
chiến hạm Anh khoảng 1808
Trần Thanh Ái
Gần đây, trên báo chí và mạng xã hội có một số bài viết nhắc đến “một trận thủy chiến khác cũng oanh liệt không kém(1) nhưng ít được sử sách và người đời nhắc đến. Trong trận chiến này, thủy quân Anh quốc, cũng là một lực lượng hùng mạnh trên thế giới, đã phải nếm mùi thất bại”. Có bài còn cho rằng đó là “một chiến thắng oanh liệt bậc nhất mà ít khi được truyền thông nhắc tới”. Phần lớn các bài viết ấy đều không ghi xuất xứ của thông tin, hoặc nếu có thì cũng ghi rất sơ sài, khiến việc kiểm chứng tính chính xác của chúng không dễ dàng. Vài bài viết hiếm hoi về sự kiện này cho biết đã tham khảo từ Việt sử toàn thư, nhưng không ghi tên tác giả, và cũng không có năm xuất bản. Vậy đâu là sự thật? Việc tìm hiểu sự thật lịch sử rất cần thiết chẳng những vì đó là một đòi hỏi của khoa học, mà nó còn là trách nhiệm đối với các thế hệ tương lai, vì không thể để cho thế hệ mai sau lớn lên trong niềm tin được xây dựng trên những thông tin thiếu chứng cứ, có nguy cơ dẫn đến hoang tưởng.
- Vài thông tin ít ỏi ban đầu
Có lẽ không có quyển sách nào khác mang tên Việt sử toàn thư ngoài sách của Phạm Văn Sơn xuất bản năm 1960 tại Sài Gòn. Thật vậy, sách này có nói đến một sự kiện được cho là xảy ra vào năm 1803 trên một dòng sông dẫn từ biển về Hà Nội như sau:
“Vua Gia Long lên ngôi được hai năm (1804) do lời đề nghị của Công ty Đông Ấn, Anh gửi xứ thần Sir Robert [sic!] đến Việt Nam. Bấy giờ Chaigneau và Vannier đang có nhiều uy thế bên vua Gia Long đã xúi nhà vua khước từ ngoại giao với Anh, tuy vậy Anh còn đưa thư hai ba lần nữa nhưng Thế Tổ cũng vẫn từ chối. Sau này vào năm 1803, một hạm đội của Anh gồm 7 chiếc tàu tiến vào Hà Nội bị quân ta đốt cháy, nhưng không thấy Anh phản ứng” (Phạm Văn Sơn 1960, tr. 591).
Có lẽ đoạn trên đây có lỗi in ấn liên quan đến thời điểm của sự việc: không thể có chuyện “sau này”, tức sau 1804, mà lại là “vào năm 1803” được! Một năm sau, Phạm Văn Sơn cho xuất bản quyển 4 của bộ Việt sử tân biên, trong đó tác giả cung cấp nhiều chi tiết hơn về sự kiện trên, và đặc biệt là một số chi tiết liên quan đến sự kiện đã được thay đổi:
“Vào năm 1804, Anh quốc cũng cho người vào Việt Nam, bấy giờ đã thuộc về họ Nguyễn. Nhưng vua Gia Long đã khước từ việc ngoại giao này, rồi tới năm 1808 bị phong tỏa ở lục địa, Anh còn gắng đến Việt Nam để mở một thị trường tiêu thụ cho các sản phẩm của mình. Một hạm đội gồm 10 chiếc tàu lớn của Anh đã vào bờ biển Việt Nam nhưng chỉ có 3 chiếc lên tới bến sông Nhị. Chánh quyền địa phương tưởng rằng các tàu này của Tây phương có gian ý nên đã cho phục kích một số chiến thuyền của mình ở các lạch gần đấy rồi nhờ đêm tối đến phóng hỏa các tàu của Anh. Hình như tàu Anh không bị hư hao gì đáng kể, nhưng vì việc đã xẩy ra như vậy nên người Anh bỏ ra đi” (Phạm Văn Sơn 1961, tr. 289-290).
Trong phần chú thích cuối trang hiện ra một manh mối nhỏ: tác giả cho biết thông tin trên được viết “theo tài liệu của Deriva [sic!] Histoire des relations de la Chine avec l’Annam”(2) (Lịch sử bang giao Trung – Việt). Tài liệu này cũng được Phạm Văn Sơn liệt kê trong mục tài liệu tham khảo của cuốn Việt sử toàn thư (1960), nhưng tác giả không cho biết đã tham khảo nó để viết về vấn đề nào trong sách này.
