza trình bày, do đó, là một văn bản không lặp lại diễn ngôn thực dân, mà ngược lại, chất vấn chính diễn ngôn mà Pháp dùng để biện minh cho cuộc chinh phục Đàng Trong, đồng thời làm chứng cho vị thế cường quốc hạng ba mà Tây Ban Nha đã rơi vào trong trật tự thế giới lúc bấy giờ. Không lạ gì khi Gáinza đã không thực hiện được ý định công bố Campaña de Cochinchina (Chiến dịch tại Đàng Trong), và như linh mục Fidel Villarroel nhận xét, tác phẩm của ông “đã bị xếp xó và rơi vào quên lãng trên các kệ sách của Văn khố Đại học Thánh Tôma ở Manila” (Villarroel 1972: xx).
Không phải ai cũng chịu chung số phận như vậy: tác phẩm Reseña histórica de la expedición de Cochinchina (Tường thuật lịch sử về chiến dịch tại Đàng Trong) của Carlos Palanca Gutiérrez, được hoàn tất vào năm 1868 và xuất bản tại một nhà in ở Cartagena vào năm 1869, tuy cũng không được công chúng đón nhận rộng rãi. Cuốn sách dường như chỉ gây được một sự quan tâm giới hạn, có lẽ do bản chất quân sự thuần túy của bản tường thuật và vì chiến dịch này khi đó đã là chuyện quá khứ. Vì vậy, theo tôi, cũng không quá lời khi nói rằng tác phẩm của Palanca đã bị lãng quên không khác gì tác phẩm của Gáinza, và điều đáng chú ý nhất ở cả hai chính là tính chất bổ trợ lẫn nhau của chúng: mỗi tác phẩm tường thuật và làm chứng cho một trong hai giai đoạn của chiến dịch, từ góc nhìn của một người hoàn toàn thất vọng với cách hành xử của chính phủ Tây Ban Nha. Cũng như Gáinza trước đó, Palanca mở đầu bản tường thuật của mình với tuyên bố rằng ông là người chép sử cho một sự kiện lịch sử mà ông muốn trình bày để “làm sáng tỏ sự thật của các sự kiện” (Palanca 1869: 9).
Chúng ta có thể đặt lại cùng một câu hỏi mà, dưới ánh sáng các lý thuyết của Walter Mignolo, đã từng được đặt ra lúc bắt đầu phân tích văn bản của Gáinza: đâu là “sự thật cụ thể” mà Palanca muốn làm sáng tỏ, và tại sao mục tiêu viết biên niên sử lại bị thay đổi bởi mục đích tố cáo một số sự việc cụ thể? Để trả lời điều đó, ta cũng cần xem xét cách mà tác giả trình bày các sự kiện và cách ông triển khai tư tưởng của mình.
Palanca từng du học ở Pháp, vì vậy ông thông thạo tiếng Pháp, nhưng không phải là một nhà văn như Gáinza mà là một quân nhân chuyên nghiệp, nhập ngũ khi mới hai mươi tuổi. Chính Palanca cũng thừa nhận mình không có nhiều khả năng văn chương khi thú nhận rằng ông chỉ là một “người lính không quen với công việc viết lách” (Palanca 1869: 9). Quả thực, tác phẩm của ông thiếu hẳn những kỹ thuật và yếu tố văn học đặc trưng trong biên niên sử của Gáinza — những yếu tố khiến cho bản tường thuật về các cuộc giao tranh trở nên hấp dẫn hơn. Trên thực tế, cấu trúc của văn bản cho thấy rằng Palanca không bao giờ có ý định làm cho tác phẩm của mình dễ đọc hay sinh động.
