Nguyễn Văn Lục
Sự phân chia ba vai trò như thế giúp cho việc tìm hiểu, đánh giá ông trong mỗi thời kỳ thêm minh bạch và rõ ràng hơn. Thật ra thời kỳ ông làm Cố vấn tối cao cho chính phủ Hồ Chí Minh rất ngắn, 1945 đến 1946. Nó chỉ có tính cách tượng trưng cho tính thống nhất của Hồ Chí Minh. Tháng ba năm 1946, ông đã rời Việt Nam. Nhưng chính giai đoạn ngắn ngủi này lại rất lý thú, một trò lợi dụng, lừa đảo giữa đôi bên, giúp thấy rõ thêm bản lãnh của Bảo Đại so với Hồ Chí Minh.
Nhưng rất nhiều tác giả chỉ coi Bảo Đại (1913-1997) lúc nào cũng là vua và vì thế cách viết, cách ứng xử của họ, do nể trọng có nhiều thiên lệch và định kiến. Một trong những khuyết điểm lớn nhất của những tác giả nêu trên định kiến, muốn bảo vệ cái hào quang quá khứ của triều đình nhà Nguyễn qua nhân vật Bảo Đại. Nhưng đó là một nhận định sai lầm, thiếu dữ kiện lịch sử hay cố tình bôi bác lịch sử cho những tham vọng thấp kém và đầy ảo tưởng.
Chế độ vua quan triều Nguyễn đã cáo chung và Bảo Đại là vị vua cuối cùng triều Nguyễn đã không mang lại một chút hy vọng và tin tưởng nào cho dân chúng. Chỉ cần đảo mắt nhìn chung quanh các láng giềng của Việt Nam như Nhật, Thái Lan cho thấy đất nước cần những người lãnh đạo sáng suốt, vì dân như thế nào.
Khi viết về vua Bảo Đại, tôi căn cứ trên cuốn Hồi Ký đã nêu trên. Dĩ nhiên người ta cũng thừa hiểu rằng Hồi ký này không phải chính tay Bảo Đại viết. Ông đã nhờ một sĩ quan Pháp viết dùm. Cái khó chịu là trong Hồi ký lúc tác giả xưng hô ở ngôi thứ nhất, “Je”, nhưng ngay sau đó xưng ở ngôi thứ ba, “il”. Sự lẫn lộn như thế về mặt hình thức làm giảm giá trị cuốn sách đối với người đọc.
Nhưng thể Hồi Ký tự nó khó bảo đảm được sự thật. Trong các sách hồi ký của người Việt Nam cùng lắm có vài cuốn được coi là trung thực là cuốn Một cơn gió bụi của cụ Trần Trọng Kim và cuốn hồi ký của cụ Nguyễn Xuân Chữ (1898-1967).
Rồi từ đó, tôi nhận định xem điều gì ông không nói, không viết, điều gì ông che dấu sự thật nhờ vào sự so sánh với các tài liệu khác.
Cảm tưởng chung của người viết khi đọc cuốn Hồi ký của Bảo Đại là, thứ nhất ông thật ít nói đến đời tư, hầu như câm lặng. Hoặc chỉ nói nửa vời. Đời tư của ông vốn phức tạp, chiếm lĩnh hầu như cả cuộc đời ông như bao nhiêu vợ bao nhiêu mối tinh lăng nhang, tiền bạc, nhà cửa dinh thự nhiều vô số kể. Tất cả hoàn toàn không được nói tới. Sự không nói tới này tạm hiểu được.
Sự ít nói đó nếu chịu khó giải mã nhiều cách. Có thể như một quán tính, cái môi trường ông sinh ra, nơi ông đã sống 9 năm thuở nhỏ. Đó là cái môi trường trong nội cung đầy thù nghịch với trên dưới 10 ngàn người. Nhưng người có chức, có quyền phẩm chật khác nhau tranh dành nhau một mẩu quyền hành, bị thất sủng hay được ân sủng, bị truất phế hay bỗng chốc lên ngôi. 142 người con của Minh Mạng tranh chấp nhau cũng đủ nát triều đình cộng với 51 người con của Gia Long. Và chỉ có một chỗ ngồi cao trọng mà thôi.
Đó là bi kịch triều đình phong kiến, xã hội đa thê, bi kịch Nhà Nguyễn. Trị trong nhà không xong, nói chi đến trị nước. Ngoài chuyện ăn ngủ đã chiếm hết thời gian của họ, thời giờ còn lại là những toan tính, những âm mưu từ nhiều phía mà trước hết là phải biết sống còn.
Nghệ thuật biết sống còn là thứ cha truyền con nối trong chốn cung đình và lây lan ra bên ngoài như một thứ văn hóa dân gian vùng đất nghèo khó ngoài cung điện.
Phần còn lại là do giáo dục trong cung đình mà chính ông Bảo Đại được dạy dỗ. Trong cung đình có đủ hạng người, đủ mọi hệ phái, hệ phả từ các đời vua trước để lại nên có thể kèn cựa nhau, rình mò sơ hở của nhau để ám hại nhau.
Cho nên cách giữ mình tốt nhất là im lặng như không nhìn, không thấy để tránh tai họa đổ xuống khi lỡ miệng rồi bị dèm pha, tố cáo. Chính Bảo Đại viết như sau:
“Cette éducation de prince aboutissait à un véritable conditionnellemnt. ‘Un lavage de coeur’ qui devait écarter toute passion chez le futur empereur. Plus encore, le prince ne doit même pas avoir à maitriser ses sentiments, il les re foule. La sagesse dit: ‘Gardez votre bouche comme une jarre et vos pensées comme une forteresse.’”
(S.M. Bao Daï, S.M. Bao Daï Le Dragon D’Annam, Plon, 1980, trang 19)
(“Việc giáo dục một hoàng tử khởi đầu bằng một hình thức điều kiện hóa thực sự. “một thứ tẩy trái tim” bằng cách phải loại trừ mọi thứ dục vọng nơi nhà vua tương lai. Hơn thế nữa, hoàng tử còn cần phải chế ngự được các tình cảm của mình, phải biết dập tắt chúng. Đạo lý dạy rằng: ‘Thủ khẩu như bình. Phải che đậy các ý nghĩ của mình không để lộ ra ngoài,.’”)
Chính Bảo Đại thú nhận ông không bao giờ khóc hay bộc lộ sự buồn phiền. Ông đã đạt tới sự vô cảm, sự lạnh nhạt ở bề ngoài.
Chính nhờ sự biết kín đáo giữ mình này như một thái độ chính trị khôn ngoan, ông tránh được nhiều lần có thể đe dọa đến tính mạng của ông. Hay ít lắm, ông bớt được kẻ thù. Và cũng không thiếu người lầm tưởng sự im lặng, một thái độ chính trị của ông, và xếp ông là người hiền lành. Có thể nói, thái độ im lặng của Bảo Đại là một bản lĩnh chính trị cao hơn nhiều người khi phải đối đầu với người Pháp và nhất là với Hồ Chí Minh.
Ông hơn người ở chỗ ấy. Và sau đây là bằng chứng cụ thể.

Vẻ tráng lệ cổ kính của truyền thống Annam: các bà thái hậu tiếp bộ trưởng bộ thuộc địa tại hoàng cung Huế (1931). Ở trong cùng là chiếc ngai vàng bỏ trống của hoàng đế An Nam [Bảo Đại] người đang du học tại Paris; phía sau ngai vàng là chân dung của vị vua trẻ; bên trái là ông bà bộ trưởng Paul Reynaud; phía sau ông bộ trưởng là các công chúa An Nam; bên phải là ông bà Pasquier, Toàn quyền Đông Dương.
Source: The ILlustration Newspaper of 1931, a weekly newspaper published in Paris, founded by Edouard Charton. The first issue was published on March 4Th 1843.
Khi ra Hà Nội làm Cố vấn tối cao cho chính phủ Hồ Chí Minh, cái thế chính trị của ông là quá bấp bênh; ông có thể bị Hồ Chí Minh thủ tiêu, ám hại dễ dàng bất cứ lúc nào. Chức cố vấn tối cao cho lúc nào thì mất lúc nào cũng dễ như thế. Ông thừa thông minh để hiểu điều ấy.
Kẻ thù trong cung, nếu có, chẳng nghĩa lý gì. Kẻ thù người Pháp, họ chỉ mong muốn có bạn, Bảo Đại có đủ tư cách để đối phó theo nghĩa là người bạn của nước bảo hộ. Ông có đủ tất cả mọi thứ trên đời này mà ông mong muốn, trừ chữ Độc Lập.
Nhưng đối với Việt Minh, ông chỉ có thể chọn lựa chữ sống hoặc chết. Ông đã chọn bằng mọi giá phải sống.
Ông và Hồ Chí Minh lần đầu gặp nhau đã khoác tay nhau đi dạo như những người bạn thân từ lâu ngày gặp lại nhau.
Trong các buổi họp hàng tuần thường kéo dài từ 9 giờ đến 13 giờ trưa, ông chỉ ngồi quan sát người khác mà không hề phát biểu. Thật không dễ để ngồi im lặng. Chỉ một lần khi Phạm Văn Đồng phát biểu là trong quỹ nhà nước chỉ còn có ba đồng 25 xu. Và để có tiền, đề nghị phải đánh thuế gián thu trên các sản phẩm tiêu thụ như như gà, vịt và trâu. Bảo Đại đã buột miệng nói: “Vous oubliez le chien.” Các ông đã quên còn con chó. Hồ Chí Minh cười.
(S.M. Bao Daï, ibid., trang 136).
Công dân Vĩnh Thuy (bên phải), cựu hoàng Bảo Đại, sau khi thoái vị, sẽ là Cố vấn Tối cao của chính phủ Hồ Chí Minh (tháng 8 năm 1945). Nguồn: Henri Estirac – Tháng 11 năm 1945
Và để kết thúc chương làm cố vấn trong thời kỳ này. Ông đã tự hào về sự khôn ngoan của mình như một kẻ từng trải. Nhưng đồng thời những điều tiết lộ của ông cho thấy trong 15 năm ở ngôi vua, ông đã chứng kiến biết bao điều trong nội bộ cung cấm của triều đình Huế. Ông viết:
“Bien qu’ayant le même âge que la plupart d’entre eux, mon expérience en ce domaine est beaucoup plus grande. Quinze années, passées à la tête de l’état, m’ont permis de connaitre tant d’intrigues, d’ambitions, de manoeuvres sordides, que j’ai acquis des hommes une profonde connaissance qui me laisse peu de doutes sur les véritables motivations de leurs actes.”
(S.M. Bao Daï, ibid., trang 137)
(“Mặc dầu cùng một cỡ tuổi với phần đông những người trong bọn họ, nhưng kinh nghiệm về lãnh vực này của tôi thì hơn họ nhiều. 15 năm trong vai trò đứng đầu quốc gia đã cho phép tôi biết các thủ đoạn, những tham vọng, những mánh khóe bẩn thỉu mà tôi hiểu rõ con người nhờ đó giúp tôi hiểu những động lực sâu xa nơi những hành vi của họ.”)
Thứ hai, ông có một bản năng sinh tồn, một sự ích kỷ đến độ thản nhiên, vô cảm, trước mọi hoàn cảnh, mọi biến cố ngay cả đối với người ruột thịt. Ông chỉ biết có ông và chỉ ông mà thôi. Đừng tìm nơi ông bất cứ một sự thương xót, một chia xẻ, một tình cảm dù nhỏ nhặt nào. Trong cả cuốn hồi ký, không có chỗ nào, ông nhắc nhớ một lần đến con cái ông.
Ra ngoài Bắc trong lúc có nạn đói, đất nước rối beng, ông như được sổ lồng vẫn thản nhiên tìm thú vui chơi hưởng thụ. Khi quân Tầu sang Việt Nam giải giới quân Nhật, nhiều chính trị gia thuộc các đảng phái quốc gia như VNQD và Đồng Minh Hội, tất cả trông cậy vào ông. Họ đến gặp ông để yêu cầu ông đứng ra lãnh đạo Quốc Gia. Ông viết như sau:
“A toutes ces propositions, j’oppose une totale indifférence.”
(S.M. Bao Daï ibid., trang 138)
(“Trước những yêu cầu của họ, tôi phản đối một sự dửng dưng toàn diện.” )
Tuyên bố như vậy nhưng ông không làm gì cả. Và cũng không lạ gì sau này, đi bất cứ đâu, ở bất cứ hoàn cảnh nào, ông cũng tìm thú vui chơi mà gái là hàng đầu. Trong chuyến đi sang Trùng Khánh có Hà Phú Hương, một cán bộ cộng sản đi cùng để yêu cầu Tưởng Giới Thạch giúp vũ khí chống Pháp. Lúc quyết định trở về, một cách bất ngờ, cựu hoàng thông báo thẳng thừng:
“Quand vient l’heure du retour, l’ex-empereur annonce tout de go à ses compagnons qu’il ne reprendra pas le chemin de Ha noi. “je reste, dit-il, je vais faire du tourisme… et il ajoute: “si vous voyez ma femme, dites-lui que je suis en bonne santé.” Huong est furieux, explose, dit ce qu’il a sur le coeur depuis le départ.”
“Majesté, vous ne pensez qu’à bien vivre, aux femmes et aux jeux.”
(Daniel Grandclément, Bao Dai ou les derniers jours de l’empire d’Annam, nxb JC Lattès,1997, trang 225-226)
(Khi đến lúc phải quay về Việt Nam, cựu hoàng tuyên bố thẳng thừng với những người đồng hành với ông là ông không về Hà Nội. “Tôi ở lại, tôi sẽ đi du lịch.” Ông thêm: “Nếu gặp vợ tôi, nhờ các ông nói giúp tôi khỏe mạnh.” Hà Phú Hương nổi giận, không còn giữ được những điều kìm nén ông giữ trong lòng từ lúc ra đi đến giờ:
“Thưa Hoàng thượng, ngài chỉ nghĩ tới ăn chơi cho sướng, nghĩ tới gái và cờ bạc.”)
Trước một câu nhận xét nặng nề và xỉ nhục như thế. Cựu Hoàng chỉ cười.
“L’empereur sourit mais ne dit rien.”
(Daniel Grandclément, ibid., trang 226)
(“Cựu Hoàng mỉm cười nhưng không nói gì.”)
Mặc dầu đây chỉ là một giai thoại do Hương kể lại. Nhận xét của Hương đâu có sai sự thật. […] Rõ ràng là cựu hoàng không trở về với gia đình.
Một vấn đề chính trị cao siêu hay đơn giản chỉ là lo cho sinh mạng không bảo đảm an toàn, nếu trở về Hà Nội? Bỏ trốn hay chỉ là vắng mặt? Vấn đề này ông đã lưỡng lự lẩn tránh một cách quá khéo léo và nay thì câu truyện đã rõ ràng.
Người Pháp dùng ông đã không uổng công. Hồ Chí Minh muốn biến ông thành một hoàng thân Souphanouvong bên Lào, nhưng đã thất bại.
Tuy nhiên, trong Hồi ký của ông, ông lật ngược câu chuyện, ông cho rằng trước khi lên máy bay từ Côn Minh trở về Việt Nam, ông nhận được một điện tín của Hồ Chí Minh, nội dung như sau:
“Sire, tout va bien ici, prenez votre temps. D’ailleurs, vous nous serez très utile en restant en Chine. Ne vous inquiétez pas, dès que le moment de votre retour sera venu, je vous préviendrai. Reposez-vous bien pour les tâches qui nous attendent. Baisers fraternels. Signes: Hồ Chí Minh.”
(S.M. Bao Daï, ibid., trang 156)
(“Bệ hạ, bên này mọi chuyện đều tốt đẹp, ngài cứ thong thả. Đằng khác việc ngài ở lại bên Tàu sẽ tốt hơn cho chúng ta. Ngài đừng quan ngại gì khi nào cần đến sự trở về của ngài, chúng tôi sẽ thông báo cho ngài sau. Ngài cứ an tâm trước những bổn phận đang chờ đợi chúng ta. Một cái hôn tình nghĩa. Ký tên. Hồ Chí Minh.”)
Sau đó, Bảo Đại còn tả oán là hành lý cũng như giấy tờ tùy thân đều đã để trên máy bay. Nay ông ở lại một mình trơ trọi, không có cả quần áo để thay. Ông cho rằng Hồ Chí Minh đúng là một kịch sĩ lừa đảo. Ông ngồi xuống bậc thềm thì may quá có một người Tàu, ăn mặc theo lối Tây Phương đến chào ông. Hai người nói chuyện với nhau bằng tiếng Pháp và nhận ra từng học bên Pháp. Người Tàu tên Vu sau đó đã mời ông về nhà và câu truyện sau đó còn kéo dài với rất nhiều kịch tính.
Ông được ông bạn mới quen đưa về nhà và hơn một tháng dẫn đi ăn chơi, đi đây đi đó.
Ngày 15 tháng Chín, 1946, ông quyết định đi Hong Kong. Có nghĩa là ông Bảo Đại đã ở Trùng Khánh, bên Tàu nửa năm trời. Ông Bảo Đại đã không cho biết chi tiết đầy đủ về thời gian này.
Tuy nhiên, cũng theo Nghiêm Kế Tổ khi về nước kể lại thì có một số người như Lưu Đức Trung, Phạm Văn Bính, Đinh Xuân Quảng, Bùi Tường Chiểu sang Trùng Khánh gặp cựu Hoàng.
Để làm sáng tỏ thêm về chuyện bức điện tín của Hồ Chí Minh gửi cho ông Bảo Đại trước lúc lên máy bay là thật hay câu chuyện bịa, sau đây là một đoạn trong sách “Việt Nam Máu Lửa” của ông Nghiêm Kế Tổ, lãnh đạo phái đoàn sang Trùng Khánh như sau:
“Tháng 3 năm 1946, Nghiêm Kế Tổ, Thứ Trưởng Bộ Ngoại Giao trong chính phủ Liên Hiệp Hồ Chí Minh dẫn phái đoàn sang Trung Quốc để tỏ tình thân thiện. Buổi tối, trước hôm đi, trong phiên họp riêng tại dinh chính phủ. (Cụ Hồ Chí Minh, Cựu Hoàng Bảo Đại, Nguyễn Tường Tam, Vũ Hồng Khanh, Nguyễn Công Truyền, Hà Phú Hương) sau khi đã vạch rõ ý nghĩa cuộc đi và nhiệm vụ phái đoàn, Hồ Chí Minh quyết định cả Cựu Hoàng cũng sẽ cùng đi và phái đoàn phải cấp bách sửa soạn, khởi hành ngay ngày hôm sau. […] Đêm hôm đó sau cuộc Hội Nghị, Nghiêm Kế Tổ tới biệt thự riêng của Cựu Hoàng, rồi cùng sang nhà bên cạnh gặp Vũ Hồng Khanh, Nguyễn Tường Tam. Mọi người đều trình bày lợi hại, khuyên Cựu Hoàng nên xuất ngoại với tư cách một vị Hoàng Đế thoái vị đi du lịch. Cựu Hoàng đồng ý ngay.”
(Nghiêm Kế Tổ, Việt Nam máu lửa, nxb Xuân Thu, tháng 7, 1989, trang 107)
“Sau một tháng giời, Cựu Hoàng vẫn ở lại Trùng Khánh. Riêng phái đoàn Nghiêm Kế Tổ trở về nước. Vấn đề đó là mặc nhiên như vậy.”
(Nghiêm Kế Tổ, ibid., trang 108)
Thêm một bằng cớ bội phản này, theo lời kể lại của Vũ Đình Hòe, cựu Bộ trưởng Tư pháp thời đó kể lại phiên tòa xét xử ông Cố vấn tối cao Vĩnh Thụy, một nhân viên của chính phủ được coi là đào nhiệm.
“Phiên xử diễn ra vào năm 1950-1951 trong đó tất cả thành viên chính phủ đều giơ tay biểu quyết xét xử, trừ ông Bùi Bằng Đoàn, Trưởng Ban Thường trực Quốc Hội, vì trước đây ông có giữ chức thượng thư trong triều đình Bảo Đại.
Tòa án Khu III do ông Lê Văn Chất làm chánh án, ông Bùi Lâm làm Công cán Ủy viên, một Hội thẩm chính trị là đại biểu quân đội, một Hội thẩm chuyên môn là ông Trần Đình Trúc, Thẩm phán do giám đốc khu III phái sang. Hai luật sư biện hộ là ông Đỗ Xuân Sang và ông Nguyễn Mạnh Tường.
Bản cáo trạng buộc tội rất đanh thép. Sau khi đã thực thi đủ thủ tục pháp lý và bàn luận kyc càng. Hội đồng xét xử đã ra phán quyết vắng mặt bị cáo: Tử hình đốí với Nguyễn Vĩnh Thụy về tội phản quốc.
Sau lời biện hộ của luật sư Nguyễn Mạnh Tường, bản án được ghi là:
“Tử hình vắng mặt, khi nào bắt lại được can phạm thì sẽ mở lại phiên tòa chứ không được thi hành cái án đã tuyên trước đó.”
(Vũ Đinh Hòe, cựu bộ trưởng tư pháp, kể chuyện về luật sư Nguyễn Mạnh Tường tại phiên tòa xét xử ông cố vấn Vĩnh Thụy. Đăng trên An Ninh Thế giới, tp Hồ Chí Minh, ngày, 23-8-2009
Phần trên đây giúp bạn đọc hiểu rõ hơn con người của Bảo Đại và sẽ giúp hiểu được vai trò của ông sau này như thế nào.
Bảo Đại với tuổi thơ ở Huế
Thật sự người ta biết rất ít về giai đoạn tuổi thơ của ông Bảo Đại cũng như của bà Nam Phương. Nhưng nhờ có cuốn Hồi ký của ông mà người ta biết được đôi điều.
Khi ông được hai tuổi thì cha là Khải Định lên ngôi vua.
Theo lời ông kể lại:
“Và đến lúc ông được 5 tuổi, ông dọn ra ở một căn nhà bên cạnh điện Kiến Trung. Căn nhà có một phòng ngủ, một phòng khách và một phòng ăn và một vài trái nhà phụ dành cho gia nhân. Ông cho biết, ông có vài người hầu hạ. Mỗi ngày có quan phụ đạo đến dạy học. Và cũng chính vị quan này sau tháp tùng Bảo Đại sang Pháp. Bảo Đại đã sống một mình như thế trong 4 năm. Việc học là để chuẩn bị cho ông sau này trở thành Hoàng Đế, quan tòa tối cao và làm cha mẹ dân, và con của Trời.” (S.M. Bao Daï, ibid., trang 17)
“Ông cho biết là thỉnh thoảng vua cha có đến thăm để xem xét việc học hành của ông và lâu lâu ông được ăn chung với vua cha. Và thật họa hiếm, ông được theo vua cha sang trò chuyện với ông Pasquier. Điều này cho thấy giữa đại diện người Pháp và vua Khải Định có mối giao hảo tốt đẹp. Nó cũng là đầu mối sau này cho việc Bảo Đại sang Pháp học. Ông P. Pasquier có hai đứa con cùng cỡ tuổi với Bảo Đại và chúng nói được tiếng Việt nên Bảo Đại chơi thân được với chúng.” (S.M. Bao Daï, ibid., trang 18.)
“Về ngoại hình lúc còn nhỏ, ông Bảo Đại cũng chỉ là một đứa trẻ bình thường không có dấu hiệu gì cao lớn cả. Ông cho biết lúc 9 tuổi, ông chỉ cân nặng hơn 20 kilo. Theo ông có thể vì không vận động thể thao và cách ăn uống có thể thiếu dinh dưỡng. Cũng theo ông, tử suất trong những hoàng tử rất cao. Nhưng Bảo Đại sau này lớn lên ở bên Pháp, do ăn uống đầy đủ, chơi thể thao nên thân hình phát triển. Ông cho hay, lúc 16 tuổi, ông đã là một thanh niên cường tráng rồi.” (S.M. Bao Daï, ibid., trang 19)
Vì thế, Bảo Đại là ông vua duy nhất của mấy trăm năm nhà Nguyễn, có thân hình cao lớn và tuổi thọ cao nhất, 84 tuổi.
Về tuổi thọ của các dòng họ vua chúa, có thể Bảo Đại không muốn nhắc tới cái tệ nạn vua có nhiều vợ, và đó mới là nguyên nhân chính cho việc có sinh mà không có dưỡng.
Trong một bài viết cũ nhan đề “Tấm vải bọc điều”, có một số nhận xét như sau:
“Ngoài Hoàng hậu vua có lệ nạp phi. Không phải một người mà nhiều người, con số lên đến trăm hoặc hơn thế nữa. Nhiều cung phi gốc chỉ là kẻ hầu hạ, thị nữ. Có thời kỳ trong nước có hạn hán, Minh Mạng cho là trong cung có nhiều chướng khí nên đã cho thải về dân gian 100 cung phi. Riêng dòng con của Minh Mạng có cả thảy 78 hoàng tử và 64 công chúa. Thiệu Trị có 29 hoàng tử và 35 công chúa. Tính chung chỉ trong bốn triều vua có cả thẩy 250 hoàng tử và công chúa.
Nếu tính thêm con của các hoàng tử, công chúa, phải cộng thêm 400 người nữa.
Tình trạng ấy đẻ ra nhiều tệ hại đến nỗi trong lý lịch ghi, “Sinh mẫu là ai không rõ”.
Minh Mạng có 64 công chúa, nhưng chép vào truyện chỉ có 48 người. Tuổi thọ trung bình là 21 tuổi. Đặc biệt, trong số công chúa từ số 55 trở đi, có 3 người không được chép vào truyện. Năm công chúa cuối cùng thì lần lượt chết vào năm 7 tuổi, 9 tuổi, 5 tuổi, 24 tuổi và 25 tuổi. Và nếu tính tuổi thọ của các hoàng nữ chót đời Minh Mạng thì tuổi thọ trung bình là 8,7 tuổi. Các công chúa quả vắn số.
Sang đời Thiệu Trị. Vua Thiệu Trị có 35 công chúa, chỉ có 29 có tiểu sử. Trong số có 11 người sống dưới 5 tuổi. Tuổi thọ trung bình của của 29 người là 15 tuổi.”
(Nguyễn Văn Lục, “Tấm vải bọc điều”, Talawas, 15-4-2004)
Về dòng giống Bảo Đại thì có nhiều tin đồn đãi lắm cả từ trong nước ra đến hải ngoại. Trích đoạn trên, người viết thấy rằng việc truy cứu lai lịch vua Bảo Đại con ai cũng như việc tìm cách biện hộ tính chính thống của ông xét ra là không mấy cần thiết.
Tự Đức không có con chỉ có con nuôi rồi cũng chính thức được tôn xưng lên ngôi vua cũng là lẽ bình thường. Bảo Đại đã chính thức được vua cha là Khải Định nhìn nhận, nuôi dưỡng và để cho Pháp lo cho tương lai của con của mình, 9 tuổi đem sang Pháp học, để chuẩn bị sau này nối nghiệp cha tưởng như thế đã là đầy đủ bổn phận.
Người đời sau nếu có thắc mắc về dòng giống của Bảo Đại cũng chỉ là hệ quả trực tiếp của hủ tục đa thê của triều đại phong kiến chứ không đặt vấn đề tính chính thống của ngôi vua.
Con ai cũng được, con rơi cũng đành, con nhà dân giả không gốc gác nào đã sao? Vấn đề là khi ông đã lên làm vua, được ăn học đến nơi đến chốn rồi làm cố vấn tối cao của chính phủ Hồ Chí Minh và sau chót là Quốc Trưởng Quốc gia Việt Nam, Bảo Đại đã làm được những việc gì xét ra có lợi cho đất nước? Tất cả, từ ngai vàng, chức Cố vấn Tối cao đến ghế Quốc trưởng đều không phải do dân chúng trao cho ông.
Việc phế lập, chọn người kế nghiệp trước thời Bảo Đại đã không còn ra thể thống gì nữa như lịch sử đã cho thấy. Thành Thái nửa điên khùng với dục vọng bệnh hoạn đã ngủ với người một người hầu cận và người này đẻ ra Duy Tân.
Báo chí Pháp qua tờ Illustration đã mô tả cuộc tuyển chọn thái tử này một cách khinh bỉ và ngạo mạn như sau:
“Một buổi sáng, khi mặt trời vừa mới mọc, quan Khâm Sứ và quan Toàn Quyền đi cùng với một bác sĩ quân y ở nhà thương, có 5 vạch đến cung điện để tìm xem ai có thể làm vua. Thật là một số phận kỳ lạ đã dành cho hai quan chức của Cộng Hòa Pháp. Họ đã tỏ ra thật trịnh trọng cho phù hợp với một nhiệm vụ như thế này, hai vị đã vào đến hậu cung. Tại đây, mọi người từ phụ nữ đến trẻ em cũng như thái giám bắt đầu la hét vì sợ hãi. Giữa cảnh ồn ào đến kinh khủng, hai viên chức chính phủ và viên sĩ quan quân y cố tập họp các hoàng tử kế vị đang chạy tán loạn vì hoảng sợ. Cuối cùng họ cũng tập hợp được đám đông và quan toàn quyền nhường lại vai trò cho ông bác sĩ quân y. Và đến lượt viên bác sĩ quân y có nhiệm vụ chọn đứa trẻ nào xét ra có đủ điều kiện nhất để làm vua. Chắc hẳn là viên sĩ quan thực dân này thấy bối rối vì chỉ quen khám cho lính tráng, nhưng rồi ông lấy lại bình tĩnh ngay và chăm chú một cách thận trọng, ông bắt đầu công việc khám. Ngay lúc ban đầu ông đã loại bỏ đứa trẻ lớn hơn cả:
“Các vị hãy nhìn cái trán này. Tai thì giỏng ra. Mắt nhìn lấm lét. Cậu trai này suy nhược dinh dưỡng, nhỏ bé. Giống tạng ông bố. Nào cậu, hãy nói mấy lời xem nào? Một đứa trẻ trông đần độn, chỉ biết bập bẹ được vài câu. “Các ông đã nghe thấy tôi nói điều gì rồi chứ? Thấy không, cậu trai này đần độn quá. Thôi đến lượt cậu trai khác vậy.” Cuộc khám lại đã tiếp tục. Các hoàng tử kế vị đều mang những khuyết tật của cha họ truyền lại. Tất cả đều có bộ mặt khó coi, chân tay khẳng khiu, điệu bộ xảo trá. Chính vì thế người ta nghĩ đến cậu bé Duy Tân hoàng tử thứ năm của vua Thành Thái, con một bà hầu gái của bà phi. Người ta không thấy cậu bé đâu cả trong đám anh em của cậu, vì cậu đã vị vua cha do tính nết bất thường đã còng chân cậu bằng cùm sắt và tống giam vào ngục cùng với những đứa trẻ khác con các quan đại thần. Khi nhìn thấy đoàn người bước vào phòng giam, cậu bé bắt đầu khóc, vừa giậm chân gọi mẹ, nhưng viên sĩ quan quân y đã vào lôi cậu ra chỗ ánh sáng thản nhiên quan sát cậu bé.
“Trời đất? Coi bộ cậu trai này trông được?” Ông ta vừa nhận xét vừa vuốt ve cậu bé chẳng khác nào ông phải chọn trong đàn chó mới đẻ, chọn con khá nhất thay vì sẽ phải đem đi dìm nó xuống nước. Cậu trai này có đôi tai quá lớn, răng hỏng hết, nhưng vẫn còn khá hơn cả. Các ông thấy vừa ý không? Thôi chọn cậu trai này đi. Cậu trai được nhìn nhận là đủ tiêu chuẩn lên làm vua, cậu bị lôi ra khỏi nhà ngục miệng vẫn còn la hét.”
(Daniel Grandclement, ibid., trang 62-64)
Vua Duy Tân cũng gốc gác con nhà tiện dân, tại sao khi được đưa lên ngôi vua, đã không ai nói gì?
Vả lại, nếu muốn rõ trắng đen thì ngày nay cho thử cấu tử cơ bản của tế bào di truyền (DNA), nào có khó khăn gì để đập tắt dư luận đồn thổi?
Vấn đề quan trọng hơn là nhìn sang các nước láng giềng chung quanh như Nhật, Thái Lan để xem các đời vua của họ đã sống và đã trách nhệm điều khiển đất nước như thế nào.
Chương mở đầu cuốn sách của vua Bảo Đại thật ra ngay dòng đầu tiên, ông đặc biệt chú trọng viết về bài diễn văn của Thống sứ Bắc Kỳ (Résident Supérieur) Pierre Pasquier đọc ngày 28 tháng tư, 1922, lúc Bảo Đại được chín tuổi.
Đây là một trong những bài diễn văn rất súc tích và đầy tràn sự tin tưởng và gửi gắm vào vị vua tương lai của triều Nguyễn. Sau đây là phấn trích dịch tóm lược một vài đoạn:
“… Prince, vous êtes jeune, mais déjà vous portez en vous tous les espoirs d’un noble dynastie et de tout un peuple. Vous êtes sympathique, et dans la vieille France, rien qu’à vous voir on vous appelerait volontiers “le gentil dauphin” […] La France vous apprendra à être un prince ouvert au progrès, bon et humain étendant son regard, portant son esprit sur un plus vaste horizon, un prince cultivé, sincère loyal et franc. Franchise vient de France. Et avec elle, un roi est sur de laisser un nom sans tâche dans l’Histoire.”
(S.M. Bao Daï, ibid., trang 11)
(“Thưa thái tử, ngài tuy còn trẻ, nhưng ngài đã mang trong mình trọng trách là nguồn hy vọng cao quý của cả một triều đại. Ngài được yêu mến và theo tinh thần cổ truyền của người Pháp, chỉ việc nhìn thấy thái tử người ta sẽ gọi thái tử là hoàng tử thừa kế ngôi vị dễ thương […] Nước Pháp sẽ là cơ hội giúp thái tử học hỏi trở thành một thái tử cởi mở sẵn sàng học hỏi các tiến bộ, một con người tốt và có lòng nhân trải rộng tầm nhìn và tinh thần ra một chân trời rộng mở hơn, một thái tử có kiến thức trung thực và thẳng thắn. Tinh thần thẳng thắn ấy thái tử sẽ được học hỏi từ nước Pháp. Và với tinh thần ấy, nhà vua chắc chắn sẽ để lại một tên tuổi không tì vết trong Lịch Sử.”)
Sau bài diễn văn của Pierre Pasquier dĩ nhiên có bài đáp từ rất nồng nhiệt, bày tỏ lòng sung sướng của vua Khải Định khi thấy con mình được trao cho một người bảo hộ sang Pháp học và sau này về nối nghiệp. Tiếp theo sau là các buổi lễ liên tiếp trong đó có lễ ký kết giữa Khải Định và toàn quyền Pháp có sự hiện diện đầy đủ các viên chức Việt Pháp. Tiếp diễn ngày hôm sau là buổi tiễn đưa vua Khải Định và Hoàng tử Vĩnh Thuỵ sang Pháp. Có thể nói đây là một buổi đưa tiễn rất trang trọng và đình đám nếu so với số phận của Hàm Nghi, Thành Thái hay Duy Tân.
Bảo Đại đã dành nhiều trang kể lại từng chi tiết nhỏ một để mô tả đầy đủ với một thái độ rất thích thú. Lúc bấy giờ đã có đường xe hỏa và họ được dành một toa xe đặc biệt có đầy đủ tiện nghi để đi vào Tourane.
Đây là lần đầu tiên, Bảo Đại được đi ra ngoài và cũng là lần đầu tiên được đi xe lửa. Tình cảm của ông lúc bấy giờ là tò mò và ngạc nhiên từng thứ một như một khám phá lần đầu.
Tuy nhiên, việc gửi gắm Bảo Đại cho ông bà Charles (Cựu Khâm sứ Trung Kỳ 1913-1920 Résident supérieur de l’Annam, Jean François Eugène Charles), sang Pháp học dưới mắt nhiều người cho đến bây giờ chẳng khác gì một thứ con tin để sau này khi học thành tài, Bảo Đại về nước phục vụ cho quyền lợi của người Pháp. Nhất là sau này, ông lại được ông bà Charles dàn xếp một cuộc hôn nhân giữa Bảo Đại và bà Nam Phương, một phụ nữ tây học, con nhà giàu có nhất xứ Nam Kỳ lại thêm có gốc đạo Thiên Chúa.
Hai yếu tố trên tạo ra một dư luận không tốt về bảo Đại.
Dù sao dư luận cũng có phần đúng của nó theo cái nhìn bề ngoài. Nhưng cho dù người Pháp có chủ tâm như thế đi nữa, tất cả còn tùy thuộc thái độ, sự chọn lựa cũng như chí hướng của Bảo Đại.
Xét về mặt hoạt động, người ta cũng không quên là khi Nhật lật đổ Pháp trên toàn Đông Dương và tuyên bố trao trả độc lập cho Việt Nam, 10 tháng 3, 1945, chính cựu hoàng tuyên bố như sau:
“Ngày 14 tháng 8, vua bảo Đại ban chiếu:
Trẫm tuyên bố hủy bỏ hết những hiệp ước bất bình đẳng mà nước Pháp đã ép buộc nước Việt Nam ký ngày 6 tháng 6 năm 1862 và ngày 15 15 tháng 3 năm 1884.
Vậy từ nay, toàn hạt xứ Nam Kỳ thuộc chủ quyền Đế quốc Việt Nam.
Phụng ngự ký Bảo Đại.”
(Nguyễn Kỳ Nam, Hồi Ký 1925-1864, Tập II: 1945-1954, Giáp Thìn, trang 168
Khi có cơ hội và hoàn cảnh chính trị cho phép thì Bảo Đại cũng chẳng ngại gì phủi tay nhà nước Bảo Hộ đã có công nuôi dưỡng ông từ nhỏ tới lớn. Thực ra độc lập ở đây là độc lập như một nước trong Khối Thịnh vượng chung Đại đông Á của Nhật, thế lực dứng sau tuyên ngôn của Bảo Đại lúc đó.
Tuổi trẻ ở Pháp
Có thể nói không một ai có thể may mắn hơn Bảo Đại trong thờời gian đi học ở Pháp. Sau đây là tóm tắt những trang nhật ký của Bảo Đại trướcc khi trích dẫn thêm tài liệu.
Về mối tương quan giữa ông bà Charles và Bảo Đại đúng nghỉa ra chỉ là mối tương quan chính trị giữa một người thay mặt chính phủ Pháp và một con tin là Bảo Đại. Nhưng khi đọc toàn bộ phần hồi ký này cho thấy mối tương quan chính trị ấy trở thành tương quan thân mật giữa cha mẹ và con cái. Ông bà Charles đã xử sự như người cha mẹ trong gia đình.
Đó là những tình cảm tự nhiên nảy sinh. Tôi không thấy được một ý đồ xấu hoặc đen tối nào của ông bà Charles muốn uốn nắn Bảo Đại để trở thành một thứ tay sai cho Pháp. Nhưng cái gì họ coi là tốt nhất, trường học tốt nhất đến đời sống vật chất, họ đề cung cấp cho cuộc sống của Bảo Đại hơn cả những con nhà khá giả ở Pháp. Nào tập đàn, tập đua ngựa, đi săn, đi nghỉ hè, đi du lịch, về sống đồi sống quê với gia đình, chia sẻ vui mừng vì sự tiến bộ, mức hội nhập nhanh chóng của Bảo Đại.
Và điều này được chính Bảo Đại nhìn nhận.
Chính Bảo Đại thú nhận ông bà Charles đã đón nhận một trách nhiệm nặng nề khi nhận chăm sóc Bảo Đại. Chẳng những vậy, ông bà đã coi Bảo Đại như chính con của họ. Theo Bảo Đại, ông Charles, tính tình khép kín trong khi bà Charles tính tình cởi mở hơn. Bà là người sùng đạo, nhưng không thấy chỗ nào cho thấy bà tìm cách gây một ảnh hưởng tôn giáo của bà với Bảo Đại. Bảo Đại viết ngay từ buổi ban đầu mối giao cảm giữa người với người nảy nở một cách tự nhiên vượt mọi rào cản sắc tộc và nhất là chính trị:
“Les réceptions oficiellles terminées, mon père qui va se reposer chez le Duc de Valencay, avant d’effectuer une tournée organisée par le gouvernement francais, me confie avec mon cousin à M et Mme Charles qui m’accueillent comme leur propre fils”..[…] Sa femme née à Toulouse, et beaucoup plus expansive, catholique pratiquante, très affectueuse, elle s’attache à moi comme à ses enfants. Tout de suite, je l’appelle “Mémé” comme je l’entends dire à ses petis-enfants. Eux, me donnent mon nom, Vinh-Thuy, sans titre, ce qui ne me cause aucune gene.
Je découvre la víe de famille.”
(S.M. Bao Daï, ibid., trang 23)
“Những buổi tiếp tân chính thức đã chấm dứt, cha tôi sẽ về nghỉ ngơi tại nhà Quận công Valencay trước khi có một chuyến đi do chính quyền Pháp tổ chức, còn phần tôi và người em họ của tôi thì được giao cho ông bà Charles. Bà người gốc ở Toulouse, rất cởi mở, công giáo thuần thành, rất quyến luyến, gắn bó lấy tôi như thể chính con bà. Ngay lập tức, tôi gọi bà là “bà” như các cháu bà thường gọi. Chính họ gọi tên tôi là Vinh-Thuy, không kèm theo một chức danh, điều đó làm tôi thấy tự nhiên. Tôi đã tìm thấy một đời sống gia đình.” (Trang 23)
Tìm thấy một đời sống gia đình, theo tôi đó là điều ý nghĩa nhất đối với một đứa trẻ phải sống xa gia đình của nó.
“Cũng theo Bảo Đại, ông thích ứng nhanh và dễ dàng, hội nhập vào xã hội Pháp từ việc ăn uống cũng như phong tục. Ông cũng học tiếng Pháp và cũng tiến bộ rất nhanh và chẳng bao lâu sau, ông được nhận thẳng vào lớp tám tại trường Hattemer.” (Trang 23).
“Sau một năm rưỡi ở Pháp, năm 1924, ông quay trở lại Huế để mừng thọ 40 tuổi của Khải Định. Khải Định rất vui mừng vì thấy con trai mình tiến bộ về mọi mặt, nói tiếng Pháp thông thạo. Ông hỏi thăm Bảo Đại về công việc học hành, về việc giải trí cũng như nhưng mối giao thiệp với những người trẻ bên Pháp.
Điều đó càng làm cho Khải Định vui thích và hãnh diện vì đã quyết định để Bảo Đại sang Pháp học. Lúc đó sức khỏe của Khải Định đã suy sụp, tuy ông không nói ra. Nhưng vấn đề chính yếu là việc nối dõi truyền ngôi đã được chuẩn bị.” (Trang 24).
Sự tiết lộ trên của Bảo Đại cho thấy rằng quyết định gửi Bảo Đại sang Pháp là do chính Khải Định đưa ra và nhờ người Pháp giúp đỡ. Người Pháp thấy không có trở ngại gì và thấy có lợi sau này nên hoan hỉ nhận lời.
Bảo Đại cũng là hoàng tử duy nhất từ trước đến nay nói cùng lúc tiếp Pháp và tiếng Việt. Trong dịp này, ông có dịp gần gũi mẹ ông và như nhiều bà mẹ khác, bà lo lắng từng chút cho Bảo Đại cũng như bảo vệ việc nối ngôi của Bảo Đại sau này.
Tuy nhiên, nên lưu ý đến một nhận xét của Bảo Đại viết vắn tắt sau đây:
“Ma grand-mère paternelle pouvait être comparée à la reine Catherine de Mesdicis. À la mort de mon père, en mon absence, elle veillera avec soin jaloux à ce que me revienne à la couronne. Déjouant toutes les intrigues, c’est elle qui me conservera le trône.”
(S.M. Bao Daï, trang 24)
(“Bà nội của tôi có thể so sánh với hoàng hậu Catherine de Mesdicis. Khi bố tôi qua đời trong lúc vắng mặt tôi, bà là người chăm chú một cách không dấu diếm gì về việc bảo vệ ngôi vua của tôi. Bà phá tan mọi âm mưu soán đoạt, và chính bà là người bảo vệ cái ngôi vua của tôi.”)
Điều này cho thấy, mọi cuộc lên ngôi hay kế vị thì đằng sau không thiếu những âm mưu chiếm đoạt và quả thật không dễ dàng gì! Nhưng không hiểu bà nội của Bảo Đại (Hựu Thiên Thuần hoàng hậu, Đức Tiên Cung, Dương Thị Thục) có chiêu thức gì để bảo vệ ngôi báu cho Bảo Đại thì thật sự không mấy ai biết được.
“Khi trở lại Pháp, ông bắt đầu chơi thể thao như tennis và tiếp tục học ở trường Hattemer.
Cũng trong dịp này, Khải Định đã mua cho ông một chiếc xe hơi Panhard, có một tài xế Việt Nam. Nhờ có chiếc xe này, Bảo Đại đã đi du lịch nhiều nơi trên đất Pháp.” (S.M. Bao Daï, Trang 24)
Tôi có cảm tưởng là sự hội nhập của Bảo Đại đi quá cái mức cần thiết và có thể những ngày sống trên đất Pháp là những ngày tháng sung sướng nhất của ông so với đời sống tù túng trong cung điện với nhiêu luật lệ, sự khép kin và thiếu tất cả những điều kiện phát triển cho một thanh niên như Bảo Đại.
Bảo Đại, Huế, 1/1/1926. Nguồn: Getty Images
“Năm 1925, ông Charles báo tin buồn cho Bảo Đại là Khải Định đã băng hà. Lúc đó ông được 12 tuổi. Và kể từ nay, ông Charles nói với Bảo Đại, từ nay Bảo Đại phải lãnh một trách nhiệm nặng nề, nhưng tôi tin rằng cậu đã chuẩn bị để lãnh trách nhiệm ấy.”
Hai ông bà Charles sau đó đã cùng về Việt Nam với Bảo Đại để dự tang lễ vào cuối tháng 12.”
“Theo Bảo Đại, trước khi chết, Vua Khải Định đã trăn trối là mong muốn Bảo Đại được tiếp tục học bên Pháp. Chính quyền Pháp cũng đã hỏi ý triều đình Huế, Hội đồng Cơ mật viện đã đề cử một vị nhiếp chánh là Tôn Thất Hân làm quan Nhiếp chính cho đến khi nào Bảo Đại học xong.” (S.M. Bao DaïTrang 25)
Một lần nữa, lời trăn trối của Khải Định đánh tan dư luận cho việc gửi bảo Đại sang Pháp học là âm mưu thâm độc của người Pháp.
June 1922, Vinh Thuy được vợ chồng Cựu Khâm sứ Trung Kỳ 1913-1920, Jean François Eugène Charles, nhận làm con nuôi. Nguồn: http://nguyendynasty-vn.tk/
“Vào ngày 8 tháng giêng, năm 1926, người ta mặc cho bảo Đại chiếc áo hoàng bào mà trước đây vua Gia Long từng mặc. Chiếc áo mầu vàng cẩn bằng vàng, với tước danh Bảo Đại, có nghĩa là người bảo vệ cho những điều vĩ đại. Việc mặc chiếc áo của Gia Long là biểu tượng hiếm hoi chỉ dùng trong các buổi lễ phong vương.
Sau đó, ông một mình được dẫn vào đền của tổ tiên, trong đó có bàn thờ vua Gia Long. Bảo Đại làm lễ bái lạy như tục lệ mà các tân vương thường làm để tỏ lòng trung thành cũng như lời thề trước tổ tiên.
Và buổi lễ phong vương cho Bảo Đại sẽ được diễn ra theo đúng nghi thức vào sáng ngày hôm sau.
Nơi đây, tất cả quần thần có mặt đông đủ trong các bộ nghi phục đủ loại tùy theo chức tước. Một bên là các hoàng tử, một bên là các hàng quan lại tùy theo phẩm trật”
(S.M. Bao Daï, Trang 25)
“Sau đó, đại diện người Pháp là Toàn quyền Alexandre Varennes, trong phẩm phục mầu đen khác hẳn với phẩm phục của hàng quan lại Việt Nam lên đọc một bài diễn văn mà nội dung là nhân danh nhà nước Pháp bảo hộ Annam là dưới triều đại Bảo Đại sẽ được diễn ra một cách thanh bình và hạnh phúc cho toàn thể nhân dân Việt Nam.
Tiếp theo là lễ bái lậy. Thoạt tiên là các hoàng tử phần đông đều lớn tuổi ra trước ngai vang Bảo Đại khoảng 15 thước và cúi lậy năm lần, mặt sát đất. Sau đó đến lượt các quan lại cũng làm lễ bái lậy tương tự. Cả một biển người lần lượt quỳ lạy trước sân chầu dưới tiếng nhã nhạc.” (
S.M. Bao Daï ,trang 25)
Và sau đây là cảm tưởng của nhà vua mới:
“Spectacle imposant que je domine plus haut du trône, comme le principe monarchique domine la foule des hommes. J’ai douze ans. Je suis à ma place. Je suis né pour celà. Pas un seul instant je n’ai l’impression de jouer un jeu. Au contraire, j’apporte le plus grand sérieux à tous les rites que je dois accomplir. […] Au moment où se termine la cérémonie éclate une salve de coups de canon qui annonce au peuple d’Annam l’avènement de son nouvel empereur.”
(S.M. Bao Daï, trang 26)
(Cảnh tượng hùng vĩ mà tôi từ trên ngai vua thấy như bao trùm lên tất cả, đúng theo nguyên tắc của triều đình, trên đám đông người dưới kia. Lúc ấy, tôi mới chỉ 12 tuổi. Nhưng đó là chỗ ngồi dành cho tôi. Tôi được sinh ra để làm điều đó. Không một lúc nào trong đầu mà tôi nghĩ đó là một trò chơi. Ngược lại, tôi đặt hết chú tâm vào tất cả các nghi thức mà tôi phải chu toàn. […] Sau khi buổi lễ chấm dứt thì một loạt súng cà nông như báo hiệu cho dân chúng Annam biết rằng nay là thời của Hoàng Đế mới.)
Vua Bảo Đại ngồi lên kiệu đợi ở cuối sân để về điện Kiến Trung mà kể từ đó là chỗ ở của Bảo Đại.
Đọc hết đoạn trích ngắn ngủi này, người ta mớ i thấy hết tâm tư Bảo Đại, thấy được cách ứng xử khuôn đúc để đóng trọn vẹn cái nghề làm vua cha truyền con nối như một thứ thẩm quyền tối cao bất khả xâm phạm. Một sự cao ngạo tuyệt đối. Và cứ như thế, sau này tôi hiểu rõ Bảo Đại là ai.
Bảo Đại đón Bộ trưởng Bộ Thuộc địa Paul Reynaud sau chuyến công tác ở Đông Dương tại Paris, 4 tháng 12, 1931. Nguồn: Getty Images.
Sau 10 năm ở Pháp, ngày 16 tháng 8 năm 1932, Bảo Đại xuống tàu D Artagnan về Việt Nam. Tin mừng Bảo Đại về nước như một hồi chuông thức tỉnh. Người mà dân chúng chờ đợi có thể mang lại độc lập hay một sự đổi mới cho đất nước. Các thành phần theo chủ nghĩa thực dân thuần túy và cực đoan hay thành phần theo chủ nghĩa cực đoan cộng sản có thể e ngại sự trở về của vị vua trẻ.