Tuy nhiên, trong các tài liệu chính thức được Quốc Sử Quán biên soạn, như Đại Nam thực lục, Đại Nam liệt truyện, và cả những sách do các sử quan triều Nguyễn biên soạn như Quốc triều chính biên (Cao Xuân Dục), từ năm 1803 đến 1808 không hề có dòng nào nói về một vụ tấn công của hạm đội Anh vào Hà Nội cả. Một sự kiện đặc biệt nghiêm trọng về mặt quân sự lẫn ngoại giao như vậy không thể nào bị các sử quan bỏ sót được, nhất là thời điểm xảy ra vẫn còn rất gần với năm bắt đầu biên soạn các bộ sách nói trên. Và càng không có lý do gì để suy đoán rằng các sử quan đã cố tình bỏ qua sự kiện ấy, bởi lẽ, nếu sự kiện đó có thật, thì đó sẽ là một chiến công hiển hách bổ sung vào công trạng triều Nguyễn. Hơn nữa, trong tất cả các bộ sử hiện đại khác, từ quyển 2 của bộ Cours d’Histoire annamite của Trương Vĩnh Ký (1877), hoặc Việt Nam Sử lược của Trần Trọng Kim (in lần đầu năm 1920), hay bộ Lịch sử Việt Nam (quyển 5 do Trương Thị Yến chủ biên năm 2017) đều không nói về sự kiện trên. Chuyên khảo về lịch sử Hà Nội, quyển Lịch sử Thăng Long Hà Nội do Nguyễn Vinh Phúc chủ biên (2005), cũng không hề đề cập đến một sự kiện nào như thế vào đầu triều nhà Nguyễn. Điều này rất không bình thường, nhất là khi sự kiện ấy không quá xa xưa, và tài liệu tham khảo cũng không quá hiếm hoi. Vì thế độc giả cảm thấy rất khó hiểu, và giới nghiên cứu lịch sử không thể làm ngơ trước những thông tin như vậy.
- Các tài liệu phương Tây đầu tiên viết về thông tin này
Lần theo manh mối trên, chúng tôi thấy rằng trước Phạm Văn Sơn rất lâu, vài tác giả phương Tây đã trích dẫn sách Histoire des relations de la Chine avec l’Annam của G. Devéria để đưa thông tin này. Trước hết, chúng tôi giới thiệu tài liệu của G. Devéria trong đó có đoạn nói về cuộc đụng độ này.
2.1. Về sách Histoire… của G. Devéria
Sách của G. Devéria được xuất bản năm 1880 tại Paris, dày 102 trang, gồm 61 mẩu tin liên quan đến mối quan hệ Việt Nam – Trung Hoa trong nhiều thế kỷ, từ thời Lê Lợi đánh đuổi quân Minh và lập nhà Lê năm 1427, đến những năm đầu trị vì của vua Gia Long. Trong lời dẫn nhập, G. Devéria cho biết đây là bản dịch một số chương của sách Sheng Wu Ji 聖武記 (Thánh Vũ kí) của Wei Yuan 魏源 (Ngụy Nguyên, 1794-1857), gồm 14 quyển, xuất bản lần đầu tiên năm 1842. Ông cũng cho biết là thỉnh thoảng khi thấy cần thiết ông có trích một số đoạn từ chính sử 欽定大淸會典事例 [Khâm định Đại Thanh hội điển sự lệ], xuất bản lần đầu năm 1818, gồm 920 quyển. Tuy nhiên, ông lại không cho người đọc biết những mẩu tin nào ông đã thỉnh thoảng dịch từ Khâm định, khiến việc truy tìm nguồn tin phải mất nhiều thời gian. Cũng cần nói thêm là G. Devéria đã sống và làm việc ở Trung Hoa suốt hơn 20 năm, trải qua nhiều cương vị, từ phiên dịch viên thứ nhất của phái đoàn Pháp ở Trung Hoa, đến chức Tổng Lãnh sự Pháp từ năm 1888, cũng như đã biên soạn nhiều công trình nghiên cứu về lịch sử Trung Hoa.
Đoạn nói về sự kiện năm 1808 trong sách của G. Devéria được đánh số thứ tự 38, kèm theo tiểu tựa “Mưu toan của người Anh ở An Nam năm 1808”:
“Ngay từ đầu, chính phủ An Nam đã tỏ ra phản đối thuốc phiện và đạo Thiên Chúa; vì thế từ lâu các thương thuyền không còn cập bến Quảng Nam nữa. Một số sĩ quan Anh đóng ở Ấn Độ khi được tin Chúa Nguyễn lên ngôi, nghĩ rằng cơ hội thuận lợi đã đến để cho đội chiến thuyền hơn 10 chiếc ngược sông Phú Lương. Người An Nam bèn giấu đội thuyền mành của họ trong các sông nhánh; trong bán kính 10 dặm lớn không còn một bóng người. Khi thuyền của người Anh đến sát Đông Đô (Hà Nội), đang đêm hơn 100 thuyền mành túa ra hạ lưu sông Phú Lương, cắt ngang đường rút lui của người Anh, rồi tấn công, đốt cháy bảy tám thuyền đã tiến sâu vào kinh thành. Những chiếc còn ở ngoài cửa sông thì sợ hãi và tháo chạy, nhưng xấu hổ vì phải trở về căn cứ trong tư thế như vậy, họ bèn giương buồm chạy về Quảng Đông và tấn công Ngao-men [Áo Môn] (tức Ma Cao) nhưng cũng thất bại, đành rút lui. Những sự việc này xảy ra vào năm Kia-tsing [Gia Khánh] thứ 13 (1808), lúc Ou-chiong-koang [Ngô Hùng Quang] cai trị Lưỡng Quảng” (Devéria G. 1880, tr. 54-55).
