Thực hư chuyện hạm đội Anh đột nhập Hà Nội đầu thế kỷ XIX (Bài 2)

chiến hạm Anh khoảng 1808

Trần Thanh Ái

Ngoài ba tác giả người Pháp đã kể bên trên (G. Devéria, H. Cordier, C. B. Maybon), trong một thời gian dài không ai đề cập đến cuộc xung đột quân sự được cho là đã xảy ra trên sông Hồng đầu thế kỷ XIX, mặc dù các nhà nghiên cứu thế giới vẫn tiếp tục viết về việc hạm đội của Anh chiếm đóng Macao vào tháng 9 năm 1808. Nhưng kể từ năm 2004, lại xuất hiện một số tác giả phương Tây nhắc đến chuyện này, như thể là họ đã tìm ra được bằng chứng mới.

  1. Giới học thuật ngày nay viết về vụ đột nhập

Năm 2004, F. Wakeman có bài viết về việc các chiến thuyền của chuẩn đô đốc William O’Brien Drury chiếm Macao, trong đó lại nhắc đến Việt Nam:

“Mặc cho [chính quyền thuộc địa Bồ Đào Nha ở] Goa e ngại, [toàn quyền Đông Ấn] Lord Minto vẫn gửi một đội thuyền vào vùng biển Đông Á dưới sự chỉ huy của Phó Đô đốc(1) Drury, mà nhiệm vụ đầu tiên của ông là cố ép Hoàng đế Gia Long của nước An Nam mở cửa Hà Nội cho người Anh vào buôn bán. Ông đã thất bại sau khi các thuyền mành An Nam phóng hỏa và phá hủy vài thuyền của Drury khi ngược dòng sông Hồng, khiến phần lớn đội thuyền Anh (lúc ấy còn 1 chiếc tàu chiến, một chiếc khinh hạm và một chiếc thuyền đổ bộ sloop) phải giong buồm thẳng đến Macao” (Wakeman F. 2004, tr. 30).

Những thông tin này được F. Wakeman cho biết là đã dựa vào tài liệu của C. B. Maybon (1906). Wakeman chẳng những không cung cấp được điều gì mới mẻ so với các nhà nghiên cứu đầu thế kỷ XX, mà tác giả còn đưa ra suy diễn không có chứng cứ, đó là câu “nhiệm vụ đầu tiên của ông [Drury] là cố ép Hoàng đế Gia Long của nước An Nam mở cửa Hà Nội cho người Anh vào buôn bán”. Tác giả đã dựa vào đâu để xác định “nhiệm vụ đầu tiên” của Drury như thế? Hà Nội có từng đóng cửa với người Anh không mà Drury phải làm áp lực để Gia Long mở cửa? Tại sao hạm đội Anh không làm áp lực ở Đà Nẵng hay Huế mà lại chọn Hà Nội? Chừng ấy câu hỏi cũng đủ để hoài nghi về tính xác đáng của đoạn văn trên, và người đọc không thể dễ dãi chấp nhận một khẳng định không dựa trên chứng cứ nào cả. Cũng cần nhắc lại là trong thập niên đầu tiên của thế kỷ XIX, đã từng có tàu thuyền Anh cập bến các cảng Đàng Trong, với nhiều chủng loại và mục đích khác nhau, trong đó có đội thương thuyền của công ty Abbott & Maitland ở Madras thường xuyên lui tới(2). Sau đó mười năm, năm 2014, Wang Wensheng cho xuất bản quyển White Lotus Rebels and South China Pirates, trong đó có đoạn viết:

“Đáng chú ý là Drury đã dừng chân tại Việt Nam khi đang trên đường đi Macao, cũng giống như Lord Macartney đã làm năm 1793. Ngoài nhiệm vụ ở Trung Hoa, cả hai đều có mục đích phụ là mở cửa Việt Nam cho người Anh buôn bán. Macartney muốn thực hiện nhiệm vụ này bằng cách ký kết các hiệp ước và kịp thời cảnh báo cho xứ này nguy cơ bị [Pháp] xâm lăng, mặc dù nỗ lực của ông cuối cùng đã thất bại. Ngược lại, viên đô đốc hiếu chiến hơn vì ông ta đã thử xâm nhập vào [nước này] bằng cách ép Gia Long mở cửa Hà Nội để tự do mua bán. Mười một năm trước Hải quân Anh đã phiêu lưu trong một hành động hung hăn tương tự bằng cách tịch thu thuyền buôn của Việt Nam do người Pháp chỉ huy” (Wang Wensheng 2014, tr. 245).

Khi nói “mười một năm trước”, Wang Wensheng muốn nhắc đến vụ xảy ra vào năm 1797 khi thuyền trưởng Thomas của con thuyền Nonsuch đã bắt giữ và phát mãi hàng hóa trên thuyền Armida của Nguyễn Ánh do một người Pháp tên là Barisy điều khiển trong vùng biển ngoài khơi Penang, khi đang chở đường đến Tranquebar cho công ty Đan Mạch Harrop & Stevenson. Khi xâu chuỗi sự kiện này với sự kiện giả định xảy ra năm 1808, có lẽ Wang Wensheng muốn cho người đọc thấy rằng người Anh rất sẳn sàng tấn công các mục tiêu có liên quan đến người Pháp. Tuy nhiên, sự liên kết này có vẻ thiếu sáng suốt, vì vào đầu thế kỷ XIX người Anh đang kiên trì ve vãn nước Việt Nam thống nhất nhằm “tống khứ vĩnh viễn thế lực của Pháp ra khỏi xứ sở này”, như huấn thị của Lord Wellesley gửi Roberts (Lamb A. 1961, tr. 119), trong khi vụ năm 1797 là hệ quả của quân lệnh thời chiến mà các quân nhân phải chấp hành, nhiều khi lạm dụng, trong khi xử lý tình huống khi gặp đối phương. Trong đoạn văn ngay sau đó, tác giả còn đi xa hơn khi phân tích tình hình tương quan địa chính trị của người Anh và người Pháp trong khu vực Đông Nam Á, và vội vàng xem vụ người Anh tấn công vào Hà Nội là đương nhiên:

