
Christopher Lascelles
Trần Quang Nghĩa dịch
CHƯƠNG 6
Quyền Lực của La Mã
Những nỗ lực của La Mã trong việc định vị mình là người lãnh đạo và trọng tài của thế giới Cơ đốc giáo chắc chắn được hỗ trợ bởi thực tế là các giáo hoàng đã bác bỏ giáo thuyết Arian. Nó cũng giúp La Mã tránh được những tranh chấp bất tận về giáo thuyết tiếp tục chia rẽ phương Đông. Đối với nhiều người theo đạo Cơ đốc, La Mã đã trở thành ngọn hải đăng của tính chính thống trong biển cả đầy sóng gió của những niềm tin xung đột. Hơn nữa, trong khi Giáo hội nói tiếng Hy Lạp ở Phương Đông ngày càng phục tùng hoàng đế, La Mã đã giành được một mức độ độc lập nhất định mà họ chỉ có thể mong ước. Từ năm 402, các hoàng đế phương Tây liên tiếp cai trị từ Ravenna ở phía đông bắc nước Ý vì thành phố này được coi là có khả năng phòng thủ tốt hơn Milan, nơi từng là căn cứ của đế chế phương Tây kể từ năm 286.
Nhưng mọi việc không phải là thuận buồm xuôi gió. Đầu tiên, các tòa giám mục lớn ở phương Đông đã bác bỏ ý tưởng về tính ưu việt của bất kỳ tòa giám mục nào, chứ đừng nói đến một tòa giám mục đến từ phương Tây, người mà họ coi là đối tác tinh thần cấp dưới, và nhất quán bảo vệ nền độc lập của họ trước sự khẳng định quyền lực của người La Mã. Người phương Đông tin rằng các giám mục họp lại trong một hội đồng Giáo hội đại kết là những người duy nhất có thẩm quyền áp đặt giáo lý chính thống lên Giáo hội.
Trong những thập kỷ tiếp theo, đế chế phương Tây cũng dần dần bị các bộ lạc người Đức xâm chiếm. Người La Mã đã sơ tán khỏi Anh vào năm 410, và phần lớn Tây Ban Nha cũng như miền bắc Gaul đã được nhượng lại cho người Visigoth và người Frank khoảng một thập kỷ sau đó. Đến giữa thế kỷ thứ năm, các tỉnh ở châu Phi cũng được nhượng lại cho người Vandal một bộ tộc Đức khác đã đến châu Phi qua đường Tây Ban Nha – để lại đế chế phương Tây như một lãnh thổ tương đối nhỏ bao gồm Đông Bắc Tây Ban Nha, miền nam Gaul và một phần của bán đảo Ý.
Thành phố La Mã đã bị Alaric, một vị vua Visigoth và theo phái Arian, cướp phá vào năm 410. Mặc dù Alaric đã ra lệnh tha cho các nhà thờ và công trình tôn giáo, sự kiện này đã gây ra cú sốc và kinh hoàng lớn khắp đế quốc, cả Đông và Tây. Việc đó mang lại dấu hiệu gì khi chính đế chế thậm chí không thể bảo vệ thành phố vĩnh hằng của mình? ‘Ai có thể tin’, Thánh Jerome hỏi, ‘Rằng La Mã chiến đấu không còn vì vinh quang mà vì chính sự tồn tại của mình?’
Phương Đông, an toàn trước đám man rợ, tiếp tục sa lầy vào tranh cãi. Gần như ngay sau khi vấn đề Chúa Ba Ngôi được giải quyết vào năm 381, một cuộc tranh cãi đã nảy sinh giữa các quan chức lớn của phương Đông về con người của đấng Christ và về cách nhìn nhận mẹ của ngài, Mary. Tất cả họ đều tin rằng Jesus vừa là Thiên Chúa vừa là con người, nhưng có một trường phái tư tưởng (dựa trên Alexandria) tuyên bố rằng con người và thần thánh đã được hợp nhất trong một con người, trong khi một trường phái khác (có trụ sở tại Antioch) tuyên bố rằng hai bản chất này nên được coi là khá tách biệt. Về mặt logic, điều này có ý nghĩa đối với mẹ của Jesus, bà Maria. Bà ấy có được coi là người mang bầu Chúa (Theotokos trong tiếng Hy Lạp), hay đơn giản là người mang bầu Jesus con người (Christotokos)? Cuộc tranh luận nảy lửa sau đó đã chuyển sang bạo lực.