“Những người dân bình thường, giới trí thức trẻ thành thị đều hy vọng một kỷ nguyên đổi mới. Họ nhìn nhà vua trẻ như linh hồn một nguồn hy vọng lớn lao.
Trên đường đi ra Huế, qua Phan Thiết Nha Trang, Tourane, có đôi lúc ông ngồi trên chiếc canô chạy dọc theo bờ sông, đứng trên đầu mũi chiếc thuyền mà trên bờ sông dân chúng đứng đón chào, cúi rạp người khi chiếc canô chở ông đi qua.”
Việc đặt tin tưởng vào Bảo Đại thể hiện rõ ngay từ lần trước khi ông về dự đám tang cha ông, vua Khải Định. Trong dịp này, có hai sử gia Teston và Perchron cũng có mật trong dịp lễ phong vương của ông. Họ đã viết:
“Qu’une ère nouvelle naissait. Une immense espérance s’incarnait dans le jeune souverain.””
(Daniel Granclement, ibid., trang 21; Cité dans l’Asie nouvelle trích lại, “Một kỷ nguyên mới ra đời. Một niềm hy vọng to tát tìm thấy nơi vị vua trẻ”, 31/5/1936.)
Bảo Đại và Bộ trưởng Bộ Thuộc địa Pháp Albert Sarrault trướng cồng Điện Elyssée, Paris 6 tháng 8,1932. Nguồn: Getty Images
Bảo Đại, ăn mặc chững chạc theo Tây Phương, đứng thẳng người, tươi cười vẫy tay chào dân chúng. Ông đóng đúng tư cách không chỉ như là một nhà vua, mà một lãnh tụ của quần chúng.
Lên trên bộ, ông bắt tay các viên chức đón chào theo lối Tây Phương, biết ngỏ lời với mỗi người bằng một câu ngắn. Lịch sự, chững chạc, uy nghi mà cũng hấp dẫn rồi ông lên xe lửa ra Huế.
“Ông Thái văn Toản, người cựu thông ngôn của Khải Định đã thân hành sang Pháp để đón vua Bảo Đại về nước. Trên đường về nước, ngoài vua Bảo Đại còn có ông bà Charles tháp tùng. Khi về đến Sài Gòn thì phái đoàn nhà vua đã lên chiếc tàu Dumont d’Urville để đi ra Đà Nẵng và đến 8 tháng 9 năm 1932 đến Tourane. Tại nơi đây đã có ông Toàn quyền người Pháp Chatel đón tiếp cùng với ông Nguyễn Hữu Bài, người giữ vai nhiếp chính điều hành Cơ mật viện trong suốt 20 năm qua.
Tại Huế, vua bảo Đại đã được dân chúng hai bên đường đón tiếp, người nào cũng cúi đầu để tỏ lòng kính trọng vua.”
(S.M. Bao Daï, ibid., trang 33)
Nhưng khi vào đến trong cung điện thì chỉ còn lại sự vắng vẻ, câm lặng và chìm đắm trong khung cảnh u tịch biệt lập của những bước tường thành ngăn cách với thế giới bên ngoài. Đã đến lúc nhà vua trẻ phải đối đầu với thực tế rồi chăng?
Nhà vua phải chứng tỏ được tính cách chính đáng cái uy quyền mỏng manh của mình bằng những phô trương ngoạn mục chính trị. Nghĩa là có một vài cải cách xã hội được phổ biến rộng rãi để bảo đảm cho dân chúng thấy rằng họ đã có một người lãnh tụ.
Ngay người Pháp cũng phải hỗ trợ Bảo Đại dù chỉ bằng những biện pháp nửa vời cho phù hợp với không khí muốn thay đổi của vị vua trẻ.
Quả thực ông đã có một số cải tổ trong nội cung. Nhưng chưa có một một cải tổ nào sâu rộng về xã hội liên quan rộng rãi đến quần chúng.
Chẳng bao lâu, cái không khí hân hoan ban đầu nguội dần. Con người thật của Bảo Đại không linh hoạt, không cương quyết, không mạnh dạn dám làm như lòng mong đợi của nhiều người. Cái bề ngoài chững chạc, quyến rũ, hấp dẫn đám đông dần chỉ là một thứ tài tử trình diễn hơn là cung cách của một lãnh tụ mà người ta trông đợi.
Bảo Đại có thể là một ông vua được dân chúng quý mến, nhưng chưa bao giờ ông là một lãnh tụ được quần chúng tôn sùng. Đến lúc một nhân vật chính trị xa lạ như Hồ Chí Minh xuất hiện từ chỗ không ai biết, đã thay thế cái hào nhoáng bên ngoài bằng một vóc dáng một ông già nhà quê đi dép, ăn mặc sơ sài, đã chinh phục được quần chúng.
Bảo Đại và Hồ Chí Minh là hai thái cực cho một sự thay đổi không tránh được.
Cái cảm giác của vua Bảo Đại khi về điện Kiến Trung được ông viết lại thật trung thực, nhưng cũng thật bẽ bàng. Nhà vua như một người khách xa lạ, một kẻ ngoài cuộc đối với đất nước mà ông có trách nhiệm lãnh đạo, ông viết:
“Après les années de liberté que je viens de vivre, j’éprouve l’impression d’entrer en prison.”
(S.M. Bao Daï, ibid., trang 34)
“Sau những năm mà tôi sống tự do, lúc này tôi có cảm giác là mình đi vào tù”
Chỉ bằng vài lời thú nhận này thì quả thực Bảo Đại chỉ là một nhà vua miễn cưỡng. Ông không đủ tư cách đứng đầu một đất nước cần một người có lý tưởng, có thiện chí, nghĩ tới dân, nghĩ tới tranh đấu dành độc lập.
Lời thú nhận trên bộc lộ tất cả tâm can của ông và những việc ông làm hoặc không làm đều do cái tâm trạng ấy mà ra. Vậy mà ông vua bất đắc dĩ ấy đã ngồi ở ngôi vị ngôi vua trong nhiều năm và sau này còn làm Quốc Trưởng nữa.
Cũng không thể nào đổ hết cái tội làm băng hoại con người Bảo Đại cho ông [bố nuôi] Jean François Eugène Charles được. Trước ngày lên đường về nước, ông Charles còn cẩn thận dặn dò Bảo Đại cái trách nhiệm và sứ mạng cao cả của ông như sau:
“Vous allez partir pour assurer la succession de votre père. C’est une lourde responsabilité que vous allez devoir porter mais je suis convaincu que vous êtes prêt à l’assumer.”
(S.M. Bao Daï, ibid., trang 24)
“Nhà vua sẽ về Việt Nam để bảo đảm sự nối nghiệp cha của nhà vua. Đây là một trách nhiệm rất nặng nề mà nhà vua sẽ phải gánh vác nhưng tôi tin chắc rằng nhà vua đã chuẩn bị sẵn sàng để đảm nhận trách nhiệm nặng nề này.”
Uổng cho sự chăm sóc từng ly từng tý trong việc giáo dục con người Bảo Đại trong suốt thời tuổi trẻ của ông bà Charles. Uổng cho người Pháp đã tốn kém bao công của để tạo ra hình ảnh một ông vua mới của một kỷ nguyên mới bắt đầu để rồi chỉ nuôi được một loại tầm gửi vô tích sự. Bất hạnh cho người cha đã quá cố đã hy sinh cả tiếng tăm để hy vọng hão huyền có được một kẻ nối nghiệp xứng tầm.
Và cuối cùng giới sĩ phu, giới trí thức và thần đân trông đợi một ông vua trẻ có học tài về giúp dân, giúp nước. Thất vọng. Bảo Đại đã làm thất vọng mọi người, một Bảo Đại từ căn tính cực kỳ ích kỷ, chỉ nghĩ tới ham vui vật chất. Bất cứ ai đã bao che, biện hộ cho ông đều phải tự xét lại.
Có thể Bảo Đại chỉ quan niệm đơn giản việc làm vua là việc cha truyền con nối mà không bao giờ nghĩ tới nó còn đòi hỏi hơn thế nữa. Nó là một một sứ mạng. Sau này, đọc kỹ tiểu sử Bảo Đại, người ta sẽ thấy, Bảo Đại đã có một quan niệm quá lỗi thời về việc làm vua.
Làm vua không thể coi là một nghề mà là một sứ mạng. Vì thế, một đứa trẻ chưa đủ trưởng thành, một trẻ khuyết tật, thiếu thông minh, một đứa trẻ thể xác yếu đuối gầy mòn, nhút nhát hèn yếu hay đần độn lẽ nào cứ đẩy nó lên làm vua?
Bảo Đại và Nguyễn Hữu Bài (bên phải dơ tay chào). Huế, 1933. Nguồn: OntheNet
“Việc đầu tiên của Bảo Đại là triệu tập ông Nguyễn Hữu Bài tâu trình về tình hình triều chính. Sau khi Bảo Đại đã nghe Nguyễn Hữu Bài thuyết trình tổng quát về công việc triều đình. Nhất là vai trò người Pháp mỗi ngày mỗi nắm hết mọi quyền hành trong tay họ. Mọi quyết định đều do người Pháp quyết định, nhất là về ngân sách. Họ thu thuế và chia lại một phần cho triều đình đủ sinh hoạt.”
(S.M. Bao Daï, ibid., trang 35)
“Sau khi hỏi ý kiến triều thần, việc tiếp đến Bảo Đại làm là viết Dụ phong cho bà mẹ lên ngôi Hoàng Thái Hậu.”
Điều thứ hai là ông muốn xóa bỏ chế độ đa thê thường được chấp nhận ở Việt Nam. Từ khi được tin ông trở về Việt Nam thì đã có nhiều những vận động ngầm từ nhiều phía, nhiều người để tiến cử những phụ nữ mà họ đã chọn lựa.
Nhưng sự chọn lựa cuối cùng của Bảo Đại là cô Marie-Thérèse Nguyễn Hữu Hào do ông bà Jean François Eugène Charles và cả Toàn quyền Pasquier giới thiệu. Quyết định táo bạo này gây ra những phản ứng chống đối từ bà mẹ vua Bảo Đại mà cho đến tận bây giờ mà có người vẫn còn hậm hực.
Điều này trực tiếp đã gây chấn động trong cung. Bởi vì hệ thống thứ bậc trong cung rất là phức tạp. Nào các bà Hoàng hậu, Thái hậu, chính thất, thứ phi, rồi các bà phi sinh được hoàng nam, các cung nữ được sủng ái được nâng lên hàng phi tần. Tất cả các phe phái, các thành phần ấy dòm ngó, kình địch nhau đều muốn tiến cử một cô gái là người của mình vào tay nhà vua. Và một khi đã được chấp thuận thì tương lai thật sáng lạn.
Bảo Đại muốn dẹp bỏ tất cả các chế độ cung phi cũng như thị nữ trả họ về đời sống dân gian của họ. Ông chỉ cho phép dùng các đầy tớ gái để phục dịch hầu hạ các bà Hoàng hậu.
“Cũng chỉ hai ngày sau, tức 10 tháng Chín, 1932, ông muốn hủy bỏ lễ bái lậy. Ông đã dùng tiếng Pháp thay vì tiếng Việt để phát biểu. Kể từ nay, hủy bỏ lệ bái lạy gập đầu xuống đất mà chỉ cần cúi đầu ba lần. Tin này được báo chí loan báo rộng rãi.
Có nhiều người còn nghĩ xa hơn, bỏ kinh thành Huế để thiết lập kinh đô tại Hà nội.”
(Daniel Grandclément, Bao Dai ou les derniers jours de l’empire d’Annam, nxb JC Lattès,1997, trang 35)
Nhưng người có sức thuyết phục Bảo Đại vẫn không ai khác là ông Charles, với tình bạn sẵn có với Khải Định và với nhiều năm bên cạnh Bảo Đại ở bên Pháp, ông có lời khuyên Bảo Đại với những tiết lộ úp mở liên quan đến lý do tại sao Khải Định lại được chỉ định kế nghiệp trong đó có sự mờ ám được ông Charles bao che như sau:
“Il faut que vous sachiez aussi que j’ai fortement appuyé la proposition de l’impératrice douairière pour le choix de votre père comme successeur après cette pénible affaire.
Sa majesté le savait fort bien. c’est dans cette circonstance que s’est crée l’amitié dont votre père voulait bien m’honorer et en raison de cette amitié qu’il bien voulu me confier votre éducation.”
(S.M. Bao Daï, ibid., trang 51)
“Ngài cần phải hiểu rõ điều này là tôi đã hết sức mình hỗ trợ lời đề nghị của Hoàng Thái Hậu để chọn cha của ngài như người kế vị sau cái sự kiện đau đơn này. Cha của ngài hiểu rõ điều này hơn ai hết. Chính trong cái hoàn cảnh ấy đã nảy sinh cái tình bạn mà cha của ngài muốn dành cho tôi cái vinh dự trao phó ngài cho tôi trong việc giáo dục.”
Đọc đoạn văn trích dẫn trên của vua Bảo Đại, tất cả nằm trong hai chữ “pénible affaire”, hé mở trên dù Bảo Đại không nói rõ, cho thấy việc Khải Định có tư cách được coi là hoàng tử kế nghiệp phải là công của Hoàng Thái Hậu và quyết định của ông Charles. Không có sự toa rập cái được gọi là “pénible affair” trên cho Khải Định thì ngôi vua đã không bao giờ tới tay Khải Định và dĩ nhiên cả Bảo Đại nữa. Bảo Đại nợ ông Charles mà cả đời Bảo Đại lo trả nợ cũng không hết.
Cũng dễ hiểu, Jean François Eugène Charles là Khâm sứ Trung Kỳ từ 1913 đến 1920; Khải định lên ngôi năm 1916, trị vì đến 1925. Khâm sứ Trung Kỳ (Résident supérieur de l’Annam) là viên quan thực dân chính thức điều hành việc cai trị Annam.
Và Bảo Đại đã thấm thía kết luận như sau:
“Les dernières paroles de M. Chares résonnent encore à mes oreilles.”
(S.M. Bao Daï, ibid., trang 51)
“Những lời nói cuối cùng của ông Charles còn vang vang bên tai tôi.”
“Hai tháng sau, người Pháp tổ chức một chuyến du hành ba tuần lễ của Bảo Đại ra Bắc Kỳ để trấn an và xóa nhòa những ấn tượng không mấy tốt đẹp về vụ Yên Bái đã xảy ra cách đây hai năm cũng như toàn quyền Pasquier đã phải cho thả bom ở thành phố Vinh.
Cùng với sự tháp tùng của ông Nguyễn Hữu Bài, đây là là lần đầu tiên kể từ thời Minh Mạng, vua nhà Nguyễn ra thăm miền Bắc. Bảo Đại đã được dẫn đi coi những công trình như mỏ than Hòn Gay, trường Mỹ Thuật và ông nhận thấy được tiềm năng sức mạnh kinh tế của miền Bắc so với kinh đô Huế.
Nhưng ông cũng nhận thức được vai diễn trò mà ông đang đóng.”
(S.M. Bao Daï, ibid., trang 52)
Khi còn học ở bên Tây, một mình một xe hơi, ông Bảo Đại đã rong ruổi khắp mọi miền nước Pháp. Nay về nước, nếu ông vẫn muốn đi rong ruổi khắp nơi bằng xe hơi, ít nhất cũng ở khắp miền Trung nghèo nàn, đói khổ để biết được đời sống của dân chúng, để nghe dân trần tình thì quý hóa biết bao. Ông sẽ có một tập hồ sơ để có thể nói chuyện với Pháp.
Tôi tin rằng làm được việc này, dân chúng khắp nơi sẽ đón tiếp ông như một người anh hùng. Ông sẽ được người dân tin tưởng và có tiếng nói như sức mạnh để nói chuyện với người Pháp. Không có dân chúng đứng đàng sau, Bảo Đại không đủ cái thế để nói chuyện với người Pháp. Không lạ gì sau này Hồ Chí Minh xuất hiện với cái thế nhân đân đã dược nhiều người hưởng ứng đi theo.
Rất tiếc, ông đã không làm. Cờ trong tay, ông đã không phất. Không một ai lúc bấy giờ có đủ uy tín bằng ông. Thật rất tiếc. Nhưng như thế mới đúng là Bảo Đại:
Thế của Bảo Đại là thế không bao giờ làm. Thế ngồi chơi để hưởng, để người khác làm, ích kỷ đến cùng của sự ích kỷ.
Việt Nam cần một vị vua thông minh và có thực tài, có uy tín với quốc dân để có thể điều khiển một nền hành chánh hữu hiệu do các đám quan lại tiến bộ và lương thiện. Những người này sẽ truyền đạt các quyết định ở trên để chuyển xuống cấp xã thôn, đó là những đơn vị nền tảng của xã hội Việt Nam mà họ có bổn phận thi hành các quyết định từ trên đưa xuống. Nhà vua trẻ sẽ trực tiếp điều hành đất nước cùng với những thành phần quan lại trẻ, tiến bộ và yêu nước buộc người Pháp phải nhượng bộ.
Daniel Grandclément đã nhận xét chính xác việc nhà vua trở về.
“Việc trở về của Bảo Đại có một ý nghiã chính trị to lớn, nếu Bảo Đại biết nắm lấy cơ hội mà người Pháp tự họ cũng muốn làm nhẹ gánh sự có mặt của họ về mặt hành chánh và trao cho người Việt cái phần vụ, người Annam quản trị người Annam mà người Pháp chỉ đông vai trò bảo hộ.
Chinh toàn quyền Chatel mong muốn Bảo Đại làm nhiều hơn thế nữa, đạt được những cải cách rộng rãi để toàn thể dân Annam thấy rằng đất nước của họ nay đã tìm được nguời lãnh đạo xứng đáng.”
(Daniel Grandclément, ibid., trang 29-30)
Rất tiếc, phải đợi đến tháng 3, 1949, giải pháp Bảo Đại mới ra đời xem ra đã quá trễ. (Xem: Nguyễn Văn Lục, Kỷ niệm 59 năm ngày ký Hiệp Định Elysées, ký kết giữa Pháp và Bảo Đại, Tân Văn, số 11, tháng 6-2008, trang 10-37)

“Cũng là do thúc đẩy của ông Charles, Bảo Đại muốn trẻ trung hóa guồng máy hành chánh của triều đình Huế. Cũng theo ý của ông Charles, Bảo Đại trước tiên thay thế vai trò nhiếp chính của ông Nguyễn Hữu Bài, người đã trong nhiều năm nắm vững guồng máy triều đình, bảo vệ ngôi vua của Bảo Đại khi ông còn ở bên Pháp.
Người đầu tiên được đề cử làm thư ký cho Bảo Đại là ông Nguyễn Đệ. Nguyễn Đệ gốc Hà Nội, viết báo bằng tiếng Pháp. Ông là người theo đạo Thiên Chúa giáo như Nguyễn Hữu Bài đồng thời là một chuyên viên về các vấn đề kinh tế.
Phạm Quỳnh được chỉ định thay thế Nguyễn Hữu Bài. Phạm Quỳnh lúc bấy giờ 35 tuổi tỏ ra rất trung thành với Bảo Đại. Phạm Quỳnh mong muốn cải tổ hiến pháp và đã viết bốn bài trên Hanoi France-Indochine. Trong đó chức vụ thủ tướng bị loại bỏ cũng như bộ trưởng bộ chiến tranh.
Và từ nay, chính Bảo Đại nắm giữ điều khiển guồng máy Quốc Gia. Để thay thế chức bộ trưởng chiến tranh, Bảo Đại kêu gọi đến một người trẻ tuổi khác là Ngô Đình Diệm nắm giữ Bộ Nội Vụ. Ngô Đình Diệm gốc gác là một gia đình quan lại, anh của ông làm tổng Đốc Faifo. Ông ta cũng người Thiên Chúa giáo, một người có cá tính, nổi tiếng thông minh và trung thành. Ông ta còn là một người Quốc gia bảo thủ.
“Ngoài vai trò Bộ trưởng nội vụ, ông Ngô Đinh Diệm còn đảm trách công việc (Secrétaire de la Commission mixte franco-Vietnamien) Tổng thư ký Hội đồng Pháp-Việt hỗn hợp có nhiệm vụ nghiên cứu việc cải tổ sẽ được tuyên bố vào năm tới và thành phần của Hội Đồng bao gồm các bộ trưởng Annam và các viên chức cao cấp của Pháp.”
(S.M. Bao Daï, ibid., trang 57-59)
Bộ trưởng Tư pháp được giao cho ông Bùi Bằng Đoàn.
Và sau đây là ý kiến của Bảo Đại về thành phần nội các mới như sau:
“Je faisais confiance au tandem Pham Quynh- Ngô Đinh Diệm. Ce dernier n’avait accepté les fonctions de ministre qu’à la condition de pouvoir modifier la société vietnamienne, sa réputation de caractère me laisse espérer qu’il irait de l’avant. La position de Phạm Quỳnh, plus en retrait, benéficiant de l’appui du gouvernent général, faciliterait les manoeuvres qui pourraient s’imposer.”
(S.M. Bao Daï, ibid., trang 59)
“Tôi tin tưởng vào cặp Phạm Quỳnh-Ngô Đình Diệm. Ngô Đình Diệm đã chỉ chấp nhận vai trò bộ trưởng với điều kiện là ông ta có thể thay đổi được xã hội Việt Nam, nổi tiếng là người có bản lĩnh làm tôi thêm tin tưởng ông ta có thể đi xa hơn. Vị trí của Phạm Quỳnh, ở vị thế đằng sau sẽ dễ có cơ hội được sự hỗ trợ của chính quyền, và giúp dễ dàng thông qua được những chuyển biến.”
Căn cứ vào trách nhiệm được Bảo Đại giao phó, ông Ngô Đình Diệm đã đặt vấn đề với người Pháp, nhưng những đề nghị cải tổ của ông đã bị người Pháp gạt đi hết.
Hãy nghe chính Bảo Đại giải thích đầy đủ và cặn kẽ về vấn đề này để tránh những tranh cãi ngoài văn bản như sau:
“Người Pháp đã chống đối lại tất cả mọi cải cách, mặc dầu những cải cách này rất là cần thiết. Cũng nên hiểu rằng ở thời kỳ này, một người An nam ngang cấp bực với một người Pháp trong hệ thống hành chánh, người Annam ấy không được đối xử ngang hàng như người Pháp. Chẳng hạn, anh của Ngô Đình Diệm, chức vụ là tổng đốc, nhưng lương bổng thì không bằng một viên cảnh sát Pháp làm việc ở Hà Nội.
Chính vì thế, không thể tránh được việc các viên chức An Nam này để khỏi mất mặt, đã lợi dụng quyền thế để bắt nạt dân chúng. Sự bất công ấy sẽ dẫn đưa đến việc tham nhũng mà không thể nào tránh được. Và rồi một số viên chức khá nhất đã chán nản rời bỏ công việc quản trị hành chánh và kỹ thuật công để nhảy ra làm tư. Việc tranh đấu để đạt được một vài thay đổi trong quy chế bảo hộ đã không đi đến đâu và hầu như bị tê liệt. Và vào khoảng 4 tháng sau, tức tháng 9, 1933, Ngô Đình Diệm đã không tìm thấy ở Phạm Quỳnh một sự yểm trợ nào như ông ta mong đợi, ông ta đã xin gặp tôi.”
“- Sir, me dit-il, je viens vous présenter ma démission et vous demander l’autorisation d’abonner toutes les fonctions dont Votre Majesté a bien voulu m’honorer.-
Excellence, mon secrétaire Nguyen Đe m’a tenu au courant de vos dificultés, mais je pense que votre devoir est de rester à votre poste.
Sire, que Votre Majesté me pardonne, mais ce n’est pas tenable. Demeurer à mon poste serait une lamentable comédie à laquelle je ne peux prêter. Les Francais ont tous les pouvoirs, ils en sont arrivés à administrer directement le pays sous le couvert d’un traité de protectorat dont les dispositions sont violées tous les jours. […]
Sire, ce que votre Majesté me demande est au-dessus de mes forces, s’obstine-t-il. Je n’ai pas le droit de rester. Que votre majesté veuille bien me permettre de me retirer.
Vous le pouvez, Excellence. Ce qui est impossible à votre souverain est en votre pouvoir.. Espérons que votre départ alertera les Francaís et le conduira à une plus grande compréhension. De toute manière gardez-vous disponible, un jour j’aurai besoin de vous et je vous rappellerai.
Votre Majesté peut alors compter sur mon total dévouement.”
(S.M. Bao Daï, ibid., trang 59-60)
“Thưa hoàng thượng, ông ta nói, tôi xin hoàng thượng cho phép tôi được từ chức và cũng xin hoàng thượng cho phép tôi được từ bỏ mọi tước vị mà hoàng thượng đã ưu ái ban tặng.
Thưa ngài, người thư ký của tôi, ông Nguyễn Đệ đã cho tôi biết rõ tất cả những khó khăn mà ngài gặp phải, nhưng tôi nghĩ rằng bổn phận của ngài vẫn là phải ở lại chỗ của ngài.
Thưa hoàng thượng, xin hoàng thượng tha thứ cho tôi, nhưng điều đó tôi không thể nào làm nổi. Ngồi lại chỗ tước vị của tôi sẽ trở thành một trò hề thê thảm mà tôi không thể làm được. Người Pháp họ có đầy đủ các quyền hành và rồi họ đã quản trị trực tiếp đất nước này dưới chiêu bài một hiệp ước bảo hộ mà sự vi phạm trắng trợn xảy ra hằng ngày..(..)
Thưa Hoàng thượng, những điều hoàng thượng yêu cầu tôi thật là quá sức của tôi, ông ta cương quyết nói. Tôi không có quyền ngồi lại.. Vậy thì xin hoàng thượng cho phép tôi được từ chức..
Thưa ngài, dĩ nhiên là tôi không thể ngăn cản được ý định của ngài..Chỉ còn hy vọng sự ra đi của ngài sẽ cảnh báo cho người Pháp và nhờ vậy họ sẽ có một thái độ hiểu biết rộng rãi hơn. Nhưng bằng bất cứ lúc nào một ngày nào đó tôi cần đến ngài, ngài cũng sẵn sàng đáp lời mời của tôi.
Thưa hoàng thượng ngài có thể tin vào sự tận tâm và trung thành hoàn toàn của tôi.”
Sau đó, Bảo Đại đã bày tỏ tâm sự như sau:
“Ngô Đình Diệm từ chức rồi, tôi rơi vào tình trạng hoàn toàn chán nản. Chắc chắn là con người ấy có cá tính cứng rắn. Ông ta cứng cỏi đến độ có thể rơi vào tình trạng phe phái. Đằng khác, tôi hiểu rằng, ông ta chịu ảnh hưởng của Nguyễn Hữu Bài mà ông này không thể nào chấp nhận việc từ chức của Diệm sẽ đem lợi thế cho Phạm Quỳnh.”
Và khi biết tin Ngô Đình Diệm từ chức, Nguyễn Đệ là người bạn tâm huyết của Ngô Đình Diệm đến lượt ông ta cũng xin từ chức. Ông này nói:
“Thưa Hoàng thượng, mặc dầu gắn bó cá nhân với hoàng thượng, ông ta nói với tất cả tâm tình, tôi thấy tôi không có lý do gì ở lại tước vị của tôi vì việc đó chỉ làm mất thời giờ của tôi. Đã 6 tháng nay, tôi giữ nhiệm vụ hành chánh, kinh nghiệm đó đủ cho tôi rồi. Ở cái đất Annam này, ai cũng muốn làm quan. Nhưng nó không nằm trong trường hợp của tôi. Tôi đứng đầu văn phòng của hoàng thượng, tôi lĩnh 120 đồng mỗi tháng. Ở nhà băng Đông Dương trong lúc này, họ sẵn sàng giả tôi 300 đồng một tháng. Việc đào tạo của tôi thích hợp cho công việc quản trị.. Tôi nhận lời làm việc cho hoàng thượng chỉ vì muốn phụng sự cho đất nước tôi thoát ra khỏi hoàn cảnh hiện nay..(..) Nhưng mong hoàng thượng hiểu cho việc từ chức của tôi không phải một sự bỏ cuộc, tôi sẽ làm việc ỏ trong lãnh vức khác mà tôi vẫn có thể mưu tìm được sự độc lập về kinh tế. Tôi sẽ làm comprador(người làm trung gian giữa ngân hàng và khách hàng, người mại bản) thay thế người Comprador Tàu Và rồi tất cả những ai cần vốn xây dựng cơ sở thì tôi sẵn sàng giúp họ.”
Và Bảo Đại viết với câu kết thúc: “Me voici seul”. Lúc này đây, chỉ còn lại một mình tôi.
(S.M. Bao Daï, ibid., trang 61)
Khi Bảo Đại than, chỉ còn lại một mình tôi có thể chỉ đúng có một nửa. Bởi vì, ngay sau đó, Bảo Đại nhìn thấy cái thế của Pasquier-Phạm Quỳnh là thế tốt nhất để ngả theo họ.
Thất bại trong chương trình muốn cải cách hành chánh dưới chế độ bảo hộ của Pháp. Bảo Đại không có cách gì khác hơn là giao Bộ Nội vụ cho Phạm Quỳnh, một kẻ thân tây, do Pasquier đưa vào từ Hà Nội vào. Chọn Phạm Quỳnh là chọn đứng về phía kẻ mạnh, thế của người Pháp.
Và ông cho rằng, trước lịch sử, không ai có thể có quyền kết án ông được. Dĩ nhiên, đây là một sự biện hộ cần thiết. Nhưng dù muốn dù không, đây là cú thất bại mở đầu cho vị vua trẻ khi về chấp chánh.
Nhận định và đánh giá sự từ chức của Ngô Đình Diệm, theo Daniel GrandClément
“Sau vụ từ chức thượng thư bộ lại, tên tuổi Ngô Đình Diệm được nhiều báo chí nhắc tới. Tờ Tribune Indochinoise đưa tin này lên trang đầu. Có tờ báo gọi ông là người anh hùng, ông là một trong những người khá nhất và duy nhất bảo vệ quyền lọi cho người Annam.
Nhưng tờ Tribune Indochinoise đề cập đến những vấn đề gì? Họ đề cập đến các chương trình cải cách mà Ngô Đình Diệm đề ra, những chương trình mà ông Diệm có trách nhiệm đề ra và bàn thảo với người Pháp. Chẳng hạn toàn quyền Đông Dương có quyền phủ quyết tất cả những quyết định, ngay cả những quyết định không mấy quan trọng. Như vậy, guồng mấy cai trị vẫn gĩữ y nguyên. Chưa kể, trong Hội đồng bộ trưởng của chính phủ Nam triều cũng có người Pháp tham dự và họ quyết định tất cả được hay không được vượt quá giới hạn đã được quy điịnh trong Hòa ước bảo hộ năm 1884.
Điều làm cho ông Ngô Định Diệm bất mãn và chống đối là từ nay toàn quyền Eugène cùng với Phạm Quỳnh muốn truất cái quyền xử án của các quan chức Annam ở các địa phương, không cho phép họ xử án. Và như thế họ sẽ mất một số lợi tức đồng thời tạo ra tình trạng tham nhũng hà hiếp dân chúng.”
(Daniel Grandclément, ibid., trang 39-42)
“Diệm một mình chống đối, phản kháng cho quyền lợi của quan chức địa phương. Ông không biết rằng có nhiều vận động chính trị và có thể do ông Ngô Đình Diệm đã cung cấp cho báo chí những phúc trình về các phiên họp. Điều ấy là một vi phạm và là cớ cho người Pháp loại trừ ông.”
(Daniel Grandclément trích Trịnh Đình Khải. Trịnh Đình Khải (con trai luật sư Trịnh Định Thảo), tiết lộ trong “Décolonisation du Viet Nam, un avocat témoigne”, L’Harmattan, 1994)
Cũng theo tiết lộ của Ls Trịnh Đình Khải, người Pháp đã nắm lấy cơ hội này để loại trừ Ngô Đình Diệm và tước hết mọi quyền hành cũng như bổng lộc. Bảo Đại vẫn là người ủng hộ các chương trình cải cách của Ngô Đình Diệm. Nhưng… chính là chữ nhưng!
“Et l’Empereur? Toujours résolument partisan du mouvement du changement, et sans doute toujours sous l’influence Francaise, il appuie Pasquier, Chatel et Phạm Quỳnh.”
(Daniel Grandclément, ibid., trang 44)
“Còn Hoàng thượng? Ông vẫn luôn luôn là người ủng hộ các chương trình cải cách, nhưng cũng chắc chán ông chịu ảnh hưởng người Pháp, ông ủng hộ Pasquier, Chatel và Phạm Quỳnh.”
Theo Daniel,
“Huế đã chết. Các vua kế tục nhau chỉ là những sản phẩm kế thừa của Pháp. Họ không điều khiển guồng máy Quốc gia, cũng không quyết định được điều gì và cứ thế cho đến cuối thế kỷ. Người Việt chia rẽ, kẻ theo Pháp thì ủng hộ các chính sách của Pháp. Thành phần quốc gia thì chẳng những muốn tranh đấu loại bỏ chế độ thực dân thuộc địa mà còn cả chế độ phong kiến của triều đình nhà Nguyễn.”
(Daniel Grandclément, ibid., trang 81)
Riêng Bảo Đại, sau vụ từ chức của Ngô Đình Diệm, ông đã viết trong hồi ký của ông như sau:
“On nous laisse dans l’ignorance absolue de notre sort, de notre avenir. La fameuse commission des réformes, aussitôt après le départ de Ngo Đinh Diệm, s’est ajournée sine die.”
(S.M. Bao Daï, ibid., trang71)
“Họ bỏ mặc chúng tôi cho số phận mù mịt của chúng tôi, về tương lai của chúng tôi. Cái Ủy Ban nổi tiếng về cải đổi hành chánh của Ngô Dinh Diệm cứ bị trì hoãn cho đến không biết đến bao giờ.”
Chế độ bảo hộ của người Pháp sau đó
Nói cho cùng chế độ bảo hộ của người Pháp không làm vừa lòng một ai cả. Về mặt lý luận, sức mạnh của một quân đội chỉ hữu hiệu khi dùng để đánh lại một quân đội khác, nhưng sức mạnh ấy lại không thể đánh lại một tư tưởng, một tình tự yêu nước. Súng ống đôi khi trở thành vô dụng. Người Pháp có thể dùng bạo lực để bắt người, để tra tấn. để cầm tù, nhưng lại không thể cầm tù một tư tưởng.
Ngay cả bản thân Bảo Đại khi tiễn chân ông bà Charles về Pháp, Bảo Đại cũng có đôi lúc bày tỏ tâm sự chán nản, mất tin tưởng. Nhưng ông Charles đã khuyên Bảo Đại kiên nhẫn và nhìn những tiến bộ và cải tiến về mặt kinh tế, xã hội, xây dựng đường xá, giao thông và nhất là y khoa phòng ngừa, v.v.
Và Bảo Đại vẫn tin rằng những người quốc gia họ có lý của họ.
Một tỉ đụ, Bảo Đại muốn có một cuốn album thật đẹp, bọc da, trị giá 250 đồng bạc cũng phải trải qua nhiều thủ tục. Cần đến ba hóa đơn khác nhau có chữ ký của các quan chức thuộc địa.
Nói vậy thôi. Còn chế độ thuộc địa thì Bảo Đại mới có chỗ tựa.
Bảo Đại làm vua sống giàu sang phú quý là nhờ chế độ thuộc địa. Sau này, chẳng những ông mua một máy bay mà đến hai máy bay để bay lượn trên bầu trời Huế.
Đấy là cái cảnh mà mỗi lần nghĩ tới, tôi lấy làm bất nhẫn. Người Pháp mua một cái danh nghĩa trên con người bảo Đại bằng sự lầm than của cả một dân tộc. Việc mua ấy xem ra quá rẻ. Nhân tiện đây cũng xin chi tiết hóa việc mua báy bay của ông.
“Thoạt đầu Bảo Đại tính mua một máy bay của hãng Republic Aircraft Corporation Farmingale ở tiểu bang Nữu Ước. Nếu mua một chiếc thủy phi cơ cũ Grunman thì trị giá 57.000 đô la. Nếu mua mới thì giá là 64.000 đô la. Toàn quyền Decoux được tin này đã thông báo cho chính phủ Pháp và họ đã bằng lòng tặng cho Bảo Đại một máy bay mới sản xuất tại Pháp mà giá thành rẻ hơn. Vậy là ba tháng sau, Bảo Đại có chiếc máy bay du lịch Farman F.393.”
Và Daniel đã rất có lý và hiểu sâu xa khi ông vắn tắt kết luận như sau:
“La vie de la cour est faite de ces misérables et humiliantes batailles.”
(Daniel Grandclément, ibid., trang 87)
“Đời sống ở triều đình chỉ lă kết quả do những cuộc đấu đá tranh dành đưa đến thảm bại và nhục nhã.”
Qua câu này, kẻ thù của người dân Việt không phải chỉ là thực dân Pháp mà còn là một cái triều đình mục rữa qua Bảo Đại. Cái triều đình nhà Nguyễn gồm 9 chúa 13 vua mà không một vị vua nào xứng tầm so với chín đời vua Xiêm La, đặc biệt với Quốc Vương Bhumitol Adulyadej vừa qua đời.
Người Pháp trở thành ông chủ: một viên cảnh sát được gửi từ Paris sang lĩnh lương cao hơn một ông đầu tỉnh như Bảo Đại đã nhắc đến ở trên.
Dần dần Bảo Đại chán nản, tự khép mình lại, ít qua lại thăm viếng ông bà Charles cũng ít giao tiếp với các quan tây.
Sự khép mình về phía kẻ mạnh của Bảo Đại đã kéo theo cả một tầng lớp quan lại, trí thức tư sản trở thành những kẻ “hợp tác” “collabos” sẵn sàng quỳ gối dưới chân thục dân Pháp. Vua như thế thì thần đân cũng như thế.
Tuy nhiên, trong số ấy cũng có nhiều kẻ tin rằng sự hợp tác với người Pháp chỉ là kế sách tạm thời và nhờ người Pháp, nhờ sự văn minh tiến bộ khoa học và kỹ thuật của họ, người Việt Nam trước hết thoát ra khỏi chế độ phong kiến và chế độ quân chủ tuyệt đối.
Kinh nghiệm của phong trào Cần Vương (Cho nhà vua, năm 1883-1885) thất bại vì thứ nhất, sĩ phu đã tựa vào một chế độ quân chủ đã mục nát. Thứ hai, rất bảo thủ, họ đã chọn giải pháp dễ nhất, mục tiêu của họ thay vì người Pháp lại là người Thiên Chúa giáo. Thứ ba, họ dựa vào nước Tàu như một thói quen, như một điểm tựa thì chính nước Tàu đã chính thức không can thiệp quân sự vào Việt Nam, vì họ đã ký kết một thỏa hiệp hữu nghị với người Pháp năm 1884. Chính cái quyết định không can thiệp vào Việt Nam của Tàu đã là yếu tố quyết định cho sự tan rã nhanh chóng của phong trào Cần Vương. Còn có thể có yếu tố thứ tư là người Pháp đã dùng lá bài quen thuộc “chia để trị” của những vị sĩ quan như Galliéni, Lyautey, Pennequin. Họ đã mua chuộc được các bộ lạc thiểu số ở phía Bắc Việt Nam bằng cách thiết lập những đơn vị lính bổ xung được trang bị súng ống để tự quản.
Chính sách chia để trị còn thâm độc hơn ở chỗ xử dụng chẳng những một số quan lại Việt Nam để cai trị người Việt Nam. Họ còn xử dụng một tầng lớp tư sản thành thị, lớp trưởng giả mới như một biểu tượng của một xã hội văn minh dưới bóng của người Pháp. Những người này tin tưởng rằng, nước Pháp là một sức mạnh không thể tiêu diệt được và thật vô ích chống lại họ. Trong khi đó, một triều đình mục nát cố bám víu một cách tuyệt vọng vào một quá khứ hào quang vốn không có.
Và người Pháp đủ khôn ngoan đã đánh bóng cái ngai vàng của Bảo Đại. Mà thực tế nếu có đánh đuổi được người Pháp thì liệu có thể canh tân được đất nước không? Hay tất cả sẽ lại vẫn như cũ? Hoàng đế vẫn là con trời, vẫn ngự nơi chôn cao xa, vẫn tiếp tục xa hoa lãng phí với hàng trăm vợ, vẫn suốt đời ở trong cung cấm? Cái suy nghĩ, cái tinh thần ấy đã được nhiều người chấp nhận coi như đường lối thích hợp nhất.
Phần Bảo Đại, nay cũng ít xuất hiện trước dân chúng. Rồi đến mùa mưa ở Huế, ông lấy cớ khí hậu ẩm ướt lên Đà Lạt ở, đồng thời có dịp để đi săn.
Ông ẩn nhẫn chấp nhận sự gò bó o ép của chế độ Bảo Hộ và tìm cho mình một lối thoát dễ dãi. Đó là thể thao, đi săn và đàn bà. Nhiểu người bám lấy thái độ này của Bảo Đại để bào chữa và coi việc chơi bời bê tha của Bảo Đại là một thái độ chính trị. Báo chí đôi lần nhắc nhở đến ông với những giai thoại ăn chơi, và họ ví ông như ông hoàng Monaco Việt Nam. Hoàng gia Việt Nam sống pha trộn sắc thái Đông Phương và Tây Phương trong một đất nước còn chìm đắm trong lạc hậu và chậm tiến.
Càng tâng bốc Bảo Đại trong cái tinh thần ấy, càng làm cho hình bóng Bảo Đại mờ nhạt, mất tính quần chúng và xa lạ.
Câu hỏi đặt ra cho tôi là không hiểu vua Bảo Đại có cảm thức được nỗi nhục nhã như lời nhận xét của Daniel Grandclément khi kết thúc câu truyện mua máy bay của ông?
Bảo Đại lấy vợ
Đám cưới của Bảo Đại lại là dịp cho người Pháp có dịp phô trương, quảng cáo rầm rộ với tất cả sự sang trọng có thể của nó. Sau đây là phần lược dịch một bài báo đăng trên tờ Illustration ngày 14/4/1934, tường thuật tại chỗ đám cưới hoàng gia nhan đề: “Đám cưới của Hoàng đế Annam”.
[Nam phong tạp chí, số 193 tháng 2 + 3, 1934 có bài tường thuật chi tiết sự kiện này. Tác giả Nguyễn Hữu Hiệp trong bài “Vua Bảo Đại cưới vợ và chuyện ‘phá lệ’ tấn phong Hoàng hậu” đăng trên báo Dân Việt ngày 14/9/2014 đã trích dẫn nguyên văn.]
“Đám cưới của vị Hoàng đế trẻ tuổi Bảo Đại xứ Annam đã được cử hành một cách hết sức trọng thể ở Huế như chúng tôi đã có dịp thông báo. Các buổi lễ khác nhau đã kéo dài hơn một tuần lễ từ ngày 15 tới 26 tháng ba. Các nghi thức của buổi lễ đặc biệt này đã được bàn thảo kín đáo tại triều đình do bộ trưởng bộ nghi lễ chủ trì. Làm thế nào một mặt vẫn thỏa đáng với các nghi thức cổ của triều đình và của các nhà sư ở chùa và mặt khác phù hợp với tinh thần tân tiến của đôi tân hôn mà cả hai đều được giáo dục từ nhỏ ở bên Pháp. Các nhà thiên văn học của Phật giáo được mời tới tham khảo để chọn được ngày lành tháng tốt theo tục lệ đã được ấn định và tuân thủ một cách rất nghiêm ngặt để tránh được tất cả nhưng chuyện thị phi phiền toái.
Ngày 15-3, Hoàng đế trong áo thụng vàng, cánh tay áo rộng với một khăn đội đầu cũng màu vàng, kèm theo một đám rước nhỏ đã đến điện Phụng Tiên có các quan nội thần đi hầu, để làm lễ kỳ cáo; rồi tâu với Lưỡng tôn cung và Hoàng thái hậu về việc làm lễ Đại hôn.
Đó là công việc đầu tiên. Ngày 17-3 đến lượt các hoàng tử có bổn phận đi đón cô dâu trẻ từ đèo Hải Vân “Col des nuages” sau đó tháp tùng cô dâu về kinh đô ở nhà khách vãng lai trong thời gian ba ngày.
[Nam Phong Tạp chí số 193 tháng 2 + 3, 1934 viết, “Ngày 3 tháng Hai (17 mars). Hoàng thân Bửu Liêm cùng Phủ thiếp và Hoàng tùng đệ vào Lăng Cô đón Hoàng hậu rước về Kinh đô. Khi tới cung Trú tất ở Kinh đô, Hoàng hậu trú ở cung ấy suốt ngày mồng 3, 4 và 5 tháng 2 (17, 18 và 19 mars).”]
Đến ngày 20-3, vào buổi sớm mai, cô dâu choàng một khăn màu thiên thanh và mặc mặc áo thụng thêu đỏ lên xe hơi với gia đình cô dâu đến diện Dưỡng Tâm, nơi đây có một hàng rào danh dự với bốn lọng đỏ che hai bên, 10 lá cờ đứng dàn trước Cung Trú tất. Đám rước được quân lính và cảnh vệ hộ tống đến chỗ ở tạm thời của tân Hoàng hậu.
Chính những hình ảnh đón tiếp trong dịp đặc biệt ngày 20-3 này sẽ được chúng tôi cho đăng báo vào ngày 21 tháng 4 sắp tới đây.
Ngày 21-3 có việc ra mắt cô dâu chú rể tại cung điện Cấn Thành và sau đó Hoàng đế được đưa về điện Kiến Trung còn cô dâu được đưa về điện Dưỡng Tâm.
Buổi lễ chính thức được định vào ngày 24-3. Tân Hoàng hậu trong phẩm phục lộng lẫy đã nhận kim ấn và kim thư, còn cờ mao tiết thì giao cho các quan Khâm mệnh đem về phục mệnh tại điện Cần chánh. Sau đó, tân Hoàng hậu sẽ cúi đầu bái hòang đế ba bái.
Cặp hoàng gia sau đó sẽ về ở một cung điện cổ mà bên ngoài còn giữ nguyên cấu trúc cũ. Nhưng bên trong đã được trang trí theo lối mới do một kiến trúc sư Pháp thực hiện. Trong những vườn bên cạnh đã cho làm thêm các sân chơi Tennis, sân Golf trước sự kinh ngạc của các quan lại trong triều đình.
Ngày 26-3, lại một lần nữa, có một buổi đại lễ tại điện Thái Hòa với sự có mặt đô các quan trong triều đình, tất cả các viên chức dân sự và quân sự trong chính quyền bảo họ cũng như các phái đoàn.
Ngày 29-3, vua và Hoàng hậu đi thăm viếng các lăng mộ của các Tiên đế.
Bài báo tường thuật này không thể cho phép ghi chép đầy đủ vô số các chi tiết các buổi lễ linh thiêng cũng như các cuộc viếng thăm đã liên tiếp được diễn ra ở các cung điện khác nhau. Việc tường thuật tóm tắt này chỉ cho ta một vài ý tưởng mà trong thực tế là rất sang trọng cũng như những đám rước linh đình với các chức sắc cũng như các phụ nữ phù dâu trong những bộ quần áo sặc sỡ và sang trọng.”
(Nguồn: “Le mariage de l’Empereur d’Annam” trên tờ Illustration, số ra ngày 14-4-1934)
Cái cảm tưởng của tôi sau đám cưới này là Bảo Đại và bà Nam Phương đã trở thành giấc mơ của cả dân tộc. Họ có tất cả. Tình yêu, tuổi trẻ, tiền bạc, danh vọng, sự lịch sự hào nhoáng, phong cách mới của thời đại tiến bộ văn minh.
Nhưng cả dân tộc tôi cho đến ngày hôm nay vị tất đã có cặp uyên ương nào có được tất cả những thứ mà Bảo Đại có. Mà giả dụ có thì được cái gì? Một đất nước nghèo nàn, chậm tiến, bị đô hộ có cần một biểu tượng một đám cưới hoàng gia như thế không?
Điều thứ hai là sau đám cưới, Bảo Đại cũng như chính quyền Pháp dập tắt tất cả những dư luận cho rằng Bảo Đại đã theo đạo. Thật sự đó là một dư luận chính trị không cần thiết. Chính quyền Pháp muốn một ông vua Bảo Đại của quần chúng. Đó là một hôn nhân chính trị mà tôn giáo giữ vai trò phụ. Cùng lắm, sự quan trọng chỉ có ý nghĩa riêng đối với Hoàng hậu Nam Phương.
Ở Dụ số 4 ngày 21 tháng Giêng năm Bảo Đại thứ 9 (6 tháng 3, 1934), Bảo Đại viết:
“Vậy nên Trẫm lựa một người thiếu nữ quán ở Nam Kỳ, tên là Nguyễn Hữu Thị Lan tức là Mariette Jeanne Nguyễn Hữu Hào, con một nhà có danh giá trong lục tỉnh.”
Hoàng hậu tương lai là cô Mariette Jeanne Nguyễn Hữu Hào, cháu ngoại ông Huyện Sĩ Lê Phát Đạt, người giầu nhất xứ Nam Kỳ thời đó.
“Hoàng hậu có đủ tài văn chương, thể thao và âm nhạc, năm nay 21 tuổi, có nhập tịch dân Pháp và là người bên giáo, đã xin phép đức Giáo hoàng bên La Mã cho được kết duyên với đức Bảo Đại.”
(Nguồn: Nguyễn Hữu Hiệp, ibid., Dân Việt, 14/9/2014)
Cơ quan chính thức của Vatican qua tờ Obsservatore Romano xác định lại lập trường của tòa thánh là không thay đổi. Có nghĩa là Giáo Hoàn Pio XII trả lời là: không. Sự theo đạo của Bảo Đại nếu xảy ra là một bất lợi cho tất cả, thêm chia rẽ và đố kỵ.
Về phần Bảo Đại, trong hồi ký ông viết rõ ràng: “Au palais, il n’y avait qu’un Dieu: L’empereur, Fils du ciel. (S.M. Bao Daï, ibid., trang 65)
“Trong hoàng cung, chỉ có một ông trời: Đó là Hoàng đế, con của trời.”
Chính vì tự thần thánh hóa chính mình theo tục lệ như thế, Bảo Đại sống rất xa dân, thay vì gần dân; ông sống hoàn toàn ich kỷ mà tưởng mình sống đúng. Đây là những trích đoạn để bạn đọc có thể hiểu về con người thật của Bảo Đại. Ông viết:
“Pourtant, il n’est pas nécessaire, il n’est pas utile à l’Empereur de se montrer pour gouverner. […] Il n’est pas nécessaire que l’Empereur soit présent pour que le peuple se sache gouverné. Il suffit que de temps à autre- le plus rarement possible- il apparaisse publiquement, à l’occasion d’une réception ou d’une audience afin de montrer qu’il est bien vivant. Tous ceux qui, en Orient, ont exercé le pouvoir, ont toujours agi ainsi. Le prince, s’il est pontifié-celui qui établit le pont entre le Ciel et son peulple-est ausi, et par voie de conséquence, le médiateur entre le peuple et son avenir.”
