Mục tiêu Tehran (Bài 2)

Cách thức Mossad sử dụng phá hoại, chiến tranh mạng, ám sát – và ngoại giao mật – để ngăn chặn một Iran có vũ khí hạt nhân và sắp xếp lại Trung Đông

Yonan Jeremy Bob, Ilan Eyatar

Trần Quang Nghĩa dịch

Chương 2

SỰ CAN THIỆP CỦA THẦN THÁNH

“KHOMEINI! ARAFAT!” VÀ SAU ĐÓ LẠI LẦN NỮA, “Khomeini! Arafat!” đám đông la hét. Vào tháng 2 năm 1979, Cách mạng Hồi giáo vừa lật đổ chế độ của Mohammed Reza Pahlavi, vị Shah của Iran, qua đó thay đổi hoàn toàn cán cân quyền lực ở Trung Đông. Yasir Arafat, lãnh đạo của Tổ chức Giải phóng Palestine, là nhà lãnh đạo nước ngoài đầu tiên có mặt ở đó và đã lợi dụng sự hiện diện của mình để thể hiện sự đoàn kết chiến thắng với chế độ mới.

Mặc chiếc khăn keffiyeh kẻ caro đen trắng và áo khoác chiến đấu kaki thông thường, Arafat đứng trên ban công nhìn xuống một con phố rợp bóng cây ở trung tâm Tehran. Bên cạnh ông là lá cờ Palestine; dòng chữ “Viva PLO” được viết bằng chữ graffiti màu đỏ trên tường của tòa nhà, nơi mà chỉ vài ngày trước, từng là đại sứ quán của Nhà nước Israel tại Đế quốc Iran. “Hôm nay là Iran, ngày mai là Palestine”, Arafat tuyên bố khi đám đông bên dưới hô vang khẩu hiệu ủng hộ.

Thật khó để đánh giá quá cao tầm quan trọng của sự kiện này đối với Israel. Iran, vốn là đồng minh đáng tin cậy của Hoa Kỳ và Israel, giờ đây đã  trở thành Cộng hòa Hồi giáo Iran, do Ayatollah Ruhollah Khomeini cai trị, một giáo sĩ khắc khổ với hệ tư tưởng chống phương Tây và chống Israel dữ dội. Đột nhiên, đất nước 80 triệu dân với nguồn tài nguyên thiên nhiên khổng lồ này tuyên bố Hoa Kỳ là “Đại Satan” và Israel là “Tiểu Satan”, một “hạt nhân của cái ác” được đánh dấu để hủy diệt. Không thể có biểu tượng nào rõ ràng về sự thù địch của chế độ mới đối với Israel hơn là việc Arafat nhận được sự hoan nghênh của đám đông tại nơi từng là đại sứ quán của Israel. Nhưng để làm cho thông điệp rõ ràng hơn, bản thân Khomeini đã công khai hứa với nhà lãnh đạo của sự nghiệp Palestine rằng sau khi củng cố sức mạnh của mình, Cộng hòa Hồi giáo sẽ “chuyển sang vấn đề đánh bại Israel.”

Và từ đó, một cuộc chiến kéo dài hơn bốn thập kỷ đã bắt đầu.

Trong khoảng thời gian dài đó Iran tiếp tục tài trợ cho các cuộc tấn công khủng bố chống lại Israel, sử dụng các điệp viên của mình để tấn công các tài sản của Israel ở nước ngoài và cung cấp vũ khí và tiền bạc cho các nhóm đại diện ở biên giới Israel, cụ thể là Hezbollah ở Lebanon và Hamas và Jihad Hồi giáo ở Gaza. Sau cuộc nội chiến Syria, họ cũng thiết lập sự hiện diện quân sự ở đó. Tất cả những điều này đều đe dọa Israel, nhưng hành động đáng lo ngại nhất về mặt sinh tồn của Iran xảy ra sau cái chết của Khomeini vào năm 1989, khi Iran bắt đầu đầu tư khổng lồ nhằm chế tạo vũ khí hạt nhân, như họ đã nói, “để xóa sổ Israel khỏi dòng chảy của thời gian”.

Có lẽ thật trớ trêu, chừng nào Khomeini còn sống, Iran còn chống lại sự cám dỗ phát triển vũ khí hạt nhân, phần lớn là do niềm tin của Lãnh tụ Tối cao, như ông đã nói với những người theo mình, rằng vũ khí hủy diệt hàng loạt là “không phù hợp với Hồi giáo”. Từ năm 1980 đến năm 1988, Iran đã tiến hành một cuộc chiến tranh tàn khốc chống lại Iraq, nơi mà nhà lãnh đạo của họ, Saddam Hussein, đã sử dụng những vũ khí như vậy. Trong cuộc xung đột đó, Mohsen Rafigdhoost, bộ trưởng phụ trách Lực lượng Vệ binh Cách mạng Hồi giáo Iran và là viên chức khởi xướng cả chương trình tên lửa đạn đạo của Iran và việc thành lập Hezbollah, được cho là đã nói với Khomeini rằng ông có kế hoạch phát triển vũ khí hạt nhân. Khomeini đã phản đối. Khi Rafigdhoost thực hiện một nỗ lực khác để thuyết phục Khomeini cho phép vũ khí hủy diệt hàng loạt sau một cuộc tấn công bằng vũ khí hóa học của Iraq, ông lại được thông báo rằng những vũ khí như vậy là haram, bị cấm.

Rafigdhoost diễn giải điều này như một fatwa – một sắc lệnh tôn giáo – chống lại vũ khí hủy diệt hàng loạt. Nhưng trong khi sự kiềm chế của Khomeini thường được coi là dấu hiệu của thái độ ôn hòa từ phía ông, thì thực tế đó là một cân nhắc chiến thuật. Khomeini muốn trước tiên, như ông đã nói với Arafat, củng cố quyền lực của chế độ Hồi giáo và chỉ sau đó mới tạo ra phương tiện để xuất khẩu cuộc cách mạng và thể hiện sức mạnh vượt ra ngoài Iran. Ông lo ngại rằng việc phát triển vũ khí hạt nhân quá sớm sẽ gây nguy hiểm cho Iran vào thời điểm nước này dễ bị tấn công và đã vướng vào cuộc chiến với Iraq.

Người kế nhiệm Khomeini, Ayatollah Ali Khamenei, không hề có sự hối hận như vậy. Trong thời gian vị Shah, hiện đã bị phế truất, cai trị Iran, nước này đã bắt đầu một chương trình hạt nhân dân sự có sự hỗ trợ ngầm của Israel. Bây giờ, Khamenei ra lệnh bắt đầu nâng cấp chương trình đó thành chương trình hướng đến năng lực hạt nhân quân sự. Thật khó hiểu khi Khamenei cũng ban hành một sắc lệnh chống lại việc sản xuất hoặc sử dụng bất kỳ loại vũ khí hủy diệt hàng loạt nào. Nhưng Harold Rhode, một cựu chuyên gia phân tích tình báo người Mỹ và chuyên gia Trung Đông đã dành nhiều năm ở Iran, đã giải thích sự khác biệt rõ ràng này. Ông cho biết, thậm chí còn hơn cả một số nền văn hóa khác, nền văn hóa Ba Tư đã “hoàn thiện nghệ thuật lừa dối”; một thuật ngữ Ba Tư cổ đại ketman, dịch nôm na là  sự che giấu và ngụy trang những suy nghĩ thực sự của một người. Ông nói rằng người Iran không coi trọng lời nói và nên được đánh giá dựa trên hành động, điều mà ông nói thêm là thường bị các nhà đàm phán phương Tây hiểu lầm.

Việc Cộng hòa Hồi giáo có được vũ khí hạt nhân là một khả năng gây ác mộng mà Israel không thể cho phép, và vào giữa những năm 1990, các nhà lãnh đạo của nước này đã cảnh báo rằng hành động quân sự sẽ được thực hiện nếu chương trình hạt nhân của Iran không dừng lại. Họ và các cơ quan tình báo phương Tây biết rằng Iran đang mua kiến ​​thức hạt nhân từ cha đẻ của chương trình vũ khí hạt nhân của Pakistan, A. Q. Khan, người điều hành một doanh nghiệp phụ bất hợp pháp bán công nghệ và bí quyết cho các quốc gia khác. Bắc Triều Tiên và Iran đã trả cho ông ta hàng chục triệu đô la để có được kiến ​​thức đó. Giám đốc Mossad lúc đó, Shabtai Shavit, sau đó thừa nhận rằng cơ quan này đã không giải thích đúng hành động của Khan và nếu biết Khan đang làm gì, Mossad đã giết ông ta rồi.

Sau đó, tình báo Israel cũng phát hiện ra rằng người Iran đang thiết lập một cơ sở làm giàu hạt nhân tại Natanz – một địa điểm nằm sâu trong lòng sa mạc ở tỉnh Isfahan mà Israel sẽ tiếp tục nhắm tới nhiều lần. Năm 1996, hai điệp viên Mossad đã vào Iran với tư cách là khách du lịch và đã mang về được các mẫu đất cho thấy dấu vết của hoạt động hạt nhân.

Ngày 14 tháng 8 năm 2002, Hội đồng Kháng chiến Quốc gia Iran (NCRI) – bộ phận ngoại giao của MEK (Thánh Chiến Nhân dân Iran) – công khai tiết lộ hai  phát triển quan trọng: một,  một nhà máy nước nặng đã đi vào hoạt động tại Arak ở đông bắc Iran, và hai, tại Natanz, Cộng hòa Hồi giáo đã xây dựng một nhà máy sâu tám mét dưới lòng đất với hai mái bê tông dày một mét rưỡi để bảo vệ nó từ bất kỳ cuộc tấn công quân sự nào có thể xảy ra. Ở đó có những loạt máy ly tâm đang trong quá trình sản xuất urani làm giàu thấp, một bước đầu trong quá trình sản xuất nhiên liệu cần thiết cho một quả bom.