Cách tường thuật của tác giả đoạn văn trên khiến người đọc liên tưởng đến một đội thuyền bè hải tặc, khi không cướp phá được chỗ này thì chạy sang cướp phá chỗ khác, chớ không phải là một một hạm đội của một cường quốc hàng hải đang hành quân xa ngàn dặm từ Ấn Độ sang. Dưới ngòi bút của Ngụy Nguyên, cuộc tấn công Macao có thể được hiểu như là một sự kiện mới phát sinh, không nằm trong kế hoạch hành quân của hạm đội Anh! Cuối trang 55, dịch giả G. Devéria viết thêm trong phần cước chú: “tôi lấy làm tiếc vì đã không tìm thấy tài liệu nào liên quan đến mưu toan của người Anh ở miền Bắc Việt Nam trong các sách báo bằng tiếng Pháp hay tiếng Anh mà tôi có được”.
Mặt khác, khi đối chiếu hai quyển sách của Phạm Văn Sơn với bản tiếng Pháp của G. Devéria, chúng ta sẽ thấy là thông tin “chánh quyền địa phương tưởng rằng các tàu này của Tây phương có gian ý” (Phạm Văn Sơn 1961) không hề có trong quyển thứ nhất (Phạm Văn Sơn 1960) cũng không có trong sách của Devéria, và câu “hình như tàu Anh không bị hư hao gì đáng kể” hoàn toàn ngược lại với những gì mà G. Devéria đã dịch. Vậy Phạm Văn Sơn đã dựa vào nguồn tài liệu tham khảo nào để điều chỉnh như thế?
2.2. Những tài liệu phương Tây viết theo G. Devéria
Ngay từ năm 1898, nhà Hán học nổi tiếng người Pháp tên là H. Cordier đã viết một chương trong bộ sách 12 quyển Histoire générale du IVe siècle à nos jours, về cuộc xung đột được cho là đã xảy ra trên sông Hồng năm 1808, khi đoàn thuyền Anh cố đến Hà Nội:
“Năm 1804, viên chỉ huy người Anh ở Quảng Đông theo lệnh của Công ty Đông Ấn Anh đến triều đình vua Gia Long với hai chiếc thuyền chở đầy hàng hóa và tặng phẩm. Vua Gia Long từ chối quà cáp và tuyên bố với người Anh rằng những ai đến buôn bán trong vương quốc của ông đều được hưởng những đặc quyền như các quốc gia khác. Năm 1808, táo bạo hơn, một hạm đội người Anh đi ngược sông Hồng đến tận Hà Nội, nhưng bị các thuyền mành của người An Nam chặn lại; tàu thuyền bị thiêu hủy. Số còn lại ngoài cửa sông Hồng giong buồm đi về hướng Bắc và đã khốn đốn ra sức chống lại Macao như đã nói bên trên” (Cordier H. 1898, tr. 992).
Thế nhưng, H. Cordier không cho biết ông lấy thông tin từ đâu để viết như thế; người đọc chỉ có thể suy đoán khi thấy tên sách của G. Devéria trong phần tài liệu tham khảo mà thôi. Sau đó, trong quyển 3 của bộ sách Histoire générale de la Chine xuất bản năm 1920 cũng của H. Cordier, ông đã trích dẫn nguyên văn bản dịch của G. Devéria đã nói bên trên, với ghi chú tường minh về nguồn tài liệu tham khảo này (Cordier H. 1920, tr. 411).
Năm 1906, trong bài “Les Anglais à Macao” (Người Anh ở Macao) của C. B. Maybon đăng trên tập san B.E.F.E.O của Viện Viễn Đông Bác cổ có trích dẫn lại sự việc trên từ H. Cordier (1898), nghĩa là từ G. Devéria, với những chi tiết đã nói bên trên. Tuy nhiên, trong bài viết này, C. B. Maybon đã cung cấp thêm nhiều thông tin khác liên quan đến cuộc đổ bộ lên Macao ngày 11 tháng 9 năm 1808 mà chuẩn đô đốc W. Drury đã được lệnh tiến hành để “bảo vệ Macao chống lại nước Pháp, theo hiệp ước đã ký kết giữa Bồ Đào Nha và Anh Quốc” (Maybon C. B. 1906, tr. 312). Thật vậy, rất nhiều tài liệu phương Tây xác nhận mục đích của hạm đội do Drury chỉ huy đến Macao năm 1808 là ra tay trước để ngăn ngừa người Pháp thừa thắng chiếm Macao sau khi Napoléon Ier chiếm nước Bồ Đào Nha năm 1807 (Ljungstedt A. 1836, tr. 75; Williams S.W. 1848, tr. 461; Eitel E. J. 1895, tr. 15-16; Montalto de Jesus C. A. 1902, tr. 180-186).