Hai hội đồng Giáo hội đã được triệu tập để giải quyết những tranh cãi này. Công đồng Ephesus (431) xác định rằng Christ có hai bản chất, thần thánh và con người, nhưng chỉ có một ngôi vị duy nhất là thần thánh. Nó cũng giải quyết vấn đề làm thế nào để tôn vinh Maria. Vì bản chất thần linh của Christ không thể tách rời khỏi bản chất con người của ngài, cộng đồng tuyên bố rằng việc tôn vinh Maria là ‘Mẹ Thiên Chúa’ là đúng đắn, nhưng thêm vào ‘theo thân xác’ để làm rõ rằng bà không nên được công nhận là nguồn gốc thần thánh của Jesus.
Công đồng Chalcedon (không xa Constantinople) – công đồng lớn nhất trong Giáo hội cổ đại – được triệu tập vào năm 451 bởi Hoàng đế Marcianus mới lên ngôi, sẽ đối phó với phái phủ nhận nhân tính của Christ bằng cách dạy rằng Christ chỉ có một bản chất: bản chất con người của Ngài đã được hấp thụ vào thần thánh ‘như một giọt mật ong trong biển’. Tín điều theo sau đã công nhận Christ ‘trong hai bản tính, không nhầm lẫn, không thay đổi, không phân chia, không tách biệt; sự khác biệt về bản chất không hề bị mất đi khi kết hợp.’ Như vậy, Jesus vừa là Thiên Chúa vừa là con người trọn vẹn. Đó là dấu hiệu cho thấy sự lúng túng vẫn tiếp diễn xung quanh niềm tin Kitô giáo, ngay cả trong thế kỷ thứ năm, đến nỗi hai công đồng phải được tổ chức để xác định giáo lý của Giáo hội.
Giám mục La Mã trong công đồng sau là Leo I (440-61), một cá tính mạnh mẽ và can đảm ‘người đã mang đến cho mình ý thức quyền lực bẩm sinh của giai cấp thống trị La Mã và sự pha trộn mạnh mẽ niềm tự hào truyền thống của La Mã.’
Giống như với những người tiền nhiệm, ông tin vào hai bản chất riêng biệt của Christ – ‘suis, totus, totus in nostris’ (hoàn toàn trong thuộc tính của riêng ngài, hoàn toàn trong thuộc tính của chúng ta) và rằng Christ đã lấy bản chất của mẹ ông, nhưng không mang tội lỗi của bà. Ông ấy đã viết một chuyên luận vĩ đại về chủ đề này vào năm 449, và đã gửi quan điểm của mình tới Giám mục Constantinople, tin tưởng rằng lời nói của ông sẽ là lời chung thẩm. ‘Thư của Leo’ cuối cùng đã được đọc tại Công đồng Chalcedon khi ông vắng mặt. Vì suy nghĩ của ông về chủ đề này phù hợp với các cân nhắc của các giáo phụ đang tập hợp trong Giáo hội, họ đã sử dụng bức thư này để đưa ra kết luận cuối cùng cho cuộc tranh cãi, tuyên bố rằng ‘Peter đã nói qua (miệng) của Leo.’ Tuy nhiên, người ta không nên vội kết luận như chính Leo đã tin và những người biện hộ cho Giáo hoàng kể từ đó tuyên bố, rằng điều này ngụ ý Peter chỉ có thể nói qua miệng của Giám mục La Mã, chỉ đơn thuần là trong tình huống này ông đã làm như vậy mà thôi. Hội đồng giám mục tin rằng mình có quyền tự do chấp nhận hoặc bác bỏ quan điểm của Leo, và nhân dịp này, họ nhận thấy những quan điểm ấy cũng đại diện cho những gì họ cho là đúng. Việc chấp nhận bức thư là ‘một dấu hiệu lịch sự đối với một giám mục đồng nghiệp của một thành phố quan trọng’ hơn là chấp nhận thẩm quyền vô điều kiện của Giám mục La Mã.