Phát hiện này đã thúc đẩy Israel bước vào một giai đoạn mới, mạnh mẽ hơn trong nỗ lực phá hoại chương trình hạt nhân của Iran. Chỉ hai tuần trước sự kiện tiết lộ công khai của NCRI, Thủ tướng Ariel Sharon, vị chỉ huy quân sự huyền thoại, người đã thành lập Lực lượng Đặc nhiệm và các đơn vị biệt kích của Israel, trong nhiều hoạt động khác, đã bổ nhiệm Meir Dagan làm người đứng đầu Mossad.

Sharon đã lên nắm quyền khoảng mười tám tháng trước đó trong bối cảnh hỗn loạn đẫm máu của cuộc nổi dậy của người Palestine được gọi là Intifada lần thứ hai, và ông tin rằng Israel đã quá thận trọng trong phản ứng của mình đối với các mối đe dọa mà họ phải đối mặt. Cụ thể là đối với Iran, ông muốn nhiều hơn chứ không chỉ thông tin tình báo về chương trình hạt nhân của nước này; ông muốn hành động. Vào thời điểm đó, Mossad do Efraim Halevy đứng đầu, người mà Sharon cho là quá lý trí, giống một nhà ngoại giao hơn là một người điều hành.

Không phải là Halevy không có hành động nào, mặc dù đúng là vào thời điểm đó ông quan tâm nhiều hơn đến chủ nghĩa khủng bố do Iran hậu thuẫn chống lại Israel hơn là vấn đề hạt nhân. Ngoài ra, chiến lược của ông, theo cách nói ẩn dụ phổ biến ở Israel, là cắt đứt xúc tu của con bạch tuộc thay vì nhắm vào đầu. Tuy nhiên, ông đã thực hiện các bước nhằm chống lại chương trình vũ khí hạt nhân của Iran. Năm 2002, dưới sự lãnh đạo của Halevy, Mossad đã gửi một lá thư cho một công dân Đức, Gotthard Lerch, người đang làm việc cho mạng lưới Khan cung cấp bản thiết kế máy ly tâm cho Iran. Lá thư cảnh báo Lerch về “hậu quả nghiêm trọng” nếu ông giao bản thiết kế cho người Iran. Bản thiết kế đã không được giao. Trong một trường hợp khác dưới sự giám sát của Halevy, một đại tá Iran, Ali Mahmoudi Mimand, một kỹ sư cao cấp trong chương trình tên lửa đạn đạo của Iran, được tìm thấy đã chết trong văn phòng của mình do một phát súng bắn vào đầu. Không có thông tin chi tiết nào được công bố và không có chính phủ hay nhóm nào chịu trách nhiệm. Nhưng hoạt động này từ lâu đã được cho là một vụ ám sát có mục tiêu do Mossad thực hiện, sau đó là nhiều vụ khác.

Tuy nhiên, Sharon muốn một nhà lãnh đạo Mossad giống hình ảnh của mình hơn, một người mang “con dao găm giữa hai hàm răng”, và giống như chính Sharon, người táo bạo trong suy nghĩ và háo hức sử dụng Mossad cho các hoạt động thực tế, không chỉ để thu thập thông tin tình báo. Dagan là người của ông. Sinh năm 1945 tại Liên Xô, nơi cha mẹ ông đã rời Ba Lan để chạy trốn Đức Quốc xã, Dagan đến Israel khi mới năm tuổi. Anh phục vụ trong lữ đoàn dù của IDF. Năm 1970, Sharon, khi đó là người đứng đầu Bộ Tư lệnh miền Nam, đã tuyển dụng anh để chỉ huy một đơn vị chống khủng bố mới, Sayeret Rimon, có nhiệm vụ phá vỡ cơ sở hạ tầng khủng bố của người Palestine ở Dải Gaza. Dagan sớm trở nên nổi tiếng với những phương pháp không chính thống và lòng dũng cảm của mình – anh đã được trao tặng huy chương dũng cảm vì đã tước vũ khí của một tên khủng bố đang cầm một quả lựu đạn chưa nổ. “Chuyên môn của Dagan là tách lìa người Ả Rập ra khỏi đầu của hắn”, Sharon, vốn không phải là người nói bóng gió, đã nói như thế.

Dagan sẽ ở lại quân đội trong 32 năm, lên đến cấp bậc thiếu tướng, trước khi nghỉ hưu vào năm 1995. Ông đã nghỉ một thời gian để thực hiện chuyến đi vòng quanh thế giới bằng xe jeep với người bạn lâu năm Yossi Ben Hanan, một thành viên tốt nghiệp lữ đoàn dù. Sau đó, ông làm cố vấn chống khủng bố cho Benjamin Netanyahu, trước khi cầm đầu chiến dịch tranh cử thắng lợi của Sharon và phục vụ trong vai trò cố vấn an ninh quốc gia của ông. Cuối cùng, Sharon đã đưa ông trở thành giám đốc của Mossad vào năm 2002.

Giám đốc Mossad Meir Dagan

Dagan là một người đàn ông của sự tương phản: Ông vừa là một chiến binh vừa là một trí thức. Ông có thể trích dẫn thơ Pháp, thích nghe Bach, và là một họa sĩ tài năng với những chủ đề đầy màu sắc thường xuất phát từ cánh đồng – một người Ả Rập và con ngựa của y, một cây ô liu, một ông già đang xâu chuỗi hạt, một con ngựa và một chiếc xe kéo. Những bức tranh vay mượn rất nhiều từ Vùng đất mang phong cách Israel của các họa sĩ như Reuven Rubin và Nachum Gutman. Nhưng ông cũng là một sĩ quan thô lỗ và trơ tráo, và theo nhiều cách, mặc dù không sinh ra ở Israel, ông là một sabra tinh túy  (người Israel bản địa) – một quả lê gai, cứng bên ngoài như lớp vỏ gai của quả và mềm bên trong như phần thịt ngọt của nó.

Cựu phó giám đốc CIA Michael Morell mô tả Dagan là “một người mà bạn không muốn tham gia vào một cuộc ẩu đả đường phố, nhưng cũng là người mà bạn không muốn chơi cờ vua cùng”.

Leon Panetta, giám đốc CIA trong hai năm cuối nhiệm kỳ của Dagan với tư cách là người đứng đầu Mossad, đã nhớ lại trong hồi ký của mình lời khuyên rùng rợn mà ông nhận được từ Dagan trong chuyến thăm Tel Aviv: “Chúng ta phải đối phó với Al Qaeda hàng ngày”, Panetta nói với ông ấy và sau đó hỏi, “Ông sẽ làm gì?” Dagan không do dự. “Tôi sẽ giết họ”, ông nói. “Và sau đó tôi sẽ giết hết gia đình họ”.

Ngăn chặn Iran có được khả năng vũ khí hạt nhân nhanh chóng đứng đầu chương trình nghị sự của Dagan. Ông đưa ra một chiến lược năm trụ cột: áp lực chính trị, các biện pháp bí mật, chống phổ biến bí quyết công nghệ, trừng phạt tài chính và thay đổi chế độ. Nhưng đó không phải là tất cả. “Năm trụ cột” của ông cũng dựa trên sự hiểu biết rằng Israel không thể tự mình hành động và phải tăng cường hợp tác về hồ sơ Iran với CIA và các cơ quan tình báo phương Tây khác để kiềm chế tham vọng hạt nhân của Iran. Dagan đã làm việc chăm chỉ để thúc đẩy các mối quan hệ như vậy. Những nỗ lực đó sẽ lên đến đỉnh điểm trong một cuộc tấn công mạng tinh vi vào Iran trong một hoạt động chung với CIA và những người khác đã được phát hiện vào năm 2010. Dagan đã đi xa hơn nữa. Ông đã vun đắp mối quan hệ với Azerbaijan, một quốc gia nói tiếng Thổ Nhĩ Kỳ, như chúng ta đã thấy, có chung đường biên giới dài với Iran, nơi có dân số khoảng một phần tư là người Azeri. Việc cử các điệp viên Israel vào Iran rất phức tạp và nguy hiểm, nhưng một người Azeri ở Iran không bao giờ là không phù hợp. Israel đã bán cho quốc gia Azeri giàu dầu mỏ hàng tỷ đô la thiết bị quân sự tiên tiến, điều này giúp họ có thể tự do làm bất cứ điều gì mình muốn dọc theo biên giới. Tại sao người Azeri, những người cũng theo đạo Shiite và tự coi mình là người Ba Tư nguyên thủy, đồng ý một thỏa thuận như vậy? Rhode, cựu chuyên gia phân tích tình báo, giải thích: người Azeri sợ rằng Iran muốn gieo rắc sự bất mãn ở Azerbaijan như một cách để họ sẽ giữ yên Iran. “Mọi thứ ở Iran,” ông nói, “là một ván cờ ba chiều.”

Vào đầu nhiệm kỳ của Dagan, khi ông xây dựng đội ngũ nhân viên, lựa chọn người của mình và chuẩn bị năng lực tình báo và công nghệ để có thể thâm nhập vào Iran, Mossad tập trung vào các cuộc tấn công chuỗi cung ứng, nghĩa là phá hoại hoặc đặt bẫy vật liệu dành cho các cơ sở hạt nhân của mình. Người Iran, vì lý do tự hào hoặc an ninh, thường không công bố hoặc thậm chí thừa nhận các vụ phá hoại như vậy, và Dagan đảm bảo không có thông tin nào bị rò rỉ từ phía Israel. Nhưng theo lời một cựu sĩ quan quân đội cấp cao, “Từ năm 2003, họ đã có rất nhiều hoạt động làm mọi thứ nổ tung”.

