CHƯƠNG 11 : Tôn Giáo Chống Trả

Karen Armstrong
Trần Quang Nghĩa dịch
Trong thế kỷ 20, sẽ có nhiều nỗ lực chống lại việc nhà nước hiện đại trục xuất tôn giáo vào lĩnh vực riêng tư. Đối với những người theo chủ nghĩa thế tục dấn thân, những nỗ lực tôn giáo này giống như nỗ lực muốn quay ngược thời gian, nhưng trên thực tế, tất cả đều là những phong trào hiện đại chỉ có thể phát triển mạnh mẽ trong thời đại chúng ta. Thật vậy, một số nhà bình luận đã coi chúng là hậu hiện đại, vì chúng thể hiện sự bất mãn rộng rãi đối với nhiều tiêu chuẩn của tính hiện đại. Bất kể các triết gia, học giả hay chính trị gia tuyên bố như thế nào, mọi người trên khắp thế giới bày tỏ mong muốn tôn giáo đóng một vai trò trung tâm hơn trong đời sống công cộng. Loại tôn giáo này thường được gọi là chủ nghĩa cơ yếu—một thuật ngữ không thỏa đáng vì nó không dễ dịch sang các ngôn ngữ khác và gợi ý một hiện tượng nguyên khối. Trên thực tế, mặc dù những phong trào này chia sẻ vài điểm tương đồng huyết thống, nhưng mỗi phong trào đều có trọng tâm và động lực riêng. Ở hầu hết các khu vực nơi một chính phủ thế tục đã được thành lập, một cuộc biểu tình phản kháng văn hóa mang tính tôn giáo cũng đã phát triển, tương tự như các phong trào cải cách Hồi giáo và Ấn Độ giáo đã xuất hiện ở Ấn Độ do Anh kiểm soát. Nỗ lực hạn chế tôn giáo trong phạm vi cá nhân bắt nguồn từ phương Tây như một phần của quá trình hiện đại hóa Tây phương, nhưng đối với những người khác nó không có ý nghĩa gì. Thật vậy, nhiều người sẽ thấy kỳ vọng này là không tự nhiên, giản lược và thậm chí gây tổn hại.
Như tôi đã viết chi tiết ở nơi khác, trào lưu cơ yếu, dù là Do Thái, Cơ đốc giáo hay Hồi giáo, tự nó không phải là một hiện tượng bạo lực. Chỉ một tỷ lệ nhỏ những người theo trào lưu cơ yếu thực hiện các hành động khủng bố; hầu hết chỉ đơn giản là cố gắng sống một cuộc sống sùng đạo trong một thế giới dường như ngày càng thù địch với đức tin, và gần như tất cả đều bắt đầu với những gì được coi là một cuộc tấn công vào họ bởi các tổ chức tự do, thế tục. Những phong trào này có xu hướng tuân theo một mô hình cơ bản: đầu tiên họ rút lui khỏi xã hội chính thống để tạo ra một vùng đất của đức tin đích thực, giống như phe Deobandi đã làm ở tiểu lục địa; ở giai đoạn sau, một số – nhưng không có nghĩa là tất cả – tham gia vào một cuộc phản công để “cải đạo” xã hội rộng lớn hơn. Mọi phong trào mà tôi đã nghiên cứu đều bắt nguồn từ nỗi sợ hãi—với niềm tin rằng xã hội hiện đại đang cố gắng hủy hoại không chỉ đức tin mà còn cả bản thân và toàn bộ lối sống của họ. Điều này không đơn giản, hoặc thậm chí chủ yếu là hoang tưởng. Chủ nghĩa cơ yếu lần đầu tiên trở thành một lực lượng trong đời sống của người Do Thái, chẳng hạn như sau thảm họa Holocaust, một nỗ lực của Hitler nhằm tiêu diệt người Do Thái châu Âu. Hơn nữa, chúng ta đã thấy rằng trong quá khứ khi mọi người sợ bị hủy diệt, tầm nhìn của họ có xu hướng thu hẹp lại và họ có thể đả kích dữ dội—mặc dù hầu hết “những người theo trào lưu cơ yếu” đã giới hạn sự phản kháng của họ trong các hoạt động chính trị hùng biện hoặc bất bạo động. Chúng ta sẽ xem xét lý do tại sao những trường hợp ngoại lệ đó lại thành ra như vậy.
Chúng ta có thể học được rất nhiều về chủ nghĩa cơ yếu nói chung từ cuộc khủng hoảng của một trong những phong trào đầu tiên trong số này, phong trào này phát triển ở Hoa Kỳ trong và ngay sau Thế chiến thứ nhất. Bản thân thuật ngữ này được đặt ra vào những năm 1920 bởi những người theo đạo Tin lành ở Mỹ, những người quyết tâm quay trở lại với “những điều cơ yếu” của Cơ đốc giáo. Việc họ rút lui khỏi cuộc sống công cộng sau Nội chiến đã thu hẹp và có lẽ làm méo mó tầm nhìn của họ. Thay vì tham gia như trước đây với các vấn đề như bất bình đẳng chủng tộc hoặc kinh tế, họ tập trung vào giải thích Kinh thánh theo nghĩa đen, tin chắc rằng mọi lời khẳng định trong kinh thánh đều đúng theo nghĩa đen. Và vì vậy, kẻ thù của họ không còn là sự bất công xã hội mà là trào lưu Phê phán Lịch Sử Kinh thánh của người Đức, vốn đã được các Cơ đốc nhân Mỹ cấp tiến hơn chấp nhận, những người vẫn đang cố gắng đem phúc âm liên hệ với các vấn đề xã hội. Tuy nhiên, đối với tất cả những tuyên bố cho rằng chủ nghĩa cơ yếu tạo ra sự quay trở về lại những điều cơ bản, các phong trào này mang tính đổi mới cao. Ví dụ, trước thế kỷ XVI, những người theo đạo Thiên chúa luôn được khuyến khích đọc thánh thư theo cách ngụ ngôn; ngay cả Calvin cũng không tin rằng chương đầu tiên của Sáng thế ký là một tường thuật thực tế về nguồn gốc của sự sống, và ông nghiêm khắc trừng phạt những “người điên cuồng” đã tin vào điều đó. Quan điểm của chủ nghĩa cơ yếu mới bây giờ đòi hỏi phải phủ nhận hoàn toàn những khập khiễng rành rành trong chính kinh thánh. Đóng cửa với bất kỳ giải pháp thay thế nào và chỉ cố kết theo cách riêng của nó, tính bất khả sai lầm trong Kinh thánh đã tạo ra một tâm trí khép kín phát sinh từ nỗi sợ hãi tột độ. Charles Hodge, người đã xây dựng giáo điều này vào năm 1874, đã cảnh báo: “Tôn giáo phải đấu tranh để giành lấy sự sống của mình trước một tầng lớp đông đảo các nhà khoa học. Mối bận tâm gây tranh cãi này về địa vị của văn bản Kinh thánh phản ánh mối quan tâm rộng rãi hơn của Cơ đốc nhân về bản chất của thẩm quyền tôn giáo. Chỉ bốn năm trước đó, Công đồng Vatican I (1870) đã ban hành học thuyết mới—và gây nhiều tranh cãi—về tính bất khả sai lầm của giáo hoàng. Vào thời điểm mà tính hiện đại đang phá bỏ những sự thật cũ và để lại những câu hỏi quan trọng chưa được trả lời, người ta khao khát một sự chắc chắn tuyệt đối.
Những người theo trào lưu cơ yếu cũng thường bận tâm đến nỗi kinh hoàng của chiến tranh và bạo lực hiện đại. Các nhà truyền giáo kết luận rằng cuộc tàn sát kinh hoàng ở châu Âu trong Thế chiến thứ nhất chỉ có thể là khởi đầu của sự kết thúc; những thời điểm tàn sát chưa từng có này hẳn là những trận chiến được báo trước trong sách Khải Huyền. Có một sự lo lắng sâu sắc về sự tập trung hóa của xã hội hiện đại và bất cứ điều gì tiến gần đến sự thống trị thế giới. Trong Liên minh các quốc gia mới, họ đã thấy sự hồi sinh của Đế chế La Mã được tiên đoán trong sách Khải huyền, nơi ở của kẻ Chống Chúa. Những người cơ yếu chủ nghĩa giờ đây thấy mình đang vật lộn với các thế lực ma vương sẽ sớm hủy diệt thế giới. Tâm linh của họ là phòng thủ và chứa đầy nỗi kinh hoàng hoang tưởng về ảnh hưởng nham hiểm của thiểu số Thiên chúa giáo; họ thậm chí còn mô tả nền dân chủ Mỹ là “sự cai trị quỷ quyệt nhất mà thế giới này từng thấy.” Các kịch bản rùng rợn của những người theo trào lưu cơ yếu Mỹ về thời mạt thế, với các cuộc chiến tranh đổ máu và tàn sát, là triệu chứng của một nỗi thống khổ sâu xa không thể xoa dịu bằng những phân tích lý trí lạnh lùng. Ở những nước kém ổn định hơn, sẽ rất dễ xảy ra tình trạng bất ổn, tuyệt vọng và sợ hãi tương tự bùng phát thành bạo lực thể xác.
Sự ghê tởm kinh hoàng của họ trước bạo lực của Chiến tranh thế giới thứ nhất cũng khiến những người cơ yếu chủ nghĩa Mỹ phủ quyết nền khoa học hiện đại. Họ bị ám ảnh bởi thuyết tiến hóa. Có một niềm tin phổ biến rằng những hành động tàn bạo trong thời chiến của Đức là kết quả của việc quốc gia này tôn sùng thuyết xã hội của Darwin, theo đó sự tồn tại là một cuộc đấu tranh tàn bạo, vô thần, trong đó chỉ kẻ mạnh nhất mới có thể sinh tồn. Tất nhiên, đây là một sự xuyên tạc thô thiển đối với giả thuyết của Darwin, nhưng vào thời điểm mà mọi người đang cố gắng hiểu ý nghĩa của cuộc chiến đẫm máu nhất trong lịch sử loài người, thì sự tiến hóa dường như tượng trưng cho mọi thứ tàn nhẫn nhất trong cuộc sống hiện đại. Những ý tưởng này đặc biệt đáng lo ngại đối với những người Mỹ ở thị trấn nhỏ, những người cảm thấy rằng nền văn hóa của họ đang bị tầng lớp thế tục tiếp quản – gần như thể họ đang bị một thế lực ngoại bang chiếm đóng. Nỗi đau khổ này lên đến đỉnh điểm trong Phiên tòa nổi tiếng xét xử Scopes ở Dayton, Tennessee, khi những người theo trào lưu cơ yếu, được đại diện bởi chính trị gia đảng Dân chủ William Jennings Bryan, cố gắng bảo vệ việc cơ quan lập pháp bang cấm dạy thuyết tiến hóa trong các trường công lập. [Thầy giáo John Thomas Scopes, bị ra tòa vì giảng dạy thuyết tiến hóa, vi phạm luật của bang.] Họ bị phản đối bởi nhà vận động theo chủ nghĩa duy lý Clarence Darrow, được hỗ trợ bởi Liên minh Quyền Tự do Dân sự Hoa Kỳ mới thành lập. Mặc dù luật tiểu bang được giữ nguyên, màn trình diễn vụng về của Bryan dưới sự thẩm vấn gay gắt của Darrow đã hoàn toàn làm mất uy tín của những người theo trào lưu cơ yếu.
Báo chí đã tiến hành một chiến dịch thâm độc vạch trần Bryan và những người ủng hộ trào lưu cơ yếu của ông là những kẻ lạc hậu hết thuốc chữa. Nhà báo H. L. Mencken lập luận rằng những người theo chủ nghĩa cơ yếu không có chỗ đứng trong xã hội hiện đại. Ông ta chế giễu Dayton là “ngôi làng Tennessee nhỏ mọn” và công dân của nó là “những linh trưởng há hốc mồm trong các thung lũng vùng cao.” Tuy nhiên, bất cứ khi nào một phong trào cơ yếu bị tấn công, bằng bạo lực hoặc trong một chiến dịch truyền thông, thì hầu như nó luôn trở nên cực đoan hơn. Nó cho những kẻ bất mãn thấy rằng nỗi sợ hãi của họ là có cơ sở: thế giới trần tục thực sự muốn tiêu diệt họ. Trước Phiên tòa Scopes, thậm chí Hodge cũng không tin rằng Sáng thế ký hợp lý về mặt khoa học đến từng chi tiết, nhưng sau đó “khoa học sáng thế” đã trở thành tiếng kêu tập hợp của phong trào cơ yếu. Trước Dayton, một số người theo trào lưu cơ yếu hàng đầu vẫn tham gia công tác xã hội với những người cánh tả; sau đó, họ chuyển sang cực hữu, rút lui hoàn toàn khỏi dòng chính và thành lập nhà thờ, trường cao đẳng, đài truyền hình và nhà xuất bản của riêng họ. Họ càng ngày càng phát triển bên dưới sự theo dõi của văn hóa dòng chính. Một khi nhận thức được sự ủng hộ đáng kể của công chúng, vào cuối những năm 1970, họ tái xuất từ ngoài lề với phong trào Đa số Đạo đức của Jerry Falwell [một nhóm vận động chính trị thúc đẩy một lịch trình bảo thủ về tôn giáo, như kêu gọi cho phép cầu nguyện trong trường học: ND.]
Chủ nghĩa cơ yếu Mỹ sẽ mãi mãi cạnh tranh để được lắng nghe như một tiếng nói quyết định trong nền chính trị Mỹ — với thành công đáng chú ý. Nó không dùng đến bạo lực, phần lớn là do những người theo đạo Tin lành ở Mỹ không phải chịu đựng nhiều như những tín đồ đạo Hồi ở Trung Đông. Không giống như các nhà cai trị thế tục của Ai Cập hay Iran, chính phủ Hoa Kỳ đã không tịch thu tài sản của họ, tra tấn và ám sát các giáo sĩ của họ, hoặc phá bỏ các tổ chức của họ một cách tàn nhẫn. Ở Mỹ, tính hiện đại thế tục là sản phẩm cây nhà lá vườn, không bị áp đặt quân sự từ bên ngoài mà đã phát triển một cách tự nhiên theo thời gian, và khi chúng xuất hiện trước công chúng vào cuối những năm 1970, những người theo trào lưu cơ yếu của Mỹ có thể sử dụng các kênh dân chủ đã được thiết lập vững chắc để quảng bá quan điểm của họ. Mặc dù chủ nghĩa cơ yếu Tin lành Mỹ thường không phải là một tác nhân gây bạo lực, nhưng ở một mức độ nào đó, nó là một phản ứng đối với bạo lực: chấn thương của chiến tranh hiện đại và sự công kích tâm lý của thái độ khinh thường hung hăng của các cơ sở thế tục. Cả hai đều có thể bóp méo một truyền thống tôn giáo theo những cách gây tiếng vang vượt xa cộng đồng tín hữu. Tuy nhiên, chủ nghĩa cơ yếu Mỹ chia sẻ với các nhóm bất mãn khác sự nhạy cảm của những người dân thuộc địa, trong sự tự khẳng định đầy thách thức của mình và trong quyết tâm khôi phục bản sắc và văn hóa của chính mình trước một Tha nhân hùng mạnh.
- ● ●
Ngược lại, chủ nghĩa cơ yếu của người Hồi giáo thường – mặc dù một lần nữa, không phải lúc nào cũng – biến thành hành vi gây hấn về thể chất. Điều này không phải vì theo thể trạng, Hồi giáo dễ bị bạo lực hơn Cơ đốc giáo Tin lành mà là vì người Hồi giáo trải quá trình tiếp thu khắc nghiệt hơn nhiều đối với tính hiện đại. Trước khi nhà nước hiện đại ra đời trong lò luyện kim của chủ nghĩa thực dân, ở nhiều vùng đất của người Hồi Hồi giáo vẫn tiếp tục hoạt động như các nguyên tắc tổ chức của xã hội. Năm 1920, sau Chiến tranh thế giới thứ nhất và sự thảm bại của Đế chế Ottoman, Anh và Pháp đã chia các lãnh thổ của Ottoman thành các quốc gia-dân tộc kiểu phương Tây và thiết lập các chế độ ủy trị và bảo hộ ở đó trước khi trao độc lập cho các quốc gia mới này. Nhưng những mâu thuẫn cố hữu của nhà nước-dân tộc tỏ ra đặc biệt gay gắt trong thế giới Hồi giáo, nơi không có truyền thống chủ nghĩa dân tộc. Các đường biên giới do người châu Âu vẽ ra tùy tiện đến mức cực kỳ khó để tạo ra một “cộng đồng tưởng tượng” có tính dân tộc. Ví dụ, ở Iraq, nơi người Sunni là thiểu số, người Anh đã chỉ định một nhà lãnh đạo người Sunni cai trị cả đa số người Shia và người Kurd ở phía bắc. Ở Liban, 50% dân số theo đạo Hồi và đương nhiên muốn có quan hệ kinh tế và chính trị chặt chẽ với các nước láng giềng Ả Rập, nhưng chính phủ Cơ đốc giáo do người Pháp lựa chọn lại muốn có quan hệ chặt chẽ hơn với châu Âu. Sự phân chia Palestine và việc thành lập Nhà nước Do Thái của Israel bởi Liên Hiệp Quốc vào năm 1948 cũng tỏ ra không kém phần quá quắt Nó dẫn đến việc 750.000 người Palestine gốc Ả Rập buộc phải di dời, và những người ở lại thấy mình đang sống trong một quốc gia thù địch với quốc gia của họ. Có một điều phức tạp nữa là Israel là một quốc gia thế tục được thành lập dành cho những tín đồ của một trong những tôn giáo cổ xưa trên thế giới. Tuy nhiên, trong hai mươi năm đầu tiên tồn tại, giới lãnh đạo của Israel đã trở nên thế tục một cách hung hãn, và đã gây ra bạo lực cho người Palestine, các cuộc chiến tranh của Israel với các nước láng giềng, và sự phản công của người Palestine đã diễn ra không phải vì tôn giáo mà vì chủ nghĩa dân tộc thế tục.