“Người Anh lo rằng đối thủ lớn nhất của họ [Pháp] có thể đặt chân ở Việt Nam và giúp xây dựng hải quân nhà Nguyễn hùng mạnh, cả hai viễn cảnh này đều có thể đe dọa trực tiếp đến việc buôn bán của Công ty trên Ấn Độ dương và Nam hải. Để bảo vệ quyền lợi sống còn này và để ngăn chặn việc bành trướng thuộc địa của người Pháp, hạm đội của Drury đã tiến hành cuộc tấn công chống lại hải quân nhà Nguyễn. Hạm đội của ông ta định đi ngược sông Hồng và tấn công Hà Nội nhưng bị đuổi đi. Sau sự thất bại đáng xấu hổ này, người Anh không còn ý định thiết lập bang giao với Việt Nam cho đến năm 1822” (Wang Wensheng 2014, tr. 246).

Liên quan đến đoạn này, tác giả làm ghi chú số 121 ở cuối sách, để cho độc giả biết là tác giả đã dựa theo các tài liệu tham khảo sau đây khi viết phần này:

– Tingyi Guo [郭廷以], Zhongyue wenhua lunji [中越文化論集] (Taipei, 1956), tr. 207;

– A. Lamb, The Mandarin Road [to Old Hue] (1970), tr. 175, 189–195;

– M. W. McLeod, The Vietnamese Response [to the French Intervention 1862-74], 1991 tr. 19;

– Wakeman, “Drury’s Occupation” (2004), tr. 30.

Tuy nhiên, khi kiểm chứng lại, chúng tôi thấy là các tài liệu của A. Lamb (1970) và M. W. McLeod (1991) không hề nói gì về một sự kiện như vậy xảy ra ở Hà Nội năm 1808, mà chỉ có đoạn nói về việc phái đoàn của Roberts đến Đà Nẳng năm 1803 và 1804 mà thôi; còn bài viết của Wakeman thì lại dựa theo bài viết của C. B. Maybon (1906) với thông tin nguồn của Ngụy Nguyên và Vương Chi Xuân chưa kiểm chứng được như đã giới thiệu ở trên. Về tài liệu còn lại, quyển Zhongyue wenhua lunji [中越文化論集 Trung Việt Văn hóa luận tập] của Tingyi Guo(3) xuất bản năm 1956, chúng tôi không thể tiếp cận được sách này, nên không thể kiểm chứng được mức độ đáng tin cậy của thông tin mà Wang Wensheng đã đưa ra, chỉ thấy rằng sách này không được trích dẫn trong bài viết nào nói về vấn đề này. Nói cách khác, chúng tôi cũng chưa tìm thấy thông tin mới mẻ nào từ Wang Wensheng để làm cơ sở cho việc xác nhận độ chính xác của sử kiện.

Năm 2020, A. Mikaberidze cũng có nói đến vụ “tấn công” này trong quyển The Napoleonic Wars: A Global History:

“Vào những năm 1803-1804, hai phái viên người Anh tìm cách thuyết phục Gia Long từ bỏ liên minh với Pháp và mở cửa nước mình cho người Anh đến buôn bán; nhưng cả hai phái đoàn đều thất bại. Năm 1808, người Anh lo rằng Napoléon có thể lợi dụng mối quan hệ Pháp – Việt để thiết lập sự hiện diện của họ ở Đông Nam Á, nơi mà ông ta có thể giúp nhà Nguyễn xây dựng lực lượng hải quân có thể đe dọa việc buôn bán của người Anh trên biển Đông. Nhiệm vụ của Drury là ngăn ngừa chuyện ấy xảy ra. Khi đến Vịnh Bắc bộ, Drury cố cho thuyền ngược dòng sông Hồng để tấn công hải quân Việt Nam và ép Gia Long thương lượng. Song bị Việt Nam đánh trả, phá hủy một số thuyền của Drury và buộc đội hình chính của hạm đội Anh phải giong buồm đi về Macao. Sau cuộc tháo chạy ấy, người Anh không còn có ý định can thiệp vào Việt Nam lần nào nữa cho đến năm 1822” (Mikaberidze A. 2020, tr. 488).

Kèm theo đó là chú thích số 63 ở cuối sách (trang 791), cho biết là để viết các đoạn trên, tác giả đã lấy thông tin từ 5 tài liệu sau đây: Vietnam: A New History (Goscha C. 2016, tr. 41-46); In Search of Southeast Asia (Steinberg D. J. ed., 1987, tr.128); “Les Anglais à Macao” (Maybon C.B., 1906, tr. 313-15); The Mandarin Road to Old Hué (Lamb A. 1970, tr. 175, tr. 189-95); Strange Parallels: Southeast Asia in Global Context (Lieberman V., 2003, tr. 25, tr. 60, tr. 352).