Chiến thuật của Mossad dựa trên nhu cầu của người Iran là giữ bí mật chương trình hạt nhân của họ, điều này thường buộc họ phải mua các bộ phận và thiết bị trên thị trường chợ đen. Điều này tạo cho người Israel một cơ hội duy nhất để phá hoại chuỗi cung ứng. Mossad và các cơ quan tình báo phương Tây khác đã thiết lập một mạng lưới các công ty được thiết kế để bán các bộ phận bị lỗi hoặc bị nhiễm độc cho người Iran, và do đó “đầu độc” các mạng lưới nguyên tử của họ.

Chúng tôi được các nguồn tin cấp cao cho biết Mossad hoạt động trên phạm vi toàn cầu, bất cứ nơi nào có người Iran đang tìm kiếm tài nguyên và công nghệ không có ở Iran. “Chúng tôi đã theo dõi nơi họ  mua và xem xét cách thức phá hoại những gì họ đang mua mà thậm chí họ không thể biết mình đã bị đánh khi thiết bị họ không hoạt động. Chúng tôi đã tấn công chuỗi cung ứng của họ trên khắp thế giới,” Ehud Olmert, khi đó là một thành viên nội các cấp cao của Sharon và sau này là thủ tướng, đã nói với chúng tôi. “Các đặc vụ Israel len lỏi khắp mọi nơi bao gồm cả trong Iran để tìm hiểu những gì người Iran đang làm,” ông ấy tiếp tục. “Nếu họ xây dựng một nhà máy, Mossad sẽ tìm hiểu cách nó được xây dựng, cách xác định điểm yếu của nó và nơi nó có thể bị đánh. Chúng tôi đã tiến hành rất nhiều các hoạt động như thế và chúng tôi đã đạt được mức độ hiểu biết rất chi tiết.”

Sau vụ tiết lộ năm 2002 về địa điểm hạt nhân Natanz và nhiều năm chuẩn bị, vụ tấn công phá hoại đầu tiên được biết đến trên đất Iran đã xảy ra vào tháng 4 năm 2006 trong nỗ lực ban đầu của Iran nhằm làm giàu uranium tại Natanz. Hai máy biến áp điện, mà sau đó chính quyền Iran cho biết đã bị thao túng, đã phát nổ, phá hủy khoảng năm mươi máy ly tâm. Người ta tin rằng các máy ly tâm này được cung cấp bởi ba kỹ sư người Thụy Sĩ, một phần trong đường dây buôn lậu hạt nhân của A. Q. Khan – nhưng đã được CIA tuyển dụng. Vụ tấn công đã đẩy lùi việc mở nhà máy Natanz trong vài tháng.

Mặt bí mật trong chiến lược của Dagan, theo tinh thần của cách tiếp cận “năm trụ cột” của ông, có tính đa diện cao, bao gồm cả các cuộc tấn công quy mô lớn nhằm mục đích phá hủy thiết bị, nhưng cũng tập trung hẹp vào các nhân vật Iran chủ chốt và những cá nhân khác, những người đã bị giết trong một loạt các vụ ám sát có mục tiêu. Logic đằng sau những hoạt động gây tranh cãi này có hai mặt: một là tạo ra tình huống mà Iran sẽ mất đi kiến ​​thức hạt nhân mà, như Dagan đã nói trong cuộc phỏng vấn sau đó của chúng tôi với ông, “nằm trong não của con người”, và hai là ngăn chặn các nhà khoa học tham gia vào chương trình hạt nhân ngay từ đầu.

“Đánh vào hoạt động của một máy ly tâm, và họ sẽ sớm tìm thấy những máy ly tâm khác”, Dagan nói với chúng tôi. “Nhưng nhắm vào một chuyên gia hạt nhân – và bạn đã phá hủy kiến ​​thức khổng lồ có được thông qua công sức, thời gian và tiền bạc. Sẽ mất nhiều thời gian để xây dựng lại.”

Phó của Dagan, cựu biệt kích Tamir Pardo tóc bạc, hút thuốc liên tục, sau này trở thành người kế nhiệm ông, đã xây dựng kế hoạch tác chiến nhằm vào các nhà khoa học hạt nhân của Iran. Nhưng trong khi các phương tiện truyền thông quốc tế chỉ trích Mossad về một số vụ giết người, Mossad dưới sự lãnh đạo của Dagan chưa bao giờ thừa nhận bất kỳ vụ tấn công nào được cho là do họ gây ra.

Thay vào đó, Dagan sẽ kể với người bạn tâm giao với một cái nháy mắt rằng ám sát và các hoạt động bí mật khác là “sự can thiệp thần thánh”, mà ông ấy tin chắc sẽ liên tục trì hoãn kế hoạch của các giáo sĩ đạo Hồi nhằm phát triển bom hạt nhân.

“Sự can thiệp thần thánh” đầu tiên xảy ra vào giữa tháng 1 năm 2007. Tiến sĩ Ardeshir Hosseinpour là một chuyên gia về điện từ học, làm việc trong khâu làm giàu uranium. Ông cũng được cho là đã được Ayatollah Khamenei đích thân tuyển dụng, cho đến khi ông được phát hiện đã chết trong căn hộ của mình ở tầng ba của một tòa nhà trên phố Saheli ở Shiraz, tây bắc Iran. Tin tức về sự ra đi của ông chỉ được công bố vài ngày sau khi thi thể của ông được tìm thấy. Mặc dù cái chết chính thức của Hosseinpour được cho là do ngạt khí rò rỉ, các nguồn tin tình báo phương Tây đã chỉ trích Mossad. Nhóm tình báo tư nhân Stratfor cho biết ông đã chết vì ngộ độc phóng xạ và Mossad phải chịu trách nhiệm.

Người tiếp theo là Masoud Ali Mohammadi, một giáo sư vật lý neutron 50 tuổi tại Đại học Tehran, người đã làm việc với Mohsen Fakhrizadeh. Vào ngày 12 tháng 1 năm 2010, ngay sau 7:00 sáng, ông đã thiệt mạng khi một chiếc xe máy có gắn bom phát nổ ngay lúc ông mở cửa gara dưới nhà mình ở quận Qetariyah, phía bắc Tehran. Ông chuẩn bị rời đi đến trường đại học để thuyết trình, như ông vẫn làm vào mỗi thứ ba cùng một thời điểm.

Vụ nổ mạnh đến mức làm vỡ cửa sổ ở những tòa nhà gần đó và khiến hàng xóm lúc đầu cho rằng đã xảy ra động đất.

Iran phủ nhận, như họ vẫn thường làm, rằng nhà khoa học bị nhắm tới có liên quan đến chương trình hạt nhân của nước này, nói rằng ông chỉ là một học giả bình thường.

Tuy nhiên, sau đó, Iran đã bắt giữ, buộc tội và treo cổ một công dân Iran, Majid Jamali Fashi, một cựu võ sĩ kickboxing quốc tế 24 tuổi, được cho là đã thực hiện vụ ám sát thay mặt cho Mossad. Trong một lời thú tội trên truyền hình, Jamali Fashi cho biết anh ta đã được tuyển dụng ở Istanbul, được trang bị một máy tính xách tay được mã hóa để truyền thông tin về các địa điểm quân sự của Iran mà anh ta đã thu thập thông tin tình báo, và sau đó anh ta bay đến Azerbaijan, nơi anh ta được đưa đến Tel Aviv để huấn luyện vũ khí.

“Họ đã đào tạo cho tôi trong chuyến đi đó như kỹ thuật đuổi theo và thoát  chạy, rượt đuổi bằng xe, thu thập thông tin về một địa điểm cụ thể, và đặt bom dưới gầm xe ô tô,” Jamali Fashi đã khai như vậy trong lời thú tội của mình. Y cũng tuyên bố rằng trong chuyến thăm đó, những người điều khiển đã giao cho y nhiệm vụ nhắm vào Mohammadi và rằng y đã được huấn luyện cho nhiệm vụ này trên mô hình ngôi nhà của vị giáo sư.

Vào cuối năm đó, vào ngày 29 tháng 11 – tình cờ cùng ngày mà Pardo được công bố là người kế nhiệm Dagan – Giáo sư Majid Shahriari, một nhà vật lý hạt cơ bản và là thành viên của khoa kỹ thuật hạt nhân tại Đại học Shahid Beheshti ở Tehran, đã thiệt mạng trong một vụ nổ khi ông lái xe qua dòng xe cộ đông đúc dọc theo xa lộ Imam Ali trên đường đi làm. Vợ và tài xế của ông đã bị thương trong vụ tấn công do một nhóm sát thủ đi xe máy thực hiện – họ đã gắn một quả bom từ tính vào chiếc Peugeot 206 của ông. Shahriari được cho là đã làm việc chặt chẽ với nhóm vũ khí do IRGC điều hành về việc phát triển đầu đạn hạt nhân. Lần này, Iran thừa nhận cái chết của một nhà khoa học hạt nhân, cáo buộc Mossad thực hiện vụ tấn công cùng với Hoa Kỳ.

Một cuộc tấn công khác, lần này không thành công, đã được thực hiện khoảng 20 phút sau đó, sử dụng chính xác cùng một phương pháp. Mục tiêu cũng là một thành viên của khoa tại Đại học Beheshti, Tiến sĩ Fereydoun Abbasi-Davani, một trợ lý giáo sư về kỹ thuật hạt nhân, người đã từng là thành viên của cùng nhóm với Fakhrizadeh và Mohammadi. Vụ tấn công cố gắng diễn ra tại một quảng trường gần trường đại học ở quận Velenjak giàu có của Tehran ở phía bắc thành phố. Các nhân chứng cho biết Abbasi-Davani đã dừng xe lại và cùng với vợ mình chui ra khỏi xe chỉ vài giây trước khi chiếc xe phát nổ.