Sự phân chia tiểu lục địa của Anh thành Ấn Độ theo đạo Hindu và Pakistan theo đạo Hồi năm 1947 cũng có vấn đề tương tự, vì cả hai đều được thành lập như những quốc gia thế tục dưới danh nghĩa tôn giáo. Quá trình phân chia tàn bạo đã khiến hơn bảy triệu người phải rời bỏ nhà cửa và cái chết của một triệu người khác đang cố gắng chạy trốn khỏi một tiểu bang để gia nhập những người đồng đạo cốt lõi của họ ở một tiểu bang khác. Ở cả Ấn Độ và Pakistan, rất nhiều người không thể nói được cái gọi là ngôn ngữ quốc gia. Một tình huống đặc biệt bất ổn đã được tạo ra ở Kashmir, mặc dù ở đây người Hồi giáo chiếm đa số, lại được trao cho Ấn Độ, bởi vì nó được cai trị bởi một maharaja (nhad cầm quyền) theo đạo Hindu. Quyết định đó của Anh vẫn còn gây tranh cãi, và người ta cũng cảm nhận được sự độc đoán tương tự khi chia cắt miền đông và miền tây Pakistan bằng một nghìn dặm lãnh thổ Ấn Độ.
Khi họ đấu tranh giành độc lập trước khi bị chia cắt, những người đạo Hindu đã tham gia vào một cuộc thảo luận căng thẳng về tính hợp pháp của việc chống lại người Anh, phần lớn được quyết định bởi Bhagavad-Gita, một bản kinh đã định hình sâu sắc ký ức tập thể của Ấn Độ. Ahimsa (Bất bạo động) là một giá trị tinh thần quan trọng ở Ấn Độ, nhưng Gita dường như ủng hộ bạo lực. Tuy nhiên, Mohandas Gandhi (1869–1948) không đồng ý với cách giải thích này. Ông sinh ra trong một gia đình vaishya (đẳng cấp thương gia, nông dân) và có nhiều bạn bè theo đạo Kỳ Na, những người đã ảnh hưởng đến thái độ sau này của ông. Năm 1914, sau nhiều năm làm luật sư ở Nam Phi để phản đối luật pháp phân biệt đối xử với người Ấn Độ, ông đã trở lại Ấn và bắt đầu quan tâm đến vấn đề cai trị trong nước, thành lập Đảng Quốc đại Ấn Độ Natal và phát triển phương pháp độc đáo của mình để chống lại sự áp bức của thực dân bằng biện pháp bất bại động. Bên cạnh truyền thống Ấn Độ giáo, ông còn bị ảnh hưởng bởi Bài giảng trên Núi của Jesus, Vương quốc Đức Chúa Trời ở trong Bạn của Leo Tolstoy, Cho đến Cuối cùng Này của John Ruskin và Sự Bất tuân Dân sự của Henry David Thoreau.
Trung tâm thế giới quan của Gandhi là cái nhìn sâu sắc, lần đầu tiên được phát triển trong Upanishad, cho rằng tất cả chúng sinh đều là biểu hiện của Brahman (Đại Ngã). Vì mọi người đều có chung một cốt lõi thiêng liêng, nên bạo lực đã đi ngược lại thành kiến siêu hình của toàn vũ trụ. Tầm nhìn tâm linh sâu sắc này về tính đồng nhất của sự tồn tại đã trực tiếp chống lại chủ nghĩa ly khai và chủ nghĩa sô vanh hiếu chiến của nhà nước-dân tộc. Sự từ khước ôn hòa không chịu tuân theo chính sách ương ngạnh tư lợi của chế độ Anh của Gandhi dựa trên ba nguyên tắc: ahimsa, satyagraha (“sức mạnh tâm linh” đi kèm với việc nhận ra sự thống nhất sâu sắc của nhân loại) và swaraj (“sự tự trị”). Trong Gita, Gandhi khẳng định, việc Arjuna ban đầu từ chối chiến đấu không phải là ahimsa thực sự, bởi vì ông ta vẫn coi mình là khác với kẻ thù và không nhận ra rằng tất cả họ, bạn cũng như kẻ thù của bạn, đều là hiện thân của Brahman. Nếu Arjuna thực sự hiểu rằng ông ta và Duryodana, kẻ thù mà ông ta sắp chiến đấu, cuối cùng là một, thì ông ta đã có được “sức mạnh tâm linh” có khả năng biến lòng căm thù của kẻ thù thành tình yêu.
Nhưng như chúng ta đã thấy, cùng một văn bản và thực hành tâm linh có thể dẫn đến những hành động hoàn toàn khác nhau. Những người khác phản đối cách giải thích này của Gita. Học giả người Hindu Aurobindo Ghose (1872–1950) lập luận rằng việc khẳng định bạo lực của Krishna trong Gita chỉ đơn giản là sự thừa nhận về thực tế nghiệt ngã của cuộc sống. Vâng, thật tốt nếu giữ được hòa bình bên trên xung đột, nhưng cho đến khi “sức mạnh tâm linh ” của Gandhi thực sự trở thành hiện thực hữu hiệu trên thế giới, thì sự hiếu chiến tự nhiên vốn có ở cả con người và các quốc gia “sẽ chà đạp, phá hủy, tàn sát, thiêu rụi, làm ô nhiễm như chúng ta đã thấy nó đang làm ngày hôm nay.” Gandhi có thể phát hiện ra rằng mình đã gây ra tổn thất nhân mạng khi từ bỏ bạo lực cũng không kém những người đã dùng bạo lực để chiến đấu. Aurobindo đang bày tỏ quan điểm của những kẻ chỉ trích Gandhi, những người cho rằng ông nhắm mắt làm ngơ trước sự thật rằng người Anh phản ứng với chiến dịch bất bạo động của ông thực sự dẫn đến đổ máu gớm ghiếc. Nhưng Aurobindo cũng đang nói rõ vấn đề nan giải muôn thuở của Ashoka: Liệu bất bạo động có khả thi trong thế giới chính trị đầy bạo lực không thể tránh khỏi?
Tuy nhiên, Gandhi đã nhìn thấu suốt lý thuyết của mình cho đến kết luận cuối cùng của nó. Ông ấy khẳng định, bất bạo động không chỉ có nghĩa là yêu thương kẻ thù của bạn mà còn nhận ra rằng họ hoàn toàn không phải là kẻ thù của bạn. Ông ta có thể ghét sự tàn nhẫn có hệ thống và quân sự của chế độ thực dân, nhưng ông ta không thể cho phép mình ghét những người thi hành nó:
Tình thương của tôi không phải là một tình thương hạn hẹp. Tôi không thể yêu người Hồi giáo hay người Hindu mà ghét người Anh. Vì nếu tôi chỉ yêu mến những người Hindu và Hồi vì đường lối của họ nhìn chung làm tôi hài lòng, thì tôi sẽ sớm trở nên ghét họ khi đường lối của họ làm tôi bất mãn, điều mà họ có thể làm bất cứ lúc nào. Một tình yêu dựa trên lòng tốt của những người bạn yêu thương là thứ tình thương vụ lợi
Gandhi tin rằng nếu không có lòng tôn kính đối với sự thiêng liêng của mỗi con người và “sự thanh tịnh” từ lâu đã được coi là đỉnh cao của cuộc tìm kiếm tâm linh, thì “chính trị không có tôn giáo” là một “cái bẫy chết người vì chúng giết chết linh hồn”. Chủ nghĩa dân tộc thế tục dường như không thể nuôi dưỡng một hệ tư tưởng phổ quát tương tự, mặc dù thế giới toàn cầu hóa của chúng ta có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Gandhi không thể tán thành chủ nghĩa thế tục của phương Tây: “Để trực diện nhìn thấy Tinh thần Chân lý phổ quát và bao trùm tất cả, người ta phải có khả năng yêu thương sinh vật nhỏ bé nhất như chính mình,” ông kết luận trong cuốn tự truyện của mình. Lòng tận tụy đối với sự thật này đòi hỏi một người phải tham gia vào mọi lĩnh vực của cuộc sống; nó đã đưa ông vào chính trị, vì “những ai nói rằng tôn giáo không liên quan gì đến chính trị thì không biết tôn giáo nghĩa là gì.” Những năm cuối đời của Gandhi chìm trong bóng tối bởi bạo lực cộng đồng nổ ra trong và sau khi Ấn Độ phân chia. Ông bị ám sát vào năm 1948 bởi một tên theo chủ nghĩa dân tộc cực đoan, kẻ tin rằng Gandhi đã nhượng bộ quá nhiều cho người Hồi giáo và đã quyên góp một khoản tiền lớn cho Pakistan.
Khi họ rèn giũa bản sắc dân tộc của mình trong những điều kiện căng thẳng đặc biệt của Ấn Độ, cả người Hồi giáo và người Hindu sẽ trở thành con mồi cho tội lỗi bao trùm của chủ nghĩa dân tộc thế tục: chủ nghĩa dân tộc thế tục không có khả năng dung thứ cho các nhóm thiểu số. Và bởi vì quan điểm của họ vẫn còn thấm nhuần tâm linh, thành kiến dân tộc chủ nghĩa này đã bóp méo quan điểm tôn giáo truyền thống của họ. Khi bạo lực giữa người Hồi giáo và người Hindu leo thang trong những năm 1920, Arya Samaj (phong trào cải cách của người Hindu) trở nên hiếu chiến hơn. Tại một hội nghị năm 1927, phong trào đã thành lập một tổ chức quân sự, Arya Vir Dal (“Đội Ngựa Aryan”). Nó tuyên bố người anh hùng Aryan mới phải phát huy những đức tính của giới Kshatriya – lòng dũng cảm, sức mạnh thể chất và đặc biệt là thành thạo trong việc sử dụng vũ khí. Nhiệm vụ chính của họ là bảo vệ các quyền lợi của quốc gia Aryan chống lại người Hồi giáo và người Anh. Người Arya nóng lòng không chịu thua kém Rashtriya Svayamsevak Sangh (“Hiệp hội Tình nguyện viên Quốc gia”), thường được gọi là RSS, được thành lập ở miền trung Ấn Độ ba năm trước bởi Keshav B. Hedgewar. Khi người Arya đã điều chỉnh ý niệm “tôn giáo” của người Anh vào “đạo Hindu”, RSS đã hợp nhất các lý tưởng tôn giáo truyền thống với chủ nghĩa dân tộc phương Tây. Nó chủ yếu là một tổ chức xây dựng tính cách được thiết kế để phát triển đặc tính phục vụ, dựa trên lòng trung thành, kỷ luật và tôn trọng di sản của đạo Hindu, và nó đặc biệt thu hút tầng lớp trung lưu thành thị. Người hùng của nó là chiến binh thế kỷ XVII Shivaji, được trao quyền nhờ lòng trung thành với nghi lễ truyền thống của Ấn Độ giáo cũng như kỹ năng tổ chức của mình, đã lãnh đạo một cuộc nổi dậy thành công chống lại người Moghul. Ông đã thành công trong việc tập hợp những tân binh từ các tầng lớp nông dân khác nhau thành một đội quân thống nhất, và RSS thề sẽ làm điều tương tự ở Ấn Độ thuộc Anh.
Do đó, một làn sóng cuồng tín mới đã ra đời ở Ấn Độ, một làn sóng nuôi dưỡng sức mạnh của người Hindu không phải bằng cách gợi lên ahimsa mà bằng cách phát triển đặc tính chiến binh truyền thống. Tuy nhiên, sự kết hợp giữa lý tưởng Kshatriya với chủ nghĩa dân tộc thế tục là rất nguy hiểm. Đối với RSS, Mẹ Ấn không chỉ đơn giản là một thực thể lãnh thổ mà còn là một nữ thần sống. Bà luôn được tôn kính như một vùng đất thánh, biển, sông và núi của bà đều thiêng liêng, nhưng trong nhiều thế kỷ, bà đã bị người nước ngoài mạo phạm và sẽ sớm bị cưỡng chế bằng cách chia cắt. Theo truyền thống, Mẹ Thiêng liêng đón nhận tất cả mọi người, nhưng với sự bất dung mới của chủ nghĩa dân tộc đối với các nhóm thiểu số, RSS nhấn mạnh rằng bà không thể chấp nhận người Hồi giáo hoặc Phật tử Đông Á nữa.
Hedgewar là một nhà hoạt động hơn là một trí thức, suy nghĩ của ông bị ảnh hưởng sâu sắc bởi V. D. Savarkar, một nhà cực đoan lỗi lạc bị người Anh cầm tù với tác phẩm kinh điển Hindutva (“Người theo đạo Hindu”) đã được tuồn ra khỏi nhà tù và xuất bản năm 1923. Ông định nghĩa người theo đạo Hindu như một người thừa nhận sự toàn vẹn của Đại Ấn Độ (kéo dài từ dãy Himalaya đến Iran và Singapore) và tôn kính bà không chỉ là Tổ quốc, như những người theo chủ nghĩa dân tộc khác đã làm, mà còn là Thánh địa. Sự kết hợp giữa tôn giáo và chủ nghĩa dân tộc thế tục này có khả năng độc hại. Trong các cuốn sách của Savarkar, bản sắc dân tộc Hindu mới nổi phụ thuộc vào việc loại trừ Hồi giáo: toàn bộ lịch sử phức tạp của Ấn Độ được trình bày như một cuộc đấu tranh sinh tử với chủ nghĩa đế quốc Hồi giáo. Mặc dù những người theo đạo Hindu luôn chiếm đa số, nhưng họ đã bị điều kiện hóa bởi hàng thế kỷ nằm dưới sự thống trị của đế quốc Moghul Hồi giáo để có thể coi mình là một thiểu số đang bị vây hãm và có nguy cơ tuyệt chủng. Giống như rất nhiều dân tộc bị khuất phục, họ đã phát triển một lịch sử bị tổn thương và sỉ nhục, điều này có thể ăn mòn một truyền thống tôn giáo và hướng nó tới bạo lực. Một số trải qua sự áp bức lâu dài của Hồi giáo như một sự ô nhục quốc gia. Trong những năm 1930, M. S. Golwalkar, nhà lãnh đạo thứ hai của RSS, cảm thấy có mối quan hệ thân thiết với những lý tưởng của Chủ nghĩa Quốc Xã, một phần là sản phẩm của việc Đức bị quân Đồng minh sỉ nhục sau Thế chiến thứ nhất. Người nước ngoài ở Ấn Độ chỉ có hai lựa chọn, Golwalkar lập luận: “Các chủng tộc nước ngoài phải mất đi sự tồn tại riêng biệt của mình… hoặc họ có thể ở lại đất nước, nhưng hoàn toàn phụ thuộc vào Quốc gia Ấn Độ giáo, không được đòi hỏi hỏi gì, không xứng đáng với đặc quyền, càng không được hưởng bất kỳ ưu đãi nào. —thậm chí không phải quyền công dân.” Golwalkar ca ngợi người Đức vì đã “thanh trừng các Chủng tộc Semitic khỏi đất nước mình”; Ông tin rằng Ấn Độ có nhiều điều để học hỏi từ “niềm tự hào Chủng tộc” Aryan này.
