
Darniel Kovacevic
PHẦN 1: HẬU DUỆ THÀNH CÁT TƯ HÃN
Trong thế kỷ XIII, Châu Âu phải run sợ trước vó ngựa của những chiến binh Mông Cổ dưới trướng Thành Cát Tư Hãn, khi ông chết đi, người Mông Cổ đã thành lập nên một đế quốc rộng lớn nhất trong lịch sử, đông đến Hoàng Hải, tây giáp Biển Đen, bắc đến nước Nga và nam tới tận Ấn Độ. Tuy nhiên, do những tranh chấp nội bộ giữa những hậu duệ Thành Cát Tư Hãn, đế quốc Mông Cổ nhanh chóng bị phân liệt. Sang nửa đầu thế kỷ XIV, người Mông Cổ không còn là mối đe dọa thường trực với người Châu Âu (trừ nước Nga), thế lực mới nổi là nhà Ottoman mới là thứ làm cho các vị quân chủ phương tây đau đầu. Tuy nhiên năm 1402, nhà Ottoman đang như mặt trời giữa trưa bị giáng một đòn chí mạng: Sultan Bayezid I bị đánh bại trong trận Ankara, bản thân Sultan bị cầm tù và chết trong ngục sau đó, các vị vua phương tây phải trầm trồ trước thế lực mới nổi ở Trung Á, được lãnh đạo bời một vị vua lừng danh, người hiếm hoi trong lịch sử chưa để thua một trận nào trong cuộc đời mình, ông là Timur Lang.
I. THÂN THẾ
Tamerlane là cách gọi của người phương tây, thật ra đây là cách gọi sai, tên đúng của ông là Timur, ghép với hậu tố phía sau là Timur – i –lang, nghĩa là Timur Què, xuất phát từ cái chân bị tật của ông. Timur khi phiên âm sang tiếng Hán thì gọi là Thiếp Mộc Nhi. Sử sách chép ngày sinh của Timur là ngày 8 tháng 4 năm 1336, tuy nhiên cũng như những nhân vật lịch sử nổi tiếng khác, nhiều người tin rằng ngày sinh này có khả năng bị khai gian. Ông sinh ra tại Transoxiana, ngày nay là Uzbekistan thuộc Trung Á, dù sau này Timur tự nhận là hậu duệ của Thành Cát Tư Hãn nhưng theo phả hệ thì ông này có nguồn gốc gần với dân Thổ (Turk) hơn là Mông Cổ.
Tiểu sử chính thức của Timur viết rằng ông sinh ra trong một gia đình chiến binh bình thường của bộ tộc Barlas (Ba Lỗ), và từng bước leo lên làm người đứng đầu bộ lạc thông qua những chiến công sau này, tuy nhiên nhiều nhà nghiên cứu cho rằng gia cảnh nhà ông không hề “bình thường”, dù không phải là người đứng đầu bộ tộc nhưng Taraghay cha ông là một người giàu có và có thế lực trong bộ tộc. Timur được chính cha minh dạy chữ và các kinh điển của Đạo Hồi và ông có thể thuộc lòng kinh Qur’an, một chiến binh bình thường không thể có vốn kiến thức như thế vào thời đó được. Khoảng năm 20 tuổi, trong một lần tranh chấp với các bộ lạc lân cận Timur bị đâm vào đùi và bị tên bắn rụng 2 ngón tay phải để lại tật suốt đời, kẻ thù của ông gọi ông là Timur Què là do vết thương này. Khi Timur sinh ra, đế quốc Mông Cổ đang trên đà phân liệt, phải điểm qua một chút về tình trạng này để thấy được sự rối ren của cả vùng Trung Tây Nam Á hồi ấy nghiêm trọng đến thế nào.
II. SỰ CHIA RẼ GIỮA CÁC NGƯỜI THỪA KẾ CỦA THÀNH CÁT TƯ HÃN
Mầm mống của sự chia rẽ đã bắt đầu từ khi Thành Cát Tư Hãn còn tại vị: Con trưởng của ông là Jochi (Truật Xích) người luôn bị nghi ngờ về huyết thống, và luôn bị bài xích bởi người con thứ là Sát Hợp Đài. Trước khi chết, Thành Cát Tư Hãn chỉ định người con thứ 3 Oa Khoát Đài được thừa hưởng ngôi vị Đại Hãn, vì đó là mệnh lệnh của Đại Hãn nên hầu như không ai thắc mắc. Truật Xích chết sớm, phần đất của Truật Xích được chia cho hai con trai ông này là Oát Nhi Đáp (Orda) và Bạt Đô (Batu). Oát Nhi Đáp lãnh phần phía tây, tương ứng với đông âu ngày nay, Bạt Đô lãnh phần phía đông tương ứng với tây nam nước Nga ngày nay. Lãnh thổ của Oát Nhi Đáp gọi là Bạch Trướng Hãn Quốc, lãnh thổ của Bạt Đô gọi là Thanh Trướng Hãn Quốc nhưng trong mắt người Nga thì hai vương quốc này chả khác nhau gì … đều là của lũ ăn cướp, thế nên trắng pha với xanh thì thành vàng, người Nga gọi cả lãnh thổ mà người Mông Cổ chiếm cứ của họ bằng một cái tên: Kim Trướng Hãn Quốc (hay Hãn Quốc Kripchak, hoặc Golden Horde, dịch sang tiếng Việt là Lều Lớn Bạt Vàng). Gọi như vậy là vì người Mông Cổ có truyền thống ở trong lều bạt, và chỉ có lều của khả hãn mới mang màu vàng. Người Nga phải đóng thuế cho Kim Trướng Hãn Quốc và nhờ họ bảo kê để chống lại các cuộc cướp phá từ phía Tây.
Năm 1241, Oa Khoát Đài qua đời, hoàng hậu Bột Lạp Cáp Chân (Töregene Khatun) đứng ra nhiếp chính tạm thời. Theo truyền thống, Đại Hãn mới phải được bầu ra trong đại hội Khố Lý Đài của các quý tộc, nhưng Hoàng hậu Bột Lạp Cáp Chân lại đề nghị các tướng lĩnh lập con mình là Quý Do lên làm Đại Hãn luôn mà không qua bầu chọn. Nhiều tướng lĩnh, quý tộc phản đối vì cho rằng việc này trái với nguyên tắc nên hội nghị tan vỡ. Bạt Đô bỏ ngang không tham gia đại hội, còn Thiết Mộc Ca (Temüge) – em trai Thành Cát Tư Hãn – hợp quân để tranh ngôi vị Khả hãn, trong khi đó Sát Hợp Đài, con thứ của Thành Cát Tư hãn lại ủng hộ Quý Do.
Trong thời kỳ 6 năm Töregene nhiếp chính (1242–1246), pháp kỉ hỗn loạn, các quý tộc Mông Cổ đánh giết lẫn nhau.. Trước tình hình đó, vợ góa của Đà Lôi là Sorghaghtani dẫn các con tham gia đại hội Kurultai, cùng với các quý tộc Mông Cổ, tôn Quý Do lên ngôi Khả hãn, được sự ủng hộ của 2 trong số 4 nhánh hậu duệ chính thức của Thành Cát Tư Hãn, tháng 8 năm 1246 Quý Do thuận lợi lên ngôi Đại Hãn. Thế nhưng mâu thuẫn âm ỷ trong nội bộ hoàng tộc Mông Cổ vẫn chưa hề được giải quyết triệt để: Bạt Đô tiếp tục bất đồng nghiêm trọng với Hãn Quý Do, thậm chí hai ông này định mang quân để “nói chuyện phải quấy” với nhau, nhưng ngay lúc căng thẳng nhất thì Quý Do cũng ốm chết đột ngột, đến lượt Hoàng hậu của Quý Do lại học theo gương mẹ chồng năm xưa, tính đường nhiếp chính. Tuy nhiên lần này Bạt Đô đã trở về thảo nguyên, mang theo một đội quân đông đảo, khi tất cả đều đinh ninh Bạt Đô sẽ giành lấy ngôi Đại Hãn thì ông này lại tiến cử con trai của Đà Lôi (con út của TCTH) – Mông Kha. Nhiều năm sau Mông Kha tử trận, người Mông Cổ lại một lần nữa rơi vào nội chiến cho đến khi Hốt Tất Liệt, em trai Mông Kha đánh bại tất cả và sau này diệt được nhà Tống, lập ra triều Nguyên.
Sát Hợp Đài Hãn Quốc là phần đất cùa Sát Hợp Đài, người con thứ của Thành Cát Tư Hãn, gần như là phần lớn đất đai của Hoa Thích Tử Mô (Khwarezm cũ), bao gồm phần lớn Trung Á và một phần Tân Cương ngày nay. Khi Sát Hợp Đài chết, vương quốc của ông được cháu trai là A Lỗ Hốt (Alghu) thừa kế. Năm 1259, Mông Kha chết, A Lý Bất Ca và Hốt Tất Liệt đang tranh nhau ngôi Đại Hãn, A Lỗ Hốt ủng hộ A Lý Bất Ca, khi thấy A Lý Bất Ca rơi vào thế bất lợi, A Lỗ Hốt nhanh chóng đổi phe, nhưng Hốt Tất Liệt đã “ghim” hành động này của Hốt.
Năm 1266, A Lỗ Hốt chết, con là Bát Lạt (Baraq) lên nối ngôi, Hốt Tất Liệt vì không tin tưởng cha con nhà này nên phái một đoàn giám sát đến ăn ở ngay trong triều đình Sát Hợp Đài. Bát Lạt sau đó nổi đóa và tống cổ hết đám sứ bộ của Hốt Tất Liệt, việc này đã nằm trong dự tính của Nguyên Đế, ngay lập tức, ông phái Hải Đô (Kaidu) là cháu nội Oa Khoát Đài, mang quân sang phía tây đánh Bát Lạt. Bát Lạt nhanh chóng thua trận và bị giam hãm tại Transoxiana, sau đó xin thần phục và buộc phải trở thành chư hầu của Hải Đô. Về sau, Bát Lạt lại có xung đột với A Bát Cáp (Abaqa), hãn của Y Nhi hãn quốc tại Ba Tư. Bát Lạt tấn công trước, nhưng bị quân Y Nhi hãn quốc đánh bại và phải chạy về Transoxiana rồi mất không lâu sau đó. Một vài hãn nhánh Sát Hợp Đài sau đó được Hải Đô lập lên làm bù nhìn.