Trong số các tài liệu trên, chỉ có bài viết của C.B. Maybon “Les Anglais à Macao” (1906) là có đề cập đến cuộc xâm nhập vào Hà Nội của hạm đội Anh mà chúng tôi đã phân tích bên trên, còn những tài liệu còn lại không hề liên quan đến sự kiện đang khảo sát. Ngay cả những trường hợp mà tác giả đưa ra một địa chỉ tham khảo cụ thể, chẳng hạn như tr. 175 của sách The Mandarin Road to Old Hué hoặc tr. 128 của sách In Search of Southeast Asia thì ở đó cũng không có dòng nào liên quan đến người Anh. Thậm chí trong tổng số 12 trang viết về Việt Nam trong quyển tìm hiểu về các nước Đông Nam Á này, tác giả chỉ nói về tình hình chính trị xã hội từ khi Gia Long lên ngôi đến triều Tự Đức, chứ không hề đề cập đến các hoạt động ngoại giao của Việt Nam. Còn quyển Strange Parallels… của Victor Lieberman mà A. Mikaberidze đã đặc biệt lưu ý về “cách tiếp cận so sánh thú vị”, người đọc cũng không tìm ra đâu thông tin về cuộc xung đột đang bàn luận.

Tóm lại, những thông tin liên quan đến cái gọi là hạm đội Anh tiến vào Hà Nội mà A. Mikaberidze đưa ra cũng đều bắt nguồn từ Thánh Vũ Kí và/hoặc Quốc triều nhu viễn kí qua trung gian C.B. Maybon mà thôi. Nói cách khác, bài viết của Maybon năm 1906 đã đóng vai trò cầu nối giữa các nhà nghiên cứu ngày nay mà chúng tôi vừa điểm qua, với các tác giả viết bằng chữ Hán vào thế kỷ XIX, là Ngụy Nguyên và Vương Chi Xuân, và một phần nào đó là Tá Đằng Sở Tài. Thế mà trong một công trình được chính C.B. Maybon biên soạn sau đó 14 năm, quyển Histoire moderne du pays d’Annam 1592-1820 (Lịch sử hiện đại nước An Nam 1592-1820), tác giả không hề nói gì về quan hệ giữa Việt Nam với người Anh thời Gia Long, mặc dù ông đã để ra rất nhiều trang để nói về các mối bang giao với nước ngoài vào những năm đầu thời Gia Long, kể cả việc nhiều lần trích dẫn sách của G. Devéria, là người phương Tây đầu tiên trích dịch Thánh Vũ Kí. Liệu có thể hiểu rằng đó là bằng chứng cho thấy C. B. Maybon đã nhận ra sự thiếu tin cậy trong các tài liệu bằng chữ Hán đã nói bên trên?

Hải trình đi và về của Macartney đến Trung Hoa 1793-1794 (Lamb A., 1961, tr. 82b.) Inner PassageOuter Passage (J.W.Norie 1821, A New Chart of the China Sea…)
  1. Đâu là sự thật?

5.1. Về tình hình căng thẳng đầu thế kỷ XIX trong khu vực Đông Á

Lịch sử đối đầu nhau giữa hai cường quốc Anh và Pháp không chỉ diễn ra tại châu Âu, mà ngày càng lan rộng ra nhiều nơi trên thế giới, nhất là vào cuối thế kỷ XVIII và đầu thế kỷ XIX.  Ngay khi vừa ký kết hiệp ước hòa bình Amiens 1802 giữa một bên đứng đầu là Pháp và bên kia là Anh, thì năm sau, căng thẳng giữa hai cường quốc này tăng cao, đến độ ngày 18 tháng 5 năm 1803 viên đại sứ Anh tại Pháp đã rời Paris, và nội các ở Luân Đôn ra lịnh bắt giữ tất cả tàu thuyền của nước Pháp xuất hiện trong vùng kiểm soát của mình (Cordier H. 1903, tr. 216). Sự căng thẳng giữa hai đại cường này trầm trọng đến độ năm 1804 vua nước Anh George III, biệt hiệu là Haï Loung [Hải Long], tức Rồng biển, viết một bức thư đề ngày 22 tháng 5 âm lịch cho hoàng đế Trung Hoa để cảnh báo ông về mối đe dọa đến từ người Pháp:

“Từ mười hai năm nay, vương quốc Pháp đang trong tình trạng cách mạng và chiến tranh với vương quốc chúng tôi. Sẽ không ích gì nếu phải tường thuật tất cả tình tiết cho Bệ hạ, vì rằng Bệ hạ đã biết hết cả rồi. Vua nước Pháp [Louis XVI] là một người can trường; ông ta đã bị thần dân của mình sát hại; tôi nghĩ rằng Bệ hạ đã biết tình tiết này từ nhiều năm nay. Những con người đằng sau âm mưu ghê tởm ấy đáng nhận được sự căm phẫn muôn đời. Bây giờ nước Pháp có một con người đê tiện [Napoléon Bonaparte] đang lèo lái vương quốc ấy như một thủ lĩnh của dân tộc; ông ta không ngừng tìm cách đánh lừa mọi người bằng học thuyết dối trá và những kế hoạch sai lầm” (Cordier H. 1920, tr. 409).

Tháng 12 năm 1807 Pháp gây chiến ở bán đảo Iberia, và sau đó chiếm đóng Bồ Đào Nha, khiến tháng 3 năm 1808 triều đình nước này phải chuyển đến Rio de Janeiro (Brazil) để lánh nạn. Anh không thể ngồi yên nhìn Napoléon thao túng: một mặt họ cho thuyền chiến giúp hoàng gia Bồ Đào Nha di tản, mặt khác họ tìm cách tăng cường sức mạnh kinh tế và quân sự ở những nơi mà người Pháp còn yếu thế hoặc chưa với tới. Cũng trong khoảng thời gian này, Ủy ban Chuyên trách (Select Committee) ở Macao cho biết là họ đã nhận được nguồn tin tình báo đáng tin cậy là nước Pháp đang có ý định giành quyền kiểm soát nhượng địa Macao của Bồ Đào Nha, nên yêu cầu toàn quyền Anh ở Ấn Độ giúp đỡ. Lord Minto đã cử chuẩn đô đốc William O’Bryen Drury chỉ huy một lực lượng hải quân đến ứng phó tình hình. Tháng 9 năm 1808, quân Anh bèn đổ bộ lên Macao. Các quan chức Trung Hoa khi hay tin liền ngưng việc buôn bán của người Anh ở Quảng Đông, cho các nhân viên người Hoa ngừng phục vụ ở 13 thương điếm, và hạn chế việc cung cấp thực phẩm cho thương nhân người Anh (Song-Chuan Chen 2017, tr. 109). Cuối cùng hạm đội của Drury phải rút về Ấn Độ vào tháng 12 cùng năm.