Nỗi kinh hoàng của sự phân chia chỉ có thể thổi bùng lên lịch sử bất bình đang đầu độc mối quan hệ giữa người Hồi giáo và người Hindu một cách nguy hiểm. Như nhà tâm lý học Sudhir Kakar đã giải thích, trong nhiều thập kỷ, hàng trăm nghìn trẻ em theo đạo Hindu và đạo Hồi đã nghe những câu chuyện về bạo lực thời đó, những câu chuyện “kể về sự khốc liệt của kẻ thù không đội trời chung. Đây là một kênh chính thông qua đó sự thù địch lịch sử được truyền từ thế hệ này sang thế hệ tiếp theo.” Nó cũng tạo ra sự rạn nứt giữa những người theo chủ nghĩa thế tục và những người theo đạo Hindu. Những người theo chủ nghĩa thế tục tự thuyết phục rằng bạo lực này không bao giờ có thể xảy ra nữa. Nhiều người đổ lỗi cho người Anh về thảm kịch; những người khác chỉ coi đó là một lầm lạc đáng sợ. Jawaharlal Nehru, thủ tướng đầu tiên của Ấn Độ, tin rằng quá trình công nghiệp hóa đất nước và truyền bá chủ nghĩa duy lý khoa học và dân chủ sẽ chống lại những sôi sục tôn giáo này.
Nhưng có một điềm báo đáng lo ngại về rắc rối trong tương lai. Năm 1949, một hình ảnh của Ram, hóa thân của thần Vishnu và là mẫu mực chính của đạo đức Hindu, được phát hiện trong một tòa nhà tại địa điểm sinh ra theo thần thoại của ngài ở Ayodhya trên đồng bằng sông Hằng phía đông. Đây cũng là địa điểm của một nhà thờ Hồi giáo được cho là do Babur, hoàng đế Moghul đầu tiên, thành lập vào năm 1528. Những người Hindu sùng đạo cho rằng hình ảnh của Ram đã được Thượng Đế đặt ở đó; Người Hồi giáo, tất nhiên, phủ nhận điều này. Đã xảy ra xô xát dữ dội và thẩm phán quận, một thành viên của RSS, đã từ chối xóa đi hình ảnh. Bởi vì hình ảnh của họ cần được thờ cúng thường xuyên, nên những người Hindu từ đó trở đi được phép vào tòa nhà để tụng kinh vào ngày kỷ niệm sự xuất hiện kỳ diệu của bức tượng Ram. Bốn mươi năm sau, địa điểm thiêng liêng này sẽ ăn đứt chủ nghĩa duy lý khoa học mà những người thế tục chủ nghĩa đã dự đoán một cách tự tin.
- ● ●
Người sáng lập Pakistan, Muhammad Ali Jinnah (1876–1948), là một nhân vật chủ nghĩa thế tục không nao núng, người chỉ đơn giản muốn tạo ra một nhà nước trong đó người Hồi giáo sẽ không bị xác định hoặc giới hạn bởi các chi nhánh tôn giáo của họ. Trên thực tế, quốc gia đã được xác định bởi Hồi giáo trước khi nó bắt đầu. Điều này chắc chắn đã làm dấy lên những kỳ vọng nhất định, và ngay từ bắt đầu, trong khi chính phủ vẫn kiên quyết theo chủ nghĩa thế tục, đã có áp lực buộc phải tái thiêng liêng hóa đời sống chính trị. Phái Deobandi trở nên đặc biệt mạnh mẽ ở Pakistan. Họ tán thành hệ thống hiện đại của chủ nghĩa dân tộc lãnh thổ và nền dân chủ thế tục, đồng thời cung cấp giáo dục miễn phí cho người nghèo ở các trường đạo (madrassa) của họ vào thời điểm hệ thống trường công đang sụp đổ do thiếu kinh phí. Học sinh của họ sẽ bị cô lập khỏi cuộc sống thế tục chính thống và được học trong hình thức Hồi giáo cứng nhắc và bất dung đặc biệt của phái Deobandi. Để bảo vệ lối sống Hồi giáo của họ, người Deobandi cũng thành lập một đảng chính trị, JUI (Hiệp hội Ulema của Hồi giáo). Vào cuối những năm 1960, khi đã tích lũy được hàng chục nghìn sinh viên và cựu sinh viên, họ đã ở một vị trí tuyệt vời để gây sức ép buộc chính phủ phải Hồi giáo hóa luật dân sự và hệ thống ngân hàng, nhờ đó tạo ra việc làm cho những sinh viên tốt nghiệp cực kỳ sùng đạo của họ.
Hoàn toàn khác biệt là Jamaat-i-Islami, được thành lập ở Ấn Độ vào năm 1941 để phản đối việc thành lập một nhà nước thế tục riêng biệt. Jamaat không có cơ sở trường đạo và không bám vào quá khứ như phái Deobandi đã làm, mà phát triển một hệ tư tưởng Hồi giáo chịu ảnh hưởng của những lý tưởng hiện đại về tự do và độc lập. Abul Ala Maududi (1903–79), người sáng lập ra nó, lập luận rằng bởi vì chỉ một mình Chúa cai trị các công việc trần gian, không gì khác — “dù là một con người, một gia đình, một giai cấp hay một nhóm người, hoặc thậm chí toàn thể loài người”—có thể tuyên bố chủ quyền. Do đó, không ai bị bắt buộc phải tuân theo bất kỳ thẩm quyền phàm trần nào. Mỗi thế hệ phải chiến đấu với jahiliyyah [thời kỳ ngu tối, dốt nát, nông nỗi trước khi Vị Tiên Tri Muhammad xuất hiện, nói chung có nghĩa là tình trạng vô minh không được Hồi giáo khai sáng: ND] vào thời của nó, như Vị Tiên Tri đã làm, vì bạo lực, lòng tham và sự vô thần của jahiliyyah là mối nguy hiểm luôn hiện hữu. Chủ nghĩa thế tục phương Tây là hình ảnh thu nhỏ của jahiliyyah hiện đại bởi vì nó giống như một cuộc nổi loạn chống lại sự cai trị của Chúa. Maududi nhấn mạnh rằng Hồi giáo không phải là một “tôn giáo” kiểu phương Tây, tách biệt khỏi chính trị; ở đây ông hoàn toàn đồng thuận với Gandhi. Thay vào đó, Hồi giáo là din, một lối sống hoàn chỉnh bao gồm các hoạt động kinh tế, xã hội và chính trị cũng như các hoạt động nghi lễ:
Việc sử dụng từ din bác bỏ dứt khoát quan điểm của những kẻ tin rằng thông điệp của nhà tiên tri chủ yếu nhằm đảm bảo việc thờ phượng một Đức Chúa Trời duy nhất, tuân thủ một loạt tín ngưỡng và tuân thủ một số nghi lễ. Điều này cũng bác bỏ quan điểm của những người cho rằng din không liên quan gì đến văn hóa, chính trị, kinh tế, luật pháp, tư pháp và các vấn đề khác liên quan đến thế giới này.
Người Hồi giáo có nhiệm vụ khước từ bạo lực có cấu trúc của nhà nước thời tiền Hồi giáo và thực hiện công bằng kinh tế, hòa hợp xã hội và bình đẳng chính trị trong cuộc sống công cộng cũng như riêng tư, tất cả đều dựa trên nhận thức sâu sắc về Chúa (taqwah).
Trước khi Ấn Độ bị phân chia, Jamaat đã tập trung vào việc đào tạo các thành viên của mình để thay đổi cuộc sống của chính họ trong Cuộc Đấu Tranh Vĩ Đại Hơn; chỉ bằng cách sống một cuộc sống theo kinh Qur’an đích thực, họ mới có thể hy vọng truyền cảm hứng cho người dân với niềm khao khát về chính phủ Hồi giáo. Nhưng sau khi phân chia, phong trào cũng chia tách. Trong số 625 thành viên của nó, 240 người vẫn ở Ấn Độ. Vì chỉ có 11% dân số Ấn theo đạo Hồi nên phong trào Jamaat ở Ấn Độ không thể hy vọng thành lập một nhà nước Hồi giáo; thay vào đó, các thành viên của nó đã đạt được đánh giá cao về chủ nghĩa thế tục ôn hòa (trái ngược với chủ nghĩa vô thần) trong nhà nước mới Ấn Độ vừa thành lập cấm phân biệt đối xử trên cơ sở niềm tin tôn giáo. Họ tuyên bố, đây là một “sự ban phước” và một “sự đảm bảo cho một tương lai an toàn cho đạo Hồi ở Ấn Độ.” Nhưng ở Pakistan, nơi có khả năng thành lập một nhà nước Hồi giáo, Maududi và 385 đệ tử Jamaat của ông không cảm thấy những ràng buộc như vậy. Họ trở thành đảng chính trị Pakistan có tổ chức nhất, nhận được sự ủng hộ của các tầng lớp thành thị có học thức, và vận động mạnh mẽ chống lại chế độ độc tài của Ayub Khan (trị vì 1958–69), người đã tịch thu tất cả tài sản của giáo sĩ và chế độ xã hội chủ nghĩa của Zulfiqar Ali Bhutto (trị vì 1970–77), người đã sử dụng các biểu tượng và khẩu hiệu Hồi giáo để giành được sự ủng hộ của quần chúng nhưng thực tế không có gì ngoài sự khinh thường tôn giáo.
Do đó, Maududi vẫn cam kết đấu tranh (thánh chiến: Jihad) chống lại chủ nghĩa thế tục phi Hồi giáo nhưng ông luôn giải thích từ Jihad một cách rộng rãi theo cách truyền thống để nó không chỉ đơn giản có nghĩa là “thánh chiến” mà còn có nghĩa sự “đấu tranh” nhằm đạt đến quyền tối thượng của Đức Chúa Trời bằng các hoạt động chính trị ôn hòa, chẳng hạn như viết sách hoặc làm việc trong lĩnh vực giáo dục. Do đó, thật sai lầm khi coi người Pakistan phái Jamaat là người có ý định bạo lực cuồng tín; việc cả nhóm đi theo hai hướng khác nhau như vậy sau khi chia cắt cho thấy họ có sự linh hoạt để thích nghi với hoàn cảnh. Maududi không liên quan gì đến các cuộc đảo chính cách mạng, các vụ ám sát hay các chính sách kích động hận thù và xung đột, nhấn mạnh rằng một nhà nước Hồi giáo chỉ có thể cắm rễ vững chắc nếu các mục tiêu và phương tiện đều “trong sạch và đáng khen ngợi”. Quá trình chuyển đổi từ một quốc gia -nhà nước thế tục đến một xã hội Hồi giáo thực sự phải, ông luôn luôn khăng khăng, “tự nhiên, tiến hóa và hòa bình.”
Nhưng ở Pakistan vũ lực đã trở thành một trong những phương thức chính của hoạt động chính trị. Các nhà lãnh đạo thường xuyên lên nắm quyền bằng các cuộc đảo chính quân sự, và đàn áp tàn nhẫn phe đối lập chính trị, cả Khan và Bhutto đều không thể được coi là mô hình về chủ nghĩa thế tục ôn hòa. Xung đột vũ trang phổ biến trong xã hội Pakistan đến nỗi một nhóm từ bỏ bạo lực có rất ít hy vọng thành công. Trong nỗ lực giành được sự ủng hộ của quần chúng cho phong trào Jamaat, Maududi đã đồng ý lãnh đạo một chiến dịch chống lại cái gọi là giáo phái Ahmadi dị giáo vào năm 1953 và viết một cuốn sách nhỏ kích động, gây ra bạo loạn và đưa ông vào tù. Tuy nhiên, đây là một sai lầm. Maududi tiếp tục tố cáo bạo lực của chính trị Pakistan và lên án các hoạt động hung hăng của IJT (Islami Jamiat-i-Taliban), chi nhánh của Jamaat, Hiệp hội Sinh viên Hồi giáo, đã tổ chức các cuộc đình công và biểu tình chống lại Bhutto, làm tê liệt hệ thống thông tin liên lạc, làm gián đoạn thương mại đô thị và các cơ sở giáo dục, và lãnh đạo các cuộc đối đầu giữa dân quân với cảnh sát. Trong khi các thành viên khác của Jamaat không chịu nổi bạo lực lan tràn ở Pakistan, Maududi vẫn cam kết đạt được một nhà nước Hồi giáo một cách dân chủ. Ông nhiều lần nhấn mạnh rằng một nhà nước Hồi giáo không thể là một chế độ thần quyền, bởi vì không có nhóm hay cá nhân nào có quyền cai trị nhân danh Chúa. Một chính phủ Hồi giáo phải được người dân bầu ra với nhiệm kỳ cố định; phải có đặc quyền phổ quát dành cho người trưởng thành, các cuộc bầu cử thường kỳ, một hệ thống đa đảng, một nền tư pháp độc lập, và các quyền con người và quyền tự do dân sự được bảo đảm—một hệ thống không khác mấy so với nền dân chủ nghị viện của Westminster.
Khi Zia al-Haqq lên nắm quyền trong một cuộc đảo chính năm 1977, thiết lập chế độ độc tài và tuyên bố rằng Pakistan sẽ tuân theo luật Shariah, ông đã dựa nhiều vào các bài viết của Maududi trong các bài phát biểu của mình. Ông cũng đưa một số quan chức cấp cao của phong trào Jamaat vào nội các của mình và tuyển dụng hàng nghìn nhà hoạt động Jamaat trong cơ quan dân sự, giáo dục và quân đội. Các tòa án Shariah được thành lập và các hình phạt truyền thống của Hồi giáo đối với rượu, trộm cắp, mại dâm và ngoại tình đã được đưa ra. Vào thời điểm này, Maududi đang trong tình trạng sức khỏe yếu và các nhà lãnh đạo Jamaat hiện tại ủng hộ chế độ quân sự của Zia, coi đó là một khởi đầu đầy hứa hẹn. Nhưng Maududi đã có những nghi ngờ sâu sắc. Làm thế nào một chế độ độc tài, chiếm đoạt chủ quyền của Chúa và cai trị bằng vũ lực và bạo lực có cơ cấu, lại có thể thực sự là người Hồi giáo? Không lâu trước khi qua đời, ông đã viết một ghi chú ngắn gọn về vấn đề này:
Chỉ riêng việc thực thi luật Hồi giáo không thể mang lại kết quả tích cực mà Hồi giáo thực sự hướng tới.… Bởi vì, chỉ bằng thông báo này [về luật Hồi giáo], bạn không thể thắp sáng trái tim của người dân bằng ánh sáng đức tin, soi sáng tâm trí họ bằng những lời dạy của đạo Hồi, và uốn nắn những thói quen và cách cư xử của họ tương ứng với các đức tính của đạo Hồi.
Các thế hệ tương lai của các nhà hoạt động Hồi giáo hẳn sẽ làm tốt nếu lưu ý đến bài học này.
- ● ●
Sự hiện đại của phương Tây đã mang lại hai phước lành ở những nơi nó được hình thành lần đầu tiên: độc lập chính trị và đổi mới kỹ thuật. Nhưng ở Trung Đông, sự hiện đại đến dưới hình thức chinh phục thuộc địa, và có rất ít tiềm năng đổi mới, với phương Tây đi trước quá xa nên người Hồi giáo chỉ có thể bắt chước. Những thay đổi không mong muốn, được áp đặt như hàng nhập khẩu từ nước ngoài, diễn ra đột ngột một cách bất ngờ. Một quá trình kéo dài hàng thế kỷ ở châu Âu phải được thực hiện chỉ trong vài thập kỷ, một cách hời hợt và thường là bằng bạo lực. Những vấn đề gần như không thể giải quyết được mà các nhà hiện đại hóa phải đối mặt đã trở nên rõ ràng trong sự nghiệp của Muhammad Ali (1769–1849). Ông đã trở thành thống đốc của Ai Cập sau cuộc xâm lược của Napoléon và đã lập được kỳ tích vĩ đại là kéo tỉnh thuộc đế chế Ottoman lạc hậu này vào thế giới hiện đại chỉ trong vòng bốn mươi năm. Tuy nhiên, ông chỉ có thể làm như vậy bằng sự cưỡng chế tàn nhẫn. Hai mươi ba nghìn nông dân đã chết trong các nhóm lao động cưỡng bức giúp cải thiện hệ thống tưới tiêu và thông tin liên lạc của Ai Cập. Hàng nghìn người khác đã phải nhập ngũ; một số chặt ngón tay và thậm chí tự chọc mù mắt để trốn nghĩa vụ quân sự. Không bao giờ có thể tự túc về công nghệ, bởi vì Muhammad Ali phải mua tất cả máy móc, vũ khí và hàng hóa sản xuất từ châu Âu. Ai Cập đang trở thành một thuộc địa ảo của Anh. Ismail Pasha (1830–95), cháu trai của Muhammad Ali, đã khiến đất nước này trở nên quá hấp dẫn đối với người châu Âu: ông đã ủy quyền cho các kỹ sư người Pháp xây dựng Kênh đào Suez, xây dựng 900 dặm đường sắt, tưới tiêu cho hơn một triệu mẫu đất cho đến nay vẫn chưa thể trồng trọt được, thành lập các trường học hiện đại cho cả nam và nữ, và biến Cairo thành một thành phố hiện đại thanh lịch. Trong quá trình này, ông đã phá sản đất nước, cuối cùng tạo cho người Anh cái cớ mà họ cần vào năm 1882 để thiết lập một cuộc chiếm đóng quân sự nhằm bảo vệ lợi ích của các cổ đông.