Khoảng năm 1270, quan hệ giữa Hải Đô và Hốt Tất Liệt xấu đi, Hốt tất Liệt nhiều lần xúi Y Nhi Hãn quốc mở các đợt tấn công vào lãnh địa của Hải Đô, đỉnh điểm là năm 1275, Hải Đô dẫn quân xâm chiếm Tây Tạng thì Hốt Tất Liệt mang quân sang cứu Tây Tạng, buộc Hải Đô phải lui quân. Hải Đô lập một con trai của Bát Lạt tên là Đô Oa (Duwa) lên làm Hãn của Sát Hợp Đài, người này đã tham gia vào các cuộc chiến của Hải Đô với Hốt Tất Liệt và các hậu duệ cai trị nhà Nguyên. Cả hai người Hải Đô và Đô Oa đều tích cực chống lại Y Nhi hãn quốc. Năm 1301, Nguyên Thành Tông – Thiết Mục Nhĩ, cháu trai và là người thừa kế của Hốt Tất Liệt đánh bại cuộc tiến công của Hải Đô và Đô Oa vào Cáp Lạt Hòa Lâm, Hải Đô sau đó qua đời, Đô Oa từ bỏ lòng trung thành với người kế vị của Hải Đô, xin hàng và nộp triều cống cho nhà Nguyên. Đến năm 1304, Đô Oa của Hãn quốc Sát Hợp Đài, con trai của Hải Đô là Chapar, Thốc Tác của Kim Trướng Hãn quốc và Oljeitu (Hoàn Giả Đô) của Hãn quốc Y Nhi đã đồng lòng dâng thư lên Thiết Mục Nhĩ xin được dẹp bỏ các mâu thuẫn trước đây, cùng thỏa thuận hòa bình, duy trì các mối quan hệ thương mại và ngoại giao và chấp nhận Thiết Mục Nhĩ là vị chúa tể tối cao của họ. Đáp lại Thiết Mộc Nhĩ nói rằng “Các hậu duệ của Thành Cát Tư Hãn luôn luôn là huynh đệ của nhau”, và bằng lòng duy trì mối quan hệ giao hảo. Từ đây các Hãn Mông Cổ chính thức ngưng đánh lẫn nhau để bước vào thời kỳ tự suy yếu.
III. CÁC HÃN QUỐC PHÂN LIỆT
Do đặc điểm văn hóa của người Mông Cổ, nên họ dễ dàng bị đồng hóa bởi các dân tộc mà họ chinh phục. Nhà Nguyên ở Trung Hoa thì bị Hán Hóa, Y Nhi Hãn Quốc thì bị Hồi giáo hóa, còn Sát Hợp Đài Hãn Quốc thì bị Turk hóa. Gần 80 năm sau khi người Mông Cổ xây dựng lên đế chế khổng lồ của họ, các hậu duệ của Thành Cát Tư Hãn đã phân rã nghiêm trọng: Có vị Hãn cải sang Hồi giáo, có Hãn thì gương mặt nhìn trước nhìn sau giống người Thổ hơn là người Mông, có Hãn lại có trong tay gần 10 vạn quân nhưng lại toàn là người Trung Á, … khác biệt về văn hóa rất nhanh sẽ kéo theo xung đột về chính trị, kinh tế, thế nên các Hãn mang quân đập nhau là chuyện sớm muộn, mà đánh nhau mãi thì tất phải suy.
Quyền lực của người Mông Cổ suy yếu cũng là lúc các bộ tộc bản địa nổi lên, dù không tuyên bố ra mặt nhưng họ dựa vào mâu thuẫn giữa các Hãn để rũ bỏ dần thế lực của người Mông. Năm 1346, Khả Hãn cuối cùng của Sát Hợp Đài hãn quốc là Hợp Tán bị một tù trưởng tên là Qazaghan nổi dậy và giết chết, quyền quản lý đất nước rơi vào tay các bộ lạc bản địa (chủ yếu là người Turk và người Turk-Mông Cổ), các bộ lạc này có các mối liên minh lỏng lẻo với nhau. Để hợp pháp hóa quyền cai trị của mình, họ vẫn duy trì một thành viên là hậu duệ của Thành Cát Tư Hãn trên ngai vàng, song vị trí này chỉ là bù nhìn.
Năm 1358, Qazaghan cũng bị ám sát, miền Tây hãn quốc Sát Hợp Đài lại bị sâu xé, lúc này từ phía đông, ở Tân Cương, một hậu duệ của nhánh Sát Hợp Đài tên là Thốc Hốt Lỗ Thiếp Mộc Nhi (Tughlugh Timur) quyết định đánh sang phía tây hòng tái lập đất nước như cũ. Các thủ lĩnh người Turk phía tây run sợ, vội cử Timur khi đó đã là tộc trưởng của tộc Barlas đi đàm phán với Thốc Hốt Lỗ. Vốn khôn ngoan mẫn tiệp, Timur … kết đồng minh luôn với Thốc Hốt Lỗ, dẫn quân về đánh địch thủ.
Qua các cuộc xung đột, lực lượng của Timur ngày càng trở nên lớn mạnh, đến khi Thốc Hốt Lỗ cảm thấy sự đe dọa từ ông thì đã muộn, chính Timur đã hai lần chặn đứng nỗ lực tây chinh của ông này. Năm 1363 Thốc Hốt Lỗ Thiếp Mộc Nhi chết, vùng phía tây của Hãn quốc còn gọi là Transoxiana tiếp tục rơi vào tranh chấp giữa hai thủ lĩnh bộ lạc là Husayn (cháu nội của Qazaghan) và Timur. Về mặt họ hàng thì Husayn là anh rể của Timur, Timur có sự hậu thuẫn từ các thương gia, giáo sĩ Hồi giáo, tầng lớp quý tộc và nông dân. Trong khi đó Husayn lại mất lòng dân nghiêm trọng, Husayn thi hành một chính sách thuế khoá nặng nề và tiêu tiền thuế một cách phung phí để xây dựng các công trình phù phiếm. Khoảng năm 1370, Husayn đầu hàng Timur và sau đó bị ám sát, Timur chính thức trở thành người thống trị Transoxiana, ông kết hôn với một người vợ của Husayn là Saray Mulk Khanum, hậu duệ của Thành Cát Tư Hãn, cho phép ông trở thành quý tộc ảnh hưởng đến sự cai trị trong đế quốc Sát Hợp Đài. Dù sau này, một bộ phận người Mông Cổ chạy về phía đông bắc lập ra Hãn quốc Đông Sát Hợp Đài (Mughalistan), thường xuyên giao chiến với vương triều Timur nhưng nhìn chung không gây ra mối bận tâm lớn nào cho ông.
Lúc bấy giờ ở phía bắc Châu Á là Kim trướng Hãn Quốc, đại dịch Cái Chết Đen vào giữa thế kỷ 14 đã giáng một đòn mạnh mẽ vào Kim Trướng Hãn Quốc: Việc giao thương bị ảnh hưởng nặng nề, dẫn đến người Nga không kham nổi tiền thuế cống nạp hàng năm, buộc các bộ tộc Nga liên kết lại với nhau cùng bật lại bọn Mông Cổ. Trận Kulikovo năm 1380 có thể xem như một bước ngoặt vĩ đại thời thế kỷ 14: Lần đầu tiên người Nga có thể đánh thắng người Mông Cổ triệt để, dù cho trong trận này người Mông Cổ có quân số đông gấp đôi. Đây cũng là trận đánh đầu tiên trong lịch sử Nga có sử dụng súng, nhiều nhà nghiên cứu còn cho rằng đây là trận đánh “khai sinh ra nước Nga”, nhưng thôi, tạm dừng ở đây, ta đang nói về quân Mông Cổ.
Trận Kulikovo diễn ra giữa quân Nga với phần phía tây của Kim Trướng Hãn Quốc, tức là Bạch Trướng Hãn Quốc, còn phần phía đông, tức Thanh Trướng Hãn Quốc vẫn không bị tác động gì. Tuy nhiên, cũng giống như Sát Hợp Đài Hãn Quốc và Y Nhi Hãn Quốc từ giữa thế kỷ 14, các Hãn quốc Mông Cổ dần dần bị Turk hóa, các Hãn có người cải sang đạo Hồi và mâu thuẫn với chính anh em, họ hàng của mình, quyền lực của các Hãn bị thâu tóm bởi các thủ lĩnh bộ lạc, kể cả Thanh Trướng Hãn Quốc. Nói chi tiết thì rất dài dòng, nhưng túm lại là vào khoảng năm 1370 – 1380, ở Thanh Trướng Hãn Quốc có một thanh niên tên là Tokhtamysh (Thoát Thoát Mê Thất), cũng là dòng dõi của Truật Xích, trực hệ Thành Cát Tư Hãn, ông này không phục tùng hãn Urus của Thanh Trướng Hãn Quốc vì thù giết cha, dù Urus đã ba lần dung thứ nhưng Tokhtamysh vẫn chiến tới cùng. Khi bị đánh tới mức chỉ còn cái lai quần thì thanh niên này chạy đến nương tựa Timur, Timur tra gia phả thì thấy là hậu duệ dòng trưởng thì ra sức cưu mang, giúp đỡ.