5.2. Những cuộc tiếp xúc giữa Việt Nam và Anh Quốc thời Gia Long

Qua khảo sát Đại Nam Thực lục, Mục lục châu bản triều Nguyễn, Quốc triều chính biên toát yếu (Cao Xuân Dục) và đối chiếu tài liệu của Công ty Đông Ấn Anh, Bộ Hải Quân Anh (như The Naval History of Great Britain của Campbell J. 1808, The Naval Chronicle, The Royal Navy của W. Laird Clowes, Report relative to the trade with the East Indies and China của Select Committee of the House of Lords 1829, The chronicles of the East India company,trading to China1635-1834 của Morse H. B. 1926, The History of British India của Wilson H. H., 1858, Frontier and Overseas Expeditions from India của India Army Intelligence Branch 1911…), cũng như các ghi chép của các sứ giả đi công cán trong vùng, và các ghi chép của các nhà truyền giáo, chúng tôi thấy từ năm 1801 đến 1812 tàu thuyền nước Anh đến Việt Nam vào những lần sau đây:

+ Lần 1 vào tháng 4 năm Tân Dậu (khoảng tháng 5 năm 1801): “Nước Hồng Mao sai người đem thư đến dâng phương vật mà xin miễn thuế cảng cho thuyền buôn. Vua hạ lệnh cho lưu trấn Gia Định viết thư trả lời, đánh thuế theo như thể lệ thuyền buôn Quảng Đông” (Quốc Sử Quán 2002, tr. 438). Về chuyến ghé thăm này, chúng tôi chưa tìm thấy ghi chép nào của người phương Tây.

+ Lần 2 vào tháng 6 năm Quý Hợi (khoảng tháng 7 năm 1803): “Hồng Mao sai sứ đến hiến phương vật, dâng biểu xin lập phố buôn ở Trà Sơn dinh Quảng Nam. Vua nói rằng: ‘Hải cương là nơi quan yếu, sao lại cho người ngoài được!’ Không cho. Sai trả vật lại mà bảo về” (Quốc Sử Quán 2002, tr. 564).

Trong những ghi chép của người Anh, khi tham khảo nhật ký của D. Lance trong tàng thư, A. Lamb cho biết lúc đang trên đường đến Quảng Đông nhận nhiệm vụ, Lance được lệnh dừng lại xứ Đàng Trong để thiết lập bang giao. Vào đầu tháng 9 năm 1803, vì nghĩ rằng vua vẫn còn ở Sài Gòn nên ông định vào đó để gặp nhà vua, nhưng khi đến Vũng Tàu ông gặp chiếc Eleanor; thuyền trưởng Allan của thuyền này cho biết rằng nhà vua đang ở Huế hay Đàng Ngoài, khiến ông phải thay đổi kế hoạch (Lamb A. 1961, tr. 101). Vì gió mùa Tây Nam cũng sắp hết khiến không thể đi Quảng Đông, nên ngày 9 tháng 9 năm 1803 Lance viết thư cho vua để báo tin chuyến công tác sắp tới của ông ở Đàng Trong, và nhờ thuyền trưởng Allan trao lại khi ra Đà Nẵng. Nhưng khi về đến Quảng Đông, sức khỏe ông sa sút không thể trở lại Đàng Trong, nên đề nghị J. W. Roberts thay thế. Roberts nhận chỉ thị ngày 19 tháng 11 năm 1803 và ngày 24 thì lên thuyền đi Đà Nẵng. Ngày 4 tháng 12 năm 1803 Roberts tới Đà Nẵng. Ngày 16 tháng 12, vì biết là nhà vua sẽ còn phải gặp sứ thần Trung Hoa chưa về Huế ngay, nên Roberts viết thư cho vua Gia Long rồi lên đường về Bengal. Roberts chỉ ở lại Đà Nẵng 12 ngày mà không đạt được kết quả nào (Lamb A. 1961, tr. 103-113).

Một nguồn thông tin khác có liên quan đến chuyến thăm năm 1803, đó là ghi chép của thuyền trưởng Purefoy của thương thuyền Griffin của công ty tư nhân Abbott & Maitland lúc đó cũng có mặt tại Đà Nẵng, ông cho biết thêm chi tiết về nguyên nhân không được tiếp đón: “Các vị quan được Huế cử tới để giao tiếp với Lance dứt khoát từ chối dịch thư này, vì biết rằng viên sứ giả đã đến bằng thuyền buôn, nên họ kết luận là ông ta không được vua Anh cử đến (Purefoy 1826, tr. 147).

+ Lần 3 vào tháng 6 năm Giáp Tý (khoảng tháng 7 năm 1804), Quốc Sử Quán ghi: “Nước Hồng Mao sai sứ đến dâng phương vật, dâng biểu xin thông thương. Lại xin cho người nước ấy ở lại Đà Nẵng, đi lại buôn bán. Vua nói: ‘Tiên vương kinh dinh việc nước, không để người Hạ lẫn với người Di, đó thực là cái ý đề phòng từ lúc việc còn nhỏ. Người Hồng Mao gian giảo trí trá, không phải nòi giống ta, lòng họ hẳn khác, không cho ở lại, ban cho ưu hậu mà khiến về, khước từ những phương vật họ hiến’. Rồi sau bọn Hội Thương Trọng hai ba lần dâng thư yêu cầu. Cuối cùng vua cũng không cho” (Quốc Sử Quán 2002, tr. 603).