Ngay cả khi đã đạt được một mức độ hiện đại hóa, các cường quốc thực dân châu Âu vẫn tìm cách dập tắt nó. Có lẽ thành tựu lớn nhất của Muhammad Ali là thành lập ngành công nghiệp bông, hứa hẹn mang lại cho Ai Cập một cơ sở kinh tế đáng tin cậy cho đến khi Lord Cromer, tổng lãnh sự đầu tiên của Ai Cập, đình chỉ sản xuất, vì bông Ai Cập đã làm tổn hại đến lợi ích của Anh. Không mặn mà với việc giải phóng phụ nữ—ông là thành viên sáng lập Liên đoàn chống quyền bầu cử của phụ nữ ở London—Cromer cũng thu hẹp các chương trình giáo dục phụ nữ của Ismail và ngăn cản họ tham gia các ngành nghề. Mọi hành động lợi ích mà người Anh đóng góp cho thuộc địa Ai Cập thực tế đều ít hơn so với vẻ ngoài của nó. Năm 1922, người Anh trao cho Ai Cập một chút độc lập, với một vị vua mới, một cơ quan nghị viện và một hiến pháp tự do kiểu phương Tây, nhưng họ vẫn giữ quyền kiểm soát quân sự và chính sách đối ngoại. Từ năm 1923 đến năm 1930, có ba cuộc tổng tuyển cử, mỗi cuộc đều do đảng Wafd giành chiến thắng, đảng này vận động cho việc giảm bớt sự hiện diện của Anh ở Ai Cập; nhưng mỗi lần như vậy người Anh buộc chính phủ dân cử phải từ chức. Theo cách tương tự, người châu Âu đã cản trở sự phát triển của nền dân chủ ở Iran, nơi mà giới tăng lữ và trí thức hiện đại hóa đã lãnh đạo một cuộc cách mạng thành công chống lại Qajar shah (vua Ba Tư) vào năm 1906, đòi hỏi chế độ hợp hiến và chính phủ đại diện. Nhưng gần như ngay lập tức, người Nga đã giúp quốc vương đóng cửa quốc hội mới (majlis), và trong suốt những năm 1920, người Anh thường xuyên gian lận các cuộc bầu cử để ngăn chặn các majlis quốc hữu hóa dầu mỏ của Iran để cung cấp nhiên liệu cho hải quân của họ.
Do đó, những người Hồi giáo ở Trung Đông đã trải qua sự cai trị thế tục của các cường quốc thực dân mang tính bạo lực về mặt quân sự và có hệ thống. Mọi thứ đã không được cải thiện sau khi họ giành được độc lập vào thế kỷ XX. Khi người châu Âu phá bỏ các đế chế của họ và rời khỏi khu vực, họ đã nhường lại quyền lực cho các giai cấp thống trị thời tiền thuộc địa, vốn đã ăn sâu các đặc tính quý tộc cũ đến mức họ không có khả năng hiện đại hóa. Họ thường bị phế truất trong các cuộc đảo chính được tổ chức bởi các sĩ quan quân đội có đầu óc cải cách, những thường dân duy nhất được giáo dục theo kiểu phương Tây: Reza Khan ở Iran (1921), Đại tá Adib Shissak ở Syria (1949), và Gemal Abd al- Nasser ở Ai Cập (1952). Giống như Muhammad Ali, những nhà cải cách này đã hiện đại hóa hấp tấp, hời hợt và thậm chí còn dữ dội hơn cả người châu Âu. Đã quen với cuộc sống trại lính và tuân theo mệnh lệnh mà không thắc mắc gì, họ thẳng tay tàn sát phe đối lập và đánh giá thấp sự phức tạp của quá trình hiện đại hóa. Chủ nghĩa thế tục không mang đến cho thần dân của họ sự giải phóng và sự hiếu hòa. Thay vào đó, những nhà cai trị thế tục hóa này đã khủng bố thần dân của họ một cách hiệu quả bằng cách phá bỏ các thể chế quen thuộc, để thế giới của họ trở nên không thể nhận ra.
Một lần nữa, bạn có thể đưa tôn giáo ra khỏi nhà nước nhưng không thể đưa ra khỏi quốc gia. Các sĩ quan quân đội muốn thế tục hóa nhưng lại thấy mình đang cai trị các quốc gia sùng đạo mà đối với họ, việc thế tục hóa Hồi giáo là một điều mâu thuẫn. Không nản lòng, những nhà cai trị này tuyên chiến với cơ sở tôn giáo. Theo các phương thức hiếu chiến của các nhà cách mạng Pháp, Muhammad Ali đã bỏ đói giới tăng lữ về mặt tài chính, tước quyền miễn thuế của họ, tịch thu tài sản bạn tặng cho tôn giáo (awqaf) vốn là nguồn thu nhập chính của họ, và tước đoạt một cách có hệ thống mọi quyền lực nhỏ nhoi của họ. Đối với ulema của Ai Cập, tính hiện đại mãi mãi bị vấy bẩn bởi cuộc tấn công tàn nhẫn này, và họ trở nên khiếp sợ và phản động. Nasser thay đổi chiến thuật và biến họ thành quan chức nhà nước. Trong nhiều thế kỷ, kiến thức uyên bác của ulema đã hướng dẫn người dân vượt qua những điều phức tạp của luật Hồi giáo, nhưng họ cũng đứng như một bức tường thành bảo vệ giữa người dân và bạo lực có hệ thống của nhà nước. Bây giờ người dân coi thường họ như tay sai của chính phủ. Điều này đã tước đi thẩm quyền tôn giáo có trách nhiệm và chuyên nghiệp của họ, vốn là những người nhận thức được sự phức tạp của truyền thống Hồi giáo. Các nhà lãnh đạo tôn giáo tự phong và những người cực đoan có đầu óc đơn giản hơn sẽ dẫm đạp lên truyền thống và thường dẫn đến hậu quả tai hại.
Khắp thế giới Hồi giáo, Mustafa Kemal Atatürk (1881–1938), người sáng lập nước cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ hiện đại, dường như là hiện thân của bạo lực thế tục. Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, ông đã cố gắng ngăn chặn người Anh và người Pháp vào Anatolia, vùng đất trung tâm của Ottoman, vì vậy Thổ Nhĩ Kỳ có lợi thế lớn là tránh bị thuộc địa hóa. Với quyết tâm tước bỏ mọi ảnh hưởng pháp lý, chính trị và kinh tế của đạo Hồi, Atatürk thường được phương Tây ngưỡng mộ như một nhà lãnh đạo Hồi giáo giác ngộ. Trên thực tế, ông là một nhà độc tài căm ghét đạo Hồi, thứ mà ông mô tả là “một xác chết đã thối rữa.” Ông ta tiến hành theo cách hiếu chiến thông thường đặt các dòng tu Sufi ngoài vòng pháp luật, tịch thu tài sản của họ, đóng cửa các madrassa và chiếm đoạt awqaf (quỹ tôn giáo). Quan trọng nhất, ông đã bãi bỏ luật Shariah, thay thế nó bằng một bộ luật về cơ bản được áp dụng từ Thụy Sĩ và vô nghĩa đối với hầu hết người dân. Cuối cùng, vào năm 1925, Atatürk tuyên bố kha-lip triều là vô giá trị về mặt pháp lý. Nó từ lâu đã là một sắc lệnh vô hiệu về mặt chính trị dù đã từng tượng trưng cho sự thống nhất của ummah và mối liên hệ của nó với Nhà tiên tri; tại thời điểm ảm đạm này trong lịch sử của họ, người Hồi giáo Sunni ở khắp mọi nơi đã trải qua sự mất mát như một chấn thương về tinh thần và văn hóa. Sự chấp thuận của phương Tây đối với Atatürk khiến nhiều người tin rằng phương Tây đang tìm cách tiêu diệt chính Hồi giáo.
Để kiểm soát tầng lớp thương nhân đang lên, các vị vua Ottoman cuối cùng đã trục xuất hoặc giết hại một cách có hệ thống các thần dân Hy Lạp và Armenia của họ, những người chiếm khoảng 90% giai cấp tư sản. Năm 1908, Young Turks (Thanh niên Thổ), một đảng của những người theo chủ nghĩa hiện đại, đã phế truất Sultan Abdul-Hamid II trong một cuộc đảo chính. Họ đã tiếp thu chủ nghĩa thực chứng phản tôn giáo của các nhà tư tưởng phương Tây như Auguste Comte (1798–1857) cũng như chủ nghĩa phân biệt chủng tộc “khoa học” mới, một sản phẩm tự nhiên của Thời đại Lý trí đã được sử dụng tốt trong Thời đại Đế chế. Trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, để tạo ra một quốc gia thuần Thổ Nhĩ Kỳ, Young Turks đã ra lệnh trục xuất và “tái định cư” những người Armenia theo đạo Cơ đốc khỏi đế chế với lý do họ thông đồng với kẻ thù. Điều này đã dẫn đến cuộc diệt chủng đầu tiên của thế kỷ 20, không phải do những kẻ cuồng tín tôn giáo mà do những người theo chủ nghĩa thế tục công khai gây ra. Hơn một triệu người Armenia đã bị tàn sát: đàn ông và thanh niên bị giết ngay tại chỗ, trong khi phụ nữ, trẻ em và người già bị đẩy vào sa mạc nơi họ bị hãm hiếp, bắn, bỏ đói, đầu độc, làm ngạt thở hoặc thiêu chết. “Tôi đến thế giới này là một người Thổ Nhĩ Kỳ,” bác sĩ Mehmet Resid, “Thống đốc đao phủ,” tuyên bố “Bọn Armenia phản bội đã tìm được chỗ thích hợp cho mình trong lòng tổ quốc; chúng là những vi khuẩn nguy hiểm. Chẳng phải nhiệm vụ của bác sĩ là tiêu diệt những vi khuẩn này sao?”
Khi Atatürk lên nắm quyền tổng thống Thổ Nhĩ Kỳ , ông đã hoàn thành cuộc thanh trừng chủng tộc này. Trong nhiều thế kỷ, người Hy Lạp và người Thổ Nhĩ Kỳ đã sống cùng nhau trên cả hai bờ biển Aegean. Atatürk hiện đã phân chia khu vực và tổ chức một cuộc trao đổi dân số lớn. Những người theo đạo Cơ đốc nói tiếng Hy Lạp sống ở khu vực ngày nay là Thổ Nhĩ Kỳ đã bị trục xuất đến nơi sau này trở thành Hy Lạp, trong khi những người Hồi giáo nói tiếng Thổ Nhĩ Kỳ sống ở Hy Lạp bị gửi đi theo con đường khác. Do đó, đối với nhiều người trong thế giới Hồi giáo, chủ nghĩa thế tục và chủ nghĩa dân tộc của phương Tây sẽ mãi mãi gắn liền với việc thanh trừng sắc tộc, sự không khoan dung tôn giáo thâm độc và sự phá hủy bạo lực các thể chế Hồi giáo quý giá.
Ở Iran, Reza Khan ve vãn tầng lớp trung lưu và thượng lưu Tây hóa nhưng không quan tâm đến quần chúng nông dân, những người do đó hơn bao giờ hết phụ thuộc vào giới ulema. Hai quốc gia đang phát triển trong nước, một quốc gia hiện đại hóa, quốc gia kia bị loại trừ khỏi những lợi ích của sự hiện đại và bị tước đoạt một cách tàn nhẫn các truyền thống tôn giáo mang lại ý nghĩa cho cuộc sống của mình. Quyết tâm dựa nhà nước trên bản sắc của văn hóa Ba Tư cổ đại hơn là dựa trên Hồi giáo, Reza cuối cùng đã đặt ra ngoài vòng pháp luật các hình thức tang lễ ashura dành cho Husain, cấm người Iran thực hiện hajj (việc hành hương đến các Thánh địa Hồi giáo) và cắt giảm đáng kể phạm vi của các tòa án Shariah. Khi Ayatollah Modarris phản đối, ông ta bị cầm tù và hành quyết. Năm 1928, Reza ban hành Luật về sự đồng nhất của trang phục, và những người lính của ông ta dùng lưỡi lê xé mạng che mặt của phụ nữ và xé chúng ra thành từng mảnh trên đường phố. Vào năm Ashura 1929, cảnh sát bao vây trường đạo Fayziyah Madrassa danh tiếng ở Qum, và khi các sinh viên tràn ra ngoài sau giờ học, họ bị lột quần áo truyền thống và buộc phải mặc trang phục phương Tây. Năm 1935, cảnh sát được lệnh nổ súng vào một đám đông đã tổ chức một cuộc biểu tình ôn hòa chống lại luật trang phục trong đền thờ linh thiêng của Imam thứ tám ở Mashhad và giết chết hàng trăm người Iran không vũ trang. Ở phương Tây, nhà nước-dân tộc thế tục đã được thiết lập để kiềm chế bạo lực tôn giáo; đối với hàng nghìn người ở Trung Đông, chủ nghĩa dân tộc thế tục dường như là một thế lực tàn phá, khát máu đã tước đi chỗ dựa tinh thần từng là trụ cột của họ.
- ● ●
Do đó, Trung Đông đã bị bắt buộc một cách tàn nhẫn vào hệ thống áp bức và bạo lực mới đã ra đời trong thời kỳ thuộc địa. Các tỉnh trước đây của Đế chế Ottoman hùng mạnh này đã bị thực dân hung hăng biến gần như chỉ sau một đêm thành một khối phụ thuộc, luật pháp của họ được thay thế bằng các bộ luật nước ngoài, các nghi lễ lâu đời của họ bị bãi bỏ, và các giáo sĩ của họ bị hành quyết, bần cùng hóa và bị sỉ nhục trước công chúng. Được bao quanh bởi các tòa nhà hiện đại, các tổ chức và cách bố trí đường phố theo phong cách phương Tây, mọi người không còn cảm thấy như ở trên chính đất nước của mình. Tác động của sự biến đổi của họ được so sánh với việc chứng kiến một người bạn yêu dấu dần dần bị biến dạng trước mắt mình bởi căn bệnh hiểm nghèo. Ai Cập, luôn đi đầu trong thế giới Ả Rập, đã trải qua một quá trình chuyển đổi sang hiện đại đặc biệt khó khăn, với thời kỳ đặt dưới sự cai trị trực tiếp của phương Tây dài hơn nhiều so với nhiều quốc gia Trung Đông khác. Sự hiện diện dai dẳng của nước ngoài này và việc thiếu sự lãnh đạo về mặt tinh thần và đạo đức đã tạo ra tình trạng bất ổn nguy hiểm trong nước và cảm giác nhục nhã ăn mòn, điều mà cả người Anh và chính phủ mới của Ai Cập dường như không sẵn lòng giải quyết. Một số nhà cải cách thuộc giới tinh hoa truyền thống của Ai Cập đã cố gắng chống lại sự xa lánh ngày càng tăng này. Muhammad Abdu (1849–1905), vị trưởng lão của thành phố Al-Azhar, đề xuất rằng các thỏa thuận pháp lý và hiến pháp hiện đại nên được liên kết với các chuẩn mực Hồi giáo truyền thống sẽ làm cho chúng dễ hiểu. Đúng như vậy, người dân quá bối rối trước hệ thống pháp luật thế tục đến nỗi Ai Cập thực sự đang trở thành một quốc gia không có luật pháp. Tuy nhiên, Lord Cromer, người coi hệ thống xã hội của đạo Hồi là “suy tàn về mặt chính trị và xã hội,” không chấp nhận điều đó. Đồng quan điểm, Rashid Rida (1865–1935), người viết tiểu sử của Abdu, muốn thành lập một trường đại học nơi sinh viên được giới thiệu về luật học, xã hội học và khoa học hiện đại cùng lúc với việc học luật Hồi giáo, để một ngày nào đó có thể hiện đại hóa Shariah mà không pha loãng nó và xây dựng luật dựa trên truyền thống Hồi giáo đích thực thay vì một hệ tư tưởng ngoại lai.