Cả hai đều bị thương nhẹ. Abbasi-Davani, một thành viên của Lực lượng Vệ binh Cách mạng đã phục vụ trong Chiến tranh Iran-Iraq, đã bị trừng phạt vào năm 2007 theo Nghị quyết 1747 của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc với tư cách là một người “có liên quan đến các hoạt động tên lửa đạn đạo hoặc hạt nhân”. Ông sẽ tiếp tục là một lực lượng chính trong chương trình hạt nhân của Iran. Iran cáo buộc Mossad và Hoa Kỳ về vụ ám sát bất thành.

Sau đó, có nhiều vụ nổ và “tai nạn” bí ẩn khác.

Một số trong những sự cố này liên quan đến hành động của Israel chống lại một hợp tác bất ổn Iran-Syria-Bắc Triều Tiên. Quay trở lại năm 2007, đã có sự mất tích của Tướng Iran IRGC Ali-Reza Asgari, ông mất tích trong thời gian lưu trú tại Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ. Iran cáo buộc Israel “làm mất tích” Asgari, nhưng thực tế, ông là một kẻ đào thoát được đưa đến Hoa Kỳ, nơi ông được CIA thẩm vấn và cấp một danh tính mới. Ông đã tiết lộ thông tin quan trọng về chương trình hạt nhân của Iran và thông tin đã được chuyển tiếp cho Mossad, cơ quan đã theo dõi ông trong nhiều năm và đóng vai trò trong vụ đào thoát của ông.

Trong số những tiết lộ của Asgari có việc Iran đang tài trợ cho việc xây dựng một lò phản ứng hạt nhân bí mật đang được xây dựng tại Al-Kibar ở đông bắc Syria cùng với bí quyết của Triều Tiên. Lò phản ứng, một bản sao của cơ sở Yongbyon ở Bắc Triều Tiên, được dự định là lò phản ứng dự phòng cho lò phản ứng nước nặng của Iran đang được xây dựng tại Arak vào thời điểm đó. Các lò phản ứng nước nặng sản xuất plutonium, một vật liệu thay thế cho bom hạt nhân, mà Iran muốn có nếu họ không chế tạo được bom có ​​uranium làm giàu. Người Syria hy vọng sẽ nhận được một quả bom để đổi lấy sự tham gia của họ vào chương trình này.

Kiến thức của Asgari về cơ sở có hạn chế, nhưng Mossad đã theo dõi dựa trên những gì ông ấy đã cung cấp và đã chứng minh rằng lò phản ứng nước nặng thực sự đã hoạt động và nó sắp trở nên “nóng”. Bằng chứng đó đã thu được, theo The New Yorker, khi một nhóm điệp viên đã đột nhập vào phòng khách sạn Vienna của người đứng đầu Ủy ban Năng lượng Nguyên tử Syria, Ibrahim Othman, và tải xuống nội dung trong máy tính xách tay của ông khi ông đang họp tại Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế.

“Chúng tôi đã theo dõi ông ấy trong nhiều năm,” Pardo sau này nói. “Ông ta chưa bao giờ thú vị, nhưng rồi ông ấy đã phạm sai lầm và cho ta điều gì đó thú vị.”

Vào ngày 6 tháng 9 năm 2007, một cuộc không kích của Israel đã phá hủy lò phản ứng Al-Kibar. Sự kiện Israel không kích đã là một bí mật công khai trong nhiều năm. Nhưng vào ngày 21 tháng 3 năm 2018 – chỉ ba tuần trước khi công khai vụ đánh cắp kho lưu trữ hạt nhân – Israel cuối cùng đã công khai thừa nhận rằng họ đã đứng sau cuộc tấn công. Quân đội đã giải mật các báo cáo tình báo tuyệt mật và mô tả chi tiết cách tám máy bay chiến đấu đã bay 270 dặm đến Deir a-Zor ở miền đông Syria trên bờ sông Euphrates và thả 18 tấn bom xuống địa điểm này. Đây là một mối đe dọa công khai đối với Iran, quốc gia đã đầu tư khoảng một tỷ đô la vào cơ sở này. “Chiến dịch [năm 2007] và thành công của nó đã chứng minh rõ ràng rằng Israel sẽ không bao giờ để vũ khí hạt nhân nằm trong tay những kẻ đe dọa sự tồn tại của mình – Syria khi đó và Iran ngày nay”, Bộ trưởng Tình báo Israel Katz đã viết trên tweeter.

Năm sau tại Damascus, Syria, Mossad, cùng với CIA, theo tờ The Washington Post, đã thực hiện một cuộc tấn công táo bạo khác nhằm vào thủ lĩnh quân đội Hezbollah, Imad Mughniyeh, một kẻ thù không đội trời chung của cả Israel và Hoa Kỳ, vụ ám sát là một chiến thắng lớn cho cả hai nước. Trong số nhiều vụ tấn công mà y đã dàn dựng có vụ đánh bom đại sứ quán Hoa Kỳ tại Beirut năm 1983 đã xóa sổ trạm CIA ở đó, giết chết 8 nhân viên cơ quan, bao gồm cả giám đốc Cận Đông Robert Ames. Cuối năm đó, cũng có vụ đánh bom doanh trại Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ ở Beirut. Tổng cộng, hơn 300 người đã thiệt mạng trong hai vụ tấn công, 258 người trong số họ là người Mỹ. Sau đó vào năm 1984, Hezbollah đã bắt cóc người đứng đầu trạm mới của CIA tại Beirut, William Buckley. Ông đã bị tra tấn và thi thể của ông bị vứt trong một nấm mồ vô chủ.

Mughniyeh cũng là chủ mưu của nhiều vụ tấn công khủng bố nhằm vào các mục tiêu của Israel và Do Thái, trong đó có vụ đánh bom đại sứ quán Israel tại Buenos Aires năm 1992, và hai năm sau là vụ đánh bom trung tâm cộng đồng Do Thái AMIA tại thành phố đó khiến 85 người thiệt mạng.

Thành tích chung của Israel dưới thời Dagan khá ấn tượng, nhưng có lẽ chiến lược “năm trụ cột” tàn khốc nhất, chắc chắn là tinh vi nhất về mặt kỹ thuật, của Dagan là sử dụng một loại vũ khí chưa từng được triển khai trước đây. Đây là vũ khí mạng, về cơ bản bao gồm việc cài đặt phần mềm vào mạng máy tính của quốc gia đối phương để đánh cắp thông tin hoặc, trong hình thức tàn phá nhất, gây ra trục trặc dẫn đến thiệt hại vật lý, thường là nghiêm trọng. Trước đây, hầu hết các vụ phá hoại trong các cơ sở làm giàu của Iran đều xuất phát từ sự xâm nhập vào chuỗi cung ứng. Nhưng vào tháng 6 năm 2010, người Iran đã phát hiện ra một con sâu máy tính có tên là Stuxnet đã lây lan khắp các cơ sở hạt nhân của nước này và phá hủy hơn 1.000 máy ly tâm làm giàu uranium tại nhà máy Natanz. Một điệp viên của cơ quan tình báo Hà Lan đã cài con sâu này vào máy tính của Iran ba năm trước, bằng cách sử dụng ổ đĩa flash USB. Vào năm 2011 và 2012, người Iran đã phát hiện ra hai loại phần mềm độc hại mới. Một là Duqu, thu thập thông tin từ các hệ thống điều khiển công nghiệp, còn lại là Flame, đánh cắp dữ liệu từ máy tính bị nhiễm.

Chiến dịch mạng Stuxnet có tên mã là “Olympic Games”, theo biểu tượng Olympic năm vòng tròn, đại diện cho năm quốc gia tham gia là Hoa Kỳ và Israel, cùng với Đức, Pháp và Hà Lan. Người Hà Lan đã bị đưa vào vì máy ly tâm của Iran dựa trên thiết kế mà A. Q. Khan đã đánh cắp từ một công ty Hà Lan.

Stuxnet là ví dụ đầu tiên được biết đến về một loại vi-rút được sử dụng để tấn công máy móc công nghiệp. Nó hoạt động bằng cách nhắm vào một thiết bị được gọi là bộ điều khiển logic lập trình (PLC), do nhà sản xuất Đức Siemens sản xuất, đơn vị quản lý máy móc công nghiệp. Con sâu Stuxnet đã vượt qua các phần mềm điều khiển, khiến máy ly tâm quay quá nhanh hoặc quá lâu, phá hủy hoặc làm hỏng chúng. Đồng thời, nó khiến PLC đánh lừa máy tính nghĩ rằng hệ thống đang hoạt động bình thường, ngăn không cho chúng tắt cho đến khi quá muộn.

Không một quốc gia nào từng thừa nhận trách nhiệm tạo ra sâu Stuxnet, không chỉ phá hủy tới một nghìn máy ly tâm của Iran trong số năm nghìn máy đang hoạt động tại thời điểm đó, mà còn lây nhiễm cho hai mươi nghìn thiết bị tại hơn một chục cơ sở hạt nhân khác trong nước. Nó gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho chương trình hạt nhân của Iran và theo một số đánh giá đã khiến chương trình này bị chậm lại tới hai năm. Không có phản ứng ngay lập tức của Iran, nhưng nước này bắt đầu đổ nguồn lực lớn vào việc phát triển năng lực chiến tranh mạng của riêng mình và đến năm 2012 đã bắt đầu tiến hành các cuộc tấn công riêng, tấn công vào công ty dầu mỏ nhà nước Aramco của Saudi Arabia cũng như một số ngân hàng Hoa Kỳ.