Tài liệu người Anh ghi: ngày 22 tháng 7 năm 1804, Roberts quay lại Đà Nẵng với huấn thị của Lord Wellesley đề ngày 20 tháng 4 năm 1804. Huấn thị này gồm 27 mục, trong đó phần lớn tập trung vào việc gây dựng ảnh hưởng của Anh ở Việt Nam, và đặc biệt lưu ý đến sự hiện diện của một số người Pháp làm việc cho triều đình nhà Nguyễn và các nhà truyền giáo Pháp. Nhiệm vụ của chuyến công du được ghi rõ:

“…phải dùng mọi nỗ lực để nhà vua [Gia Long] ưng thuận các điều khoản được đề nghị về việc loại bỏ người Pháp, và trong nhãn quan đó, ông sẽ phải gieo vào tâm trí của nhà vua những tình cảm đúng đắn mà hình như nhà vua đang ấp ủ về bản chất và tiến trình của những nguyên tắc trái đạo lý [vì đã giết vua Louis XVI] đã ảnh hưởng trong một thời gian dài đến nước Pháp” (Lamb A. 1961, tr.121).

Nhưng ý định thương lượng thất bại. Trước khi rời Việt Nam, Roberts viết một bức thư đề ngày 14 tháng 8 năm 1804 gửi cho vua Gia Long:

“Tôi rất lấy làm tiếc là Bệ Hạ đã không sẵn lòng chấp nhận tình bạn và mối giao thương lâu dài với Công ty Đông Ấn Anh vinh quang […]. Quyết tâm rõ ràng từ phía Bệ Hạ nhằm né tránh mọi giao hảo với nước Anh theo nhận xét của tôi là không tương hợp với những lời khẩn cầu trước đây của Bệ Hạ và thái độ nhận hàng hóa [của người Anh gởi cho Bệ Hạ]. Tôi thấy rằng cách cư xử của Bệ Hạ là chông chênh, vụng về và bất nhất” (Louvet L. E. 1885, tr. 497).

L. E. Louvet cho biết rằng câu trên hàm ý là Roberts muốn nhắc lại chuyện trước đây Nguyễn Ánh đã liên lạc với Công ty Đông Ấn Anh xin cung cấp vũ khí và trang thiết bị quân sự để chống lại quân Tây Sơn. Nay bị từ chối thiết lập bang giao, lại nhận thấy nhiều người Pháp mang phẩm hàm cao trong triều đình Huế, nên Roberts hậm hực viết thư cho Gia Long với lời lẽ đe dọa: “Và tôi muốn thông báo thêm với Bệ Hạ rằng nếu Bệ Hạ chấp thuận cho các kẻ thù của Anh Quốc đặt thương điếm hay tạo cho họ dễ dãi về thương mãi dưới bất cứ hình thức nào, thì Bệ Hạ sẽ phải cân nhắc rõ rằng khi giao hảo với họ, Bệ Hạ sẽ chuốc lấy sự oán hận của chính phủ Anh” (Louvet L. E. 1885, tr. 498). Có lẽ vì bức thư này mà tin đồn về sự hiềm khích giữa người Anh và triều đình Huế đã nhanh chóng lan tới Macao. Trong một diễn biến khác, L. Cadière cho biết thêm khi tham khảo hồ sơ lưu trữ ở Paris: trong một thư Chaigneau viết gởi Létondal khoảng năm 1806-1807 có đoạn tiết lộ về cuộc tranh chấp tài chính giữa nhà Nguyễn với công ty Abbott & Maitland: “Nhà vua rất sợ người Anh; ông xử sự khá vụng về trong vụ này. Mặc dù ông nói rằng các ông Abbott và Maitland còn nợ nhà vua một số tiền lớn, nhưng thật ra chính ông mắc nợ công ty này. Tôi đã nói với nhà vua về việc này, nhưng ông không muốn trả lại những gì ông đang giữ” (Cadière L. 1912, tr. 59). Sau khi công bố bức thư trên, L. Cadière có lời chú thích cuối trang như sau: “Khoảng thời gian này, qua thư từ của các nhà truyền giáo người ta thấy rằng ở Việt Nam đang có mối lo sợ người Anh lúc ấy đang rất muốn đặt chân ở Đà Nẵng hay Vũng Tàu, sẽ lợi dụng cách ứng xử của vua Gia Long mà động binh ở Việt Nam” (Cadière L. 1912, tr. 59). Cadière không cho biết đó là thư từ giữa các nhà truyền giáo nào, nhưng qua đó ông khẳng định rằng mối quan hệ căng thẳng với người Anh là có thật.

+ Lần 4 vào tháng 9 năm Đinh Mão (khoảng tháng 10 năm 1807): “Thuyền buôn của người Hồng Mao Kê Lê Mân đậu ở Đà Nẵng. [Vua] sai Tham tri Hộ bộ Lê Viết Nghĩa và Giám thành sứ Trần Văn Học đến dò ý đến làm gì. Dụ rằng: ‘Người Hồng Mao không hiểu lễ phép luật lệ, bọn ngươi đi chuyến này nên đối đãi rộng rãi’. Rồi đưa [Kê Lê Mân] về Kinh, sai bọn Nguyễn Văn Chấn, Nguyễn Văn Thắng và Lê Văn Lăng(4) (người Pháp) tiếp chuyện. Kê Lê Mân bày tỏ rằng chủ tàu là Áp Bột Miệt Lăng trước đây buôn bán ở Gia Định, bán nhiều súng ống cho nhà nước, nay túng tiền, xin tăng giá trả cho. Vua nói: ‘Bọn lái buôn giảo quyệt nước ngoài đã lấy cớ túng thiếu mà kêu xin thì triều đình ta giàu có bốn biển, há đáng so kè với chúng’. Bèn sai cấp cho 24.000 đồng bạc phiên, rồi bảo đi” (Quốc Sử Quán 2002, tr. 708).