Cơ đốc giáo đã bắt đầu ở phương Đông; Tòa thánh đầu tiên được thành lập ở phương Đông và các công đồng đại kết (gồm toàn thể Giáo hội) Nicaea, Constantinople, Ephesus và Chalcedon – công cụ dùng để xác định học thuyết Giáo hội – tất cả đều diễn ra ở phương Đông không có sự hiện diện của Giám Mục La Mã. Người Hy Lạp xem giáo hoàng La Mã chỉ đơn giản là chia sẻ tính ưu việt vinh dự giữa các giáo trưởng có quyền lực và cấp bậc ngang nhau (primus inter pares : đứng đầu trong số nhũng thành viên ngang hàng), chứ không có quyền tài phán tối cao trên toàn thể Giáo Hội – Đông và Tây – điều mà Leo đã tuyên bố. Điều có ý nghĩa, tuy nhiên, là phải đến giữa thế kỷ thứ năm một giám mục phương Tây mới đóng một vai trò trong việc hệ thống hóa giáo thuyết Cơ đốc.
BẢY HỘI ĐỒNG ĐẦU TIÊN CỦA GIÁO HỘI
Công đồng Nicaea thứ nhất (325), Công đồng Constantinople thứ nhất (381), Công đồng Ephesus thứ nhất (431), Công đồng Chalcedon (451), Công đồng Constantinople thứ hai (553), Công đồng Constantinople thứ ba (680-1), Công đồng Nicaea thứ hai (787)
Giống như các phán quyết của các công đồng trước, không phải ai cũng chấp nhận kết quả của Chalcedon, và các chỉ dụ của nó đã gặp phải sự phản đối rộng khắp. Theo thời gian, những người bác bỏ ý kiến cho rằng Maria là mẹ Thiên Chúa được gọi là Nestorian theo tên Nestorius, Giám mục của Constantinople và những người từ chối chấp nhận Christ có hai bản tính đã bị dán nhãn Monophysite, một thuật ngữ mang tính miệt thị bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp mono ( đơn) và physis (bản chất). Những tín đồ Nhất tính này đã hoàn toàn phá vỡ liên minh với La Mã và thành lập Giáo hội Coptic, bộ phận Cơ đốc giáo lớn nhất ở Ai Cập ngày nay.
*
Giáo hội Đông phương có thể đã nghi ngờ thẩm quyền của Giám mục La Mã, tuy nhiên thẩm quyền này đã phát triển đáng kể ở phương Tây trong triều đại giáo hoàng Leo. Việc đế chế bị các bộ tộc Đức tấn công trong thời kỳ này chắc chắn đã giúp ích cho mục đích của ông khi các giáo phận nhỏ hơn ở phía Tây ngày càng trông cậy vào La Mã để được lãnh đạo và hỗ trợ trong thời kỳ đen tối và khó khăn đó. Có lẽ chính sức mạnh của niềm tin vào quyền lực này và sự chính trực của chính mình đã khiến ông đi cùng hai nguyên lão La Mã vào năm 452 để đối đầu với Vua Hung Nô Attila đáng gờm, kẻ tàn phá châu Âu và xâm chiếm bán đảo Ý. Vì một lý do nào đó không rõ, rất có thể là do quân Hung Nô bị bệnh dịch hoành hành nên Attila đã rút lui sau cuộc thương thảo. Tác giả John Julius Norwich gợi ý rằng vì Attila được biết đến là người mê tín nên tất cả những gì Leo cần làm là nhắc ông ta về số phận của Alaric, người đã chết trong vài tuần sau khi cướp phá thành La Mã, và gợi ý rằng mỗi kẻ xâm lược đều có số phận tương tự dành cho kẻ xâm lăng ‘giơ tay chống lại thành phố thánh.’ Dù lý do thực sự là gì thì đây vẫn là ‘cuộc chạm trán có quy mô thần thoại sẽ củng cố tiếng tăm của Giám mục La Mã ở phương Tây trong nhiều thế kỷ tới.’
Ba năm sau một lần nữa Leo được kêu gọi khi quân xâm lược lần này do Vua tộc Vandal là Gaiseric – vốn đã xâm lược Ý từ phía Bắc Châu Phi – đe dọa La Mã. Trong khi La Mã bị cướp phần lớn kho báu của nó, sự can thiệp của Leo đã tránh cho nó khỏi bị thảm sát và thiêu rụi
Đã bảo vệ đàn chiên của mình hai lần, không có gì ngạc nhiên khi người La Mã đặt cho Leo danh hiệu ‘Người Vĩ đại’ – một trong ba giáo hoàng đạt được danh hiệu đó và an táng ông trong Vương cung thánh đường Thánh Peter để vinh danh ông.