Nhưng những nhà cải cách này đã thất bại trong việc truyền cảm hứng cho các môn đệ, những người có thể đưa ý tưởng của họ tiến lên phía trước. Thành công hơn nhiều là Hassan al-Banna (1906–49), người sáng lập Tổ chức Huynh Đệ Hồi giáo và là một trong những “người tự do” tích cực hơn, người sẽ bước vào khoảng trống lãnh đạo tinh thần do những người theo chủ nghĩa hiện đại tạo ra. Là một giáo viên đã nghiên cứu về khoa học hiện đại, Banna biết rằng hiện đại hóa là điều cần thiết nhưng tin rằng vì người Ai Cập rất sùng đạo nên nó chỉ có thể thành công nếu đi kèm với một cuộc cải cách tâm linh. Những truyền thống văn hóa riêng của họ sẽ phục vụ họ tốt hơn những hệ tư tưởng xa lạ mà họ không bao giờ có thể biến thành của mình hoàn toàn. Banna và những người bạn của ông đã bị sốc và đau buồn trước tình trạng rối ren về chính trị và xã hội ở Ai Cập cũng như trước sự tương phản rõ rệt giữa những ngôi nhà sang trọng của người Anh và những ngôi nhà lụp xụp của công nhân Ai Cập ở Vùng Kênh đào. Vào một đêm tháng 3 năm 1928, sáu môn đệ của ông đã cầu xin Banna hành động, trình bày một cách hùng hồn nỗi đau khổ mơ hồ mà rất nhiều người đã trải qua:
Chúng ta không biết cách thực tế để đạt được vinh quang của Hồi giáo và phục vụ phúc lợi của người Hồi giáo. Chúng ta mệt mỏi với cuộc sống nhục nhã và hạn chế này. Vì vậy, chúng ta thấy rằng người Ả Rập và người Hồi giáo không có địa vị và phẩm giá. Họ không hơn gì những kẻ làm thuê chon bọn nước ngoài.… Chúng ta không thể nhận thức được con đường hành động như bạn nhận thức về nó, hoặc không thể biết con đường phục vụ tổ quốc, tôn giáo và ummah.
Ngay đêm hôm đó, Banna đã thành lập Hiệp hội Huynh Đệ Hồi giáo, mở đầu cho một cuộc cải cách nền tảng của xã hội Ai Cập.
Hội rõ ràng đã đáp ứng một nhu cầu cấp bách vì Hội sẽ trở thành một trong những người chơi quyền lực nhất trong nền chính trị Ai Cập. Vào thời điểm Banna bị ám sát vào năm 1949, Hội đã có hai nghìn chi nhánh trên khắp Ai Cập, và Hội Huynh Đệ là tổ chức Ai Cập duy nhất đại diện cho mọi tầng lớp xã hội – công chức, sinh viên, công nhân thành thị và nông dân. Hội không phải là một tổ chức chiến binh mà chỉ đơn giản là tìm cách đưa các thể chế hiện đại đến với công chúng Ai Cập trong một bối cảnh Hồi giáo quen thuộc. Anh em xây trường học cho nam và nữ bên cạnh nhà thờ Hồi giáo và thành lập Rovers, một phong trào hướng đạo đã trở thành nhóm thanh niên nổi tiếng nhất trong nước; họ thành lập các lớp đêm cho công nhân và các trường cao đẳng hướng dẫn để chuẩn bị cho sinh viên tham gia các kỳ thi công chức; họ xây dựng các phòng khám và bệnh viện ở các vùng nông thôn; và họ tham gia cùng các hướng đạo sinh Rovers trong việc cải thiện điều kiện vệ sinh và giáo dục sức khỏe ở các quận nghèo hơn. Hiệp hội cũng thành lập các công đoàn giúp người lao động hiểu biết về các quyền của họ; trong các nhà máy nơi Hội Huynh Đệ hiện diện, công nhân kiếm được mức lương vừa phải, có bảo hiểm y tế và các ngày nghỉ được trả lương, và có thể cầu nguyện trong nhà thờ Hồi giáo của công ty. Như vậy văn hóa phản kháng của Banna đã chứng tỏ rằng Hồi giáo, chẳng những không là một dấu tích lỗi thời của thời đại khác, mà có thể trở thành một lực lượng hiện đại hóa hiệu quả cũng như thúc đẩy sức sống của tinh thần. Nhưng thành công của Hội Huynh Đệ là con dao hai lưỡi, vì nó kêu gọi quần chúng chú ý đến việc chính phủ bỏ bê giáo dục và điều kiện lao động. Do đó, Hiệp Huynh Đệ Hồi giáo của Banna không được coi là một sự hỗ trợ mà là một mối đe dọa nghiêm trọng đối với chế độ.
Hội không hoàn hảo: Hội có xu hướng phản trí thức, các tuyên bố của Hội thường mang tính tự vệ và tự cho mình là đúng, quan điểm của Hội về phương Tây bị bóp méo bởi kinh nghiệm thuộc địa, và các nhà lãnh đạo của Hội không khoan nhượng với những người bất đồng chính kiến. Nghiêm trọng nhất, Hội đã phát triển đường hướng khủng bố. Sau khi Nhà nước Israel được thành lập, hoàn cảnh khó khăn của những người tị nạn Palestine đã trở thành một biểu tượng đáng lo ngại về sự bất lực của người Hồi giáo trong thế giới hiện đại. Đối với một số người, bạo lực dường như là con đường duy nhất để dấn tới. Anwar Sadat, tổng thống tương lai của Ai Cập, đã thành lập một “hội sát thủ” để tấn công người Anh ở Vùng Kênh đào. Các nhóm bán quân sự khác gắn bó với cung điện và Đảng Wafd (Đảng Quốc gia Ai Cập), và do đó, có lẽ không thể tránh khỏi việc một số Huynh Đệ thành lập “Bộ máy Bí mật” (al-jihaz al-sirri). Với số lượng chỉ khoảng một nghìn, Bộ máy bí mật đến mức hầu hết các anh em cũng chưa bao giờ nghe nói về nó. Banna đã tố cáo Bộ máy nhưng không thể kiểm soát nó và cuối cùng nó sẽ làm ô uế và gây nguy hiểm cho Hội. Khi Bộ máy ám sát Thủ tướng Muhammad al-Nuqrashi vào ngày 28 tháng 12 năm 1948, Hội đã lên án hành động tàn bạo này bằng những lời lẽ mạnh mẽ nhất. Nhưng chính phủ đã nắm bắt cơ hội này để đàn áp nó. Vào ngày 12 tháng 2 năm 1949, gần như chắc chắn là theo lệnh của thủ tướng mới, Banna đã bị bắn gục trên đường phố.
Khi Nasser lên nắm quyền vào năm 1952, Hội đã tập hợp lại nhưng bị chia rẽ sâu sắc. Trong những ngày đầu khi còn chưa nổi tiếng, Nasser đã ve vãn Hội Huynh Đệ, mặc dù ông ta là một người theo chủ nghĩa thế tục tận tụy và là đồng minh của Liên Xô. Tuy nhiên, khi biết rõ rằng ông ta không có ý định thành lập một nhà nước Hồi giáo, một thành viên của Bộ máy đã bắn ông trong một cuộc biểu tình. Nasser đã sống sót, và sự dũng cảm của ông khi bị tấn công đã làm nên điều kỳ diệu cho tiếng tăm của mình. Bây giờ ông cảm thấy mình có thể hành động chống lại Hội, và đến cuối năm 1954, hơn một nghìn Huynh Đệ đã bị đưa ra xét xử, và không đếm xuể những người khác, nhiều người trong số họ không phạm tội gì lớn hơn là rải truyền đơn, thậm chí chưa hề phải hầu tòa ngày nào, nhưng vẫn mòn mỏi trong tù trong mười lăm năm không được xét xử. Sau khi Nasser trở thành người hùng trong thế giới Ả Rập rộng lớn hơn bằng cách thách thức phương Tây trong Cuộc khủng hoảng Kênh Suez năm 1956, ông đã tăng cường nỗ lực thế tục hóa đất nước. Nhưng bạo lực nhà nước này chỉ đơn giản là sản sinh ra một hình thức Hồi giáo cực đoan hơn kêu gọi vũ trang chống lại chế độ.
Chủ nghĩa cực đoan tôn giáo thường phát triển trong mối quan hệ cộng sinh với chủ nghĩa thế tục hiếu chiến. Một trong những thành viên Huynh Đệ bị bắt giữ vào năm 1954 là Sayyid Qutb (1906–66), nhà tuyên truyền chính của Hội. Khi còn trẻ, Qutb không cảm thấy xung đột giữa đức tin của mình và chính trị thế tục, nhưng các chính sách tàn nhẫn của người Anh đã khiến anh ghê tởm và anh bị sốc trước thành kiến chủng tộc mà anh đã trải nghiệm qua chuyến thăm Hoa Kỳ. Tuy nhiên, quan điểm của anh vẫn ở mức vừa phải và mang tính thăm dò; điều khiến anh trở nên cực đoan là do bạo lực trong nhà tù của Nasser. Bản thân Qutb đã bị tra tấn và kinh hoàng khi chứng kiến hai mươi tù nhân bị tàn sát chỉ trong một vụ việc. Hàng chục người khác bị tra tấn và hành quyết—không phải bởi người nước ngoài mà bởi chính người dân của họ. Chủ nghĩa thế tục dường như không còn lành tính nữa mà tàn nhẫn, hung hãn và vô đạo đức. Trong tù, Qutb đã đưa ý tưởng của Maududi tiến thêm một bước. Khi nghe Nasser thề sẽ tư nhân hóa Hồi giáo theo mô hình phương Tây và chứng kiến cảnh kinh hoàng đang diễn ra trong cuộc sống ngục tù của mình, Qutb tin rằng ngay cả một người được gọi là nhà cai trị Hồi giáo cũng có thể là phi Hồi giáo một cách dữ dội như bất kỳ cường quốc phương Tây nào. Giống như rất nhiều người khác bị bạo lực và bất công khủng bố, Qutb đã phát triển một hệ tư tưởng nhị nguyên phân chia thế giới thành hai phe: một bên chấp nhận quyền tối thượng của Allah, còn bên kia thì không. Trong sự nghiệp của Muhammad, Allah đã tiết lộ một cương lĩnh thiết thực để tạo ra một xã hội có trật tự hợp lý. Đầu tiên, hành động theo mệnh lệnh của Chúa, ngài đã tạo ra một jamaat, một “đảng” cam kết bảo vệ công lý và bình đẳng, tách biệt với cơ sở ngoại giáo. Thứ hai, trong chuyến hijrah, ngài đã thực hiện việc cắt đứt hoàn toàn giữa Thần thánh và Vô thần. Thứ ba, Muhammad đã thành lập một nhà nước Hồi giáo ở Medina; và thứ tư, ngài bắt đầu cuộc thánh chiến chống lại Mecca vô minh, cuối cùng đã khuất phục nó trước quyền tối cao của Chúa.
Qutb đã hình thành những ý tưởng này trong cuốn Những cột mốc, sách đã được bí mật chuyển ra khỏi nhà tù và được nhiều người tìm đọc một cách say mê. Ông là một người có học, nhưng Cột mốc không phải là công việc của một cơ quan Hồi giáo chính thức; đúng hơn, đó là sự phản đối kịch liệt của một người đã bị đẩy đi quá xa. Cương lĩnh của Qutb đã bóp méo lịch sử Hồi giáo, vì nó không đề cập đến chính sách bất bạo động của Muhammad tại Hudaybiyya, điểm ngoặt của cuộc xung đột với Mecca. Sự sỉ nhục, sự chiếm đóng của nước ngoài và sự xâm lược thế tục hóa đã tạo ra một lịch sử bất bình của người Hồi giáo. Giờ đây, Qutb có một tầm nhìn hoang tưởng về quá khứ, chỉ nhìn thấy một loạt kẻ thù phi Hồi giáo nối tiếp nhau không ngừng—bọn ngoại giáo, Do Thái, Cơ đốc giáo, Thập tự chinh, Mông Cổ, Cộng sản, tư bản, thực dân và người theo chủ nghĩa phục quốc Do Thái—có ý định hủy diệt Hồi giáo. Bị hành quyết vào năm 1966, ông đã không sống đủ lâu để tìm ra ý nghĩa thực tế của chương trình hành động của mình. Tuy nhiên, không giống như một số tín đồ sau này, dường như ông đã nhận ra rằng người Hồi giáo sẽ phải trải qua một quá trình chuẩn bị lâu dài về tinh thần, xã hội và chính trị trước khi họ sẵn sàng đấu tranh vũ trang. Tuy nhiên, sau khi ông qua đời, tình hình chính trị ở Trung Đông trở nên xấu đi, bạo lực gia tăng và hậu quả là sự tha hóa đồng nghĩa với việc lý tưởng của Qutb gây được tiếng vang đối với giới trẻ bất mãn, đặc biệt là những Huynh Đệ cũng từng bị tôi luyện trong nhà tù Ai Cập và cảm thấy không đợi được một quá trình chín muồi mất thời gian như vậy. Khi họ được phóng thích vào đầu những năm 1970, họ sẽ đưa những ý tưởng của Qutb vào xã hội chính thống và cố gắng thực hiện chúng bằng hành động thực tế.
- ● ●
Sau Chiến tranh Sáu ngày giữa Israel và các nước láng giềng Ả Rập vào tháng 6 năm 1967, khu vực này đã trải qua một sự hồi sinh tôn giáo không chỉ ở các quốc gia Hồi giáo mà còn ở Israel. Chủ nghĩa phục quốc Do Thái, như chúng ta đã thấy, đã bắt đầu như một phong trào thế tục, và các chiến dịch quân sự của nhà nước Do Thái không có nội dung tôn giáo; sự đàn áp bạo lực của họ đối với người Palestine là kết quả của chủ nghĩa dân tộc thế tục của họ chứ không phải là mệnh lệnh tôn giáo. Trước chiến tranh, khi nghe Nasser thề sẽ ném tất cả dân Do thái xuống biển, nhiều người Israel đã tin rằng một nỗ lực khác đang được thực hiện để tiêu diệt mình. Họ đáp trả với tốc độ cực nhanh, đạt được một chiến thắng ngoạn mục khi chiếm được Cao nguyên Golan từ tay Syria, Bán đảo Sinai từ tay Ai Cập, Bờ Tây và Thành phố Cổ Jerusalem từ tay Jordan.
Mặc dù tôn giáo không ảnh hưởng đến hành động, nhưng nhiều người Israel sẽ trải nghiệm sự đảo ngược vận may ngoạn mục này như một phép lạ tương tự như việc vượt qua Biển Đỏ. Trên tất cả, cuộc chinh phục Thành phố Cổ Jerusalem, vốn bị đóng cửa đối với người Israel từ năm 1948, là một trải nghiệm bí ẩn. Khi vào năm 1898, nhà tư tưởng phục quốc Do Thái Theodor Herzl đến thăm Bức tường phía Tây, di tích cuối cùng của đền thờ Herod, ông đã tê tái trước cảnh tượng những tín đồ Do Thái bám chặt vào những viên đá của bức tường một cách điên cuồng. Nhưng vào tháng 6 năm 1967, những người lính dạn dày với khuôn mặt sạm đen và các sĩ quan vô thần của họ dù cứng cỏi đến đâu đều dựa vào Bức tường mà khóc nghẹn, đặc tính thế tục của họ đã bị biến đổi trong giây lát bởi địa điểm thiêng liêng này. Chủ nghĩa dân tộc, như chúng ta đã thấy, dễ dàng biến thành một sức cuồng nhiệt gần như tôn giáo, đặc biệt là trong những thời điểm căng thẳng và cảm xúc dâng cao. Lòng sùng kính đối với Jerusalem là trung tâm của bản sắc Do Thái trong nhiều thiên niên kỷ. Rất lâu trước khi con người bắt đầu lập bản đồ cảnh quan của mình một cách khoa học, họ đã xác định vị trí của mình trên thế giới về mặt cảm xúc và tinh thần, bị lôi cuốn một cách không cưỡng lại được tới những địa điểm mà họ trải nghiệm hoàn toàn khác biệt với mọi nơi khác. Kinh nghiệm của Israel năm 1967 cho thấy rằng chúng ta vẫn chưa hoàn toàn thế tục hóa thế giới. “Các tín ngưỡng” của những người lính đã không thay đổi, nhưng Bức tường gợi lên trong họ một điều gì đó giống như cách những người khác trải nghiệm điều thiêng liêng—“một điều gì đó lớn lao và ghê gớm và từ một thế giới khác,” nhưng cũng là “một người bạn cũ, không thể nhầm được.” Ngay khi thoát khỏi sự hủy diệt trong gang tấc, họ nhận ra Bức tường là một kẻ sống sót giống như họ. “Sẽ không còn sự tàn phá nào nữa,” một người lính nói khi hôn lên những viên đá, “và Bức tường sẽ không bao giờ bị bỏ hoang nữa.”