Năm 1377, Hãn Urus chết già, con trai ông lên nối ngôi cũng chết không lâu sau đó, Timur thấy đây là thời cơ thích hợp bèn giúp cho Tokhtamysh một đội quân lớn, đưa ông này về làm vua Thanh Trướng Hãn Quốc. Năm 1379, Tokhtamysh đánh bại người con thứ hai của Urus, chiếm luôn Sarai, kinh đô trên danh nghĩa của Kim Trướng Hãn Quốc. Sang năm 1380, khi hay tin người Nga đánh bại quân Bạch Trướng trong trận Kulikovo, Tokhtamysh biết rằng thời cơ đã đến, ông tiếp tục xua quân vượt sông Volga thanh toán nốt tàn quân của Bạch Trướng. Tướng Mã Mạch (Mamai) vừa thất bại nặng nề trước người Nga không thể chống lại được Tokhtamysh và phải bỏ chạy đến tận Crimea thì bị giết. Tokhtamysh từ một kẻ lưu vong, chỉ trong 2 năm lại trở thành Đại Hãn chung của hai đầu Kim Trướng Hãn Quốc, sau hơn 50 năm, hai nhánh đông – tây lại quy về một mối. Sang năm 1382, Tokhtamysh đem quân tấn công các công quốc Novgorod, Moscow, Vladimir để trả mối hận ở trận Kulikovo. Các công quốc Nga không thể chống cự đành phải xin hàng và nộp triều cống cho Tokhtamysh giống như trước kia với Bạch Trướng Hãn Quốc. Tokhtamysh một bước lên mây, bỗng dưng có trong tay của cải, địa vị và cả quân đội hùng mạnh, đây cũng là lúc lòng tham và khát vọng chinh phục trỗi dậy, dẫn đến cuộc đối đầu không khoan nhượng với ân nhân cũ của mình: Timur Lang. Nhưng chuyện này để sau hãy nói tiếp.
Đá xuống phía nam, ta tìm hiểu về Y Nhi Hãn Quốc, được thành lập muộn hơn Kim Trướng, Sát Hợp Đài, Y Nhi Hãn Quốc là “phần thưởng” của Hốt Tất Liệt dành cho em kế của minh là Húc Liệt Ngột (Hulagu) vì đã sát cánh cùng ông trong cuộc nội chiến giành ghế Đại Hãn với người em út A Lý Bất Ca (Ariq Boke ) Y Nhi Hãn Quốc bao trùm gần như toàn bộ Tây Á trải dài trên lãnh thổ các nước Pakistan, Afghanistan, Iran, Iraq, Syria và một phần Tân Cương ngày nay.
Dưới thời trị vì của Húc Liệt Ngột, từ Bạch Trướng Hãn Quốc tới Sát Hợp Đài Hãn Quốc đều có vài lần nói chuyện bằng gươm giáo với Y Nhi Hãn Quốc. Biệt Nhi Ca (Berke) của Kim Trướng Hãn Quốc năm xưa từng cùng với Húc Liệt Ngột đi đánh nhà Mamluk ở Ai Cập, nhưng nửa chừng thì được tin Mông Kha qua đời, Húc phải quay về thảo nguyên, giao quân lại cho ái tướng của mình là Khiếp Đích Bất Hoa.
Khiếp Đích Bất Hoa theo Cảnh Giáo (Kito giáo phương đông) trong khi Biệt Nhi Ca theo Hồi Giáo, Biệt Nhi Ca vẫn căm Húc Liệt Ngột vì đã tàn phá thành Baghda, kinh đô của đạo Hồi và giết Khalip al-Musta’sim của nhà Abbasid. Biệt Nhi Ca lệnh cho quân đội của mình rút về châu âu ngay trước trận Ain Jalut, hậu quả là toàn quân Khiếp Đích Bất Hoa bị diệt, và người Mông Cổ sau đó cũng không bao giờ tiến xa hơn vào Ai Cập được nữa.
Chính vì mối thù này mà về sau Húc Liệt Ngột thường xuyên mang quân đánh nhau với Bạch Trướng Hãn Quốc. Sau thời Húc Liệt Ngột, các Y Nhi hãn kế tiếp thường theo Phật giáo Tây Tạng, dù người dân trong nước này phần lớn đều theo Hồi giáo và một số lượng khá lớn đi theo Cảnh giáo – tức Kito giáo phương đông (không phải Chính thống giáo).
Cuối thế kỷ 12, năm 1295, Hợp Tán (Ghazan) cháu nội của A Bát Cáp, chắt của Húc Liệt Ngột, đã lật đổ người cai trị là Bái Đô (Baydu) đã cải sang Hồi giáo và chính quyền của ông đã thiên vị với Hồi giáo và điều này trùng hợp với các nỗ lực nhằm đưa chế độ của họ đến gần hơn với đa số cư dân, những người không phải là dân Mông Cổ. Kitô giáo và Do Thái giáo bị mất vị thế bình đẳng với Hồi giáo và họ phải trả thuế để duy trì đức tin của minh trong khi những người theo Phật giáo phải lựa chọn cải đạo hoặc bị trục xuất. Hợp Tán trở nên đau buồn cực độ sau khi ái phi Karamun qua đời vào năm 1303. Vào tháng 3 cùng năm, ông đã xuống chiếu chọn em ruột là Hoàn Giả Đô (Oljaitu) làm người kế vị vì ông không có con trai nối dõi, Hợp Tán qua đời vào ngày 17 tháng 5 năm 1304, Hoàn Giả Đô lên nối ngôi sau đó, đến năm 1315 thì con Hoàn Giả Đô là Abu Sa’id (Bất Tái Nhân) lên nối ngôi và phải đối mặt với sự xâm chiếm liên tục từ Kim Trướng Hãn Quốc cũng như sự nổi loạn của các tù trưởng người Turk bản địa.
Năm 1335, Hoàn Bặc (Oberk) Hãn của Kim Trướng mang quân xâm lược Y Nhi Hãn Quốc, Abu Sa’id trên đường hành quân ra mặt trận thì bất ngờ lâm bệnh qua đời, người ta cho rằng ông này bị dính bệnh dịch Cái Chết Đen. Abu Sa’id qua đời đột ngột, không để lại người kế thừa, thế nên các gia tộc lớn ở Y Nhi Hãn Quốc lẫn các tù trưởng địa phương nổi lên như ong, đất đai mạnh ai nấy chiếm, xé nát vương quốc hùng mạnh một thời. Một khoảng trống quyền lực nổi lên ở Ba Tư trong suốt 50 năm, nhưng các đế quốc láng giềng là Sát Hợp Đài Hãn Quốc, Kim Trướng Hãn Quốc cũng đang có những vấn đề nội bộ thế nên chẳng ai dòm ngó đến Y Nhi Hãn Quốc.
Đến những năm 1380, Sát Hợp Đài Hãn Quốc có Timurlang và Kim Trướng Hãn Quốc đã có Tokhtamysh, không hẹn mà gặp, cả hai bên đều bắt đầu mang quân cướp phá Y Nhi: Năm 1383, Timur bắt đầu cuộc chinh phục Y Nhi, năm 1385, ông chiếm được Herat , Khorasan và toàn bộ miền đông Ba Tư. Cùng năm Tokhtamysh đánh phá Azerbaijan và tây bắc Iran, năm 1386, Tokhtamysh đánh vào thành phố Tabriz và thu về nhiều chiến lợi phẩm dồi dào. Timur bắt đầu ngứa mắt và lên tiếng “chỉnh” Tokhtamysh hãy biết trước biết sau, Tokhtamysh đáp lại rằng cùng đi ăn cướp cả, ai nhanh thì lấy được nhiều, thế là chiến tranh giữa hai người quen cũ nổ ra, nhìn rộng hơn là cuộc chiến giữa hai Hãn quốc Mông Cổ để giành quyền kiểm soát một Hãn quốc khác.
PHẦN 2: CUỘC CHIẾN VỚI KIM TRƯỚNG HÃN QUỐC

Lịch sử đôi khi có những trùng hợp thật thú vị, năm xưa Thiết Mộc Chân và Trác Mộc Hợp cùng kết nghĩa An Đáp, cùng giúp nhau xây dựng cơ đồ nhưng cuối cùng Trác Mộc Hợp ba lần mang quân đánh Thiết Mộc Chân để giành quyền làm chủ thảo nguyên. Cuối cùng lại chết dưới tay người huynh đệ kết nghĩa của mình, đến 200 năm sau, những hậu duệ của Thành Cát Tư Hãn diễn lại tấn tuồng này. Đây là ba lần chiến tranh giữa Thiếp Mộc Nhi (Timur) và Thoát Thoát Mê Thất (Tokhtamysh).
I. CUỘC TẤN CÔNG CỦA THOÁT THOÁT MÊ THẤT
Sau khi Bất Tái Nhân (Abu Sa’id) mất đột ngột vào năm 1335, Y Nhi Hãn quốc bắt đầu tan rã nhanh chóng, Abu Sa’id chết quá đột ngột trong khi chưa có con trai nối dõi, quan tể tướng của Abu Sa’id đề cử Arba Ke’un (Dã Xưng Vi) lên ngôi, nhưng người này lại không nhiệt tình mấy với Hồi giáo, thế là các quan lại và các tù trưởng người Ba Tư, người Thổ và cả người Mông Cổ đều không chịu phục tùng Hãn mới, nội loạn nổ ra như được mùa, Y Nhi Hãn Quốc trở thành cái mớ hổ lốn. Sáu tiểu quốc được lập ra dựa trên lãnh thổ của Y Nhi Hãn Quốc trước đó là: Chobanids, Injuids, Jalayirids, Kartids, Sardabars và Muzzaffarids.

Năm 1381, Sardabars bị Timur tấn công và đầu hàng cùng năm đó, Timur chiếm được thành phố Khorasan, một đô thị trù phú lúc bấy giờ. Năm 1383, Timur bắt đầu cuộc chinh phục đối với Ba Tư, phần “xương sống” của Y Nhi Hãn Quốc cũ, ông tiến vào Herat, thủ đô của triều đại Kartid. Khi Herat không đầu hàng, ông đã biến thành phố thành đống đổ nát và tàn sát hầu hết các công dân của nó; Herat đã trở thành một bãi tha ma tới tận 30 năm sau. Sau đó Timur tiến về phía tây để đánh chiếm dãy núi Zagros, đi qua Mazandaran. Trong chuyến chinh phục qua phía bắc Ba Tư, ông đã chiếm được thị trấn, thị trấn này đã chủ trương đầu hàng và do đó được đối xử nhân từ.
Ông đã bao vây Soltaniyeh vào năm 1384. Năm 1385, thành Khorasan nổi dậy chống lại Timur, ông đã dẫn quân quay lại và tàn phá thành phố này, những kẻ chủ mưu bị Timur cho treo lên tường thành và thiêu sống tại đó “để cho bất cứ người dân Khorasan nào cũng nhìn thấy được hậu quả”. Đến lúc này Timur đã làm chủ được miền đông Ba Tư.