*
Những người kế vị Leo I đã chứng kiến quyền cai trị thế tục ở Ý đã được chuyển giao cho các vị vua man rợ, những người ban đầu công nhận hoàng đế La Mã ở phương Tây nhưng cuối cùng đã loại bỏ hoàn toàn sự giả trá này. Vào năm 476, khi một người Đức tên là Odoacer được quân đội của mình tôn làm vua, ông đã sắp xếp để hoàng đế cuối cùng của phương Tây, đứa trẻ Romulus Augustulus, được nghỉ hưu một cách thoải mái. Phù hiệu hoàng gia đã được gửi đến Constantinople cùng với một sứ giả thông báo cho hoàng đế phương Đông, Zeno (474-91), rằng Odoacer sẽ tự nguyện phục tùng ông nếu Zeno phong cho ông danh hiệu Patrician (Nhà Quý tộc) và cho phép mình cai trị nước Ý dưới danh nghĩa hoàng đế. Hoàng đế Zeno không có lựa chọn nào khác ngoài việc chấp nhận.
Giới tăng lữ của đế chế phương Tây suy yếu đảm nhận nhiều nhiệm vụ hành chính mà trước đây nhà nước đảm nhiệm. Giờ đây là thể chế ổn định duy nhất, Giáo hội đã trở thành người bảo vệ vĩ đại cho trật tự và công lý trong một thế giới dường như đang sụp đổ. Ở phương Đông, Giáo hội vẫn gắn liền với các cấu trúc quyền lực của Byzantine, giống một Nhà thờ của Nhà nước hơn là Nhà nước do Nhà thờ thao túng, một hiện tượng sẽ phát triển ở phương Tây.
Các giáo hoàng Hilarius (461-468), Simplicius (468-83) và Felix III (483-92) đã phân chia thời gian của mình giữa việc cung cấp phiên bản ban đầu của mạng lưới an sinh xã hội và giải quyết sự trỗi dậy của giáo phái Arian và phái Monophysite (Nhất tính): Những người Nhất tính đã nhiều lần kêu gọi đảo ngược quyết định của Chalcedon và không chỉ tìm cách bổ nhiệm một người của họ làm Giám mục của Alexandria mà còn phế truất Thượng phụ Antioch. Những kẻ cực đoan phương Đông đã lại gây rắc rối nữa. Mặc dù hoàng đế Zeno đã cố gắng áp đặt thỏa hiệp vì sợ mất đi sự ủng hộ ở các tỉnh quan trọng của Syria và Ai Cập, phái Nhất tính vẫn còn phổ biến, Giáo hoàng Felix III đã phản đối mạnh mẽ điều này và một lần nữa, Giáo hội lại rơi vào tình trạng ly giáo mệt mỏi, điều này kéo dài trong 35 năm.
Người kế vị Felix III, Gelasius I (492-96), người châu Phi, mặc dù sinh ra ở La Mã, đã cố gắng lập lại trật tự. Chỉ sau một năm trị vì của mình, Odoacer bị lật đổ và sát hại bởi Theodoric (475-526), vua người Ostrogoth (phái Arian) theo lệnh của Hoàng đế Zeno, người đã hứa với Theodoric chức phó vương nếu ông đuổi Odoacer ra khỏi Ý. Đó là một kế sách tuyệt vời để Zeno tránh chiến tranh với người Ostrogoth, và tất nhiên, việc cho phép hai kẻ thù tiềm năng chiến đấu với nhau là điều tốt hơn là mất đi những đội quân La Mã thiện chiến.
Mọi thứ có vẻ không tốt cho đế chế. Ý đang trong tình trạng xung đột, Tây Ban Nha bị người Visigoth tràn ngập, Bắc Phi rơi vào tay bọn Vandal, và Gaul đang trong quá trình rơi vào tay người Frank. Bản thân Giáo hội cũng đang trong tình trạng ly giáo và phương Tây nhận được rất ít hoặc không có sự hỗ trợ nào từ Constantinople, nơi một vị hoàng đế có khuynh hướng Nhất tính, Anastasius I (491-518), đã lên nắm quyền sau cái chết của Zeno.