Chúng tôi không tìm thấy tài liệu nào của Anh nói về chuyến đi đến Việt Nam của công ty Áp Bột Miệt Lăng (Abbott-Maitland) năm 1807, và cũng không dò ra tên chính xác của viên đại diện công ty là gì. Trong bài viết công bố năm 1826, Purefoy không nói về chuyến đi này, và Lamb cũng không cung cấp tài liệu nào liên quan đến chuyến đi này. Chỉ có mẫu tin trích từ báo cáo của Ủy ban Chuyên trách của Thượng viện (Select Committee of the House of Lords) như sau:

“Năm 1807, trung úy Ross được cử đi dọc bờ biển Đàng Trong để điều nghiên quần đảo Hoàng Sa, và được ủy thác một bức thư gởi nhà vua [Gia Long], nhưng ông phải nếm mùi đối xử ghẻ lạnh nhất. Một người Pháp tên là D’Ayot lúc ấy cũng được sử dụng để cố gắng xua tan thành kiến xấu về người Anh mà ông cho biết là đã có từ lâu rồi, và đã được người Bồ Đào Nha kích động bằng những sự xuyên tạc gây phẫn nộ (Select Committee of the House of Lords 1829, tr. 354).

+ Lần 5 vào tháng 3 năm Mậu Thìn(5) [khoảng tháng 4 năm 1808]: “Thuyền trưởng Hồng Mao là Tô Lô Xuy La Môn đáp chở hơn năm trăm khách buôn người Thanh, bị nạn bão đến đậu ở cửa Đà Nẵng. Dinh thần Quảng Nam tâu lên. Sai cấp tiền gạo cho khách buôn bị nạn rồi cho đưa theo đường bộ trở về nước Thanh. Lại thấy Tô Lô Xuy La Môn cứu giúp nạn nhân, thưởng cho 300 phương gạo rồi bảo đi” (Quốc Sử Quán 2002, tr. 723).

Không có thông tin gì về việc người Anh có đến Đàng Trong hay Đàng Ngoài vào năm 1808. Trong một bài viết tổng hợp các nỗ lực của Công ty Đông Ấn Anh để mở rộng địa bàn ở vùng Viễn Đông được đăng trên tạp chí The Asiatic Journal xuất bản tại London vào các số ba tháng đầu năm 1822, có đoạn thông tin như sau:

“Ghi chép cuối cùng của giao dịch giữa Công ty với Đàng Trong là vào năm 1808, khi chính quyền Bengal có thư hỏi nhà vua để xin thanh toán tiền gỗ mà các thương nhân Abbott & Maitland ở Madras đã cung cấp. Nhưng cách này dù được lặp lại nhiều lần vẫn không hiệu quả” (The Asiatic Journal 1822, tr. 16).

Về phía các quan lại người Pháp trong triều Gia Long, ngày 12 tháng 5 năm 1808 Chaigneau viết một bức thư gửi M. Létondal ở Macao nhưng không hề có thông tin gì liên quan đến sự xuất hiện của người Anh ở Đà Nẳng tháng 4 năm 1808 như Quốc Sử Quán ghi (Cadière L. 1912, tr. 60).

Về phía Bộ Hải Quân Anh, Ủy Ban Cơ Mật (Secret Committee) nhận được báo cáo của Ủy Ban chuyên trách (Select Committee) đề ngày 3 tháng 3 năm 1809, trong đó họ chỉ báo cáo Chuẩn Đô đốc William O’Brien Drury đến Macao vào ngày 11 tháng 9 năm 1808, với một đơn vị nhỏ gồm 300 lính của Madras, mà không có huấn thị nào của chính quyền Bồ Đào Nha ở Goa gửi cho Macao, khiến người Trung Hoa và cả người Macao phản đối (Morse H. B. 1926, tr. 96).

Hơn mười năm sau đó, người Anh cử một phái đoàn ngoại giao đi Xiêm và Việt Nam năm 1821-1822 do J. Crawfurd dẫn đầu. Thế nhưng nhật ký của J. Crawfurd (1828) và của G. Finlayson (1826) không hề nhắc đến cuộc đổ bộ lên Macao năm 1808 do chuẩn đô đốc Drury chỉ huy, cũng như không có dòng chữ nào cho thấy đã có xung đột giữa Anh và Việt Nam lúc ấy, mặc dù họ đã giành nhiều thời gian để điểm lại tình hình bang giao trong khu vực.

+ Lần 6 vào tháng 6 năm Nhâm Thân (khoảng tháng 7 năm 1812):

“Tàu của người Hồng Mao là Ốc Luân đậu ở vụng Trà Sơn, dâng biểu nói năm trước nhà vua mua súng đạn của trưởng tàu là áp Bột Miệt Lăng giá bạc hãy còn thiếu, xin trả cho. Quản tàu vụ là Nguyễn Đức Xuyên đem việc tâu lên. Vua nói: ‘Người Di Địch chỉ biết có lợi, khó nói nhân nghĩa được. Giá hàng mua năm trước còn ở sổ kia. Gần đây Kê Lê Mân đến xin thêm giá, ta cũng không thèm so đọ, đã cho đủ số rồi. Nay lại tham lam không chán, sở dục biết làm sao cho no được?’ Bèn sai Đức Xuyên làm thư nghiêm trách, và sao cả sổ mua hàng cho xem. Ốc Luân được thư xấu hổ và sợ, đi mất” (Quốc Sử Quán 2002, tr. 841).