Trong bài viết này, Maybon cũng cung cấp thêm thông tin có liên quan từ một số nguồn tài liệu của người Trung Hoa, đặc biệt là sách Kouo tch’ao Jeou yuan ki(3) tức 國朝柔遠記 (Quốc triều nhu viễn kí) do Wang Tche-tch’ouen 王之春 (Vương Chi Xuân) sưu tập, khi nói về cuộc chiếm đóng Macao năm 1808 đã đề cập đến chi tiết liên quan đến Việt Nam, mà chúng tôi sẽ điểm lại trong phần sau. Điều khiến chúng tôi rất ngạc nhiên là trong suốt thế kỷ XIX có rất nhiều tác giả phương Tây viết về các sự kiện căng thẳng giữa nước Anh và Trung Hoa trong thập niên đầu của thế kỷ XIX, đặc biệt là các tác giả đã từng sinh sống và làm việc tại Quảng Đông vào thế kỷ XIX, nhưng không một tác giả nào đề cập đến cuộc đụng độ giữa hạm đội Anh và Việt Nam, ngoại trừ ba tác giả người Pháp này (G. Devéria, H. Cordier và C.B. Maybon). Thật vậy, vào thập niên 1830, A. Ljungstedt, người Thụy Điển, cho ra mắt 2 quyển: Contribution to an Historical Sketch of the Portuguese Settlements in China (1832 tại Macao) và An Historical Sketch of the Portuguese Settlements in China (1836, tại Boston), năm 1836 J. F. Davis, người từng là chủ tịch thương điếm Anh ở Quảng Đông xuất bản bộ The Chinese: A General Description of the Empire of China and its Inhabitants, năm 1848 S. W. Williams, nhà truyền giáo người Mỹ, cho in bộ The Middle Kingdom 2 quyển, năm 1895 E. J. Eitel cho ra mắt quyển Europe in China, năm 1898 D. C. Boulger tái bản bộ The History of China với nhiều bổ sung, hay vào năm 1902, C. A. Montalto de Jesus xuất bản quyển Historic Macao tại Hong Kong… các tài liệu này đều đề cập đến những biến cố nghiêm trọng mà người Anh đã gây ra tại Macao vào các năm 1802 và 1808, nhưng không hề nói gì liên quan đến Việt Nam trước khi hạm đội Anh đến Macao năm 1808.
- Các tài liệu cổ bằng chữ Hán nói đến sự kiện
Như đã nói bên trên, những tài liệu đầu tiên nói về cuộc xung đột được cho là đã xảy ra giữa hạm đội Anh và thủy quân nhà Nguyễn năm 1808 là những tài liệu viết bằng chữ Hán, như Thánh Vũ kí của Ngụy Nguyên, Quốc triều nhu viễn kí của Vương Chi Xuân được một số học giả người Pháp dịch và giới thiệu vài đoạn ngắn có liên quan đến Việt Nam. Sau đó, năm 1968, Hoàng Xuân Hãn cũng đã dịch và giới thiệu Ngụy Nguyên ở Việt Nam. Gần đây, Hồ Bạch Thảo (2017) giới thiệu một số đoạn trong quyển 5 và 7 của Hải quốc đồ chí của Ngụy Nguyên liên quan đến cuộc đụng đầu này. Hải quốc đồ chí mặc dù được tác giả bắt đầu biên soạn trước Thánh Vũ kí, nhưng lại được hoàn thành sau: lần xuất bản đầu tiên vào năm 1843 gồm 50 quyển, lần thứ hai vào năm 1847 gồm 60 quyển, và lần thứ 3 vào năm 1852 gồm 100 quyển. Tài liệu gây tiếng vang lớn trong giới học giả Đông Á vào thời bấy giờ, nhưng nó không được ba nhà nghiên cứu người Pháp nói trên nhắc đến.
Ngoài ra, chúng tôi còn tìm thấy một đoạn trong sách Thanh triều Sử lược của Tá Đằng Sở Tài được H. B. dịch đoạn có liên quan đến cuộc xung đột.
3.1. Sách Thánh Vũ Kí và Hải quốc đồ chí của Ngụy Nguyên
Năm 1968, Hoàng Xuân Hãn viết bài “Việt – Thanh chiến sử theo Ngụy Nguyên, một sử gia Trung Quốc đời Thanh”, trong đó có kèm theo bản dịch chương 乾隆征撫安南記 mà ông dịch là “Càn Long chinh vũ An Nam kí”(4) trong bộ Thánh vũ kí, trong đó có đoạn nói về việc người Anh đến miền Bắc năm 1808 trong mục ghi là “Phần phụ (trang 52/b)”:
“An Nam ghét thuốc phiện và giáo Thiên Chúa của Tây dương, đã cấm tàu buôn vào Quảng Nam từ lâu. Đến khi Anh Cát Lị đóng quân ở Ấn Độ; có tướng nghe chuyện nước họ Nguyễn mới gây việc binh, (cho rằng) có thể thừa nhịp. Bèn đem hơn mười tàu binh tiến vào cửa sông Phú Lương. Người An Nam rút hết thuyền giấu vào trong cảng. Trên vài trăm dặm, không có một ai. (Tàu Anh) tiến thẳng về Đông đô. Đang đêm, thình lình một trăm mười chiếc thuyền con ra phía dưới trong cảng, thừa lúc có gió, nước thủy triều mà đánh hỏa công. Rợ Anh không đường trốn. Bảy chiếc tàu vào trước bị đốt. Các tàu còn lại ở cửa sông sợ trốn, không có mặt mũi nào về nước. Bèn thuận nẻo tới Quảng Đông, mưu chiếm Áo Môn. Không làm được rồi đi, ấy là chuyện đời Gia Khánh thứ 13 (1808), khi Ngô Hùng Quang làm tổng đốc Quảng Đông” (Hoàng Xuân Hãn 1968, tr. 258).