Điều này có vấn đề vì một lý do khác: làm sao Giám mục La Mã có thể phục vụ một hoàng đế – còn là người đứng đầu chính thức của Giáo hội – người mà Giáo hội coi là dị giáo? Khi Hoàng đế Anastasius I cố gắng hòa giải Giáo hội theo đường lối Nhất tính, Gelasius I đã kiên quyết nói với hoàng đế một cách mạnh mẽ rằng nhà vua nên lo việc riêng của mình và giao việc điều hành Giáo hội cho các giám mục. Nhưng ông còn tiến thêm một bước nữa khi tuyên bố rằng trong các vấn đề của Giáo hội, các vị vua phải phụ thuộc các thầy tu:
Bẩm Hoàng thượng, có hai quyền lực mà thế giới này được cai trị chủ yếu, đó là quyền lực thiêng liêng của các thầy tu và quyền lực hoàng gia. Trong các quyền lực này, quyền hành của các thầy tu có trọng lượng hơn, vì họ phải chịu trách nhiệm ngay cả với các vị vua thế tục trong sự phán xét của Đức Chúa Trời.
Ông nói, vai trò của hoàng đế là nên học hỏi tôn giáo chứ không phải dạy nó. Như chúng ta sẽ thấy, các giáo hoàng tương lai sẽ đề cập đến giáo thuyết của Gelasius I về hai quyền lực riêng biệt khi đối đầu với các hoàng đế, và tác động của nó sẽ lớn hơn nhiều so với những gì bất kỳ ai có thể dự đoán.
Hoàng đế Anastasius phớt lờ bức thư và tiếp tục can thiệp vào công việc của Giáo hội. Đối với ông ta, ông đã được thần thánh bổ nhiệm để cai trị thế giới Cơ đốc giáo, và không có giám mục nào có thể bảo ông phải hành động như thế nào. Những gì Gelasius I khẳng định là mới, và có vẻ như ông ấy dám nói nhiều như vậy chỉ vì ông ấy không tin mình gánh chịu hậu quả nào từ Constantinople trong khi Ý được cai trị bởi Theodoric.
Dù thế nào thì tất cả chỉ là sự ồn ào qua lại, vì đến giai đoạn này La Mã hầu như không có bất kỳ thẩm quyền nào vượt quá miền trung và miền nam nước Ý.
Người kế vị Anastasius I là Anastasius II, (496-98), đã cố gắng khôi phục sự thống nhất trong Giáo hội, có đường lối mềm mỏng hơn đối với người phương Đông, nhưng ông đã chết trước khi có thể thực hiện kế hoạch của mình. Sau khi ông qua đời, La Mã một lần nữa chìm trong hỗn loạn khi hai giáo hoàng được bầu cùng một lúc. Những người ủng hộ Gelasius I và lập trường cứng rắn của ông đã bầu Symmachus (498-514) làm giáo hoàng, trong khi những người tìm kiếm sự hòa giải với Giáo hội Đông phương đã bầu chọn Lawrence (498-99). Bây giờ đã có một sự ly giáo không chỉ giữa Đông và Tây mà còn trong Giáo hội La Mã. Cần một cách tuyệt vọng một người phân xử độc lập, những người đại diện Giáo hội đã yêu cầu Theodoric- ở giai đoạn này, là vị vua tự phong của Ý – lựa chọn giữa họ. Cuối cùng ông ta đã chọn người được ủng hộ nhiều hơn: Symmachus.
Thật là một điều trớ trêu thú vị đối với những người Cơ đốc Arian khi một vị vua Arian lại quyết định giữa hai giáo hoàng không phải Arian. Nhưng tệ hơn nữa, Theodoric là một kẻ man rợ thực sự. Ông ta đã sát hại Odoacer trước khi giết vợ và con trai mình. Đây không phải là lần cuối cùng Giáo hội nhờ đến một kẻ sát nhân được công nhận để giải quyết các tranh chấp nội bộ.
*
Các giáo hội Đông và Tây chỉ được hòa giải sau cái chết của Hoàng đế Anastasius. Trong suốt cuộc đời của ông, giám mục của La Mã đã được chuyển từ Symmachus sang Hormisdas (514-23), người đã ngay lập tức hòa giải các phe phái đối địch của La Mã, nhận trở lại Giáo hội những người ủng hộ Lawrence vốn không kiên trì tẩy chay Symmachus. Việc ông lên ngôi vị cũng cho phép mối quan hệ với Constantinople tan băng: hoàng đế hy vọng rằng giáo hoàng mới sẽ dễ uốn nắn hơn và mời ông đến Constantinople với hy vọng thu phục được ông.