“Không bao giờ nữa” đã từng là khẩu hiệu của người Do Thái kể từ thời kỳ Holocaust, và giờ đây các tướng lĩnh và binh lính lại sử dụng nó một lần nữa. Lần đầu tiên, thuật ngữ thành phố thiêng cũng đi vào tuyên ngôn của chủ nghĩa Phục quốc. Theo địa lý linh thiêng cổ xưa của Trung Đông, toàn bộ “thành phố thiêng” không ai có thể sở hữu nó vì nó thuộc về Thượng Đế — của Marduk, Baal hoặc Yahweh. “Thành David ” đã được Đức Yahweh cai trị từ ngai vàng trong đền thờ, nhà vua chỉ hành động với tư cách là đại diện được ngài chọn lựa. Thay vì trở thành tài sản riêng của người cai trị, chính xác Jerusalem là “thiêng liêng ” (qaddosh) vì nó được “dành riêng” cho Đức Yahweh . Nhưng một khi những cảm xúc về địa lý thiêng liêng được kết hợp với chủ nghĩa dân tộc thế tục của người Israel, trong đó sự toàn vẹn lãnh thổ là quan trọng nhất, thì các chính trị gia không còn nghi ngờ gì nữa cho rằng Jerusalem hoàn toàn thuộc về nhà nước Israel. “Chúng tôi đã trở về những nơi linh thiêng nhất của mình,” Moshe Dayan, chỉ huy theo chủ nghĩa thế tục, tuyên bố; “chúng tôi đã trở lại và chúng tôi sẽ không bao giờ rời đi.” Jerusalem đã trở thành một tuyệt đối không thể thương lượng vượt trên tất cả các yêu sách khác. Mặc dù luật pháp quốc tế cấm chiếm đóng vĩnh viễn lãnh thổ đã chinh phục được trong một cuộc xung đột, Abba Eban, đại biểu của Israel tại Liên Hợp Quốc, lập luận rằng Jerusalem “nằm ngoài và trên, trước và sau, tất cả các cân nhắc chính trị và thế tục.”
Địa lý thiêng liêng của Israel cũng có một khía cạnh đạo đức và chính trị mạnh mẽ. Trong khi người Israel ca ngợi Jerusalem là thành phố của shalom (“hòa bình”, “sự toàn vẹn”), Thánh thi đã nhấn mạnh rằng sẽ không có shalom ở Jerusalem nếu không có công lý (tzeddek). Nhà vua được Đức Yahweh giao nhiệm vụ “bảo vệ những người nghèo nhất, cứu giúp trẻ em của những người khốn khổ và đè bẹp những kẻ áp bức họ.” Tại Zion (vùng đất Do Thái Phục quốc) của Đức Yahweh không thể có sự áp bức và bạo lực; đúng hơn, nó phải là nơi trú ẩn cho người nghèo (evionim). Nhưng một khi “sự thiêng liêng” của Jerusalem đã được hợp nhất với nhà nước-dân tộc thế tục, cư dân Palestine của nó trở thành thiểu số dễ bị tổn thương và sự hiện diện của họ là một sự ô nhiễm. Vào đêm ngày 10 tháng 6 năm 1967, sau khi hiệp định đình chiến được ký kết, 619 cư dân Palestine ở Khu phố Maghribi bên cạnh Bức tường được cho ba giờ để sơ tán khỏi nhà của họ. Sau đó, trái với luật pháp quốc tế, những chiếc máy ủi đã đến và biến quận lịch sử này—một trong những khu dân cư xưa nhất của Jerusalem—thành đống đổ nát. Vào ngày 28 tháng 6, Knesset (Quốc hội Israel) chính thức sáp nhập Thành phố Cổ và Đông Jerusalem, tuyên bố chúng là một phần của Nhà nước Israel.
Chủ nghĩa dân tộc thế tục đã khai thác và bóp méo một lý tưởng tôn giáo; nhưng sự chấp nhận tôn giáo của nhà nước-dân tộc hiện đại có thể nguy hiểm không kém. Trước năm 1967, những người Do Thái Chính thống đã thần thánh hóa nhà nước Israel thế tục và biến nó thành một giá trị tối cao. Một phiên bản tôn giáo hơi bị coi thường của Chủ nghĩa phục quốc Do Thái luôn tồn tại bên cạnh chủ nghĩa dân tộc thế tục của hầu hết người Israel. Nó trở nên nổi bật hơn một chút trong những năm 1950, khi một nhóm thanh niên Chính thống giáo, bao gồm Moshe Levinger, Shlomo Aviner, Yaakov Ariel và Eliezer Waldman, đã rơi vào bùa mê của Giáo sĩ già Zvi Yehuda Kook, người coi Nhà nước Israel thế tục là một “thực thể thần thánh” và Vương quốc của Chúa trên trái đất. Trong cuộc sống lưu vong, không thể tuân theo các điều răn ràng buộc với Lãnh thổ; bây giờ có một khao khát cho sự toàn vẹn. Thay vì loại trừ điều thiêng liêng ra khỏi đời sống chính trị, những người theo chủ nghĩa Kook lại có ý định một lần nữa lan tỏa điều thiêng liêng ra toàn bộ sự tồn tại— “mọi lúc, mọi nơi”. Do đó, sự tham gia chính trị đã trở thành một “sự đi lên đến đỉnh cao của sự thánh thiện.” Những người theo chủ nghĩa Kook đã biến Vùng đất thành một thần tượng, một vật thể trần thế có địa vị tuyệt đối và đòi hỏi sự tôn kính và cam kết không nghi ngờ gì mà theo truyền thống chỉ áp dụng cho sự siêu việt mà chúng ta gọi là Chúa. “Chủ nghĩa Phục quốc là một vấn đề thiêng liêng,” Kook nhấn mạnh. “Nhà nước Israel là một thực thể thiêng liêng, nhà nước thánh thiện và cao quý của chúng ta.” Đối với Kook, mỗi cục đất của Israel đều là thánh; các thể chế của nó là thần thánh; và vũ khí của những người lính Israel cũng thiêng liêng như khăn choàng cầu nguyện. Nhưng Israel, giống như bất kỳ quốc gia nào, còn khác xa với lý tưởng và vẫn phạm tội bạo lực cả về cấu trúc và quân sự. Trong quá khứ, các nhà tiên tri đã thách thức sự bất công có hệ thống của nhà nước, và các giáo sĩ thậm chí còn chỉ trích các cuộc thánh chiến của nó. Tuy nhiên, đối với những người theo chủ nghĩa Kook, dân Israel thế tục không thể bị phê phán và cần thiết cho sự cứu rỗi của thế giới. Với việc thành lập nước Israel , sự cứu chuộc của Đấng Cứu Thế đã bắt đầu: “Mọi người Do Thái đến Eretz Yisrael, mọi cái cây được trồng trên đất Israel , mọi người lính được bổ sung vào quân đội Israel đều hình thành một giai đoạn tâm linh khác; theo nghĩa đen, một giai đoạn khác trong quá trình cứu chuộc.”
Như chúng ta đã thấy, Israel cổ đại ngay từ đầu đã tỏ ra nghi ngờ về bạo lực nhà nước; bây giờ các kẻ theo Kook đã phong nó là sự trừng phạt tối cao. Tuy nhiên, một khi quốc gia-dân tộc trở thành giá trị cao nhất, như Lord Acton đã dự đoán, thì không có giới hạn nào cho những gì nó có thể làm – theo nghĩa đen, mọi thứ đều ổn. Bằng cách nâng nhà nước lên tầm thần thánh, những người theo chủ nghĩa Kook cũng đã chứng thực tính thiêng liêng cho mặt tối của chủ nghĩa dân tộc: sự không khoan dung đối với các nhóm thiểu số. Trừ khi người Do Thái chiếm toàn bộ Vùng đất, nếu không Israel sẽ vẫn còn dở dang một cách đáng buồn, vì vậy việc sáp nhập lãnh thổ Ả Rập là một nghĩa vụ tôn giáo tối cao. Vài ngày sau Chiến tranh Sáu ngày, chính phủ Đảng Lao động đề xuất trả lại một số lãnh thổ bị chiếm đóng—bao gồm một số địa điểm thuộc kinh thánh quan trọng nhất ở Bờ Tây—cho người Ả Rập để đổi lấy hòa bình và sự công nhận. Những người theo chủ nghĩa Kook kịch liệt phản đối kế hoạch này và thật ngạc nhiên khi họ thấy rằng lần đầu tiên họ có những đồng minh thế tục. Một nhóm các nhà thơ, triết gia và sĩ quan quân đội Israel, phấn khích trước chiến thắng, đã cùng nhau ngăn chặn bất kỳ sự bàn giao nào như vậy và đề nghị hỗ trợ về mặt tinh thần và tài chính cho những người theo chủ nghĩa Kook. Những người theo chủ nghĩa dân tộc thế tục có chung lý tưởng với những người theo chủ nghĩa Phục quốc Do Thái tôn giáo cho đến nay vẫn bị coi thường, nhận ra rằng họ có cùng những mục tiêu.
Phấn khởi trước sự ủng hộ này, vào tháng 4 năm 1968, Moshe Levinger dẫn đầu một nhóm nhỏ các gia đình tổ chức Lễ Vượt Qua ở Hebron trên Bờ Tây. Họ đăng ký vào khách sạn Park và trước sự bối rối của chính phủ Lao động, họ đã từ chối rời đi. Nhưng chutzpah (tiếng Do Thái: tính táo bạo, gan góc) của họ đã làm rung động trái tim của những đảng viên Lao động vì nó gợi lại tính liều mạng của các chalutzim, những người Do Thái di cư dến Palestine sau Thế chiến I, thách thức chính quyền thực dân Anh, hung hăng chiếm đóng đất Ả Rập trước khi Israel được thành lập. Tuy nhiên, một lần nữa, sự nhiệt tình của thế tục và tôn giáo lại hòa vào nhau một cách nguy hiểm. Đối với những người theo chủ nghĩa Kook, Hebron—nơi chôn cất Abraham, Isaac và Jacob — đã bị ô nhiễm bởi sự hiện diện của dân Palestine, những người cũng tôn kính các nhà tiên tri này. Bây giờ họ từ chối rời khỏi Hang động của các Tổ phụ trong thời gian cầu nguyện tập thể của người Hồi giáo, ồn ào chặn lối vào và treo cờ Israel tại đền thờ vào Ngày Độc lập. Cuối cùng khi một người Palestine ném lựu đạn, chính phủ Israel miễn cưỡng thành lập một khu vực bao vây được bảo vệ bởi IDF (lực lượng phòng vệ Israel) cho những người định cư bên ngoài Hebron; đến năm 1972 Kiryat Arba có năm nghìn cư dân. Đối với phe Kook, đó là một tiền đồn chống lại biên giới của thế giới ma quỷ của “Phía bên kia”.
Tuy nhiên, Đảng Lao động vẫn từ chối sáp nhập các lãnh thổ. Sau Chiến tranh tháng 10 năm 1973, khi Ai Cập và Syria xâm lược Sinai và Cao nguyên Golan và chỉ bị đẩy lui một cách khó khăn, một nhóm người theo chủ nghĩa Kook, giáo sĩ Do Thái và những người theo chủ nghĩa thế tục hiếu chiến đã thành lập Gush Emunim, “Khối những người trung thành”. Là một nhóm gây áp lực hơn là một đảng chính trị, mục tiêu của nó không gì khác hơn là “sự cứu rỗi hoàn toàn cho Israel và toàn thế giới.” Là một “dân tộc thánh thiện”, Israel không bị ràng buộc bởi các nghị quyết của Liên Hợp Quốc hoặc luật pháp quốc tế nào. Kế hoạch cuối cùng của Gush là thuộc địa hóa toàn bộ Bờ Tây và đưa hàng trăm nghìn người Do Thái vào các vùng lãnh thổ bị chiếm đóng. Để chứng minh quan điểm của mình, họ đã tổ chức các cuộc đi bộ đường dài và mít tinh ở Bờ Tây, và vào Ngày Độc lập năm 1975, gần 20 nghìn người Do Thái có vũ trang đã tham dự một cuộc “dã ngoại” ở Bờ Tây, diễu hành hiếu chiến từ địa điểm này sang địa điểm khác.
Người Gush tuần hành, xô xát với quân đội, và ngồi xổm bất hợp pháp như những nghi lễ mang lại cho họ cảm giác ngây ngất và được giải thoát. Việc họ thu hút được rất nhiều sự ủng hộ của những người theo chủ nghĩa thế tục cho thấy rằng họ đang khai thác nguồn đam mê dân tộc chủ nghĩa đang được chia sẻ bởi những người Israel không có thời gian dành cho tôn giáo.
Họ cũng có thể dựa vào truyền thống phương Tây về quyền tự nhiên của con người vốn từ lâu đã tuyên bố rằng những người đang lâm nguy—và sau Chiến tranh Tháng Mười, họ hỏi, ai có thể phủ nhận rằng người Israel đang lâm nguy?—được quyền định cư trên vùng đất “bỏ trống”. Nhiệm vụ thiêng liêng của họ là đảm bảo rằng nó thực sự “trống rỗng”. Khi đảng Likud do Menachem Begin lãnh đạo đánh bại Đảng Lao động trong cuộc bầu cử năm 1977 và tuyên bố cam kết của họ đối với việc định cư của Israel ở cả hai bên bờ sông Jordan, những người theo chủ nghĩa Kook tin rằng Chúa đang hành động. Nhưng tuần trăng mật chỉ tồn tại trong thời gian ngắn. Vào ngày 20 tháng 11 năm 1977, Tổng thống Anwar Sadat của Ai Cập đã thực hiện chuyến hành trình lịch sử tới Jerusalem để bắt đầu một tiến trình hòa bình, và năm sau đó Begin và Sadat, hai kẻ từng là khủng bố, đã ký Hiệp định Trại David: Israel sẽ trả lại Bán đảo Sinai cho Ai Cập vào năm 1977. đổi lấy việc Ai Cập chính thức công nhận Nhà nước Israel. Quan sát diễn biến bất ngờ này, nhiều người phương Tây kết luận rằng chủ nghĩa thực dụng thế tục rốt cuộc sẽ thắng thế.
- ● ●
Cách mạng Iran đã làm tiêu tan hy vọng đó. Các chính trị gia phương Tây đã coi Shah Muhammad Reza Pahlavi (Shah: Chức vua của Ba Tư) là một nhà lãnh đạo tiến bộ và đã ủng hộ chế độ của ông ta, bất chấp thực tế là ông ta không có tính hợp pháp trong chính người dân của mình. Trên thực tế, người Iran đã trải qua bạo lực có cấu trúc của “Phương Tây và Phần còn lại” ở dạng cấp tính. Độc lập, dân chủ, nhân quyền, dân tộc tự quyết là của “phương Tây”; nhưng đối với người Iran, bạo lực, thống trị, bóc lột và chuyên chế là thứ trật tự của thời đại. Năm 1953, một cuộc đảo chính do CIA và Tình báo Anh tổ chức đã lật đổ thủ tướng theo chủ nghĩa dân tộc thế tục Muhammad Musaddiq (người đã cố gắng quốc hữu hóa ngành công nghiệp dầu mỏ của Iran) và phục hồi vị trí của quốc vương. Sự kiện này cho người Iran thấy rằng họ có thể làm chủ vận mệnh của mình ít ỏi như thế nào. Sau năm 1953, giống như người Anh trước đó, Hoa Kỳ kiểm soát trữ lượng dầu mỏ của quốc vương và Iran, đòi hỏi các đặc quyền ngoại giao và nhượng bộ thương mại. Các doanh nhân và chuyên gia tư vấn người Mỹ đã đổ vào nước này, và mặc dù một số người Iran được hưởng lợi từ sự bùng nổ, nhưng hầu hết thì không. Năm 1962, vị shah bắt đầu cuộc Cách mạng Trắng của mình bằng cách đóng cửa cơ quan lập pháp Majlis và thúc đẩy những cải cách không được lòng dân của mình thông qua sự hỗ trợ của SAVAK, lực lượng mật vụ đáng sợ do CIA và Mossad của Israel đào tạo. Những cải cách này được hoan nghênh ở phương Tây, vì chúng thiết lập chủ nghĩa tư bản, làm suy yếu chế độ sở hữu đất đai phong kiến, thúc đẩy xóa mù chữ và quyền của phụ nữ, nhưng trên thực tế, chúng thiên vị người giàu, tập trung vào cư dân thành phố và bỏ qua giai cấp nông dân. Có những triệu chứng thông thường của một cuộc cải cách kinh tế hiện đại hóa quá vội vàng: nông nghiệp sa sút, và người di cư từ nông thôn đổ vào thành phố, sống trong những khu ổ chuột hoang vắng và kiếm sống bấp bênh bằng nghề khuân vác và bán hàng rong. SAVAK khiến người Iran cảm thấy mình như tù nhân trên chính đất nước của họ, và lực lượng du kích bí mật theo chủ nghĩa Mác và các nhóm Hồi giáo được thành lập để chống lại một chính phủ thế tục đã đàn áp thô bạo mọi phe đối lập.