Về việc tàu Anh vào sông Phú Lương, Hoàng Xuân Hãn cho biết: “tôi chưa biết [vụ này] có hay không và chỗ xuất xứ. Nhưng tôi nghĩ có lẽ tác giả đã khuếch trương một sự kiện nhỏ, cuộc xô xát đụng chạm của tàu buôn với tàu tuần của ta, sự kiện mà người Thanh lấy làm thích thú, vì họ đương bị tàu Anh uy hiếp” (Hoàng Xuân Hãn 1968, tr. 7). Có lẽ Hoàng Xuân Hãn đã dựa vào phần bình luận của Ngụy Nguyên (trang 53/a) cũng do ông dịch, để đưa ra giả thuyết là Ngụy Nguyên phóng đại một sự cố nhỏ nào đó nhằm đánh vào lòng tự ái của người Trung Hoa:
“Giặc tàu ô vào cướp Trung quốc cũng từng bị phá ở Mân, Việt, tan rã vì bão, thua tàu giáp bản của Tây dương xa lắm. Thế mà (An Nam) hai lần diệt được tàu của rợ Anh tới rình mò. Ấy đều (vì) để mặc giặc vào cảng, đặt quân phục, đánh hỏa công. […] Khăng khăng muốn súng Tây dương, tàu Tây dương mới đủ chế lại Tây dương! Như vậy chẳng làm An Nam nó cười cho sao? Đáng buồn cười! Như muốn đưa trát thuyền (thuyền nhẹ mang súng chạy mau) để ruổi ngoài khơi, hoặc khăng khăng giữ cửa bể mà không nhử vào thẳng, lại chẳng để An Nam nó cười cho chăng? Đáng buồn cười!” (tr. 258-259).
![]() |
![]() |
| H1: Trang đầu của chương乾隆征撫安南記 được in trong bài của Hoàng Xuân Hãn (1968) | H2: Đoạn nói về thuyền Anh vào sông Phú Lương mà G. Devéria và Hoàng Xuân Hãn đã dịch (từ nửa sau cột 10 ở trang phải và các cột từ 1 đến 6 ở trang trái) |
Còn sách Hải quốc đồ chí, Hồ Bạch Thảo cho biết trong quyển 5, Ngụy Nguyên đã trích dẫn đoạn nói về sự kiện này từ sách Anh Cát Lợi Di Tình Kỷ Lược của Diệp Chung Tiến, nhưng với vài chi tiết khác biệt so với các tài liệu trên (chẳng hạn năm Gia Khánh thứ 11, 12 thay vì Gia Khánh thứ 13):
“Khoảng năm Gia Khánh thứ 11, 12 [1806-1807] có tên Đại ban là Thứ Phí dò biết thuộc quốc An Nam tại Đông Kinh [Hà Nội] vị trí gần biển, lúc bấy giờ mới nội chiến xong, có thể thừa cơ chiếm được [Nguỵ Nguyên chú: nguyên nhân bấy giờ Nguyễn Phúc Ánh mới diệt được kẻ thù.] Bèn thân đến Mãnh Giáp Thứ(5) hẹn với viên Binh đầu đem 10 chiếc thuyền lớn vào cửa sông Phú Lương [Hồng Hà]. Trước hết lệnh viên Phó binh đầu điều 7 chiếc, lấy danh nghĩa đòi những chiếc thất lạc, và tìm bến cảng. An Nam nghe tin, trước hết thông sức cho thuyền đánh cá, thuyền buôn vào hết trong cảng. Thuyền Di xông vào mấy trăm lý không bị cản trở, bèn đến chỗ đậu thuyền tại Đông Kinh, nhưng không gặp một người. Đến đêm chợt xuất hiện vô số tiểu đỉnh, mỗi đỉnh đều chở củi thuốc súng, bốn phía vây lấy. Bèn dùng đại pháo bắn gấp, tiểu đỉnh ở vị thế trên gió, nhờ gió lửa bén cháy mạnh, 7 chiếc thuyền đều cháy. Có một tên da đen, giỏi bơi, men theo dòng nước về cấp báo, Binh đầu sợ hãi rút, không dám tiếp tục vào.”
Chưa hết, vì hiểu nghĩa chữ 红毛 “Hồng Mao” là người Anh trong chương nói về Quảng Nam quốc ở sách Hải Quốc văn Kiến lục của Trần Luân Quýnh, đoạn nói về đội thuyền Hồng Mao bị quân Đàng Trong đánh bại năm 1644 ở Quảng Nam (vụ này liên quan đến người Hà Lan chớ không phải người Anh), nên Ngụy Nguyên đã thản nhiên viết trong Hải Quốc đồ chí: “Việt Nam hai lần đánh bại Di Anh đều dụ thuyền chúng thâm nhập vào trong sông, rồi dùng thuyền nhỏ vây, đánh thắng” (Hồ Bạch Thảo, 2017).