Cùng năm đó Thoát Thoát Mê Thất – Tokhtamysh đánh phá Azerbaijan, quân Kim Trướng tiến vào cướp phá thành phố Tabriz mang đi một lượng lớn chiến lợi phẩm cũng như nô lệ và chuẩn bị tiến vào tây bắc Ba Tư. Timur bắn tin cho Thoát Thoát Mê Thất đề nghị quân Kim Trướng hãy dừng lại nhưng không có hồi âm, năm 1386 Timur quyết định xua quân vào Azerbaijan, không rõ ông có định tấn công quân Kim Trướng hay không vì mùa đông năm đó quân đội của Timur đã dừng lại và trú đông ở Karabakh thì quân đội Kim Trướng bất ngờ xuất hiện và tấn công trước vào tiền đội của quân Timur. Mặc dù bị đánh bất ngờ nhưng quân đội của Timur vẫn kiên cường chống đỡ chứ không hoảng loạn, tuy nhiên 40 chỉ huy trong đội tiên phong của Timur đã tử trận trước khi con trai Timur là Miran Shah mang quân đến giải vây, Miran truy đuổi quân Kim Trướng chạy ngược trở về biên giới, bắt giữ một số chỉ huy của quân thù và áp giải về gặp Timur. Trái với tính cách thường ngày, Timur cho đối đãi ân cần với các tù nhân này, cho chúng ăn no mặc ấm, còn cho người hộ tống chúng trở về Kim Trướng đàng hoàng
Tuy nhiên như người ta vẫn thường nói: Cây muốn lặng mà gió chẳng ngừng, qua năm sau, năm 1388, Thoát Thoát Mê Thất lại quyết định ra tay lần nữa với Timur: Nhận thấy rằng Timur vẫn đang đóng quân ở Azerbajian, ông quyết định đánh úp từ phía đông, quân Kim Trướng chia hai cánh, một cánh tiến vào Sawran, một cánh tiến vào Bukhara, hai cánh quân này dự định hợp binh tại Samarkand, kinh đô của đế chế Timurid. Tuy nhiên các thành phố của Timurid lại kiên cường hơn so với dự tính của quân Kim Trướng, họ tổ chức phòng ngự chặt chẽ và bài bản, có sự phối hợp giữa các thành phố nên tốc độ tiến quân của Kim Trướng bị chững lại. Mùa xuân năm 1388, Timur thân chinh dẫn đại quân phía tây quay về đến Samarkand, nhận thấy tình hình khó khăn, Thoát Thoát Mê Thất cho quân đội triệt thoái gấp về phía bắc, sang năm 1399, quân Kim Trướng một lần nữa đột kích vào Sawran, cướp phá thành phố này, đáp lại, Timur tiến quân vào Khwarazm lật đổ nhà Sufi đang cai trị vùng này vì đã thông đồng với quân xâm lược. Ba lần bị Kim Trướng Hãn Quốc quấy rối khiến Timur phải xem xét đến một kế hoạch đánh phủ đầu vào Hãn quốc này và phế truất Thoát Thoát Mê Thất để giải trừ các mối họa về sau. Về phần Thoát Thoát Mê Thất, ông này vẫn không từ bỏ kế hoạch xâm chiếm nhà Timurid, ông này liên tục tìm kiếm sự trợ giúp và kết đồng minh với các kẻ thù cũ của Timur như nhà Jalayirid và thậm chí cả nhà Mamluk ở Ai Cập.
II. TRẬN CHIẾN TRÊN SÔNG KONDURCHA
Sau 1 năm chuẩn bị lực lượng, tháng 2 năm 1391, Timur dẫn quân tiến vào Kim Trướng Hãn Quốc từ phía Tashkent, Tokhtamysh cũng tập hợp đại quân nhưng tránh giao chiến trực tiếp, thay vào đó quân đội Kim Trướng liên tục rút lui về hướng bắc, mục tiêu của họ là kéo giãn đội hình của Timur và buộc ông phải đi xa khỏi tuyến hậu cần của ông. Suốt bốn tháng trời, quân Timur truy đuổi quân Kim Trướng Hãn Quốc xa dần về phía tây, Timur cũng dần phát hiện ra rằng Tokhtamysh đang muốn đưa quân Kim Trướng lui về phía tây, băng qua dãy Ural rồi từ đó men theo đường biển để hội quân với các Hãn quốc từ Crimea, Bolghar và cả các công quốc Nga. Timur quyết định cho quân ngoặt lên phía bắc, vượt qua sông Ural và tiếp tục đi lên về phía thượng nguồn, với cách di chuyển này quân đội của Tokhtamysh bị phơi sườn ra trước quân đội của Timur, quân Kim Trướng nếu tiếp tục rút về phía tây sẽ có nguy cơ bị đánh tạt sườn rất cao. Tokhtamysh bắt buộc phải xoay về hướng bắc đối trận với Timur, ngày 18 tháng 6 năm 1391, quân đội hai bên gặp nhau bên bờ sông Kondurcha, quân Kim Trướng Hãn Quốc đánh vào hai cánh tả hữu của quân đội Timurid trước nhưng họ vẫn đứng vững, sau khi cầm chân được hai cánh, trung quân của Timur mới xuất kích, họ đánh thẳng vào trung tâm chỉ huy của quân Kim Trướng. Dù cũng là đội quân thiện chiến nhưng cục diện dần quay sang hướng bất lợi cho Tokhtamysh, ông và các tướng dưới quyền buộc phải bỏ chạy khỏi chiến trường. Quân Timurid tràn lên và tàn sát tàn quân Kim Trướng không thương tiếc, người ta kể rằng Timur đã cho quân đội của minh ăn mừng chiến thắng suốt hơn một tháng bên bờ sông.
Trước khi rút quân về Trung Á, Timur cho lập ra một người cai trị bù nhìn làm Đại Hãn của Kim Trướng Hãn Quốc là Thiếp Mộc Nhi Hốt Cách Lỗ Đặc (Timur Qutluq), để đề phòng, Timur cài cắm thêm một thân tín của minh là Edigu (Giả Địch Cổ) làm nhiếp chính cho Qutluq. Sau một thời gian nằm im chờ thời, Tokhtamysh bắt đầu ngóc đầu dậy sau khi Timur cùng quân đội của ông rút đi, Thiếp Mộc Nhi Hốt Cách Lỗ Đặc và Giả Địch Cổ lúc đó chỉ lo củng cố quyền lực ở phía đông, phía tây hãn quốc Kim Trướng bắt đầu ngả theo phía Tokhtamysh khá nhiều, ông tiếp tục nhận được sự trợ giúp từ nhà Mamluk ở Ai Cập, từ Sultan Bayezid I của Ottoman và vua Gruzia Giorgi VII. Timur đã “nắn gân” Giogri VII bằng một cuộc xâm lược chớp nhoáng vào Gruzia (riêng trong thời gian trị vì của Giogri VII, Timur đã 7 lần phát động chiến tranh với Gruzia), tuy nhiên ông xác định rằng kẻ thù chính vẫn là Tokhtamysh, và cần phải quay lại Kim Trướng hãn Quốc một lần nữa để giải quyết dứt điểm mối lo này.
III. CUỘC VIỄN CHINH THỨ HAI – TRẬN CHIẾN TRÊN SÔNG TEREK
Tháng 3 năm 1395, Timur một lần nữa tiên vào Kim Trướng Hãn Quốc, lần này ông tiến vào từ phía tây, xuất phát từ Derbent, sau khi vượt qua dãy Kavkaz, quân đội của Timur đã chạm trán với đội tiên phong của Tokhtamysh, Timur nhanh chóng đánh bại đội quân này và tiếp tục tiến lên. Ngày 15 tháng 4 năm 1395, đại quân hai bên đối mặt bên bờ sông Terek, con sông này nằm ở cộng hòa Daghestan ngày nay thuộc Nga, giống như trận chiến 4 năm trước và Bên kia chiến tuyến, Thoát Thoát Mê Thất cũng xua quân tiến lên trước, đây là một trận chiến cực kỳ quyết liệt, thậm chí tới bản thân Timur cũng xém nữa bị bắt làm tù binh, tuy nhiên cuối cùng thì quân đội Timur cũng giành chiến thắng sau hai ngày chiến trận giằng co.
Tokhtamysh chạy về phía bắc đến Bolghar và sau đó có lẽ tới Moldavia. Timur chia một phần lực lượng đuổi theo truy kích, bắt kịp tàn quân của Tokhtamysh và dồn chúng vào đồng bằng sông Volga và thực hiện một cuộc tàn sát. Timur Qutluq và Edigu cũng dẫn quân bản bộ tiến vào từ phía đông và giũ sổ bằng sạch những tiểu hãn quốc còn trung thành với Tokhtamysh. Quân của Timur đã theo Tokhtamysh lên tận Yones ở phía bắc, sau đó họ quay lại và chuyển sang tàn phá các thành phố của Kim Trướng Hãn Quốc. Giáo hội Chính thống giáo Nga nói rằng khi đến biên giới của Công quốc Ryazan, Timur đã chiếm Yelets và bắt đầu tiến về phía Moskva. Đại hoàng tử Vasili I của Nga đã mang theo một đội quân đến Kolomna và dừng lại bên bờ sông Oka. Tuy nhiên tình cảnh của người Nga lúc ấy như chỉ mành treo chuông, đội quân của họ quá bé nhỏ trước đạo quân khổng lồ của Timur. Các giáo sĩ đã mang biểu tượng Đức Mẹ Vladimir đến Moskva để ban phước cho các chiến binh trong đoàn quân. Dọc đường người dân xếp hàng quỳ gối cầu nguyện: “Lạy Mẹ Thiên Chúa, xin cứu lấy nước Nga!” Đột nhiên, quân đội của Timur bỏ dở cuộc hành quân và rút lui ngay sau đó. Để tưởng nhớ sự giải cứu kỳ diệu này ngày 26 tháng 8 từ đó về sau được người Nga lấy làm ngày lễ kỷ niệm toàn Nga. Tuy nhiên nguyên nhân thực sự của cuộc lui binh này có lẽ là vì quân đội của Timur đã cướp bóc quá đầy đủ và bắt được nhiều nô lệ đến nỗi không thể mang thêm được nữa. Người ta kể rằng khi Timur khởi hành trở về Derbent năm 1396, nô lệ đi theo đoàn quân này đông như những đàn cừu.