Thêm vào đó, với ý định rõ ràng muốn thể hiện mình là một người quan sát khách quan các sự kiện, trong khi thực chất ông lại là nhân vật chủ chốt trong việc triển khai các sự kiện ấy, Palanca đã trình bày câu chuyện của mình một cách mâu thuẫn và khó hiểu:
“Không phải là mục tiêu của tôi khi viết tác phẩm này là để bàn về giai đoạn quân sự và chính trị đầu tiên, và cũng không thể viết lịch sử của giai đoạn thứ hai vì như vậy sẽ bị xem là thiên lệch, và vì tôi buộc phải nói về chính mình và tự đánh giá mình, nên tôi sẽ chỉ đơn giản trình bày các sự kiện, điều có thể làm nền tảng cho các công trình nghiên cứu sau này, những công trình đã từng khởi sự trong quá khứ và dường như đã bị trì hoãn; như vậy, bản tường thuật lịch sử của tôi sẽ tập trung vào thời điểm mà tôi đảm nhận các chức vụ quân sự và chính trị tại Vương quốc An Nam theo sắc lệnh hoàng gia ngày 13 tháng 2 năm 1860.” (Palanca 1869: 15)
Nói cách khác, Palanca tuyên bố rằng ông không viết về giai đoạn quân sự thứ hai, nhưng lại trình bày cho ta một bản tường thuật lịch sử về chính giai đoạn ấy — điều này rốt cuộc cũng giống như đang làm điều mà ông nói rằng mình sẽ không làm. Tuy nhiên, từ lời lẽ của Palanca, ta có thể suy ra rằng việc ông trình bày các sự kiện nhằm mục đích thúc đẩy các công trình nghiên cứu tiếp theo. Dù vậy, ông không nói rõ lý do tại sao ông thấy cần thiết phải có các nghiên cứu như vậy, nhưng điều này trở nên hiển nhiên khi ông đề cập đến các lời chỉ trích mà chiến dịch và hành động của ông đã nhận được từ báo chí và một số cá nhân:
“[N]hững lời công kích không thể biện minh của báo chí chống lại chiến dịch, mà không vì lý do nào khác ngoài việc muốn đối lập với chính phủ, cùng với lòng đố kỵ — điều mà tôi không nghi ngờ gì là đã bóp méo lòng yêu nước và nhiệt thành của tôi thành ra ham thích văn chương, thích chinh phục, hay như một cách để thỏa mãn tham vọng cá nhân — là nguyên nhân theo tôi khiến cho tinh thần yêu nước rõ ràng và quyết đoán của chính phủ bắt đầu thay đổi, và về sau, khi không còn lắng nghe các khuyến nghị của tôi nữa, đã vạch ra một đường lối hoàn toàn trái ngược với điều đáng lẽ phải thực hiện.” (Palanca 1869: 22)
Như vậy, chúng ta lại gặp cùng một động cơ từng thôi thúc biết bao nhà biên niên sử trong các cuộc chinh phục Tân Thế Giới: biện minh cho hành động của mình trước cấp trên và biến một hành động có thể bị nghi vấn thành một chiến tích vẻ vang. Tuy nhiên, điểm khác biệt lớn so với các bậc tiền bối là ý thức về tính khách quan mà Palanca tự áp đặt khi viết, điều này đã định hình cấu trúc và phong cách của văn bản. Bởi lẽ, dù văn bản luôn sử dụng ngôi thứ nhất, ta không tìm thấy bất kỳ giai thoại hay ấn tượng cá nhân nào — trừ những điều có thể ẩn chứa trong các bản báo cáo gửi cho cấp trên —, khiến cho phần trình bày các sự kiện trở nên khô khan và hoàn toàn đơn điệu.
Bản văn gồm bốn phần, tất cả đều được bổ sung bằng một phần chú thích rất dài, trong đó tái hiện thư từ trao đổi giữa các nhân vật chính của sự kiện. Cũng giống như bản tường thuật của Gáinza, Reseña histórica de la expedición de Cochinchina (Tường thuật lịch sử về chiến dịch tại Đàng Trong) cho phép người đọc có thể không đọc phần chú thích, bởi lẽ chức năng của những chú thích này chỉ là để xác thực điều đã được kể lại trong các phần chính, cho nên nếu đọc toàn bộ văn bản thì bản tường thuật sẽ trở nên lặp đi lặp lại một cách dày đặc và, điều vốn được trình bày như một tường thuật mang tầm vóc anh hùng sử thi, rốt cuộc lại là một bản tường trình quân sự dài dòng, mệt mỏi và ít hấp dẫn.
Mỗi phần đề cập đến một giai đoạn của cuộc chiến: phần đầu kể về việc Palanca đến Tourane và Sài Gòn, khám phá ra kế hoạch của người Pháp và thái độ của Thống đốc Philippines đối với chiến dịch. Phần thứ hai kể lại cuộc kháng cự của Sài Gòn khi phần lớn quân đội Pháp đã rời khỏi thành để tham gia Chiến tranh thuốc phiện lần thứ hai. Giai đoạn thứ ba nói về hiệp ước hòa bình và sự thất bại trong các nỗ lực của Palanca nhằm giành được một phần lãnh thổ ở Đàng Ngoài; và phần thứ tư thuật lại cuộc nổi dậy của một số nhóm chống lại sự hiện diện của người Pháp cùng sự hỗ trợ của quân đội Tây Ban Nha nhằm bình định khu vực và buộc đối phương thực hiện những điều khoản trong hiệp ước hòa bình.