3.2. Bản trích dịch của H.B. từ sách Thanh triều Sử lược
Trong một manh mối khác, chúng tôi cũng tìm thấy trên tạp chí Tri Tân số 1 năm 1941 trên trang 10 một bài viết ngắn của tác giả H. B. tựa là “Mảnh sử liệu” với tiểu tựa “Hơn 100 năm trước đây, Việt Nam đã đại thắng người Anh trong một trận thủy chiến”. Bài báo trích một đoạn trong cuốn Thanh triều Sử lược (清朝史略) của Tá Đằng Sở Tài (佐籐楚材) như sau:
“Trước kia, An Nam vẫn ghét thuốc phiện và đạo Thiên Chúa của Tây phương. Đã lâu họ tuyệt hẳn các tàu bè thông thương (市舶) ở Quảng Nam. Bấy giờ người cầm đầu binh lính (兵酋) Anh Cát Lợi đóng ở Ấn Độ nghe biết bên nước An Nam, họ Nguyễn mới tân tạo, ở chỗ hở có thể thừa cơ được, bèn đem hơn 10 chiếc tàu chiến (兵艦) kéo vào cửa sông Phú Xuân. Người An Nam rút hết thuyền núp ở trong nội cảng. Vài trăm dặm [nguyên văn: 數百里, hơn trăm lí, tức hơn 50 km] không có bóng người… Đêm đến, thình lình có tới 110 chiếc thuyền nhỏ tiến ra miền hạ du của nội cảng: theo chiều gió thuận, nhân dòng sóng xuôi, đánh hỏa công. Người Anh không có đường chạy! Bảy chiếc tàu vào trước đều bị đốt cháy, những chiếc còn ở ngoài biển cũng sợ sệt trốn nốt. Thẹn không dám về nước, bọn người Anh ấy kéo sang Quảng Đông toan chiếm Áo Môn 澳門 song không trôi, lại rút đi (T.T.S.L. quyển 6 tờ 20)” (H. B. 1941, tr. 10).
Ngoài đoạn trích trên, tác giả H.B. chỉ thận trọng viết thêm “nếu quả không sai sự thực” thì đó “là một việc đối ngoại tối quan trọng” thời bấy giờ, là một “vinh dự rất phi thường” của quân đội Việt Nam hơn 100 năm trước! Vì thế người đọc chỉ biết sự kiện ấy xảy ra lúc “họ Nguyễn mới tân tạo” tức những năm đầu triều Nguyễn, chứ không biết chính xác vào năm nào. Sách Thanh triều Sử lược được xuất bản năm 1881, tác giả Tá Đằng Sở Tài là người Nhật, theo cách phiên âm ngày nay là Sato Sozai, còn sách ông được gọi là Shincho Shiryaku. So với Thánh Vũ ký thì sách Thanh triều Sử lược được biên soạn sau gần 40 năm. Vì thế hoàn toàn có khả năng là Tá Đằng Sở Tài đã dựa vào sách của Ngụy Nguyên để biên soạn, nhất là vì Ngụy Nguyên được giới học giả đương thời trong khu vực xem như là nhà cải cách tiên phong được yêu thích. Khi đọc phần dịch của H. B., người đọc dễ nhận ra sự giống nhau ở nhiều chỗ của đoạn văn này với đoạn văn mà G. Devéria và Hoàng Xuân Hãn đã dịch từ chương “Càn Long chinh phủ An Nam kí”. Tuy nhiên có hai chi tiết khác với Ngụy Nguyên: thay vì “sông Phú Lương” (chữ Hán là 富良江), Tá Đằng Sở Tài viết là “sông Phú Xuân” (bản chữ Hán ghi là 富春江口安南 tức “Phú Xuân giang khẩu An Nam”; xem H4, cột 1 trang trái), và không nhắc đến 東都 “Đông đô” (Hà Nội) như tài liệu của Ngụy Nguyên. Điều này chứng tỏ rằng H. B. không dịch nhầm như nghi vấn ban đầu của chúng tôi, và có lẽ đây cũng không phải là sự nhầm lẫn do bất cẩn của Tá Đằng Sở Tài: dường như ông muốn nói đến sông Hương dẫn vào Phú Xuân, tức kinh đô Huế. Nếu đúng vậy thì ông đã dựa vào nguồn tin nào? Người đọc hoàn toàn không biết gì về lý do khiến Tá Đằng Sở Tài đã điều chỉnh chi tiết này.
Theo G. Devéria, con sông mà người Trung Hoa gọi là “Fou-leang-kiang” 富良江 tức “Phu-Luong-giang”, hay “sông Phú Lương” là sông Tong-king, còn được gọi là Song-khê, Song-ha hay Song-coi, là con sông chảy ngang qua Đông đô, tức Hà Nội (Devéria G. 1880, tr. 27).