(S.M. Bao Daï, ibid., trang 73)
“Dầu vậy, thật không cần thiết và cũng chẳng có ích lợi gì cho một vị Hoàng đế phải chứng tỏ rằng mình đang điều khiển. […] Cũng không nhất thiết vị Hoàng đế lúc nào cũng phải có mặt để dân chúng biết rằng họ đang được chăn dắt. Chỉ cần lâu lâu thỉnh thoảng — càng hiếm càng tốt — Hoàng đế xuất hiện nơi công cộng trong một dịp tiếp tân hoặc chiêu đãi để cho thấy là Hoàng đế vẫn còn sống. Tất cả các vua chúa Đông Phương khi tại vị đều hành xử y như vậy. Vị Hoàng tử khi được tôn vương là người bắc một cây cầu giữa Ông Trời và thần dân của ông ấy đương nhiên trở thành người trung gian giữa thần dân và tương lai của ông ấy.”
Bảo Đại và Nam Phương cùng một số người trong hoàng tộc gặp GH Pius XII tại Vatican năm 1/9/1950. Nguồn: Getty Images
Hiểu vai trò làm vua là con trời nên chúng ta sẽ không lạ gì Bảo Đại có 5000 mẫu đất có rừng cây ở Cam Lộ để chỉ cần mất hai tiếng đường xe hơi từ Huế đến Quảng Tri để đi đến đó tìm sự tĩnh mịch. Và Bảo Đại cũng đã xây dựng những căn nhà tranh ở đó và đã từng bắn chết hàng trăm con bò rừng ở đó như những thành tích vẻ vang của Bảo Đại. Ông thường tự lái máy bay lên Ban Mê Thuột, lúc ở Đà Lạt, và phần lớn thời gian còn lại ở lâu đài Thorenc bên Pháp để… chăn dắt thần dân.
Trong những phần viết về đi săn, phải nhìn nhận ông là người đầy kinh nghiệm. Tôi cũng từng được xem những cuộc đi săn của người Pháp với đàn chó săn được chọn giống, cả trăm con được huấn luyện kỹ càng chỉ để đưổi bắt một hai con thỏ rừng. Về Việt Nam, Bảo Đại có nhiều cơ hội để săn các thú rừng như bò rừng. Và có lẽ đây là những trang viết thú vị, tâm cảm, sự hòa hợp giữa thiên nhiên-con người và là những trang hay nhất trong cuốn sách Hồi ký của ông.
Những báo hiệu mây mù chính trị
Là một người đứng đầu nước, nhưng tôi có cảm tưởng Bảo Đại không mấy quan tâm đến những biến chuyển chính trị trong nước và ngoài nước.
Chẳng hạn khi bị thúc thoái vị Hoàng đế, Bảo Đại còn hỏi một cách ngây thơ: “Nguyễn Ái Quốc là ai?”
Trong nước có một số trí thức được học hành đến nơi đến chốn là những trí thức như bác sĩ, luật sư, những kỹ sư, những nhà giáo. Họ trở thành thành phần chống Pháp cấp tiến và cực đoan nhất mà khẩu hiệu hành động của họ là: “Sự áp bức đến với đất nước chúng ta từ nước Pháp, nhưng tinh thần giải phóng cũng đến từ Pháp.”
Họ cũng về nước trong khoảng thời gian từ 1930. Nhưng cách suy nghĩ, thái độ đối với người Pháp không cùng mẫu số chung với Bảo Đại. Hình như Bảo Đại tránh né, hoặc không hề đề cập đến những thành phần yêu nước này mà phần lớn ở Nam Kỳ dù chỉ một lần.
Nước Pháp cũng không chỉ có một nước Pháp. Có nước Pháp của tiến bộ, bảo thủ, xã hội, cộng sản và nước Pháp công giáo và nước Pháp vô thần. Có những người Pháp ôn hòa, chấp nhận tình trạng thuộc địa, nhưng nói không với dùi cui.
Vào những năm 1939, đã có không biết bao nhiêu biến động, những phong trào không phải chống Pháp, mà đình công ở các nhà máy, các hầm mỏ, các đồn điền cao su thuộc hãng Michelin.
Đây là những chuyển biến mới, mặc dầu xảy ra cả ở miền Trung cũng không được Bảo Đại quan tâm. Bảo Đại ít khi có mặt trong các cuộc họp Hội đồng cơ mật. Giả dụ có mặt thì cũng với một thái độ lơ là, buồn tẻ. Ông tiếp tục cuộc sống an nhàn, không quan tâm tới các biến động trong nước như thể triều đại của ông sẽ tồn tại muôn thuở.
Năm 1938, trong một trận đá banh ở Đà Lạt, ông bị gãy chân và đã được các bác sĩ Tây ở nhà thương Grall Sài Gòn chữa trị. Nại cớ để cho chữa trị cái chân gãy cho mau lành xương. Ông đã làm một cuộc du hành cùng với cả gia đình sang Pháp vào năm 1939. Công việc triều đình, ông đã bàn giao cho người em họ là Bửu Lợi trông nom việc tế lễ cúng bái trong triều.

Tin Bảo Đại gẫy chân trong một cuộc đi chơi núi ở Ban Mê Thuột. Nguồn: Tràng An báo, Số 382, 20 Tháng Mười Hai 1938 (Page 1)
Ông hình như không tiên đoán được những điều gì sẽ xảy ra cho nước Pháp và cả thế giới? 1 tháng 9, 1939 Đức xâm lăng Ba Lan bắt đầu chiến tranh Thế giới lần thứ hai. Và điều đó cũng đem lại những điềm chẳng lành cho xứ Annam.
Ông dùng máy bay sang Pháp của hãng Air France hoạt động từ năm 1932 cùng vói viên Tổng thư Ký của hãng này tháp tùng. Chuyến bay mất 5 ngày. Phần Hoàng hậu và các con sẽ đi bằng đường tàu biển.
May bay sau đó hạ cánh ở Marignane, ông thốt lên lời:
“Quel beau pays je retrouve.” “Ôi đất nước đẹp thế mà tôi lại có dịp nhìn lại.”
(Daniel Grandclément, ibid., trang 108)
Bảo Đại vẫn còn chống gậy (vì vết thương gẫy chân) trước lâu đài Thorenc, 1939. Nguồn: Getty Images
Xe hơi đã trở ông về lâu đài Thorenc, một trong những lâu đài đẹp nhất ở vùng miền Nam nước Pháp. Hàng xóm của ông là những nhân vật danh tiếng như ông hoàng tử xứ Galles nước Anh, các vua Thụy Điển, Đan Mạch.
Sau khi chân cẳng đã lành, ông quyết định về ở một căn nhà riêng khác ở Paris của ông ở phố Lamballe.
Theo hồi ký của ông, trong dịp nầy, ông đẫ tiếp xúc với ông Georges Mandel, bộ thuộc địa phố Oudinot. Một cuộc tiếp kiến mang tính xã giao nhiều hơn là thực tế, vì nước Pháp đang bận rộn lo đối đầu với một chiến tranh đang đe dọa khắp Châu Âu.
Ông đến nước Pháp không đúng lúc và câu chuyện thuộc địa hay độc lập rơi xuống hàng thứ yếu. Ông Bộ trưởng thuộc địa cùng lắm quan tâm tới sự đe dọa của Nhật sau khi nước này đã uy hiếp từ hai năm nay. Mối quan tâm là bao giờ Nhật Bản kéo quân đến cửa ngõ Bắc Việt.
Phần Bảo Đại, cái may thứ nhất ông đạt được là đã thắng ở sòng bài và thắng được một chiếc xe Citroen, 6 máy. Đây là lần đàu tiên ông bỏ tiền túi để có được một chiếc xe hơi riêng.
Cái may mắn thứ hai cho Bảo Đại là ông đã kịp thời lên máy bay về nước trước khi cuộc chiến tranh thứ hai bùng nổ để khỏi bị kẹt lại trong vòng lửa đạn. Chiến tranh đã gần kề và số phận của Bảo Đại cũng như triều đình của ông sẽ có thể không còn như trước nữa!
Và chẳng bao lâu sau, khi về nước, quân đội Nhật tiến vào Bắc Kỳ vào tháng 9, 1940 và ở lại Việt Nam đến hết Đệ Nhị Thế chiến, tháng 8, 1945.
Đối đầu với các cơn bão chính trị
Bảo Đại đi Pháp với gia đình từ tháng 5, 1939, đến ở lâu đài Thorence, Cannes. Đây là lần thứ hai Bảo Đại trở lại lâu đài Thorence tong năm 1939; lần đầu vào tháng Giêng đi an dưỡng vết thương chân gẫy ở Ban Mê Thuột từ tháng 12, 1938. Chiến tranh đã gần kề, triều đình Huế đã thúc giục Bảo Đại phải cấp tốc hồi hương để tránh bị kẹt lại Pháp. Bảo Đại về Việt Nam bằng chiếc máy bay một động cơ Dewoitine, đã dùng trong chuyến đi sang Pháp. Đoàn tùy tùng không thể đông người: một phi công, một thợ máy và một nhân viên truyền tin.
Hoạ đồ khu vực lâu đài Thorenc của Bảo Đại mua từ năm 1937 và sống ở đó đến những năm 1960. Toàn diện khu đất rộng 26.930 m2. Nguồn: http://bit.ly/2hO33IY
Về tới Huế, ông được Phạm Quỳnh đón tiếp và chẳng bao lâu sau, ngày 3-9, chiến tranh thế giới bùng nổ. Sau khi loại trừ vai trò Ngô Đình Diệm Phạm Quỳnh trở thành nhân vật số một của triều đình Huế mà Ellen J. Hammer gọi một cách mỉa mai là “những nhà cải cách không có cải cách”. Ellen.J.Hammer viết:
“Phạm Quỳnh đã có một ảnh hưởng lớn hơn trong chính quyền Việt Nam sau khi Ngô Đình Diệm từ chức. Phạm Quỳnh cũng tỏ ra hòa hoãn nhiều hơn với người Pháp để vẫn hy vọng người Pháp cho phép một sự tự chủ cho Việt Nam, một thể thức theo kiểu Dominion Status như đế quốc Anh đã thực hiện.”
(Ellen J.Hammer, The struggle for Indochina, Stanford University Press, 1954, trang 86)
Cho nên, nhiều phần bản hiệu triệu sau đây là do chính tay Phạm Quỳnh soạn sẵn cho Bảo Đại.
Ngày 15 tháng 9, Bảo Đại đưa ra một bản hiệu triệu quốc dân:
“Đây là một cuộc chiến tranh danh dự nhằm bảo vệ một mục đích cao cả và cuộc chiến này nay đã bắt đầu do nhà nước bảo hộ vĩ đại đang phải đối đầu. Đất nước và người dân chúng ta là thành phần của cái toàn thể của đế quốc Pháp. Bổn phận của chúng ta đã được ấn định rõ: Chúng ta đứng trong hàng ngũ bên cạnh nước Pháp để hỗ trợ bằng hết năng lực của chúng ta trong cuộc chiến đấu vĩ đại này.”
(S.M. Bao Daï, ibid., trang 93)
Nội dung những lời hiệu triệu này sẽ đổi giọng khi người Nhật lên nắm quyền ở Đông Dương cũng như diễn văn từ chức của ông khi Hồ Chí Minh lên nắm quyền. Cùng một vị vua mà ở ba thời điểm khác nhau, lời tuyên bố sau như ngược lại với lời hiệu triệu trước. Nhưng trách ông làm gì vì cả ba lần, đã có người viết sẵn cho ông rồi, ông chỉ là người đọc lại như cái máy viết sao đọc vậy!
Trong viễn tượng một đất nước đang mưu cầu dành độc lập, nhân danh hoàng đế Annam, bài diễn văn của Bảo Đại chứng tỏ vai trò một thứ tay sai của Pháp qua trung gian Phạm Quỳnh. Vai trò của Phạm Quỳnh thật kín đáo, khéo léo và tế nhị, nhưng có thể không lọt qua mắt những người như Phan Bội Châu, nhất là Việt Minh.
Andrée Viollis, một phóng viên đã từng có cơ hội tiếp xúc với Huỳnh Thúc Kháng, Phan Bội Châu đã ghi lại một nhận xét sâu sắc của Phan Bội Châu như sau:
“Tôi không được biết dân tộc Pháp thế nào, nhưng chỉ biết qua sách vở của Pháp, qua những tư tưởng của Pháp; Và tôi đã không tìm thấy những nguyên tắc ấy nơi tâm hồn những người Pháp tại Đông Dương. Họ không đối xử với chúng tôi như là anh em, như bình đẳng như họ từng tuyên bố trong Bản Tuyên ngôn về Nhân Quyền mà họ đã dạy cho chúng tôi, họ đối xử với chúng tôi như những nô lệ và đôi khi tệ hơn nữa như những con chó…”
(Andrée Viollis, Indochine S.O.S, sách xuất bản tháng 9-1935 tại nhà Gallimard, do André Malraux đề tựa trang 95-98)
Có một vài sự kiện rõ ràng là chính quyền Bảo Đại có một tiếng nói nhịp nhàng và đồng thuận với nhà nước Bảo Hộ. Phần đông dân Việt Nam, theo lẽ thường, theo Pháp của thống chế Pétain thay vì theo Pháp kháng chiến của De Gaulle ở Luân Đôn.
Ở Sài Gòn, người Pháp cũng chia ra hai phía. Chính quyền sở tại của Pháp vẫn chính thức theo Pétain. Nhưng còn lại những sĩ quan Pháp có lòng họ trở thành những kháng chiến quân ngay giữa lòng địch. Dù còn bé, tôi cũng thấy trong nhà tôi có treo trên tường một khung ảnh thống chế Pétain. Ai đã phát động chiến dịch treo ảnh này thì thật sự tôi không biết. Sau này thì mới được biết, tất cả sự tuyên truyền này do Decoux chủ trương.
Trong cái tình thế tranh tối tranh sáng này, người Việt nói chung cả ba miền ở thế trông chờ.
Lúc chiến tranh thế chiến bắt đầu, một số người Việt tình nguyện đầu quân sang Pháp. Người Pháp mở các lớp huấn luyện sĩ quan, tương đương với trường quân sự Saint-Cyr. Một số sinh viên, thanh niên đã gia nhập trường này mà sau này trở thành tướng tá trong quân đội Việt Minh và nhất là trong quân đội VNCH.
Một số cả ngàn người khác xin gia nhập đi làm thông dịch viên, lính thợ chuyên môn để có dịp được sang Tây một chuyến. Những thành phần này sau chiến tranh đều ở lại và ít ai có cơ hội trở về Việt Nam.
Ngoài ra, còn có những người làm chính trị thuộc đủ phe phái cũng ở thế chờ đợi. Trong đó có lẽ lá bài Cường Để do Nhật đỡ đầu là quan trọng vẫn chưa có cơ hội xuất hiện nên chắc vẫn phải kiên nhẫn chờ vì giờ của họ chưa tới?
Nhưng trong dư luận, Việt Minh có thể là đã khôn khéo nay vừa tuyên truyền chống phát xít Nhật và chống thực dân Pháp.
Khoảng 90,00 đàn ông Việt Nam — lính thuộc địa — đã chiến đấu trong quân đội Pháp trong Thế chiến 1 và trong số này khoảng 30.000 người đã thiệt mạng, một tỷ lệ thương vong cao hơn nhiều hơn so với quân đội chính quy của Pháp và Anh. Điều này có thể do một số yếu tố, như huấn luyện kém dành cho quân đội thuộc địa, hoặc Pháp sử dụng quân đội thuộc địa người Việt Nam làm bia đỡ đạn, để giảm số thương vong cho lính người Pháp. Nguồn: http://bit.ly/2htN6eD
Chính phủ nước Pháp đã cử một viên tướng làm toàn quyền để đương đầu với hoàn cảnh chiến tranh. Đó là toàn quyền Georges Catroux mà Bảo Đại đã có nhiều dịp gặp gỡ và quen biết. Vì thế, mối liên lạc giữa đôi bên trở nên thân mật và đằm thắm hơn những vị tiền nhiệm. Riêng bà Nam Phương và bà Catroux trở thành những người bạn thân thiết và bà Catroux thường có mặt trong các buổi họp mặt tại gia đình hoàng hậu ở Đà Lạt.
Tình hình ở Việt Nam bề ngoài có vẻ yên tĩnh. Nhưng tại Pháp, tháng sáu 1940, quân đội Đức xâm chiếm nước Pháp.
Ngày 19 tháng 6, 1940 chính phủ Nhật Mikado, qua trung gian đại sứ Pháp tại Tokyo, đã gửi tối hậu thư cho toàn quyền Đông Dương ngay ngày hôm sau phải đóng cửa biên giới Việt-Trung dưới quyền kiểm soát của Nhật. Người Pháp tại Việt Nam hoàn toàn bị cô lập với chính quốc và để giữ an toàn cho Đông Dương, Catroux không kịp thông báo về Pháp đã tuân hành theo tối hậu thư của Nhật.
Ngày 25 tháng Sáu, 1940 chính phủ Pétain đã quyết định giải nhiệm Catroux và thay thế bằng tướng Jean Decoux làm Toàn quyền Đông Dương.
Tình thế lúc bấy giờ coi như người Pháp đã thua trận tại chính quốc, nhưng tại Việt Nam, thể chế chính trị coi như vẫn giữ tình trạng như trước. Người Nhật đến thay thế người Pháp, cũng không hề tiếp xúc với Bảo Đại ở Huế, kéo dài hơn 4 năm cho đến 1945.
Bảo Đại vẫn tiếp tục cuộc sống riêng với những thú vui riêng của ông. Ông thích dùng chiếc máy bay Morane 343 biểu diễn lượn nhào trên thành phố Huế. Hoặc những chuyến đi săn hoặc ở Quảng Trị, hoặc ở Đà Lạt hoặc ở Ban Mê Thuột.
Ban đêm, chỉ cần một người hầu cận, nhà vua lái xe trong rừng khi biết có con hổ nào đó tới gần. Nhà vua dùng đèn pha của xe tiến lại gần và chỉ bắn khi chắc chắn rằng chỉ bằng một viên đạn bắn chết con hổ. Nhà vua đã bắn hạ được bao nhiêu con? Con số có thể cả trăm hoặc hơn trăm con. Đấy là một thành tích đi săn có thể không mấy ai sánh bằng.
Cái hãnh diện của ông trong việc nhào lộn trên không giá dùng vào việc khác thì hay biết mấy. Cái dở của phần đông người Việt Nam, xét theo lịch sử, là từ bao đời cái lòng ái quốc của họ trực tiếp dựa trên sự tín phục vào một ông vua, một chế độ phong kiến. Trung với vua là một nhận thức sơ đẳng. Phong trào Cần vương là một thí dụ điển hình của lòng trung thành ấy. Sau này, các phong trào quốc gia, không có nổi một lãnh đạo xứng đáng, vẫn bám vào hư danh của một con người như Bảo Đại. Cái hay thì ít, cái dở thì quá nhiều và họ sẵn sàng bỏ qua tất cả những cái “không làm gì” của Bảo Đại. Riêng Bảo Đại, ông vẫn xác tín rằng ông được quần chúng ủng hộ mỗi khi ông xuất hiện.
Bề ngoài có thể đúng như vậy. Không một lãnh đạo quốc gia nào khác được dân chúng biết mặt và dành cho những tiếng hoan hô, chào đón ông như vậy. Ngay khi có dịp Sihanouk mời ông sang thăm Campuchia, ông đã đi xe hỏa đến Sài Gòn cùng với hoàng hậu. Sau đó dùng đường bộ đến Bến Tre, quê hương của bà Từ Dũ, vợ vua Tự Đức. Dân chúng hai bên đường vẫn bầy hương án bên vệ đường đón tiếp nhà vua. Chỉ rất tiếc, nhà vua nhận sự đón tiếp đó một cách “nhưng không” thay vì nghĩ tới bổn phận trách nhiệm hay bổn phận của quân vương.
Bằng cớ nhận xét về sự có mặt của người Nhật của ông sau đây thật hời hợt và nông cạn.
Và sau đây là nhận xét của Bảo Đại:
“Thực tế mà nói, trong suốt thời gian này, tôi không có một tiếp xúc nào với người Nhật. Sự có mặt của họ có vẻ kín đáo, không gây một cản trở nào cho Việt Nam.”
(S.M. Bao Daï, ibid., trang 98)
Thực tế, người Nhật có phải như vậy hay không? Điều đó cũng chứng minh cho thấy rằng, Bảo Đại chẳng quan tâm gì đến tình hình chính trị ở trong nước cũng như quốc tế. Ông mù tịt đến tội nghiệp.
Chính vì thế, để hiểu được tinh hình lúc bấy giờ, không có cách nào khác là phải dựa vào một số tài liệu của ngoại quốc. Ngoài ra, tài liệu về phía người Việt, may mắn là ở Sài Gòn, có những nhà báo như Nguyễn Kỳ Nam, tức Nam Đình, báo Điện Tín tường thuật khá đầy đủ về sinh hoạt chính trị trong Nam. Ngoài Bắc, cuốn Việt Nam Máu lửa của Nghiêm Kế Tổ không đáng tin cậy. Hầu như tài liệu càng hiếm hoi hơn, ngoại trừ Ký sự 1939-1954 của Đoàn Thêm. Bổ túc thêm vào đó, có một vài cuốn Hồi Ký của Trần Trọng Kim, Nguyễn Xuân Chữ.
Một lần nữa nói lên cái nghèo nàn đến vô nghĩa của Sử Việt. Người Việt Nam làm nên lịch sử, nhưng không viết nổi sử. Cuộc chiến 1946-1954 cũng như cuộc chiến 1955-1975 người Việt Nam trực tiếp đổ biết bao xương máu, nhưng có cuốn sách sử nào của cả hai bên xứng đáng để đọc? Miền Nam cũng có một số tác giả chứ không phải là không có. Nhưng chưa đủ. Tôi đặt câu hỏi như một sự thách thức một sự trả lời. Kinh nghiệm cá nhân tôi, tôi chỉ còn biết dựa vào tài liệu của Pháp, của Mỹ mà họ xứng đáng trong vai trò viết sử của họ.
Người Nhật coi Đông Dương như một căn cứ hậu cần cung cấp thực phẩm lúa gạo
Có thể toàn quyền Albert Sarraut, bộ trưởng bộ thuộc địa và một thời là toàn quyền Đông Dương đã có những lượng giá cao và chính xác về Đông Dương, ngay từ năm 1923. Ông so sánh nhiều thuộc địa của Pháp ở hải ngoại như tại Bắc Phi và ông cho rằng:
“Đông Dương, về mọi phương diện, là một vùng quan trọng nhất, một vùng thịnh vượng nhất trong các thuộc địa của chúng ta.”
(Albert Sarraut, La mise en valeur des colonies Francaises, Paris, 1923, trang 463)
Với 23 triệu dân gồm 5 khu vực và ba sắc dân. Ngoại trừ người Việt Nam có sự chống đối lại người Pháp, người dân Campuchia và Lào vốn sợ những áp lực từ phía Việt Nam nên vào dịp này họ dựa vào người Pháp như một điểm tựa và thuần phục.
Vì vậy chỉ với 40.000 kiều dân Pháp và binh lính ở rải rác, người Pháp xem như đủ thế mạnh để duy trì an ninh và ổn định trên toàn cõi Đông Dương.
Chính sách thuộc địa là con đẻ ra chính sách kỹ nghệ. Chẳng bao lâu sau thời kỳ thuộc địa, dân số Sài Gòn tăng gấp đôi. Cũng chỉ trong vòng thời gian 40 năm trước, người ta chưa hề nhìn thấy có một cây cao su nào mà đến thời hực dân có thể tính tới hàng triệu cây. Cả vùng đồng bằng sông Hồng trước đây hàng thế kỷ. mỗi năm dân chúng chịu ngập lụt vì hệ thống đê điền yếu kém. Nhưng câu chuyện vỡ đe, hộ đê đã đi vào văn học như trong truyện Sống chết mặc bay của Phạm Duy Tốn. Vỡ đê thì mất mùa, dân chúng rơi vào tình trạng đối kém.
Nhờ người Pháp đến củng cố được hệ thống đê điền và còn kéo dài hệ thống đê điền xuống các tỉnh phía Nam và nhờ đó giúp hệ thống tưới tiêu cho hàng trăm ngàn mẫu ruộng dọc theo các con sông lớn như sông Hồng Hà, sông Đáy. Cuộc sống người dân phần nào đỡ vất vả hơn xưa.
Và ở phía Nam, việc khai thông sông ngòi cũng giúp cho việc khẩn hoang, biến hàng vạn mẫu đất hoang nay đã có thể trồng trọt và giúp sự di chuyển trên sông lạch dễ dàng di chuyển từ vùng này sang vùng khác. Đó là những gì người Pháp đã làm và để lại, dù có muốn chống Pháp hay theo Pháp cũng phải nhìn nhận một thực tế rõ ràng như vậy.
Nhưng dù muốn dù không, những công trình người Pháp làm ở Việt Nam mục đích trực tiếp vẫn đem lại lợi ích cho thực dân Pháp. Vì thế, những quyền lợi mà người Pháp có được ở đây phần lớn dựa vào sự xuất cảng như sau:
“Hàng năm xuất cảng 1,600,000 tấn than, 1,400,000 tấn gạo, 500,000 tấn bắp, 140,000 tấn xi măng và 60,000 tấn cao su.”
(Ellen J. Hammer, ibid,.trang 72)
Người Nhật được coi là một “hiểm họa da vàng” lúc bấy giờ cũng đủ khôn ngoan và nhận thấy rằng tiềm năng của Đông Dương như một hậu cần cho quân dội viễn chinh của Nhật tại Đông Nam Á. Xứ Nam Kỳ đứng thứ nhì thế giới về xuất cảng gạo. Và chính quyền Nhật đã không ngần ngại bắt Decoux phải cung cấp lúa gạo cho Nhật.
Nước Pháp trở thành trung gian hậu cần, cung cấp và nuôi quân đội Nhật đóng tại Việt Nam và có thể cả ở Đông Nam Á.
Mục tiêu chiến lược chiếm Đông Dương của Nhật vì thế trở thành tối yếu trước sự yếu kém rõ ràng của người Pháp. Họ cách xa chính quốc cô lập, yếu kém về tiếp liệu, về trang bị vũ khí. Tuy nhiên, bên cạnh đố vẫn còn những nhóm kháng chiến theo De Gaulle như tổ chức Gordon với đài phát thanh Pavie. Đài này thường xuyên phát thanh bí mật tuyên truyền chống lại Phát Xít Đức và Nhật. Ngoài ra, họ còn tổ chức phá hoại các đường xe lửa, ngăn chặn Nhật dùng để vận tải lương thực hàng hóa. Nhưng chính quyền thực dân Pháp cũng lại rất e ngại những thành phần du kích này, vì họ sợ Nhật biết được sẽ chấm dứt vai trò bảo hộ của Pháp của họ ở Đông Dương.
Nhưng khi chiến tranh thứ hai càng có dấu hiệu mỗi ngày phô diễn sức mạnh của phe đồng minh nhất là khi Mỹ nhập cuộc. Đức tỏ ra yếu thế trên các mặt trận và người ta tin tưởng chẳng bao lâu nữa, phía đồng minh sẽ chiến thắng được Đức thì một số thành phần hạ sĩ quan và ngay cả sĩ quan Pháp của chính quyền bảo hộ đã bí mật đi theo các nhóm kháng chiến này ngày một đông hơn.
Phía người Nhật, họ hết áp lực trên Catroux, sau lại áp lực trên Decoux. Decoux ngóng cổ trông chờ vào sự viện trợ của Mỹ một cách tuyệt vọng. Nhưng Mỹ trả lời dứt khoát chỉ có thể bảo đảm tình trạng hiện tại, còn không có kế hoạch nào nhằm giải giới quân Nhật tại Đông Dương.
Trung tướng Tsuchihashi Yuitsu, Tư lệnh quân đội Nhật tại Đong Dương – người ra tối hậu thư cho Jean Decoux. Nguồn: By Unknown – http://imperialarmy.blog3.fc2.com/blog-entry-32.html, Public Domain, https://commons.wikimedia.org/w/index.php?curid=27645291
Cuối cùng, ngày 9 tháng 3,1945, Decoux bắt buộc phải từ Đà Lạt xuống hội đàm với Đại sứ Shunichi Matsumoto tại dinh toàn quyền.
Cuộc hội đàm trước sau chưa đầy một tiếng đồng hồ và quân đội Nhật đã xếp đặt trước để lật đổ chính quyền Pháp ở Đông Dương.
Nguyễn Kỳ Nam kết luận:
“Và kể từ ngày 9 tháng 3, nước Pháp đệ tứ cộng hòa không còn đặt Toàn quyền ở Đông Dương nữa.
Decoux là vị toàn quyền chót. Dinh Toàn Quyền xây cất từ năm 1868, đã rước bao nhiêu vị Toàn quyền đến đây cai trị Đông Dương cho đến đêm 9 tháng 3, quân đội Nhật tới bao vây và giữ luôn nhà đại diện tối cao của nước Pháp.
Cuộc hội đàm Decoux-đặc sứ Nhật Matsumoto chấm dứt vào lúc 7 giờ và đặc sứ Nhật rút ở trong túi ra đưa ra tối hậu thư như sau:
“Nghĩ vì sự tiến triển mới đây về tình hình chiến tranh tổng quát, riêng ở Đông Dương máy bay Mỹ không ngớt tấn công liên tiếp: có thể một ngày nào đó quân địch đổ bộ lên Đông Dương, cho nên chính phủ Nhật nhứt định cùng nhà cầm quyền Pháp ở Đông Dương hợp tác phòng thủ chung.
“Chính phủ Nhật yêu cầu Toàn Quyền Đông Dương bày tỏ bằng chứng thiết tha muốn cùng Nhựt hợp tác phòng thủ chung, cho đến cùng, chống lại lực lượng của đồng minh, có thể đổ bộ bất luận lúc nào..
“Cho nên yêu cầu Toàn Quyền Đông Dương:
“Một là trong thời gian của tình thế hiện tại, hải lục không quân và lực lượng cảnh sát võ trang của Đông Dương phải đặt dưới quyền chỉ huy thống nhất của quân đội Nhật mà họ phải hoàn toàn tuân theo.
Hai là, tất cả các công chức ở Đông Dương phải đặt dưới quyền chỉ huy của quân đội Nhật sử dụng bất luận lúc nào.”
Đặc sứ Nhật ra điều kiện phải trả lời tối hậu thư đúng 9 giờ tối.
Đặc sứ Nhật đi rồi, toàn quyền Decoux viết thư tay, rồi sai sĩ quan liên lạc cầm thơ đến Đặc sứ Nhật. Lúc đó là 8 giờ 45. Nhưng phủ toàn quyền đã bị Nhật bao vây rồi.
Đại sứ Nhật coi thư Decoux như một sự từ chối hẳn: thế là súng nổ vào đúng 9 giờ tối.
Decoux và nhiều tướng lãnh bị giam tại phủ Toàn Quyền gần đúng hai tháng. Ngày 7 tháng 4, quân đội Nhật mới đem Decoux lên vườn cao su Lộc Ninh.
Từ nay chấm dứt chế độ thuộc địa.”
(Nguyễn Kỳ Nam, Hồi ký 1925-1945, trang 118-119)

Cơ đồ xây dựng tám mươi ba năm, trong hai tiếng đồng hồ là sụp đổ hết. Câu hỏi còn lại là Nhật đảo chánh Pháp rồi có trao lại cho Việt Nam hay đảo chánh rồi thay Pháp tiếp tục cai trị Việt Nam?
Câu hỏi này nếu có đặt ra cho Bảo Đại thì chắc Bảo Đại không có câu trả lời! Nay có cơ hội nhìn lại diễn biến mối liên hệ giữa Pháp và Nhật thật có nhiều tròng tréo.
Decoux thừa nhận rằng lực lượng quân sự của ông không đủ mạnh để chống lại Nhật. Nhưng nếu để mất Đông Dương là mất tất cả. Vì thế, Nhật cũng thừa hiểu rằng không thể nào có sự hợp tác chặt chẽ của Decoux đối với Nhật. Nhưng khi tối hậu thư thứ ba mà Nhật đưa ra ép Decoux ký thì Decoux đã phản đối và không ký.
Khi Decoux không đồng ý với những yêu cầu của quân Nhật, Thống chế Pétain tin tưởng vào Decoux sẽ làm gương cho những người Pháp khác.
“When he protested against the agreement with Tokyo, Marshal Pétain wired Decoux that he counted on him” to give an example of discipline to all Frenchmen.”
(Ellen J.Hammer, The Struggle for Indochina, Stanford University Press, California, 1954, trang 21)
Nói chung thì số phận Catroux hay Decoux đều có những điểm chung cuộc mà thời cuộc đã dành cho họ. Sau này Decoux đã tố giác Catroux không có trách nhiệm trong một bài nhan đề: A la Barre de l’Indochine (Paris, 1949), sau đó Catroux cũng đã viết bài phản biện trên tờ Le monde, tháng 9-1949).
Cả hai vị toàn quyền đều cố gắng giữ cho được tình trạng status quo với Nhật như chính họ đã hứa, nhưng cũng không xong.
Chưa kế, thừa dịp này, quân đội Xiêm La cũng đòi chính quyền Pháp trả lại những phần đất mà Xiêm đã chiếm được của Lào và Campuchia và sau đó đã phải nhượng lại cho Pháp. Những thành phần quốc gia cũng đã nổi loạn tại các tỉnh biên giới như Cao Bằng, Lạng Sơn chống lại quân đội Pháp.
Từ tháng 8, 1941, quân đội Nhật đã đổ bộ xuống Sài Gòn và chiếm những vị trí chiến lược ở đây.
Sự o ép, bắt nạt đủ cách của Nhật trên người Pháp cho thấy, người pháp phải chịu nhục nhã như thế nào? Theo trí nhớ thô thiển của tôi lúc nhỏ ở Hà Nội, lính Nhật đã tấn công trại Hành Chánh tài chánh ủa Pháp tại phố Cửa Bắc. Chỉ cần một dúm lính Nhật đủ bắt trọn bộ các sĩ quan Pháp trong trại và bắt đầu hàng ổ chiến đấu phòng vệ chốt trên gác chuông nhà thờ Cửa Bắc, đối diện sở Hành chánh, Tài Chánh độ chừng một tiểu đội. Sau đó dẫn các cấp chỉ huy Pháp, bắt cởi trần chỉ còn cái quần xà lỏn, tay để sau gáy và quỳ trước cửa trại Hành chánh tài chánh trong khi trời khá lạnh.
Việc đảo chánh Nhật đã xảy ra vắn gọn, nhanh chóng trên khắp các tỉnh thành từ Nam ra Bắc. Tất cả 36 căn cứ quân sự, trại lính, cơ sở đều bị Nhật chiếm đoạt mà sự kháng cự đều không đáng kể.
tù binh Pháp bị Nhật bắt ở Hà Nội. Nguồn: By Unknown – Biblioteque Nationale, Public Domain, https://commons.wikimedia.org/w/index.php?curid=48350416
Ký giả Pháp Francoise Martin đã kể lại một mẩu tin không biết nên cười hay nên khóc,
“Hai người Pháp đi gần trường bay Gia Lâm vào 8 giờ đêm ngày 9 tháng 3. Lính Nhật bắt và cảnh cáo: Quân lính trong thành nên liệu đầu hàng sớm, nếu không cả hai đều bị xử bắn. Cũng may là quân lính trong thành đã đầu hàng không điều kiện và họ đã được thả ra.”
(Nguyễn Kỳ Nam, ibid., trang 123)
Tôi có cảm tưởng họ bắt người Pháp làm tù binh dễ dàng như lấy một món đồ trong túi. Trong 4 năm, 1941-1945, người Pháp không chuẩn bị một cuộc chiến tranh với Nhật và cố tình ngủ yên với tình trạng Staus quo vẫn được Nhật duy trì.
Họ hoàn toàn không có tinh thần tranh đấu, thà đầu hàng và chịu nhục nhã.
Tất cả những biến cố quân sự, chính trị dồn dập xảy ra như trên, nhưng xem ra về phía Việt Nam, Bảo Đại cho ta có cảm tưởng ông đứng bên ngoài tất cả nhưng âm mưu, những tranh chấp giữa hai kẻ thù địch. Phần ông bình thản và ung dung tự tại, ông viết:
“Các khuấy động của người Nhật ở trong Nam có sự thỏa hiệp của các giáo phái như Cao Đài, Hòa Hảo và Bình Xuyên và nhiều phong trào khác nhau từ năm 1936. Ngoài Bắc có một số trí thức trẻ chạy theo những phong trào tranh đấu bạo động, cực đoan, khuynh đảo.
Nhưng bù lại, phía miền Trung mang tính cách tỉnh lẻ, vẫn bám víu vào truyền thống cổ truyền thường đứng bên ngoài các xáo trộn. Với những người dân quê Việt Nam, những đồng bào miền núi, hầu như căn bản không có gì thay đổi. Tất cả công việc, tất cả bộ máy hành chánh, các công chức như trong quá khứ sống trong một bầu khí an bình và hầu như không hề bị khuấy động bởi sự có mặt của tổng số 25 ngàn binh lính Nhật.
Đường giao thông không bị trục trặc. Sự liên lạc giữa Bắc Nam vẫn bình thường. Khi tôi và hoàng hậu di chuyển đi đâu vẫn không cần có hộ tống. Đường giao thông an toàn cả ban ngày lẫn ban đêm. Chính vì lái xe ban đêm từ Sài Gòn lên Đà Lạt mà bà toàn quyền Decoux đã gặp tai nạn xe cộ. (…) Ngoài những trận dội bom của quân đồng minh do Mỹ cầm đầu mỗi ngày mỗi gia tăng ở phía bờ biển các vùng miền Trung và Bắc Việt, mọi chuyện như vẫn bình thường như không có gì xảy ra cả.”
(S.M. Bao Daï, ibid., trang 98)
Tình trạng bình thường dưới mắt Bảo Đại là cái bình thường không bình thường của một lò lửa chiến tranh sôi sục, của giấc mộng Đại Đông Á của Nhật cũng như sự le lói sự xuất hiện chủ nghĩa Mác Xít tại miền Nam.
Và câu trích dẫn sau đây thể hiện trọn vẹn cá tinh, con người thật của Bảo Đại.
“Tenu à l’écart de toutes les décisions importantes, je conserve l’attitude que j’avais adopté dès le début de mon règne.”
(S.M. Bao Daï, ibid., trang 98).
“Bị đặt ra ngoài trước mọi quyết định quan trọng, tôi giữ thái độ mà tôi đã áp dụng ngay từ khi lên ngôi.”
Thái độ đó là thái độ mặc kệ; ông say mê vào việc lái chiếc máy bay mới giao sau khi ông có bằng lái máy bay. Cuối tuần lại tiếp tục đi săn. Chưa có một người lãnh đạo đất nước nào tỏ ra thờ ơ, lãnh đạm như Bảo Đại.
Phần liên quan đến vai trò làm vua của Bảo Đại cho đến lúc này, thật khó để tìm ra được một vai trò tích cực nào của nhà vua trước những biến động lịch sử làm thay đổi bộ mặt đất nước.
Cả một chế độ phong kiến sụp đổ như những lâu đài xây dựng trên cát, biến dạng sau hàng ngàn năm. Rồi cả một chế độ thực dân tưởng chừng vững chắc và tồn tại miên viễn cũng tan ra mây khói.
Vậy mà Bảo Đại vẫn bình chân như vại.
Xin ghi lại một vài cảnh tượng chót của biến động lịch sử trước khi toàn bộ Đông Dương thay ngôi đổi chủ. Chiến tranh thế giới thứ hai và chiến tranh giữa Nhật và Pháp đã thay đổi bộ mặt Việt Nam. Có một bộ mặt của người Annam cũ rơi rớt lại từ thời Pháp thuộc qua các nhân viên quan chức làm việc cho Pháp. Cũng có một bộ mặt mới của các xu hướng chính trị đảng phái, các giáo phái và nhất là của các nhóm cộng sản đệ tam.
Chính cái bộ mặt thứ hai này sẽ quyết định vận mạng chính trị cho Việt Nam. Bảo Đại vẫn bình chân như vại có biết đâu rằng địch đã gài người ngay trong cung cấm: Vai trò Phạm Khắc Hòe, Tổng lý ngự tiền văn phòng đã theo dõi từng động thái một, từ tính nết con người, đến việc chi phối, hăm dọa vào phút chót đưa đến việc thoái vị của Bảo Đại. Sau này, nhiều sự việc bê bối của Bảo Đại đều do sự tiết lộ của Phạm Khắc Hòe tung ra bên ngoài.
Nhân chứng miền Nam: ký giả Nguyễn Kỳ Nam
“Súng nổ dồn dập..
Sài Gòn sống trong giờ phút kinh khủng.
Dân chúng ngơ ngác hỏi với nhau:
Chuyện gì? Súng nổ ở đâu? Ai bắn?
Các ngã đường đều có lính Nhật canh gác.
Các nhà báo được tin này từ hồi sớm vì Kimura, giám đốc sở tuyên truyền Nhật, mời vài nhà báo ăn cơm tại một nhà hàng ở đại lộ Galliéni vào lúc 7 giờ, để rồi đưa hết lên lầu Đông Dương Ngân hàng là nơi thông tấn xã Domei đặt trụ sở, có đủ mặt ký giả Nhật.
Đại úy Suzuki, giám đốc cơ quan tuyên truyền báo chí Nhật nói: Đó là tiếng súng lật đổ chính quyền Pháp ở Đông Dương.”
Vân Trình và tôi ở báo Điển Tín viết bài: “Giờ lịch sử đã đến.”
(Nguyễn Kỳ Nam, ibid., trang 120)
“Sự xuất hiện rõ rệt là ở nhiều nơi binh sĩ Cao Đài, mặc quần sọt, áo sơ mi ngắn tay, đội caloo vàng, đi giày xăn đan, tay cầm tầm vông canh gác các cơ sở cùng với lính Nhật. Phần các công chức từng làm việc cho Pháp vẫn trở lại làm việc bình thường.
Các nhà làm chính trị cơ hội như Hồ Văn Ngà yêu cầu dân chúng hô các khẩu hiệu: Đại Đông Á vạn tuế. Quân đội Nhựt toàn thắng. Việt Nam thống nhứt vạn tuế.
Đến lượt ông Trần Quang Vinh, đạo Cao Đài cũng lên diễn đàn cùng luận điệu.
Về hành chánh, các đốc phủ sứ Việt Nam được thay thế Pháp làm Tỉnh trưởng.”
Lúc bấy giờ Nhật đang hấp hối mà nào có ai biết.
Cuộc biểu tình đầu tiên ở Sài Gòn ngày 18 tháng 3 quy tụ đến 50.000 người tại vườn ông Thượng.”
(Nguyễn Kỳ Nam, ibid., trang 152-164)
Nhân chứng miền Bắc: Đoàn Thêm, Những ngày chưa quên, Ký sự 1939-1954
“Decoux theo chỉ thị của Pétain nên hình ảnh Pétain được in bán và treo tại các công sở, nhà hát lớn hay tòa thị sảnh. Người ta còn nhớ đến những bài hát: Thống chế ơi, có chúng tôi đây. (Maréchal, nous voilà). Decoux cũng phân loại những người Pháp theo kháng chiến hay Hội kín Franc-Maconnerie. Như thế, rõ ràng tâm tình người Pháp cũng chia rẽ, kẻ theo Pétain. Phần còn lại, phần lớn cũng có cảm tình với De Gaulle một cách kín đáo. Nhiều người Pháp bỏ trốn qua Vân Nam theo Đồng minh và De Gaulle.
Đến khi Nhật tràn từ Quảng Tây sang Lạng Sơn thì nhiều người Việt tin rằng phen này Pháp thua ra mặt và Nhật sẽ giúp Việt Nam thoát ra khỏi ách đô hộ thực dân. Nhiều người nhân dịp này bày tỏ thái độ công khai chống Pháp ra mặt coi như một vận hội mới sẽ đến cho Việt Nam. Họ nghĩ rằng, nếu không có Nhật, Việt nam đến bao giờ mới có cơ hội được độc lập?
Số chiến hạm Anh Mỹ bị Nhật đánh đắm được treo ở phong Thông tin Hà Nội.”
“Tuy nhiên, người ta không khỏi ngạc nhiên là quân đội Nhật đóng khắp Đông Dương, đòi gì cũng được, thế mà Pháp vẫn duyệt binh, ra lịnh, dạy học, bán hàng, khai mỏ, thu thuế, cách chức, bỏ tù. Tình trạng này phi lý, nhưng mãi sau, tôi mới tìm ra tài liệu lên hệ để xét lại và hiểu rõ hơn.”
(Đoàn Thêm, Ký sự 1939-1954, trang 15-21).
Thật ra, Nhật đã ký hiệp ước 1940-1941 thừa nhận chủ quyền của Pháp ở Đông Dương. Việc ký kết này giúp Nhật rảnh tay miễn sao Pháp cung ứng đầy đủ nhu cầu cho quân đội Thiên Hoàng. Tuy nhiên, sự duy trì chế độ hành chánh nguyên trạng có lợi cho cả đôi bên Nhật không tốn một viên đạn mà vẫn có tất cả. Pháp thì vẫn giữ quyền làm chủ Đông Dương chờ thời cuộc thay đổi.
Chỉ có người Việt là cảm thấy khó chịu vì vừa chịu một cổ hai tròng. Làm quần quật để nuôi một lúc hai kẻ thù. Và đó cũng là nguyên nhân chính sau này nảy sinh ra nạn đói năm Ất Dậu. Vắt mãi, vắt đến cạn kiệt thì đến một lúc nào đến cái khố cũng không có mà mặc.
Cả chính quyền Quốc Gia của Bảo Đại cũng như chính quyền Việt Minh cả hai đều khoanh tay bất lực!
Mặc dầu quân đội Nhật có mặt khắp nơi, nhưng họ thường kín đáo nên không gây một xáo trộn nào đối với đời sống hằng ngày của dân chúng Việt Nam. Đoàn Thêm nhận xét về người Nhật:
“Họ quen nếp sống giản dị hoặc khắc khổ, chẳng nhũng nhiễu ai, nhưng cũng không thân thiết với ai. Không thấy trẻ thơ lẽo đẽo theo sau quân nhân xin tiền, kẹo hay thuốc lá mà họ cũng chẳng có: không thấy mọc ra tiệm nhẩy hoặc phòng trà, tuy phòng trà xứ họ nổi tiếng khắp hoàn cầu; không thấy người kéo xe cao-xu bỏ đồng bào để tranh chở họ, vì họ đi bộ hoặc dùng xe vận tải nhà binh…”
(Đoàn Thêm, ibid.,trang 22)
“Tinh thần binh sĩ Nhật như vậy thật cũng đáng nể. Sau 1945, khi đồng minh sang giải giáp mới rõ quân số Nhật ở Đông Dương lên đến cả triệu người. Người Việt phải nuôi đám quân cả triệu người ấy thì lấy cơm gạo ở đâu cho vừa. Pháp liền bắt dân quê nộp thóc gạo ngay sau mỗi mùa. Việc nộp thóc gạo là một lệnh rất gắt gao mà các cấp thừa hành ở xã ấp phải thừa hành cho bằng được. Giá thóc lên cao, gạo kém và khan hiếm. Chính quyền Pháp phải ra lệnh phát thẻ để phân phối. Trước mỗi đầu người được phân phối 15 kí, rồi rút xuống 12 kí, sau chỉ còn 8 kí.”
(Đoàn Thêm, ibid., trang 26)
Tới giữa năm 1944, nạn đói đã có dấu hiệu đáng lo ngại.
Đã thế, quân đội đồng minh còn ném bom các đường giao thông vận tải như xe hỏa và cả đường biển.
Theo Đoàn Thêm, “Các vụ ném bom các nhà ga xe lửa Gia Lâm và Hà Nội cuối năm 1943 đã làm chết và bị thương hơn 1000 người ở các làng Lương Yên, Lương Sử. Các trục giao thông bị phá cũng nhiều, nhất là đường Hà Nội-Sài Gòn, nên gạo Nam khó tải ra Bắc và than Bắc khỏ chở vào Nam.” (Đoàn Thêm, ibid., trang 24)
Để giải quyết vấn đề tiếp tế, Decoux đã phát động phong trào kinh tế tự túc, hô hào chế biến tiểu công nghệ thay thế đồ ngoại hóa. Kết quả không thành. Những hàng thiết yếu cho đời sống ngày càng khan hiếm. Nói chung mọi thứ đều khan hiếm và nạn chợ đen, nạn hàng giả ra đời.
Các hội thiện đã lập các trạm cứu tế chung quanh thành phố như Giáp Nhất, Giáp Nhì, Giáp Bát, bãi cát Phúc Xá bên sông Nhị. Nhưng cung cấp sao cho đủ? Người chết đói vẫn chết đói. Nhưng kiều dân Pháp hay người có Pháp tịch, hoặc công chức cao cấp, phú thương, nghiệp chủ vẫn được cung cấp sữa, thuốc lá, cà phê, bột mì, màn tuyn, vải may Âu phục v.v.
Người ta chết đói vì không có ăn cũng có, nhưng còn do sự phân phối bất bình đẳng nói sao cho vừa.
Tôi nghĩ xin trích dẫn một đoạn về nạn đói năm Ất Dậu mà tác giả Đoàn Thêm từng chứng kiến như người trong cuộc:
Nạn nhân nạn đói Ất Dậu ở miền Bắc. Ảnh: Võ An Ninh, 1945
“Ở nhiều vùng, dân chết cả nhà, cả xóm, hay gần cả làng. Hết gạo, hết khoai, hết chó mèo, hết chim, hết chuột, hết củ chuối, người ta làm thịt con nít. Sự thảm khốc này, dĩ nhiên là khó tin. Nhưng tới năm 1947, nhân dịp tản cư về hạt Xuân Trường, tỉnh Nam Định, tôi đã có lần bước vào một ngôi nhà trống. Hỏi vì sao nơi đây hoang vắng, thì được mách rằng không ai đến ở, vì cả gia đình khổ chủ đã chết từ năm 1945, sau khi nấu một đứa con nhỏ làm món ăn nhựa mận “ăn cho đỡ đói.”
(Đoàn Thêm, ibid., trang 29)
Trong khi đó, ở cung điện nhà vua, ngài Bảo Đại có bao giờ nghĩ đến hoàn cảnh đói khổ của dân miền Bắc?
Rồi Bảo Đại lại được Nhật mời ra lập chính phủ. Nhiều người coi là trò hề. Nhưng dù sao thì cũng phải có cái gì trên đầu chứ? Không vua thì ai bây giờ? Câu trả lời có vẻ như bướng bỉnh, nhưng đấy lại là vấn đề lớn nhất của người Việt Nam. Trong bao nhiêu năm, trong bao nhiêu triều đại đã đi qua, bao nhiêu thể chế lần lượt đến rồi đi.