Mặc dù mong muốn giải quyết cuộc ly giáo với phương Đông, Hormisdas vẫn giữ quan điểm của người tiền nhiệm. Ngay sau khi lên chức, ông đã cử một sứ thần đến Constantinople với một loạt điều kiện được gọi là ‘Công thức Hormisdas’ cần được Constantinople đồng ý trước khi có bất kỳ cuộc thống nhất nào giữa hai Giáo hội. Có hai quy định chính: Giáo hội Đông phương phải chấp nhận các giáo luật được ban hành tại Chalcedon, và thừa nhận La Mã là ‘tòa thánh tông tòa’, đồng ý không đi chệch khỏi đức tin đã được bảo tồn ở đó. Nhưng điều này là quá nhiều để có thể chấp nhận và sứ thần đã thu xếp hành lí trở về. Một nỗ lực thứ hai cũng không khá hơn.
Sự bế tắc chỉ được phá vỡ nhờ người kế vị Hoàng đế Anastasius, Justin (518-27), chỉ huy đội cận vệ hoàng gia của ông, đã quyết tâm tái lập Cơ đốc giáo Nicaea làm tôn giáo chính thức của đế quốc và ra lệnh cho tất cả các giám mục của mình ký vào công ước. Ông cũng lên án những người tiền nhiệm của mình, Zeno và Anastasius, vì đã dung túng tà giáo. Năm 519, các giáo hội Đông và Tây cuối cùng đã được hòa giải, nhưng sự hòa hoãn này chỉ là hời hợt.
Chiến thắng của La Mã đã làm tăng đáng kể uy tín quốc tế của giáo hoàng và củng cố tuyên bố của họ là người có thẩm quyền tối cao đối với các vấn đề về tính chính thống. Tuy nhiên, nó cũng cho thấy chính quyền thế tục vẫn nắm giữ ảnh hưởng đáng kể đối với Giáo hội. Suy cho cùng, các giáo hội có thể không bao giờ được hòa giải nếu không có sự can thiệp của hoàng đế. Như với Nicaea năm 325 và Constantinople năm 381, Giáo hội rõ ràng không thể giải quyết các vấn đề của mình nếu không có sự giúp đỡ của hoàng đế
Tính chính thống hung hãn của Hoàng đế Justin gây ra những hậu quả hơn nửa. Việc ông tiếp tục đàn áp những người theo đạo Cơ đốc Arian (trong số đó có nhiều người Goth) đã chọc tức Theodoric, nhà lãnh đạo trên thực tế của phương Tây. Mặc dù bản thân không phải là người theo đường lối Arian cứng rắn, Theodoric chưa sẵn sàng làm ngơ cho sự đàn áp như vậy mà không bị thách thức. Do đó, ông ra lệnh cho người kế vị Hormisdas, John I (523-26), đến thăm Constantinople và yêu cầu Justin không chỉ chấm dứt các cuộc đàn áp mà còn cho phép công dân của mình đi theo tôn giáo mà họ đã lựa chọn. John I, vị giáo hoàng đầu tiên đến thăm Constantinople đã được đón tiếp nồng nhiệt, và kết quả là cuộc đàn áp những người Cơ đốc Arian đã giảm bớt, nhưng Theodoric chắc chắn vẫn không hài lòng vì đã ném John I vào tù khi ông này trở về Ravenna (nơi ông chết, có thể vì đói) . Theodoric đảm bảo rằng vị giáo hoàng tiếp theo, Felix IV (526-30) ưu ái những người Goth.

Felix IV gây ra sóng gió, vì lý do thần học thì ít, mà nhiều hơn là vì việc đề cử người kế vị của ông là tổng giám mục có tên Boniface và hăm dọa sẽ rút phép thông công bất kì ai phản đối sự lựa chọn của mình. Việc giáo hoàng tiến cử người kế nhiệm mình gây bức xúc đến nỗi đa số giáo sĩ phớt lờ, và họ đã tiến hành bầu chọn một phó tế, Dioscorus (530), thay thế vị trí Felix sau khi ông chết. Nhưng Dioscorus qua đời chỉ sau 22 ngày, và do không có ứng cử viên thay thế đủ mạnh, Boniface được bầu làm Boniface II (530-32). Trước sự thất vọng của các đồng nghiệp, gần như Boniface II đã ngay lập tức đề cử người kế vị của mình là một phó tế tên là Vigilius, nhưng điều này đã gây ra một cuộc tranh cãi đến mức việc đề cử đã bị hủy bỏ. Một lần nữa, có vẻ như quyền lực của giáo hoàng không rõ ràng như những người đương nhiệm trước đó đã tuyên bố. Người ta biết rất ít về triều đại giáo hoàng Boniface II ngoài việc ông đảm bảo rằng những người đã ủng hộ Dioscorus phải ký một tuyên bố quên đứt ông ta đi . Quá nhiều cho tình yêu và sự tha thứ. Bất chấp việc Dioscorus được đa số bầu chọn, Giáo hội vẫn coi ông như một giáo hoàng đối lập.