![]() |
![]() |
| H3: Bài viết của H.B. trên Tri Tân tạp chí, số 1 (1941) | H4: Thanh triều Sử lược (1881) ghi là 富春江 (cột 1, trang trái) tức “Phú Xuân giang”. |
Tưởng cũng nên nói thêm là trong một bài viết giới thiệu bản dịch giấy tờ của phái viên J. Crawfurd ra tiếng Pháp đăng trên số XVI của tập san Bulletin de la Société des Etudes indochinoises năm 1941, H. Berland cũng nhắc lại sự kiện này với địa điểm xảy ra là Hà Nội chớ không phải Phú Xuân như bài viết trên báo Tri Tân tạp chí: “…năm 1808 người Anh đã lợi dụng cơ hội có được trong chuyến viễn chinh ở Macao do toàn quyền Anh ở Ấn Độ phát lệnh, để vào miền Bắc với 10 tàu chiến. Khi đến Hà Nội, các thuyền mành của người An Nam liền khóa chặt đường rút quân rồi tấn công đoàn tàu chiến, và đã thiêu hủy 6 hay 7 chiếc. Những chiếc nằm chờ ngoài cửa biển không phản ứng gì; chúng giương buồm để đi tấn công Macao.” (Berland H. 1941, tr. 16).
3.3. Bản trích dịch của C. B. Maybon từ sách Quốc triều nhu viễn kí
Như đã nói bên trên, bài viết của C.B. Maybon còn cung cấp thêm một số chi tiết mới về vụ xung đột khi trích dẫn sách Quốc triều nhu viễn kí của Vương Chi Xuân. Maybon cho biết trong quyển 6 của bộ sách này có ghi vào năm Gia Khánh thứ 13 (1808)(6), mùa thu, tháng thứ 9 (tr. 19 sqq.) có chuyện như sau:
“Một viên đại diện thương mại [Anh] ở Quảng Đông tên là 喇咈 [Lạt Phất] La-pi (Roberts) trước đó đã liên lạc với viên đô đốc ở Bengale; quyết định được đưa ra là viên đô đốc sẽ chỉ huy 10 chiến thuyền đi dọc theo bờ biển An Nam. Một phần lực lượng hải quân này bị người An Nam phá hủy. Sau thất bại này viên đô đốc xấu hổ không muốn quay về Ấn Độ ngay, và với số tàu bè còn lại, ông ta thẳng hướng về Quảng Đông và đến nơi an toàn.” (Maybon C.B. 1906, tr. 313).
So với tài liệu của Ngụy Nguyên và Tá Đằng Sở Tài, thì tài liệu này có cập nhật vài thông tin mới, như tên các quan chức người Anh, quy mô lực lượng, và nhất là mục đích thật sự của chuyến đi. Những chi tiết này tuy không liên quan trực tiếp đến nước Việt Nam thời ấy, nhưng nó giúp người đọc hiểu thêm bối cảnh thế giới thời bấy giờ, và nhất là tình hình xung đột giữa các cường quốc và tác động của nó đến tình hình khu vực, trong đó có Việt Nam:
“Tàu thuyền của Anh, chiếc to có thể chở 700 người, chiếc trung bình chở 200, và chiếc nhỏ chở 100 người. Trên đó chở đầy súng ống, đại bác, gươm đao và đồ quân dụng. […] Viên đô đốc nói rằng đó là đoàn thuyền đi hộ tống thuyền buôn theo tập quán cũ; ông cho thuyền thả neo ngoài khơi 十字門 Che-tse-men [Shizimen Thập tự Môn]; nói rằng tàu thuyền thương mại (mà ông ta phải hộ tống) chưa đến. Sau khi khẳng định láo toét rằng ông ta đến để hộ tống thuyền buôn, đô đốc 度路利Tou-lou-li (Drury) tuyên bố rằng nước Pháp muốn tấn công vua Bồ Đào Nha để đuổi ông ta qua châu Mỹ; rằng nước Anh đã liên minh với Bồ Đào Nha; rằng e là người Pháp sẽ đến Macao để nhen nhóm rối ren, và ông ta đến để bảo vệ thành phố” (Maybon C. B. 1906, tr. 314).
Bộ sách Quốc triều nhu viễn kí do Vương Chi Xuân biên soạn, gồm 20 quyển, trong đó có 2 quyển được gọi là phụ biên 附編, được xuất bản vào năm Quang Tự (光緒) thứ 17 (1891). Vì được biên soạn sau Thánh Vũ Kí gần 50 năm nên có rất nhiều khả năng là Vương Chi Xuân đã tham khảo Ngụy Nguyên đồng thời bổ sung thêm một số chi tiết liên quan đến lực lượng hải quân của người Anh như trên.
Tóm lại, các nghiên cứu của H. Cordier và C. B. Maybon kể trên đều có chung một điểm, là đã trích dẫn từ tài liệu Trung Hoa, khi thì qua bản dịch của G. Devéria từ sách của Ngụy Nguyên, khi thì tham khảo trực tiếp tài liệu bằng tiếng Hán của Vương Chi Xuân, mà có lẽ tài liệu này cũng chịu ảnh hưởng của Thánh vũ kí của Ngụy Nguyên.