Nếu có điều gì đó ta phải nể phục ở Tokhtamysh thì đó là khả năng sống dai như gián và khả năng … lật mình của ông này, sau thất bại trên sông Terek, Thoát Thoát Mê Thất vẫn còn sống và tiếp tục quay về báo thù. Năm 1399, Thoát Thoát Mê Thất kêu gọi được một mớ đồng minh: Lithuania, Kiev, Polostk, Smolensk, Moldavia, Ba Lan,… cùng nhiều lính đánh thuê gốc Nga, Đức,… Dù vậy, quân số cũng chỉ hơn 3 vạn, trong đó quân Lithuania là chủ yếu. Quân của Thoát Thoát Mê Thất có khoảng 8.000, chủ yếu là người Tatar từ hãn quốc Crimea. Thoát Thoát Mê Thất hứa hẹn cắt nhiều đất đai ở Nga cho các đồng minh nếu giúp ông đoạt lại ngai vàng Kim Trướng.
Sau 5 năm kể từ trận sông Terek, quân đội phía đông Kim Trướng Hãn Quốc do Edigu – Giả Địch Cổ và Thiếp Mộc Nhi Hốt Cách Lỗ Đặc chỉ huy đã trở nên đông đảo và mạnh mẽ, Giả Địch Cổ huy động một đội quân đông gấp 3 lần quân của Thoát Thoát Mê Thất. Tháng 8/1399, quân 2 bên gặp nhau trên bờ sông Vorskla, vùng Đông Bắc Ukraine ngày nay. Lúc đầu quân của Thiếp Mộc Nhi Hốt Cách Lỗ Đặc xuất hiện trước, lúc này quân số của hai bên là ngang nhau, tuy nhiên, cánh quân của Giả Địch Cổ đông gấp đôi vẫn đang ở phía sau và đang trên đường đến chiến trường. Thiếp Mộc Nhi Hốt Cách Lỗ Đặc dùng một cái kế cổ điển: Ông giả vờ khiếp sợ trước sức mạnh của quân Lithuania và xin đàm phán với chỉ huy liên quân là Đại vương công Vytautas để xin hàng nhưng mục đích chỉ là để câu giờ. Thoát Thoát Mê Thất đoán biết có sự gian trá trong đây, ông thúc giục đánh cho nhanh khỏi cần đàm phán gì sất nhưng Vytautas đã trở nên mờ mắt trước những điều kiện mà Thiếp Mộc Nhi Hốt Cách Lỗ Đặc đưa ra, Vytautas đồng ý đợi 3 ngày để quân Kim Trướng … hội ý cho xong.
Tất nhiên là 3 ngày sau quân Giả Địch Cổ đã có dư thời gian để đến chiến trường, ông ém quân trong những cánh rừng bên sông và lúc này người Mông Cổ … lật kèo. Đương nhiên Vytautas quê độ nên thúc quân đánh gấp để trả thù. Khi trận đánh đang vào lúc ác liệt nhất, quân Kim Trướng bất ngờ … rút lui. Quân Lithuania tưởng sắp thắng đến nơi nên xông lên truy đuổi, đến chỗ mai phục thì quân Kim Trướng đổ ra chia cắt đội hình và vây chặt người Lithuania vào giữa. Với quân số đông gấp 3, hậu quả dĩ nhiên là thảm khốc. Gần một nửa quân số Lithuania bị tiêu diệt tại trận, hơn 20 chỉ huy bao gồm các Vương công của các công quốc hy sinh. Đó là các vương công của Kiev, Polotsk, Bryansk, Smolensk, Krakow,… Người duy nhất thoát chết là Đại vương công Vitautas, nhưng cũng bị thương nặng, chỉ còn có nửa cái mạng. Và người duy nhất lành lặn là … Thoát Thoát Mê Thất vì ông quá hiểu cái trò này của người Mông Cổ nên không dại gì mà đuổi theo.
Sau chiến thắng trên sông Vorskla, quân Kim Trướng ruổi ngựa thẳng một mạch đến tận Kiev để trừng phạt người Lithuania. Các vương công ở đây phải chi ra số tiền chuộc khổng lồ (khoảng 3.000 khối bạc hryvnia của Lithuania) thì quân Kim Trướng mới tha cho Kiev và rút quân về. Trận Vorskla được coi là trận đánh quyết định lịch sử Đông Âu từ thế kỷ 15 trở đi. Đại công quốc Lithuania từ đó bị suy yếu, dù chưa đến mức sụp đổ thì cũng không đủ sức gây ảnh hưởng lên khắp các công quốc Nga như trước. Hãn quốc Kim Trướng, thì vốn dĩ ban đầu đã suy yếu kể từ khi bị nhà Timur chi phối, dù thắng trận này nhưng sức mạnh trước kia cũng không còn. Kết quả là lịch sử Đông Âu sau thế kỷ 15 sẽ chứng kiến sự mạnh lên của Ba Lan và Nga, những người lợi dụng sự suy yếu của Lithuania và Mông Cổ để vươn lên giành ảnh hưởng các công quốc.
Bản thân Thoát Thoát Mê Thất thua trận Vorskla nhưng vẫn chạy thoát được, lần này ông chọn chạy về phía đông, sang tới tận Siberia. Về sau, Tokhtamysh cũng dành được sự ủng hộ từ các hãn quốc nhỏ ở đây, đồng ý giúp quân cho ông quay về đánh Giả Địch Cổ tận … 16 lần trong vòng 5 năm. Tất nhiên với thế và lực của Tokhtamysh lúc này thì chỉ như … muỗi đốt inox, không gây được thiệt hại gì to lớn cho Giả Địch Cổ và Hãn Quốc Kim Trướng. Năm 1406, một năm sau khi Timur qua đời, Giả Địch Cổ lúc này bày kế giả chết, cho quân lính phát tang để nhử Tokhtamysh vào bẫy. Khi ông mang quân đến thì một cơn mưa giáo mác, cung tên và đá từ bốn phía trút vào, vị Đại Hãn cuối cùng của Kim Trướng Hãn Quốc thống nhất đã chết như thế. Ta dừng lại cuộc đời của Thoát Thoát Mê Thất ở đây, chắc chắn ông là một kẻ thù khó chịu của Timur dù trên thực tế, từ sau năm 1399 ông đã không còn cơ hội để gặp mặt Timur trên chiến trường thêm lần nào nữa. Sau 2 trận chiến với Tokhtamysh, phía bắc đã tạm yên, một thách thức mới chờ đợi Timur ở phía tây: Sultan Bayezid I nhà Ottoman.
PHẦN 3: TỪ TÂY SANG ĐÔNG

- Lăng mộ Timur ngày nay vẫn còn ở Tashken
I. CUỘC CHINH PHẠT ẤN ĐỘ
Sau khi làm chủ Ba Tư và Trung Á, Timur giờ đây có hai lựa chọn: Chinh phục Ấn Độ hay Trung Hoa tiếp theo? – Ban đầu ông định đánh Trung Hoa nhưng sau đó ông quyết định chọn Ấn Độ, có truyền thuyết kể rằng ông quyết định chọn Ấn Độ sau khi đọc được một đoạn kinh Qu’ran và xem đó như một lời tiên tri. Timur lấy lý do rằng những lãnh chúa Hồi Giáo ở Ấn Độ khi đó đã quá khoan dung với những người theo Hindu giáo – tôn giáo bản địa của người Ấn, mà cụ thể là Sultan Nasiruddin Mahmud của thành Dehli. Năm 1398, Timur xua quân đội tiến vào Ấn Độ từ phía bắc, ngày 30 tháng 9, quân đội Timur vượt sông Indus (sông Ấn) cướp phá thành phố Tulamba bên bờ sông và làm cỏ dân chúng trong thành. Tháng 10, quân Timur chiếm được thành Multan, do phía bắc Ấn Độ phần lớn đã cải theo Hồi Giáo nên khi quân Timur đánh đến nơi người dân đều đầu hàng đếch nghĩ ngợi. Nhưng càng đánh xuống phía nam thì dân chúng càng cứng đầu, chướng ngại lớn nhất mà đội quân của Timur chạm phải là quân đội Rajput có sự hỗ trợ của vương quốc Hồi giáo Bhatner. Rajput không phải là tên một địa phương, cũng không phải là tên một người, mà đó là tên gọi một sắc dân sống rải rác ở Ấn Độ, những người Rajput có truyền thống tôn sùng võ thuật, hầu hết người dân đều là chiến binh và một khi đã lâm trận thì chỉ có chết chứ không có lùi.
Timur buộc phải điều chỉnh chiến lược: Ông đánh thành Bhatner trước nhằm cắt đứt hậu phương của người Rajput, Rao Dul Chand – chỉ huy quân đội Bhatner dự định sẽ chơi một trận khô máu với quân xâm lược nhưng anh trai ông này lại quá khiếp sợ Timur nên âm thầm … sai lính đóng cổng thành giữa lúc ông em đang tử chiến với quân Timur. Kết quả là quân Bhatner bị tàn sát đến người cuối cùng, thành Bhatner sau đó mở cửa ra hàng nhưng cũng bị đồ sát và thiêu rụi. Lính Rajput sau đó không đánh tự tan và đại quân Timur lại tiếp tục tiến xuống phương nam. Trên đường nam hạ, quân đội Timur tiếp tục làm cỏ những chiến binh người Jat, một kiểu người du mục bản địa của Ấn, dù người Jat có truyền thống đánh không lại thì chạy và chạy rất nhanh nhưng Timur cũng đã kịp ra lệnh cho quân đội của ông mượn tạm 2000 thủ cấp của những người này. Tháng 12 năm 1398, quân đội Timur đã tiến đến trước cổng thành Dehli.