Phân vân không biết chọn ai là người kế vị Boniface II, giới tăng lữ đã quanh co, và cuối cùng, sau hai tháng rưỡi, đã bầu ra một linh mục lớn tuổi tên là Mercurius. Vì tên này quá giống với tên của vị thần đưa tin của ngoại giáo La Mã là Mercury nên ông đã đổi tên thành John, do đó trở thành Giáo hoàng John II (533-35). Rất ít giáo hoàng trong vòng 500 năm tiếp theo noi gương ông về việc đổi tên khi đăng quang, và điều này chỉ trở thành thông lệ từ thế kỷ thứ 10 trở đi.
Sự thống trị của Byzantine đối với chức Giáo Hoàng
Cuộc đấu tranh của giáo hoàng để chống lại các thế lực thế tục một lần nữa trở nên rõ ràng trong triều đại giáo hoàng của người kế vị John, Agapetus II (535-36). Hoàng đế Justin đã được kế vị bởi cháu trai của ông, Justinian (527-65), người có mục đích quan trọng nhất là khôi phục lại vinh quang của Đế chế La Mã bằng cách giải phóng phương Tây khỏi sự thống trị của người man rợ và sau đó thống nhất nó với phương Đông. Sau khi dễ dàng đánh bại vương quốc Vandal ở Bắc Phi và khôi phục lại quyền thống trị của đế quốc vào năm 534, ông đã chuẩn bị kế hoạch xâm lược bán đảo Ý. Nguyên nhân là vụ sát hại góa phụ của Theodoric, Amalasuntha, bởi cháu trai của Theodoric, Theodahad. Khi tin tức về những kế hoạch này đến tai Theodahad, ông đã phái Agapetus II đến Constantinople – như Theodoric đã cử John I – đến thuyết phục hoàng đế thay đổi ý định. Tuy nhiên, Giáo hoàng Agapetus II đã không thể khuyên can Justinian và chết ở Constantinople, sau đó Theodahad buộc phải bầu Silverius ủng hộ Gothic (536-37), người tình cờ lại là con trai của cựu giáo hoàng, Hormisdas.
Tiếp theo là âm mưu và lừa gạt. Trước khi chết, Agapetus II đã thuyết phục Hoàng đế Justinian rằng Anthimus – Thượng phụ của Constantinople và người được Theodora, vợ của Justinian, ưu ái – là một kẻ dị giáo, và ông đã thành công trong việc phế truất Anthimus. Khi Theodora nghe tin Silverius đã được bầu để kế vị Agapetus, bà đã lập kế hoạch với phó tế Vigilius – chính Vigilius mà Boniface đã chỉ định làm người kế vị mình – để phong ông làm Giám mục La Mã với điều kiện ông phải bảo đảm việc phục hồi Anthimus và hỗ trợ một cách có chừng mực cho phái Nhất tính.
Vào tháng 12 năm 536 quân đội triều đình chiếm đóng La Mã như một phần trong chiến dịch thống nhất đế chế của Justinian và trong năm mới Silverius đã buộc phải từ chức vì bị vu cáo tội phản quốc. Ngay sau khi Vigilius (537-55) được bổ nhiệm thay thế ông, Silverius đã bị đày lưu vong, tại đó ông chết vì bị đối xử khắc nghiệt. Trong phần đời còn lại trong cương vị giáo hoàng, Vigilius quan tâm lập một thế cân bằng bấp bênh giữa việc ủng hộ các quan điểm chính thống của La Mã và việc duy trì sự ủng hộ của Justinian, người có xu hướng chấp nhận nhiều hơn các quan điểm của phái Nhất tính để tránh nổi loạn bùng phát ở các tỉnh quan trọng phía Đông của Syria và Ai Cập. Với hy vọng xoa dịu các nhà lãnh đạo Giáo hội Đông phương, Justinian đã bắt giữ Vigilius và đưa đến Constantinople, nơi mà trước sự giận dữ của các giáo sĩ phương Tây, ông đã lên án một số giáo lý chống phái Nhất tính. Không rõ ông sẽ được tiếp nhận ra sao khi trở lại La Mã vì ông đã chết trên hành trình trở về thành phố vào năm 555.