Không thấy ghi chép nào của người Anh về chuyến ghé thăm này: A. Lamb cũng chỉ dựa vào lời kể của nhà truyền giáo Marchini qua bức thư của A. de Kergariou viết từ Macao đề ngày 9 tháng 12 năm 1817 gửi Bộ trưởng Hải quân, được H. Cordier công bố nguyên văn năm 1908. Thư cho biết là vào năm 1812, một chiếc khinh hạm Anh đến vịnh Đà Nẵng, nhân danh Công ty Đông Ấn Anh đòi một khoảng tiền gần 100.000 đồng đô la Mexico(6), mà nhà vua không nợ, bởi vì việc giao dịch này đã bị đình chỉ và đã kết toán từ năm 1807(7). Nhà vua từ chối làm theo yêu cầu của viên thuyền trưởng người Anh; người này đe dọa là sẽ cho 20.000 quân đổ bộ cùng với lực lượng hải quân Anh. Nhà vua tuyên bố rằng ông ta thà vùi thây dưới đống đổ nát của vương quốc mình hơn là nhượng bộ những yêu sách bất công của người Anh. Và từ đó ông ta chờ họ đến vào mỗi đợt gió mùa, và trong ba năm liên tục ông cho đắp lũy lớn gấp ba lần quanh vịnh Đà Nẵng và các lối vào: ông luôn trong tư thế đề phòng cảnh giác (Cordier H. 1908 tr. 187-8).

  1. Về hải trình của hạm đội Drury từ Ấn Độ đi Trung Hoa

Không thấy tài liệu nào ghi lại hải trình của hạm đội Drury đi Macao năm 1808 như chuyến công du Trung Hoa năm 1793-1794 của đại sứ Macartney, được Staunton vẽ lại cho thấy lượt đi ông vòng ra phía Đông quần đảo Paracels tức Hoàng Sa, lúc về thì men theo bờ biển Đông Nam của đảo Hải Nam rồi hướng về bờ biển miền Trung Việt Nam và đi về eo biển Sunda. Đó là hải trình quen thuộc mà các nhà hàng hải châu Âu thường sử dụng để đi Trung Hoa; sự lựa chọn này dựa trên kiến thức và kinh nghiệm đã được đúc kết qua nhiều thế hệ các nhà du hành. Thật vậy, trong những sách của người phương Tây viết về hải trình đi Trung Hoa, từ D’Après de Mannevillette đến A. Dalrymple, J. Horsburgh…, người ta chỉ mô tả hai tuyến đường, một ven bờ biển miền Trung Việt Nam và bờ Đông đảo Hải Nam để đi Quảng Đông hoặc về lại eo biển Malacca hoặc Sunda, thường được gọi là Inner Passage (hành lang trong), và tuyến phía đông quần đảo Trường Sa, được gọi là Outer Passage (hành lang ngoài).

“Từ eo biển Malacca đi về sông Quảng Đông [Châu Giang], có lẽ thuận lợi nhất là đi bằng hành lang trong [Inner Passage], dọc theo bờ biển xứ Đàng Trong trong các tháng Ba, tháng Tư và tháng Năm; nhưng khi tháng Sáu cận kề, và gió mùa phương Nam bắt đầu thổi đều, thì tuyến đường đi băng qua bãi ngầm Macclesfield [Outer Passage] lúc ấy sẽ là tuyến tốt nhất” (Horsburgh J. 1805, tr. 22).

Điều đó có nghĩa là nếu đích đến của hạm đội của Drury là Macao thì không thể có chuyện tàu thuyền của viên phó đô đốc này lại ngẫu hứng vào Vịnh Bắc bộ rồi ngược lên sông Hồng để gây hấn với Hà Nội, nhất là khi phương Tây đã không còn tới lui nơi này từ hơn một thế kỷ:

“Kẻ Chợ, kinh đô của xứ Đàng Ngoài, nằm cách cửa sông Hồng 28 dặm lớn. Cách nay hơn 140 năm tàu thuyền châu Âu đã vào buôn bán qua con sông này; nhưng việc buôn bán đã ngưng lại từ lâu rồi, và vì những chỉ dẫn hàng hải của vịnh [Bắc bộ] đã không còn được biên soạn kỹ càng, nên bây giờ kiến thức về luồng lạch ở đây của người châu Âu gần như mất hết, và có lẽ sẽ vẫn tiếp tục như thế, trừ khi việc giao thương hồi sinh, và lại thu hút tàu thuyền trở lại chốn này: do đó, những ghi nhận trước đây về vùng biển và sông ngòi này không đáng tin cậy hoàn toàn” (Horsburgh J. 1817, tr. 247).

Hình chụp phóng to Inner Passage đi ngay qua mũi Choumay (Chân Mây) rồi bọc dưới đảo Hải Nam, và Outer Passage đi phía ngoài Pulo Condore (Côn Đảo)

Kết luận

Qua khảo sát trên đây, chúng ta thấy mọi thông tin về cuộc xâm nhập Hà Nội năm 1808 đều bắt nguồn từ các tác giả Ngụy Nguyên, Vương Chi Xuân và một phần nào đó là từ Tá Đằng Sở Tài. Thế mà nguồn gốc thông tin mà các tác giả này đã sử dụng thì rất mù mờ, độc giả không thể kiểm chứng độ tin cậy của chúng. Nhưng điều quan trọng là trong rất nhiều văn bản chính thức của Bộ Hải Quân Anh, Công ty Đông Ấn Anh và Quốc Sử Quán Triều Nguyễn không hề có dòng nào về một cuộc tấn công như vậy. Tình trạng này khiến cho nghi vấn của Hoàng Xuân Hãn càng đáng lưu ý: “có lẽ tác giả đã khuếch trương một sự kiện nhỏ, cuộc xô xát đụng chạm của tàu buôn với tàu tuần của ta” (1968, tr. 7).  Liệu bấy nhiêu dữ liệu đã nêu bên trên đã đủ hay chưa để kết luận rằng các tác giả thế kỷ XIX này thiếu kiểm chứng khi biên soạn tài liệu lịch sử, mà hậu quả là hơn 100 năm sau vẫn còn nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới cứ dựa theo đó mà viết về một sự kiện không có thật? Thật ra, cách làm này cũng không gây bất ngờ nhiều đối với giới nghiên cứu người Việt, nếu họ đã đọc bài viết của Nguyễn Văn Tố năm 1937, trong đó ông đã từng cảnh báo về hiện tượng “thông tin giả (pseudo-informations)” về lịch sử Việt Nam đầy rẫy trong các tài liệu viết bằng tiếng Trung Hoa (1937, tr. 48).