Điều thú vị nhất trong mỗi phần này là đằng sau những chiến công của quân đội Tây Ban Nha luôn ẩn giấu một lời phê phán nhắm vào chính phủ. Trong phần đầu, Palanca trình bày những lợi ích của việc thực dân hóa một phần Đàng Ngoài để tiếp tục công cuộc thuộc địa hóa tại Philippines, ông nói đến những phẩm chất của cư dân bản xứ, tình trạng đông dân quá mức của vùng đất ấy và khả năng đưa người dân Đàng Ngoài sang định cư tại Mindanao. Thật đáng tiếc, những tham vọng thuộc địa không thể thành hiện thực do quân đội Tây Ban Nha ở Sài Gòn không được bảo vệ và do Bộ Chỉ huy tại Philippines từ chối gửi quân tiếp viện để đáp lại sự khinh thường mà người Pháp đã dành cho quân Tây Ban Nha tại Tourane. Palanca kết luận rằng ông không nên ghi lại việc quân đội bị chính phủ bỏ rơi, nhưng ông không thể im lặng vì đây là minh chứng đầy đủ nhất có thể có cho sự thật (Palanca 1869: 67).
Phần thứ hai thuật lại những nỗ lực của Palanca nhằm buộc người Pháp phải đối xử bình đẳng với Tây Ban Nha, sau khi họ đã loại bỏ Tây Ban Nha khỏi mọi cuộc thương thuyết với các quan lại An Nam. Ông hoàn toàn thất bại khi người Pháp đề xuất với ông việc cùng nhau chinh phục Biên Hòa – vùng đất này sẽ được trao cho Tây Ban Nha quản lý – nhưng cuối cùng không thể thực hiện được vì chính phủ Tây Ban Nha quyết định rằng không nên dùng thêm lực lượng và tài nguyên. Palanca chỉ ra rằng tuy chính phủ Tây Ban Nha đã tham gia chiến dịch này với tư cách là một cuộc hành quân trừng phạt liên minh, sau đó lại không muốn kém cạnh chính phủ Pháp trong việc đưa ra yêu sách; nhưng khi Palanca xin các phương tiện cần thiết để duy trì các yêu sách ấy thì chính phủ trả lời rằng: nếu ban đầu họ nghĩ rằng việc chiếm lấy một phần lãnh thổ ở Đế quốc An Nam là điều có ích, thì nay khi thấy được những khoản phải đầu tư, họ cho rằng việc sở hữu thêm lãnh thổ ở Viễn Đông đòi hỏi những cam kết nghiêm trọng, và Tây Ban Nha hiện đang có nhiều lãnh thổ rộng lớn và giàu có vốn đòi hỏi tất cả sự quan tâm của họ (Palanca 1869: 220).
Phần này kết thúc với việc Palanca tái khẳng định tính vô ích của việc can dự vào một cuộc chiến rõ ràng là vì mục đích bành trướng thuộc địa, khi mà không có sự sẵn sàng đầu tư các nguồn lực cần thiết để đạt được điều mà người Pháp đang làm. Việc tường thuật các hiệp ước đầu hàng trong phần thứ ba lại tiếp tục được Palanca sử dụng để nhấn mạnh cơ hội bị đánh mất của Tây Ban Nha trong việc mở rộng đế chế thuộc địa. Đồng thời, ông nhấn mạnh đến thành công đạt được khi giành được các bảo đảm cho việc truyền bá đức tin Công giáo, dù ông không nghĩ rằng các nhà truyền giáo đã giúp đỡ ông khi ông cần nhất, cũng như không công nhận những quan tâm mà ông đã dành cho họ, và trên hết, vì trái với những gì họ khẳng định, tại các tỉnh bị chiếm không hề có hàng ngàn Kitô hữu như họ đã nói là đã được họ cải đạo, cũng như không có những người sốt sắng mong quân Tây Ban Nha giúp họ nổi dậy (Palanca 1869: 311).