Thật khó để cường điệu tầm quan trọng của nhiệm kỳ Dagan tại Mossad. Khi ông đảm nhiệm vị trí này vào năm 2002, các cơ quan tình báo phương Tây và Israel dự kiến ​​Iran sẽ trở thành một cường quốc hạt nhân trong vòng hai năm. Nhưng “sự can thiệp thần thánh” đã hoàn thành nhiệm vụ của mình. Khi Dagan từ chức vào tháng 1 năm 2011, sau chín năm tại vị, ông dự đoán rằng Iran sẽ không thể vượt qua ngưỡng hạt nhân trước năm 2015, nếu có. Và tính đến năm 2023, nước này vẫn chưa làm được.

Dagan không chỉ mua thời gian về dự án hạt nhân của Iran. Ông cũng đã tấn công các chuyến hàng vũ khí cho Hamas và Hezbollah, đã phá hủy chương trình hạt nhân do Iran tài trợ của Syria, và có lẽ quan trọng nhất là đã đưa năng lực của Mossad lên một tầm cao mới, khôi phục danh tiếng của tổ chức này như một tổ chức kiên cường và gan dạ mà mọi thứ đều có thể xảy ra.

Chương 3

HÃY NÓI VỚI BẠN BÈ LÀ BẠN CÓ THỂ SỬ DỤNG KHÔNG PHẬN CỦA CHÚNG TÔI

ISRAEL KHÔNG PHẢI LÀ QUỐC GIA DUY NHẤT ở Trung Đông lo ngại về tham vọng hạt nhân của Iran. Các quốc gia vùng Vịnh thuộc dòng Sunni, dẫn đầu là Saudi Arabia và Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất, những kẻ thù của Iran thuộc dòng Shiite, cũng cảm thấy bị đe dọa bởi người hàng xóm hùng mạnh của mình. Trên thực tế, trong khi các mối đe dọa công khai của Iran là chống lại Israel, theo nhiều cách, các giáo sĩ Hồi giáo coi người Ả Rập Sunni là kẻ thù gần như ngang hàng. Iran muốn thống trị thế giới Hồi giáo và tin rằng nền văn hóa Ba Tư-Aryan của mình vượt trội hơn nhiều so với nền văn hóa của người Ả Rập, mà ngôn ngữ Ba Tư có vốn từ vựng gần như vô hạn để lăng mạ họ.

Sharon hiểu điều này.

Vì vậy, trong khi ông chỉ thị cho Dagan thâm nhập vào chương trình hạt nhân của Iran, ông cũng ra lệnh cho ông này tăng cường quan hệ với các quốc gia vùng Vịnh Ả Rập, dựa trên nỗi sợ chung của họ đối với Tehran. Năm 2004, nhiệm vụ đó được giao cho David Meidan, người được chuyển từ Tzomet, bộ phận Mossad phụ trách tuyển dụng và xử lý các điệp viên nước ngoài, sang làm người đứng đầu bộ phận Tevel của Mossad, phụ trách các giao dịch với các tổ chức tình báo nước ngoài và với các quốc gia mà Israel không có quan hệ chính thức. Meidan và các nhà phân tích của ông bắt tay vào làm việc, tạo ra các mối liên hệ bí mật, tìm kiếm lợi ích chung. Ở UAE, Bahrain, Saudi Arabia và những nơi khác trong vùng Vịnh, họ đã tìm thấy một đối tượng dễ tiếp thu.

Mối quan hệ giữa Israel và Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất đã kéo dài từ đầu những năm 1990 sau Hiệp định Oslo, theo đó Israel đồng ý một mức độ tự quản của người Palestine ở Bờ Tây. Người UAE, vốn đã sợ Iran, muốn mua máy bay chiến đấu F-16 từ chính quyền của Tổng thống Bill Clinton và cần chính phủ Israel của Thủ tướng Yitzhak Rabin dỡ bỏ sự phản đối đối với việc bán những chiếc máy bay tiên tiến như vậy cho một đối thủ được cho là ở Trung Đông. Sử dụng các mối quan hệ mà họ có với Mossad, người UAE đã khởi xướng một cuộc họp tại Geneva giữa trưởng phòng của Rabin là Shimon Sheves và Mohammed Bin Zayed, được biết đến với tên viết tắt là MBZ, người sau này trở thành Thái tử và người cai trị các Tiểu vương quốc. Rabin đồng ý chấp thuận yêu cầu của người UAE về máy bay F-16, điều này đã giúp thiết lập nền tảng tin cậy lẫn nhau giữa các quốc gia.

Meidan và đội ngũ của ông đã bắt đầu xây dựng trên sợi dây mỏng manh đó của mối quan hệ, nhìn thấy ở UAE cơ hội tốt nhất để tạo nên một tình hình mới giữa Israel và thế giới Ả Rập Sunni nói chung. “Khi chúng tôi tìm thấy một kết nối ở UAE,” Meidan nhớ lại, “chúng tôi bắt đầu liên lạc, nhưng mọi thứ đều bí mật và mỗi bên đều đảm bảo không có thông tin nào bị rò rỉ cho báo chí.” Ban đầu, những mối quan hệ đó chỉ giữa các cơ quan tình báo của hai nước. Nhưng dần dần, một kênh trực tiếp đã được thiết lập giữa Israel và UAE với mục tiêu thiết lập mối quan hệ làm việc liên tục. “Trong số  các quốc gia vùng Vịnh, họ can đảm nhất”, Meidan nói. “Họ là một quốc gia rất táo bạo. Các nhà lãnh đạo của họ có tài năng và dày dạn kinh nghiệm, vượt xa mọi người khác trong khu vực. Tất nhiên, mọi thứ đều được thực hiện một cách bí mật. Nhưng họ không sợ hãi.”

Sau khi được bổ nhiệm làm người đứng đầu Tevel vào năm 2005, Meidan đã tổ chức một số cuộc họp ở Châu Âu với Sheikh Hazza Bin Zayed, cố vấn an ninh quốc gia UAE và là em trai của MBZ. Cuối năm đó, ông được mời gặp Sheikh Hazza và MBZ, hiện là Thái tử UAE, tại cung điện hoàng gia ở Abu Dhabi. Sau đó, vào đầu năm 2006, đồng hành với Dagan, Meidan trở lại UAE. Hai người đi máy bay phản lực riêng, dừng lại ở Jordan trong vài phút để không có hồ sơ nào về chuyến bay thẳng từ Israel. Khi họ đến Abu Dhabi, thủ đô UAE, MBZ đang đợi họ tại cung điện cùng với các thành viên có ảnh hưởng khác của hoàng gia. Meidan nói rằng đó là “bữa tiệc ra mắt” cho mối quan hệ Israel-UAE. Sau cuộc họp khởi động, Meidan đã đưa một cựu điệp viên Mossad đã nghỉ hưu ra để làm việc tại UAE và chịu trách nhiệm quản lý mối quan hệ với nước này.

Meidan tiếp tục tổ chức một loạt các cuộc họp với MBZ trong đó họ trò chuyện bằng tiếng Ả Rập, mà Meidan nói trôi chảy. Mặc dù sinh ra ở Ai Cập, ông đã đến Israel khi mới một tuổi. Ông lớn lên nói tiếng Pháp ở nhà nhưng học tiếng Ả Rập ở trường và tiếp tục phục vụ trong Đơn vị 504 của IDF, đơn vị có nhiệm vụ tuyển dụng các điệp viên từ các nước Ả Rập. Vào những dịp có Dagan, người đã cố gắng nhưng không bao giờ có thể học được nhiều hơn một nhúm chữ Ả Rập cơ bản, tham gia, các cuộc họp sẽ chuyển sang tiếng Anh. Meidan và giám đốc Mossad ngồi ở một bên bàn và Bin Zayed cùng trợ lý thân cận nhất của ông ngồi ở bên kia. Những cuộc họp đó, tuy nhiên, rất ít ỏi và cách nhau xa. Hầu hết, Meidan sẽ gặp riêng các quan chức cấp cao để xây dựng mối quan hệ và mở ra khả năng cho các mối quan hệ kinh doanh và công nghiệp quốc phòng trong tương lai.

Nhưng một nền tảng đã được đặt ra và điều đó dẫn đến sự gia tăng dần dần các cuộc tiếp xúc, lần lượt mở đường cho các cuộc họp cấp cao nhưng vẫn được che giấu. Các bức điện ngoại giao bị WikiLeaks tiết lộ cho thấy Tzipi Livni, bộ trưởng ngoại giao Israel trong chính phủ Olmert, và bản thân bà là một cựu điệp viên Mossad, đã hình thành mối quan hệ chặt chẽ với bộ trưởng ngoại giao UAE Abdullah Bin Zayed, một người anh em MBZ khác. (MBZ là nhân vật lãnh đạo của “Bani Fatima Six” – sáu người con trai của Sheikh Zayed Bin Sultan Al Nahyan, người sáng lập Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất, và người vợ thứ ba của ông, Sheikha Fatima. Những người khác trong nhóm này, được coi là trung tâm của cấu trúc quyền lực tại Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất, bao gồm Sheikh Abdullah và Sheikh Hazza, cũng như Sheikh Tahnoon, bộ trưởng tình báo.) Marc Sievers, cố vấn chính trị của đại sứ quán Hoa Kỳ tại Tel Aviv, đã mô tả trong một bức điện tín rằng, mặc dù có mối quan hệ tốt đẹp, Các Tiểu vương Ả Rập sẽ không “làm công khai những gì họ nói phía sau cánh cửa đóng kín”.