(Bài đã đăng trên tạp chí Xưa & Nay, số tháng 10/2024)


Tài liệu tham khảo

Cadière L. 1912. Documents relatifs à l’époque de Gia-long. Tạp chí B.E.F.E.O., số 12.

Cordier H. 1903. La France et l’Angleterre en Indo-Chine et en Chine sous le Premier Empire. Tạp chí T’oung Pao, Second Series, Vol. 4, No. 3.

Cordier H. 1908. Bordeaux et la Cochinchine sous la Restauration. Tạp chí T’oung Pao, Series II, Vol. IX, 1908.

Cordier H. 1920. Histoire générale de la Chine et de ses relations avec les pays
étrangers
, Q. 3. Paris: Librairie Paul Geuthner.

Horsburgh J. 1805. Memoirs: Comprising the Navigation to and from China, by the China Sea. London: Printed for the Author.

Horsburgh J., 1817. The India Directory or Directions for Sailing to and from the East Indies, Vol. 2, Second Edition. London: Printed for the Author.

Lamb A. 1961. British Missions to Cochin China: 1778 – 1822. Kuala Lumpur: MBRAS

Lamb A. 1970. The mandarin Road to Old Hué. London: Chatto & Windus.

Louvet L. E. 1885. La Cochinchine religieuse, Quyển 2. Paris: Ernest Leroux Éditeur.

Maybon C. B. 1906. Les Anglais à Macao en 1802 et 1808. Tạp chí BEFEO, số 6 (1906).

Mikaberidze A. 2020. The Napoleonic Wars: A Global History. New York: Oxford University Press.

Morse H. B. 1926. The chronicles of the East India company,trading to China1635-1834. Vol. 3. Cambridge at the Harvard University Press & Oxford at the Clarendon Press.

Nguyễn Văn Tố 1937. Petrus Ký (1837-1898). Trong tạp chí Bulletin de la Société de l’enseignement mutuel au Tonkin, số XVII (1937).

Purefoy 1826. Cursory remarks on Cochin China. Tạp chí The Asiatic Journal and Monthly Register, Vol. 22 (July – December).

Quốc Sử Quán 2002. Đại Nam thực lục, Tập 1. Hà Nội: Nxb Giáo dục.

Select Committee of the House of Lords 1829. Report relative to the trade with the East Indies and China. London.

Song-Chuan Chen 2017. Merchants of War and Peace: British Knowledge of China in the Making of the Opium War. Hong Kong: Hong Kong University Press.

Steinberg J. D. 1987 (ed.). In Search of Southeast Asia: A Modern History. Honolulu: University of Hawaii Press.

The Asiatic Journal…, 1822. A Succinct Historical Narrative of the East-India Company… Tạp chí The Asiatic Journal and Montly Register… tháng 1, 2, 3 năm 1822.

Wakeman F. 2004. Drury’s Occupation of Macau and China’s Response to Early Modern Imperialism. Tạp chí East Asian History số 28 (Dec. 2004).

Wang Wensheng 2014. White Lotus Rebels and South China Pirates. Cambridge, Massachusetts, London: Harvard University Press.

Chú thích:

(1) Wakeman viết là vice-admiral (phó đô đốc), nhưng năm 1808 Drury chỉ mới là rear-admiral (chuẩn đô đốc).

(2) Ngoài các chuyến đi ngoại giao và các chuyến hàng của Abbott & Maitland, còn có cả một thuyền khảo sát địa lý hàng hải của Anh đã đến Việt Nam: năm 1807, trung úy Ross được cử đi dọc bờ biển Đàng Trong để điều nghiên quần đảo Hoàng Sa, và được ủy thác một bức thư gởi vua Gia Long (Select Committee 1829, tr. 354).

(3) Năm 1969, Mai Chưởng Đức đã có bài giới thiệu và công bố bản dịch một số chương đầu của sách Trung Việt Văn hóa luận tập đăng trên tập san Sử Địa (Sài Gòn), các số 14-15 (1969), 17-18 (1970), 20 (1971) và 25 (1973), trong khi đoạn có liên quan nằm ở trang 207 của bản tiếng Hoa.

(4) Tên tiếng Việt của các quan người Pháp từng theo Nguyễn Ánh, lần lượt là P. Vannier, J.B- Chaigneau và De Forçant.

(5) Trần thị Vinh (tr. 500) lại ghi là tháng 5/1808, mặc dù trích dẫn từ Thực lục, tập I, sđd, tr. 723. Không biết tác giả quy đổi ra tháng dương lịch bằng cách nào khi không có ngày cụ thể.

(6) Nguyên văn tiếng Pháp là “piastre”, là từ để chỉ đơn vị tiền tệ quốc tế thông dụng từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX do Mexico sản xuất, do đó nó còn được gọi là “đô la Mexico”.

(7) Năm 1887, A. Septans công bố một trích dẫn bức thư (1887, tr. 113-114), nhưng lại thiếu ý này.

Bình luận về bài viết này