Đây là một thử thách thật sự cho quân đội Timur, thành Dehli, một trong những tòa thành giàu có nhất trên thế giới thời bấy giờ, với thành cao hào sâu không dễ gì quy thuận ngay được. Sultan Nasiruddin Mahmud của Dehli còn nhận được sự viện trợ từ Mallu Iqbal, hình thành nên một đạo quân lớn, trong đó chủ lực là hơn 120 con voi chiến được bọc giáp và thậm chí còn bịt sắt trên ngà. Chính đội tượng binh này đã gây ra nhiều thiệt hại đáng kể cho quân đội của Timur trong những ngày đầu giao tranh. Rất nhiều chiến binh Trung Á của Timur chưa bao giờ nhìn thấy voi trước đó nên khi thấy những con thú khổng lồ này xung trận, sức càn lướt và phá hoại kinh người của chúng đã làm những chiến binh dày dạn kinh nghiệm cũng phải chùn bước.
Timur nhận thấy rõ tình huống bất lợi đối với quân đội của ông, thế nên ông ra quyết định điều chỉnh chiến lược: Trước tiên Timur hạ lệnh lui quân, sau đó ông cho đào một con hào rộng và sâu chắn trước đội hình, ông lại hạ lệnh mang tới những con lạc đà, chất lên lưng chúng thật nhiều gỗ và cỏ khô nhất có thể. Sau khi chuẩn bị xong, Timur cho quân tiến lên khiêu chiến, như mọi khi, người Dehli lại thúc đội voi chiến ra trận, quân đội Timur nhanh chóng lùi về, khi đến trước bờ hào, những con voi phải dừng lại vì không thể nhảy qua được. Đúng lúc này, Timur cho đốt cỏ khô và dùng dùi sắt thúc lạc đà, khiến chúng lao vào voi, hú lên vì đau đớn. Timur hiểu rằng voi rất dễ hoảng sợ khi thấy cảnh này. Đối mặt với cảnh tượng kỳ lạ của những con lạc đà lao thẳng về phía mình với ngọn lửa từ lưng, những con voi sợ hãi quay lại và giẫm lên quân của Nasir-ud-Din. Timur tận dụng sự rối loạn của đối phương, thúc quân đánh dấn vào và sau đó giành được một chiến thắng dễ dàng.
Nasir-ud-Din Mahmud Shah Tughluq chạy trốn với tàn quân của mình. Delhi bị chiếm đóng và bỏ lại trong đống đổ nát. Việc chiếm được Vương quốc Hồi giáo Delhi là một trong những chiến thắng vĩ đại nhất của Timur, vì vào thời điểm đó, Delhi là một trong những thành phố giàu có nhất thế giới. Sau khi Delhi thất thủ trước quân đội của Timur, các cuộc nổi dậy của người dân chống lại đế quốc Timurid bắt đầu xảy ra, dẫn đến một cuộc tàn sát đẫm máu nhằm trả đũa ngay trong thành. Sau ba ngày chịu đồ sát, khắp thành Delhi ngập tràn những thi thể đang phân hủy của dân thường với thủ cấp của họ được dựng lên như những ngọn tháp và những thi thể bị lính của Timur treo lên để làm thức ăn cho chim. Cuộc xâm lược và phá hủy Delhi của Timur tiếp tục gây ra sự hỗn loạn cho Ấn Độ, và thành phố này không thể phục hồi nổi trong gần một thế kỷ sau đó.
II. TRẬN CHIẾN VỚI OTTOMAN
Trước khi đem quân “nói chuyện phải quấy” với nhà Ottoman thì năm 1400, Timur cũng đã có một trận chiến với Sultan Ai Cập là Nasir-ad-Din Faraj vì những tranh chấp ảnh hưởng ở vùng biên giới. Cần nói thêm rằng, vào những năm 1400 thì đế chế Timurid có những tranh chấp biên giới với cả nhà Mamluk ở Ai Cập và cả nhà Ottoman ở Tây Bắc. Sang năm 1401, Timur đã xua quân vào cướp phá Aleppo và Damascus, cũng trong năm đó, quân đội của ông đã quay sang hướng tây nam, tấn công vào Baghdad và thực hiện một cuộc đại đồ sát quy mô: Mỗi người lính được lệnh phải giao nộp 2 cái đầu, thế nên lính của Timur chém tất cả những tù binh đã bị bắt từ trước, khi tù binh đã chém hết mà vẫn chưa đủ quota, binh lính đã quay sang chém cả phụ nữ và trẻ em trong thành….
Từ cuối những năm 1390s, quan hệ giữa nhà Timurid và nhà Ottoman đã chẳng mấy tốt đẹp: Bằng những cuộc chinh phạt của minh, biên giới của nhà Timurid ngày càng mở rộng, tiến gần đến lãnh thổ của nhà Ottoman. Lập quốc từ năm 1299, khi thế lực của người Mông Cổ ở Trung Á bắt đầu suy yếu, từ một nhà nước nhỏ bé, nhà Ottoman liên tục bành trướng về phía tây, họ chiếm đất của Đông La Mã Byzantine và xâm chiếm vùng Balkan, đánh bại người Serbia và hùng bá phía đông Địa Trung Hải. Đế chế Ottoman trong vòng 50 năm từ khi thành lập đã trở thành một thế lực đáng lo ngại đối với các nhà nước phong kiến Châu Âu, năm 1396, Cộng hòa Genova kêu gọi một liên minh nhằm chống lại người Thổ và giúp Sa Hoàng Ivan Shishman của Bulgaria lấy lại thủ đô Nikopolis.
Đáp lại lời hiệu triệu trên, giáo hoàng Boniface IX kêu gọi các vua chúa Châu Âu tổ chức một cuộc Thập Tự Chinh để chống lại người Thổ, cuộc thập tự chinh này diễn ra trong hoàn cảnh các vua chúa và thế lực tôn giáo ở Châu Âu đang chia rẽ nghiêm trọng: Anh – Pháp vẫn đang trong thời kỳ chiến tranh trăm năm, ngôi vị giáo hoàng cũng bị phân liệt giữa hai nơi Rome và Avignon, chưa kể vùng Nikopolis lại là đất của Chính Thống Giáo chứ không phải Thiên Chúa Giáo, tổng hợp các yếu tố trên thì xác suất để cuộc thập tự chinh này trở thành hiện thực là rất khó. Thế nhưng vào phút cuối, không hiểu làm thế nào mà các vua chúa phương tây lại hoàn toàn đồng ý với nhau và gửi đến một đạo quân 30.000 người từ 20 quốc gia và tổ chức tôn giáo.
Ngày 28 tháng 9 năm 1396, quân Thập tự tấn công phủ đầu quân Ottoman, suốt ngày hôm đó, trận chiến đã diễn ra vô cùng ác liệt nhưng phòng tuyến của người Thổ vẫn kiên cường đứng vững, cho dù đã có rất nhiều người bị bắt làm tù binh. Sang ngày hôm sau, quân Thập tự lại tiếp tục tấn công mạnh mẽ, quân Ottoman bị đẩy lùi về một ngọn đồi cao, họ không biết rằng đó là cái bẫy đã được Bayezid I giăng ra: Những kỵ sĩ Pháp đã mải lo truy đuổi quân Hồi và theo họ chạy lên đồi, khi vấp phải những cọc tiêu và hàng rào, các kỵ binh đã xuống ngựa và nhổ các cọc tiêu bằng tay để có đường tiếp tục tiến lên. Chỉ huy liên quân đã đề nghị người Pháp hãy dừng lại, chờ cho cánh quân của Hungary tiến lên kịp, có thể trám vào vị trí của họ đã rồi hãy tiếp tục tiến lên, thế nhưng người Phápkhông nghe theo lời khuyên đó.
Hậu quả đến ngay tức thì: Ngay khi đã ì ạch leo lên đến đỉnh đồi, người Pháp không còn thấy đám bại binh mà họ đang truy đuổi đâu nữa, thay vào đó là một đội quân sung mãn và khỏe mạnh đang đứng chờ họ . Tất nhiên là người Pháp chỉ còn nước chạy dài, quân Ottoman đã đánh đúng vào chỗ khuyết trong đội hình mà người Pháp đã để lại và nhà Ottoman đã xoay chuyển cục diện trận chiến chỉ trong một buổi sáng. Trận Nikopolis được xem như cuộc thập tự chinh cuối cùng của Châu Âu trung đại và kết thúc với sự thất bại của liên quân. Về phía Ottoman, thắng lợi vang dội này mang lại uy thế cho Đế quốc Ottoman trong thế giới Hồi giáo, người ta gọi các chiến binh Ottoman là Ghazi – thần binh, bằng đại thắng Nicopolis, Bayezid I không những nắm chắc vùng Balkan mà còn xóa tan mọi hy vọng giải nguy cho Constantinopolis của người Tây Âu.
Chính vì những chiến thắng vang dội như trên, thế nên Bayezid I không xem Timur ra gì, từ cuối những năm 1390s, Bayezid I gây áp lực lên Armenia và Gruzia, hai nước chư hầu của Timur, buộc họ phải thần phục và triều cống cho nhà Ottoman. Tất nhiên, vốn là đệ của Timur thì hai nước này phải cầu cứu đại ca, ban đầu Timur và Bayezid I thư từ qua lại cho nhau, lúc đầu thì còn lấy tình anh em Hồi giáo ra mà khuyên răn, nhưng khi đi quá giới hạn thì hai ông bắt đầu xách mé, chửi xéo nhau, xong rồi thì … chửi thẳng.