Năm 2010, Bộ trưởng cơ sở hạ tầng Israel, Uzi Landau, một nhân vật được biết đến với đường lối cứng rắn và quan điểm không khoan nhượng, đã tham dự một hội nghị của Cơ quan Năng lượng Tái tạo Quốc tế (IRENA) tại thủ đô Abu Dhabi. Đó là chuyến thăm đầu tiên đến đất nước này của một bộ trưởng Israel đang tại vị và mở đường cho sự hiện diện lâu dài của Israel tại IRENA.

Trong khi đó, tránh các cặp mắt dòm ngó, quan hệ kinh doanh và quốc phòng giữa UAE và Israel phát triển mạnh mẽ. Một trong những người Israel đầu tiên ký kết một thỏa thuận kinh doanh lớn là Mati Kochavi, ông đã ký một hợp đồng trị giá 800 triệu đô la vào năm 2008, đồng ý cung cấp thiết bị giám sát an ninh cho UAE thông qua một công ty cổ phần của Thụy Sĩ. Theo một báo cáo sau đó của Bloomberg, “Hai lần một tuần vào thời điểm cao trào của dự án, một chiếc Boeing 737 được thuê, sơn toàn màu trắng, cất cánh từ Sân bay quốc tế Ben Gurion của Tel Aviv, hạ cánh trong thời gian ngắn ở Síp hoặc Jordan để làm vỏ bọc chính trị, và hạ cánh khoảng ba giờ sau đó ở Abu Dhabi với hàng chục kỹ sư Israel trên tàu, nhiều người trong số họ từng làm việc cho các cơ quan tình báo Israel.” Có tin đồn rằng các quan chức Mossad cũng đang đi nhờ tàu của Kochavi để mở rộng quan hệ với Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất.

Cũng có quan hệ thương mại chính thức với Qatar và Bahrain trong giai đoạn hậu Oslo, nhưng những quan hệ này sớm sụp đổ khi mối quan hệ Israel-Palestine xấu đi. Bạo lực đẫm máu của cuộc Intifada lần thứ hai nổ ra vào tháng 9 năm 2000 đã giáng cho chúng một đòn cuối cùng, nhưng các mối quan hệ riêng tư vẫn tiếp tục.

Lịch sử của Israel với Ả Rập Saudi phức tạp hơn. Trong khi các chế độ quân chủ vùng Vịnh nhỏ hơn chưa bao giờ chiến đấu trong bất kỳ cuộc chiến tranh Ả Rập nào chống lại Israel, thì người Saudi đã gửi một lực lượng nhỏ đến chiến đấu dưới sự chỉ huy của Ai Cập trong Chiến tranh Giành Độc lập năm 1948 sau khi thành lập nhà nước Israel và công khai thù địch với nhà nước Do Thái. Các nhà lãnh đạo Saudi thường đưa ra những tuyên bố hoàn toàn chống lại người Do Thái, và bên cạnh đó, người Saudi là một bên tham gia hàng đầu trong lệnh cấm vận dầu mỏ của Ả Rập sau Chiến tranh Yom Kippur năm 1973.

Tuy nhiên, câu châm ngôn rằng kẻ thù của kẻ thù tôi là bạn tôi đã khuyến khích Israel và Ả Rập Xê Út (Saudi Arabia) thấy rằng họ chia sẻ một số lợi ích chung. Vào những năm 1960, trong cuộc nội chiến Bắc Yemen, Israel và Ả Rập Xê Út đều ủng hộ phe Bảo hoàng chống lại phe Cộng hòa, được Gamal Abdel Nasser của Ai Cập hậu thuẫn. Sau đó, sau Chiến tranh Sáu ngày năm 1967 trong đó Israel giành quyền kiểm soát Bờ Tây, Dải Gaza, và Cao nguyên Goland, Bán đảo Sinai, người Saudi đã đưa ra một số lời đề nghị bí mật với Israel. Người Saudi đã cắt đứt quan hệ với Ai Cập sau khi tổng thống Ai Cập Anwar Sadat ký kết hòa bình với Israel vào năm 1979, để đổi lấy việc trả lại Sinai. Nhưng họ cũng đã chấp nhận sự tồn tại của Israel và sẵn sàng công nhận Israel trong phạm vi biên giới trước năm 1967 của nước này. Chất xúc tác cho sự tham gia sâu sắc hơn là cuộc Cách mạng Hồi giáo năm 1979 ở Iran, thúc đẩy người Saudi nhận ra rằng họ có lợi ích chung lớn hơn với Israel, đó là ngăn chặn các giáo sĩ Hồi giáo dòng Shiite mở rộng quyền lực qua thế giới Sunni. Trong những năm 1980 và 1990, mối quan hệ không chính thức giữa Mossad và Tình báo Saudi tiếp tục phát triển, có thể là lý do tại sao khi Ehud Olmert trở thành thủ tướng Israel vào năm 2006, Dagan, giám đốc tình báo, là một trong những người đầu tiên trong giới lãnh đạo Israel nhận ra sự thay đổi động lực trong khu vực. Trong Chiến tranh Lebanon lần thứ hai năm đó, Ả Rập Xê Út đã có lập trường cứng rắn chống lại đối thủ của Israel, lực lượng ủy nhiệm Hezbollah của Iran, mà họ coi là mối đe dọa đối với lợi ích của mình. Người Ả Rập Xê Út đổ lỗi cho Hezbollah đã kích động chiến tranh, cũng như một số quốc gia Ả Rập khác, bao gồm cả Ai Cập. Sau chiến tranh, Israel, Ả Rập Xê Út, Ai Cập và Thổ Nhĩ Kỳ đã quyết định “tăng tốc trao đổi thông tin tình báo” để chống lại Iran. Ngay sau đó, Dagan đã gặp người đồng cấp Jordan của mình tại Amman và Hoàng tử Bandar Bin Sultan, người đứng đầu Cơ quan Tình báo Saudi và là cựu đại sứ tại Hoa Kỳ.

Lúc đầu, người Saudi chỉ có một mục tiêu hạn chế: họ muốn Israel không cản trở một thỏa thuận vũ khí với Hoa Kỳ. Nhưng theo quan điểm của Dagan, cuộc họp ở Amman là thời điểm quả bóng bắt đầu lăn trên sự hình thành một trục giữa Israel và các quốc gia Sunni ôn hòa lo sợ về các âm mưu của Iran dòng Shiite. Ngoại trưởng Hoa Kỳ lúc đó, Condoleezza Rice, đã viết trong hồi ký của mình rằng khi bà gặp các nhà lãnh đạo của Hội đồng Hợp tác vùng Vịnh, họ nói với bà rằng Iran “là số một, hai, ba và bốn” trong chương trình nghị sự của họ.

Dagan cũng đã tạo ra kênh trực tiếp của riêng mình tới các nhà lãnh đạo Ả Rập, chủ yếu thông qua mối quan hệ đặc biệt của ông với Vua Abdullah II của Jordan, người đã lên ngôi vài năm trước khi Dagan được bổ nhiệm làm người đứng đầu Mossad. Với tư cách là giám đốc, Dagan đã trở thành bạn thân của Vua Abdullah. Họ có cùng ngày sinh nhật và luôn gọi điện cho nhau và đôi khi cùng nhau ăn một bữa tiệc mừng, đôi khi tại cung điện của nhà vua và những lần khác ở vùng đất trung lập. Những mối quan hệ đặc biệt đó, cùng với sự giới thiệu của người Mỹ, sẽ mở ra cánh cửa cho Dagan gặp gỡ các nhà lãnh đạo Ả Rập khác trong khu vực. Trong khi qua nhiều năm, mối quan hệ chung của Israel với Jordan đã trải qua nhiều thăng trầm—khoảnh khắc tồi tệ nhất diễn ra sau nỗ lực ám sát bất thành của Mossad nhằm vào thủ lĩnh Hamas Khaled Mashal tại thủ đô Amman của Jordan năm 1997 – mối quan hệ giữa Mossad và cơ quan tương đương tại Jordan, Tổng cục Tình báo, nhìn chung vẫn gần gũi và thân thiện.

Tuy nhiên, trong khi các quốc gia vùng Vịnh “sợ” một nước Iran sở hữu vũ khí hạt nhân, như Dagan đã nói với cố vấn chống khủng bố của Tổng thống Obama, Frances Fragos Townsend, thì họ muốn “một người khác làm công việc này thay họ”. Công việc này là thực hiện các biện pháp cụ thể để phá hoại chương trình hạt nhân của Iran, và Israel đã sẵn sàng đảm nhận nhiệm vụ đó.

Một trong những trụ cột của chính sách Iran của Dagan là gây sức ép với Iran để tạo điều kiện cho sự thay đổi chế độ. Một phần trong số đó là các lệnh trừng phạt tài chính, trong đó có các Nghị quyết 1737 và 1747 của Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc, áp đặt các lệnh trừng phạt vào năm 2006 và 2007 đối với Iran vì chương trình hạt nhân của nước này. Theo đánh giá của Dagan, những lệnh trừng phạt này đã gây tốn kém cho Iran vì chúng đẩy các doanh nghiệp châu Âu ra khỏi đất nước. Phân tích của ông, theo một bức điện mật năm 2007 từ đại sứ quán Hoa Kỳ tại Tel Aviv – một phần của vụ thu thập WikiLeaks – cũng cho thấy Iran đang phải trả giá đắt cho một điều mà họ vẫn chưa đạt được. Dagan nói với Townsend rằng người Iran đang “trình bày sai sự thật” về năng lực của họ và vẫn chưa làm chủ được quy trình làm giàu uranium.