Đế quốc của Justinian thế kỷ 6
Mệt mỏi vì phải đối phó với các giám mục La Mã ngoan cố, cùng năm đó Justinian tuyên bố có quyền phê chuẩn việc bầu chọn một giáo hoàng mới. Họ sẽ không còn được bầu chọn bởi sự tung hô của giáo sĩ và giáo dân nữa. Việc tấn phong Giám mục La Mã giờ đây sẽ cần có sự chấp thuận hoặc sắc lệnh của hoàng gia, và trong khoảng 200 năm tới, các giáo hoàng mới của La Mã sẽ phải chờ sự xác nhận của hoàng gia trước khi đảm nhận chức danh của họ.
Giặc Lombard
Những người kế nhiệm Vigilius phải đối mặt với cuộc tranh luận thần học đang diễn ra, nhưng kể từ năm 567/8, an ninh quốc gia được ưu tiên hơn việc tranh cãi thần học. Chiến dịch của Justinian thống nhất thế giới La Mã dưới sự chỉ đạo của một vị hoàng đế đã thành công trong thời gian ngắn nhưng chỉ tồn tại ngắn ngủi và để lại cho Ý một đống đổ nát vì chiến tranh tàn phá, không thể tự vệ trước liên minh các bộ tộc Đức mà ngày nay được gọi là người Lombard (hay Langobards) xâm lược từ phía bắc. Trong vòng vài năm, họ đã thành công trong việc chinh phục phần lớn bán đảo Ý, và vào thời điểm họ ngừng lại để kiểm kê, chỉ còn Công quốc La Mã (Ducatus Romanus), Ravenna và miền nam nước Ý còn là lãnh thổ của đế quốc. Ravenna cuối cùng cũng rơi vào tay người Lombard, nhưng La Mã và miền nam nước Ý thì không bao giờ, và sau đó trên thực tế đã trở thành những vùng lãnh thổ độc lập. Nước Ý sẽ chỉ được thống nhất trở lại vào thế kỷ 19.
La Mã có thể đã không bị người Lombard xâm lược, nhưng điều đó không tránh khỏi hậu quả của chiến tranh trên bán đảo. Thành phố rơi vào tình trạng suy tàn, dân số giảm đáng kể do bệnh dịch, nạn đói hoặc đơn giản là bỏ đi. Sự tàn phá đến mức ‘có vẻ như La Mã chỉ có thể tồn tại như một tiền đồn xa xôi, kém hiệu quả của Cơ đốc Thiên Chúa giáo.’
Ba vị giáo hoàng cuối cùng của thế kỷ thứ sáu chia sẻ mối quan tâm sâu sắc đến an ninh của La Mã trước hiểm họa Lombard, và liên tục cử sứ thần đến các hoàng đế ở Constantinople để yêu cầu viện trợ và bảo vệ. Nhưng ngân khố của đế quốc đã bị cạn kiệt bởi các chiến dịch của Justinian ở Châu Phi và Ý ở phía Tây cũng như chống lại người Ba Tư ở phía Đông. Ngay cả khi hoàng đế muốn hỗ trợ, cũng khó có khả năng ông ấy có thể làm được điều đó.
Sau cuộc xâm lược của người Lombard, hoàng đế bổ nhiệm một tổng đốc quân sự có trụ sở tại Ravenna với tư cách là người đại diện của ông ở Ý, nhưng ông ta có vẻ xa cách và quan tâm đến việc áp đặt các sắc lệnh của triều đình hơn là giúp đỡ người dân địa phương. Nhưng việc nộp thuế cho một chính quyền không có khả năng bảo vệ đất đai của họ, và lực lượng của họ không thể nói được ngôn ngữ địa phương và do đó phân biệt bạn và thù chắc chắn sẽ gây ra sự bất bình, và phần lớn người Ý coi mình đang bị chiếm đóng. Một lần nữa, Giáo hoàng lại nhanh chóng bước vào khoảng trống quyền lực. Sự cân bằng quyền lực đã chuyển dịch.