Cuối cùng, sau khi đã chiến thắng ở Syria trở về, Timur quyết định mang quân bem luôn nhà Ottoman. Bayezid phải miễn cưỡng rút lực lượng của mình khỏi cuộc phong tỏa Constantinople và hành quân suốt mùa hè về Ankara. Khi đến nơi, toàn quân đã rất mệt và khát, nhưng không có thời gian để nghỉ ngơi hay hồi phục sức khỏe. Các tướng lĩnh của Bayezid khuyên ông nên cố thủ và nếu trong trường hợp lực lượng của Timur đẩy lùi quân Ottoman thì hãy rút vào vùng núi và buộc quân Timur phải chia nhỏ hàng ngũ của họ và đợi qua mùa hè rồi mới phản công. Tuy nhiên, Bayezid lại chọn một thế trận tấn công trực diện và hành quân về phía đông. Ngày 20 tháng 7 năm 1402 tại cánh đồng Çubuk (gần Ankara ngày nay) quân đội hai bên đã đối trận, đây sẽ là trận đánh ảnh hưởng to lớn đến lịch sử nhà Ottoman cũng như lịch sử Châu Âu sau này. Phía quân đội Timurid, Timur chỉ huy khu trung tâm, các con trai của ông là Miran và Rukh ở bên phải và bên trái, và các cháu trai của ông là đội tiên phong. Trong quân đội Ottoman, Bayezid chỉ huy khu trung tâm với nòng cốt là các Janissaries – đội cấm vệ, con trai ông là Suleyman đảm trách cánh trái với những đội quân tốt nhất, Stefan Lazarević ở cánh phải, chỉ huy quân đánh thuê Serbia, và một người con trai khác của Bayezid là Mehmed chỉ huy hậu đội.
Timur bước vào trận chiến với lợi thế lớn hơn về quân số, người ta tính toán rằng Timur có từ 140.000 đến 200.000 lính, trong khi đó quân của Ottoman là 65.000, có thêm 20.000 quân Serbia đánh thuê. Khi trận chiến bắt đầu, quân Ottoman đã xông lên đánh trước, nhưng họ nhanh chóng được nếm đặc sản của đội quân Mông Cổ bên phía Timurid: Đội cung kỵ đã chào đón những kẻ tấn công bằng một trận mưa tên dày đặc, ước tính hơn vài ngàn người đã thiệt mạng chỉ sau mấy loạt tên đầu. Không nản chí, phía Ottoman tung đội kỵ binh Serbia vào chiến trường. Những kỵ binh Serbia mang trên người tấm áo giáp đen dày, tỏ ra rất hiệu quả để chống lại các mũi tên từ quân Timurid. Người Serbia đã chiến đấu rất dũng mãnh, chính Timur còn phải khen họ là “chiến đấu như những con sư tử trên chiến trường”, liên tiếp trong ba ngày, Stefan Lazarević và các hiệp sĩ của ông đã chiến đấu thành công, chặn được các cuộc tấn công của Timurid đến ba lần. Thậm chí họ còn cứu được một người con của Bayezid và ngân khố của toàn quân Ottoman khi suýt bị mất về tay quân Timurid
Đến ngày thứ tư thì tình hình trở nên nghiêm trọng hơn đối với quân Ottoman: Nguồn cung cấp nước chính cho chiến trường là con lạch Çubuk khi đó đã bị quân Timur chiếm mất, khi quân đội Ottoman không còn nước dự trữ, kết cục trận chiến đã ngã ngũ. Trận chiến cuối cùng diễn ra tại đồi Catal quân đội Ottoman vừa khát vừa mệt đã bị đánh bại, mặc dù Bayezid đã chạy thoát được đến những ngọn núi gần đó với vài trăm kỵ binh.
Tuy nhiên, Timur với quân số vượt trội sau đó đã nhanh chóng tìm ra và bắt được ông. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử, một Sultan Thổ bị bắt làm tù binh, có một thời gian dài, người ta kể rằng Timur đã bắt giam Bayezid I và xích lại trong lồng, trong khi vương hậu của Bayezid phải làm một con hầu trong cung điện của Timur, phải nude 100%, như một cách hạ nhục đối thủ của minh. Thậm chí chủ đề Bayezid bị giam cầm còn trở thành một chủ đề hot trong thơ ca nghệ thuật Châu Âu thời trung đại.
Tuy nhiên, theo sử sách chính thống thì Bayezid không hề bị đối xử tàn nhẫn như vậy, dù sao cũng là vua một nước, chỉ 3 tháng sau khi bị giam cầm, Bayezid I đã qua đời trong cung điện của Timur ở Smakand, có người bảo rằng ông đập đầu vào song sắt nhà giam, có người bảo ông uống thuốc độc được giấu trong chiếc nhẫn nhưng nguyen nhân hợp lý nhất có lẽ là do không hợp thủy thổ, thế thôi.
Trận Ankara có hiệu quả tức thời đối với nền chính trị Balkan, khi đó Đế quốc Ottoman đang nắm quyền chủ động nhưng do cuộc xâm lược của Timurid, cuộc vây hãm Constantinopolis bị chấm dứt và quân Ottoman rút khỏi Balkan. Các con trai của Beyazid vẫn còn sống và tự do sau khi chính ông ta bị bắt, điều này dẫn đến cuộc nội chiến giữa bốn người con trai của Bayezid làm cho đế chế Ottoman tạm thời suy yếu, nhờ đó sự sụp đổ của Đế quốc Byzantine Đông La Mã và cuộc xâm lược Balkan bị chậm lại một thời gian. Chiến thắng trong trận Ankara đã biến Timur trở thành “bạn tốt” của các nước phong kiến Châu Âu: Ngay khi chiến sự đang diễn ra, người Genova đã treo cờ của Mông Cổ trên các bức tường thành Galata để ủng hộ Timur. Bên cạnh Timur lúc đó có hai sứ giả của Vương quốc León và Castile là Pelayo de Sotomayor và Fernando de Palazuelos.
Sau đó, Timur đã gửi đến triều đình một sứ giả đến từ Sát Hợp Đài tên là Hajji Muhammad al-Qazi cùng với thư và quà. Đổi lại, Henry III của Castile đã gửi một sứ giả nổi tiếng đến triều đình của Timur ở Samarkand vào năm 1403, là Ruy González de Clavijo cùng với hai sứ giả khác, Alfonso Paez và Gomez de Salazar. Khi đoàn sứ giả trở về, Timur khẳng định trong thư rằng ông coi vua của Castile “như con ruột của mình”.
III. CUỘC CHIẾN DANG DỞ VÀ CÁI CHẾT
Năm 1368, Chu Nguyên Chương chính thức lên ngôi Hoàng đế ở Nam Kinh, đổi quốc hiệu là Đại Minh rồi sai tướng là Từ Đạt kéo 25 vạn quân Bắc tiến tấn công vào kinh đô nhà Nguyên là Đại Đô – Bắc Kinh ngày nay. Nguyên Huệ Tông – Ô Cáp Cát Đồ hãn trở thành vị quân chủ cuối cùng của triều Nguyên ở Trung Quốc, Nguyên Huệ Tông là dòng chính thống của Thành Cát Tư Hãn, là Hãn của các Hãn đối với những quốc gia bị người Mông Cổ chiếm đóng, lúc bấy giờ tuy thế lực của người Mông Cổ đã suy nhưng ở Trung Á, ngoại Mông Cổ và mạn Siberia vẫn còn những Hãn quốc mạnh làm chỗ dựa cho Huệ Tông
Năm 1370, Nguyên Huệ Tông ốm nặng rồi qua đời, nhà Minh chính thức tiếp quản Trung Hoa. Năm 1394, Hồng Vũ Đế – Chu Nguyên Chương sai sứ thần mang thư bố cáo đến trao cho Timur, đại ý rằng nhà Minh đã tiếp quản triều Nguyên, thế nên Timur có thể được xem như là … một thần dân của Đại Minh và có nghĩa vụ phục tùng triều đình. Timur nổi giận lôi đình ra lệnh bắt giam ba sứ thần Phó An, Quách Kính và Lưu Uy. Cả sứ thần tiếp theo mà Hồng Vũ Đế phái tới là Trần Đức Văn và sau này phái đoàn thông báo Vĩnh Lạc Đế (Minh Thành Tổ – Chu Lệ) đăng quang cũng đều được nhập kho nốt.
Khi Chu Nguyên Chương lập ra nhà Minh, Timur còn nhiều việc phải lo như đánh nhau với Thoát Thoát Mê Thất, chinh phục Ấn Độ, v.v… nên đến tận khi Vĩnh Lạc đế lên ngôi, năm 1402 thì ông mới có thì giờ để “nghiêm túc” nói chuyện với Cathay – tức Trung Hoa theo tên gọi thời Trung Cổ. Vốn tự nhận mình là hậu duệ của Thành Cát Tư Hãn nên việc nhà Minh đuổi người Mông Cổ ra khỏi Trung Nguyên đã là một chuyện mà Timur “không thể chấp nhận được”, cho nên mặc cho nhà Minh có gửi đến bao nhiêu sứ giả đi nữa cũng không thể thay đồi được thái độ của ông này.
Chiến tranh là điều không thể tránh khỏi, Timur lên kế hoạch xâm lược Trung Quốc từ năm 1402, ông liên minh với các bộ lạc Mông Cổ còn sót lại ở bình nguyên Mông Cổ và chuẩn bị một đội quân để đến Bukhara. Đại hãn Bắc Nguyên khi ấy là Khắc Đồ Hãn đã gửi cháu trai của mình là Bản Nhã Thất Lý (hay còn gọi là “Buyanshir Khan” sau khi ông đổi sang đạo Hồi lúc sinh sống ở Samarkand) đến gặp sứ giả của Timur để bàn kế hoạch tác chiến.
Tháng 12 năm 1404, sau một thời gian lên kế hoạch, Timur quyết định thực hiện chiến dịch quân sự tấn công nhà Minh vào mùa đông năm đó. Ông huy động một đội quân 200.000 người băng qua tuyết sâu và những con sông đóng băng để tới Trung Quốc, nhưng cuối cùng thời tiết quá xấu buộc đoàn quân phải dừng lại ở Kazakhstan. Đó là một mùa đông được mô tả là “khắc nghiệt nhất trong lịch sử”, quân linh của Timur đã phải đào sâu mấy chục thước vào lòng đất để tìm nước. Đầu năm 1405, Timur bị cảm lạnh trong khi đang ẩn náu ở một khu vực xa hơn của Syr Daria và qua đời tại Farab vào ngày 18 tháng 2 năm 1405, khi đó quân đội của ông vẫn chưa đến được biên giới Trung Quốc.