Phần cuối nói về cuộc nội chiến ở Đàng Ngoài và hành động của các nhà truyền giáo, những người, trái với các điều khoản hòa bình, đã kích động các tín hữu của họ tiến hành chiến tranh. Sau khi kể lại thêm nhiều chiến công của quân đội Tây Ban Nha nhằm tái lập hòa bình, phần này kết thúc với chuyến trở về Tây Ban Nha của Palanca và vai trò của ông trong việc tháp tùng các sứ thần An Nam sang Paris và Madrid. Kết luận nói đến vinh quang của một chiến thắng không đạt được tất cả những gì có thể đạt được, nhưng đã hoàn thành mục tiêu ban đầu là trả thù cho các nhà truyền giáo bị sát hại và buộc vua Tự Đức phải chấp nhận việc truyền bá đạo Công giáo trong vương quốc của ông. Một chiến thắng đáng buồn nếu ta xét đến những hy sinh mà binh lính phải chịu đựng và việc các nhà truyền giáo – theo lời Palanca – hoàn toàn không xứng đáng với sự hy sinh to lớn ấy.
Theo nghĩa này, ta có thể thấy sự đối lập giữa thái độ của các nhà biên niên sử quân sự và tôn giáo, bởi tuy các bản tường thuật của họ có thể được xem như một tổng thể bao quát toàn bộ chiến dịch, và cả hai tác giả đều đồng tình trong việc làm chứng cho sự thất bại của chính phủ Tây Ban Nha trong việc triển khai đúng đắn một dự án thuộc địa tại An Nam, thì mặt khác, các tu sĩ chỉ trích sự thiếu chuyên môn của các sĩ quan chỉ huy quân đội, còn quân đội lại tố cáo sự thao túng của các dòng tu. Như vậy, các văn bản của Gáinza và Palanca cho thấy sự bất mãn của cả quân đội lẫn Giáo hội đối với chính phủ, đồng thời cũng là minh chứng rõ ràng cho sự đối đầu đang tồn tại giữa quân đội và các dòng tu.
Tuy nhiên, nhìn lại tất cả những điều đã trình bày, điều hiển nhiên là: bất chấp ý định rõ ràng của Palanca là muốn tỏ ra khách quan và việc ông cố gắng kết thúc bản tường thuật bằng một hình ảnh chiến thắng vẻ vang, sự thật mà ông muốn truyền đạt qua biên niên sử của mình chính là sự thất bại của chiến dịch Tây Ban Nha tại Đàng Trong – tuy vậy, ông vẫn làm rõ rằng ông được giao phó trách nhiệm chỉ huy một chiến dịch mở rộng quân sự và vì thế, trong mọi thời điểm, ông đã hành động đúng với các mệnh lệnh nhận được. Đáng tiếc thay, chính phủ Tây Ban Nha đã khởi động chiến dịch ấy mà không hiểu mình đang làm gì và, ngay cả khi đã rõ các kế hoạch của chính phủ Pháp, vẫn không biết phải chọn lập trường như thế nào, để mặc cho quân đội không được hỗ trợ thích đáng và để viên chỉ huy mà họ đã bổ nhiệm phải hành động mà không có sự hậu thuẫn cần thiết.
Reseña histórica de la expedición de Cochinchina (Tường thuật lịch sử về chiến dịch tại Đàng Trong) là một biên niên sử mà, cũng như mọi biên niên sử khác, nhằm thuật lại sự thật từ góc nhìn của người viết. Qua văn bản của mình, Palanca tự giới thiệu mình như là nhân vật chính của một chiến dịch quân sự thành công, vốn chỉ biến thành thất bại do sự rối loạn trong chính sách của chính phủ Tây Ban Nha, do mưu tính của người Pháp, các đòi hỏi từ các dòng tu và sự bất lực của Tây Ban Nha trong việc thực thi một chính sách thuộc địa hiện đại. Để trình bày sự thật đó, Palanca cần công bố toàn bộ thư từ trao đổi giữa những người có liên quan đến sự kiện, điều này khiến cho bản tường thuật mất đi sự trôi chảy về mặt kể chuyện, nhưng lại tăng thêm tính xác thực, đến mức vào cuối bản văn, người đọc không còn nghi ngờ gì về hành động của Palanca, và bản tường thuật của ông trở thành một lời chứng không thể chối cãi về sự mơ hồ trong tham vọng thuộc địa của Tây Ban Nha tại Viễn Đông, về sự thờ ơ của chính phủ và, trên hết, về tình trạng bị bỏ rơi mà quân đội Tây Ban Nha phải gánh chịu khi bị đưa đi thực hiện những công cuộc vô ích mà không có phương tiện.