Trong một cuộc họp vào tháng 8 năm 2007 với Thứ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ Robert Burns, Dagan đã thúc giục cần phải làm nhiều hơn nữa để kích động bất ổn trong nước, và ông đã xác định những điểm yếu ở Iran mà ông nghĩ có thể được khai thác. Trong số các biện pháp mà ông đề xuất là hỗ trợ các phong trào dân chủ của sinh viên và các nhóm dân tộc thiểu số – người Azeris, người Kurd và người Baluch – chiếm 40 phần trăm dân số của đất nước và không thích chế độ này. Ông nói với Burns rằng có thể làm nhiều hơn nữa để phát triển bản sắc độc lập của họ. Ông chỉ ra rằng tỷ lệ thất nghiệp vượt quá 30 phần trăm trên toàn quốc, lạm phát vượt quá 40 phần trăm và mọi người chỉ trích chính phủ vì tài trợ cho các nhóm ở nước ngoài như Hamas và Hezbollah thay vì cố gắng giải thoát Iran khỏi nỗi thống khổ của chính họ. “Nền kinh tế đang bị tổn thương và điều này đang gây ra một cuộc khủng hoảng thực sự trong số các nhà lãnh đạo Iran”, ông nói với Burns.

Vào thời điểm đó, các viên chức Mỹ và châu Âu đã lập luận rằng có một phe phái ôn hòa trong giới lãnh đạo Iran, nếu được hỗ trợ, có thể thay đổi lập trường hung hăng của đất nước. Nhưng Dagan không tin vào phân tích đó. Ông không tin rằng phe cải cách ôn hòa hơn về mặt ý thức hệ đối với Israel so với phe cứng rắn. Cả hai, ông cảm thấy, đều muốn chứng kiến ​​sự hủy diệt của nhà nước Do Thái. Nhưng ông thừa nhận rằng phe cải cách có một thế giới quan được điều chỉnh nhiều hơn bởi thực tế và có sự chia rẽ ở Iran ngày càng tăng khi nói đến chiến thuật. Một số ủng hộ chính sách hiếu chiến hơn đối với phương Tây nói chung, trong khi những người khác ủng hộ cách tiếp cận dựa trên chính trị thực tế hơn.

Phân tích của Dagan về tình hình nội bộ ở Iran hóa ra lại đúng. Vào mùa hè năm 2009, các cuộc biểu tình nổ ra trên đường phố Tehran, Shiraz và tất cả các thành phố lớn. Tia lửa phát động là việc Tổng thống Mahmoud Ahmadinejad tái đắc cử với tỷ lệ phiếu bầu cao đáng ngờ trước ứng cử viên cải cách Mir Hossein Mousavi. Ba triệu người đã diễu hành trên đường phố Tehran, hô vang “Phiếu bầu của tôi đâu?” Các cuộc biểu tình, được gọi là Phong trào Xanh – màu xanh lá cây là biểu tượng cho chiến dịch của Mousavi – kéo dài trong vài tháng trước khi Basij, một tổ chức bán quân sự tình nguyện hoạt động dưới sự bảo trợ của IRGC, đã đàn áp dã man. Hàng chục người được biết là bị giết chết – mặc dù theo một số báo cáo, số người chết lên tới 1.500. Hàng ngàn người đã bị bắt và tra tấn.

Một trong những khẩu hiệu mà người biểu tình sử dụng là “Không phải Gaza, cũng không phải Lebanon. Tâm hồn tôi dành cho Iran”, ám chỉ đến hàng tỷ đô la mà chế độ Hồi giáo đã chi cho các cuộc phiêu lưu ở nước ngoài, thay vì giải quyết nhu cầu của người dân Iran. Nhưng nếu Phong trào Xanh tạo ra cơ hội cho Israel và, thực ra, cho phương Tây, thì họ đã không khai thác được. “Chúng ta đã có cơ hội lớn để hỗ trợ phe đối lập ở đó, nhưng chúng ta đã bỏ lỡ”, Pardo nói. Ông tin rằng các cơ quan tình báo phương Tây đã không hiểu được chế độ này dễ bị tổn thương đến mức nào. Ông từ chối nêu rõ các biện pháp có thể được thực hiện để lợi dụng các cuộc biểu tình, nhưng ông dường như cảm thấy rằng CIA và các cơ quan tình báo phương Tây khác về cơ bản chỉ quan sát phong trào và không thực hiện bất kỳ hành động bí mật nào mà họ đã sử dụng vào những thời điểm khác ở các quốc gia khác để phá hoại các chính phủ không thân thiện. Ông tin rằng họ muốn tránh việc CIA ủng hộ cuộc đảo chính năm 1953 chống lại thủ tướng được bầu của Iran, nhà cải cách Mohammad Mossadegh. Sau hơn 60 năm, cuộc đảo chính vẫn là nguồn gốc của sự thù địch của Iran đối với phương Tây.

Olmert, người đã giữ chức thủ tướng cho đến khoảng bốn tháng trước đó, đã nói với chúng tôi rằng, “Nếu Hoa Kỳ và những nước khác hành động để phá hoại chế độ cùng với các hành động khác, một số có thể là bạo lực, việc thay đổi chế độ có thể đã đạt được.” Nhưng vào thời điểm đó, Tổng thống Obama đang cố gắng tránh các sự can thiệp của nước ngoài, như các cuộc can thiệp tốn kém và gây thất vọng của Chiến tranh Iraq và Afghanistan, và ông không muốn chấp nhận rủi ro can thiệp vào Iran. Và, nếu không có một thỏa thuận quốc tế rộng rãi để tạo điều kiện lật đổ chế độ Tehran, thì bản thân Mossad không cảm thấy có khả năng tự mình hành động.

Trong khi đó cũng có những thay đổi ở Israel. Năm 2009, Olmert đã bị buộc từ chức sau các cáo buộc tham nhũng, và trong cuộc bầu cử mới, cánh hữu Benjamin Netanyahu lên nắm quyền lần thứ hai, sau khi giữ chức thủ tướng từ năm 1996 đến năm 1999. Dagan đã có mối quan hệ chuyên môn và cá nhân chặt chẽ với Olmert, cũng như với người tiền nhiệm của ông, Ariel Sharon. Cả Sharon và Olmert đều ủng hộ chiến lược “năm trụ cột” của Dagan. Nhưng ngay sau khi trở lại làm thủ tướng, rõ ràng là Netanyahu có quan điểm khác. Ông hoài nghi rằng chỉ riêng việc phá hoại và thủ đoạn lén lút sẽ không đủ để ngăn chặn Iran. Bộ trưởng quốc phòng của ông, cựu tham mưu trưởng IDF Ehud Barak, cũng có những cảm xúc tương tự. Ngay từ năm 2007 khi Olmert vẫn còn tại vị, Barak đã chỉ thị cho IDF “chuẩn bị các kế hoạch tác chiến để gây tổn hại đến nỗ lực đạt được năng lực hạt nhân của Iran”, bao gồm cả các cuộc tấn công trực tiếp vào Iran của Không quân Israel.

Nhưng sự hăng hái của Barak trong việc sử dụng quân đội Israel chống lại Iran đã dẫn đến cuộc đụng độ với Tổng thống George W. Bush. Năm 2008, khi Tổng thống Bush đến thăm Israel, ông đã có cuộc gặp riêng với Olmert tại dinh thự của thủ tướng ở Jerusalem. Barak đã yêu cầu được tham gia cuộc họp để trình bày lý do Israel nên tiến hành một cuộc tấn công quân sự phủ đầu và lý do tại sao Hoa Kỳ nên bật đèn xanh cho cuộc tấn công này. “Ông biết là tôi phản đối điều đó mà”, Bush nói với Olmert khi ông chuyển lời yêu cầu của Barak. “Tướng Barak là chỉ huy trưởng của IDF; tôi là thủ tướng, tôi nghĩ sẽ công bằng nếu ngài chịu khó lắng nghe ông ấy”, Olmert trả lời.

Bush đã nhượng bộ, và Barak đã trình bày, và tổng thống Hoa Kỳ đã nói với ông ta rằng, “Không đời nào.”

Barak vẫn kiên trì và sự kiên nhẫn của Bush đã đến giới hạn.

“Tướng quân, ông có hiểu “không” có nghĩa là gì không?” Tổng thống hỏi Barak. Sau đó, đập tay xuống bàn, ông gầm gừ, “Không” có nghĩa là “không”.

Vào thời điểm đó, Olmert đã nhượng bộ Bush và không có hoạt động quân sự trực tiếp nào của Israel chống lại Iran được thực hiện. Nhưng giờ đây khi đã trở lại nắm quyền, Netanyahu và Barak đã phân bổ hàng tỷ shekel cho Không quân Israel với mục đích xây dựng năng lực ném bom các cơ sở hạt nhân của Iran.