Chúng ta chưa tìm ra được một người lãnh đạo xứng đáng!
Là một thanh niên sống trong thời khói lửa, đứng trước nhiều phong trào vận động chính trị, sự chọn lựa của người thanh niên đứng về phía nào hẳn không dễ. Nào truyền đơn, bích chương, khẩu hiệu treo khắp thành phố. Máy phóng thanh suốt ngày ra rả những luận điệu tuyên truyền đả kích nhau ở nơi công cộng như Bờ Hồ Hoàn Kiếm, trước của chợ Đồng Xuân, vườn Bông cửa Nam. Nhiều đoàn thể ra đời nghe những tên lạ hoắc: Thanh niên cứa quốc, phụ nữ cứu quốc, nhi đồng cứu quốc, phụ lão cứu quốc… trong tháng chín, tháng mười.
Trước nạn đói chẳng ai đoái hoài, vẫn có một thứ chính trị bất nhân tranh dành giữa Quốc Gia-Việt Minh, cả hai đều là thứ chính trị ma đầu bất kể đến dân.
Ông Đoàn Thêm là một thanh niên ở tuổi 20 thời đó. Ông chỉ khác người là bản tính ông vốn do dự, nghi kỵ tính toán nên vì thế ông chậm chạp trong những chọn lựa của mình. Nhờ chậm, ông chẳng bị đưa đẩy vào bất cứ phong trào nào cho đến lúc “cách mạng” bùng nổ.
Nhiều thanh niên khác sốc nổi theo sự bồng bột đã chọn lựa theo Pháp, gia nhập hàng ngũ quân đội Pháp sau này hoặc lang bạt xứ người, hoặc chết trận hoặc phần đông trở thành các sĩ quan trong quân đội Quốc Gia. Chắc họ không nghĩ mình chọn sai đường?
Một số nhỏ chạy theo đảng phái, nhưng giới thanh niên cho rằng các lãnh tụ này họ về nước quá chậm, theo chân quân đội Trung Hoa kéo sang giải giới Nhật, dễ bị mang tiếng theo thế lực ngoại quốc. Nhiều đoàn thể quá, nào Việt Nam Quốc Dân đảng (Việt Quốc), Việt Nam Cách mệnh đồng minh hội (Việt Cách). Biết theo ai bây giờ? Về muộn mà đòi chia phần, chia ghế trong chính phủ mới. Các gương mặt lãnh tụ đảng phái này đều là những gương mặt quen thuộc mà trước đây họ đã có cơ hội cũng chẳng làm nên trò trống gì như Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam, Nghiêm Kế Tổ. Họ có tiếng mà không có thực lực. Thực lực của họ nếu có là dựa vào Nhật và nhất là Tàu. Cán bộ thiếu thốn và không được đào luyện có bài bản. Họ ít thu hút được giới thanh niên theo họ. Khi người Tàu rút về nước thì họ cũng nhanh chân lẹ tay rút theo bỏ lại tổ chức và cán bộ.
Thành phần thứ ba, đông đảo hơn, theo Việt Minh, mặc dầu có nhiều e ngại là cộng sản. Nhưng nhiều khi nhắm mắt liều, vì nghĩ rằng họ thật sự yêu nước, họ có tổ chức, có đoàn thể, có cán bộ, có kỷ luật, xem ra có sức mạnh. Nhiều người bỏ học, bỏ cả tương lai theo Việt Minh. Những nhân vật như Nguyễn Ái Quốc hay Hồ Chí Minh là những nhân vật mới, không có thành tích theo Tây, theo Tàu, theo Nhật như các vị trên. Chẳng ai biết Trần Huy Liệu, Phạm Văn Đồng, Chu Văn Tấn, Võ Nguyên Giáp là ai cả?
Vì không biết là họ là ai nên đã có rất nhiều huyền thoại bao quanh họ. Họ càng bí ẩn càng khêu gợi sự tò mò của nhiều người.
Còn lại là những thành phần xu thời thì thời nào chả có! Họ ngả nghiêng đón gió, chờ thời?
Nhật làm chủ Đông Dương
Buổi chiều ngày 10 tháng ba năm 1945, khi Nhật làm đảo chánh Pháp thì vua Bảo Đại đang trên đường từ Quảng Trị về Huế sau hai ngày đi săn cùng với hoàng hậu.
Vào khoảng 23 giờ đêm, khi gần vào đến kinh thành thì xe của Bảo Đại bị chặn lại. Một sĩ quan Nhật cho biết xe phải ngừng lại, vì có thể nguy hiểm nếu tiếp tục đi nữa. Họ lái xe của Bảo Đại vào lề đường và bảo chờ ở đó. Khoảng 2 giờ sau, có một đại tá Nhật đến cho biết, nay Bảo Đại có thể trở về nhà một cách an toàn.
Lúc đó Bảo Đại vẫn tự hỏi: Je m’interroge: Que s’est il passé? (“Tôi tự hỏi, điều gì đã xảy ra?”, S.M. Bao Daï, ibid., trang 101).
Đây là một câu hỏi vô trách nhiệm nhất của một người lãnh đạo đất nước.
Ngày hôm sau vào lúc 11 giờ, đại sứ Yokoyama, đại diện chính quyền Nhật Mikado đến trình bày lý do tại sao phải đảo chánh, lật người Pháp.
Đại sứ Nhật trình bày tiếp:
“Nous voulons redonner: “ L’Asie aux Asiatiques” (“Chúng tôi muốn trao trả Á Châu cho người Á Châu.” (S.M. Bao Daï, ibid., trang 102)
Trong dịp này, đại sứ Nhật cũng loại bỏ vai trò của Kỳ ngoại Hầu Cường Để đáng lẽ ở vị trí Bảo Đại bây giờ cũng như không nhắc xa gần gì đến số phận xứ Nam Kỳ.
Nhưng một lần nữa lại cho thấy, việc chọn lựa Bảo Đại thay vì Cường Để bởi vì Bảo Đại sẽ là một con cờ tay sai dễ sai khiến.
Người Nhật sẽ chính thức trao trả độc lập cho Việt Nam vào tay Bảo Đại và từ đây Bảo Đại sẽ đóng vai trò mới trong tay người Nhật. Vai tro Bảo Đại đóng với Pháp thế nào thì nay cũng như vậy. Cái khác là thay đổi chủ mà thôi.
Ngày 12 tháng 3, 1945, Bảo Đại triệu thỉnh đại sứ Nhật và trao cho ông này một bản tuyên bố lần đầu tiên có chữ ký chung của Cơ mật viện với các tên tuổi như Phạm Quỳnh, Hồ Đắc Khải, Ưng Hy, Bùi Bằng Đoàn Trần Thanh Đạt và Trương Như Định đại lược như sau:
“Trước tình hình thế giới và nhất là tình hình ở Á Châu, chính quyền Việt Nam tuyên bố công khai kể từ ngày hôm nay, các thỏa ước đã ký với chính quyền Bảo Hộ Pháp sẽ bị hủy bỏ và nước Việt Nam sẽ lấy lại quyền độc lập cho mình.” (S.M. Bao Daï, ibid., trang 104)
Ai là người viết chiếu chỉ này cho Bảo Đại? Phạm Quỳnh chăng ? Thường là thế, nhưng lần này không. Theo nhà báo Nguyễn Kỳ Nam có dịp phỏng vấn Phạm Quỳnh cho biêt:
“Sau tiếng súng nổ đêm 9 tháng 3, quân đội Nhật vào thành kiếm chúng tôi — tôi và các đồng liêu — đem giam lại một chỗ. Sáng ngày, ông Yokoyama đón Đức Kim Thượng đi săn về: chừng đó, hội họp nhau ở lầu Kiến Trung, tôi mới rõ sự tình. Qua ngày 11 tháng 3, ông Yokoyama trở lại, với hai bản văn viết sẵn:
— Tôi cho các ông suy nghĩ 15 phút, rồi ký tên hay là không ký, tùy ý.
Lúc bấy giờ tôi còn suy với nghĩ gì nữa: một bạn đồng liêu, mà không nhớ ông nào, mới nói ra câu này:
— Ký cũng vô khám, mà không ký cũng vô khám! Ký thì vô khám dễ chịu hơn là không ký.
Thế rồi toàn viện cơ mật ký tên.
Cụ Phạm Quỳnh ngẫm nghĩ hồi lâu, gật đầu nói với tôi:
— Hủy bỏ hay không hủy bỏ. Hiệp ước 1884 làm chi nữa? Nó đã bị hủy bỏ trước khi tôi vô Huế.” (Nguyễn Kỳ Nam, Ibid., trang 169)
Kinh thành Huế lúc đó do lính Nhật canh gác và kiểm soát khắp nơi. Và một lần nữa, người đọc thấy được tâm trạng của Bảo Đại:
“Je me trouve devant un vide vertigineux.” (“Tôi thấy mình rơi vào một tình trạng trống rỗng dễ sợ.”( S.M. Bao Daï, ibid., trang 105)
Ý nghĩ đầu tiên đến với bảo Đại là phải thành lập một chính phủ mới với nhân sự mới. Người đầu tiên ông nghĩ tới là Ngô Đình Diệm. Ông viết:
“Il devient urgent de prendre les afaires en main et de mettre en place cette équipe d’hommes nouveaux à laquelle avait allusion l’ambassadeur Yokoyama. Dans mon esprit, l’homme le plus représentatif de cette équipe c’est Ngo Dinh Diêm. Il est à Sài Gòn. Je sais qu’il est en relation avec les Japonais et que sa présence faciliterait nos rapports avec les autorités occupantes. Je convoque donc l’ambassadeur et, après avoir informé de ma décision, le prie de faire le nécessaire pour que Ngo Đinh Diêm puisse rejoindre la capitale le plus rapidement possible.”
(S.M. Bao Daï, ibid., trang 106)
“Tình hình trở nên khẩn trương phải nắm lấy cơ hội và thành lập ngay một nhóm người mới như gợi ý của đại sứ [Massayuki] Yokoyama. Trong đầu tôi lúc ấy, người có đủ điiều kiện hơn cả của nhóm này là Ngô Đình Diệm. Hiện ông ta ở Sài Gòn. Tôi cũng biết rằng ông có mối liên hệ với Nhật và nhờ thế có thể làm cho môi liên lạc giữa đôi bên trở nên dễ dàng hơn. Tôi đã nhờ đại sứ Nhật làm tất cả những gì cần thiết sau khi cho biết quyết định của tôi để Ngô Đình Diệm có thể về Huế càng sớm càng tốt.”
Ông đã yêu cầu đại sứ Nhật liên lạc với Sài gòn để gửi Ngô Đình Diệm ra Huế càng sớm càng tốt.
Không cần thiết phải đi sâu vào chuyện tại sao Ngô Đình Diệm đã không làm thủ tướng vì có nhiều cách giải thích khác nhau, bên lề. Chỉ biết chắc rằng lá bài Cường Để- Ngô Đình Diệm người Nhật đã không dùng mà quyết định chọn Bảo Đại-Trần Trọng Kim thay thế. Thật vậy, Trần Trọng Kim đã được Nhật đưa về Sài Gòn từ ngày 3-4-1945 và sau đó được đưa ra Huế thành lập nội các ngày 17-4. Việc chọn Trần Trọng Kim là một quyết định có sẵn của người Nhật. Một chính khách bất đắc dĩ do thời cuộc đưa đẩy lên, không muốn mà vẫn phải làm.
Trong hồi Ký Một cơn gió bụi, Trần Trọng Kim cho biết:
“Một viên trung tướng Nhật đã cho coi danh sách những người mà hoàng thượng muốn mời ra Huế có tên Hoàng Trọng Phu, Vũ Ngọc Oánh, Trịnh Bá Bích, Hoàng Xuân Hãn, Cao Xuân Cẩm và tên tôi mà lại không thấy tên ông Ngô Đình Diệm. Tôi lấy làm lạ sao có tên tôi đúng vào đấy.”
(Trần Trọng Kim, Một cơn gió bụi, Sài Gòn, 1969, bản Phocopy)
Rồi khi về đến Sài Gòn gặp Ngô Đình Diệm. Ông Diệm không biết gì về việc người Nhật mời cụ Trần Trọng kim ra Huế.
“Ông Diệm nói: “thế à, sao người Nhật không cho tôi biết?” Ngồi nói chuyện qua loa vài câu rồi ông Diệm đứng dạy nói: “Tôi phải vào Tư Lệnh Bộ có chút việc, sang sớm mai, tôi về lại Vĩnh Long.””
(Trần Trọng Kim, ibid.)
Như vậy dứt khoát là ông Diệm không được giấy mời của Nhật thì làm sao ra Huế được. Cả Bảo Đại và cụ Trần Trọng Kim đều bị người Nhật phỉnh lừa, cho vào tròng mà không biết nên mới gây ra nhiều cớ sự.
Hiểu rõ vai trò của mình đã hết, vì nặng về khuynh hướng theo Tây, Phạm Quỳnh và nội các của ông đã đệ đơn từ chức.
Đợi ba tuần lễ, cũng không có tin tức gì của Ngô Đình Diệm. Cuối cùng vị đại sứ Nhật cho biết, chính quyền Nhật không chấp thuận để Ngô Đình Diệm làm thủ tướng. Lá bài thủ tướng được chuyển sang cho Trần Trọng kim, một người cũng được Nhật chọn và tin tưởng đồng thời là một người quốc gia chân chính.
Chính Phủ Trần Trọng Kim
Việc chọn Bảo Đại và thủ tướng là nằm trong cái carte Japonaise của người Nhật? Nay việc thành lập nội các ai sẽ là người quyết định? Thật ra danh sách thành phần nội các một phần lớn đã nằm trong thành phần mà Bảo Đại đã có thư mời từ trước rồi. Ông Trần Trọng kim cũng không quen biết nhiều, cũng không có diều kiện thời giờ để mời ai khác được. Vì vậy đây là một sự sắp xếp gọn gàng và tốt đẹp với các nhân sự có mặt tại Huế nên chỉ trong một thời gian tham khảo ngắn, ông Trần Trọng Kim đã trình lên Bảo Đại thành phần nội các của ông, Dưới mắt Bảo Đại thì đây là thành phần nội các trẻ, phần lớn được Pháp đào tạo. Bảo Đại hy vọng và phấn khởi vì đây là lần đầu tiên một chính phủ Việt Nam độc lập vào ngày 17 tháng tư.
Ngoài Trần Trọng Kim, giáo sư, Nội các Tổng Trưởng. Trần Đình Nam, Y sĩ, Nội vụ Bộ Trưởng. Trần văn Chương, luật sư, Ngoại giao Bộ Trưởng. Trịnh Đình Thảo, luật sư, Tư Pháp Bộ Trưởng. Hoàng Xuân Hãn, Toán học thạc sĩ, Giáo dục và Mỹ Nghệ Bộ trưởng. Nguyễn văn Hiền, Luật sư, Tài Chánh Bộ Trưởng. Phan Anh, luật sư, Thanh Niên Bộ Trưởng. Lưu Văn Lăng, kỹ sư, Công Chính Bộ Trưởng. Vũ Ngọc Anh, Y khoa bác sĩ, Kinh tế Bộ Trưởng. Nguyễn Hữu Thi, cựu Y Sĩ, Tiếp tế Bộ Trưởng.
Nội các Trần Trọng Kim. Nguồn: Trung Bắc Chủ Nhật, 20/5/1945)
Từ trái sang phải: Hoàng Xuân Hãn, Hồ Tá Khanh, Trịnh Đình Thảo, Trần Trọng Kim (sau micro), Vũ Ngọc Anh, Trần Văn Chương, Trần Đình Nam, Vũ Văn Hiền, Phan Anh, Nguyễn Hữu Thi.
Khi Trần Trọng Kim vào trình danh sách thành phần chính phủ. Bảo Đại xem xong đồng ý. Tiện đó có ông Yokohama cũng xin xem có những ai. Sau đó còn đề nghị ông Trần Văn Chương vào chức Nội các Phó Tổng trưởng đề phòng để có người thay thế.
Cũng theo ông Trần Trọng Kim, thành phần nội các do chính ông chỉ định và người Nhật không can thiệp vào.
Kể từ khi thành lập xong nội các, phải nhìn nhận cả Bảo Đại lẫn chính phủ Trần Trọng Kim đều có thiện chí và những nỗ lực để thông nhất ba kỳ, yêu cầu Người Nhật trả Bắc Kỳ và Nam Kỳ. Khi trả Bắc Kỳ, chính phủ Trần Trọng Kim đã sắp đặt ông Phan Kế Toại làm Bắc Bộ Khâm Sai. Trần Trọng Kim viết:
“Việc thu cả ba kỳ về quyền Trung Ương để thống nhất đất nước như khi chưa bị sự bảo hộ của nước Pháp là việc rất trọng yếu của chính phủ tôi. Trong sự điều đình với người Nhật để thu lại lãnh thổ nước Việt Nam gặp nhiều sự khó khăn. Trước hết, người Nhật bằng lòng trả trả đất Bắc Bộ cho chính phủ Việt Nam, song những đất thuộc ba thành: Hà Nội, Sài Gòn, Đà Nẵng và Nam Bộ là đất Vua Việt Nam ngày trước đã ký kết cho nước Pháp thì người Nhật đòi tạm giữ đến khi nước Việt Nam hoàn toàn độc lập trả sau.”
( Trần Trọng Kim, ibid., trang 19)
Cũng vì thế trong chuyến ra Hà Nội thương thuyết với Nhật, chính phủ Trần Trọng Kim đã đòi lại được toàn lãnh thổ nước Việt Nam, thu hết các công sỏ thuộc Phủ Toàn quyền Pháp, lấy hết được các binh sĩ Việt Nam để tổ chức quân đội Bảo An. Cũng đòi Nhật cung cấp 2000 vũ khí, đạn dược. Sau đó cho gọi Đai Úy Thu làm chương trình cải tổ các đội Bảo An.
Có hai yếu tố để cắt nghĩa sự thành công và thất bại của chính phủ Trần Trọng Kim. Thứ nhất, người Nhật biếp sắp thua nên trao trả ;ại cho Việt Nam. Thứ Hai khoảng thời gian là quá ngắn không đủ cho chính phủ Trần Trọng Kim có thể làm được gì.
Tuy nhiên, chương trình cải tổ giáo dục của Hoàng Xuân Hãn cũng như như việc xử dụng chữ Quốc Ngữ vẫn có một ảnh hưởng lâu dài trong ngành giáo dục sau này.
Nhưng sự thú nhận sau đây của Trần Trọng Kim, dù chỉ trong vài dòng của một người hiền cho thấy người Việt đã kém cỏi mà cũng khó mà đoàn kết với nhau được. Thứ nhất có truyện tranh công nhỏ nhoi của Trần Văn Chương mà thấy không cần nói ra đây làm buồn lòng Trần Trọng Kim. Tình hình dù chưa ngã ngũ ra sao, ông Trần Trọng kim đã rắp tâm từ chức. Đó là một tai hại mà hậu quả nay chưa ai có thể lượng giá đúng mức được. Nhiều người tiếc nuối giá mà Ngô Đình Diệm làm thủ tướng thì sao? Làm sao có thể đặt ra một giả định không xảy ra trong lịch sử.
Và ông Trần Trọng Kim tự bạch:
“Sự tôi thôi thì tôi đã dự định rồi, nhưng để lấy lại đát Nam Bộ cho trọn công việc của mình, tôi thôi ngay.
Tôi thấy việc đi Nam có nhiều sự cản trở, trong Nội Các không có hòa khí như lúc đầu, và có lắm chuyện nhỏ mọn không muốn nói ra, làm tôi mất cả lòng hăng hái làm việc, thành ra đến ngày mồng 8 tháng tám, tôi vẫn không đi Nam được. Tổng Tư lẹnh Nhạt ở Hà Nọi vào Sài Gòn không thấy tôi điện ra dục. Tôi điện vào xin cứ cho lấy lại Nam Bộ, tôi không phải vào Nam nữa..
Được tin người Nhật ưng thuận, và lúc ấy có ông Nguyễn Văn Sâm lãnh tụ đảng Quang xã vừa ở Sài Gòn ra Huế. Tôi vào tâu vua Bảo Đại, xin cử ông Sâm làm Nam Bộ Khâm Sai. Nagy 14 tháng tháng tám năm 1945, ông Sâm được sắc chỉbổ vào Nam. (..)
Việc lấy lại được đất Nam Bộ xong, tôi vào tâu vua Bảo Đại, xin cho tôi từ chức. Ngài nói:
Ông đang làm được việc, sao lại xin thôi, vì ongo thôi lấy ai thay.
Tôi tâu trình lên mấy người, ngài tỏ vẻ không thuận, bảo:
Các ông hãy tạm làm việc, chờ đến khi tìm được người ra lập nội các hãy thôi.
Lúc ấy tôi như cất được gánh nặng, nhưng tìm ai thay? Tôi nghĩ nên tìm những người như Ngô Đình Diệm, Nguyễn Xuân Chữ, Lê Toàn, Tạ Thu Thâu, Hồ Hữu Tường, Đặng Thái Mai v.v. đã có tiếng hoạt động về chính trị để vào lập nội các mới. Tôi điện đi các nơi mời những người ấy vào Huế. (…) Tôi cũng nhờ ông Phan Anh Vắc và ông Hồ Tái Khanh vào Nam. Nhưng cả hai ông trên đường đi bắt giữ lại..”
(Trần Trọng Kim, ibid., trang 28)
Sau vụ từ chức của Trần Trọng Kim, con thuyền chính trị Việt Nam quốc gia hẳn là sẽ chìm. Dân chúng nói chung cảm thấy hân hoan vui mừng khi hai quả bom nguyên tử bỏ xuống Hiroshima và Nagasaki vào 6 à 9 tháng 8, 1945. Dân chúng khắp nơi bầy tỏ niềm hy vọng hoàn toàn độc lập.
Ngai vàng nhà Nguyễn sụp đổ: chấm dứt 400 năm triều Nguyễn
Vua Bảo Đại cũng như Hoàng hậu Nam Phương là những người thấm nhuần văn hóa Pháp nên không thể nào không so sánh cái hoàn cảnh bấp bênh của họ so với số phận cay nghiệt dành cho vua Louis XVI trong cuộc cách mạng Pháp? Bài học Varennes còn đó hẳn là phải nhắc nhở Bảo Đại điều gì? Thật vậy, vào ngày 20-25 tháng sáu 1791, giai đoạn sôi bỏng của cách mạng Pháp, vua Louis và cả hoàng gia đã quyết định tìm cách trốn ra ngoại quốc qua ngã Varennes. Sự tính toán hẳn là đã hết sức cẩn trọng và bí mật. Nhưng rồi cả hoàng gia đã bị bắt tại nơi đây và sau đó bị lên máy chém. Chỉ nghĩ lại thôi cũng đủ rùng mình cho các trò chơi chính trị.
Bảo đại muốn tránh cái thảm cảnh đó nên quyết định không bỏ trốn tuy cũng có cơ hội. Theo Nguyễn Kỳ Nam ngày 12 tháng Tám, 1945 một viên đại tướng Nhật vào nội thành xin gặp Bộ trưởng bộ Tư Pháp Trịnh Đình Thảo nói là có việc khẩn và mật. Lúc đó có mặt nhà báo Nguyễn Kỳ Nam vì ông đang là Đổng lý văn phòng bộ Tư pháp trong nội các Trần Trọng Kim ở Huế.
“Viên đại tướng Nhật nói: “Tôi từ Sài Gòn vào đây để nhờ ông Bộ Trưởng vào yết kiến Hoàng đế đặng hỏi Ngài: có muốn trao cho quân đội Nhật gìn giữ trật tự trên toàn cõi lãnh thổ V.N. không? Nếu Hoàng đế muốn dẹp những đảng phái chính trị muốn lăm le đoạt chính quyền, thời quân đội Nhật sẵn sàng dẹp tất cả. Tướng Nhật nói thêm, Bộ tham mưu của chúng tôi phúc trình về nói rằng: Việt Minh đang huy động lực lượng trong bóng tối chờ ngày cướp chính quyền. Nghe trình bày xong, Bảo Đại từ chối nói không, vì không muốn đổ máu nữa.”
(Nguyễn Kỳ Nam, ibid., trang 190)
Chính vì thế, Bảo Đại quyết định ở lại Huế, chấp nhận đối đầu với một tình thế khó khăn và nguy hiểm. Cuối cùng ông hy vọng dân sẽ không bỏ rơi ông. Đây có phải là một hy vọng ảo tưởng không? Người ta sẽ có câu trả lời rõ ràng và đầy đủ hơn lúc ông trịnh trọng tuyên bố thoái vị.
Cho nên, quyết định ở lại là một quyết định khôn ngoan. Có tính toán mà có thể chỉ mình Bảo Đại có thể làm được. Tôi vẫn nghĩ cần đánh giá thực chất con người Bảo Đại ở những lúc tình thế cực đoan như lúc này!
Một tình thế mà dòng cuốn của chính trị cứ thế như một dòng cuồng lũ khó bề giữ nổi. Nó tiếp nối nhau mỗi lúc mỗi căng thảng mà không gì ngăn cản được.
Daniel đã nhận thức ra điều ấy, ông viết:
“Tình thế đã không thể nào đảo ngược. Mặc dầu trước đó có tin một nhóm đột kích lấy tên là “Lambda” gồm 6 người do đại úy Pháp Castelnat đã nhảy dù cách Huế 28 kilô mét nhằm tìm cách ngăn chặn Bảo Đại đừng thoái vị. Họ đã bị Việt Minh bắt ngay khi chiếc dù của họ chạm mặt đất. Cho dù họ có không bị bắt thì tình thế xem ra cũng đã quá trễ. Họ không ngăn cản được việc từ chức của Bảo Đại!”
(Daniel Grandclément, ibid., trang 161)
Bây giờ ngồi nhìn lại thời cuộc lúc đó nhiều người có thể chê trách Bảo Đại là hèn nhát. Nhưng người ngoài cuộc đâu biết rằng ngay sáng ngày 23, Bảo Đại đã nhận được một tối hậu thư của Việt Minh đòi phải từ chức trong vòng 12 tiếng đồng hồ, nếu không lực lượng cách mạng sẽ không bảo đảm tính mạng của hoàng gia. Bức điện tín ký tên rất vu vơ, rất không rõ ràng, chẳng biết cái ủy ban đó là ai? “Un comité de patriotes représentant tous les partis et toutes les couches de la population” (một ủy ban của những người ái quốc đại diện cho tất cả các đảng phái và các tầng lớp dân chúng.)
Hôm sau là ngày 23, Bảo Đại cho hay cung điện nhà vua như trống rỗng, vắng mặt Trần Trọng Kim cũng như các vị bộ trưởng, ngoài mấy người lính canh và người anh em họ Vĩnh Cẩn. Cũng theo Bảo Đại, trước đó ông có liên lạc với Tổng thống Truman, thống chế Tưởng Giới Thạch, vua nước Anh, tướng De Gaulle, nhưng đã không được ai trả lời.
Việt Minh hẳn đã tìm đủ cách để cô lập Bảo Đại bao trùm một sự sợ hãi vu vơ, đe dọa trực tiếp, gián tiếp buộc Bảo Đại phải đi đến chỗ từ chức. Mà mạng sống của chính mình và sự an toàn của hoàng gia đủ để Bảo Đại phải từ chức!
Chẳng hạn, đây là một bằng cớ, một thằng nhãi vốn chỉ là một anh kèm trẻ, giáp mặt hoàng thượng vốn đã khó, có thể trở thành một cố vấn!
“Nhưng vào một buổi chiếu, Bảo Đại cho biết có một thanh niên mà ông mới tuyển vào dạy học cho Bảo Long đã vào gặp và năn nỉ Bảo Đại phải rời Hoàng Cung đi trú ẩn ở chỗ lăng tẩm các vua nhà Nguyễn.”
(S.M. Bao Daï, ibid., trang 117)
Bảo Đại không biết đây là một lời khuyên chân thành hay là một sự xúi dục nào khác. Và cho đến sau này, bảo Đại cũng không bao giờ biết rõ câu chuyện. Chỉ rất tiếc, Bảo Đại không cho biết tên người thanh niên này là ai?
Và đến khuya, lại thêm viên giám đốc bưu điện đem vào trình một công điện vào trình đánh đi từ Hà Nội.
“Thể theo ý nguyện của toàn dân Việt Nam sẵn sàng hy sinh tất cả để bảo vệ nền độc lập quốc gia, chúng tôi kính cẩn xin nhà vua làm một nghĩa cử lịch sử bằng cách từ nhiệm. Công điện do đại diện những người yêu nước đại diện cho tất cả các đảng phái và mọi tầng lớp đân chúng.”
(S.M. Bao Daï, ibid., trang 118)
Nhưng ngay từ đầu bài viết này, tôi đã đánh giá Bảo Đại là người ham sống, sợ chết và bằng bất cứ giá nào, ông cũng chọn cho mình một con đường sống. Chọn sự hợp tác với Pháp, rồi bỏ rơi Pháp, chọn Nhật rồi sau chọn Việt Minh, và lại quay trở lại với Pháp — hưởng trọn vẹn mọi bổng lộc trong vai trò Vua và trong vai trò Quốc Trưởng.
Nếu nói ai là người thúc dục Bảo Đại thoái vị thì người thứ nhất có thể là Huỳnh Thúc Kháng. Bên cạnh đó là Phạm Khắc Hòe. Hòe cũng đưa ra cái gương của Louis XVI và gián tiếp dọa Bảo Đại là đừng để nước đến chân mới nhảy.
Chẳng biết Ủy ban lãnh đạo là ai ở Hà Nội để phúc đáp công điện. Bảo Đại đành gửi cho “Comité des Patriotes” (Ủy Ban những người yêu nước) lá thư phúc đáp như sau:
“Phúc đáp lời kêu gọi của quý ông, tôi sẵn sàng từ nhiệm. Trong cái giờ lịch sử quyết định của dân tộc, đoàn kết thì sống, chia rẽ là chết. Tôi sẵn sàng hy sinh tất cả cho sự đoàn kết được thực hiện và tôi mong mỏi các vị lãnh đạo ủy ban này đến Huế trong thời gian sớm nhất để chuyển giao quyền hành.”
(S.M. Bao Daï, ibid., trang 119)
Ngày 25-8, đại diện của Hồ Chí Minh là Trần Huy Liệu, trưởng phái đoàn cùng với Cù Huy Cận đến gặp Bảo Đại.
Trần Huy Liệu vốn là một nhà báo, bút hiệu Nam-Kiều, viết cho tờ Đông Pháp, ở trong Nam — vóc dáng tầm thường, mắc lác. Trần Huy Liệu nhân danh lãnh tụ Hồ Chí Minh trân trọng nhận chiếu thoái vị từ tay Bảo Đại và yêu cầu Bảo Đại đọc trước công chúng Huế.
Nguyên văn chiếu thoái vị của vua Bảo Đại, buổi chiều, ngày 25 tháng tám, 1945:
“Chiếu rằng:
Hạnh-Phúc của dân Việt-Nam
Độc-Lập của nước Việt-Nam
Muốn đạt mục-đích ấy, Trẫm đã tuyên bồ sẵn-sàng hy-sinh hết thảy, và muốn rằng sự hy-sinh của Trẫm phải lợi ích cho Tổ-quốc.
Xét tới sự đoàn-kết toàn-thể quốc-dân trong lúc này là điều tối cần thiết, Trẫm đã tuyên-bố ngày 22 tháng 8 vừa rồi trong giờ nghiêm-trọng của Lịch-Sử Quốc-Gia: Đoàn-Kết là sống, Chia rẽ là chết.
Nay thấy nhiệt-vọng dân-chủ của quốc-dân Bắc-Bộ lên cao, nếu Trẫm cứ yên vị đợi một Quốc-Hội thì e rằng khó tránh được sự Nam-Bắc tương tàn, đã thống khổ cho quốc-dân lại thuận-lợi cho người ngoài lợi dụng.
Mặc dầu Trẫm đau đớn nghĩ đến công lao Liệt-Thánh đã vào sinh ra tử đã gần 400 năm để mở mang non-sông đất nước từ Thuận-Hoá tới Hà-Tiên. Mặc dầu Trẫm buồn rầu nghĩ tới 20 năm qua Trẫm ở trong cái cảnh không thể thi-hành được việc gì đáng kể cho nước nhà như lòng Trẫm muốn, Trẫm cũng quả-quyết thoái-vị nhường quyền điều-khiển quốc-dân cho Chính-phủ Dân-Chủ Cộng-Hoà.
Sau khi thoái-vị, Trẫm chỉ mong ước có 3 điều:
– Đối với Tôn-Miếu và Lăng-Tẩm của Liệt-Thánh Chính-phủ mới nên giữ-gìn cho có trọng thể.
– Đối với các đảng-phái đã từng tranh-đấu cho nền Độc-Lập Quốc-Gia nhưng không đi sát phong-trào dân-chúng, Trẫm mong Chính-phủ mới ôn-hoà mật-thiết xử-đối để những phần-tử ấy cũng có thể góp sức kiến-thiết quốc-gia và để tỏ ra rằng chính thể mới xây đắp trên sự đoàn-kết của toàn-thể quốc-dân.
– Trẫm mong tất cả các đảng phái, các giai-từng xã-hội, các người trong Hoàng Tộc nên hợp nhất ủng-hộ triệt-để Chính-phủ Dân-chủ để giữ vững nền Độc-Lập nước nhà.
Riêng Trẫm trong 20 năm Ngai vàng Bệ-ngọc, đã biết bao lần ngậm đắng nuốt cay. Từ nay Trẫm lấy làm vui được làm dân một nước Độc-Lập, quyết không để ai lợi-dụng danh nghĩa của Trẫm hay danh nghĩa của Hoàng-Gia mà lung-lạc quốc-dân nữa.
Việt-Nam Độc-Lập muôn năm!
Dân-Chủ Cộng-Hoà muôn năm!
Khâm Thử: BẢO ĐẠI.”
(Nghiêm Kế Tố, Việt Nam Máu Lửa, Nhà xuất bản Mai Lĩnh 1954, trang 38, 39, 40.)
Đây là bài diễn văn đọc trước vài ngàn dân chúng trước cửa Ngọ Môn vào buổi chiều do đề nghị của Trần Huy Liệu. Bài chiếu thoái vị này do Hoàng Thân Vĩnh Cẩn viết; người khác cho là Trần Huy Liệu soạn sẵn, Bảo Đại chỉ có việc đọc. Trong lúc đọc, do xúc động cũng có, dù có micro, do đọc tiếng Việt không sõi, người nghe chữ được, chữ không. Chỉ biết đây là nội dung thoái vị.
Vua Bảo Đại thoái vị trong một buổi lễ ở Ngọ Môn, Huế vào chiều 30 tháng 8, trao quốc ấn Hoàng đế Chi Bửu và thanh kiếm bạc nạm ngọc cho đại diện của chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là các ông Trần Huy Liệu, Nguyễn Lương Bằng, Cù Huy Cận.
Khi đọc xong chiếu thoái vị, Bảo Đại quan sát những người đứng gần cho thấy họ đều ngạc nhiên đến sửng sốt. Cả đàn ông đàn bà như vừa nghe tiếng sét đánh, sững sờ.
Trong một bầu khí như câm lặng, Bảo Đại vội vàng trao ấn tín cho Trần Huy Liệu và dân chúng tản ra về trong sự im lặng! Theo Bảo Đại khi đọc xong chiếu thoái vị thì ở dưới im lặng như tờ. Dân chúng cảm thấy kinh hoàng khi nghe chiếu thoái vị.
Cho đến bây giờ, tôi vẫn mong được đọc một nhân chứng sống đã có mặt trong buổi lễ thoái vị này. (Trách nhiệm treo và hạ cờ là do hai thanh niên Huế là Đặng Văn Việt và Nguyễn Thế Lương. Sau này Việt trở thành Trung Đoàn Trưởng và Lương là cục phó cục quân báo.)
Bảo Đại lập tức rời địa điểm tập họp bên cạnh có Trần Huy Liệu và Cù Huy Cận đi kèm, dân chúng cũng rút lui một cách thầm lặng. Trước khi họ chia tay, Trần Huy Liệu nhân danh Hồ Chí Minh mời Bảo Đại ra Hà Nội. Bảo Đại nhận lời.
Nhận xét của tác giả Daniel Grandclément có phần thiên lệch với giọng điệu chế diễu:
“Và lúc đó đám đông đã phá lên cười khi Huy Cận đứng trên bục, micro cầm trên tay, dơ lưỡi thanh kiếm và nói: “Huy Cận nói to: thanh kiếm đã rỉ rồi, biểu tượng của quyền hành của nhà vua đã mục rỉ rồi.”
(Daniel Grandclément, ibid., trang 171)
Tôi vẫn tin rằng, dù thế nào đi nữa, trong hoàn cảnh này, người dân Huế không thể cười nhạo Bảo Đại. Và có khó gì đối với Việt Minh, họ dàn cảnh một bọn người cầm cờ quạt, biểu ngữ và hô khẩu hiệu.
Ngày hôm sau, bà Từ Cung rời cung điện. Bà Nam Phương cũng rời khỏi cung 24 tiếng đồng hồ sau. Bảo Đại còn lại trong cung và đây là tâm trạng của ông:
“Tôi cảm thấy một sự an bình to lớn trong tôi., một sự bình tĩnh lớn và tôi không thấy có gì để hối tiếc. Tôi cảm thấy cần thiết phải viết như sau: Cuối cùng, tôi được tự do. Cảm thức này đến với ông một cách tự nhiên như thể ông vừa trút được một gánh nặng cho phép tôi cứu được xứ sở của tôi. Và hy vọng dân chúng xiết chặt hàng ngũ chung quanh một nhóm người mà cứ bề ngoài cho thấy, họ có đầy đủ khả năng hơn tôi để thực hiện được một nền độc lập.
Vì không có việc gì làm ở Huế, tôi chấp nhận lời mời của chủ tịch Hồ Chí Minh ra viếng thăm Hà Nội một chuyến. Nhiều người như hoàng hậu lo sợ cho tôi về chuyến đi này.”
(S.M. Bao Daï, ibid., trang 122)
Chuyện thoái vị là biến cố lớn như thế, nhưng tình hình Huế lại êm ả. Từ trong nhà ra đến đường phố, không có bất cứ một dấu hiệu gì bất thường. Nếu có gì đặc biệt là có những đoàn người đi biểu tình, cầm biểu ngữ hô vang nhiều khẩu hiệu cộng với tiếng loa, tiếng trống ếch của các thiếu nhi và những tiếng hát.
Nhưng trong bóng tối thì có những vụ bắt bớ, tuyên án tử hình và xử ngay lập tức.
Hồ Chí Minh cũng cử ông Lê Văn Hiếu, bộ trưởng Lao động đại diện chính quyền để kiểm tra tài sản của triều đình.
Ngoài những diễn biến công khai chính trị như vừa kể, đã có nhiều dấu hiệu bất bình thường ở Huế. Đã có nhiều cuộc ám sát hoặc thủ tiêu bí mật mà phần đông là những người quốc gia. Chỉ hơn một tuần sau, Phạm Quỳnh, Ngô Đình Khôi và con trai Ngô Đinh Huân, thông dịch viên cho Nhật bị xử tử ngày 6-9.
Phạm Quỳnh bị xử bắn là một trong những trường hợp điển hình nhất ở Huế. Giết Phạm Quỳnh là giết cả một biểu tượng Huế, một trí thức Tây học, một người cộng tác với Pháp, một tay chân thân tín của Bảo Đại, một quan đại thần của triều đình Huế.
Giết Phạm Quỳnh không bao giờ là sự vô tình hay giết nhầm, giết oan cả. Nó nằm trong chính sách đường lối của Việt Minh. Cha con Ngô Đình Khôi là một cái giá khác phải trả.
Ngoài Bắc, Phan Kế Toại đã kịp thời phải từ chức và ngày 19 tháng 8, 1945 Việt Minh đã chiếm các cơ sở quan trọng như Dinh Toàn Quyền, Bộ tư Pháp cũng như bộ tài chánh, các cơ sở trường đại học cũng như trung học.
Trong Nam, bác sĩ Phạm Ngọc Thạch, lãnh đạo “phong trào thanh niên tiền phong”, nhường chỗ cho Trần Văn Giàu, cũng là người của Việt Minh.
Riêng ngoài Bắc xảy ra nhiều vụ ám sát người của đảng phái hoặc thành phần được coi là Việt gian.
Khi người Tàu rút lui, Võ Nguyên Giáp đã mở chiến dịch rộng rãi tiêu diệt các đảng phái Quốc Gia. Đây là một thanh toán cho sạch mọi thành phần không theo Việt Minh.
David Marr ghi lại:
“Bình Sơn, một cán bộ Việt Minh trong “những tiếng súng diệt kẻ phản bội” (Shots that eliminate traitors) đã ghi lại việc Bình Sơn được cấp trên cho trừ khử một người tên Truyền. Bình Sơn mang một đội quân gần 100 người đến bao vây nhà của Truyền và hai phụ tá. Sau khi đọc bản án, Bình Sơn hạ lệnh bắn cả ba người.”
(David G. Mar, Vietnam 1945, The quest for power, University of California Press, trang 236)
Những vụ án giết người như thế thường không có đủ bằng cớ, đôi khi ám sát công khai ngay giữa đường phố. Nó có tác dụng ngăn chận và đe doạ và khủng bố người khác. Như ở Hải Phòng, cán bộ Việt Minh đã bắn người ngay trên đường phố vì những người này bị coi là “collaborator” (hợp tác với thực dân) hay thành phần “reactionary” (phản động) trong khi nạn nhân đợi ở bến phà đi Kiến An. Nhạc sĩ Văn Cao cũng nằm trong danh sách các tên sát thủ ấy ở Hải Phòng.
Theo Hoàng văn Hoan, tác giả “Giọt nước trong biển cả”, thành phần đảng phái như Đại Việt quốc gia liên minh là mục tiêu chính của Việt Minh tại nhiều thành phố. Vẫn theo Hoàng Văn Hoan, tổng số Việt Minh lúc bấy giờ vào khoảng trên dưới 5000 đảng viên mà nhiều người còn nằm trong nhà tù của Pháp.
Ngay tại Huế, truyền đơn rải khắp nơi và nhiều nhóm tuần hành trong thành phố ngay sát với hoàng cung.
Diễn biến cuộc tịch thu tài sản của Bảo Đại
Một điều cần ghi nhận là trong Hồi ký Le Dragon d’Annam của Bảo Đại. Ông không đả động gì đến chuyện tịch thu tài sản cả. Cho đến nay, người ta vẫn không hiểu dụng ý của ông tại sao giữ im lặng, tại sao không viết gì?
Người đại diện chính thức đảm trách trông coi việc kiểm kê tài sản là ông Bộ trưởng Bộ Lao Động làm việc cùng với ông Phạm Khắc Hòe. Họ để ra một nguyên tắc kiểm kê rất đơn giản: Cái gì của cá nhân thì mang theo, còn lại những cái khác thuộc tài sản của triều đình. Họ yêu cầu trong nửa ngày mọi người phải dọn ra khỏi Hoàng cung.
Bà Nam Phương thì rất nguyên tắc chỉ mang theo quần áo đồ, đùng thường ngày, dự trù khoảng 40 chục thùng. Tất cả đều diễn ra một cách nhanh chóng trong nửa ngày. Cả một đoàn người như một đám di tản, tay sách, đội gánh đi ra khỏi cửa Ngọ Môn. Nhiều người mang nặng quá phải để đồ lại phía bên này cầu Clémenceau.
Riêng Bảo Đại, trước mắt chỉ còn lại hai xe hơi và máy bay đều là những thứ cồng kềnh không khuân đi được nên để lại biếu chính quyền mới.
Tôi có cảm tưởng Bảo Đại đi tay không ra khỏi Hoàng Thành, nơi mà ông đã ở đó khoảng 20 năm. Ông xem ra dửng dưng trước những thứ bị tịch thu và không thèm lưu tâm tới!
Theo Khai Bui, “Bao Dai. The king and a refugee”, Jun 17, 2012,
“Trong cuộc sống ở Pháp Bảo Đại là chủ nhân ông một chiết du thuyền lớn nhất đậu ở Monaco năm 1954, thời giá khoảng 150.000 bảng Anh (khoảng 30 triệu đô-la theo tiền ngày nay) và Lâu đài Thorenc, một bất động sản gồm 20 phòng ngủ, toạ lạc trên một khu vườn rộng gần 3 hecta, nhìn xuống Cote d’Azur, miền Nam nước Pháp; một nhà xe có thể đậu 10 chiếc, gồm một chiếc Lincoln mui trần mầu xanh, một chiếc limousine Citroen đen, vài chiếc xe đua hiệu Simca, và một chiếc Rolls Royce Bentley. Theo nhận định của Bruce Lockhart, lối sống đó đã không chinh phục được sự kính trọng, lòng tin, sự ngưỡng mộ của dân chúng, đa số là nông dân. Và chính Bảo Dại cũng đã than phiền thay cho dân, “Tôi thấy tận mắt, trong những chuyến đi khắp đất nước, đời sống khốn khổ của nông dân, không ai có thể nảo tôi rằng những hình ảnh đó tương ứng với lý tưởng của cuộc cách mạng Pháp, dân chủ”, nhưng sau đó Bảo Đại lại trở về Pháp sống đời thoải mái. Decoux, một Toàn quyền Pháp ở Việt Nam nói, “Bảo Đại có một số tính tốt khiến ông ấy là một người rất dễ chịu, và có những khả năng khác nhưng ông ít khi dùng đến. Ông ấy dành phần lớn thời gian của mình vào những thú vui vô ích, ít làm việc, và tỏ ra không quan tâm đến vấn đề công.””
Bảo Đại tại Lâu đài Thorenc (1955). Nguồn: British Pathé
Vua chúa nhà Nguyễn không chỉ có mình Bảo Đại giàu có. Tài liệu trong thư khố của Bộ Ngoại giao Pháp (Archives Du Ministère Des Affaires Étrangères, MAE) nhan đề “Mémoires et Documents, Asie” của Pháp tiết lộ cho thấy một cuộc tịch thâu tài sản vô tiền khoáng hậu sau khi vua Đồng Khánh băng hà (28/1/1988) do thực dân thực hiện và làm phúc trình lên Toàn quyền Pierre Paul Rheinart.
Đại Nam Thực Lục ghi, “Pierre Paul Rheinart giữ chức Tổng Trú sứ Trung – Bắc Kỳ từ 8/9/1888 đến tháng 5/1889 nên ở đây chép là Toàn quyền, nhưng chỉ là Toàn quyền Trung Bắc lưỡng kỳ.”
Tài liệu này cho thấy, ngay từ thời Minh Mạng, vua Minh Mạng nổi tiếng nhiều vợ nhất và còn nổi tiếng giàu có nhất đã tích lũy rất nhiều tiền của thâu tóm được của dân chúng rồi chôn dấu trong hậu cung để làm của riêng.
Tại sao những việc động trời như thế này không thấy sử sách Việt Nam đả động tới?
Khi Đồng Khánh lên ngôi, Đồng Khánh biết được các chỗ chôn dấu ấy của triều Minh Mạng nên đã cho tay chân đào lên. Nhưng chẳng may chình quyền thực dân biết được. Vì thế, ngay khi vua Đồng Khánh vừa băng hà, thực dân Pháp đã cho người đào lên lấy lại tất cả. Thực dân Pháp cướp toàn bộ tài sản triều đình Nguyễn từ thời Minh Mạng-Đồng Khánh để lại và sau đó, dùng tàu thủy chuyên chở tất cả về bên Tây.
“Đồng Khánh mất ngày 28-01-1889, vì những trận nôn mứa ra máu đen, sau một cơn hấp hối kéo dài 10 ngày theo lời ghi chú lại của một bác sĩ Pháp có bổn phận chăm sóc sức khỏe cho nhà vua. Quan tài Đồng Khánh còn quàng tại điện Cẩn Chánh thì toàn quyền Rheinart đã cho kiểm tra tài sản của Đồng Khánh trong thời gian ba năm, bốn tháng. Người có trách nhiệm kiểm kê đã làm phúc trình như sau:
“Tôi cùng ông Boulloche tham gia vào việc tìm kiếm và kê khai:
– Hai hòm nhỏ đựng 20.000 đồng bạc, gói thành từng cuộn 50 đồng một.
– Phía sau nhà hát, có hai chiếc hòm to tướng bọc sắt. Đồng Khánh đã cho đặt ở chỗ đó gần hai năm nay, mỗi hòm có thể đựng ngót 100.000 nén, tức 1.500.000 đồng bạc. Một hòm thì trống rỗng, Một hòm thì còn lại một.”
(Nguyễn Xuân Thọ. “Bước mở đầu của sự thiết lập hệ thông thuộc địa Pháp tại Việt Nam (1858-1897), Paris 2002, trang 504. Trích dẫn theo “Mémoires et Documents” quyển 74, chưa xuất bản).
“Tại một khu vườn hoang, vườn Hoàng Phước, có chôn các bao bạc thời Minh Mạng được chôn dấu ở đây. Các nén bạc được đóng vào từng bao 150, 250 nén một. Tôi đã đi kết luận, một cách chắc chắn rằng, mỗi lỗ cất giấu 100.000 lượng, tính ra là một vạn nén, tức trị giá 150.000 đồng là một số tiền khổng lồ vào thời Minh Mạng. Đồng Khánh đã đào bới được bạc trị giá 450.000 của Minh Mạng.”
“Chưa kể những đồ vàng bạc, châu báu, hàng trăm ngàn đồ vật linh tinh, hầu hết không có giá trị gì như ly, cốc, bình lọ, bát đĩa pha lê, những đồ ngọc thạch khá nhiều, biểu hiện một gíá trị khá quan trọng, theo như các công chức ước tinh, có thể lên tới 500.000 quan.”
“Tôi sẽ không nói gì về tính phóng đãng của nhà vua; nhưng điều tôi lưu ý hơn hết là những mánh khóe bất hảo mà đâu đâu người ta cũng nhắc tới. Người ta kể những cuộc khai quật “rất phát tài” của Đồng Khánh thực hiện trong nội cung, những hòm bạc mang đi chôn dấu tại Quảng Trị và trong Thiên Thanh, (lăng vua cha).”
(Nguyễn Xuân Thọ, ibid., trang 504-505)
Tiền bạc của Đồng Khánh tích lũy được hay đào được của các tiên đế như Minh Mạng rồi tìm cách chôn dấu rồi để cho cho người Pháp tịch thâu được và chở tất cả bằng tàu thủy về Pháp. Nguyễn Xuân Thọ nhờ kho tài liệu lưu trữ của Pháp nhan đề “Mémoire et Documents Asie” thuộc Archives Du Ministère Des Affaires Étrangères (Thư khố Bộ Ngoại giao Pháp) đã cho người đọc biết được những gì xảy ra trong nội cung triều đình nhà Nguyễn thời vua Đồng Khánh.
Cuộc kiểm kê và tịch thu tài sản của Pháp thời Đồng Khánh cho thấy vua chúa đã tham ô, lấy của dân để làm giàu cho cá nhân mình.