Một giáo sĩ ít được biết đến đã can đảm lên tiếng công khai chống lại chế độ áp bức này. Năm 1963, Ayatollah Ruhollah Khomeini (1902–89), giáo sư đạo đức học tại Fayziyah Madrassa ở Qum, bắt đầu công kích liên tục quốc vương, lên án việc sử dụng tra tấn, đóng cửa Majlis, phục tùng quỵ lụy của ông đối với Hoa Kỳ, và ủng hộ Israel, vốn từ chối các quyền con người cơ bản của người dân Palestine. Có một lần, ông ta một tay cầm Kinh Qur’an và một tay cầm hiến pháp 1906, và buộc tội vị shah phản bội cả hai. Vào ngày 22 tháng 3 năm 1963, lễ kỷ niệm ngày tử đạo của Imam thứ sáu, SAVAK tấn công Fayziyah Madrassa, bắt đi Khomeini, và giết một số sinh viên. Sau khi được thả, Khomeini tiếp tục cuộc tấn công. Trong nghi lễ Ashura [Theo truyền thống Hồi giáo dòng Shia: ngày lễ tưởng niệm Husain, cháu ngoại nhà tiên tri Muhammad và lad vị Imam thứ ba dòng Shia. Husayn từ chối lòng trung thành với kha-lip Yazid ibn Mu’awiya triều đại Umayyad (trị vì 680–683) trên cơ sở đạo đức và sau đó bị quân đội Umayyad giết chết cùng với hầu hết thân nhân và đoàn tùy tùng nhỏ bé của mình trong Trận chiến Karbala tại Ashura (680)], trong bài điếu văn dành cho Husain, ông đã so sánh vị shah với kha-lip Yazid, nhân vật phản diện trong thảm kịch Karbala. Khi Khomeini bị bắt lần thứ hai, hàng nghìn người Iran đã đổ ra đường, giáo dân và giáo sĩ sát cánh nhau phản kháng. SAVAK được lệnh bắn giết, và các giáo sĩ đã bất chấp súng mặc tấm vải liệm màu trắng của liệt sĩ, thể hiện sự sẵn sàng chết như Husain trong cuộc đấu tranh chống lại chế độ chuyên chế. Vào thời điểm hòa bình cuối cùng được lập lại, hàng trăm thường dân đã thiệt mạng.
Khomeini phản đối, chế độ đang tấn công chính người dân của mình. Ông luôn bênh vực người nghèo, những nạn nhân chính của sự bất công có hệ thống, ra lệnh cho vua rời khỏi cung điện của mình và xem xét những điều kiện tồi tệ trong các khu ổ chuột. Ông tuyên bố vào ngày 27 tháng 10 năm 1964 rằng Iran gần như là một thuộc địa của Mỹ. Đó là một đất nước giàu có, và thật ô nhục khi mọi người ngủ trên đường phố. Trong nhiều thập kỷ, người nước ngoài đã cướp dầu của họ, vì vậy nó không mang lại lợi ích gì cho người dân Iran. “Tôi vô cùng lo ngại về tình trạng của những người nghèo trong mùa đông tới, vì tôi cho rằng nhiều người sẽ chết, hỡi Allah, vì lạnh và đói,” ông kết luận. “Các ulema nên nghĩ đến người nghèo và hành động ngay bây giờ để ngăn chặn sự tàn bạo của mùa đông năm ngoái.” Sau bài phát biểu này, Khomeini bị trục xuất và sống lưu vong ở Iraq. Qua một đêm, ông đã trở thành một người hùng ở Iran, một biểu tượng của sự kiên quyết chống lại áp bức của người dòng Shia. Chủ nghĩa Mác hoặc hệ tư tưởng tự do có thể chỉ hấp dẫn một số ít người Iran, nhưng tất cả mọi người, đặc biệt là người nghèo thành thị, đều hiểu hình ảnh của Karbala. Ở phương Tây, chúng ta đã quen với các chính trị gia hướng ngoại và chiều lòng đám đông, vì vậy thật khó để chúng ta hiểu được sức hấp dẫn của Khomeini, nhưng người Iran nhận ra phong thái thu mình, ánh mắt hướng nội và cách nói đều đều của ông là dấu hiệu của một nhà thần bí “tỉnh táo”, đã hoàn toàn kiểm soát được các giác quan. Cũng bị lưu đày ở Najaf, gần lăng mộ của Imam Ali, Khomeini trở nên gắn bó mật thiết với truyền thuyết Mười Hai Imam trong tâm trí người dân, và nhờ có phương tiện truyền thông hiện đại, ông sẽ tiếp tục chỉ đạo các sự kiện từ xa—không giống như Imam ẩn thân.
Ở phương Tây, Khomeini được nhiều người coi là một kẻ cuồng tín và thành công của ông được coi là chiến thắng của óc mê tín đối với tính hợp lý. Tuy nhiên, sự phản đối nguyên tắc của ông đối với bạo lực có hệ thống và yêu cầu công lý toàn cầu rất phù hợp với sự phát triển tôn giáo đương thời ở phương Tây. Thông điệp của ông không khác với thông điệp của Giáo hoàng John XXIII (trị vì 1958–63), người có thông điệp Mater et Magistra (1961) nhấn mạnh rằng chủ nghĩa tư bản tự do là vô đạo đức và không bền vững; thay vào đó, “tất cả các hình thức kinh doanh kinh tế phải được điều hành bởi các nguyên tắc công bằng xã hội và bác ái.” Giáo hoàng cũng kêu gọi công bằng toàn cầu. Sự thịnh vượng của quốc gia là chưa đủ: “Mục tiêu của con người phải là đạt được trong công bằng xã hội một trật tự pháp lý quốc gia và quốc tế… trong đó mọi hoạt động kinh tế có thể được tiến hành không chỉ vì lợi ích cá nhân mà còn vì lợi ích chung.” Ở Pacem in Terris (Hòa bình Dưới Thế) (1963), giáo hoàng nhấn mạnh rằng nhân quyền chứ không phải lợi nhuận kinh tế phải là nền tảng của các mối quan hệ quốc tế—một lời kêu gọi rõ ràng chỉ trích các chính sách bóc lột của phương Tây tại các nước kém phát triển.
Vào khoảng thời gian mà Khomeini lên tiếng chống lại sự bất công của vị shah, Giáo hội Công giáo ở Châu Mỹ Latinh đang phát triển Thần học Giải phóng của mình. Các linh mục và nữ tu khuyến khích các cộng đồng nhỏ người nghèo học Kinh thánh để khắc phục tình trạng bạo lực có hệ thống của xã hội Brazil. Năm 1968, các giám mục Mỹ Latinh gặp nhau ở Medellín, Colombia, để ủng hộ các chủ đề mới nổi của phong trào mới này, lập luận rằng Jesus đứng về phía người nghèo và bị áp bức và các Kitô hữu phải đấu tranh cho công lý và bình đẳng. Ở Mỹ Latinh, cũng như ở Iran, loại thần học này đang đe dọa sâu sắc đến giới tinh hoa chính trị và kinh tế. Các linh mục giải phóng được mệnh danh là “những người cộng sản” và, giống như các giáo sĩ Iran, bị bỏ tù, tra tấn và hành quyết vì họ nói rõ rằng trật tự kinh tế mà phương Tây thuộc địa áp đặt lên “Thế giới thứ ba” vốn đã rất bạo lực:
Trong nhiều thế kỷ, Mỹ Latinh là một khu vực bạo lực. Chúng ta đang nói về bạo lực mà một nhóm thiểu số có đặc quyền đã sử dụng, kể từ thời thuộc địa, để bóc lột đại đa số người dân. Chúng ta đang nói về bạo lực của nạn đói, của tình trạng bất lực, của tình trạng kém phát triển… của chế độ nô lệ bất hợp pháp nhưng đang tồn tại, của sự phân biệt đối xử về xã hội, trí tuệ và kinh tế.
Họ nhấn mạnh rằng vì thế giới hiện nay quá phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế nên một cá nhân Bắc Mỹ có thể sống một cuộc sống thoải mái chỉ vì những người khác, có thể đang trong một khu ổ chuột ở Brazil, đã bị bần cùng hóa; họ có thể mua hàng hóa với giá rẻ vì những người khác đã bị bóc lột trong quá trình lao động sản xuất.
Ở Hoa Kỳ cũng vậy, tôn giáo đã đạt được một lợi thế cách mạng và lần đầu tiên trong thế kỷ 20 đã phản đối các chính sách của chính phủ Hoa Kỳ. Trong khi các tổng thống John F. Kennedy và Lyndon B. Johnson cẩn thận không để tôn giáo dính líu đến chính trị, thì những người Công giáo, Tin lành và Do Thái tự do đã vận động nhân danh đức tin của họ để chống lại bạo lực quân sự và cấu trúc của Hoa Kỳ. Giống như người Hồi giáo Shia ở Iran, họ xuống đường phản đối Chiến tranh Việt Nam và tham gia phong trào dân quyền của Martin Luther King chống phân biệt chủng tộc ở quê nhà. Năm 1962, Hội đồng Giáo hội Quốc gia yêu cầu Kennedy cam kết với toàn quốc “sẽ nỗ lực hết mình để xóa bỏ nghèo đói, cả trong và ngoài nước.”
Khomeini, thường được phương Tây coi là một kẻ kích động bạo lực, vốn không ủng hộ bạo lực. Những đám đông biểu tình trên đường phố không có vũ khí, và cái chết của họ phơi bày sự tàn bạo của chế độ thế tục của vị shah. Vụ ám sát Martin Luther King, người đã khẳng định rằng phản ứng bất bạo động đối với tổn thương là “điều tuyệt đối cần thiết cho sự sống còn của chúng ta… chìa khóa cho giải pháp cho các vấn đề của thế giới chúng ta,” cũng cho thấy bạo lực tiềm ẩn của xã hội Mỹ. King sẽ đồng ý với yêu cầu của Khomeini về công lý toàn cầu. Ông ta đã than van về hành động sai lầm thảm khốc của Kennedy ở Vịnh Con Heo (1961), và mặc dù Johnson đã cho người Mỹ gốc Phi nhiều hơn bất kỳ tổng thống nào trước đó, nhưng King đã từ chối ủng hộ cuộc chiến của Johnson ở Việt Nam. Nhưng vào cuối những năm 1970, khi cuộc cách mạng Iran nổ ra, tâm trạng ở phương Tây đã thay đổi. Năm 1978, vị giám mục bảo thủ của vùng Cracow là Karol Wojtyla, một người phản đối gay gắt Thần học Giải phóng, được bầu làm giáo hoàng, lấy tên là Gioan Phaolô II. Phe Đa số Đạo đức theo chủ nghĩa cơ yếu đã vươn lên dẫn đầu trong đời sống tôn giáo của Mỹ, và tổng thống đảng Dân chủ Jimmy Carter, một Cơ đốc nhân “tái sinh” đã vận động mạnh mẽ cho nhân quyền, là một người ủng hộ trung thành cho chế độ độc tài của vị shah Iran.
- ● ●
Nhìn từ phương Tây, Iran dường như đang bùng nổ trong những năm 1970, nhưng nhà nước đã trở nên giàu có với cái giá phải trả là quốc gia; một triệu người thất nghiệp, các thương nhân địa phương đã bị hủy hoại bởi dòng hàng hóa nước ngoài, và sự phẫn nộ lan rộng đối với những người Mỹ xa xứ đang phất lên. Sau sự ra đi của Khomeini, vị shah thậm chí còn trở nên chuyên quyền hơn và bắt đầu thế tục hóa mạnh mẽ hơn, tịch thu các awqaf và đặt các madrassa dưới sự kiểm soát quan liêu nghiêm ngặt. Khi Ayatollah Riza Saidi tố cáo chế độ, ông bị tra tấn đến chết, và hàng nghìn người biểu tình đổ ra đường ở Qum. Nhà triết học không chuyên có uy tín Ali Shariati (1933–77), người đã học tại Sorbonne, giữ cho ngọn lửa cách mạng tồn tại trong giới thanh niên Iran bị phương Tây hóa. Ông nói với họ rằng nếu họ cố gắng tuân theo lý tưởng phương Tây quá sát sao và từ bỏ giáo lý Shia, họ sẽ đánh mất chính mình; tấm gương của Ali và Husain đã thôi thúc người Hồi giáo đứng lên nói không với bất công, cưỡng bức và bạo ngược. Shariati cũng bị tra tấn, bỏ tù và chết trong cảnh lưu đày, gần như chắc chắn là nạn nhân của các đặc vụ SAVAK. Tại Najaf năm 1971, Khomeini xuất bản cuốn Chính quyền Hồi giáo, lập luận rằng ulema nên cai trị nhà nước. Học thuyết của ông về velayat-e faqih (“chính quyền của luật gia [Hồi giáo]”) dường như hoàn toàn đối nghịch với tính hiện đại của phương Tây và gây sốc cho hầu hết người Shia, vì trong nhiều thế kỷ, giới tăng lữ đã từ chối các chức vụ trong chính quyền —trong khi vắng mặt vị Imam ở ẩn, họ coi bất kỳ chính quyền nào cũng tham nhũng. Nhưng suy nghĩ của Khomeini rõ ràng phù hợp với những trí thức Thế giới thứ ba, những người đã bất chấp bạo lực cấu trúc toàn cầu. Ông luôn tuyên bố rằng Hồi giáo là “tôn giáo của những cá nhân chiến binh cam kết với đức tin và công lý. Đó là tôn giáo của những người khao khát tự do và độc lập. Đó là trường học của những người đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc.”
Mặc dù không ai vào thời điểm này, kể cả Khomeini, tin rằng có thể lật đổ vị shah, các sự kiện diễn ra nhanh hơn ông dự đoán. Vào tháng 11 năm 1977, con trai ông là Mustafa bị ám sát ở Iraq, một lần nữa gần như chắc chắn là do các đặc vụ SAVAK, và quốc vương đã cấm tổ chức tang lễ. Điều này chỉ khẳng định Khomeini thậm chí còn gần gũi hơn với các imam của dòng Shia, vì giống như Husain, con trai của ông cũng đã bị sát hại bởi một kẻ thống trị bất công, khiến vị shah một lần nữa trở thành Yazid. Và vào thời điểm căng thẳng này, tổng thống Hoa Kỳ Jimmy Carter tự nhận mình là “Quỷ Vương” [Biệt danh “Great Satan” được Ruhollah Khomeini gán cho chính quyền Mỹ trong một bài diễn văn ông đọc một vài ngày trước vụ hàng ngàn sinh viên Iran xông vào sứ quán Mỹ ở Tehran và bắt đi một số con tin.] Vào tháng 11 năm 1977, trong khi Iran đang để tang Mustafa Khomeini, vị shah đã đến thăm Washington, và Carter đã nói với vẻ xúc động mạnh mẽ về “mối quan hệ đặc biệt” của Hoa Kỳ với Iran, “một hòn đảo ổn định ở một góc hỗn loạn của thế giới.” Ông do đó, bước vào thảm kịch Karbala đang diễn ra với tư cách là shaytan, “kẻ cám dỗ”, người đã dụ vị shah đi theo Hoa Kỳ để gây hại cho chính người dân của mình.
Cuộc cách mạng bắt đầu vào ngày 8 tháng 1 năm 1978, khi tờ báo bán chính thức Ettelaat công bố một cuộc công kích phi lý nhằm vào Khomeini. Ngày hôm sau, bốn nghìn sinh viên không vũ trang ở Qum yêu cầu phục hồi hiến pháp 1906, tự do ngôn luận, trả tự do cho các tù nhân chính trị, và sự trở lại của Ruhollah Khomeini. Xuyên suốt, người Iran cho thấy rằng họ đã tiếp thu hoàn toàn các đặc tính hiện đại, đòi hỏi độc lập, tự do và quy tắc hiến pháp mà họ đã bị chính phủ thế tục của vị shah và cộng đồng quốc tế liên tục từ chối. Bảy mươi trong số những sinh viên này đã thiệt mạng. Với vụ thảm sát này, chế độ đã đi quá giới hạn. Một mô hình bây giờ đã xuất hiện. Bốn mươi ngày sau vụ thảm sát tại Qum, đám đông tụ tập để tổ chức các tang lễ truyền thống cho số sinh viên đã bị bắn chết, và nhiều người nữa đã bị bắn hạ. Bốn mươi ngày sau, có nhiều cuộc mít tinh được tổ chức theo nghi thức để vinh danh các vị tử đạo mới. Những người Mác-xit, những người thế tục chủ nghĩa và tự do chủ nghĩa phản đối vị shah nhưng họ không có sức hấp dẫn quần chúng vốn đã hợp lực với những nhà cách mạng có tư tưởng tôn giáo. Tuy nhiên, đây không phải là một cuộc nổi dậy bạo lực. Rạp chiếu phim, ngân hàng và cửa hàng rượu—những biểu tượng của “Quỷ Vương”—bị tấn công, nhưng không đụng đến con người. Đến lúc này, các nhà tù đầy tù nhân chính trị, và số người chết ngày càng tăng cho thế giới thấy rằng chế độ thế tục của vị shah, được Phương Tây ca ngợi là tiến bộ và hòa bình, đang tàn sát chính người dân của mình.