(còn tiếp)
(Bài đã đăng trên tạp chí Xưa & Nay, số tháng 9 năm 2024)
Tài liệu tham khảo
Berland H. 1941. Avant-propos. Tập san Bulletin de la Société des Etudes indochinoises, số XVI, Hà Nội.
Boulger D. C., 1898. The History of China. Vol. 2. London: W. Thacker & Co., Calcutta: Thacker, Spink & Co.
Chia-Hwan Chen 2007. Images of the Other, Images of the Self: Reciprocal Representations of the British and the Chinese from the 1750s to the 1840s. Luận án tiến sĩ, bảo vệ tháng 7 năm 2007 tại Đại học Warwick (Anh).
Cordier H. 1898. L’Extrême-Orient: Chine, Annam, Péninsule malaise, Indes néerlandaises, Corée depuis le début du XIXe siècle jusqu’à 1850. Trong Lavisse E. & Rambaud A. (éd.) Histoire générale du IVe siècle à nos jours, Quyển 10. Paris: Armand Colin.
Cordier H. 1920. Histoire générale de la Chine et de ses relations avec les pays
étrangers, Q. 3. Paris: Librairie Paul Geuthner.
Davis J. F. 1836. The Chinese: A General Description of the Empire of China and its Inhabitants. London: Charles Knight.
Devéria G. 1880. Histoire des relations de la Chine avec l’Annam. Paris: Ernest Leroux.
Eitel E. J. 1895. Europe in China. London: Luzac & Company; Hongkong: Kelly & Walsh, Ld.
- B. 1941. Mảnh sử liệu. Tạp chí Tri Tân số 1 (năm 1941).
Hồ Bạch Thảo 2017. Sau Chiến Tranh Nha Phiến thất bại, Trung Quốc có ý định dựa vào Việt Nam. Bài đăng trên Nghiên cứu Lịch sử tại https://nghiencuulichsu.com/2017/12/20/sau-chien-tranh-nha-phien-that-bai-trung-quoc-co-y-dinh-dua-vao-viet-nam/, truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2024.
Hoàng Xuân Hãn 1968. Việt – Thanh chiến sử theo Ngụy Nguyên, một sử gia Trung Quốc đời Thanh. Tập san Sử Địa, số 9-10.
Ljungstedt A. 1832. Contribution to an Historical Sketch of the Portuguese Settlements in China. Macao.
Ljungstedt A. 1836. An Historical Sketch of the Portuguese Settlements in China. Boston: James Munroe & Co.
Maybon C. B. 1906. Les Anglais à Macao en 1802 et 1808. Tạp chí BEFEO, số 6 (1906).
Montalto de Jesus C. A. 1902. Historic Macao. Hong Kong: Kelly & Walsh, Limited.
Nguyễn Vinh Phúc (cb) 2005. Lịch sử Thăng Long Hà Nội. Hà Nội: Nxb Thời Đại.
Phạm Văn Sơn 1960. Việt Sử toàn thư. Sài Gòn: Tủ sách Sử học.
Phạm Văn Sơn 1961. Việt Sử tân biên, Quyển 4. Sài Gòn: Tủ sách Sử học Việt Nam.
Williams S.W., 1848. The Middle Kingdom, Vol. 2. New York & London: Wiley and Putnam.
(1) Tác giả đoạn trích này đang nói về trận đụng độ giữa thủy quân chúa Nguyễn và các thương thuyền Hà Lan vào năm 1644.
(2) Tên chính xác của tác giả này là G. Devéria.
(3) Cách phiên âm của Maybon khác với cách phiên âm ngày nay là Guo chao rou yuan ji.
(4) Có lẽ phải dịch là “Càn Long chinh phủ An Nam kí”. Trong bài viết của minh, Hoàng Xuân Hãn đã nhắc lại nhiều lần cụm từ “Càn Long chinh vũ An Nam kí”, khiến người đọc có thể cho rằng đây không phải là lỗi in ấn. Phải chăng vì bản chụp mà ông sử dụng quá mờ (hình H1) nên đã đọc nhầm chữ 撫 “phủ” với chữ 憮 “vũ”? Điều đáng nói là nhiều tác giả, trong đó có không ít nhà nghiên cứu nổi tiếng như Nguyễn Khắc Kham (1971), cũng sử dụng cách dịch này khiến độc giả không khỏi băn khoăn. Kính mong các nhà thông thái chỉ giáo.
(5) Không hiểu tại sao Hồ Bạch Thảo dịch 喇弗 là “Thứ Phí”, 孟甲剌 là “Mãnh Giáp Thứ tức Mãn Thứ Gia [滿剌加] đất cũ của Tân Gia Ba (Singapore)”. Lẽ ra phải là “Lạt Phất”, “Mãng Giáp Lạt tức Mãn Lạt Gia, tức Malacca ngày nay”? Rất mong được thỉnh giáo từ các nhà nghiên cứu.
(6) Năm Gia Khánh 13 là năm 1808 chứ không phải 1805 như trong bài viết của Maybon.




Bài viết công phu, có dẫn chứng khoa học. Cảm ơn tác giả!
ThíchThích