Đứng về mặt xã hội và pháp lý, họ không xứng đáng là vua mà thuộc phường đạo tặc, bất nhân. Tại sao một kẻ thường dân ăn cắp một con chó, một con gà bị đánh què cẳng, có khi thiệt hại cả đến tính mạng trong khi hàng vua chúa cướp của dân lại được bình an vô sự? Đọc đọan này, tôi tin chắc có những thành phần bảo hoàng sẽ nổi điên lên vì xúc phạm đến những kẻ vô sỉ mà họ tôn kính.
Xin đọc đoạn phúc trình sau đây do chính quyền thực dân / bảo hộ Pháp viết như một lời kết luận cho phần này:
“Đồng Khánh vừa mất, thì những tiếng đồn chẳng hay ho gì về ông đã lan truyền khắp nơi: và chắc chắn là ông đã chẳng để lại trong lòng người dân một thoáng cảm thông nhớ tiếc nào. […] Tôi sẽ không nói gì về tính phóng đãng của nhà vua; nhưng điều tôi lưu ý hơn hết là những mánh khóe bất hảo mà đâu đâu người ta cũng nhắc đến; Người ta kể những món tiền lớn lao cho các quan chức và tư nhân vay; những lệnh mua sắm giao cho một vị hoàng thân chắc chắn đã nhận được những món tiền kếch sù; người ta kể những cuộc khai quật “rất phát tài” của Đồng Khánh thực hiện trong nội cung, những hòm bạc mang đi chôn giấu tại Quảng Trị và trong Thiên Thành, (Lăng vua cha).”
(Nguyễn Xuân Thọ, ibid., trang 507, trích “Mémoires et documents, Asie”, MAE, quyển 74,)
Kết luận về vai trò làm vua của Bảo Đại dưới thời Pháp thuộc
Độc giả đã theo dõi bốn kỳ trên DCVOnline.net viết về giai đoạn Bảo Đại làm vua. Kể từ lúc 5 tuổi khi còn ở trong cung cho đến lúc được 9 tuổi được vua cha Khải Định gửi gấm cho ông Jean François Eugène Charles, Khâm sứ Trung Kỳ từ 1913 đến 1920, nhận làm con nuôi, đưa sang học tại Pháp. Bảo Đại về lại Việt Nam, chịu tang cha đồng thời đăng quang, sau đó ông lại tiếp tục sang Pháp học tiếp cho đến năm 19 tuổi.
Được huấn luyện một cách bài bản, nghiêm nhặt, được trông thấy, được quan sát đầy đủ nếp sống văn minh xứ người. Học đươc rất nhiều mà không hành, không áp dụng. Về việc học ở L’Institut d’études Politiques de Paris (SciencePo) Bảo Đại nói, “Tôi không khi nào bỏ những giờ học kinh tế, chính trị.” (I never missed lectures on economics, politics. Khai Bui, ibid., Jun 17, 2012)
Đáng lẽ khi về Việt Nam, ông sẽ mang cái học trong bấy nhiêu năm nơi xứ người về chính trị, về giáo dục, về hành chánh, về kinh tế để phát triển đất nước đi đến chỗ cường thịnh rồi từ đấy liệu bề đòi hỏi độc lập, dân chủ về cho đất nước, từng bước một.
Tiếc thay trong 20 năm ở ngôi vua, ông lo chơi hơn là làm, lo hưởng thụ hơn là nghĩ tới dân. Ông đã làm thất vọng mọi người trong đó có cả người Pháp như ông bà cha mẹ nuôi cũng như chính ông. Ông đóng trọn vẹn vai trò một vị vua bù nhìn không hơn không kém.
Nghĩ tới ông, nhiều lúc bẽ bàng tủi hổ cho đất nước không có lấy được một người tài.
Ông hưởng hết mọi bổng lộc mà người Pháp dành cho một vị vua Annam. Nhưng càng được người Pháp dung dưỡng, ông càng trở thành bê tha hư hỏng. Ông trở thành một thứ tây con, sống như Tây, hưởng thụ như Tây, hành xử theo cách người Pháp. Ông trở thành một thứ con hoang, người khách lạ trên chính quê hương mình. Nếu được phép thì ông sẵn sàng từ bỏ tất cả cung điện, ngai vàng để có thể sang Tây ở.
Một con người xa đọa, hư hỏng, mất gốc như thế, tôi muốn hỏi thẳng, những người vẫn muốn bảo vệ uy tín cho Bảo Đại, họ có biết ngượng và xấu hổ về việc bảo hoàng ấy không? Ca tụng Bảo Đại, che dấu tất cả những việc làm bại hoại của Bảo Đại là một hình thức vô luân về nhân cách, về đạo đức. Thật vậy, Khi Bảo Đại tuyên bố, thà làm người dân một nước độc lập hơn làm vua một nước bị trị, Bảo Đại đã chỉ lặp lại như máy những gì người ta viết sẵn cho ông đoc! Vậy mà lời tuyên bố dối trá ấy giúp ông thêm nổi tiếng? Chính ông và mọi người đã quên đi quá khứ nhem nhuốc 20 năm làm vua bù nhìn?
Bảo Đại đã hy sinh cái gì cho đất nước? Trước nạn đói, đi thăm dân, cứu đói cho một đứa trẻ, Bảo Đại cũng không bỏ, dù một đồng xu để cứu đói? Nếu bảo Đại có lòng thương dân, ngay từ tháng 5-1944, ông cùng với chính quyền đến ủy lạo, kêu gọi mọi người bỏ tiền cứu đói, đi đến đâu kêu gọi toàn dân cứu đói, xuất quỹ triều đình ra cứu dân từ Quảng Trị ra, nhất là giúp dân Thái Bình thì tôi tin rằng số nạn nhân chết vì đói sẽ không cao như thế và không kéo dài cho đến tháng Năm,1945.
Và cứ như thế người Pháp không mua chuộc ông được và Hồ Chí Minh đã không thể nào dám ép buộc ông thoái vị.
Rất tiếc. Lại rất tiếc, vì ông chỉ là một ông vua bù nhìn.
Trước khi chấm dứt phần này, nhân tiện đây, tôi cũng xin cám ơn ban biên tập DCVOnline đã sưu tầm được tài liệu, một bài báo, quý giá về vụ Bảo Đại gẫy chân đã được tờ Trường An tường thuật đầy đủ . Tự nó, bài báo cho thấy cái mặt trái của chế độ mà đến nỗi không cần phải nói ra. Bài báo ấy, hình ảnh ấy là một bằng chứng khẳng định chế độ vua quan nhà Nguyễn không có lý do gì để tồn tại lâu hơn nữa.
Bảo Đại đi chơi, chỉ gẫy một cái chân mà làm náo động đến cả nước. Nào bác sĩ đi ô tô lên Ban Mê Thuột điều trị. Thuê chuyến máy bay đặc biệt trở cái chân gẫy về Sài Gòn vào điều trị tại nhà thương Grall. Các quan tây từ Toàn quyền đến khâm sứ, các tai to mặt lớn đều có mặt đông đủ đón tiếp Đức Hoàng Thượng. Về phía triều đình thì từ Huế như quan thượng thư Phạm Quỳnh lục tục kéo vào Saigon vào hầu ngự. Thấy vẫn chưa đủ, Đức Hoàng Thượng còn sang Pháp ở tại lâu đài Thorenc chữa trị vết thương cho mau lành. Chính ở nơi đây, vết thương vừa chữa lành thì một vết thương khác làm cho sau này, đời Đức Hoàng Thượng có lúc thân bại danh liệt. Ngài mê cờ bạc nhiều lúc bán tất cả!
Bài báo trên tờ Trường An, xuất bản tại Huế trong dịp này càng tường thuật đầy đủ bao nhiêu, càng đánh bóng Đức Hòang Thượng bao nhiêu càng cho thấy nó dơ dáy, thối tha bấy nhiêu!
Việt Minh mặc dầu có tội với dân tộc. Nhưng việc xóa bỏ chế độ phong kiến, chế độ vua quan nhà Nguyễn, chấm dứt 400 năm triều Nguyễn là điều không thể làm khác được.
Không có Việt Minh thì sau này đến lượt Ngô Đình Diệm, ông ta cũng phải làm. Ông Diệm không có công gì cả, cùng lắm truất phế một vị Quốc Trưởng như một thay đổi về mặt hành chánh!
Bảo Đại trong vai trò cố vấn tối cao
Điều tai hại là khi nhận lời mời của Hồ Chí Minh, Bảo Đại không hoàn toàn nhận thức ra điều ấy. Bảo Đại không thể hiểu rằng: mỗi chức danh nó phải tương xứng với chức vụ. Bộ trưởng thì phải ra bộ trưởng, Thủ tướng ra Thủ tướng, lính ra lính, sĩ quan ra sĩ quan.
Nếu nó không được như thế trên thực tế thì rõ ràng có sự tiếm danh hoặc vai trò làm cảnh. Trong suốt giai đoạn làm Cố vấn tối cao, Bảo Đại đã cố vấn được điều gì cho Hồ Chí Minh? Bảo Đại, ông cũng không có một ý thức nghiêm chỉnh nào khi nhận chức cố vấn.
Khi nhận chức, Bảo Đại chưa có một lần bàn thảo với phía Việt Minh nhiệm vụ của ông là gì? Vai trò của ông trong chính phủ là gì? Không, hoàn toàn không. Bảo ông nhận thì ông nhận, bảo làm gì thì làm theo cái nấy. Đã có một người bạn gặp tôi và biện hộ cho Bảo Đại đã nói rằng: “Bảo Đại trong suốt quãng đời làm vua và làm Quốc Trưởng, có thể ông không làm được gì ích quốc lợi dân, nhưng it ra ông chưa bao giờ ông làm hại một người nào.”
Thoạt nghe, có vẻ có lý. Nhưng chính ở chỗ cả đời ông không làm gì, mà lại nắm giữ các chức vụ tối cao thì cái tội không làm gì là tội nặng nhất và đáng lên án nhất trong cuộc đời Bảo Đại. Và cho đến khi ở bên kia cái dốc của cuộc đời, Bảo Đại vẫn chưa ý thức được vai trò ở đời làm người là gì và phải làm gì?
Sau 25 năm rời bỏ chính trị, ông mới quyết định viết Hồi Ký Con Rồng Annam, 1980. Cho đến lúc này, tôi vẫn chưa hiểu trọn vẹn ý nghĩa biểu tượng Con rồng Annam là gì về mặt địa lý, mặt lịch sử, hay mặt văn hóa? Hay nó chỉ là một biểu tượng mang tính huyền thoại. Nhưng điều cụ thể và chính xác nhất là ông đã trích dẫn một câu nói của Khổng Tử làm điểm tựa cho cuốn sách như sau:
“Cái bổn phận đầu tiên của người quân tử là đặt cho mỗi sự vật cái tên thật của nó. Người quân tử đặt cho mỗi vật cái tên đúng với nó và mỗi vật đều được đối xử theo cái tên mà ta đã đặt cho nó.” — Khổng Tử.
Nói tóm tắt, Khổng Tử thấy xã hội loạn, vô trật như “Tôi giết vua con giết cha” thì tìm cách tổ chức lại xã hội để trên dưới có quy củ. Đó là một phương thức quản lý con người trong một xã hội được gọi là thuyết chính danh.
[Cốt lõi của học thuyết chính danh nằm trong câu Khổng Tử trả lời Tề Cảnh Công về việc cai trị quốc gia:
“景公问政於孔子。孔子对曰:“君君,臣臣,父父,子子” 。公曰:“善哉!信如君不君,臣不臣,父不父,子不子,虽有粟,吾得而食?”
Tề Cảnh Công vấn chính ư Khổng tử. Khổng tử đối viết: Quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử. Công viết: Thiện tai! Tín như quân bất quân, thần bất thần, phụ bất phụ, tử bất tử, tuy hữu túc, ngô đắc nhi thực chư?
“Làm vua ra vua, quan ra quan, cha ra cha, con ra con (làm đúng danh vị của mình)”.
Tề Cảnh Công nói: “Hay quá! Nếu vua chẳng trọn đạo vua, tôi chẳng trọn đạo làm tôi, cha không trọn đạo làm cha, con chẳng trọn đạo con, tuy có lương thực đấy, ta có thể ăn được ư?”
Mỗi người đều phải làm đúng với danh hiệu, có vậy thì nhà mới yên, nước mới yên, và xã hội mới ổn định và phát triển.
Nguồn: Bài 12, Thiên 12 – Nhan Uyên, sách Luận Ngữ, Khổng Tử. — DCVOnline]
Nêu ra nguyên tắc như vậy, nhưng Bảo Đại đem áp dụng vai trò nhà vua thì thấy rõ là nói mà không làm. Bảo Đại sống vua không ra vua thì đấy là chẳng trọn đạo. Vì thế, Bảo Đại có tội với toàn dân VN và có tội trước lịch sử.
Đọc lại Hồi ký của ông, trước khi nhận vai trò cố vấn tối cao đi Hà Nội, Bảo Đại nghĩ đơn giản, đến “vô chính trị” như thế này:
“Le “citoyen” Vinh-Thụy que je suis devenu depuis mon abdication, n’a plus rien à faire à Hué. Je décide donc l’accepter l’inviattion de Hồ Chí Minh et de me rendre à Hà Nội.”
(S.M. Bao Daï, ibid., trang 123)
“Kể từ khi thoái vị và trở thành công dân Vĩnh Thụy, tôi đã không có việc gì làm ở Huế cả. Tôi quyết định chấp thuận lời mời của Hồ Chí Minh ra Hà Nội một chuyến)


(Bên phải) Ông Vĩnh Thuỵ — cựu hoàng Bảo Đại, sau khi thoái vị trở thành công dân của nước cộng hòa mới, nhận làm Cố vấn tối cao cho Hồ Chí Minh. Nguồn: Henri Estirac, Tháng 11 năm 1945
Đối với Bảo Đại có thật sự đây chỉ vì không có việc gì để làm? Hay là vì sợ mà phải nhận lời? Đây chắc chắn không đơn giản là một chuyến đi chơi? Việc được mời ra Hà Nội là một cách giam giữ như một con tin. Vì rõ ràng chức danh cố vấn tối cao chỉ sau này mới được kèm theo cho danh chính ngôn thuận?
Thật vậy ngay cả chức Cố vấn tối cao mà Hồ Chí Minh đã trân trọng dành cho Bảo Đại thì cả hai bên cũng đều biết rằng đây chỉ là một tước vị hư danh. Kẻ cho lẫn kẻ nhận đều hiểu rằng đây là một đòn chính trị nhất thời.
Lại nữa, chức cố vấn này ngoài Bảo Đại còn có Gm Lê Hữu Từ cũng được truy tặng theo cách tính toán khôn ngoan của HCM. Hồ Chí Minh cũng đã chẳng tốn kém một đồng xu cắc bạc nào cũng đã tặng không cho tân giám mục Lê Hữu Từ!
Có thể cả hai người Bảo Đại cũng như Gm Lê Hữu Từ đều hoan hỉ nhận lãnh. Với Bảo Đại, ít ra với chức danh đó bảo đảm thêm cho sự an toàn cá nhân của ông. Với Gm Lê Hữu Từ, vai trò cố vấn củng cố thêm cái vai trò tôn giáo lẫn vai trò chính trị của ông. Ông dựa vào thế lực tôn giáo cho mưu cầu dành độc lập mà không lệ thuộc vào các đảng phái chính trị.
Nó cho thấy, khi chính trị còn non nớt, lãnh đạo chính trị chưa đủ tầm cỡ, tôn giáo như điểm tựa để biến các tín đồ thành một đám đông quần chúng chính trị.. Điều này có điểm gì tương đồng với các đạo Cao Đài, Hòa Hảo ở phía Nam?
Tuy nhiên, chỉ khác một điều là Gm Lê Hữu Từ là loại người vừa ái quốc cực đoan, vừa tôn giáo trung cổ chính thống tùng phục Vatican nên không dễ dàng để cho Hồ Chí Minh lũng đoạn. Sau này cho thấy rõ, trong các thư chung của tòa giám mục Phát Diệm gửi cho giáo dân, Gm Lê Hữu Từ luôn luôn dùng danh xưng giám mục, dựa vào các tông huấn của Giáo Hoàng để chống đối lại Việt Minh, bị coi là cộng sản. Cho nên sự hợp tác với Việt Minh chỉ có tính cách giai đoạn.
Nhưng, dù thế nào đi nữa, trong khi Việt Minh chưa lộ rõ mặt, cũng có một sự lợi dụng qua lại mà cả hai phía đều thấy có lợi!
Vấn đề của Hồ Chí Minh là tại sao lại chọn Bảo Đại và một vị lãnh đạo tôn giáo làm cố vấn? Cố vấn về vấn đề gì? Và cái lợi thế thu được của nó là gì?
Theo “télégramme à Jean Letourneau, Hà Noi, le 9-6- 1951, p 262-264”, do Trân Thị Liên trích lược như sau:
“Ông (chỉ Gm Lê Hữu Từ) là người dưới tay có 200.000 gián dân, có quân tự vệ riêng, chạy suốt từ Ninh Bình vào đến Thanh Hóa. Đồng thời dưới chiêu bài tôn giáo bảo vệ đạo và tính trung lập cũng đã dính dáng đến những dịch vụ trần thế nhằm đem lại những lợi nhuận tiền bạc giúp nuôi dưỡng các lực lượng tự vệ.
Người Pháp đã được báo cáo đầy đủ về những hoạt động của gm Lê Hữu Từ, ông muốn biến vùng Phát Diệm thành khu vực trái đệm, một chợ trời giao điểm trao đổi thương mại giữa vùng đồng bằng và vùng Việt Minh. Từ nơi đây xuất phát các chuyến hàng chở gạo, muối, nhất là thuốc men, dầu hỏa, vật dụng để đổi lại lấy nước mắm, tre và và gỗ từ Thanh Hóa chở ra. Các trốt canh của tự vệ công giáo vừa kiểm soát an ninh, vừa là trạm thu thuế tất cả các hàng hóa chuyển giao với sự có phép của địa phận.”
(Tran Thi Liên, “Les Catholiques Vietnamiens pendant la guerre d’indépendance (1945-1954) entre la reconquête coloniale et la résistance Communiste”, 1996, trang 491)
Đấy là cái lợi trước mắt mà Hồ Chí Minh khi cho Gm Lê Hữu Từ làm cố vấn.
Chức cố vấn dành cho Gm Lê Hữu Từ nhằm thu phục chẳng những khối 200.000 người Thiên chúa giáo ở khu Phát Diệm mà còn hơn một triệu Ki tô hữu trên toàn quốc vốn kỵ Việt Minh. Chẳng những thế, Phát Diệm còn là lũy hào che chắn cho sự an toàn của Khu Tư cũng như cung cấp hàng hóa thực phẩm, nhất là thuốc men cho vùng từ Khu Tư trở vào. Có thể nói Phát Diệm là căn cứ hậu cần cho vùng Thanh Nghệ Tĩnh trở vào.
Về chức cố vấn dành cho Bảo Đại, Hồ Chí Minh muốn mua chuộc nhân tâm, tạo ra một hình thức bề ngoài một chính phủ thống nhất, toàn đân, có uy tín để thương lượng với người Pháp. Đã có lúc Hồ Chí Minh tạm thời định nhường chức chủ tịch cho Bảo Đại, vì người Pháp chỉ muốn thương lượng với một người như Bảo Đại.
Tuy nhiên, trên thực tế, chức Cố vấn tối cao của Bảo Đại cũng chỉ là hữu danh vô thực, không có một chút quyền hành trong các quyết định của chính phủ, cũng không có được lãnh dù chỉ một xu so với chức Quốc Trưởng sau này. Ngay cả, tiền riêng của Bảo Đại cũng không được rở mó đến những số tiền để dành trong trương mục ở Nhà Băng Đông Dương.
Tuy nhiên, giữa hai vị cố vấn thì xem ra Bảo Đại đóng vai trò tích cực và nổi đình đám hơn là cố vấn Lê Hữu Từ.
Nếu có một nhận xét gì tích cực về phía Bảo Đại thì chính ở chỗ ông đại diện một vai trò cho tính chính đáng chính trị mà nhiều người khác, ngay cả Hồ Chí Minh, không có được. Chính vì thế mà người Pháp, người Nhật, Hồ Chí Minh, đảng phái quốc gia khi cần vẫn phải dùng lá bài Bảo Đại như một giải pháp.
Đây là một lợi thế chính trị mà Bảo Đại vẫn xử dụng cái thế chính trị chính đáng của ông để mưu cầu lợi ích của ông, nhất là giai đoạn lưu vong ở Hồng Kông và sau này khi ký Hiệp Định Elysée với Pháp tại Vịnh Hạ Long.
De Gaulle vốn chỉ coi Bảo Đại như một thứ lá bài “trop usé”, hết chạy theo chính phủ Vichy thân Đức, rồi bù nhìn cho Nhật, ngoan ngoãn quy thuận Việt Minh. Chắc chắn là không nên tin tưởng vào Bảo Đại.
Người Pháp đã muốn đi tìm một vị vua mới. Bảo Long nằm trong danh sách được lựa chọn? Và như thế, Hoàng hậu Nam Phương phải nắm vai trò Nhiếp chính? Đấy cũng là những điểm thuận lợi. Thế nhưng, nhà cầm quyền Pháp đã nghĩ xa hơn đến một nhân vật từng xuất hiện từ năm 1916? Vua Duy Tân. Một nhà vua trẻ bị truất ngôi và lưu đầy ngay từ khi mới 17 tuổi. Ông đã thân lập thân, làm đủ thứ nghề, sau chọn nghề Vô Tuyến Điện, và mở tiệm Radio — Laboratoire bán hàng sửa chữa máy.
Ông Vĩnh San, cựu hoàng Duy Tân, giữa bạn bè ở đài phát thanh và khi mang lon Thiếu tá Pháp. Nguồn: OntheNet
So sánh với Bảo Đại, Bảo Đại có tất cả cái ưu thế bề ngoài mà Duy Tân không có. Duy Tân thể chất yếu đuối. Nhưng ngược lại, những năm tháng lưu đầy đã tạo nên một Duy Tân nhân cách bên trong mà Bảo Đại không thể có được, như tinh thần võ sĩ Samurai hay như Don Quichotte. Và dưới mắt Duy Tân, Bảo Đại chỉ là kẻ xoán ngôi.
Năm 1940, ông tham gia vào hàng ngũ những người theo De Gaulle cho một nước Pháp tự do.
Những năm 1945, khi Nhật xâm chiếm Đông Dương, ông kêu gọi đồng bào trong nước chống Nhật và ngay cả từ chối nền độc lập mà Nhật trao tặng. Kể từ tháng 3 năm 1945, ông trở thanh lá bài sáng giá nhất kế thừa ngôi vua tính từ Gia Long trở xuống.
“Ngày 5 tháng 5 năm1945, Chuẩn úy Duy Tân về phòng Quân sự của tướng Charles de Gaulle ở Paris. Duy Tân đến Pháp vào tháng 6 năm 1945 thì Đức đã đầu hàng ngày 8 tháng 5. Ngày 20 tháng 7 năm 1945, Duy Tân được đưa qua phục vụ tại Bộ tham mưu của Sư đoàn 9 Bộ binh Thuộc địa (9ème DIC) đóng ở Forêt Noire, Đức.
Ngày 29 tháng 10 năm 1945, Charles de Gaulle ký một sắc lệnh hợp thức hoá những sự thăng cấp liên tiếp của Duy Tân trong Quân đội Pháp: thiếu uý từ 5 tháng 12 năm 1942, trung uý từ 5 tháng 12 năm 1943, đại uý tháng 12 năm 1944 và thiếu tá ngày 25 tháng 9 năm 1945.”
(Duy Tân, Bách khoa toàn thư mở Wikipedia)
Sau đây là những ý kiến của De Gaulle ghi lại trong “Mémoires de Guerre”:
“Để mọi việc có thể đi đến một kết thúc tốt đẹp, tôi đang hình thành một kế hoạch bí mật. Đó là giúp cho hoàng tử Duy Tân trở lại ngôi báu, nếu như vai trò của Bảo Đại do thời thế đã không còn còn hữu hiệu nữa. Nó đã bị vượt qua. Mặc dầu Duy Tân đã bị người Pháp truất ngôi từ năm 1916 trở thanh hoàng tử Vĩnh San và bị đi đầy ở đảo Réunion. Tuy nhiên, ông đã tình nguyện tham gia chiến đấu trong quân đội Pháp với cấp bậc Thiếu tá.
Đấy là một nhân cách lớn mà 30 năm lưu đầy không đủ để xóa bỏ được hình ảnh vị vua này trong tâm hồn người Việt Nam. Ngày 14 tháng chạp tới, năm 1945, tôi sẽ tiếp ông ấy và cùng bàn thảo với ông ấy để biết có thể làm được việc gì. Dù các nhân viên trong chính phủ của tôi sẽ đi đến việc ký kết các hiệp định thì tôi sẽ dự tính đến Đông Dương để ký chính thức một cách trọng thể nhất khi thời cơ cho phép.”
(Général De Gaulle, Mémoires de Guerre, nxb Plon, trích lại trong Daniel Grandclément, ibid., 235-236)
“Sau cuộc tiếp kiến với De Gaulle, hoàng tử không kìm giữ được sự vui mừng lộ ra bên ngoài. Khuôn mặt hoàng tử vốn thanh tú nhưng khô cằn trái ngược với khuôn mặt Bảo Đại đã nở những nụ cười rạng rỡ. Ông thốt lên: C’est fait, c’est décidé. (Thế là xong, mọi việc đã được quyết định). Chính quyền Pháp sẽ đưa tôi trở lại ngôi vua, tướng De Gaulle sẽ tháp tùng tôi khi tôi trở lại đó. Khi nào? De Gaulle tính chuyến đi vào tháng ba.
Phần ông, sẽ làm gì trong lúc này? Trở về Đức? hay chờ ở Paris? Jacques Soustelle quyết định đưa ông trở về đảo Réunion để chờ. Lá thư thông báo quyết định này do Pierre Mesmer ký.”
(Daniel Grandclément, ibid., trang 236-237)
12 ngày sau, chiếc máy bay chở hoàng tử về lại đảo Réunion. Lúc 13 giờ 50, phi cơ rời Fort Lami để bay đến Bangui, trạm kế tiếp. Ngày 26 tháng 12 năm 1945, khoảng 18 giờ 30 GMT, máy bay rớt gần làng Bassako, thuộc phân khu M’Baiki, Cộng hoà Trung Phi.
Một tai nạn. Vâng đúng thật sự là một tai nạn mà số phận đã dành cho ông. Việt Nam mất đi một vị vua xứng đáng!
Xem ra lúc ban đầu, Bảo Đại đóng vai trò công dân Vĩnh Thụy và cố vấn tối cao một cách nhuần nhuyễn. Đi đến đâu Bảo Đại cũng được dân chúng đón tiếp. Và trong cái cung cách đón tiếp ấy, người ta vẫn nhận thấy người dân vẫn nhìn ông như tính chính đáng của một ông vua, dù đã thoái vị. Và nếu HCM có e ngại điều gì về Bảo Đại thì chính ở chỗ này, chỗ một ông vua đã thoái vị mà vẫn có được sự hâm mộ của dân chúng hơn là chức cố vấn bù nhìn.
Chính ở điểm này mà Hồ Chí Minh nghĩ đến thời điểm thuận tiện để loại trừ Bảo Đại sau khi vai trò cố vấn tối cao xét ra không cần thiết nữa.
Dần dần Bảo Đại đã thay mặt Hồ Chí Minh chủ tọa nhiều buổi lễ: như bế mạc “Tuần lễ vàng” ngày 30-9-1945, chủ tọa buổi lễ cơm chay tại chùa Quán sứ, dự lễ tấn phong Giám Mục Lê Hữu Từ ngày 29-10-1945, dự Đại hội Liên Đoàn công giáo Phát Diệm, khai mạc đại hội Thanh niên thành Hoàng Diệu, khai mạc lễ lạc quyên gạo chống đóivv..
Qua những buổi phát biểu trôi chảy trước đám đông và được hoan hô, ủng hộ, ông dần dần tưởng mình có vai trò quan trọng thật, một vai trò chính trị quan trọng như một lãnh tụ, không phải chỉ là một thứ cố vấn bù nhìn.
Đây đánh dấu tính cách bi kịch của một vai hề, đóng riết rồi tưởng thật.
Có lẽ vì thế, ông chẳng hề quan tâm đến câu chế diễu của dân gian như: Việt Nam là một dân tộc nhỏ, nhưng lại có một ông vua cao to, béo tốt như Tây!
Cứ bề ngoài, Hồ Chí Minh tìm đủ phương tiện vật chất cung cấp cho Bảo Đại và đánh bóng vai trò của ông ta.
Bảo Đại vì thế được ở một dinh thự trước kia dành cho viên đốc lý thành phố, ở số 51 đường Gambetta, (bây giờ là phố Trần Hưng Đạo), Hà Nội mà láng giềng còn lại là một số người Pháp. Luôn luôn có một tiểu đội an ninh trực, bảo vệ hay để giám sát Bảo Đại đóng chốt ở một trại Bảo An cũ bên kia đường.
Mọi lễ lạc, yến tiệc dành cho Bảo Đại trong đó có cuộc viếng thăm chính thức của chủ tịch Hồ Chí Minh đã có người tình nguyện lo liệu. Bữa ăn của ông do khách sạn Asia cung cấp đầy đủ hậu hĩ có thể hơn xa nếp sống thanh bạch bên phủ chủ tịch.
Cung cấp đầy đủ ngay cả gái cũng không thiếu. Lần lượt là Lý Lệ Hà rồi đến kỳ nữ Mộng Điệp. Và nay trước đám đông, cặp kè bên cạnh Bảo Đại một cô gái mà tình báo Pháp gọi tên là Thông Thị, tức Lý Lệ Hà đã được phe cánh HCM cài vào. Thông Thị sánh vai chính thức và công khai với Bảo Đại trong mọi dịp mà cả Hà Nội đều biết, bất chấp dư luận.
Ông dùng chiếc xe hơi riêng Mercury mang từ Huế ra để đi lại khắp nơi. Chiếc xe thứ hai cũng mang từ Huế ra, ông đã tặng cho bộ trưởng Lao Động Lê Văn Hiến, người đã tháp tùng ông từ Huế ra Hà Nội.
Đấy phải chăng là tóm tắt tất cả sự hy sinh từ bỏ ngai vàng cho nền độc lập dân tộc của công dân Vĩnh Thụy?
Bảo Đại sống như thể một người độc thân vui chơi và hưởng thụ trong lúc này Hà Nội đang ở trung tâm bão của nạn đói hoành hành. Chính phủ lâm thời thắt lưng buộc bụng. Dân chúng Hà Nội cũng thế, tối đến là mọi nhà, ban ngày vất vả lao động tất bật kiếm sống, đêm đến lo tắt đèn đi ngủ mà có thể bụng còn réo.
Chỉ trừ Bảo Đại còn la cà ở một vài tiệm nhảy về khuya dành cho những người như Bảo Đại. Trong cả một thành phố trong tình trạng mọi người phập phồng lo toan không biết điều gì sẽ xảy ra, Bảo Đại vẫn thong dong vui chơi như không biết có ngày mai.
Nhiều người bảo hoàng biện hộ cho Bảo Đại là người ít nhất không làm hại ai! Biện hộ như vậy là bất chấp sự thật lịch sử. Sự không làm hại ai không thể bào chữa cho trường hợp một kẻ nắm vận mệnh đất nước mà không hoàn thành trách nhiệm. Tội đó lớn lắm. Bào chữa cỡ nào cũng bằng thừa!
Theo trí nhớ èo uột lúc đó chỉ là một đứa bé con, tôi đã thấy thành phố Hà Nội trong giai đoạn tranh tối tranh sáng này như một thành phố chết, không có một bóng người. Vắng hoe! Ngại ra đường! Cửa nẻo đóng cài then thin thít. Hàng quà, gánh phở gánh xôi, tiếng rao hàng mỗi buổi sáng cũng im bặt. Cũng không thấy thấy bóng dáng trẻ con chơi đùa hoặc đến trường như thường lệ.
Khu phố Tây tôi trú tạm càng không thấy bóng dáng một người Pháp nào. Trước sở Hành chánh tài chánh trông ra hai ba ngả đường, có hai xe tăng bánh cao su chĩa súng đại liên ra bên ngoài trông nghiêm trọng. Và dưới mắt một đứa trẻ thì sức mạnh của Tây là vô địch.
Và nếu tôi nhớ không lầm, cho đến tháng tám, năm 1946, tôi còn thấy đôi lần xe bò chở xác người chết đói, lóc cóc trên đường Hàng Đôi (Bây giờ là đường Hoàng Diệu), hướng về ngõ phố Hàng Than, chắc để đi chôn vội. Bóng dáng tử thần vẫn lảng vảng trong đầu óc người dân Hà Nội.
Hà Nội lúc ấy có thể nói có một thái độ lưỡng lự: Trông và chờ, không biết ngả theo ai, Mọi người như trông chờ một điều gì quan trọng xảy ra mà nó chưa xảy ra. Vậy mà cả cái thành phố ây, lại có một ông cố vấn vô tư lự vui chơi hưởng thụ!
(Cái hình ảnh đói kém ấy tưởng đã qua, vậy mà sau 1975 một vài năm sau, dưới chính sách ngu xuẩn của Lê Duẩn, chính sách vô sản hóa gắn liền với vô học, người dân Hà Nội lại một lần nữa rơi vào cảnh đói ăn trong khi nước nhà đã độc lập. Lê Duẩn đã cướp đi tất cả của cải vật chất như chạm vào nỗi đau, chỗ da non nhất của con người để vô sản hóa.)
Bảo Đại, khi ra Hà Nội làm cố vấn, ông đã có những nhận xét gì về Hồ Chí Minh?
Trong dịp ở Hà Nội, Bảo Đại đã có dịp đọc những tài liệu liên quan đến cuộc đời hoạt động của Hồ Chí Minh do Vũ Trọng Khanh, một thành viên chính phủ không phải cộng sản cung cấp tài liệu. Bảo Đại đã nhận ra ngay lập tức tính cách độc quyền trong toàn bộ guồng máy chính phủ để bảo đảm sự trấn áp toàn diện trên dân chúng. Trần Huy Liệu nắm trong tay toàn bộ các phương tiện truyền thông như đài phát thanh Bạch Mai và tịch thu cũng như kiểm soát mọi phương tiện truyền thông như các báo Cứu Quốc (Le salut national), báo Độc Lập (Indépendance).
Và đần dần Bảo Đại bộc lộ viết: tôi nhận ra bộ mặt thật của Hồ Chí Minh đáng kính.
“Je découvre aussi peu à peu le vrai visage du vénérable Ho Chi Minh.”
(S.M. Bao Daï, ibid., trang 132).
Theo Bảo Đại nhận xét là Hồ Chí Minh luôn tỏ ra kính trọng và niềm nở đối với ông. Trong mọi trường hợp giao tiếp giữa đôi bên đều hoàn toàn tốt đẹp, không có tranh chấp về ý thức hệ, luôn luôn HCM gọi Bảo Đại bằng Ngài. Đi đâu cũng nhường bước để Bảo Đại đi trước.
Có nhiều dịp họ đi chung đến gặp những người như đại diện Pháp là Sainteny. Ngay cả với những nhân vật Mỹ nổi tiếng như Lansdale hay Thiếu tá Patty. Nhưng ngược lại, HCM không cho Bảo Đại gặp riêng Sainteny, mặc dầu có lời yêu cầu của ông này.
Nhưng Bảo Đại cũng đặt nghi vấn là sự đối xử như thế là thật lòng hay đóng kịch? Bảo Đại cũng thừa hiểu rằng chính quyền Việt Minh tạm thời được chấp nhận mà vẫn chưa chính thức được nhìn nhận. Và sự mượn danh sự có mặt của Bảo Đại bên cạnh Hồ Chí Minh giúp chính thức hóa tính cách chính danh của chính quyền mới.
Pierre Darcourt, sinh ra ở Chợ Lớn, 1926, một cựu học sinh trường Chasseloup Laubat năm 1940; nhờ thế, ông đã có dịp giao tiếp với nhiều nhân vật chính trị đương thời. Ông đã phỏng vấn Bảy Viễn trong cuốn “Bay Vien, le Maitre de ChoLon”, Piere Darcourt, Hachette xuất bản, năm 1977. Muốn biết những ý nghĩ trung thực của Bảo Đại đánh giá thật về Hồ Chí Minh như thế nào có lẽ cần đọc những câu truyện bên lề Bảo Đại đã tâm sự với Bảy Viễn.
“Cuộc sống của ông ta thật ra trái ngược với những gì ông xuất hiện ra bên ngoài, Bảo Đại cắt nghĩa. Trước công chúng, ông đóng vai một người khắc khổ, một người tồn cổ hoàn toàn hy sinh cho lý tưởng. Trong chỗ riêng tư, ông xuất hiện như một người thích truyện trai gái, hút sách và uống rượu “sec”. Ông còn tâm sự cho biết, thói quen uống sec có từ khi còn đi lính thủy quân cho Pháp. Chẳng hạn, ông chỉ hút thuốc lá thơm Philippe Morris. Vậy mà ông còn bỏ túi theo mấy bao thuốc lá Bastos. Loại thuốc lá đen, thuốc dành cho giới nghèo, ông dùng để mời khách. Loại kia, thuốc lá thơm, ông dành cho mình để hút… Ngay đối với tôi, ông cũng đóng hai bộ mặt. Chỗ công cộng, ông thường vồn vã ôm vai tôi. Chỗ riêng tư, ông thường xử sự khác, đầy sự kính trọng và cấm mọi người không được gọi tôi là “đồng chí”. Tôi đã sống cạnh ông trong ba tháng. Tôi đã chở xe đưa ông về nhà cả 20 lần. Và lần nào ông cũng say mèm.”
(Pierre Darcourt, Bay Vien, le Maitre de Cholon, Hachette, 1977)
Phải chăng đây mới là bộ mặt thật của Hồ Chí Minh?
Đọc lại tất cả những chi tiết vừa viết ở trên, tôi có cảm tưởng đây là một câu chuyện thực mà phi thực. Tất cả là một sự đóng kịch dàn dựng và giả đối, lừa bịp trong mọi hoàn cảnh, mọi chi tiết dù nhỏ bé đến không cần thiết phải giả dối.
Tôi thử dở lại tập Hồi Ký “Những ngày chưa quên” của Đoàn Thêm xem có chi tiết nào nhắc đến Bảo Đại? Không một chữ và tên Bảo Đại cũng không hề được nêu ra lấy một lần.
Bảo Đại đã không có trong mắt những người trí thức Hà Nội những năm tháng ấy. Họ coi ông như một kẻ vô danh chăng?
Hồ Chí Minh là một người đóng kịch khéo léo. Nhưng nếu như thế thì người thứ hai là Bảo Đại chỉ là một tên hề vụng về? Xem ra giữa vai trò bù nhìn và con rối, ông cố vấn tối cao thích vai trò thứ hai hơn, bởi vì, ít ra ông được gặp gỡ người này, người kia, được phát biểu, được nói trước công chúng, nhận những tiếng hoan hô.
Vì thế, ông đã viết: “Aussi, Je persiste pour jouer le jeu.” (Tôi phải kiên trì để đóng đúng vai trò của mình)
Nhưng bài diễn văn ông đọc trước đám đông trong “tuần lễ vàng” ai là người viết? Võ Nguyên Giáp hay Trần Huy Liệu? Hay cả hai? Đọc xong, bài diễn văn, ông xúc động đưa mắt nhìn như thăm dò hỏi ý ông giám thị trông coi cái Villa chỗ ông ở? Không lần này ông nói lưu loát, đám đông thỏa mãn và móc hầu bao đóng góp tiền bạc.
Nhưng điều quan trọng là “tuần lễ vàng”, kết quả thu được bao nhiêu? Và còn quan trọng hơn tiền đó dùng để làm gì, ông không hề biết? Theo Daniel Grandclément, hầu hết số tiền thu được, Hồ Chí Minh dùng để hối lộ cho tướng Lư Hán, ngay cả cung cấp gái điếm cho y. (Daniel Grandclément, ibid., trang 189.)
Theo Nguyễn Xuân Thọ, trong Nam cũng tổ chức “Tuần lễ Vàng” từ ngày 16 đến 23-6-1945 và thu được 12 bao bố. Huỳnh Thiện Lộc và Kiều Công Cung dem mười hai bao bố vàng ấy ra Bắc. (Nguyễn Xuân Thọ. “Bước mở đầu của sự thiết lập hệ thông thuộc địa Pháp tại Việt Nam (1858-1897), Paris 2002, trang 589)
Phần lớn số vàng thâu được ấy sau dùng để hối lộ tướng Lư Hán. Lư Hán hứa sẽ làm áp lực để những phần tử quốc gia kháng chiến thừa nhận sự thỏa thuận với Pháp. (Để Pháp trở lại Bắc Kỳ thay thế quân Tàu).
Tuần lễ cứu đói, mỗi tuần nhịn một bữa nhịn để dành cho người đói, mặc dầu có chiến dịch tuyên truyền mạnh mẽ, kết quả thật không đáng là bao nhiêu!
Việc thay mặt HCM đến chủ tọa lễ tấn phong Gm Lê Hữu Từ, đã có dù một lần ông có dịp được trò chuyện riêng với vị tân giám mục này chăng? Và ông có hiểu rõ nội tình những rắc rối của vị tân giám mục này phải đương đầu với Việt Minh?
Ông có biết rằng nhiều vị linh mục trong nhóm thân cận của vị giám mục này lại có khuynh hướng thân Pháp!! Như linh mục Xuyên, linh mục Hoàng Quỳnh. Chủ trương tự vệ và tự cô lập của vị Gm Lê Hữu Từ có thể đã đi quá xa chăng? Vì thế, De Lattre trong dịp gặp cả hai vị giám mục Phạm Ngọc Chi (mặc áo đen) và giám mục Lê Hữu Từ (mặc áo trắng) đã tuyên bố thẳng thừng:
“Je redoute plus le blanc que le noir, je vous enverrai à Nam Định une éminence grise (le colonel Gambez).”
(Tran Thi Liên, ibid., trang 488)
(Tôi nghi ngờ mầu trắng hơn là mầu đen, tôi sẽ gửi đến Nam Định một mưu sĩ xám (ám chỉ đại tá Gambez)
Cái khó của giới công giáo cũng như người Quốc gia là không thể cùng một lúc chọn lựa Hồ Chí Minh, vì kết quả sẽ tai hại hơn cả chế độ thực dân. Nhưng một mặt khác, cũng không thể chọn lựa Bảo Đại, một tay chân của Pháp trong việc dành độc lập? Đó là cái khó của giám mục Lê Hữu Từ mà đằng sau là Ngô Đình Diệm!!
Làm sao Bảo Đại hiểu rõ được điều này?
Chỉ sau này, sau khi dự lễ tấn phong, Võ Nguyên Giáp và Phạm Văn Đồng quay về Hà Nội, còn ông được đi nghỉ mát ở Sầm Sơn, Bảo Đại mới nhận thức được là ông chẳng khác gì một kẻ đi đầy của Hồ Chí Minh. Ông viết:
“Contrairement à la promesse de Ho Chi Minh, aucune nouvelle ne me parvenait d’Hanoi. J’eus l’impression non d’eetre prisonnier puisque j’étais libre de mes mouvements et de mon emploi du temps, máas exilé.”
(S.M. Bao Daï, ibid., trang 143)
(Trái với những lời hứa của Hồ Chí Minh, tôi không được bất cứ tin tức gì từ Hà Nội. Tôi có ngay cảm tưởng không phải là tù nhân vì tôi được tự do đi lại cũng như sắp xếp thời giờ của tôi, nhưng tôi đã bị đi đầy.)
Việc đi nghỉ mát ở |Sầm Sơn của Bảo Đại là một nửa đi nghỉ hè, một nửa bị cô lập hay đi đầy. Bảo Đại đã nghĩ đến việc có thể bị giết hoặc bị ám sát bất cứ lúc nào với chỉ cần một viên đạn. Nhưng ông cũng đã chọn một biệt thự của người Pháp, một chủ tiệm kim hoàn nổi tiếng ở Hà Nội, tên M.Beau làm chỗ nghỉ mát. Cả thành phố chẳng còn ai, ngoại trừ một vài gia đình thuyền chài, căn biệt thự vốn bỏ hoang. Cạnh đó là khoảng nửa tá dân tự vệ có bổn phận bảo vệ Bảo Đại. Chính quyền địa phương chỉ cung cấp gạo còn thức ăn thì Bảo Đại tự lo liệu.
Công việc mỗi ngày của Bảo Đại nay là đi câu cá cho hết thời giờ. Vậy mà ba ngày sau, các lính tự vệ cho biết Hoàng thân Vĩnh Cẩn đã chu đáo gửi Lý Lệ Hoa ra cho Bảo Đại dùng. (Daniel Grandclément, ibid., trang 191).
Có câu hỏi ngờ nghệch, có lúc nào Bảo Đại không có gái không? Theo tôi, kể từ khi làm Cố vấn tối cao, Bảo Đại lúc nào cũng có đủ thứ loại gái bên cạnh.
Trong thời gian nghỉ mát ở đây, Bảo Đại được chỉ định ra tranh cử dân biểu ở Thanh Hóa, dưới chiêu bài cộng sản. Đảng cộng sản đã tạm thời giải tán nên ông ra tranh cử với danh nghĩa “cộng hòa” và đã đắc cử với 92% phiếu bầu. Các nhóm quốc gia đối lập đã tẩy chay cuộc bầu cử này, nhưng nó vẫn được diễn ra như đã dự trù. Đại đa số người đắc cử thuộc Mặt trận hay thân Mặt trận. Nhưng để nhượng bộ Việt Quốc hay Việt Cách, Việt Minh đã nhường 70 ghế cho hai đảng này.
Thôi thì cứ coi như một thứ “Dân chủ được hướng dẫn”.
Tuy nhiên, kết quả bầu cử đã chẳng có ảnh hưởng gì đến cuộc sống của Bảo Đại cho đến lúc tình thế chính trị biến đổi mau chóng ngoài cả ý muốn của Bảo Đại.
Mới ngày nào, ông bị bỏ quên ở bãi biển Sầm Sơn thì nay vai trò chính trị hàng đầu của ông lại được mọi người nhắc nhở tới.
Hồ Chí Minh phải đối đầu cùng một lúc với bọn lính Trung Hoa có mặt khắp nơi, với người Pháp đã có mặt ở ngưỡng cửa của Hà Nội, rồi các đảng phái đòi hỏi, gia tăng áp lực.
Bảo Đại, thay thế chủ tịch Hồ Chí Minh?
Bảo Đại về lại Hà Nội. Đã xong một cuộc nghỉ mát bất đắc dĩ. Cộng lại thời gian là ba tháng. Đã có biết bao nhiêu thay đổi?
Hồ Chí Minh muốn loại bỏ Trung Quốc đành sáp lại về phía Pháp sắp sửa thay thế chỗ của Trung Hoa Tưởng Giới Thạch. HCM đổi giọng:
“Chúng tôi không có mối hận thù gì với người Pháp và dân tộc Pháp. Chúng tôi kính trọng họ và mong muốn tiếp tục mối giây liên lạc đã nối kết hai dân tộc lại với nhau.”
(S.M. Bao Daï, ibid., trang 146)
Việc trở về Hà Nội của Bảo Đại gần vào dịp Tết.. Bảo Đại đã cùng Hồ Chí Minh đến tham dự mội buổi mít tinh tại Nhà hát lớn Hà Nội. Đám đông dân chúng sau buổi lễ đã đứng đợi và vây quanh lấy Bảo Đại như thể vị hoàng đế thuở nào, chứ không phải với tư cách Cố vấn tối cao. Tư thế của Bảo Đại trước đám đông vẫn được kính nể có phần hơn cả Hồ Chí Minh?
Phần Việt Minh, sau chuyến viếng thăm chớp nhoáng của Võ Nguyên Giáp tại Nam Kỳ. Giáp hiểu rõ hơn ai hết là Pháp đã tái lập xong trật tự chế độ thuộc địa tại Nam Kỳ và rồi chẳng bao lâu sẽ tiến ra Bắc. Nỗi lo sợ của Võ Nguyên Giáp sau chuyến đi thị sát này là chính đáng. Tham vọng của Pháp không thay đổi.
Hồ Chí Minh và đám cận thần của ông ta hiểu rõ là họ chưa đủ sức mạnh để có thể chống lại Pháp. Họ chưa đủ trang bị. Ngay cả có súng thì vị tất đã có đạn. Tôi còn nhớ, ngay sáng hôm sau, ngày đầu cuộc kháng chiến bắt đầu, tôi đã nhìn thấy những khẩu súng gỗ vứt vương vãi trên con đường đôi, đối diện với sở Hành chánh tài chánh. Tôi không khỏi ngạc nhiên đến ngỡ ngàng.
Cuộc chiến tranh đã bắt đầu như thế đấy! Họ ở trong một tình thế khó khăn và chưa tìm ra một lối thoát?
Trước mắt đồng minh, Việt Minh “đỏ” quá. Trước mắt, người Pháp e ngại không muốn thương lượng với Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh nghĩ ra giải pháp là đưa Bảo Đại ra thay thế ông ta.
Sáng ngày 27 tháng 2, 1946, lúc 7 giờ sáng, Hồ Chí Minh gọi điện thoại cho Bảo Đại ở tại nhà đường Gambetta xin gặp. Bảo Đại viết:
“Với vẻ mặt bơ phờ và thất sắc, Hồ Chí Minh nói với Bảo Đại: Tình thế thật nguy kịch và yêu cầu Bảo Đại hy sinh một lần nữa ra gánh vác việc nước thay ông ta. Bảo Đại đặt vấn đề là có quyền tuyển chọn người thành lập một chính phủ mới không? Hồ Chí Minh đồng ý. Sau đó, Bảo Đại đã liên lạc ngay với Nguyễn Mạnh Hà và Trần Trọng Kim, yêu cầu họ có mặt tất cả để bàn thảo. 8 giờ rưỡi có mặt đông đủ. Trần Trọng kim cho ý kiến là lời yêu cầu của Hồ Chí Minh là thành thật, không phải lừa bịp. Vì có thể việc thương thuyết với Sainteny không đạt kết quả gì. Vậy yêu cầu Bảo Đại cứ nhận. 10 giờ, một lần nữa Hồ Chí Minh gọi lại xin xác nhận để kịp đệ trình Quốc Hội. 12 giờ trưa, đến lượt Bảo Đại gọi cho Hồ Chí Minh cho biết, sẵn sàng nhận lãnh trách nhiệm. 1 giờ trưa, Hồ Chí Minh mời Bảo Đại đến gặp. Hồ Chí Minh tỏ bối rối và ngượng ngùng nói:
“Xin Ngài quên những điều tôi đã đề nghị với Ngài sáng nay. Tôi không có quyền rời bỏ nhiệm vụ và việc từ chức của tôi là một phản bội về phần tôi. Tôi xin Ngài tha lỗi cho sự yếu đuối của tôi bằng cách đẩy trách nhiệm sang Ngài. Sỡ dĩ tôi có ý định từ nhiệm vị sợ sự chống đối của các phần tử Quốc gia chống lại những thỏa thuận mà chúng tôi sẽ ký với người Pháp.”