Vì thế, không có gì ngạc nhiên khi Palanca đã dành tặng tác phẩm của mình cho Juan Prim, người vào thời điểm đó là Tổng chỉ huy Quân đội Tây Ban Nha và từng có một sự nghiệp quân sự đủ để hiểu được những lời than phiền của ông cũng như những khó khăn mà ông đã buộc phải trải qua. Trong chiến dịch tại Mexico năm 1862, Prim đã từng chứng kiến những mưu mô thuộc địa của người Pháp và, cũng như Palanca, ông cũng từng bị chỉ trích bởi báo chí và nhiều thành phần trong chính phủ Tây Ban Nha. Có lẽ Palanca hy vọng rằng, khi đọc cuốn sách của ông, Prim sẽ dành cho ông sự công nhận mà ông cảm thấy mình xứng đáng được nhận. Đáng tiếc thay, Prim đã bị ám sát chỉ vài tháng sau khi cuốn sách được xuất bản, và cũng giống như số phận của biết bao người Tây Ban Nha khác, rất có thể ông đã không bao giờ đọc được tác phẩm của Palanca, cũng như không hiểu được trọn vẹn đâu là vinh quang và đâu là thất bại của Chiến dịch tại Đàng Trong.
Cũng như chiến công được thuật lại, cả hai biên niên sử – của Gáinza và của Palanca – đều bị chôn vùi trong quên lãng. Tuy nhiên, chúng là những minh chứng cho những hơi thở cuối cùng của thể loại tường thuật này, vốn đã đạt đến đỉnh cao vào thế kỷ XVI, vẫn còn tồn tại trong suốt thời kỳ Tây Ban Nha theo đuổi chính sách mở rộng thuộc địa, và dù không từ bỏ những kỹ thuật kể chuyện dùng để chuyển tải các thông điệp ngầm, rốt cuộc lại đi đến việc chất vấn những tham vọng chính trị ẩn sau chủ nghĩa đế quốc. Vì thế, hai biên niên sử này – nếu được xuất bản cùng thời ở một quốc gia châu Âu khác – có thể đã trở thành bằng chứng rõ ràng cho khát vọng bành trướng của dân tộc đã sản sinh ra chúng; nhưng trong trường hợp của chúng ta, chúng lại bộc lộ sự kiệt quệ của chính sách đế quốc của Tây Ban Nha, cũng như sự vỡ mộng và thái độ chỉ trích từ phía những người buộc phải tham gia vào những cuộc chiến xa xôi, vô nghĩa. Qua đó, các văn bản của Gáinza và Palanca cho thấy cách mà các biên niên sử đã chuyển mình: từ việc tôn vinh những cuộc chinh phục thuộc địa của một quốc gia từng được xem là bất khả chiến bại, đến việc trở thành lời phê phán tỉnh táo đối với chính sách thuộc địa của Tây Ban Nha và những quyết định đến từ một nền quân chủ suy tàn, vốn dễ bị các quốc gia khác thao túng, đến mức quên cả lợi ích của chính mình lẫn lợi ích của thần dân mình.
Tài liệu Tham khảo
Gáinza Escobar, F. (1991). La campaña de Cochinchina (Chiến dịch tại Đàng Trong). Málaga: Editorial Algazara.
“historia.” Định nghĩa. (1992). Diccionario de la lengua española (Từ điển tiếng Tây Ban Nha). Real Academia Española, ấn bản lần thứ 21. Madrid: Espasa Calpe.
Irwin, R. (2007). For Lust of Knowing. The Orientalists and Their Enemies (Vì đam mê tri thức. Các nhà Đông phương học và những người chống đối họ). London: Penguin.
Mañes Postigo, J. (2006). Sueños de conquista. Españoles en Saigón (Giấc mộng chinh phục. Người Tây Ban Nha ở Sài Gòn). Huelva: Hergué Impresores.
Mas, S. de. (1858). L’Angleterre, la Chine et l’Inde (Nước Anh, Trung Hoa và Ấn Độ). Paris: Tardieu.
Mignolo, W. (1982). Historia de la literatura hispanoamericana. Tomo I. Época colonial (Lịch sử văn học Tây Ban Nha châu Mỹ. Tập I. Thời kỳ thuộc địa). Madrid: Cátedra.
Palanca Gutiérrez, C. (1869). Reseña histórica de la expedición a Cochinchina dedicada al Ejército (Tường thuật lịch sử về chiến dịch tại Đàng Trong dâng tặng Quân đội). Cartagena: Imprenta y Litografía de Liberato Montells.