Nhưng những động thái này đã vấp phải một số phản đối dữ dội trong số các quan chức cấp cao, những người cuối cùng đã ngăn được Netanyahu và Barak khởi động các hoạt động quân sự trực tiếp chống lại Iran. Trong số những quan chức này có chính Dagan, lúc này đã nghỉ hưu. Ông ta cho rằng loại tấn công mà Netanyahu và Barak đang chú trương là “ý tưởng ngu ngốc nhất mà tôi từng nghe”. Sau đó, trong một cuộc phỏng vấn với chúng tôi, Dagan thừa nhận rằng tuyên bố của mình  đã được đưa ra “trong lúc nóng giận”. Ngay cả khi đó, trong buổi nói chuyện riêng tư, ông cũng nói, “Hãy cho tôi thêm hai tỷ nữa và tôi sẽ đảm bảo rằng chúng ta tiếp tục được hưởng lợi từ ‘sự can thiệp của thần thánh'”, nghĩa là các điệp vụ bí mật của Israel, cụ thể là của Mossad, sẽ có tác động lớn hơn các hoạt động quân sự công khai. Theo quan điểm của ông, Israel chỉ nên dùng đến hành động quân sự khi mọi lựa chọn khác đã cạn kiệt và “khi thanh kiếm kề cổ chúng ta”. Ông nghĩ rằng một cuộc tấn công không che giấu của IDF sẽ chỉ củng cố quyết tâm của các giáo sĩ Hồi giáo muốn có vũ khí hạt nhân và đoàn kết người dân Iran ủng hộ họ. Trong mọi trường hợp, nó sẽ chỉ có thể đẩy lùi chương trình của Iran trong vài năm. Ông lập luận rằng một số phi công Israel có thể bị bắn hạ và nếu điều đó xảy ra, họ sẽ bị treo cổ tại quảng trường thị trấn Tehran. Sẽ có các cuộc tấn công khủng bố nhằm vào các mục tiêu của Israel và Do Thái, nếu không muốn nói là chiến tranh toàn diện với Iran, Hezbollah, Hamas và Jihad Hồi giáo, tất cả đều dội tên lửa vào Israel. Không những thế Dagan cũng lo ngại rằng một cuộc tấn công quân sự sẽ khiến Israel phải đối mặt với tình thế trơ trọi, bị hắt hủi, không có sự hỗ trợ của Mỹ cho các hành động của mình.

Tuy nhiên, Netanyahu đã bắt đầu nhìn nhận mối đe dọa từ Iran theo hướng ngày tận thế. “Bây giờ là năm 1938 và Iran là Đức,” ông đã cảnh báo nhiều lần. “Nó đang chạy đua để tự trang bị bom nguyên tử. Tham vọng hạt nhân của Iran phải bị ngăn chặn. Chúng phải bị ngăn chặn. Tất cả chúng ta phải ngăn chặn ngay bây giờ.” Lời hùng biện của ông đã nhận được phản ứng nồng nhiệt ở vùng Vịnh, nơi nỗi sợ hãi về cái mà Vua Abdullah của Jordan gọi là Lưỡi liềm Shiite đang đơ lên và hung hãn nhanh chóng. Một phần trong những gì gây ra cảm giác báo động ngày càng gia tăng ở Israel, vùng Vịnh và Hoa Kỳ là tin tình báo mới do các cơ quan tình báo phương Tây thu thập được vào tháng 9 năm 2009: Iran, tình báo cho biết, đang xây dựng một cơ sở làm giàu hạt nhân mới được chôn sâu dưới lòng đất trong một boongke bê tông cốt thép trên một sườn núi gần thành phố linh thiêng Qom của người Shiite, nơi có thể sản xuất uranium cấp vũ khí. Nhà máy làm giàu nhiên liệu Fordow (FEP) này được gọi là Dự án Al-Ghadir. Sau khi sự tồn tại của nhà máy bị tiết lộ, Iran đã báo cáo với IAEA, nhưng cho biết nó không có mục đích quân sự. Tuyên bố này sau đó đã bị bác bỏ bởi bằng chứng thu được trong vụ trộm kho lưu trữ năm 2018, cho thấy Fordow có thể được sử dụng làm cơ sở dự phòng làm giàu uranium cấp vũ khí bí mật trong trường hợp nhà máy làm giàu tại Natanz bị đánh bom.

Nhưng trong khi Israel và Hoa Kỳ nhất trí trong đánh giá của họ về tiến trình thúc đẩy hạt nhân của Iran, quan điểm của họ về việc phải làm gì về vấn đề này lại hoàn toàn khác nhau. Netanyahu hiện đang thúc đẩy Hoa Kỳ bật đèn xanh cho một cuộc tấn công của Israel. Chính quyền Obama, trong khi tuyên bố rằng “mọi lựa chọn đều được cân nhắc”, tin rằng họ có thể tiếp cận Iran bằng con đường ngoại giao, và họ đã cố gắng làm trung gian cho một thỏa thuận mà theo đó Iran sẽ chuyển phần lớn kho dự trữ uranium làm giàu thấp của mình sang một quốc gia khác. Giải pháp là uranium có thể được chuyển đổi thành các thanh nhiên liệu vô dụng cho các ứng dụng quân sự. Sau đó, chúng sẽ được trả lại cho Iran và được sử dụng trong nghiên cứu y tế. Israel, tin rằng cách tiếp cận của Hoa Kỳ chỉ là suy nghĩ viển vông, đòi hỏi điều gì đó khác – rằng Hoa Kỳ phải áp đặt các lệnh trừng phạt nghiêm khắc đối với Tehran.

Trong khi tất cả những điều này đang diễn ra, các viên chức tình báo Israel và vùng Vịnh đã tăng cường liên lạc với nhau. Vào mùa hè năm 2010, theo các báo cáo từ các nguồn tin Ả Rập (chính xác, mặc dù bị tất cả các bên phủ nhận), Dagan đã đến thăm Ả Rập Saudi. Đó là một trong số nhiều cuộc họp mà ông sẽ tổ chức với các viên chức tình báo cấp cao ở đó để thảo luận về mối đe dọa của Iran.

Các báo cáo khác chưa được xác nhận cho rằng Saudi Arabia đã đề xuất cho phép máy bay chiến đấu của Israel bay qua vương quốc này trên đường tấn công các cơ sở hạt nhân của Iran. Đại sứ của Obama tại Israel, Dan Shapiro, cho biết tình báo Hoa Kỳ đã xác nhận các cuộc tiếp xúc giữa các bên về vấn đề này. Một số người nói rằng người Saudi thậm chí đã bày tỏ sự sẵn lòng cho phép Israel hạ cánh và tiếp nhiên liệu cho máy bay phản lực của mình tại sa mạc Saudi, giải quyết một trong những vấn đề hậu cần lớn liên quan đến một cuộc tấn công tiềm tàng vào Iran, mặc dù một số nguồn tin của Israel phủ nhận điều này.

Nhưng có bằng chứng thuyết phục khác cho thấy người Saudi đang cố gắng tạo điều kiện cho Israel tiến hành một cuộc tấn công quân sự vào Iran. Vài tháng trước chuyến đi của Dagan tới Saudi Arabia, bộ trưởng ngoại giao nước này, Saud Al-Faisal, đã tiếp cận một nhà báo Tây Ban Nha-Israel tại một hội nghị của Liên Hiệp Quốc ở Rio de Janeiro và đưa cho ông ta một thông điệp: “Hãy nói với bạn bè bạn có thể sử dụng không phận của chúng tôi.”

Chắc chắn, một số “người bạn” này rất muốn làm điều đó. Vào tháng 9, khi kết thúc cuộc họp tại văn phòng thủ tướng được tổ chức để thảo luận về mối đe dọa của các cuộc tấn công bằng tên lửa của Hamas ở miền nam Israel, Netanyahu và Barak đã chỉ thị cho tham mưu trưởng IDF Gabi Ashkenazi và Dagan chuẩn bị đếm ngược trong ba mươi ngày để tấn công Iran.

Nhưng một lần nữa, lệnh này đã gây ra sự phản đối từ cơ quan an ninh quân sự của Israel. Cả Ashkenazi và Dagan đều bị sốc. Dagan thậm chí còn tin rằng lệnh này là bất hợp pháp, vì một cuộc tấn công vào Iran cũng tương đương với chiến tranh, và chiến tranh phải được nội các chấp thuận. Ashkenazi đồng ý. “Chúng tôi sẽ làm mọi thứ chúng tôi được chỉ thị, nhưng chỉ thông qua một quá trình pháp lý”, ông nói. Barak sau đó phát biểu Ashkenazi đã nói rằng mình không tin tưởng lực lượng không quân của Israel có thể phá hủy các cơ sở hạt nhân ngầm được củng cố nghiêm ngặt của Iran, một tuyên bố mà tham mưu trưởng IDF đã phủ nhận một cách dứt khoát. “Tôi tin tưởng vào khả năng hoạt động của IDF và khả năng sử dụng vũ khí tầm xa của họ, nhưng tôi không hài lòng với cách Netanyahu triển khai các kế hoạch tấn công”, Ashkenazi nói. Ông cũng lo ngại rằng việc huy động lực lượng dự bị và các hoạt động bất thường khác có thể khiến Iran cảnh giác và mất đi yếu tố bất ngờ quan trọng. Sự thận trọng này khiến Barak tức giận. “Với một Tham mưu trưởng như vậy, chúng ta sẽ không thể giành chiến thắng trong Chiến tranh Sáu ngày”, ông được cho là đã nói như thế về Ashkenazi.

Một vài tuần sau cuộc trao đổi cay đắng giữa hai vị tướng, Netanyahu và Barak gặp lại nhau với Ashkenazi và Dagan, ra lệnh cho họ tập trung vào việc xây dựng khả năng hoạt động và để lại cho các lãnh đạo dân sự giải quyết câc hậu quả.

Nhưng Dagan và Ashkenazi không phải là những người duy nhất phản đối một cuộc tấn công vào Iran. Yuval Diskin, giám đốc Shin Bet, “lá chắn vô hình” của Israel, cơ quan an ninh nội bộ của nước này, và những nhân vật khác trong cơ quan an ninh cũng phản đối. Quan trọng hơn, Hoa Kỳ đã phản đối. Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân, Đô đốc Mike Mullen, được cho là đã gọi điện cho Ashkenazi và hỏi thẳng ông ta. “Ông điên rồi sao? Ông định làm chúng tôi bất ngờ à?”

Kế hoạch đã bị hủy bỏ – tạm thời.

Bình luận về bài viết này