(S.M. Bao Daï, ibid., trang 150-151)
Điều gì đã xảy ra từ lúc 10 giờ đến 13 giờ?
Theo sự suy luận của Bảo Đại thì không phải do sự bảo đảm của Liên Xô qua trung gian Ba Lan. Nhưng có thể do sức ép của tướng Lư Hán trên các đảng phái VNQDĐ và buộc các thành phần này đồng ý thỏa thuận với những gì Việt Minh đã ký kết với người Pháp. Và như thế, Việt Minh không phải một mình đứng ra chịu trách nhiệm những nhượng bộ người Pháp trước công luận.
Đến đây thì thực sự vai trò Cố vấn tối cao thực sự không cần thiết nữa. Chính người Pháp qua Sainteny cũng cho ràng: Không thể đưa lên lại một ông vua đã thoái vị. Đã đến lúc phải loại bỏ!

Sau đó, thỏa ước ký ngày 6 tháng 3 năm 1946, được gọi là Hiệp Ước Sơ Bộ ký kết giữa Sainteny và Hồ Chí Minh nhìn nhận một cách chính thức sự có mặt của Pháp một lần nữa ở Đông Dương.
Phía Việt Minh, ông ta muốn chứng tỏ cho mọi đảng phái khác hiểu rằng, chỉ có ông ta và Việt Minh mới đủ tư cách thương lượng với Pháp.
Theo thỏa ước, sẽ chấm dứt các cuộc đụng chạm quân sự giữa đôi bên. Quân Pháp sẽ thay thế quân Tàu được gọi là thế chân. Theo thỏa ước:
“Lực lượng của Việt Nam sẽ gồm 10.000 người, 15.000 người Pháp, tất cả dưới quyền chỉ huy của người Pháp. Các ủy ban hỗn hợp đôi bên sẽ bàn thảo, sắp xếp một cách thân hứu giữa các lực lượng Pháp và Việt Nam.”
(Philippe Franchini, Les guerres d’Indochine, Tome I, De la conquête francaise à 1949, Pygmalion (23 avril 2008), trang 435-436)
Thỏa ước này đã làm hài lòng về phía những nhà thương thuyết người Pháp như Sainteny, Pignon và Salan, kể từ 9-3- 1945 đã biệt bóng nay lại có mặt. Ngày hôm nay, họ lại chính thức có mặt ở Đông Dương và đối với họ là một thành công. Ví thế, chính phủ Pháp đã phê chuẩn ngay lập tức thỏa ước và hâu như dư luận nói chung đều hài lòng.
“Tờ L’Humanité với Marius Magnien đã chào mừng chính sách chính trị thực tiễn của chính phủ Pháp đã đem lại chẵng những hòa bình mà còn tình bạn giữa nước Pháp và Đông Dương.”
(Philippe Franchini, ibid., trang 193)
Phần Hồ Chí Minh đã vội vã ký chỉ muốn mua thời gian và không đề cập đến hai chữ độc lập vốn quan hệ mật thiết với cuộc tranh đấu của ông.
Không lạ gì những thành phần chủ nghĩa quốc gia cực đoan đã gọi đây là một phản bội của Hồ Chí Minh. Phần Võ Nguyên Giáp đã biện hộ lâu dài trước nhà Hát Lớn hôm 7-3 rằng có nhiều lúc phải tỏ ra cứng rắn, lúc khác phải tỏ ra mềm dẻo. Ít lắm thì cuộc đổ máu giữa đôi bên đã tránh được. Và Giáp đã ví thỏa ước 6-3 như một thỏa thuận Brest-Litovsk, một so sánh có ý nghĩa như một giải pháp để đi dần đến sự độc lập và tự do. Phải chăng Nga Xô đã phải ký thỏa thuận trên để ít nhất ngăn chặn sự xâm lấn của Đức và lợi dụng sự hưu chiến để củng cố lực lượng?
Tuy nhiên, sự giải thích của Võ Nguyên Giáp không dễ gì thuyết phục được mọi thành phần không phải là Việt Minh cộng sản!
“Và chỉ chín ngày sau, tướng Leclerc đã có mặt tại Hà Nội. Và nay lá cờ Pháp lại có dịp tung bay trên thành phố Hà Nội, tại các phố Tây như trên đường Paul Bert. Dân chúng Pháp ẩn núp từ nhiều tháng nay, nay đổ xô ra đường để đón chào sư đoàn xe cơ giới với 200 xe camion và các chiến xa Massu vượt qua cầu Paul Doumer. Chúng ngạo nghễ rú ầm làm rung chuyển đường phố Hà Nội như thách thức ngạo nghễ. Trên trời thì các máy bay Spitfire, sơn cờ tam tài bay là sát mặt đất. Và người ta lại có dịp nghe hát bài Marceillaise. Phần Leclerc đã xuất hiện trước ban công trước sở Cảnh sát cùng với tướng Salan và Sainteny, bên cạnh có tướng Giáp. Ông này mặc áo vét trắng, đội mũ phớt đón chào bằng cách nắm tay lại theo kiểu Việt Minh.”
(Philippe Franchini, ibid., trang 442-443)
“Đâu đây lại có tiếng hô to: Je suis francais, moi. (Tôi là người Pháp đây) một cách hãnh diện
Sau thỏa ước được ký tạm thì nảy sinh nhiều bất đồng. “Giữa người Pháp với nhau, De Gaulle trách: Thật là không chấp nhận được, đến giờ này chúng ta mới đến xứ Bắc Kỳ. Leclerc tỏ ra lạc quan hơn nói: Nếu chúng ta nắm được gạo và cao su ở Nam Kỳ, cảng Saigon và cảng Hải Phòng, các nhóm cách mạng ở Việt Nam buộc phải rút lui im lặng.”
(Philippe Franchini, ibid., trang 437-438).
Từ hai quan điểm đó chia rẽ nước Pháp.
Phía Nam Phần, nhiều giới trí thức thành thị lo ngại một sự trả thù nếu Việt Minh nắm chính quyền. Chính quyền Pháp phải trấn an họ rằng, thỏa ước chỉ liên hệ trực tiếp tới Bắc Kỳ và Trung kỳ. Phía Nam Kỳ hẳn là có quy chế đặc biệt. Một quy chế Nam Kỳ của người Nam Kỳ?
Phần Hồ Chí Minh, ông quyết định một cuộc thương thuyết sẽ được diễn ra tại Pháp với De Gaulle. Ông đã lên chiếc Émile-Berlin ngày 24 tháng 3, 1946, đáp tàu sang Pháp. Trong lúc tàu còn dừng lại ở Ai Cập thì Hồ Chí Minh biết rằng trong Nam đã thành lập một chính phủ Nam Kỳ do ông Nguyễn văn Thinh đúng đầu.
Kể từ chuyến đi Pháp của ông Hồ này, vai trò cố vấn của Bảo Đại thật sự chấm dứt.
Bảo Đại cùng với phái đoàn 6 người, 4 người thuộc phe Việt Minh, 2 người thuộc phe VNQDĐ ngày 16 tháng 3, 1946 rời Hà Nội trên một chiếc DC-3 của Quân đội Lư Hán, trên đó chất ngổn ngang các đồ đã cướp bóc được của dân chúng Hà Nội. Hơn 10 sĩ quan quân đội Tầu, cùng đi về với chiến lợi phẩm, chiếm vị trí tốt trên máy bay. Bảo Đại bị ngồi dồn vào một xó ở đuôi máy bay.
Bảo Đại đi rồi thì lục tục theo sau bằng đường bộ các nhân vật như Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam cũng vội vã rút theo với đoàn quân của Lư Hán bỏ lại đầng sau các đồng chí, cán bộ mặc cho Việt Minh thanh toán sau này. Người xem ra không cần đi là cụ Trần Trọng Kim, cuối cùng cũng quyết định ra đi trong những chuyến xe chót!
Trong một cuộc chiến, cuối cùng kẻ còn ở lại, chính là người được coi là kẻ chiến thắng. Các phe phái còn lại lúc bấy giờ chỉ còn mình Việt Minh đối đầu với Pháp!
Hồ Chí Minh sang Pháp năm 1946
Bước đường lưu vong của Bảo Đại
Gọi là Bước đường lưu vong có thể chỉ là một thuật ngữ chính trị của cá nhân của người viết bài này. Thực tế, tùy theo góc độ mà người ta có thể gọi một tên gọi khác nhau. Nghiêm Kế Tổ gọi là “Bôn tẩu Trung Hoa”. Bảo Đại dùng một chữ khá mơ hồ để gọi việc này, “Intermède en Chine”. Sát nghĩa có thể dịch là một thời gian gián đoạn ở bên Tàu.
Nhưng gián đoạn với cái gì? Cái gì trước nó và sau nó? Thế thời gian nằm lì bên Pháp phải gọi là gì? Chữ dùng của Bảo Đại như thế thật không rõ nghĩa và vụng về. Chuyến đi ấy chính thức được gọi là đi du lịch.
Nhưng căn cứ trên tình hình lúc bấy giờ, tôi gọi là bước đường lưu vong của Bảo Đại. Việc Bảo Đại, cố vấn tối cao của Hồ Chí Minh quyết định sang Trùng Khánh cùng với một phái đoàn do Nghiêm Kế Tổ cầm đầu là một quyết định chưa được làm sáng tỏ về phía Hồ Chí Minh. Nhưng lại rất có thể là một quyết định khôn ngoan của cá nhân Bảo Đại. Phải chăng đây là một cơ hội thuận tiện để Bảo Đại thoát thân một cách chính thức?
Câu trả lời có thể hiểu được một phần nằm trong câu truyện mà Bảo Đại thuật lại trong sách như một tình cờ có ý nghĩa. Trong sách Bảo Đại kể khi ông vừa ra khỏi nhà, thì gặp một ông tướng Tầu hàng xóm chận ông lại, hỏi đột ngột:
“Ngài không có ý định sang Tầu một chuyến sao? Thật là đáng tiếc đấy, ngài phải lợi dụng dịp này sang thăm viếng nước chúng tôi. Rồi ông tướng Tầu, nửa nghiêm chỉnh, nửa đùa nói thêm: Đối với tất cả bọn người điên rồ này (ám chỉ Việt Minh), người ta sẽ không biết chuyện gì sẽ xảy ra.” (S.M. Bao Daï, ibid., trang 152)
Sau đó, Bảo Đại nghĩ rằng đây không phải là câu chuyện tình cờ. Rất có thể, đây là một lời mời gián tiếp của của tướng Tưởng Giới Thạch.
Phần khác, việc quyết định rời Việt Nam có sự góp ý của Nghiêm Kế Tổ, Nguyễn Tường Tam và Trần Trọng Kim. Cả ba đều khuyên Bảo Đại rời Việt Nam với tư cách đi du lịch.
Tại sao Hồ Chí Minh lại gửi phái đoàn đi cầu viện Tưởng Giới Thạch ở Trùng Khánh để xin viện trợ võ khí chống Pháp trong lúc này? Bởi vì cũng cùng ngày hôm ấy, quân Pháp đã đổ bộ lên Hải Phòng và đã có sự chạm súng gây nhiều thương vong.
Người Pháp thừa hiểu rằng sự hiện diện của quân đội Pháp tại Bắc Kỳ chỉ dễ dàng được thực hiện nếu Trung Quốc của Tưởng Giới Thạch nhường bước, rút lui như trường hợp người Anh ở Nam Kỳ.
(Tưởng Giới Thạch đã quyết định dời đô về Trùng Khánh từ năm 1938 vì những lợi ích chiến lược như nó có đường xe hỏa thông thương Hải Phòng-Vân Nam, đường xe hơi thông qua ngã Miến Điện và đường máy bay qua ngã Ân Độ).
Thế nên, cả hai bên đã đạt được những thỏa thuận từ ngày 28-2-1946, (nghĩa là trước ngày Bảo Đại rời Hà Nội ngày 16 tháng 3-1946), theo đó Pháp sẽ thay thế Trung Quốc tại Bắc Kỳ trong vai trò giải giới và hồi hương quân Nhật cũng như việc duy trì, an ninh tại Đông Dương. Việc này sẽ được tiến hành từ đầu tháng 3-1946 với một số nhượng bộ về phía Pháp như sau:
- Pháp sẽ trả lại tất cả các tô giới đã chiếm được của Trung Quốc tại các thành phố như Thượng Hải, Thiên Tân, Hán Khẩu và Quảng Châu.
- Cho phép Trung Quốc xử dụng cảng Hải Phòng, miễn thuế cũng như đường hỏa xa giữa Côn Minh-Hải Phòng( Phía bên Trung Quốc) được trao trả lại cho Trung Quốc.
Sự nhượng bộ này về phía Pháp không gây thiệt hại gì vì trước sau Pháp cũng phải trả lại các tô giới đã chiếm được của Trung Hoa. Các nước đồng minh khác cũng lần lượt trao trả lại cho Trung Hoa. Nhưng cái lợi chính và trước mắt của nước Pháp là tái lập lại chủ quyền của nước Pháp trên toàn Đông Dương mà không muốn nhượng bộ bất kỳ phe phái nào ở Việt Nam. Đây là một quyết tâm rõ rệt của người Pháp sau thế chiến II.
Cái lợi của người Pháp là thỏa thuận được với Trung Hoa, họ có thể trở lại Đông Dương một cách hợp pháp và danh chính ngôn thuận.
Cái lợi của Tường Giới Thạch trong dịp này cũng hiển nhiên là lớn lắm. Do quân đội Nhật rút đi, không tốn một viên đạn mà Tưởng Giới Thạch giải giới được quân đội Nhật tại các vùng lãnh thổ rộng lớn miền Nam Trung Hoa như Nam Ninh, Liễu Châu. Do quyết định của Hội nghị Postdam Trung Quốc giữ vai trò giải giới quân đội Nhật từ vĩ tuyến 16 trở ra Bắc. Nhân dịp này, Tưởng Giới Thạch quyết dịnh cử Lư Hán đến Bắc Việt ngày 15-8-1945.
Nhân dịp này, Tưởng Giới Thạch công bố chính thức lập trường của Trung Quốc vào ngay 24-8: Việc quân Trung Quốc chiếm đóng từ phía Bắc vĩ tuyến 16 là quyết định chung của các nước đồng minh. Trung Quốc không có một tham vọng lãnh thổ nào với Việt Nam.
Nay Trung Quốc trao trả cho Pháp nhiệm vụ ấy thì nào có mất mát gì.
Tuy nhiên, việc quân đội Lư Hán chậm trễ sang Việt Nam khoảng 10 tuần lễ đã là cơ hội “vàng’ để Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp củng cố chính quyền của họ.
Vì thế, khi các lãnh đạo đảng phái lần lượt lũ lượt theo chân quân đội Lư Hán vào Việt Nam thì mọi việc xem ra đã trễ quá rồi. Họ đã đến chậm một bước sau khi để cho Việt Minh nhanh chân chiếm chính quyền.
Việc này, Hồ Chí Minh rõ hơn ai hết là Tưởng Giới Thạch đã đồng ý cho Pháp thay thế quân đội Trung Hoa do chính Sainteny đã thông báo cho Hồ.
Vậy thì việc gửi một phái đoàn sang Trùng Khánh có phải là một công việc hoàn toàn vô ích, ngụy trang mà Hồ Chí Minh vẫn thực hiện? Phải chăng đó là một cách gián tiếp loại bỏ Bảo Đại? Thật khó có câu trả lời dứt khoát vì tài liệu về phía Việt Minh không đủ để cho phép khẳng định một điều gì?
Nhưng trước khi Bảo Đại lên đường, Hồ Chí |Minh đã nói úp mở, nước đôi theo nghĩa ngài cứ đi và cứ ở bên đó:
“Thưa ngài, ngài có thể ra đi với một tinh thần an tâm. Ngài đừng phải lo ngại điều gì, chúng tôi sẽ làm việc vì hạnh phúc của nhân dân Việt Nam.”
(S.M. Bao Daï, ibid., trang 153)
Phần Bảo Đại, đây là cơ hội quá tốt cho ông. Người Pháp sẽ hợp tác và chỉ thương lượng với Việt Minh. Còn Việt Minh thì không cần đến ông nữa trong vai trò cố vấn.
Ông Nghiêm Kế Tổ viết về biệc này đã ca ngợi một cách quá ư nịnh nọt cựu hoàng như sau:
“Người ra đi không tùy tùng thân thuộc, cô đơn (Nam Phương Hoàng Hậu và các Hoàng tử, Công Chúa vẫn còn long đong ở miền Trung nước Việt) […] Cựu Hoàng cương quyết ra đi. Người ra đi tìm nguồn sống cho dân tộc!” (Nghiêm Kế Tổ, Việt Nam máu lửa, nxb Xuân Thu, trang 107)
Việc ra đi này có gợi đến việc Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước không?
Cho nên, theo tôi, nếu bảo Đại còn tiếp tục ở lại Hà Nội thì trước sau ông cũng trở thành một thứ con tin giữa sự tranh chấp Việt Minh và Pháp nổ ra ngày 19-12 và mạng sống của ông không bị bên này thì cũng bị bên kia tìm cách sát hại?
Vì thế, đúng như dự đoán, việc sang cầu viện Trùng Khánh của phái đoàn Nghiêm Kế Tổ hoàn toàn thất bại. Theo Nghiêm Kế Tổ: “Cuộc đi không trống kHồng Kèn, khiến chính phủ Tưởng Giới Thạch không hề hay biết.” (Nghiêm Kế Tổ, ibid., trang 108).
Tưởng Giới Thạch không muốn tiếp thì đúng hơn. Sau nhiều tuần chờ đợi, Tưởng Giới Thạch chỉ tiếp Bảo Đại một cách hết sức lịch sự ngoại giao. Nhưng không một lời hứa hẹn gì. Bảo Đại đọc được điều ấy. Tưởng Giới Thạch mới đầu còn không muốn tiếp phái đoàn Nghiêm Kế Tổ, nhưng sau vì lịch sự có tiếp phái đoàn một cách không chính thức mà địa điểm là một ngôi chùa cổ ở ngoài thành phố.
Địa điểm tiếp khách không đúng nghi thức ngoại giao là một cách thức từ chối khéo của Tưởng Giới Thạch.
Nghĩ lại chuyện bước đường lưu vong của Bảo Đại sang Con Minh, rồi đến Trùng Khánh, thay vì là một điều bất hạnh, trở thành cơ may cho Bảo Đại. Daniel Grandclément, một tác giả quen thuộc mà tôi thường trích dẫn đã dành nhiều trang để viết về giai đoạn này của Bảo Đại. Bảo Đại chăm sóc cái bề ngoài của mình, ra sân đánh tennis với Nghiêm Kế Tổ như thể hai cây vợt nhà nghề. Cũng đập, cũng lên lưới như thể không còn là hai kẻ đang lưu vong, mà là những con người đang tranh đua trên sân như ở ngoài thời gian, ngoài lịch sử! Khán giả bất đắc dĩ ở đây là những người lính Trung Hoa dân quốc của Tướng Giới Thạch.
Chỉ có một người khán giả duy nhất không phải khách bàng quan, đứng nhìn từ ban công khách sạn. Một người vóc dáng cao lớn, cằm bạnh, ăn mặc không phải lính, mà quần áo xậm mầu. Ông ta theo dõi hai bóng người chạy qua chạy lại sân quần vợt mà không có một nụ cười. Người đó là Hương, một cán bộ Việt Minh nổi tiếng ngồi tù từ thập niên 1930 trong những cuộc biến động đẫm máu thời đó.
Bảo Đại hình như thể không nghĩ đến chuyện gì khác, ngoài chuyện đánh Tennis, tiệc tùng và gái. Hết Thông Thị rồi đến Mộng Điệp tìm đến ông. Nhưng ông sẽ làm được chuyện gì khác ngoài chuyện đó, vì tất cả đều ngoài tầm tay của ông. Trên danh nghĩa, ông chỉ là người khách đi du lịch, không nắm chức vụ gì trong phái đoàn.
Và điều tôi cho là bất nhẫn nhất, nó lại nằm ở chỗ khác, chỗ của tình nghĩa con người và gia đình, chỗ mà ít ai lưu tâm tới. Tôi muốn nói thẳng là kể từ ngày ông rời Huế ra làm cố vấn, ngoài 5 lá thư chuyển giao cho bà Nam Phương thông báo vắn tắt vài dòng như: ông vẫn khỏe như một thông báo khí tượng trong ngày. Việc ông quyết định lưu vong khỏi Việt Nam, hoàn toàn mù mịt đối với sự lo lắng của người vợ. Trong khi ông có đủ phương tiện liên lạc với các cô nhân tình sang gặp lại ông bên Trùng Khánh, nhất là lúc ở Hồng Kông. Tóm một lời, ông không một chút lo lắng lắng gì đến số phận của vợ con ông còn kẹt ở ngoài Huế.
Khi phái đoàn Nghiêm Kế Tổ về nước, ông chỉ nhắn xuống họ, trong đó có Hà Phú Hương là nếu có gặp, cho ông gửi lời thăm, “Nếu có gặp vợ tôi, nhờ các ông nói giúp tôi vẫn khỏe.” Hà Phú Hương đã giữ lời, ra Huế thăm bà cựu hoàng. Tôi xin trích nguyên văn đoạn văn tiếng Pháp:
“Triste nouvelle. Désormais la jeune femme est vraiment seule. Elle dit ignorer que son mari avait l’intention de poursuivre sa visite “ touristique”, en tout cas, qu’il s’était décidé à quitter le Viet Nam impromptu. Elle est, parait-il au bord des larmes. Cinquante plus tard. Huong en est ému. Est-il possible que l’impératrice n’ait pu être prévenue par son mari?” (Daniel Grandclément, ibid., trang 228)
“Tin buồn. Kể từ nay, bà thực sự lẻ loi một mình. Bà cho biết, không hề biết ý định của chồng bà có chuyến du lịch ngoại quốc. Nhưng dẫu sao, ông đã đột ngột quyết định không trở về. Mắt bà rớm lệ. Năm mươi năm sau, ông Hương vẫn còn xúc động khi nhớ lại chiều hôm đó. Lẽ nào chồng bà đã không báo trước cho bà?”
Ông đã ở lại Trùng Khánh tính ra cũng gần nửa năm trời. Trong thời gian ấy, ông đã làm gì? Một câu hỏi thừa. Chẳng làm gì cả hay là chơi thôi. Đến tháng 9 ông quyết định đi Hồng Kông còn mang theo Lý Lệ Hà.
Nay ông lấy tên giả, tên một người Tàu là Wang Kunney, chẳng phải Bảo Đại mà cũng chẳng còn phải ngài cố văn Vĩnh Thụy nữa. Ông ăn mặc như người Tàu với sơ mi lụa trắng, đeo một cặp kính đen tổ bố. Ông sống hội nhập nhanh chóng lẫn lộn như một người Tàu bình thường. Cũng xử dụng xe buýt, sống cuộc đời với hai mặt: cờ bạc và thể thao, đi tắm biển, chơi golf, chơi tennis. Tối đến la cà các tiệm nhảy như Paramount, một tiệm nhảy lớn nhất và nổi tiếng nhất Hồng Kong.. Nhiều khi sạch túi thì đã có Thông Thị mở hầu bao nhờ tiền kiếm được như một taxi-girl. Vào buổi trưa, ông đến thưởng thức các món ăn hảo hạng tại nhà hàng Parisian Grill, sau đó có thể ông đi bơi lội ở một bãi biển sang trọng ở Hồng Kong, bãi Repulse Bay.
Trong một hoàn cảnh thật sự bi kịch, ông vẫn sống theo cung cách một bậc trưởng giả, kẻ thượng lưu như lúc nghỉ mát ở Sầm Sơn, ở giữa Hà Nội. Không bao giờ ông sống thật sự tư cách một người làm chính trị lưu vong mà đời sống vật chất trở thành mối lo từng ngày.
Tiếng tăm của ông bị vẩn đục và một số tờ báo lúc bấy giờ ở Nam Kỳ như tờ Duy Tân đã đưa tin về một phụ nữ người Hoa, tên Trần Nỷ hay với cái tên Jenny Wong, từ Hồng Kông sang Sài Gòn đòi chính thức hóa đứa con trong bụng đã có mang với Bảo Đại. Nhưng tại sao Jenny Wong [Hoàng Tiểu Lan] không đòi trực tiếp Bảo Đại ở Hồng Kông? Hành động đó chỉ là hình thức muốn tố cáo con người Bảo Đại?
Trong khi đó, tại Hà Nội, trong các lần cải tổ chính phủ, người ta cũng lấy làm nực cười, tên tuổi của ông vẫn nằm trong danh sách chính phủ với tước danh: Cố vấn tối cao chính phủ, sau Hồ Chí Minh. Có khi còn được ghi chú thêm: vắng mặt vì lý do xuất ngoại. Tất cả đều mập mờ, úp mở.
Trong thời gian ở Hồng Kông, người Pháp đã tìm cách móc nối lại với Bảo Đại và sau đó, nhiều phái viên Pháp khác tiếp tục liên lạc với Bảo Đại. Và mỗi lần như thế, họ lại tìm cách rót những số tiền cho Bảo Đại chi dùng như trả tiền Hotel, tiền ăn và tiền chơi gái.
Nguồn gốc của những món tiền mà Bảo Đại nhận được thường được giữ kín nên nay không thể biết được những số tiền ấy là bao nhiêu. Tôi nghĩ đến ông như một thứ con buôn chính trị?
Tất cả đều bắt đầu từ Paris. Tên tuổi những người tiếp xúc với Bảo Đại mỗi ngày mỗi dài. Những Yole, một nhân viên tình báo làm việc cho lãnh sự quán Pháp mỗi tháng đưa 5000 đô la-Hồng Kông cho Bảo Đại. Được biết, số tiền này do quỹ của ông Bollaert cung cấp. Nhiệm vụ của Yole còn là bá cáo cũng như chuyển giao những tin tức mà người Pháp cần gửi. Nhưng công việc chính của ông có thể là mỗi tháng cung cấp đủ tiền cho Bảo Đại như một lá bài dự trữ của người Pháp trong tương lai.
Viên ngọc Rạng Đông trong bộ ngọc của Bảo Ðại. Photo: Ray Chen. Đường kính: 37,97 ~ 37,58 mm — Trọng lượng: 397,52 cts.- Màu: Cam. Giấy chứng nhận: AIGS vào ngày 26 Tháng 12 năm 1996 do Dr. Ken Scarrett. Theo Allain Trương viên ngọc hiện trong tay một người ẩn danh chưa chịu bán với giá 7 triệu USD cho cựu hoàng tử Nam Tư Dmitri Karageorge.
Tuy nhiên, trong hồi ký, Bảo Đại có nhắc đến nhân vật Yole, nhưng lại không nhắc gì đến số tiền 5000 đô la Hồng Kông mà ông nhận được mỗi tháng từ Yole. Ông viết:
“Sau khi Yole trình diện với tôi, ông ta cho biết ông ta sẽ nhận sẽ giúp tôi liên lạc và đến gặp tôi mỗi tháng đem lại nhiều tin tức mới mẻ.” (S.M. Bao Daï, ibid., trang 163)
“Có những số tiền lớn mà do sự tình cờ đã được tiết lộ ra bên ngoài. Như trường hợp quan thuế ở Sài Gòn đã mở một chiếc valise của con gái ông Toàn quyền Bollaert và trong valise có chứa một khoản tiền trị giá 600.000 đồng theo thời giá ngoại tệ. Theo sự giải thích của cô gái, số tiền này được trao cho an ninh để chi trả cho các khoản chi tiêu của Bảo Đại ở Hồng Kông.” (Daniel Grandclément, ibid., trang 279)
Chỉ trong một vài trường hợp được công khai hóa thì nay mọi người mới rõ câu chuyện tiền bạc của ông. Đó là trường hợp viên khâm sứ ở Sơn La, tên Cousseau, ông này rất thông thạo tiếng Việt cũng như văn hóa Việt đã liên lạc thật gần gũi với Bảo Đại. Sau này Cousseau đá tiết lộ cho nhà báo Lucien Bodard như sau:
“Tôi tin sắp thành công đến nơi vì Bảo Đại rất cần tiền. Đó là một ông vua tầm thường, bị phế truất không có tiền tiêu, không có hoài bão gì. Ông ta đang trong cảnh gần như khốn cùng. Thực tế, đó là một công việc không dễ dàng chút nào. Tôi đã đem đến hàng triệu bạc, mà vẫn không đủ. (…) Trở lại với cuộc sống ăn chơi xả láng, Bảo Đại càng bị lôi cuốn.. Ông ta hiểu rằng người ta càng gắn với ông bao nhiêu thì lại càng cần đến ông bấy nhiêu.” (Lucien Bodard, la guerre d’Indochine, gồm ba cuốn là: L’enlisement, L’humiliation và l’aventure NFR, Gallimard 1963. Trích lại trong Daniel Grandclément, trang 279 )
Hơn ai hết, Bảo Đại, qua nhận xét của Cousseau, nắm được yếu điểm của người Pháp: Người Pháp cần ông. Chính cái cần này đã giúp Bảo Đại mặc cả đến những số tiền lớn lao cho mỗi dịch vụ. Chúng ta cần nắm rõ điều này để thấy Bảo Đại đặt giá cho nền độc lập Việt Nam mà thực tế ông không thật sự quan tâm cho đủ. Tôi hiểu rõ sâu xa thêm điều này khi tìm hiểu Hiệp Định Élysée được ký kết giũa Pháp và Việt Nam tại vịnh Hạ Long như thế nào.
“Chưa kể, Cousseeau cũng là người khuyên Bảo Đại về các phi vụ làm ăn chuyển tiền. Nhờ chế độ chuyển tiền hay buôn tiền mà Bảo Đại có thể thu được một số lời lớn? Các đồng tiền được cho phép chuyển đi chính thức từ Sai gòn sang đến Pháp, đúng hơn là Paris khi đổi ra đồng Franc thì giá cả của nó được tăng gấp hai lần? Để khuyến khích người Pháp chuyển tiền về chính quốc, một đồng Đông Dương được đổi chính thức là 17 franc. Bảo Đại nhận giúp những người Pháp cứ 8 francs mua được một đồng Đông Dương ở Hồng Koong. Ông gửi tiền Đông Dương đó về Sài gòn và tiền đó quay trở lại Pari s đổi chính thức ra 17 francs.
Được biết, Bảo Đại còn đưa cho Phan văn Giáo 20.000 đô la Hồng Kông, ông này mua thuốc trụ sinh Pénicilline, đóng 15 thùng trở về Sài Gòn… Những thuốc này bán chợ đen đem lại một số tiền là 750.000 đồng. Ai mua những thuốc trụ sinh này? Việt Minh. Những người cộng tác làm ăn này còn có Nguyễn Hữu Thi, giám đốc cơ quan tình báo, đồng thời là cố vấn tài chánh cho Bảo Đại. Thi nắm độc quyền cung cấp và vận tải cho Trung phần. Đồng thời còn buôn bán Kim cương, rượu vang, cả cao su cho Trung Kỳ.” (Daniel Grandclément, ibid., trang 280)
Trong hồi ký của Bảo Đại, ông còn tiết lộ một tin tức mà người viết chưa có điều kiện kiểm chứng đầy đủ về trường hợp bác sĩ Phạm Ngọc Thạch như sau:
“Vào trung tuần tháng 11, tôi gặp bác sĩ Phạm Ngọc Thạch, chủ tịch Phong trào thanh niên ở Nam Kỳ dưới thời chính phủ Trần Trọng Kim, rồi Bộ trưởng chính phủ lâm thời từ tháng 8-1945 và bây giờ là giám đốc văn phòng của Hồ Chí Minh. Ông cho biết ông từ Quảng Đông đến theo lệnh của chủ tịch đáng kính Hồ Chí Minh và chuyển giao một thư của Hồ Chủ tịch gửi lời chào trong tình đồng đến bảo Đại và mong Bảo Đại nhận món quà của chủ tịch gửi đến. Sau đó, ông này đã rút trong bị ra một bọc, gói một số không biết bao nhiêu lạng vàng lá của Hồ Chí Minh gửi cho Bảo Đại và với số vàng đó, có thể Bảo Đại sống được hai tháng. Sau lời bày tỏ cám ơn Hồ Chủ Tịch. Bảo Đại đã hỏi ông Phạm Ngọc Thạch chuyến đi của Hồ Chí Minh sang Pháp.” (S.M. Bao Daï, ibid., trang 165)
Không biết phải lặp lại gọi những hoạt động của Bảo Đại là gì? Ông có phải là một thứ con buôn chính trị hay con buôn thời cuộc? Ông nhận công khai nhiều món tiền của người Pháp, nhưng đồng thời cũng không từ chối tiền của Hồ Chí Minh?
Phải cắt nghĩa và giải thích về điều này như thế nào cho thuận lý? Ông chống Pháp hay chống Việt Minh? Ông làm việc cho ai? Có lúc ông tuyên bố, ông sẽ không bao giờ quay trở về Huế để đóng vai trò một ông Vua bù nhìn! Như thế là không còn làm việc cho Pháp? Những kẻ chống Việt Minh, số này rất đông nay nhìn thấy ở Bảo Đại một giải pháp dành lại độc lập một cách ôn hòa và tránh được cảnh chết chóc tàn bạo kiểu Việt Minh. Một giải pháp dễ dãi, một nền độc lập được mua bằng một giá rẻ mà không tốn một giọt máu.
Chỉ mãi đến tháng 9-1947, người ta mới nhận rõ lập trường cứng rắn của Bảo Đại đối với Việt Minh. Người Pháp thở dài nhẹ nhõm. Chưa bao giờ ngôi sao Bảo Đại lên như lúc này, sự kính mến ông còn hơn lúc ông từ chức. Phái đoàn gốc người Huế sang chầu chực ông và khẩn khoản ông trở về lãnh đạo đất nước.
Về phía người Pháp, Bollaert là người cương quyết và tin tưởng nhất yêu cầu Bảo Đại trở về nước cầm quyền. Boolaert sẵn sàng chi tiền và đã chi nhiều tiền và chi nhiều lần. Bảo Đại tuyên bố chỉ về nước khi bảo đảm có một nền độc lập toàn diện.
Cái khó khăn trở ngại duy nhất là người Pháp chỉ muốn trao trả một nửa nền độc lập, một nền độc lập tự do có kiểm soát và giới hạn trong một vài lãnh vực. Nghĩa là một thỏa thuận trong đó một nền độc lập trong khuôn khổ Liên Hiệp Pháp trong đó chính quyền Việt Nam có một nền hành chánh riêng, cảnh sát riêng. Tuy nhiên quân đội và ngoại giao thì phải chịu dưới quyền kiểm soát của người Pháp.
Đây là những tiền đề như bước mở đầu cho cho một giải pháp cho Việt Nam mà sau này ta gọi là “ Những thỏa ước của vịnh Hạ Long” được ký kết giữa Pháp và Bảo Đại, đại diện cho quốc gia Việt Nam mà ngay cả chính quyền cộng sản cho đến lúc ấy cũng không bao giờ đạt được rộng rãi như thế về phía người Pháp.
Sau đó, theo Hồi ký của Nghiêm kế Tổ, các người của đảng phái đã gửi người ra liên lạc và tiếp xúc với Bảo Đại tại Trùng Khánh như Lưu Đức Trung, Phạm Văn Bính, Đinh Xuân Quảng, Bùi Tường Chiểu.
Nhưng đến tháng 7 năm 1946, khi Bảo Đại đến Hồng Kông thì đã có một số lãnh tụ Quốc gia lúc đó đã lưu vong đã tiếp xúc với Bảo Đại. (Nghiêm Kế Tổ, Ibid.,trang 109)
Nhưng cũng theo hồi ký Bảo Đại, Bảo Đại đã tiếp kiến các đại diện đảng phái Quốc gia, chạy trốn khỏi Hà Nội từ tháng bảy, khi có cuộc truy lùng, ám sát các người của các đảng phái. Đó là các quý ông Vũ Hồng Khanh, Nguyễn Tường Tam của VNQDD, Nguyễn Hải Thần của Đồng Minh Hội. Ba người này bày tỏ lòng trung thành với Bảo Đại:
“Le peuple vietnamien, dans sa grande majorité, attend un geste de Votre Majesté. Dès maintenant, Sire, vous pouvez compter sur nous.” (S.M. Bao Daï, ibid., trang 167)
Vài ngày sau thì đến lượt Trần Trọng Kim và một số người khác. Tất cả đều đến từ Quảng Đông. Trần Trọng Kim khuyên |Bảo Đại nên chuyển đến Nam Kinh trông chờ vào Tưởng Giới Thạch. Bảo Đại từ chối liền và cho biết trong tương lai Trung Hoa Dân Quốc sẽ mất vào tay Mao Trạch Đông.
Trong số những người đến gặp Bảo Đại có mặt Phan Văn Giáo!
Sau đó, cảnh sát Anh ở Hồng kông có đến yêu cầu Bảo Đại chọn một Hotel nhất điịnh, họ sẽ phái hai cảnh sát Hồng Kông đến để lo bảo vệ an ninh cho Bảo Đại. Có tiền rủng rỉnh, Bảo Đại đã chọn một biệt thự sang trọng ở Repulse Bay, ở Victoria.
Từ khi dọn đến đây, theo Bảo Đại, biệt thự trở thành nơi lui tới của rất nhiều loại khách lui tới. Trong số này có bác sĩ Phan Huy Đán, luật sư Đinh Xuân Quảng thuộc đảng Xã Hội. Phía Quốc Dân Đảng có luật sư Trần Văn Tuyên.
Những người thân cận của Bảo Đại có Hoàng thân Vĩnh Cẩn, Phan Văn Giáo và Vĩnh Tường trở thành người nhà ở thường trực.
Nhiều người nổi tiếng khác như bác sĩ Lê văn Hoạch, thuộc nhóm Cao Đài. Phạm Văn Bình, Ngô Đình Diêm, Phạm Công Tắc, giáo chủ ở Tây Ninh, Lê Văn Soái, tướng Hòa Hảo đều lần lượt đến Hồng Kong.
Có thể nói hầu như không thiếu một khuôn mặt chính trị nào mà không có mặt. Kết quả các cuộc gặp gỡ này ra sao?
Theo cách nhìn và nhận định của cá nhân người viết bài này, tất cả phần lớn bọn họ đều là thứ chính trị sa lông, đại diện một nhóm thiểu số đảng phái hay tôn giáo mà đằng sau không có thực lực.
Như đã viêt trong đoạn kết của phần 5, cuối cùng dù thắng hay bại là ở nơi những kẻ ở lại. Chiến thắng hay thất bại hay không là thuộc về họ. Những kẻ đã chạ trốn, bỏ của chạy lấy người, cho dù lý luận cách nào đi nữa thì họ vẫn bị loại ra khỏi cuộc chơi.
Họ, tất cả đều bị loại ra khỏi cuộc chơi.
Cuộc chơi cuối cùng chỉ còn hai đối thủ, đối đầu giữa hai nhân vật là J.R. Saintenty và Ho Chi Minh trong một tuyên bố chung như sau.
“Déclaration
La France et le Viêt Nam viennent de signer des accords politiques.
Par ces accords, La France reconnait le Viet-Nam, État libre dans ce cadre de la fédération Indochinoise et au sein de l`Union Francaise. Le Viet Nam aura ses Gouvernements, son Parlement, ses Finances, son Armée propre.
Le Viet Nam acceuillera pacifiquement de son côté les troupes Francaises qui viennent relever les troupes Chinoises au Nord du 16e parallele, conformément aux conventions signées entre la France et la Chine.
Ces accords ramènent la paix sur le territoire du Viet Nam et mettent un terme à une période troublée des relations Franco-Vietnamien. La France et le Viet Nam vont reprendre d’un même élan leur marche vers le progrès politique, social, humain dans une collaboration loyale.
Vive la France et le Viet Nam, peuples libres associés dans l”Union Francaise!!
J.R Sainteny
Délégué du Haut Commissaire de France pour L’Indochine
Ho Chi Minh
Président du Gouvernement du Viet Nam” (Eric Deroo, Piere Vallaud, Indochine Francaise 1856-1956, Guerres, Mythes et Passions, nxb Perrin, trang 73)
1946 – Ký kết Hiệp định Sainteny-Ho Chi Minh
(Tuyên Bố chung. Pháp và Việt Nam vừa mới ký kết một thỏa thuận chính trị. Do thỏa thuận này, nước Pháp nhìn nhận Việt Nam, một quốc gia tự do trong khuôn khổ một Liên Minh Đông Dương nằm trong khuôn khổ Liên Hiện Pháp. Nước Việt Nam sẽ có một chính quyền riêng, một Quốc Hội riêng, tài chánh riêng, một quân đội riêng.
Nước Việt Nam sẽ đón tiếp một cách hòa bình quân đội Pháp đến thay thế quân đội Trung Hoa từ phía Băc, vĩ tuyến 16, đúng với thỏa ước đã được ký kết giữa Pháp và Trung Quốc.
Các thỏa ước này sẽ đem lại hòa bình trên lãnh thổ Việt Nam và chấm dứt một giai đoạn hỗn loạn giữa mối liên lạc Viet-Pháp. Nước Pháp và Việt Nam sẽ tiếp tục đi tới những tiến bộ chính trị, xã hội và con người trong sự hợp tác chân thành.
Hoan hô nước Pháp và Viet Nam, những dân tộc tự do trong khuôn khổ liên Hiệp Pháp. Ký tên)
Mặc dầu nội dung thỏa ước này còn què quặt với những hoa từ thì đây cũng là những gì được ký kết chính thức giữa đại diện chính quyền Pháp và Hồ Chí Minh mà các đảng phái lãnh tụ Quốc gia đã không đủ tư cách có mặt, ngay cả ngài cố vấn tối cao.
Bảo Đại hay các đảng phải mà phần đông tìm chỗ trú ngụ tạm thời ở Quảng Đông đã không đủ tư thế để nói chuyện với người Pháp. Nay họ tìm đến Bảo Dại như một chỗ dựa, một uy tín chính trị như một giải pháp thứ ba, thay vì chống Pháp thì quay ra chống Việt Minh.
Và chính ở chỗ này sẽ hình thành trong tương lai cái mà người Pháp cũng như chúng ta thường có thói quen gọi là: La solution de Bao Đai. (Giải Pháp Bảo Đại).
Liệu giải pháp sẽ đem lại điều gì và kết quả ra sao? Và từ chỗ đó chấm dứt vai trò cố vấn tối cao để nhận một danh xưng mới: Quốc Trưởng Bảo Đại.
Về phía người Pháp, nay nhờ những tài liệu, thư từ , nhân chứng cho thấy họ đang phải đối đầu một cuộc chiến sói mòn mà những ngày tháng dễ dàng lúc ban đầu càng ngày như càng vuột khỏi tầm tay của họ. Trên thực tế thì ngay từ những ngay đầu cuộc chiến đã có nhưng dấu hiệu mệt mỏi, một tương lai không mấy sáng sủa cho quân đội viễn chinh Pháp qua một lá thư của một đại úy pháo binh viết cho người vợ ở Toulon ngày 13 tháng giêng, năm 1947 như sau:
“Chỗ anh ở đây, tình hình mỗi ngày một thêm trầm trọng. Đó là cuộc chiến du kích âm thầm, giống như cuộc chiến bưng biền trước đây ở Pháp, nhưng với một mức độ mất an ninh hơn nhiều, do hoàn cảnh địa lý thiên nhiên của xứ sở này cũng như của người dân quê bản xứ. Người ta sống trong tình trạng báo động liên tục, không thể nào đi ra ngoài vào buổi chiều mà không bị rủi ro bị đâm một nhát dao găm vào sau lưng hay một quả lựu đạn ở dưới chân. Ban đêm, phải phòng thủ bên trong khi nhiệt độ xứ này trung bình là 32 độ dưới bóng mát. (…) Đó là một cuộc chiến chênh lệch mà người ta có thể bị chết bất cứ lúc nào, ngay cả ở trong các vùng được coi là an toàn, bị bắn tỉa bởi một tên bắn tỉa trốn ở một góc xó nào đó (…) Người ta muốn ăn chuối, ăn dứa, gạo, sô cô la.. Người ta muốn cả cao su cho các đôi giầy đế crêpe như hồi trước chiến tranh. (…) Nhưng có nghĩa lý gì những điều đó. (…) Và thật là không đủ binh sĩ ở đây để có thể tự phòng ngự và như vậy rồi sẽ thua.” (Eric Deroon-Pierre Vallaud, ibid., trang 97)
(Chúng ta được biết, Pháp chỉ có hơn 100.000 quân đồn trú rải ra 917 đồn bót).
Phần mở đầu cho cuộc chiến tranh Việt- Pháp bùng nổ tối 19 tháng 12, 1946
Kể từ tháng 3 đến 19-12-1946 là một khoảng trống chính trị trong đó không có mặt Bảo Đại tại Việt Nam. Nó đã dẫn đưa đến một cách không dừng được một cuộc chiến tranh Việt-Pháp mặc dầu với một cố gắng phi thường về phần Hồ Chí Minh cũng như nhượng bộ của ông Hồ đối với người Pháp.
Người Pháp bằng mọi giá muốn tái diễn sự có mặt của họ tại Việt Nam.
Việt Minh thì nhượng bộ đến một lúc không thể nhượng bộ được nữa thì chính Võ Nguyên Giáp là người phát động cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất bằng cách dùng bộc pha cho nổ nhà máy đèn Hà Nội vào khoảng 9 giờ tối ngày 19 tháng12.
Rất tiếc là Pháp đã được thông báo qua thông tin tình báo nên đã chuẩn bị cuộc ứng chiến ngay từ phút đầu và chỉ trong một đêm, một ngày họ đã làm chủ tình hình Hà Nội và sau hai tháng đã xua đuổi cũng như tiêu diệt mọi chốt chiếm đóng của hơn 10 ngàn thanh niên xung phong, lực lượng được chỉ định cầm cự và bảo vệ thủ đô Hà Nội.
Theo trí nhớ của tôi thì thời gian ổn định không phải hai tháng mà chỉ trong vòng vài ngày thì không còn nghe tiếng súng tắc bọp nữa.
Tuy nhiên cuộc chiến đối đầu như chúng ta thấy sau này càng có dấu hiệu bất lợi khi người Pháp chủ trương xây dựng các đồn bốt mà người Pháp quen gọi là Guerre des Postes.
Sau này, thỉnh thoảng có nghe tiếng súng thì đó là tiếng súng liên thanh của lính tây mà thôi.
Về sự thiệt hại trong thành phố thì phải kể như Hà Nội còn nguyên vẹn.. Các khu phố tây thì hầu như không có đến một dấu vết đạn để lại trên các căn biệt thự, các cớ sở công thự như nhà bưu điện, sở toàn quyền, sở hành chánh, tài chánh, nhà thờ lớn Hà Nội, trường Albert Sarault, các cửa hàng trên phố Tràng Tiền hoặc chung quanh bờ hồ Hoàn Kiếm, phố Quan Thánh vv…
Nhưng trong phố cổ Hà Nội như các phố Hàng Ngang, Hàng Đào, Hàng Bạc, Hàng Than, do sự thúc đẩy của Tự vệ thành, buộc người dân phải tản cư. Rồi sau đó, tự vệ thành đào các ngạch tường như các lỗ chó chui để di chuyển từ chỗ nọ đến chỗ kia.. Lâu lâu còn thấy sót lại một ụ đắp mô vội vã còn sót lại.
Trên một vài bức tường quét vôi còn sót lại vài câu tuyên truyền với hình vẽ còn sót lại như: Ngoài mặt trận cũng như ở hậu phương, ai ai cũng có bổn phận cứu nước, quyết TRƯỜNG KỲ KHÁNG CHIẾN đi đến ĐỘC LẬP HOÀN TOÀN. Một câu khác: Hỡi đồng bào! Hãy vững gan bền chí. Chúng ta quyết đập tan gông, xích nô lệ và tin tưởng ở THẮNG LỢI CUốI CÙNG. Ta quyết thắng. Nhiều chỗ còn ghi hai thứ tiếng: Viet Nam Độc Lập! Viet Nam Indépendant!
Lúc ấy, tôi chỉ thấy chiến tranh là điều kỳ cục.
Ở khu phố cổ vốn xưa nay là nơi buôn bán sầm uất với đông người qua lại thi nay chúng trở thành những hoang địa. Ngoài mặt đường đầy những rác rưởi với cả đồ đạc giường tủ vất ngổn ngang, quần áo, đồ dùng trong nhà đủ loại vứt tung ra ngoài đường. Tuy nhiên, sau này tôi muốn đi “thổ phỉ” một cái áo lạnh cũng không có được. Người Hà Nội coi vậy cũng chẳng giàu có gì. Rời khỏi Hà Nội, họ cũng chuẩn bị quang gánh và đủ loại phương tiện chuyên để mang đi bất cứ thứ gì có thể mang đi được. Như quần áo, gạo thóc, nồi niêu xong chảo, thực phẩm khô như cá khô, muối vừng v.v.
Những người còn ở lại Hà Nội như tôi, dù không có bao nhiêu cũng không thể tìm kiếm được chút lương thực ít ỏi còn sót lại để sống qua ngày nếu không có sự tiếp tế của người Pháp thì sẽ rơi vào cảnh chết đói..
Chiến tranh thì chắc là phải có người chết. Nhiều là đàng khác. Vậy mà ngay sáng hôm sau, tôi biết chắc chắn có sự giao tranh giữa đôi bên và tưởng sẽ có nhiều người chết. Súng gỗ thì còn thấy vứt rải rác, nhưng người chết chắc đã được khuân di kịp thời nên không để lại dấu tích gì.
Kinh nghiệm chiến tranh của tôi cuối cùng chỉ là sự đói nghèo. Sự sợ hãi chỉ xẩy trong những ngày đầu. Người Pháp cũng như kiều dân Pháp không còn những ngày tháng quá khứ “vivre comme en Europe” sống như ở Pháp. Ít còn thấy những ông Tây thực dân, quần áo vét trắng, đội mũ cô lô nhần, xách ba tong đi nghênh ngang ngoài phố. Nhưng họ kín đáo hơn mặc dầu không tỏ ra thân thiện như trước chiến tranh.
Dầu vậy, Hà Nội chóng tìm lại được những sinh hoạt bình thường. Cái điều bình thường và thân quen nhất là hai toa tàu điện chạy từ phía Bờ Hồ, qua Ngã Tư Sở rồi cứ thế qua huyện Hàm Long hướng về phía Hà Đông. Tiếng kính keng quen thuộc, tiếng bánh xe điện rit trên đường sắt mỗi khi qua một khúc quanh.
Chỉ trong vài tháng thì đã có dấu hiệu của sinh hoạt buôn bán trở lại. Số lượng người hồi cư hay được gọi là dinh tê mỗi ngày mỗi đông.