Rivas, M. J. de las. (1859). Idea sobre el Imperio de Annam o de los reinos unidos del Tunquín y Cochinchina (Ý tưởng về Đế quốc An Nam hay các vương quốc thống nhất của Đàng Ngoài và Đàng Trong). Madrid: Imprenta y Librería de E. Eusebio Aguado.
Said, E. (2003). Orientalismo (Chủ nghĩa Đông phương). Dịch: María Luisa Fuentes. Lời tựa: Juan Goytisolo. Barcelona: De Bolsillo.
Sintes, L. A. (2006). La guerra de la Cochinchina. Cuando los españoles conquistaron Vietnam (Cuộc chiến tại Đàng Trong. Khi người Tây Ban Nha chinh phục Việt Nam). Barcelona: Edhasa.
Villarroel, F. (1972). Cruzada española en Vietnam. Campaña de Cochinchina (Cuộc thập tự chinh của Tây Ban Nha tại Việt Nam. Chiến dịch tại Đàng Trong). Madrid: Consejo Superior de Investigaciones Científicas.
[1] Trong lời tựa cuốn Cuộc Thập Tự Chinh của Tây Ban Nha tại Việt Nam (Cruzada española en Vietnam), Villarroel cố gắng biện minh cho tính phù hợp của thuật ngữ “thập tự chinh” khi dùng để chỉ sự kiện quân sự này, nhưng không mấy thuyết phục (Villarroel 1972: xvi).
[2] Pháp đã đề nghị Tây Ban Nha hợp tác để cử một đoàn viễn chinh nhằm chấm dứt các vụ sát hại và tra tấn người Công giáo tại Đàng Ngoài. Tuy nhiên, mục tiêu thực sự của chính phủ Pháp lại vượt xa điều đó. Trước việc Anh quốc ngày càng củng cố vị thế tại Trung Hoa nhờ các cuộc Chiến tranh Nha phiến và các hiệp ước tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại với Đế quốc Trung Hoa, Pháp cho rằng việc khẳng định sự hiện diện của mình tại biển Hoa Nam là hoàn toàn cần thiết. Do đó, chiến dịch này thực chất chỉ là một cái cớ để tuyên chiến với vương quốc An Nam và mở đầu cho một cuộc chiếm đóng quân sự mà, khi kết thúc vào năm 1893, sẽ để lại dưới quyền kiểm soát của Pháp toàn bộ lãnh thổ bao gồm Việt Nam, Campuchia và Lào — tức là khu vực sau này được gọi là Đông Dương thuộc Pháp (Indochina francesa).
[3] Gần đây đã có một số tác phẩm được xuất bản liên quan đến sự kiện quân sự này, chẳng hạn như tiểu thuyết lịch sử Giấc mộng chinh phục: Người Tây Ban Nha tại Sài Gòn (Sueños de conquista. Españoles en Saigón, 2006) của Joaquín Mañes Postigo và Cuộc chiến Đàng Trong: Khi người Tây Ban Nha chinh phục Việt Nam (La guerra de la Cochinchina. Cuando los españoles conquistaron Vietnam, 2006) của Luis Alejandre Sintes.
[4] Kỹ thuật kể chuyện của Gáinza mang tính hiện đại một cách rõ rệt. Một mặt, ông quay về với một tiểu thể loại thời Trung Cổ — các cuộc tranh luận tôn giáo — nhưng mặt khác, ông đưa vào trong văn bản của mình cả một loạt các bài báo đương thời và đặt chúng vào thế đối thoại với các lá thư do các tu sĩ viết, nhờ đó bản tường thuật của ông đạt được sự đối thoại sinh động tương tự như ta có thể tìm thấy trong một cuốn tiểu thuyết.
[5] Hiệp ước Whampoa là kết quả từ sứ vụ của Théodore de Lagrenée, người đã đàm phán để Pháp có được những điều kiện thương mại tương tự như những gì Anh quốc đạt được qua Hiệp ước Nam Kinh (1842), sau khi đánh bại Trung Hoa trong Cuộc Chiến Nha phiến lần thứ nhất (1839–1842). Ngoài ra, Lagrenée còn giành được sự công nhận cho Pháp trong vai trò là nước bảo trợ cho người Công giáo tại Trung Hoa, đồng thời thúc đẩy việc hợp pháp hóa đạo Kitô. Vì vậy, vụ xử tử linh mục Auguste Chapdelaine năm 1856 đã được Pháp dùng làm cái cớ để liên minh với Anh quốc tham gia vào Cuộc Chiến Nha phiến lần thứ hai (1856–1860).