Cuộc viễn chinh tới Trung Quốc của ông đã bị hủy bỏ ngay lập tức, và thi hài của ông đã được đưa về Samarkand, được mai táng dưới vòm mộ Gur-e Amir trong một chiếc quan tài bằng thép dưới một tấm ngọc bích dài 6 feet. Nhà địa lý học Clements Markham, trong phần giới thiệu câu chuyện về chuyến thăm Samarkand của sứ giả Tây Ban Nha Clavijo, nói rằng, sau khi Timur qua đời, thi thể của ông “được ướp với xạ hương và nước hoa hồng, bọc trong vải lanh, đặt trong quan tài bằng gỗ mun và gửi đến Samarkand, nơi nó được chôn cất.”. Lăng mộ của ông, Gur-e Amir, vẫn còn ở Samarkand, mặc dù nó đã được trùng tu rất nhiều trong những năm gần đây. Trên bia lăng có ghi: “Đây là nơi nghỉ ngơi của một vị vua hùng mạnh và vĩ đại, vị vua vĩ đại nhất, chiến binh hùng mạnh nhất, Chúa Timur, Đấng Chiến thắng của Thế giới”.
Sau khi Timur qua đời, một cuộc nội loạn tranh giành quyền kế vị đã nổ ra giữa những người con của ông, Timur trước đây đã hai lần bổ nhiệm người thừa kế: Người đầu tiên, con trai trưởng của ông là Jahangir, chết vì bệnh vào năm 1376. Người kế vị thứ hai, cháu trai của ông là Muhammad Sultan, đã không thể qua khỏi với vết thương khi chiến đấu vào năm 1403. Sau cái chết của cháu trai, Timur đã không còn đề cập đến người kế vị nữa, chỉ khi đang nằm trên giường bệnh và cận kề cái chết, ông mới chỉ định em trai của Muhammad, người cháu thứ hai – Pir Muhammad làm người kế vị. Tuy nhiên Pir Muhammad đã không nhận được sự ủng hộ đầy đủ từ những người thân của minh, nhất là từ những ông chú tức là những người con khác của Timur. Ngoài người con đã chết sớm đã kể ở trên, Timur còn 3 người con trai khác, cũng là những chiến binh dũng mãnh, từng lập nhiều công trạng trên chiến trường.
Người con thứ 2 của Timur là Umar Shaikh, cũng là một tướng lĩnh từng theo cha chinh chiến từ sớm, Năm 1393, Timur đánh bại triều đại Muzaffarid của Ba Tư với việc bắt và xử tử vị quốc vương cuối cùng của nhà này, Shah Mansur. Timur sau đó ban tặng lãnh thổ Fars trước đây của vương quốc cho Umar Shaikh. Tuy nhiên, Umar Shaikh không giữ được vị trí này lâu. Năm 1394, trong khi dẫn quân đánh Baghdad, Umar Shaikh bị bắn vào cổ bởi một mũi tên bắn từ pháo đài Tuz Khurmatu và chết ngay trận tiền. Timur được cho là không biểu lộ bất kỳ cảm xúc nào khi biết tin con trai thứ của mình qua đời.
Người con thứ 3, Miran Shah là người đi theo Timur chinh chiến sớm nhất, từ năm 14 tuổi và đã lập được nhiều chiến công nhất. Chính Miran là người góp phần quan trọng trong những cuộc chiến chống lại Thoát Thoát Mê Thất vào những năm 1380s, Timur đã trao cho Miran những vùng đất giàu có, trù phú nhất của Y Nhi Hãn Quốc cũ như Baghdad , Tabriz và Soltaniyeh. Tuy nhiên năm 1392, Miran bị ngã ngựa trong một lần đi săn, tuy không chết nhưng có vẻ nó đã ảnh hưởng đến đầu óc ông này: Miran bắt đầu chè chén và tiêu xài hoang phí, người ta kể lại rằng trong cung điện của Miran Shah, rượu chảy tràn như suối, cả cung điện thường xuyên bị biến thành … sòng bài và mỗi khi thắng được tiền, Miran thường đứng trên lầu cao ném tiền xuống cho đám đông những người dân đang trầm trồ dưới đường. Chưa dừng lại ở đó, mỗi khi lên cơn điên, Miran Shah lại cho đập phá hay đốt một công trình kiến trúc nào đó, để cho mọi người phải nhớ rằng “dù không xây nên cái gì cả nhưng ta đã phá nát các công trình nổi tiếng đó”.
Thành tích trên chiến trường của Miran Shah cũng ngày càng tụt dốc, ông này bị đánh bại bởi quân đội Jalayirid và quân Georgia vào năm 1395 nhưng không bị Timur trách phạt. Tiếng xấu ngày càng đồn xa, cho tợi tận khi chính thất của Miran Shah phải bỏ chạy khỏi cung điện, bà này chạy một mạch đến chỗ bố chồng, với quần áo xốc xếch và mái đầu bị đổ phẩm màu loang lổ, bà này khóc lóc, tố cáo Miran đã hóa điên và có nhiều hành động phản nghịch: Tuyên bố càn rỡ sẽ sớm thay chỗ Timur khi ông chầu trời và tiến hành xây dựng quân đội riêng.
Năm 1399, Timur cử một đoàn thanh tra đến xác minh lời đồn, Miran Shah không hề chống cự, thay vào đó, ông tự trói mình và đến chỗ Timur để cầu xin sự tha thứ. Các quan đại thần cũng nói đỡ cho Miran, ông không bị khép tội chết nhưng bị quản thúc trong cung điện trong bốn năm sau đó, những người thân tín của Miran thì bị đày đi biệt xứ và khép tội tử hình vì đã làm hoàng tử sa đọa. Với lý lịch “bất hảo” như thế, tất nhiên Miran Shah không thể đứng vào hàng ngũ những người thừa kế được, nhưng các con của Miran vẫn giữ được bổng lộc và không bị mất quyền chỉ huy quân đội của họ. Sau khi Timur qua đời thì Miran và con trai của ông Abu Bakr tiến quân về phía tây để ngăn chặn sự nổi dậy của các tàn dư thế lực cũ trong vùng. Năm 1408, hai cha con Miran và Abu bị đánh bại trong trận Sardrud, Abu may mắn chạy kịp nhưng Miran thì không. Người Thổ Nhĩ Kỳ sau đó đã gửi đầu và thi thể của Miran Shah, cùng với lời chia buồn, tới Shah Rukh, người đã chiến thắng trong cuộc chiến tranh kế vị. Miran Shah được chôn cất cùng với cha mình tại lăng mộ Gur-e-Amir ở Samarkand.
Con út còn sống của Timur là Shah Rulkh (Sa Cáp Lỗ) – nghĩa là “nhập thành” – một nước đi trong cờ vua, người ta kể lại rằng khi Rulkh ra đời, Timur đang đánh cờ vua với cận thần, người hầu đã hỏi ông muốn đặt tên gì cho con trai mới sinh, Timur vẫn không ngẩng lên, tay vẫn không rời quân cờ và bảo “nhập thành”, thế là thành tên gọi cho con.
Năm 1397, Shah Rulkh được cha bổ nhiệm làm thống đốc Khorasan , với thủ phủ là Herat . Mặc dù đây là một khu vực quan trọng, nhưng Shah Rulkh không bao giờ được thăng chức vượt quá vị trí này trong suốt cuộc đời của cha mình. Ngoài ra, có những ý kiến cho rằng Timur tin rằng Shah Rulkh không có những phẩm chất cá nhân cần thiết để cầm quyền; mặc dù Hoàng tử vào thời điểm này đã nổi tiếng về sự khiêm tốn quá mức cũng như lòng sùng đạo cá nhân.
Khi Timur chết, Pir Muhammad được chỉ định làm người kế vị nhưng Khalil – con trai trưởng của Miran Shah đã tự xưng là hoàng đế tại Tashkent và chiếm giữ ngân khố hoàng gia, cũng như kinh đô Samarkand của đế chế Timurid . Shah Rulkh đã hành quân ra khỏi Herat và đến đóng quân bên bờ sông Oxus nhưng không có động thái tấn công nào. Có thể là do Miran Shah, cha của Khalil, cùng với Abu Bakr đã nói ở trên cũng có trong tay những đội quân lớn có thể tham chiến bất cứ lúc nào. Tuy nhiên, cả hai người này đều không thể gia nhập với Khalil, do người Jalayirids và Qara Qoyunlu cũng lợi dụng cái chết của Timur đã nổi dậy ở phía tây.
Miran Shah bị giết năm 1408 trong khi Abu Bakr cũng tử trận vào năm sau. Từ năm 1409 trở đi, tình hình chiến sự đảo chiều, xoay sang hướng có lợi cho Shah Rukh, trong thời gian này, Khalil Sultan bắt đầu mất đi sự ủng hộ của các tiểu vương của mình ở Samarkand. Sau một nạn đói càng làm lan rộng sự bất bình trong dân chúng, Khalil Sultan cuối cùng đã bị bắt giữ bởi Khudaidad Hussain, thủ lĩnh của bộ tộc Dughlat và là người từng là cố vấn của hoàng tử. Hussain đưa Khalil Sultan đến Ferghana và để ông tuyên bố là người cai trị ở Andijan .
Samarqand, đã bị bỏ rơi, đã được Shah Rulkh tiếp nhận. Sau cái chết của Khalil Sultan, Sultan Husayn và Pir Muhammad, Shah Rulkh không còn đối thủ, nghiễm nhiên ông trở thành người cai trị mới với đế chế Timurid, dù đế chế này bấy giờ đã bắt đầu bị cắt vụn bởi sự nổi dậy của các thủ lĩnh địa phương, và Shah Rulkh sẽ không bao giờ tái lập được vương quốc rộng lớn như cha mình trước kia. Khi Shah Rulkh qua đời vào năm 1447, các con của ông này lại tiếp tục lao vào đánh lẫn nhau để tranh thừa kế, cứ thế các hậu duệ ở của Timur đánh lẫn nhau trong suốt 50 năm.
Cho đến năm 1501 cháu sáu đời của Timur là Babur sau khi để mất Sarmarkand lần thứ ba đã quyết định tiến vào Ấn Độ, lập ra nhà Mogul (cách nói trại của Mongol – nghĩa là Mông Cổ), triều đại này đã thống nhất và trị vì miền bắc Ấn Độ từ đầu thế kỷ 16 đến tận năm 1857 khi người Anh xâm lược.