Sự trở về đông đảo của dân chúng Hà Nội là một dấu hiệu tốt đẹp một ngày mai được thanh bình. Nhưng không phải vậy, mỗi ngày cuộc chiến diễn ra một cách ác liệt! và phân chia thế giới thành hai cực, biến cuộc chiến tranh mang hình thái tranh chấp ý thức hệ vượt tầm tay mọi người.
Kết quả là một chiến thắng và một xỉ nhục.
Hôm nay, nhìn lại cuộc chiến tranh Việt-Pháp 1946-1954 trong một chiều kích không phải ý thức hệ, cũng không hẳn là cuộc chiến chống ngoại xâm theo lối nhìn thông thường.
Một chiều kích đặt trên nền tảng lý luận dựa trên ba phạm trù căn bản, nhờ đó có cái nhìn toàn diện bao quát toàn bộ cuộc chiến tranh để thấy rằng, tất cả không trừ ai, chúng ta đã làm một sự lãng phí quá to tát về sinh mạng con người, về tài sản thiên nhiên đã ban phát cho chúng ta chỉ vì những chọn lựa sai lầm của mỗi bên. Nhất là về tương lai con người Việt mà hậu quả ra ngoài sự thẫm định và đo lường của mọi người. Thắng hay bại, người Việt Nam vẫn cuối cùng là kẻ thua cuộc do những lý luận dựa trên 3 phạm trù sau đây
- Phạm Trù thứ nhất: Sự canh tân, tiến bộ và phát triển
Những nhà lãnh đạo khôn ngoan và hiểu biết luôn luôn đặt cao sự canh tân, tiến bộ và phát triển như như mục tiêu hàng đầu đưa đất nước đi lên. Bệnh nghèo khó, sụ ngu dốt, sự thua kém người ngoài là do những căn bệnh trên. Vậy thì trước khi có đủ tiềm lực để có thể đương đầu với kẻ thù địch. Chúng ta trước hết phải đủ mạnh. Không có con đường nào khác giúp đất nước mạnh bằng con đường canh tân. Canh tân sẽ làm cho đất nước giầu mạnh không bị một bất cứ thế lực nào có thể chà đạp lên đất nước của mình. Dùng võ lực, sức mạnh quân sự chỉ là kế sách ngắn hạn. Chỉ có canh tân xứ sở mới là lũy trường thành bảo vệ bờ cõi. Vạn lý trường thành đã cho thấy sự thất bại của các vua chúa quan lại nước Tàu như thế nào. Nước ta kể từ các vua chúa đến sau này đến các lãnh tụ đảng phái, đến đảng cộng sản đều coi nhẹ chọn lựa canh tân. Chiến thắng xong rồi chỉ còn lại một tập đoàn lãnh dạo mà trình độ chỉ xấp sỉ qua bực tiểu học. Làm sao họ có thể lãnh đạo đất nước đi lên với sự dốt nát như thế? Họ đã coi rẻ kế sách canh tân nên đã rước họa cho cả dân tộc, gây cảnh lầm than chiến tranh kéo dài hàng trăm năm. Hết họa thực dân Pháp đến thực dân Nhật nay đến thực dân Tàu?
- Phạm trù thứ hai: Chọn lựa sự nổi dậy hay sự nổi loạn
Từ văn chương thơ phú đến lịch sử VN đều đề cao sự nổi dậy như một phương thức duy nhất đem lại an bình. Lịch sử chỉ là lịch sử chiến tranh miên tục để bảo vệ bờ cõi thì ít mà để tranh dành quyền lực thay đổi một triều đại thì nhiều. Kẻ chiến thắng được gọi là anh hùng, kẻ thua gọi là giặc. Dưới triều đại nhà Nguyễn, có những thời kỳ ghi được 250 các cuộc nổi dậy. Thời VNCH, 20 năm miền Nam, giặc nội thù chính là sự tranh dành của các đảng phái trong những mưu toan lật đổ chính quyền hợp pháp. Cái ung nhọt lớn nhất của miền Nam tự do là sự quấy rối của hàng trăm đảng phái khác nhau. Mà mỗi đảng nhiều khi chỉ có cái tên, hữu danh vô thực. Từ một đảng lại chia ra nhiều hệ phái, từ hệ phái lại chia ra nhiều chi phái. Chia rẽ là chính. Rồi thiết lập Liên Minh, mặt trận thống nhất đến một lúc nào đó đều chìm xuồng. Hết nạn Đảng phái đến nạn Hội đoàn. Chỉ tính ở hải ngoại bây giờ thôi, chúng ta có hơn 500 Hội Đoàn. Càng có nhiều hội đoàn, dấu hiệu chia rẽ càng trầm trọng. Càng kêu gọi đoàn kết, càng đẻ thêm các mâu thuẫn nội bộ, mâu thuẫn cá nhân với cá nhân, nhóm nọ nhóm kia, phe phái. Chưa bao giờ người Việt Nam biết học để kết đoàn. Sự chia rẽ là mầm mống của sụ bị lệ thuộc làm suy yếu tiềm lực dân tộc. Nhìn trong nước hiện nay cũng như ở hải ngoại, chúng ta đều thấy có chung mẫu số: sự chia rẽ và phân hóa.
- Phạm trù thứ ba: Làm cách mạng
Đây là cái tai họa lớn nhất cho dân tộc. Lịch sử cho thấy các cuộc cách mạng, dù mang nhãn hiệu gì, rồi cũng đi đến chỗ đổ máu và một chế độ cai trị tàn bạo. Cách Mạng nào đã đem lại điều tốt đẹp cho con người? Hầu như không có. Riêng cuộc cách mạng của người cộng sản đưa đến sự lầm than và khốn nạn nhất cho nhân loại.
Ba phạm trù trên là kim chỉ nam giúp chúng ta nhìn lại.
Con đường lên làm Quốc Trưởng của Bảo Đại
Khi vai trò chính trị của ông có đổi khác cho thấy sự quan tâm đến những vấn đề thời sự chính trị, tình hình Việt Nam và ngay tình hình trên thế giới của Bảo Đại có sự thay đổi.
Sở dĩ có vấn đề đó là khi đó Bảo Đại là nơi mà đủ mọi lãnh tụ thuộc đủ mọi khuynh hướng chính trị tìm đến ông, tiếp súc, trao đổi và cũng không thiếu các đề nghị để ông nắm giữ các vai trò chính trị. Chính thức, ông vẫn cho mọi người thấy là ông không ham quyền hành. Nhưng các phần tử quốc gia đến với ông đều bày tỏ ý muốn của họ mong muốn ông một lần nữa ra nắm vận mệnh đất nước. Ông bày tỏ chỉ khi nào toàn thể quốc dân mong muốn ông ra lại thì ông sẵn sàng. Nhưng nếu chỉ có một nhóm người thì chưa phải là một xứ sở, cho nên cần có cả một quốc dân đại hội mời gọi tôi.
Theo tôi, càng có sự mâu thuẫn không tương nhượng được giữa Hồ Chí Minh và người Pháp thì giải pháp Bảo Đại càng sáng giá.
Chúng ta chỉ cần xem lại những lời tuyên bố của Hồ Chí Minh trong nỗ lực đi tìm một giải |pháp cho bài toán Việt Nam sẽ thấy rõ.
“Ngày 8 tháng bảy, năm 1947, nghĩa là chiến tranh giữa đôi bên đã xảy ra gần một năm, Hồ Chí Minh vẫn chủ trương:
‘Mục đích đầu tiên của Việt Nam nếu chấm dứt được chiến tranh là xóa đói và sự ngu dốt, và chúng tôi muốn gia tăng sản xuất. Và muốn đạt được điều ấy, chúng tôi cần vốn, chuyên viên kỹ thuật và lao động. Dân tộc Việt Nam sẽ cung cấp chuyên viên kỹ thuật và lao động cộng với cung cấp nguyên liệu, nhưng chúng tôi sẵn sàng đón nhận vốn tư bản từ Pháp và ngoại quốc trong mưu cầu lợi ích chung của đôi bên.”
Cụ thể và rõ rệt hơn nữa, vào tháng 3, năm 1947, Hồ Chí Minh kêu gọi chính quyền Pháp và nhân dân Pháp như sau:
“Một lần nữa, chúng tôi long trọng tuyên bố nhân dân Việt Nam ước mong thống nhất và độc lập trong Liên Hiệp Pháp và chúng tôi sẵn sàng tôn trọng quyền lợi kinh tế cũng như văn hóa của người Pháp ở đây..Nếu nước Pháp chấm dứt ngay sự thù địch và nhờ thế cứu được nhiều sinh linh cũng như tài sản của dân chúng. Và nhờ thế lấy lại được sự tin tưởng và thân hữu giữa đôi bên.” (Message de Paix adressé par le Président Ho Chi Minh au Peuple et au Gouvernement Francais. P11. Trich lại trong Ellen J. Hammer, The Struggle for Indochina, trang 203-204.)
Những cố gắng ấy cũng như sau này của người Pháp gửi giáo sư Paul Mus một mình đi vào bộ tham mưu của Việt Minh, ở về phía Bắc Hà Nội cũng không đạt được kết quả cụ thể gì.
Và cuộc chiến tranh tiếp diễn. Một phần vì một số đông người Pháp cũng như người Việt trong vùng Pháp chiếm đóng không muốn thương thuyết tay đôi, trực tiếp với Việt Minh. Phần khác, Bộ trưởng bộ chiến tranh của Pháp là ông Paul Coste-Floret, sau chuyến viếng thăm Việt Nam về tin tưởng rằng cần phải gửi sang Việt Nam một số quân lính vào khoảng 500.000 người thay vì 115.000 như hiện có. Người Pháp vẫn làm chủ các thành thị và sự đi lại giao thương vẫn tốt đẹp.
Chính vì thế, họ nghĩ cần đi tìm một nhà lãnh đạo khác, thiết lập một chính phủ có thể đương đầu với cộng sản. Giải Pháp về sự trở lại chính trường của Bảo Đại mỗi ngày thêm rõ rệt và uy tín của Bảo Đại ngày một tăng lên.
Vào cuối những năm 1946 cho đến năm 1947-1948, mối liên hệ giữa Pháp-Việt Minh càng trở nên xấu và vô phương giải quyết, vai trò Bảo Đại càng được nhắc nhở tới nhiều. Giải pháp của Pháp đưa thủ tướng Nguyễn Văn Hinh làm thủ tướng bù nhìn tại miền Nam Việt Nam là một trò hề chính trị đưa đến vụ tự tử oan nghiệt của vị thủ tướng này.
Thay đổi quan trọng nhất của Bảo Đại là vào ngày 21 tháng 3, 1947, từ trong chiến khu, Hồ Chí Minh gửi một thư cho người Pháp như đã trích dẫn ở trên. Được một nhà báo thuộc cơ quan United Press hỏi, ngài cố vấn sẽ giữ vai trò gì trong việc thương thuyết với người Pháp.
Nhân dịp này, Bảo Đại đã trả lời: “Không tôi sẽ không thương thuyết với người Pháp với tư cách cố vấn tối cao.”
Từ đó, Bảo Đại phủ nhận chính thức cái chức vụ do Hồ Chí Minh ban cho. Phần khác, vì nay có một phong trào “Mặt trận Thống nhất Quốc Gia” do các lãnh đạo Cao Đài, Hòa Hảo, đảng dân chủ xã hội vừa lập ra một mặt trận “Mặt trận Quốc Gia chống Phát Xít”. Mặt trận này tôn xưng Bảo Đại là lãnh tụ của Mặt Trận.
Một trong những lãnh tụ gần gũi với Bảo Đại, đặc ủy viên của Bảo Đại khi ở Hồng Kông về Sài Gòn, ông Trần Văn Tuyên cũng tuyên bố:
“Cựu hoàng không phải là cố vấn tối cao của chính phủ Hồ Chí Minh. Ngài sẽ ân cần thỏa thuận cho Việt Minh tham gia ý kiến trong cuộc thương thuyết với nước Pháp do Người hướng dẫn miễn là Việt Minh phải thành thật và đừng tự coi mình hơn các đảng phái khác. (..) Nếu mai đây, nước Pháp thương thuyết với Hồ Chí Minh thì tất cả những người Quốc gia sẽ nhất tề nổi dậy chống cả Pháp lẫn Hồ Chí Minh.” (Nghiêm Kế Tổ, ibid., trang 110)
Thay đổi quan trọng thứ hai là việc thay thế Thierry d’Argenlieu bằng Bollaert. Thay đổi này có ảnh hưởng trực tiếp đến tương lai chính trị của Bảo Đại. Bollaert trong dịp này đã tuyên bố:
“Nước Pháp sẽ duy trì sự có mặt của mình trong Liên Hiệp Đông Dương. Đấy là trọng tâm chính sách của chúng tôi. Chúng tôi mong muốn được tiếp xúc với mọi đại diện của mọi đảng phái đến với chúng tôi. Tôi nói mọi đảng phái và chúng tôi không nhìn nhận bất cứ một đảng phái có độc quyền để đại diện cho dân tộc Việt Nam.” (Le Monde, may, 1947, trích lại trong Ellen Hammer, ibid., trang 209.)
Chính vì thế, Bollaert đã cho người tiếp xúc với Bảo Đại từ tháng ba, 1947 tại Hồng Kông. Trong số ấy, có những thành phần lãnh đạo của VNQDĐ và Đồng Minh Hội.
Và cho đến mùa hè năm 1947, nhiều người Việt Nam đã sẵn sàng và hoan hỉ coi Bảo Đại như một người đại diện chính thức của họ để đối đầu với Việt Minh.
Phải chăng đây là giai đoạn sáng giá nhất trong cuộc đời làm chính trị của Bảo Đại?
Ông tuyên bố sẽ không về Việt Nam trừ khi nhân dân Việt Nam muốn ông trở về. Cuối năm 1947, Bà Hoàng Hậu và con cái đã có mặt tại Pháp. Thế giá Bảo Đại càng cao. Các vị trong hoàng tộc như giáo sư Bửu Hội từng có chút tiếng tăm ở bên Pháp đã gặp bà Hoàng và sẵn sàng quy tụ thành phần Quốc gia sau lưng Bảo Đại. Nhưng người có thế giá hơn cả là Hoàng thân Bửu Lộc, một nhà ngoại giao kỳ, họ hàng thân thích với cả Bửu Hội và Bảo Đại sau này trở thành người cố vấn, cánh tay mặt của Bảo Đại.
Về phía người Mỹ, có ông William C. Bullit, cựu đại sứ Mỹ tại Pháp đã từng viếng thăm Đông Dương vào năm 1947 cũng như từng gặp Bảo Đại ở Hồng Kông. Sau này lại có dịp gặp lại Bảo Đại ở Genève (1948). Ông là người có tiếng nói được người Pháp kính nể. Ông cũng là người có chủ trương ủng hộ Bảo Đại và được coi như thể đó là chính sách của người Mỹ tại Đông Dương và được đa số các thành phần người Quốc gia tán đồng.
Một mặt ông làm áp lực để phía người Pháp nhượng bộ hơn nữa các đòi hỏi của Bảo Đại. Một mặt ông khuyến khích Bảo Đại phải đòi cho được độc lập.
Phía Việt Nam, một mặt trận Liên Hiệp quốc đân được thành lập vào mùa hè năm 1947 kêu gọi mọi thành phần đảng phái, tôn giáo, các nhóm xã hội đoàn kết dưới quyền Bảo Đại. Họ thúc đẩy cựu hoàng nhận lãnh vai trò lãnh đạo phong trào tranh đấu cho một Việt Nam thống nhất và độc lập để chống lại điều mà họ gọi là sự khủng bố đỏ.
Họ cũng không hoàn toàn tán thưởng về lời tuyên bố của Bolllaert tại Hà Đông kêu gọi thương thuyết với mọi đảng phái.
Phần bảo Đại, có thể ví ông như một tay đánh bạc trong khi một đám chính khách ngồi chầu rìa và những tay đứng ngoài cá cược với nhau về cơ may được thua. Mọi người hình như ai cũng biết rõ lá bài ông định chơi và điểm yếu cũng như điểm mạnh của ông. Nhưng người ta tự hỏi, liệu ông có đủ bản lĩnh để chơi canh bài này không hay sẽ để cho người Pháp hay cả Việt Minh lợi dụng?
Nhưng Bảo Đại hơn ai hết hiểu rõ vai trò của mình, một vai trò không ai thay thế được và chỉ mình giữ con bài tẩy.
Bảo Đại viết trong Hồ ký của mình như sau:
“Người ta thường nghĩ rằng trong tay tôi chẳng có gì nhiều, ngay cả tính đại diện của tôi cũng cần phải bàn cãi. Nói như thế là coi nhẹ một yếu tố chính yếu, ở chỗ ngay từ nhỏ, tôi đã đại diện chính thống cho một triều đại, là Đấng Thiên tử, là Con Trời, được Trời trao sứ mệnh trị vị thần dân. Có lẽ chỉ mình tôi nhận thấy tính đại diện chính thống này. Nó không thể được coi như một luận cứ trong một đàm phán ngoại giao, cũng không thể viện ra ngay từ đầu. Tuy nhiên nó vẫn hiện hữu, mạnh mẽ hơn mọi bất cứ luận cứ nào. Chắc chắn là những ai không phải là người Việt Nam thì không cảm nhận được điều đó mà người ta cũng không thể thuyết phục được ai cả. Khi tôi phản ứng hay tỏ thái độ, những người đối thoại với tôi không thể hiểu được, họ chỉ đưa lý lẽ giữa con người với nhau, ngang tầm với họ, hợp với trình độ của họ.” (S.M. Bao Daï, ibid., trang 207)
Nhưng chính ở chỗ tự tin như thế, phải chăng Bảo Đại đã bỏ mất cơ hội cứu vãn Việt Nam?
Trong một số báo l’Hístoire, họ đã dành để viết về chủ đề: Le Vietnam depuis 2000 ans. Tác giả Chirstopher Goscha, trong bài nhan đề: Bao Đai, Monarque colonial đã nhận xét như sau về Bảo Đại:
“Toutefois, au lieu de presser les Français d’accorder une véritable indépendance, Bao Dai se retire à Dalat, fuit les tournées impériales, rejette l’idée qu’être vu de son peuple peut s’avérer un moyen d’efficacité gouvernementale. Ce refus obstiné contrarie aussi bien les Français que les nationalistes qui le croyaient capable de retourner contre les Français et les communistes l’artillerie symbolique de la royauté. Sa vie de « playboy » inspirait peu d’espoir. C’est à partir de ce moment que Bao Dai est resté gravé dans les mémoires sous les traits d’un pantin colonial.” (L’Histoire, Le Viet Nam depuis 2000 ans. Jan 7, 2014. Bao Dai, monarque colonial, texte traduit de l’anglais par Agathe Larcher-Gosha. Christopher Goscha, trang 39.)
“Tuy nhiên, thay vì gây sức ép với người Pháp để dành được một nền độc lập chân chính. Bảo Đại rút lui về Đà Lạt, tránh các buổi đi thăm chính thức của hoàng gia, thường không muốn xuất hiện trước dân chúng, một trong những phương tiện hữu hiệu của người cầm quyền. Điều đó cũng gây bực dọc cho những người Pháp cũng như những nguời Quốc Gia vì họ tin rằng ông có thể đối đầu được với cả cộng sản và người Pháp chỉ nhờ vào cái tước vị hoàng gia của mình. Cuộc sống “ăn chơi” của ông đã cho thấy đem lại rất ít hy vọng. Và kể từ lúc đó, hình ảnh Bảo Đại ăn sâu vào ký ức mọi người, ông chỉ là một con rối chính trị của chế độ thuộc địa.”
Người Pháp chọn giải pháp Bảo Đại
Có thể nói, người có vai trò quan trọng trong việc hồi hương của Bảo Đại về nước là ông Nguyễn Văn Xuân. Nguyễn Văn Xuân từ Pháp trở về Saigon vào tháng 9 năm 1947. Ông được kể là một trong những người Việt Nam giữ chức vụ cao nhất trong quân đội Pháp. Từ đại tá thăng lên tướng trong quân đội Pháp. Ông là người chủ trương Nam Kỳ tự trị tách ra khỏi Trung Kỳ và Bắc Kỳ. Khi về Việt Nam, chính phủ Lê Văn Hoạch thay thế thủ tướng Nguyễn văn Thinh tỏ ra bất lực không được sự ủng hộ của dân chúng và nhất là thất bại trong việc giữ gìn an ninh chung.
Chính phủ Lê Văn Hoạch bắt buộc từ chức và Nguyễn Văn Xuân được một số nhà chính trị ủng hộ để thành lập một chính phủ thứ ba vào đầu thang 10, 1947.
“Trong suốt năm 1948, Nguyễn Văn Xuân đã đi khắp các nơi tìm kiếm sự ủng hộ của nhiều lãnh tụ trong việc ủng hộ Bảo Đại về nước. Kết quả là vào tháng năm, 1947, Nguyễn Văn Xuân đã có thể quy tụ được mọi thành phần phe phái khác nhau có một buổi họp tại Sài Gòn. Có 11 người từ Bắc Kỳ, 7 từ Trung Kỳ và 20 người từ Nam Kỳ. Trong số ấy có những người như Lê Văn Hoạch, giáo chủ Cao Đài Phạm Công Tắc và ông Trần Quang Vinh cũng là Cao Đàì.” (Ellen Hammer, Ibid., trang 221)
Thật ra thì những người trên ủng hộ Bảo Đại hơn là Nguyễn Văn Xuân. Tuy nhiên, ông này đã đưa ra một lá thư của Bảo Đại ủng hộ việc thành lập một chỉnh phủ lâm thời. Nhờ lá thư của Bảo Đại, Nguyễn Văn Xuân đã đạt được số phiếu ủng hộ thành lập chính phủ là 37 phiếu thuận, và một phiếu trắng.
Sau đó, Nguyễn Văn Xuân đã đi Hồng Kông trình diện Bảo Đại. Vào tháng sáu, Nguyễn Văn Xuân Đã ra Hà Nội cùng với Trần Văn Hữu tuyên bố thành lập một chính phụ trung ương lâm thời.
Trong Nam, người phản đối Nguyễn văn Xuân là Nguyễn Phan Long. Ông này cho rằng chính phủ Nguyễn văn Xuân không có khả năng về quyền lực cũng như về uy tín để có thể tái lập hòa bình.
Thật vậy, nhiều người đã từ chối lời mời gia nhập nội các của chính phủ Nguyễn Văn Xuân. Ông gặp nhiều khoa khăn trong việc tìm người gia nhập chính phủ. Vì thế, chính phủ của Nguyễn Văn Xuân thiếu tính đại diện hay tính quần chúng và có rất ít thực quyền.
Phần Bảo Đại, ông cũng không hẳn hoàn toàn tin tưởng vào chính phủ Nguyễn Văn Xuân và phát ngôn viên của Bảo Đại cho hay Bảo Đại sẽ không về nước khi nào Việt Nam chưa được người Pháp trao trả độc lập.
Bảo Đại quyết định rời Hồng Kông
Hoàng đế Bảo Đại, Cao ủy Bollaert, Tướng Nguyễn Văn Xuân, Trần Văn Hữu. Hàng thứ hai Tướng Blaizot, Đô đốc Battet và Tướng Boyer de la Tour. Tháng 12 năm 1947 trên tàu Duguay Trouin trên Vịnh Hạ Long.
Sau khi đạt được một tuyên bố chung ký kết ngày 5 tháng 6, tại vịnh Hạ Long giữa ông Emile Bollaert, Cao Ủy Pháp ở Đông Dương và tướng Nguyễn Văn Xuân, thủ tướng lâm thời của Quốc gia Việt Nam [Thủ tướng Cộng hòa tự trị Nam Kỳ, 8 tháng 10, 1947 – 27 tháng 5, 1948], với sự hiện diện của Bảo Đại ngày 5 tháng 6, năm 1948.
Thật ra Bản Tuyên bố chung này không đem lại một nội dung nào mới mẻ như Bảo Đại mong muốn và dư luận khắp nơi tỏ ra chống đối.
Việt Minh lợi dụng dịp này tố cáo đó là một sự phản bội. Không ai bị lừa vì đó chỉ là thứ độc lập trên giấy tờ. Độc lập thật sự chỉ khi nào không còn bóng dáng người lính Pháp nào trên đất Việt Nam.
Bộ máy tuyên truyền của cộng sản qua nhân vật Trần Huy Liệu tố cáo chính phủ Nguyễn Văn Xuân là chính phủ bù nhìn, rơi vào bẫy của Pháp
Ngoài Nguyễn Văn Xuân, phía Việt Nam còn có các ông Nghiêm Xuân Thiện, Đặng Hữu Chí, Phan Văn Giáo, Nguyễn Khoa Toàn, Đinh Xuân Quảng, Trần Văn Hữu, Lê Văn Hoạch..
Sau dịp ký kết này, Bảo Đại coi như một sứ mạng đã hoàn tất và quyết định rời khỏi Hồng Kông sang Pháp gặp lại gia đình. Ông nhìn nhận Bản Tuyên Bố Chung chưa hoàn hảo, nhưng đã có ghi một cách chính thức chữ Thống Nhất và chữ Độc Lập trong đó.
Máy bay đã bay qua Huế rồi ghé Bangkok. Từ đó chuyển sang hãng máy bay để đi tói Rangoon, Calcultta, New Delhi, Le Caire, Tripoli, Tunis và đến phi trường Bourget.
Trước kết quả dở dang của Bản tuyên bố chung, Bảo Đại đã giao công việc soạn thảo một văn bản mới do các ông Nguyễn Mạnh Đôn, Bửu Lộc, Nguyễn Đắc Khê, Nguyễn Quốc Định tiếp túc công việc giao tiếp với Pháp để đi đến một thỏa thuận bền vững hơn.
Người Pháp lại một lần nữa yêu cầu Bảo Đại trở về Sài Gòn. Bảo Đại đã từ chối và cho hay: Je ne rentrerai pas au Viet Nam les mains vides. (Tôi không trở lại Sài gòn với hai bàn tay không.)
Bollaert lại tìm cách tiếp xúc với Bảo Đại. Bảo Đại từ chối và nhất định không chịu quay trở về sài Gòn. Và Bảo Dại viết về buổi tiếp xúc thất bại của Bollaert như sau:
“Je le regarde partir. C’est un homme abattu qui se retire” (Tôi nhìn ông ta ra về. Đó là một con người hoàn toàn thất bại đã rút lui) (S.M. Bao Daï, ibid., trang 211)
1949 — Tiến tới một giải pháp cho Việt Nam
Hai ngày sau khi từ giã Bảo Đại, Bollaert từ chức vào tháng 10-1948, Léon Pignon lên thay Bollaert trong vai trò Cao Ủy Pháp ở Đông Dương. Bảo Đại về Cannes nghỉ. Người kế nhiệm Bollaert lại lục tục đến Cannes để xin yết kiến Bảo Đại. Kết quả không thay đổi gì. Tiếp theo là nhiều nhân vật Pháp cũng lục tục kéo đến gặp như Bộ trưởng Pháp quốc hải ngoại Coster-Floret, rồi bác sĩ Henri Queuille, rồi đại tướng Guillain de Bénouville, ông Terenoire, cánh tay mặt của tướng De Gaulle.
Tuy nhiên, tất cả các cuộc thương thuyết trao đổi đều thất bại, vì thái độ cứng rắn của tướng De Gaulle. Đối với De Gaulle, mảnh đất Nam Kỳ vốn là đất thuộc địa của Pháp từ năm 1864. Đó là điểm mà không thể nào làm lay chuyển quan điểm chính trị của De Gaulle được.
Cái nút tháo gỡ tình trạng bế tắc này tùy thuộc chủ yếu vào tình hình chính trị bên Trung Quốc. Mao Trạch Đông đã chính thức công khai có mặt ở Bắc Kinh ngày 22 tháng giêng năm 1949. Theo Bảo Đại, sau đó, diễn tiến cuộc đàm phán tiến triển rất nhanh như sau:
“Người Pháp lo sợ sự đe dọa trực tiếp của cộng sản Tàu đã tức tốc thành lập một ủy ban hỗn hợp vào ngày 12 tháng ha năm 1949 để nhanh chóng có thể đi đến một thỏa thuận ở vịnh Hạ Long.
Về phía người Pháp, Ủy ban này do Herzog cầm đầu và có các vị như ông Marolles, de Per eyra, de Raymond, Risterrucci, thiếu tá Ploix với 5 chuyên viên gồm: Ông Gonon, phụ trách về vấn đề tài chánh, Anziani, phụ trách vấn đề kinh tế, ông Terre phụ trách về kế hoạch, Dannaud về vấn đế văn hóa và đại tá Bresbisson về vấn đề quân sự.
Về phía Việt Nam có ông Bửu Lộc, luật sư tốt nghiệp ở Paris lãnh đạo phái đoàn Việt Nam, bao gồm luật sư Nguyễn Đắc Khê, bác sĩ Phan Huy Đán và các ông Trương Công Cừu, Nguyễn Quốc Định, Đinh Xuân Quảng và bác sĩ Nguyễn Mạnh Đôn.
Ngày 13, chủ tịch Trần văn Hữu cũng đến Paris đại diện cho chính phủ Nguyễn Văn Xuân.
Và đến ngày 28 tháng 2, các chuyên gia đã soạn thảo xong bản phúc trình. Đến ngay 3-3, tất cả mọi người đều có mặt ở điện Élysée tại văn phòng của tổng thông Vincent Auriol để trao đổi chữ ký.” (S.M. Bao Daï, ibid., trang 217-218)
Đây là một trang sử lớn đã vượt qua. Tổng thống Vincent Auriol cầu chúc mọi người sẽ đoàn kêt lại chung quanh Bảo Đại. Những vị đại diện Việt Nam lúc này bao gồm hoàng thân Vĩnh Cẩn, Bửu Lộc, Trần Văn Hữu và Nguyễn Mạnh Đôn.
Kể từ nay, hiệp ước này sẽ thay thế tất cả các văn kiện đã được ký kết trước đây bởi các vị tiên đế.
Sau đó, có cuộc trao đổi chữ ký của ba văn kiện chính thức.
Với các văn kiện này, nước Pháp nhìn nhận một nước Việt Nam thống nhất và độc lập. Chính quyền Việt Nam là một quốc gia độc lập, có nền ngoại giao riêng trong khuôn khổ Liên Hiệp Pháp, có quân đội riêng, có nền hành chánh, tài chánh riêng, có chủ quyền pháp lý riêng, chỉ trừ các công dân Pháp thì có một tòa án hỗn hợp để xét xử.
“Thủ tục để đạt được Hiệp Định này thật khó khăn vì chính phủ Pháp có một Quốc Hội địa phương tại Nam Kỳ gồm cả đại diện Pháp và Việt Nam. Kết quả bỏ phiếu lần đầu là 25 phiếu chống sát nhập và 25 phiếu thuận.
Nghe tin xấu này, Bảo Đại đã hủy bỏ chuyến bay không về nước nữa.
Chính phủ Pháp phải cấp tốc gửi Pignon sang Sài Gòn. Đến ngày 23 tháng tư, Quốc Hội địa phương họp để bầu lại. Kết quả lần này có 45 phiếu thuận cho sát nhập Nam Kỳ về cho Việt Nam và chỉ có 5 phiếu chống. Với thành quả đó coi như chính phủ Pháp đã trao trả độc lập cho Việt Nam và đất nước từ nay được thống nhất. Sau đó Bảo Đại quyết định đáp máy bay về nước sau 3 năm xa cách. Ông về ở Đà Lạt thay vì Sài gòn.” (Nguyễn Văn Lục, Kỷ niệm 59 năm ngày ký Hiệp Định Élysées ký kết giữa pháp và Bảo Đại. Tạp Chí Tân Văn, số 11, 2008, trang 10)
Bảo Đại và Tổng thống Vincent Auriol của Pháp ký Hiệp định Elysee. Như một phần của thỏa thuận của Pháp cam kết giúp đỡ trong việc xây dựng một đội quân quốc gia chống cộng sản (9 tháng 3, 1949, Điện Élysées, Paris
Sau bao nhiêu thử thách và thương lượng mới đạt được kết quả mong đợi. Bảo Đại quyết định rời Pháp về Việt Nam trên chiếc máy bay DC4 mà chính phủ Pháp dành sẵn cho ông.
Dưới mắt Bảo Đại thì đây là văn kiện mở đường cho một giai đoạn thu hồi độc lập cũng như một nền hòa bình vĩnh viễn cho Việt Nam. Thể thức này nó cũng tương tự như tình trạng các nước láng giềng ở Đông Nam Á như Phi Luật Tân, Miến Điện và Ấn Độ..
Nếu so sánh với các văn kiện do Hồ Chí Minh đã ký kết với người Pháp vào năm 1946 như tại Hội Nghị Đà Lạt ngày 12-5-1946 và Hội Nghị Fontainebleau. Hội nghị Fontainebleau tự giải tán vào 12-9-12946, Hồ Chí Minh phải đến nhà Bộ trưởng Moutet vào buổi tối vội vã ký một tạm ước, đăc biệt không đả động gì đến chính phủ Nam Kỳ tự trị thì hiển nhiên có sự tiến bộ rõ rệt mà chính quyền Việt Minh cho đến thời điểm này đã đổ bao xương máu cũng chưa đạt được.
Tôi đặt ra vấn đề ở đây, xét về mặt chính trị, ai còn cho rằng chỉ có cộng sản mới có công dành được độc lập, thống nhất đất nước bằng chiến tranh thì nên nhìn lại giải pháp Bảo Đại. Một giải pháp mặc dù có tính giai đoạn của bước đầu, nhưng nó hứa hẹn một giải pháp toàn diện mà điều quan trọng hơn cả là không tốn hao sinh mạng người dân.
Thật vậy, chủ nghĩa cộng sản trên toàn thế giới đã tiêu phí trên 100 triệu dân từ một thế kỷ nay nhằm tiêu diệt các “thế lực phản động” như tư bản, phong kiến, thực dân. Riêng Mao Trạch Đông trách nhiệm về cái chết của 70 triệu người dân Trung Hoa như lời nhận định của Jung Chang và Jon Halliday trong “Mao: The Unknow Story”, xuất bản năm 2005 như sau:
“Mao Tse-tung, who for decades held absolute power over the lives of one-quarter of the world’s population, was responsible for well over 70 million deaths in peacetime, more than any other twentieth century leader.” (Trích trong báo Los Angeles Times, April 13, 2008)
Tham vọng bá quyền của cộng sản Việt Nam đã không lý gì đến thành tựu của Hiệp Định Élysée và tiếp tục hy sinh hàng trăm ngàn người dân vô tội để đạt được một thỏa thuận chia đôi đất nước với Hiệp Định Genève.
Giữa Hiệp định Genève và Hiệp định Élysées, ngày nay ta có thể đánh giá và chọn lựa một giải pháp nào tốt đẹp nhất cho Việt Nam.
Đứng trên lập trường dân tộc, ai đem lại độc lập thống nhất thì đều có công với đất nước. Vậy thì việc cộng sản từ chối giải pháp Bảo Đại và tiếp tục cuộc chiến tranh nhân danh ý thức hệ cộng sản là có tội với lịch sử, với đất nước.
Cho đến lúc này, công cuộc giải thực quả thực không cần đến một cuộc chiến nồi da xáo thịt đẫm máu như nó đã xảy ra. Xu hướng mang tính thời đại cho thấy đa phần các quốc gia bị đô hộ đã dành lại độc lập mà không cần đến một cuộc chiến tranh như đã xảy ra cho Việt Nam.
Hôm nay, tôi muốn nhắc lại ba ngày lịch sử mà phần lớn người Việt đã quên hoặc không biết tới. Một lần nữa, xin giới thiệu những tài liệu liên quan đến biến cố chính trị này để mọi người hiểu rằng đã có lúc lịch sử dân tộc thống nhất và độc lập trong tầm tay mà chúng ta đã để vuột khỏi. Lịch sử không có những chữ nếu, nhưng lịch sử Việt Nam thì đầy những chữ nếu như thế. Nếu người Pháp có thiện chí trong những cuộc thương lượng từ 1945-1946. Nếu chủ trương chống lại chủ nghĩa thực dân của TT Roosevelt vẫn được thực hiện. Nếu De Gaulle đã kinh nghiệm nỗi nhục bị Đức Phát Xít dày xéo quê hương ông và ông sẵn sàng buông tha các thuộc địa như Việt Nam. Nếu Hồ Chí Minh không theo cộng sản Tầu cũng như Nga Xô. Nếu Bảo Đại có lòng và xả thân với đất nước.
“Về phía Việt Minh cộng sản, ngày 26 tháng tư, Bộ đội Việt Minh phải vận dụng mọi phương tiện để tấn công các tầu bè, bắn các máy bay. Mỗi tỉnh thành đều phải rút thăm, một tỉnh 4 người, ai may mắn trúng thăm họp thành một ủy ban tình nguyện gọi là “uỷ ban ám sát” đột nhập vào Sài Gòn để ám sát Bảo Đại..Ngay tại Sài gòn thì cấm chợ, cấm buôn bán, đóng cửa ở trong nhà, cấm mua bán, cấm ra ngoài, cấm mua báo chí.” (Daniel Grandclément, ibid., trang 308-309)
Tất cả những biện pháp tuyên truyền của Việt Minh đều vô hiệu, ra ngoài mọi dự liệu của họ. Ba tên khủng bố định ném lứu đạn vào xe của Bảo Đại thì đã bị bắt trước đó. Số người dân đi đón Bảo Đại không bao nhiêu lúc đầu, vì sợ bị Việt Minh trả thù.
Phần Bảo Đại đã gửi một điện tín như sau cho bà Nam Phương: “Excellence tournée à Sài Gòn. Accueil très sympathique.” (Chuyến trở về tốt đẹp. Cuộc đón tiếp rất nồng hậu)
Tôi xin ghi lại đây quang cảnh Sài gòn lúc bấy giờ trong ngày lễ ký kết Hiệp định. Ở giữa, như thường lệ, người ta có đặt một bàn thờ tổ quốc ghi như sau: Chính giữa ghi Thống nhất Việt Nam. Bên trái ghi Kỳ công cựu hoàng Bảo Đại. Bên phải ghi: 13-14-15 tháng sáu dương lịch 1949.
Biểu tình ủng hộ bảo Đại. Nguồn: Goscha, Christopher, La Guerre d’Indochine 1945-1956, UQAM – Université du Québec à Montréal
“Thành phố Sài gòn được sống những ngày hội tưng bừng mừng Độc Lập và Thống Nhất. Ngay từ sáng sớm, phi trường Tân Sơn Nhất náo nhiệt với các xe hơi nối đuôi nhau đưa các nhân vật Pháp Việt, nhân viên chính phủ và báo chí Việt-Pháp ngoại quốc đến phi trường.
Trên đường Sài gòn-Tân Sơn Nhứt, người ta thấy nhiều khải hoàn môn đã được dựng lên với nhiều khẩu hiệu: “Bảo Đại, ngươn thủ V.N”, “Toàn dân Nam Việt chào mừng vị cứu tinh”, “Hoan nghênh tinh thần dân chủ của cựu hoàng”. “Việt Nam độc lập muôn năm.” (Nguyễn văn Lục, ibid., trang 15)
“9 giờ 30, các tóan lính danh dự đã giàn sẵn, và gồm các bộ binh của không quân, Bắc Phi, vệ binh Nam phần, lính nhảy dù và quân cơ giới.
10 giờ 5 phút, Tổng trấn Trần Văn Hữu và ủy viên cộng hòa De Latour dượt qua các toán binh hầu, kế đến lượt các đại tướng Revers và Blaizot.
Các nhân vật Việt và Pháp: nhân viên chánh phủ Trung Ương, Nam Phần Việt Nam, các vị cố vấn liên bang, các đại tướng chỉ huy hải lục không quân Pháp ở Viễn Đông đều có mặt đông đủ, đứng dài theo mé phi trường theo thứ tự. Điều đáng để ý nhất là các lãnh sự ngoại quốc ở Sài gòn cũng có mặt như: Anh, Mỹ, Trung Hoa, Hòa Lan vv.. đều đến đông đủ. Phải chăng là điềm báo hiệu các cường quốc ngoại bang sẵn có cảm tình với tân quốc gia Việt Nam và đã gián tiếp nhìn nhận.
Trong lúc mọi người đang trò chuyện thì thoạt trên không trung hiện ra chiếc phi cơ riêng của cựu hoàng, hiệu Beechcraft, 2 động cơ, sơn cờ Việt Nam. Hai bên có khu trục Spitfire hộ tống. Lúc ấy trước 10 giờ vài phút. Sau khi bay ngang những toán binh đang giàng hầu, phi cơ cựu hoàng từ từ đáp xuống sân bay.
Khi Cựu Hoàng đến trước quốc kỳ Việt Pháp, ban nhạc liền đánh bản Đăng-Đàn-Cung và quốc thiều Việt-Pháp. Trong lúc ấy, đại bác bắn 21 tiếng để chào mừng Cựu Hoàng. Sau khi dượt qua các toán binh danh dự gồm có bộ binh, thủy quân, lính Bắc Phi, cộng hòa vệ binh và lính nhảy dù cùng quân cơ giới. Cựu Hoàng đi ngang qua các lãnh sự ngoại quốc, các chỉ huy quân sự tối cao của quân đội Pháp, nhân viên chánh phủ Việt Nam và phái đoàn các hội nghị N.P. công chức. Xong Ngài đứng trước sân để xem các toán quân danh dự biểu diễn ngang để chào Ngài.
10 giờ 30, Cựu hoàng cùng Thủ tướng Nguyễn Văn Xuân ngồi chiếc xe mui trần về Dinh.” (Nguyễn Văn Lục, ibid., trang16)
Ngày hôm sau là lễ trao đổi văn kiện tại Thị sảnh Sài Gòn. Có khoảng 25.000 người dân đứng trước tòa Thị sảnh để đón tiếp Cựu Hoàng. Người ta nhìn thấy có nhiều khẩu hiệu viết bằng chữ son trên vải trắng như: Triệt để thi hành Hiệp Ước 8-3-49. Dân Mạnh, nước mạnh. Đoàn kết sống, chia rẽ chết. Độc Lập, hòa bình, tự do cơm áo. Hoan nghinh cựu hoàng Bảo Đại.
Cựu Hoàng và và ông Thượng sứ trao đổi văn kiện và đọc diễn văn chào mừng. Trao đổi văn kiện xong, đại diện hai dân tộc Việt-Pháp xiết chặt tay nhau. |Cao ủy cũng bắt tay thủ tướng Xuân, người đã đóng một vai trò quan trọng trong việc thương thuyết.
Cựu Hoàng và Cao Ủy ra bao lơn chứng kiến lễ thượng cờ Việt Nam, súng đại bác bắn chào. Sau đó, Cao Ủy ra xe trở về Dinh. Cựu Hoàng ra trước bao lơn ngỏ lời kêu gọi quốc dân Việt Nam.
Riêng cá nhân Bảo Đại, ông cho rằng ông đã làm xong một nhiệm vụ lịch sử vì đã thương thuyết lấy lại sự thống nhất cho Việt Nam.
Vài dòng kết luận
Nếu nói cho công bằng thì sở dĩ Bảo Đại đạt được thỏa ước đem lại sự thống nhất cho Việt Nam là do tình thế lúng túng của người Pháp lúc bấy giờ trước sự đe dọa có sự can thiệp của Mao Trạch Đông vào Việt Nam. Người Pháp sợ bóng ma cộng sản Tàu hơn là cộng sản Việt Nam. Sự lo sợ ấy thật chính đáng bởi vì kể từ đầu năm 1949, quân đội cộng sản của Võ Nguyên Giáp đã chuyển từ thế du kích, phòng thủ sang trận địa chiến, đối đầu trực diện với quân đội Pháp.
Có một sự kiện quan trọng lịch sử là từ lúc nào, ai là người đề xướng để Bảo Đại trở thành Quốc Trưởng Việt Nam? Thắc mắc này cần được giải đáp theo các tài liệu lịch sử mà chúng ta có được.
Trong các văn kiện chính thức về phía Việt Minh, họ vẫn gọi ông bảo Đại là cố vấn tối cao dù ông đã vắng mặt khỏi Việt Nam sang lưu vong bên Tàu và Hồng Kông.
Chỉ đến lúc Bảo Đại quyết định hồi hương để ký văn kiện với Pháp thì Việt Minh dứt khoát đổi giọng. Tại Nam Kỳ, một chiến dịch bôi nhọ Bảo Đại một cách rầm rộ và còn kết án tử hình Bảo Đại khi ông quyết định về nước. Tòa án quân sự Liên Khu III tuyên án tử hình Bảo Đại về tội bán nước, chiếc đầu Bảo Đại được định giá là 100.000 theo thời giá tháng 8 năm 1949. Một năm sau, do đồng tiền mất giá chăng? Số tiền thưởng nay được tăng lên 300.000 đồng..
Bên cạnh đó, như thói quen thường làm của Việt Minh, có những câu vè được tung ra và sau này Mật thám của Tây còn lưu trữ được cho đến ngày nay như sau:
“Nguyễn đi rồi Nguyễn lại về
Nguyễn về để đóng vai hề tay sai..
Gái đẹp cùng với rượu Tây
Quốc Trưởng mê gái liếm giầy thực dân
Khi nào súng nổ đâu đây
Bù nhìn Bảo Đại tan thây có ngày.”
(CAOM, Lưu trữ bộ Pháp Quốc hải ngoại, SPCE, (Phòng báo chí quân đội viễn chinh), năm 1949. Trích lại trong Daniel, Ibid., trang 330)
Việt Minh viết sẵn các câu vè dán trên các ô tô, khách sạn, các cửa hàng, cá chợ búa và chỉ trong một ngày, hầu như toàn thể dân Sài gòn nhận được những câu thơ đại loại như sau mà người viết bài này mong nó được giữ lại như một chứng liệu lịch sử:
“Hỏi rằng ai đã long trọng thề trước dân chúng: “Ta thà làm công dân một nước độc lập còn hơn làm vua một nước nô lệ.”
– Đó chính là Bảo Đại.
Ai đã nhận nhiệm vụ làm cố vấn tối cao cho chính phủ VNDCCH rồi lại bỏ trốn ra nước ngoài tha hồ ăn chơi trác táng?
– Đó cũng chính là bảo Đại.
Ai là người đã ngửa tay nhận tiền của Mỹ và Pháp để sống ăn chơi, trụy lạc và để trả ơn quan thầy, đã hèn mạt quỳ gối ký hiệp định vịnh Hạ Long và Hiệp định Auriol?
– Cũng chính là Bảo Đại.
Nối nghiệp bán nước của cha ông dòng họ, một tên vua lấy sống trụy lạc trong vũng bùn nay lại ngửa tay nhận tiền của kẻ thù để sằn lòng làm tay sai cho chúng để tàn sát đồng bào, còn tự coi minh là cứu tinh của tổ quốc!
Tên vua đó phải bị toàn dân Việt Nam lên án.
Đả đảo tên vua phản bội Bảo Đại
Đả đảo tên vua bán nước Bảo Đại
Đả đảo tên vua mất gốc.
Đả đảo tên vua rước voi về dầy mả tổ.”
(Trich CAOM, SPCE, 376, année 1949. Trích Daniel Grandclément, ibid., trang 308)
Về tước hiệu Quốc Trưởng
Về phía các tài liệu, các văn kiện chính thức được ký kết giữa Pháp và Việt Nam đều dùng tước hiệu quen thuộc là: Hoàng Đế Bảo Đại. Ngay tại buổi lễ đón tiếp Bảo Đại tại Sài Gòn, vào năm 1949, danh xưng chính thức được dùng vẫn là Hoàng Đế Bảo Đại.
Trong Công điệp của Tổng thống Cộng hòa Pháp quốc gửi Hoàng Đế Việt Nam về vấn đề thống nhất và độc lập nước Việt Nam được ghi như sau:
“Paris, ngày 8 tháng 3 năm 1949.
Tổng Thống Cộng Hòa Pháp Quốc
Chủ tịch Liên Hiệp Pháp,
Kính tâu Hoàng Đế Bảo Đại
Tâu Hoàng Thượng.”
Nhưng chỉ đến khi chính thức thành lập Thành phần chính phủ Việt Nam theo giải pháp Bảo Đại thì thấy đã có một sự thay đổi được ghi như sau:
“Quốc Trưởng kiêm Thủ tướng: Đức Bảo Đại
Phó Thủ tướng kiêm Tổng Trưởng Quốc Phòng: Trung tướng Nguyễn Văn Xuân.”
Xét như trên thì chức danh Quốc Trưởng chỉ thực sự được xử dụng khi thành lập chính phủ. Ngoài chức vụ Quốc Trưởng, Bảo Đại còn kiêm nhiệm thêm chức vụ Thủ tướng nữa.
Điều trình bày trên giúp làm sáng tỏ chức danh Quốc trưởng của Bảo Đại mà nhiều phần do chính ông chọn lựa và tự phong không có ai khác như Quốc Hội vv.
Kể từ ngày thành lập chính phủ Nguyễn văn Xuân, Bảo Đại nắm vai trò chủ yếu vừa là Quốc Trưởng, vừa là Thủ tướng chính phủ.
Tiếc thay, Bảo Đại trên thực tế đã không bao giờ trực tiếp điêu hành chính phủ trong vai trò Thủ tướng. Và như thường lệ, ông đã rút lên ĐàLạt để đi săn bắn, cờ bạc và gái để mặc cho Nguyễn Văn Xuân một mình muốn làm gì thì làm.
Chúng ta sẽ có dịp tim hiểu xem trong vai trò Quốc Trưởng và Thủ tướng chính phủ?
Bảo Đại và Ngô Đình Diệm
Đồng thời nó cũng kết thúc một cách nhẹ nhàng, có lễ hạ cờ tam tài, có tiễn đưa chế độ thực dân về Pháp. Cả hai trường hợp đã diễn ra một cách có lớp lang như thể đã đến lúc nó phải như thế trong tiến trình bài Phong, giải Thực.
Cứ coi như nó kết thúc một trang sử chẳng lấy gì làm vẻ vang của dân Việt. Công cũng có mà tội cũng nhiều. Chỉ xin mượn lời tóm tắt lại tâm tư của một người trong cuộc có lòng là ông Thủ Hiến Nguyễn Hữu Tri tâm sự với ông Đoàn Thêm trong những ngày cuối cùng ở miền Bắc. Ông Tri nói:
“Não ruột lắm. Ông thấy không? Từ 1948 đến nay, chúng ta ngày đêm nhức đầu óc với việc quê hương. Bao nhiêu khó khăn, rồi tổ chức, rồi cải tổ, thúc đẩy, phá đi làm lại, một kẻ làm ba kẻ chơi, năm kẻ gây hại, thiên hạ vẫn trách móc và bôi nhọ, cố gắng rồi cũng như dã tràng xe cát.. Bao nhiêu lần tôi đã trình Ngài, chỉ có Ngài đích thân xông pha mới lôi cuốn được dân, nhưng Ngài cứ làm thinh. Thú thật là tôi cũng không hiểu nổi Ngài, tuy hay được gần gũi. Tôi chẳng lay động được Ngài, mà nay chết đuối lại vớ phải…”
(Đoàn Thêm, “Những ngày chưa quên, ký sự, 1939-1945”, trang 235)
Trong số một kẻ làm, ba kẻ chơi. Một trong ba kẻ chơi đó có Ngài Quốc Trưởng?