Cuộc cách mạng đã được trải nghiệm như một sự kiện tôn giáo cũng như chính trị. Người biểu tình mang theo các biểu ngữ viết “Ở đâu cũng là Karbala, và mỗi ngày là Ashura,” tin chắc rằng mình đang đi theo Husain trong cuộc đấu tranh chống lại áp bức. Họ nói về cuộc cách mạng như một trải nghiệm chuyển biến và thanh lọc, như thể họ đang thanh lọc bản thân khỏi chất độc gây suy nhược và phục hồi đức tin. Nhiều người cảm thấy như thể chính Husain đang dẫn dắt họ và rằng Khomeini, giống như Imam ẩn mình, đang hướng dẫn họ từ xa. Vào đêm cuối cùng của tháng Ramadan, ngày 4 tháng 9, đám đông khổng lồ đã phủ phục cầu nguyện trên đường phố, nhưng — một bước ngoặt quan trọng — lần này quân đội không nổ súng. Thậm chí quan trọng hơn, các tầng lớp trung lưu bắt đầu tham gia biểu tình, tuần hành với những tấm bảng ghi: “Độc lập, Tự do và Chính quyền Hồi giáo!” Lúc 6 giờ sáng ngày 8 tháng 9, thiết quân luật được tuyên bố, nhưng 20.000 người biểu tình đã tụ tập sẵn sàng ở Quảng trường Jaleh không biết điều đó; khi họ không chịu giải tán, những người lính đã nổ súng. Có tới 900 người có thể đã chết vào ngày hôm đó.
Tối hôm đó, Carter đã gọi điện cho vua Iran từ Trại David để đảm bảo ủng hộ ông ấy, và Nhà Trắng, trong khi lấy làm tiếc về những thiệt hại về nhân mạng, đã tái khẳng định mối quan hệ đặc biệt với Iran. Quyền tự do và độc lập mà các nhà cách mạng Mỹ đã chiến đấu để giành được rõ ràng không dành cho tất cả mọi người. Trong ba đêm đầu tiên của tháng Muharram, những người đàn ông mặc tấm vải liệm màu trắng của người tử vì đạo và chạy qua các đường phố bất chấp lệnh giới nghiêm, trong khi những người khác hô khẩu hiệu chống vị shah từ các mái nhà. BBC ước tính rằng bảy trăm người đã bị giết bởi quân đội và cảnh sát Iran chỉ trong vài ngày này. Tuy nhiên, vẫn không có bạo lực của đám đông. Vào ngày 9 tháng 12, trong sáu giờ, một đoàn diễu hành khổng lồ—vào những thời điểm khác nhau có số lượng từ 300.000 đến 1,5 triệu người—lượn qua các đường phố của Tehran, đi bộ lặng lẽ theo hàng bốn sát vai nhau. Hai triệu người nữa đã diễu hành vào chính ngày Ashura, mang theo những lá cờ xanh, đỏ và đen, đại diện cho Hồi giáo, sự tử vì đạo và giáo phái Shia.
Một tháng sau, mọi chuyện kết thúc. Quốc vương và gia đình hoàng gia bay đến Ai Cập tị nạn, và vào ngày 1 tháng 2 năm 1979, Khomeini trở lại Tehran. Sự xuất hiện của ông ấy là một trong những sự kiện, giống như cơn bão phá ngục Bastille, dường như sẽ thay đổi thế giới mãi mãi. Đối với những người theo chủ nghĩa thế tục tự do tận tụy, đó là một thời điểm đen tối, chiến thắng của các thế lực phi lý trước sự hợp lý. Nhưng đối với nhiều người Hồi giáo, Sunni cũng như Shia, đó dường như là một sự đảo ngược sáng chói. Khi ông đi xe qua các đường phố Tehran, đám đông chào đón ông như thể ông là Imam ẩn thân trở về, tin tưởng rằng một thời đại mới đã bắt đầu. Taha Hejazi đã sáng tác một bài thơ chúc mừng, một hy vọng rúng động về công lý mà vị shah và cộng đồng quốc tế đã từ chối họ:
Khi Imam trở lại,
Iran—người mẹ tan nát, đầy vết thương này—Sẽ mãi mãi được giải phóng
Từ xiềng xích của bạo quyền và ngu dốt
Và xiềng xích của cướp bóc, tra tấn và tù đày.
Khomeini thích trích dẫn kho hadith mà trong đó Nhà tiên tri đã tuyên bố sau một trận chiến rằng ngài đang từ một cuộc thánh chiến nhỏ hơn để tiến hành một “cuộc thánh chiến lớn hơn”, tức việc thực hiện các giá trị Hồi giáo thực sự trong xã hội, một cuộc đấu tranh thử thách hơn nhiều so với cuộc đấu tranh quân sự “thấp kém hơn”. Khi nhìn đám đông ngây ngất ngày hôm đó, chắc chắn ông cảm thấy lo sợ về cuộc thánh chiến khốc liệt hơn sắp bắt đầu.
- ● ●
Đó thực sự là một cuộc đấu tranh: gần như ngay lập tức, có lẽ có thể đoán trước được, liên minh mong manh của những người theo chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa tự do và những người sùng đạo dường như tan rã. Có sự phản đối hiến pháp mới, vào năm 1980, bốn âm mưu riêng biệt chống lại chế độ đã bị phanh phui, và liên tục xảy ra các trận chiến trên đường phố giữa quân du kích theo chủ nghĩa thế tục và Lực lượng Vệ binh Cách mạng của Khomeini. Một triều đại khủng bố xảy ra sau đó, không giống như những triều đại theo sau Cách mạng Pháp và Nga, khi cái gọi là hội đồng cách mạng, mà chính phủ không thể kiểm soát, đã hành quyết hàng trăm người vì “hành vi phi Hồi giáo”. Như một đòn chí tử, vào ngày 20 tháng 9 năm 1980, miền tây nam của đất nước bị lực lượng Iraq của Saddam Hussein xâm lược. Trong giai đoạn hỗn loạn này, cuộc khủng hoảng con tin ở Mỹ đã chứng tỏ một ơn trời đối với Khomeini. Ngày 4 tháng 11 năm 1979, ba nghìn sinh viên Iran đã xông vào đại sứ quán Hoa Kỳ tại Tehran và bắt chín mươi con tin. Không rõ liệu Khomeini có biết trước kế hoạch của họ hay không và mọi người đều mong ông ta thả con tin ngay lập tức. Nhưng mặc dù các nữ con tin và lính thủy quân lục chiến của đại sứ quán được phép trở về Mỹ, nhưng năm mươi hai nhà ngoại giao còn lại bị giữ lại trong 444 ngày. Ở phương Tây, vụ tai tiếng này dường như là hình ảnh thu nhỏ của chủ nghĩa cực đoan Hồi giáo.
Tuy nhiên, quyết định giữ lại các con tin của Khomeini không phải do mệnh lệnh Hồi giáo mà đơn giản là do chính trị. Ông ta có thể thấy rằng việc tập trung vào Quỷ Vương này sẽ đoàn kết dân Iran sau lưng ông vào thời điểm khó khăn của mình. Như ông giải thích với thủ tướng Bani Sadr:
Hành động này có rất nhiều lợi ích. Người Mỹ không muốn thấy Cộng hòa Hồi giáo bén rễ. Chúng ta giữ con tin, hoàn thành công việc nội bộ của mình và sau đó thả họ. Điều này sẽ đoàn kết người dân của chúng tôi. Đối thủ của chúng ta không dám hành động chống lại chúng ta. Chúng ta có thể đưa hiến pháp ra để nhân dân bỏ phiếu mà không gặp khó khăn gì, và tiến hành các cuộc bầu cử tổng thống và quốc hội. Khi chúng ta làm xong tất cả những công việc này, chúng ta có thể thả con tin đi.
Ngay sau khi họ không còn hữu ích nữa, các con tin đã được thả vào ngày 20 tháng 1 năm 1981, ngày nhậm chức của tân tổng thống Hoa Kỳ Ronald Reagan và sự ra đi của người tiền nhiệm “Quỷ Vương ” Jimmy Carter. Chắc chắn cuộc khủng hoảng con tin đã làm hoen ố hình ảnh và chủ nghĩa lý tưởng của Cách mạng Hồi giáo. Nhiều người Iran không hài lòng về vụ này, ngay cả khi đánh giá cao tính biểu tượng của nó. Đại sứ quán của một quốc gia được coi là lãnh thổ có chủ quyền của quốc gia đó ở nước ngoài, và một số người cho rằng công dân Mỹ nên bị giam giữ ở đó, giống như trong nhiều thập kỷ, người Iran đã cảm thấy bị giam cầm trên chính đất nước mình với sự đồng lõa của Hoa Kỳ. Nhưng đây chỉ đơn giản là sự trả thù chính trị, và việc đối xử tàn nhẫn đối với các con tin đã vi phạm các nguyên tắc cơ bản của tất cả các truyền thống tín ngưỡng, nhất là của Hồi giáo. Bất cứ điều gì mà chế độ đạt được bằng cách dừng đồng hồ trong khi nó đạt được một mức độ ổn định nào đó, nó sẽ phải trả giá trong nhiều năm trong quyển sổ cái của thế giới tự do có đặc quyền.
Thiên tài vĩ đại của dòng Shia là nhận thức bi thảm của nó cho rằng không thể thực hiện đầy đủ các lý tưởng của tôn giáo trong lĩnh vực chính trị mà bạo lực là không thể tránh khỏi. Ashoka đã phát hiện ra điều này thậm chí còn sớm hơn cả các Imam dòng Shia khi ông quảng bá giáo pháp từ bi của mình nhưng không thể giải tán quân đội của mình. Tốt nhất, những người có đức tin có thể làm chứng cho những giá trị này, như Khomeini đã làm khi ông chỉ trích sự bất công của chế độ Pahlavi vào những năm 1960, hoặc đưa ra một giải pháp thay thế thách thức hoặc tìm cách giảm thiểu bạo lực nhà nước. Nhưng như chúng ta đã thấy xuyên suốt câu chuyện này, ngay cả những truyền thống nhân đạo nhất cũng không thể thực hiện lý tưởng của mình nếu họ đồng nhất với một hệ tư tưởng nhà nước chắc chắn phụ thuộc vào vũ lực. Khomeini tin rằng cuộc cách mạng là một cuộc nổi dậy chống lại chủ nghĩa thực dụng hợp lý của thế giới hiện đại. Mục tiêu của lý thuyết velayat-e faqih của ông là thể chế hóa các giá trị của người Shia: luật gia tối cao (faqih) và ulema trong Hội đồng Giám hộ sẽ có quyền phủ quyết bất kỳ luật nào vi phạm các nguyên tắc của công lý Hồi giáo. Nhưng trên thực tế , Khomeini thường phải khiển trách những người bảo vệ vì đã chơi trò chơi quyền lực ích kỷ, giống như bản thân ông đã cảm thấy buộc phải theo đuổi một đường lối chính trị thực dụng yếm thế trong cuộc khủng hoảng con tin.
Chúng ta đã thấy rằng các cuộc cách mạng có thể diễn ra trong một thời gian dài, và giống như Cách mạng Pháp, Cách mạng Iran đã trải qua nhiều giai đoạn và vẫn đang tiếp diễn. Giống như ở Pháp, người Iran lo sợ rằng những kẻ thù hùng mạnh bên ngoài sẽ tiêu diệt chế độ Hồi giáo. Vào mùa hè năm 1983, người Iraq đã tấn công quân đội Iran bằng khí mù tạt và sau đó bằng khí độc thần kinh vào năm sau. Khomeini tin chắc rằng Mỹ sẽ tổ chức một cuộc đảo chính tương tự như cuộc đảo chính đã lật đổ Musaddiq năm 1953. Bởi vì Iran đã chống lại phương Tây, Iran đã bị mất đi thiết bị thiết yếu, phụ tùng thay thế và tư vấn kỹ thuật; lạm phát cao, và đến năm 1982, tỷ lệ thất nghiệp đã tăng lên 30 phần trăm dân số nói chung và 50 phần trăm ở các thành phố. Người nghèo, những người mà Khomeini đã ủng hộ hoàn cảnh khó khăn, cũng không khá hơn nhiều dưới cuộc cách mạng. Tuy nhiên, các nhà quan sát phương Tây đã phải thừa nhận rằng, bất chấp sự phản đối ngày càng tăng của những người Iran bị phương Tây hóa, Khomeini không bao giờ đánh mất sự yêu mến của quần chúng, đặc biệt là các bà nội trợ, các sinh viên trường đạo, các ulema kém tiếng tăm và người nghèo. Thành phần này, những người mà chương trình hiện đại hóa của vị shah đã bỏ qua, vẫn suy nghĩ và nói năng theo kiểu tôn giáo truyền thống, tiền hiện đại mà nhiều người phương Tây thậm chí không thể hiểu được.
Sau Cách mạng Iran, người ta đã nghe thấy một quan chức Hoa Kỳ bực tức thốt lên: “Có ai ngờ tôn giáo quan trọng đến thế đâu?” Kể từ thời Khai sáng, các cuộc cách mạng được hiểu là xảy ra vào thời điểm mà trào lưu đổi mới đã trưởng thành và đủ mạnh để tuyên bố độc lập về đức tin. Ý tưởng về một cuộc nổi dậy của quần chúng mở ra một nhà nước thiên về tôn giáo gần như gây bối rối khi nó đi ngược lại sự hiểu biết đã được chấp nhận; nhiều người phương Tây chỉ trích nó là tàn bạo và đồi trụy. Nhưng họ dường như không thể thấy rằng bằng cách theo đuổi các chương trình nghị sự kinh tế và chính trị gây bạo lực cho người dân Iran, các chính phủ phương Tây đã tạo ra một hình thái tôn giáo mới. Họ đã mù quáng trước những vấn đề cụ thể của nhà nước hậu thuộc địa và những cạm bẫy của quá trình hiện đại hóa được áp đặt từ bên ngoài thay vì được tác động một cách hữu cơ từ bên trong. Và khi lên án chế độ thần quyền mới, họ đã không đánh giá đúng một sự trớ trêu chủ yếu. Các lý tưởng tự do của phương Tây đã khơi dậy trí tưởng tượng của người Iran và truyền cảm hứng cho người Iran đòi hỏi các quyền tự do cơ bản, nhưng lý tưởng thế tục của phương Tây đối với người Iran đã bị vấy bẩn không thể cứu vãn bởi tính tư lợi và tàn ác mà nó đã theo đuổi. Hoa Kỳ tuyên bố rằng họ có một sứ mệnh được Chúa ban cho là phổ biến tự do trên toàn thế giới, nhưng điều này rõ ràng là không bao gồm người dân Iran. “Chúng tôi không mong đợi Carter sẽ bảo vệ quốc vương, vì ông ấy là một người sùng đạo, người đã nêu khẩu hiệu bảo vệ nhân quyền,” một giáo sĩ Iran giải thích với một người phỏng vấn sau cuộc cách mạng. “Làm thế nào Carter, một tín đồ Cơ đốc sùng đạo, lại có thể đi bảo vệ vị shah?” Sự bối rối như vậy cho thấy cảm nhận tiền hiện đại hẳn phải xem ý tưởng coi tôn giáo là một vấn đề riêng tư kỳ lạ đến mức nào.
Cách mạng Iran đã thay đổi đáng kể hiện trạng ở Vịnh Ba Tư. Quốc vương từng là một trong những trụ cột quan trọng trong chính sách của Hoa Kỳ trong khu vực, cho phép phương Tây tiếp cận nguồn dự trữ dầu mỏ khổng lồ của mình với mức giá hợp lý. Vào tháng 12 năm 1979, Liên Xô đã tìm cách tận dụng việc Mỹ mất ảnh hưởng trong khu vực bằng cách xâm chiếm nước láng giềng Afghanistan của Iran. Cuộc đấu tranh trong Chiến tranh Lạnh này giữa các siêu cường đã giúp truyền cảm hứng cho một cuộc thánh chiến toàn cầu mà cuối cùng sẽ nhắm vào Hoa Kỳ và các đồng minh của Hoa Kỳ. Nhưng phải mất một thời gian trước khi phương Tây nhận ra mối nguy hiểm này, bởi vì trong những năm 1980 và 1990, họ quan tâm nhiều hơn đến các hành động khủng bố tàn bạo và bạo lực ở Trung Đông và tiểu lục địa Ấn Độ dường như hoàn toàn do “tôn giáo” truyền cảm hứng.