Sự phân tích tìm hiểu trong phần kết đoạn này dựa trên những suy nghĩ nhằm gợi ý độc giả. Tự tìm cho mình một kết luận thích đáng nhất là phần của bạn đọc. Ở dây là những sao chép lại một số mảnh vụn lịch sử dựa trên một vài tài liệu mà người viết nghĩ rằng quan trọng trong mối tương quan Bảo Đại-Ngô Đình Diệm.
Mối quan hệ Bảo Đại Ngô Đình Diệm
Nếu tìm hiểu mối tương quan giữa Bảo Đại và Ngô Đình Diệm thì thấy khó có điểm trùng hợp. Họ khác nhau cả về đường lối chính trị, về lý tưởng, về địa vị chính trị, về tính tình và cả hệ số bản thân. Họ khác nhau như nước với lửa.
Có dư luận như Jean Bresson đánh giá Bảo Đại là “Một phần mười của Farouk, hai phần mười của Machiavel và bẩy phần mười của Hamlet.” (Jean Bresson, “La Fabuleuse Histoire de Cannes”, nxb Le Rocher, 1981.)
Nhận xét trên rất là khó nắm. Bởi vì phải biết Farouk là ai, Machiavel là nhà chính trị như thế nào? Muốn biết Hamlet thì phải thuộc lầu văn chương.
Phần tôi cứ lấy cái bề ngoài để xét đoán người.
Trong một xứ còn bán khai, đàn bà còn có người mặc váy, đàn ông ở thôn quê còn có người đóng khố mà vị đứng đầu nước lại quần tây trắng, giầy tây trắng, gậy ba toong cầm tay, đôi khi miệng ngậm điếu xì gà, người phương phi quá khổ như một người Tây trắng. Đôi kính đen trùm mặt như một tài tử ciné. Tôi tự hỏi theo cái cách của cụ Đoàn Thêm: sao lại cứ phải đeo kính đen? Sao lại cứ ở Đà Lạt? Không Đàlạt thì tại Cannes. Mỗi lần Thủ tướng chính phủ muốn thưa trình điều gì lại phải leo núi? Đeo kính đen vì đau mắt? Vì ngại ánh sáng mặt trời hay vì ngại chẳng muốn nhìn ai? Sao lại nhiều bà thế? Nhiều xe thế, đi săn tối ngày thế? Sang Pháp thì cờ bạc như các tay triệu phú Ả Rập?
Và tất cả những khoản ăn chơi, chi phí đủ kiểu ấy chẳng thấy dự trù trong Hiệp định Élysée 8 tháng 3,1949? Ai biết chi phí ấy nằm trong khoản nào của Thỏa Ước, xin chỉ!
Sự khác biệt như vậy nên trong suốt mấy chục năm, mối quan hệ đôi bên đều ở tình thế cực đoan, miễn cưỡng! Như thể số phận đã bắt buộc họ phải liên hệ với nhau nhiều lần một cách chẳng đặng đừng dù là một chọn lựa vì không có chọn lựa nào khác. Nhất là về phía ông Diệm thường thiếu một sự kính trọng cần thiết trong quan hệ bề trên-kẻ dưới.
Phía Bảo Đại, bởi vì không tìm thấy một nhân sự nào trong lúc tình thế đòi hỏi nên bắt buộc ông lại phải gọi đến Ngô Đình Diệm. Trong những năm làm Quốc Trưởng, Bảo Đại đã cử 5 ông thủ tướng cho Quốc gia Việt Nam lần lượt như, Nguyễn Văn Xuân (27 tháng 5 năm 1948 đến 14 tháng 7 năm 1949), Nguyễn Phan Long (21 tháng 1 năm 1950 đến 27 tháng 4 năm 1950), Trần Văn Hữu (tháng 5 năm 1950 đến tháng 6 năm 1952), Nguyễn Văn Tâm (tháng 6 năm 1952 đến tháng 12 năm 1953), và Hoàng thân Bửu Lộc (11 tháng 1 năm 1954 đến ngày 16 tháng 6 năm 1954).
Khai mạc Quốc hội của Việt Nam, diễn đàn chính phủ: Thủ tướng Nguyễn Văn Tâm và Hoàng thân Bửu Lộc. Nguồn: Virtual Vietnam
Ông Bửu Lộc lên làm Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Nội vụ không được bao lâu thì phải đối đầu một viễn tượng Pháp thua cuộc. Ông xem ra không phải là người của tình thế, nếu Pháp thua cuộc. Bảo Đại bắt buộc phải nghĩ đến một giải pháp thay thế ông. Ngoảnh đi ngoảnh lại không ai khác, ông lại cầu cứu đến Ngô Đình Diệm.
Những thiện chí cố gắng của các chính phủ ấy nếu có đi nữa cũng không đáp ứng được hoàn cảnh chính trị, quân sự ngày một dành ưu thế cho phía Việt Minh.
Cần nhắc lại câu chuyện từ đầu một lần nữa để hiểu rõ cội nguồn là kể từ khi Bảo Đại về nước trong cương vị Hoàng Đế, Bảo Đại đã có ý hướng muốn canh tân xứ sở. Nói theo ngôn ngữ của Bảo Đại là những tentatives de réformes. Những toan tính cải tiến này không có ý cải tiến chế độ mà chỉ nhằm cải tiến nhân sự, theo nghĩa thay lớp quan lại cũ bằng những lớp thanh niên trẻ, học thức, nhất là có tây học. Nhưng vì 10 năm ở bên Tây, Bảo Đại không có được những quan hệ quen biết cần thiết để thành lập một chính quyền theo ý muốn.
Trong những quan lại cũ có Nguyễn Hữu Bài đã trung thành phục vụ dưới ba triều vua kế tiếp và rất được lòng Hoàng Thái hậu, vợ của vua Đồng Khánh. Bà là người tháo vát đã chuẩn bị cho sự trở về của nhà vua và chọn sẵn một số người trẻ qua trung gian Nguyễn Hữu Bài. Và người thứ ba trong nhóm này là ông Jean François Eugène Charles, Khâm sứ Trung Kỳ từ 1913 đến 1920. Ba người này đã giúp Bảo Đại chọn được những người trẻ học thức xứng đáng với tài năng và sự hiểu biết của họ.
Nguồn: Chính phủ Đông Dương, Vụ thông tin, quốc vương và danh nhân Đông Dương. Hồ sơ theo thứ tự abc, Hà Nội, IDEO, 1943, p. 17.
Người thứ nhất được chọn là Nguyễn Đệ, một trí thức công giáo như Nguyễn Hữu Bài. Tuy nhiên, dù Nguyễn Đệ là một trí thức tây học đi nữa, việc chọn ông cũng vẫn theo thói thường phải có gốc gác. Mặc dầu là người Bắc, tây học, chuyên môn về kinh tế, nhưng lý do chính là mẹ của Nguyễn Đệ lại là người làm việc dưới trướng của Hoàng Thái Hậu. Việc ông được chọn làm thư ký riêng, thân cận với Hoàng Đế là một tước vị cao quý, không dễ mấy người có được. Nguyễn Hữu Bài cũng ủng hộ việc tiến cử Nguyễn Đệ của Hoàng Thái Hậu.
Phần ông Jean François Eugène Charles, tiếng là người của Tây, nhưng xét cả cuộc đời ông, ông dành để phục vụ chăm sóc, hướng dẫn cho Bảo Đại, gián tiếp phục vụ cho quyền lợi của Triều Đình Huế. Khi đưa Bảo Đại về Việt Nam, ông đã ở lại Việt Nam hơn một năm để giúp nhà vua trong việc triều chính. Chính ông là người đề nghị thay Nguyễn Hữu Bài bằng Phạm Quỳnh, một trí thức tự học, một nhà báo, một học giả có khuynh hướng thân Tây phương. Phạm Quỳnh tỏ ra một công thần tận tụy và trung thành với nhà vua trẻ và được Bảo Đại trao phó công việc giám đốc nội các, chức vụ tương đương hàng Bộ Trưởng.
Cả hai người mới được đề cử này đều không có quan hệ với hệ thống quan lại cũ. Phải chăng đây là cuộc cải tổ mang tính chất thật sự đổi mới?
Người thứ ba được đề cử là Ngô Đình Diệm. Người đề cử ông Diệm hẳn là Nguyễn Hữu Bài. Trước khi rút lui về hưu, ông Nguyễn Hữu Bài đã chọn sẵn một người mà dưới mắt ông là con người đắc dụng. Có thể nói đó là con bài tẩy của ông cựu Thượng Thư với sự nghiệp suốt cả đời tận tụy với triều đình đã kiếm người thừa kế mình! Ông Ngô Đình Diệm vốn chỉ là tuần phủ Phan Thiết, được gọi về làm Thượng thư bộ lại đồng thời kiêm nhiệm chức vụ mà ít người lưu tâm tới: làm Thư ký Ủy Ban ban hỗn hợp Việt-Pháp trong việc cải tổ hành chánh.
Đây là một công tác quan trọng giúp cải thiện bộ mặt Hành chánh nhằm cải thiện chế độ quan lại của Triều đình vốn hữu danh vô thực.
Hãy đọc nhận xét của chính Bảo Đại viết về con người Ngô Đình Diệm như sau đây:
“Xuất thân từ một gia đình quan lại, anh là Tổng Đốc Hội An, Diệm 31 tuổi là mẫu người công giáo có cá tính, nổi tiếng về sự thông minh và sự trung thành trọn vẹn. Đó là một người quốc gia bảo thủ.”
Tiếp theo, Bảo Đại viết:
“Tôi tin tưởng vào cặp Phạm Quỳnh-Ngô Đình Diệm. Nhưng Diệm chỉ chấp nhận chức vụ Thượng thư với điều kiện cải tổ xã hội Việt Nam, tiếng tăm là người có cá tính nên tôi tin tưởng Diệm sẽ làm nên chuyện.”
(S.M. Bao Daï, Le Dragon d’Annam, Plon, 1980, trang 37-39)
Có thể ở vào thời điểm ấy, đã không thể có một vị Thượng Thư nào có đủ can đảm và tầm vóc chỉ nhận nhiệm vụ với điều kiện có thể cải tổ được hành chánh.
Tham vọng của Ngô Đình Diệm thật sự quá lớn vượt tầm tay của một quan chức Việt Nam, dù là một Thượng Thư. Bởi vì người Pháp cố tình không muốn có bất cứ cải tổ nào khác đụng chạm đến quyền lợi và cơ chế của họ. Sự bất bình đẳng về mặt hành chánh đã kéo theo nhiều tệ hại lạm dụng chức quyền để cân bằng về bổng lộc thiếu hụt của các quan lại Việt Nam.
Và vì thế, chỉ sau gần 5 tháng ở chức vụ, từ 8 tháng 4, vào tháng 9-1933, Ngô Đình Diệm không tìm thấy bất cứ một hỗ trợ nào từ phía Bảo Đại cũng như Phạm Quỳnh, ông gặp Bảo Đại và xin từ chức mặc dầu với sự nài kéo của Bảo Đại yêu cầu ông ở lại chức vụ.
Việc từ chức của ông Ngô Đình Diệm đã nâng cao uy tín chính trị và được coi là một người quốc gia chân chính. Nó cũng khẳng định ông như một chính trị gia có lập trường cứng rắn biết từ chối danh vọng, quyền lợi nhưng không có nghĩa là ông không có nhiều tham vọng.
Phần Nguyễn Đệ, khi biết Ngô Đình Diệm từ chức, ông cũng xin từ chức theo. Phải chăng giấc mơ cải cách của Bảo Đại trở thành vô thực với sự ra đi của Ngô Đình Diệm và Nguyễn Đệ? Khoảng trống ấy làm Bảo Đại như bị hụt hẫng. Phạm Quỳnh nay thay thế vai trò của Ngô Đình Diệm hẳn trở thành một thứ tay sai dễ bảo của người Pháp.
Kinh nghiệm của Ngô Đình Diệm với vua Bảo Đại là sau đó còn bị thu hồi mọi phẩm trật để lại một niềm đắng cay khó quên. Không lạ gì sau này ông đi tìm một minh chủ là Cường Để? Cường Để được người Nhật hỗ trợ và trở thành một lá bài sáng giá của triều đình nhà Nguyễn trước thế chiến hai.
Sự tuyệt vọng đối với giải pháp Bảo Đại năm 1950 của Ngô Đình Diệm
Mối quan hệ giữa đôi bên càng trở nên căng thẳng vì Ngô Đình Diệm đôi lần đã công khai bày tỏ sự bất mãn với những quyết định của Bảo Đại. Những năm 1950-1951 là những năm biến động nhất đối với cuộc chiến Đông Dương lần thứ nhất. Việt Minh càng tỏ ra hung hãn trong các cuộc tấn công trực diện với người Pháp mà đằng sau họ là sự hỗ trợ không điều kiện của cộng sản Tàu.
Sau những cố gắng khởi sắc của De Lattre như trong các chiến dịch Vĩnh Yên, 1951, Mao Khê-Đông Triều, 1951, Ninh Bình, 1951, Nghĩa Lộ, 1951 đã đánh trả và phá vỡ được các cuộc tấn công của Việt Minh và chiếm lại vị thế chủ động trong các trận đánh ở Sơn Tây, Phủ Lạng Thương, Hà Nam, Ninh Bình, Bình Lu, Phong Thổ, Lục Nam, Đông Triều, Gia Lộc, Hải Dương, Phủ Lý, Nam Định, Vĩnh Ninh, Trà Lý, Thái Bình và nhất là Hòa Bình.
Chỉ trong vòng vỏn vẹn một năm trời, danh tướng De Latre đã làm nên chuyện lớn cho Pháp. Sự ra đi đột ngột vì bệnh của vị tướng lừng danh làm cục diện cuộc chiến xoay chiều, đem lại nhiều bất lợi cho quân đội Pháp. Salan rồi Henri Navarre cũng không làm nên chuyện. Lần lượt 6 vị tướng thay thế nhau để rồi kết thúc một cách nhục nhã ở Điện Biên Phủ.
Phần người Pháp vẫn tỏ ra không biết điều, thiếu thực tâm, không muốn trao trả thực sự nền độc lập cho Việt Nam, vẫn một mực bám víu vào một giải pháp Bảo Đại vốn thực chất chỉ có giá trị trên giấy tờ.
Vì thế, những thành phần công giáo bảo thủ vẫn kiên định giữ lập trường chống người Pháp lẫn cả Việt Minh cộng sản. Giới công giáo có thể đồng thuận với nhau về việc chống cộng sản Hồ Chí Minh, nhưng lại có nhiều chia rẽ và bất đồng trong việc ủng hộ giải pháp Bảo Đại.
Ngô Đình Diệm là một trong số những lãnh đạo công giáo không chấp nhận giải pháp Bảo Đại. Nhưng vào năm 1950, có một số cường quốc nhìn nhận chính quyền do Bảo Đại câm đầu và nhất là sự nhìn nhận bán công khai của Tòa Thánh Vatican đối với chinh quyền Bảo Đại.
Bảo Đại đã đi tìm sự hỗ trợ của Vatican bằng cách gửi Nguyễn Đệ sang Vatican, Nguyễn Đệ được Giáo Hoàng tiếp kiến và chụp hình kỷ niệm. Và bức hình với vị Giáo Hoàng được gián tiếp coi như được sự công nhận của Vatican. Tuy nhiên, điều đó không nhất thiết đưa đến sự nhìn nhận của đa số thành phần giáo dân Thiên Chúa giáo Việt Nam. Sau chuyến đi chuẩn bị của Nguyễn Đệ, chính bản thân Bảo Đại và gia đình cũng được triều kiến Giáo Hoàng vào ngày 4-9-1950.
Nhưng lập trường của Vatican chỉ thực sự thuận lợi cho Việt Nam khi có chuyến viếng thăm Rome của Đại tướng De Lattre cùng gia đình. Uy tín của De Lattre đủ để Vatican nhượng bước. Vẫn theo De Lattre thời giờ đã không cho phép người công giáo Việt Nam ở thế chờ đợi nữa (position d’expectative).
Có thể vì thế, trong thành phần chính phủ Bảo Đại ngày 18 tháng 1 năm 1950, đã không có một lãnh đạo công giáo nào tham gia trong chính phủ của Thủ tướng Nguyễn Phan Long. Vì thế chính phủ này chỉ tồn tại không quá 6 tháng để một lần nữa thay thế bằng chính phủ Trần Văn Hữu vào ngày 6 tháng 5, 1950.
Việc thành lập các chính phủ thời Quốc Trưởng Bảo Đại đều có thói quen cố hữu là cân bằng người địa phương cho mỗi vùng.
(Theo Đoàn Thêm trong sách Những ngày chưa quên: Chính phủ Bảo Đại gồm 16 vị thì có 9 Nam, 6 Bắc, 1 Trung. Chính phủ Nguyễn Phan Long có 8 Nam, 3 Bắc, 1 Trung. Chính phủ Trần Văn Hữu, lần thứ nhất có 5 Nam, 4 Bắc. Chính phủ Trần Văn Hữu lần thứ hai, 9 Nam, 6 Bắc. Chính phủ Trần văn Hữu lần thứ ba: 9 Nam, 2 Bắc, 1 Trung. Chính phủ Nguyễn Văn Tâm 1: 6 Nam, 6 Bắc, 2 Trung. Chính phủ Nguyễn Văn Tâm 2: 8 Nam, 4 Bắc, 2 Trung. Chính phủ Bửu Lộc: 7 Bắc, 6 Nam, 1 Trung.)
Từng ấy chính phủ trong thời gian khoảng 1948-1954, 6 năm, là dấu hiệu bất thường. Chưa kể phải cải tổ nội các nhiều lần liên tục cho thấy các chính phủ ấy không đáp ứng được tình thế. Và như thường lệ Bảo Đại ở rất xa trung tâm quyền lực. Có lẽ Việt Nam là trường hợp ngoại lệ duy nhất trên thế giới mà người lãnh đạo luôn luôn vắng mặt.
Thủ đô là ở Sài Gòn. Ngoại giao đoàn ở Sài Gòn. Các cơ quan công quyền đều nằm ở Sài Gòn. Dân có việc thì trình tấu ở đâu? Lễ lạc hàng năm ai chủ tọa? Các đại sứ ngoại quốc muốn trình quốc thư chắc phải làm một cuộc du ngoạn leo núi?
Đây là một sự bất bình thường đến không hiểu được; vậy mà tình trạng ấy được mọi người chấp nhận như thể tự nhiên. Không một ai liên tiếng, không một ai phản đối. Cùng lắm một vài dư luận xì xào to nhỏ!
Phía chính phủ nhiều người Nam toàn những tên tuổi như André, Jacques, những Pierre, những Paul nhiều khi nói tiếng Việt chưa rành hay tiếng Việt pha chế tiếng Pháp, toa, moa loạn xạ. Có thể hy vọng gì vào đám người này mà trong đầu lúc nào cũng toan tính một đất Nam Kỳ tự trị? Khi có biến thì đồng loạt dông, bỏ của chạy lấy người?
Đến khi cần lập nội các thì nhớ tới những người quen biết sẵn trên sân quần vợt, trong sòng bài, một số liên hệ bà con, một số vị có chuyên môn như kỹ sư, bác sĩ, v.v.
Liệu một chính phủ với thành phần chắp vá như thế thì làm được gì?
Và trong nhiều tình huống, nếu làm việc không vấp váp gì thì được lưu nhiệm trong hai ba đợt cải tổ. Như trường hợp luật sư Vương Quang Nhường được lưu nhiệm đến bốn lần cải tổ chính phủ! Đặng Hữu Chí, Hoàng Cung, Nguyễn Thành Giung lưu nhiệm đến ba đợt cải tổ chính phủ.
(Đoàn Thêm, ibid., trang 204)
Ông Đoàn Thêm là người cả đời làm việc hành chánh nên nhìn thấu rõ mọi thiếu xót, kẽ hở. Nước ta không có thứ chính trị gia đảm nhiệm công việc mà chỉ có các công chức làm công việc hành chánh!
Việc nước mà như thể việc trò đùa, không chương trình, không kế hoạch, gặp đâu làm đến đó. Chính Quốc Trưởng khi quyết định cải tổ chính phủ cũng không thể đưa ra đường lối, kế sách rõ rệt. Mỗi lần cải tổ chính phủ là do áp lực của tình thế, áp lực của Tây, áp lực của đảng phái!
Cải tổ là để làm vừa lòng người khác như cải tổ nhân sự chứ không phải để nhằm cải cách, thay đổi chính sách, thay đổi chiến lược.
Sự không có mặt người công giáo là do phía công giáo cấp tiến có khuynh hướng ngả theo Việt Minh và cả phía công giáo bảo thủ quốc gia cực hữu (ultranationalisme). Nói cho đúng, có đến ít ra là ba khối công giáo theo thứ tự sau đây: Bảo thủ quốc gia cực hữu chiếm đa số với Ngô Đình Diệm và nhóm Bùi Chu, Phát Diệm với Lê Hữu Từ với một lập trường cứng rắn không khoan nhượng, không thỏa hiệp với Pháp. Nhóm thứ hai sẵn sàng thỏa hiệp với người Pháp để chống cộng sản và với sự hỗ trợ đông đảo của giới thừa sai Pháp. Nhóm nhỏ khác, phần lớn ở miền Nam chấp nhận đi theo Việt Minh và họ bị cộng sản đồng hóa vào con đường chống Pháp.
Nhưng nhóm quốc gia cực đoan bảo thủ càng ngày càng bị cô lập khi mà Giám Mục Lê Hữu Từ cũng ngả về phía Bảo Đại, nhận tiền từ Bảo Đại. Giám Mục đã gửi Lê Quang Luật đi gặp Ngô Đình Diệm và sau đó Lê Quang Luật đã làm phúc trình việc gặp gỡ Ngô Đình Diệm đã không đem lại kết quả gì:
“Ngô Đình Diệm cho Lê Quang Luật thấy không có chút hy vọng gì cho thấy ông Diêm ra khỏi thái độ chờ thời và nhờ đó có thể thay đổi quan điểm chính trị của ông Diệm.” Cũng theo Lê Quang Luật, Diệm bày tỏ thái độ ghét cay ghét đắng Bảo Đại vì tính khí yếu hèn và bất định của Bảo Đại. Nếu Diệm nắm quyền hành, ông sẽ tiến hành cuộc chiến đấu chống lại cộng sản đến cùng mà trong đó phải được sự hỗ trợ toàn diện của Bảo Đại. Vậy mà sự hỗ trợ này đã không có. Diệm không muốn tham gia chính quyền chỉ vì những xác tín chính trị của ông mà thôi.”
(Tran Thi Lien, “Les Catholiques Vietnamiens pendant la guerre d’Indépendance (1945-1954) entre la reconquête Coloniale et la résistance Communiste, 1996”. Fiche entretien avec Le Quang Luât le 23/3/1950, peu après son retour de Saigon.)
Xác tín chính trị của Ngô Đình Diệm là Viet Nam phải được một quy chế như Ấn Độ trong khối thịnh vượng chung để ông có thể chấp nhận tham gia chính quyền. Vậy mà Diệm không thấy bất cứ dấu hiệu gì của người Pháp cho thấy trong thực tế hoặc trong những cuộc thương lượng với người Pháp. Nhưng Diệm vẫn hy vọng trong tương lai dành được độc lập để chống lại cộng sản với sự trợ giúp của ngoại quốc như của Pháp và nhất là của Mỹ như sau này.
Nhưng sau cuộc gặp mặt với Ngô Đình Diệm, Lê Quang Luật không dám dứt khoát không ủng hộ Ngô Đình Diệm hay ủng hộ quan điểm của GM Lê Hữu Từ. Luật giữ thái độ nước đôi. Phần Ngô Đinh Diệm đã dứt khoát gạt bỏ Lê Quang Luật và chọn Trần Trung Dung, đại diện Ngô Đình Diệm ở phía Bắc.
Riêng GM Lê Hữu Từ sau 1954, lúc di cư vào Nam Ngô Đinh Diệm cũng đã giữ một khoảng cách xa với vị GM này. Tất cả những toan tính chính trị theo tinh thần tự trị như lúc còn ở Phát Diệm của vị GM kể như bị vô hiệu hóa. Vị giám mục nhiệt thành, đạo đức, chống cộng hàng đầu, nổi tiếng một thời đã không có chân đứng trong 9 năm cầm quyền của ông Diệm.
Theo thiển ý, ông Diệm có thể dùng những người cựu kháng chiến trong những chức vụ chủ chốt như trường hợp Trần Chánh Thành, Phạm Ngọc Thảo và nhiều người khác. Những người dù từng là đồng chí với ông mà theo Pháp đều bị loại trừ. Đó là trường hợp Lê Quang Luật, Trần văn Lý ở miền Trung và nhiều người khác. Sự loại trừ có hệ thống ấy nhiều người chê trách ông Diệm là không có thủy chung với bạn bè, đồng chí cũ.
Mặc đầu không có sự có mặt của giám mục nàyLê Hữu Từ bên cạnh chính phủ Diệm, không vì thế sự ủng hộ của khối người công giáo di cư bị sút kém đi .
Phần ông Diệm có phần bị hụt hẫng, bị cô lập vì lập trường cứng rắn của ông và mất chân đứng như sự nhận xét của một số lãnh đạo công giáo, đặc biệt Lm. Hàm đã đặt câu hỏi: Liệu ông Ngô Đình Diệm có còn giữ được mức độ khả tín đối với đa số giới công giáo hay không? Lm Hàm sau này vì có một số hành động thông đồng quá lộ liễu với người Pháp nên cũng bị chính GM. Lê Hữu Từ loại bỏ, buộc phải đi ra ngoại quốc, sang Anh, rồi định cư ở Canada trước 1954 và không bao giờ có cơ hội về lại Việt Nam từ năm 1954-1975.
Cuối cùng ông Ngô Đình Diệm chỉ còn có một số nhân vật ở Bắc Kỳ như Trần Trung Dung, Nguyễn Xuân Chữ ủng hộ ông.
(Ông Trần Trung Dung là một trí thức trẻ, nhà báo của tờ Thời Báo. Ông đại diện cho Ngô Đình Diệm tại Bắc Kỳ và là một thành phần Quốc Gia cực đoan. Ông từng tuyên bố, ông và các đồng đội của ông làm bất cứ điều gì mà ông Ngô Đình Diệm ra lệnh. Bởi vì ông tin tưởng hoàn toàn vào lòng ái quốc và khả năng của ông Diệm. Sau này, đã có lúc ông làm Bộ Trưởng Bộ Quốc|Phòng thời ông Diệm.)
Nhiều người cũng đã thất vọng trong đó có một số người Mỹ khi thấy Ngô Đình Diệm đã từ chối không tham gia chính phủ kế nhiệm Nguyễn Phan Long mà sau đó Bảo Đại đã chọn thay thế bằng Trần Văn Hữu, một con bài của Nam Kỳ thân Pháp.
Bảo Đại và Trần Van Hữu thăm chiến hạm Mỹ ở Sài Gòn, 3/1950. Nguồn: tạp chí LIFE
Trong một phúc trình của Mỹ có ghi lại như sau về việc ông Diệm không có trong danh sách thủ tướng.
“Người lãnh đạo của khối công giáo là Ngô Đình Diệm đã có một uy thế chính trị lớn và trải rộng cộng với uy tín nổi tiếng là người liêm khiết đã tỏ ra cố chấp trong những đòi hỏi của ông ta và trong các cuộc thương thảo với Bảo Đại và chính phủ Hữu.”
(Tran Thi Lien, ibid., Trang 368 — The Minister at Saigon (Heath) to the Secretary of State (Acheson) Saigon, April 3, 1951, p.413.)
Chính vì thế, sau thất bại cộng tác với Bảo Đại, ông Diệm không còn con đường nào khác, đã chọn con đường lưu vong như một giải pháp tối ưu để có thể tìm được sự hỗ trợ của Quốc tế.
Tình trạng Quốc Gia Việt Nam vào những năm 1950
Sự ra đi của ông Ngô Đình Diệm sau khi Bảo Đại ký Hiệp Định Élysée ngày 8 tháng 3,1949 mà Ngô Đình Diệm coi như một sự đầu hàng của Bảo Đại trước người Pháp. Ông Diệm đã công khai lên án và coi như cắt đứt mối liên lạc với Bảo Đại.
Phần Bảo Đại tự coi như sứ mạng dành lại độc lập cho đất nước đã xong. Hay ít ra ông cho rằng đây là bước khởi đầu cho tiến trình dành độc lập. Tuy nhiên, khi nghe tin De Lattre De Tassigny chết ngày 11-1-1952, Bảo Đại đã mất hết mọi hy vọng cho một nền hòa bình cho Việt Nam. Ông viết trong Hồi ký:
“Sau cái chết của Đại tướng , tôi có cám tưởng hòa bình chỉ còn là một hy vọng hão huyền.”
(S.M. Bao Daï, ibid., trang 293)
Tình trạng Quốc gia Việt Nam từ trong Nam ra Bắc trong giai đoạn này ít có sách vở đề cập chi tiết một cách đầy đủ.
Tuy nhiên, nếu chỉ căn cứ khi nhìn vào cảnh hồi cư từ năm 1947, khi Pháp đã mở rộng được các khu vực bình định. Người ta thấy có khởi sắc và hy vọng. Đời sống sinh hoạt của người dân có phần nhộn nhịp hơn cả thời 1945. Điều này có thể cắt nghĩa được vì các thành phố và thị trấn đã được bình định như ở Trung Châu Bắc Việt và Trung bộ đã tạm yên. Trong Nam thì tương đối ổn định hơn vì Việt Minh vốn yếu, thiếu hậu cần tiếp liệu.
Lực lượng chính quy của Việt Minh đã bắt buộc rút vào chiến khu để bảo toàn lực lượng khiến đời sống dân chúng có thể tạm an tâm lo buôn bán làm ăn. Có thể nói, nơi nào được bình định nơi đó sung túc theo nghĩa chiến tranh nuôi dưỡng chiến tranh. Các cơ sở kinh danh, các xí nghiệp của người Pháp, người Tàu và người Ấn Độ lại được dịp xây dựng và phát triển.
Các cửa hàng đủ loại đầy ắp hàng hóa sản xuất trong nước cũng như nhập cảng cung cấp cho nhu cầu của người dân. Các tiệm ăn, rạp hát đầy ắp người ra vào, ăn uống.
Nhưng tôi nghĩ đó chỉ là bề mặt của sự phồn thịnh. Nó chỉ giúp tạo ra cảm giác an bình nhất thời cho người dân. Nó cũng cho thấy chọn lựa giữa Việt Minh và Quốc gia quả đã rõ ràng. Không ai còn ngu dại gì đi theo Việt Minh.
Cái khó nhất của chính quyền quốc gia là thiếu ổn định về mặt hành chánh và chính trị. Việt Nam có ba kỳ thì mỗi kỳ có hội đồng địa phương, chính phủ địa phương do một tổng trấn cai quản. Sự phân biệt ra ba kỳ rất rõ rệt tượng trưng bằng lá cờ vàng có ba vạch đỏ.
Chính phủ Trung ương do Bảo Đại chọn lựa đều nằm ở Nam Kỳ. Làm thế nào chính phủ Trung ương có thể điều hành các địa phương do có nhiều cơ quan chòng chéo lên nhau?
Vì thế, điều mâu thuẫn trái khoáy, phi lý là các vị Tổng trấn quyền hành bao quát cả một Phần vượt lên trên quyền hành của các Tổng trưởng? Điều này có khác gi thời kỳ Pháp thuộc, các vị Thống sứ, Khâm sứ mạnh hơn quan Toàn Quyền ở Trung ương?
Các vị Thủ tướng như Nguyễn văn Xuân, Trần văn Hữu, v.v. hầu như chỉ thực sự quản lý hành chánh ở phía Nam. Đã thế còn bị nghi kỵ là thân Tây, từng có vợ Pháp và được Pháp ưu đãi trọng vọng. Nhiều người vẫn có cảm tưởng đất Nam Kỳ là vùng đất tự trị của Pháp.
Cho nên việc chọn lựa các vị thủ tướng có khuynh hướng thân Tây là một sự yếu kém thấy rõ của Bảo Đại.
Các chức vụ chọn người đều dựa trên chuyên môn của từng bộ một cách không hợp lý. Y tế thì phải là một bác sĩ. Bộ Tư Pháp thì phải là một luật sư, Kinh tế thì phải một giáo sư, giáo dục cũng là một giáo sư.
Không lạ gì sau này thời ông Ngô Đình Diệm, người ta trình đưa lên ông Ngô Đình Nhu một vài trăm các chính khách tên tuổi, nghề nghiệp cùng địa chỉ với các chức danh như thương gia, luật sư, nghiệp chủ, y sĩ và thân hào. Ông Ngô Đình Nhu muốn biết rõ về năng lực và phẩm cách của của nhiều người để khi cần thì yêu cầu giữ những chức vụ quan trọng hoặc tham gia chính phủ. Nhưng những vị trên thật sự không đáp ứng nổi vai trò chính trị cho mỗi bộ ngành.
Sau khi xem danh sách và bình nghị như trên, ông cố vấn chỉ cười, “Chúng ta chỉ có những con người mà lịch sử cho chúng ta.” (Nous n’avons que des hommes que nous donne l’histoire). (Đoàn Thêm, ibid., trang 211)
Lập trường và viễn kiến chính trị của Ngô Đình Diệm khi ở ngoại quốc
Việc đi ra nước ngoài của Ngô Đình Diệm là một ngã rẽ chính trị cũng như một quyết định quan trọng trong cuộc đời làm chính trị của ông. Ở trong nước, ông bị kẹt giữa giữa hai thế lực: Việt Minh cộng sản mà đằng sau là cộng sản Tàu và Nga. Phía bên kia là thực dân Pháp với những người Quốc gia và công giáo đã ngả theo Pháp, hay nói đúng hơn giải ngả theo pháp Bảo Đại.
Có thể vì thế, gọi lập trường của ông Diệm là lập trường thứ ba: Không theo Pháp cũng như chống Việt Minh. Chọn lựa này có thể tiêu biểu bằng con số 60.000 nguời chạy về ẩn náu tại vùng Phát Diệm nam 1946.
Lập trường của ông Diệm đẫ được cựu hoàng Bảo Đại ghi lại trong Hồi Ký của ông như sau:
“Diệm là người phản đối mạnh mẽ nhất. Đối với Diệm, những nhượng bộ của Pháp rõ ràng không đủ khi hạn chế chủ quyền của Quốc Gia bằng cách sát nhập vào Liên Hiệp Pháp. Đối với ông ta, đó là những đề nghị sai lệch. Trần Văn Lý cũng chia sẻ quan điểm của Ngô Đình Diệm. Cả hai đã bị ảnh hưởng bởi các diễn biến của các phong trào giải thực đang diễn ra đồng thời tại Ấn Độ và Miến Điện và họ đã đưa ra một chương trình nhờ đó cho phép Việt Nam có quy chế tự trị Dominion. (Quy chế tự trị trong Liên Hiệp Anh). Đối với họ, đó là giải pháp duy nhất có thể chấp nhận được với những người Quốc Gia Việt Nam”
(S.M. Bao Daï, ibid., trang 198-200)
Với Diệm, “chúng ta chỉ có một thái độ: Chờ Đợi”
(S.M. Bao Daï, ibid., trang 198)
Vì thế, khi sang Nhật cùng với người anh của ông, qua lời tuyên bố rõ rệt của TGM Ngô Đình Thục ở Osaka đã gói ghém trọn vẹn, nói thay cho quan điểm chính trị của Ngô Đình Diệm:
“Nhân dân Việt Nam không muốn Bảo Đại cũng như Hồ Chí Minh, nhưng nhân dân Việt Nam mong muốn có một nền độc lập trọn vẹn do người Pháp trao lại. Sẽ không cần một Hồ Chí Minh và hòa bình sẽ được ngự trị trên đất nước Việt Nam nếu người Pháp thuận trao trả độc lập cho Việt Nam.”
(Political views of Ngo Đinh Thục, Catholic Bishop of Vinh Long le 18/6/1950 trong Foreign relations of the US, 1950, Vol VI (Gullion) to the Secretary of State, Saigon, june 23, 1950. Trich lại trong Trần Thị Liên, ibid., trang 364)
Đây có thể là lần đầu tiên, anh em ông Ngô Đình Diệm bày tỏ công khai chống Bảo Đại.
Phần Ngô Đình Diệm, ông cũng đã nhắc lại giải pháp mà người Mỹ đã dành cho Phi Luật Tân. Ngày 21/9/1950, trong cuộc tiếp xúc với William S.B. Lacy, ông Diệm yêu cầu người Mỹ viện trợ trực tiếp cho Việt Nam qua lời tuyên bố như sau:
“Diệm bày tỏ công khai lập trường của ông và đã gây ấn tượng trong chính giới Mỹ khi ông yêu cầu người Mỹ cung cấp vũ khí cho quân đội của công giáo, Diệm có ý ám chỉ dân quân công giáo ở trong vùng Phát Diệm. Ông cũng cho biết còn có một lực lượng công giáo nữa ở Huế-Tourane từ năm 1947, (Lực lượng công giáo của Trần Văn Lý) nhưng lực lượng này đã bị phân tán vì không được sự yểm trợ tài chánh của người Pháp vì chính những thành quả tốt đẹp của họ.”
Diệm cũng không quên nhắc nhở lại người Mỹ đến những thành quả tốt đẹp mà họ đã làm ở Phi Luật Tân và Nam Dương. Diệm nói thêm:
“Người Pháp phải trao trả hoàn toàn quyền kiểm soát xứ Nam Kỳ cho Việt Nam. Bởi vì người Pháp không có khả năng phân biệt những người Việt Nam theo cộng sản và người Việt Nam không cộng sản, điều mà người Việt Nam có thể chính họ có thể phân biệt một cách dễ dàng, đặc biệt là ở Nam Kỳ. Ông Diệm còn cho biết chính ông cũng có trong tay một danh sách những người cộng sản nguy hiểm và quan trọng nhất ở đó. Diệm nói tiếp, một khi người Việt Nam có thể kiểm soát được Nam Kỳ thành công, những người Pháp sẽ phải rút ra khỏi xứ Nam Kỳ và ở lại Bắc Việt, ở đó, quân đội Pháp trở thành một chốt then chốt chống lại sự xâm lấn của Tàu cộng. Diệm tiếp tục nói: sau khi miền Nam đã được bình định, vấn đề Bắc Việt sẽ được xem xét lại.”
(Tran Thi Liên, ibid., trang 365)
Trong đoạn văn trên cho thấy, Ngô Đình Diệm không muốn gạt bỏ 100% vai trò người Pháp trong cuộc chiến. Điều quan trọng hơn cả, ông đã nhìn thấy trước những nỗi hiểm nguy trước sự đe dọa của Tàu cộng, điều mà Bảo Đại hầu như chưa quan tâm đến cho đủ.
GM. Ngô Đình Thục hoàn toàn ủng hộ quan điểm của Ngô Đình Diệm và nói thêm rằng nước Mỹ có bổn phận theo dõi và làm áp lực trên nước Pháp để họ tuân thủ những điều đã được thỏa thuận ở điện Elyssée, ngày 8-3.
Khi đến Mỹ vào năm 1951, ông Ngô Đình Diệm lại có dịp một lần nữa tái xác nhận những quan điểm chính trị của ông. Nhưng nay với một thái độ từ tốn hơn. Trong dịp trao đổi với Ngoại trưởng Mỹ D. Acheson vào ngày 15-1-1951, ông Diệm tỏ ra mềm dẻo hơn khi phát biểu:
“Lần này, Diệm phát biểu với một thái độ ôn hòa hơn lần trước. Hình như ông cảm thức được mối đe dọa nặng nề của Tàu cộng và cảm thấy có thể chấp nhận được quan điểm tự chủ dành cho các quốc gia trong khối liên hiệp ở Pau. Trong các cuộc trao đởi không còn có những quan điểm bài Pháp một cách lộ liễu như trong các cuộc trao đổi trước đây.”
Phúc trình của Acheson có nhắc tới việc Diệm có gửi một thư cho Bảo Đại qua trung gian Thủ Hiến Nam Phần Nguyễn Trung Vĩnh trong đó có nội dung như sau:
“Đối diện khủng hoảng mà đất nước đang gặp phải hôm nay, ông Diệm sẵn sàng nhận lãnh trách nhiệm chức vụ Thủ tướng và thành lập một một chính quyền mới với điều kiện Bảo Đại dành cho chính phủ Trung Ương nhiều quyền hành rộng rãi hơn và tránh tình trạng dễ dãi với các chính quyền của các phần đưa đến tình trạng lấn quyền tại các nơi ấy.”
(The Secretary of State (Acheson) to the legation at Saigon, Ocober 25-1950, p.909-910. Trích lại trong Tran Thi Liên, ibid., trang 366)
Diệm đã đề nghị với Bảo Đại như thế và tiếp tục ở lại Mỹ chờ đợi sự hồi đáp của Bảo Đại.
Đại diện chính phủ Mỹ ở Viêt Nam đã rất chú ý đến những đề nghị của Ngô Đình Diệm qua người đại diện là ông Gullion. Tuy nhiên, đại diện tỏ ra bi quan về sự có thể tìm ra một giải pháp có thể thỏa thuận được giữa Bảo Đại và Ngô Đình Diệm. Chuyện hầu như không thể xảy ra. Bản Phúc trình nhận xét:
“Sự quyết tâm của Ngô Đình Diệm sẵn sàng tham gia là một dấu hiệu tích cực và khích lệ trong tiến trình từ thái độ chờ thời và có tính cách bè phái. Chúng tôi đồng ý với quan điểm của ông ta và thấy rằng chính quyền Trung ương phái được củng cố thêm. Giám Mục Chi có cho biết Bảo Đại Đại đã tiếp nhận được lá thư của Ngô Đình Diệm. GM Chi nhận thấy Bảo Đại như chưa muốn trả lời Ngô Đình Diệm. Dù thế nào thì thành phần trong chính phủ hiện thời cũng sẽ có sự tham dự của một vài người công giáo. Và người ta cũng nhận thức được là có sự ác cảm cực lớn của Bảo Đại đối với Ngô Đình Diệm- căn cứ trên những sự giao tiếp từ xa xưa giữa hai người. Thái độ khinh bỉ dai dẳng của Diệm đối với cựu hoàng đã thêm vào chuyện cựu hoàng đã từ chối không mời Ngô Đình Diệm mỗi lần lập chính phủ.”
(The Secretary of Stae, ibid., trang 366)
Phần quan điểm của người Mỹ thì họ chấp nhận một chính quyền đoàn kết quốc gia trong đó với nhiều thành phần công giáo là điều đáng khích lệ. Tuy nhiên, người công giáo là thiểu số chỉ chiếm 10% dân số. Nếu để người đứng đầu chính phủ là một người công giáo thì điều đó tỏ ra thất lợi vì nó làm thay đổi toàn bộ hình ảnh về một chính quyền quân sự và chính trị. Người ta nghĩ đến việc thành lập một chính phủ với Bảo Long đứng đầu mà đằng sau có Hoàng hậu Nam Phương công giáo và Hoàng thân Cường Để.
Nhưng chỉ riêng đối với viên đại sứ mới, ông D. Heath có một ý hướng rõ rệt cổ võ cho lá bài Ngô Đình Diệm trong vai trò Thủ tướng. Bởi vị thành phần chính phủ Trần Văn Hữu ngày 18-2-1951 đã làm người Mỹ thất vọng không ít. Mình Trần Văn Hữu đã đảm trách 4,5 chức vụ chủ chốt. Đó là thông lệ xấu. Chẳng hạn chính phủ Nguyễn Phan Long kiêm ngoại giao với nội vụ, Trần Văn Hữu kiêm Quốc Phòng với ngoại giao rồi cả nội vụ và tài chánh. (Đoàn Thêm, ibid., trang 202)
Chính phủ Trần Văn Hữu dựa hơi người Pháp với 14 trên 16 bộ trưởng gốc Nam mà không có sự tham gia của Đại Việt, VNQDD, công giáo hay giáo phái cũng như thành phần người quốc gia độc lập. Trong từng ấy khuôn mặt, không có khuôn mặt chính trị nào có tầm cỡ.
Và vị đại sứ Hoa Kỳ khẳng định rằng:
“Thực tế cho thấy, Hồ Chí Minh là người Việt Nam duy nhất có tư thế của một lãnh tụ có tầm vóc quốc gia. Và sau Hồ Chí Minh là Ngô Đình Diệm, nhà lãnh đạo công giáo hiện đang có mặt ở Hoa Kỳ. Trong các công cuộc trao đổi ở Paris, ông Pignon, thủ tướng Pháp đi đến kết luận chỉ có một giải pháp duy nhất cho Bảo Đại là giao phó việc thành lập chính phủ cho Diệm. Ông Pignon còn nói thêm rằng hoàng thân Bửu Lộc, người đại diện cho Bảo Đại ở Paris, đã có những nhận định chính trị sáng suốt đáng nể cũng đã ngầm đồng ý với ý kiến của Pignon.”
(The Minister at Saigon ( Heath) to the Secretary State ( Acheson), Saigon, February 24, 1951, p.384. Tran Thi Lien, Ibid, trang 168)
Bảo Đại và Bảy Viễn
Riêng Bảo Đại, từ năm 1949-1950 có cơ hội cấu kết với tên trùm băng đảng Bảy Viễn, từng vượt ngục Côn Đảo nhiều lần và còn nợ chính quyền Nam Kỳ (Cochinchine) tám năm tù phải trả ngoài Côn Đảo. Vậy mà bảo Đại kết bạn đi săn, đi ăn uống, nhất là chia sẻ trai gái lẫn tiền bạc nên sẵn sàng nói người Pháp phong cho Bảy Viễn lên chức tướng.
Bảy Viễn nay oai phong, lẫm liệt, có mặt trong các cuộc duyệt binh chính thức với tư cách một viên tướng, có mặt trong các cuộc tiệc tùng, cai quản luôn các quân đội Cao Đài, Hòa Hảo.
Làm thế nào y đủ uy tín để điều khiển quân đội quốc gia mà tiền thân của y mọi người đều biết là một tên cướp? Dưới trướng của y có 3000 quân đội hộ vệ. Để có tiền chi phí, Bảo Đại đã giúp Bảy Viễn giành lại sòng bài Đại Thế Giới từ tay các tài phiệt người tàu từ Ma Cao sang làm ăn.
Đây là một sòng bài nổi tiếng toàn Châu Á đạt kỷ lục về số doanh thu kể từ năm 1946. Trong sòng bài có 50 căn nhà, được rào che chắn cẩn thận, mỗi nhà có 4, 5 sòng bài. Người ta chen chúc nhau vào chơi bài, sát phạt nhau mà thực tế người thua nhiều hơn người được. Bên cạnh đó còn có ba nhà hát, và hai rạp chiếu bóng, vũ trường với sàn nhảy rộng đến 300 mét vuông. Rồi còn những khu ăn chơi kín đáo hơn với các cô vũ nữ đủ loại, với các buồng ngủ như các lô cốt với cửa kính mờ.
Hàng tháng, Bảy Viễn nộp cho chính quyền 500.000 đồng bạc Đông Dương. Phần của Bảo Đại là 250.000 (tương đương 24 triệu franc theo giá hối đoái năm 1950) (Trích dịch tóm lược Pierre Darcourt, “Bay Vien, Le Maitre de Cho Lớn”, Hachette)
Ngoài Bảy Viễn còn có ba người thân cận bên cạnh Bảo Đại như những cố vấn là Hoàng thân Bửu Lộc, luật sư, Nguyễn Đệ, một triệu phú, con của cựu khâm sai, phó vương Bắc Kỳ và Phan Văn Giáo.
Phan Văn Giáo, gốc công giáo. Ông thiết lập một đội Bảo Vệ Đoàn do người Pháp trang bị súng ống. Do cái công trạng ít ỏi đó, ông yêu cầu Bảo Đại chức vụ Tham Mưu Trưởng quân đội Việt Nam. Và ông hy vọng với đám Vệ Binh Đoàn, ông sẽ chiến thắng Việt Minh tại các vùng Vinh và Thanh Hóa. Vậy mà đã được Bảo Đại phong Trung tướng để điều khiển 4 tỉnh miền Nam Trung Việt: Bình, Phú, Nam, Ngãi. Kết quả ra sao thì đã rõ. Và dưới thời chính phủ Trần Văn Hữu, ông được đề cử là Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng! Người Pháp coi ông là một nhân vật then chốt trong guồng máy của Bảo Đại.“Người gần gũi” của Quốc Trưởng.
Đây là việc bổ nhiệm và phong tướng thật khác thường của Quốc Trưởng. Người Pháp không tin tưởng vào tư cách và tài cán của Phan văn Giáo. De Lattre không chấp nhận Phan văn Giáo trong vai trò Bộ trưởng Quốc Phòng trong nội các Trần văn Hữu và đề cử ông Nguyễn Hữu Trí.)
Vài dòng về nhân vật Nguyễn Đệ. Ông là người thân Pháp và được người Pháp kính nể. Có thể nhiều phần sau này do sự đề cử của Pignon mà Bảo Đại dùng Nguyễn Đệ.
Bảo Đại đã nhận xét về Nguyễn Đệ như sau:
“Từ hơn nửa thế kỷ nay, gia đình ông ta đã phục vụ một cách trung thành đầy nhiệt huyết các hoàng đế của triều Nguyễn. Ông đã chứng tỏ cho tôi thấy rằng một sự cộng tác đắc lực mà sự trung thành là điều không thể nào phủ nhận được. Ở mọi nơi, ông theo tôi như hình với bóng, thi hành những công việc rất là tế nhị và theo tôi rất là cực nhọc với một sự khôn ngoan khéo léo, tế nhị với một lòng trung thành qua mọi thử thách và với một nhân cách mà người ta có thể nhìn thấy trên khuôn mặt của ông như mooijt vị thánh tử đạo đang vác Thánh Giá”
(S.M. Bao Daï, ibid., trang 258-259)
Thú thực tôi chưa từng được nghe một lời tán tụng nào của Bảo Đại đối với người cộng tác của ông như thế. Tôi cũng hiểu rất rõ những công tác bội bạc và tế nhị ấy là gì và Nguyễn Đệ đã thi hành một cách kín đáo và đầy lòng trung thành mà ngoài Bảo Đại ra, có thể bà Nam Phương biết được? Cũng như những người tình nhân nổi tiếng hay không nổi tiếng của Bảo Đại mới biết được?
Ngoài Bảo Đại, người Pháp cũng vinh danh ông với tước hiệu: “Commandeur de la légion d’honneur” do chính tay TT Pháp Vincent Auriol trao tặng. De Lattre De Tassigny trao tặng “Croix de Guerre”. (Tran Thi Lien, ibid., Interview avec Nguyen De, Saint Mandé, le 14-11-1989, trang 374)
Phần khác các chức sắc công giáo như Gm Lê Hữu Từ, Phạm Ngọc Chi đều khuyến khích ông tham gia chính phủ để giúp Bảo Đại. Việc dùng Nguyễn Đệ của Bảo Đại hẳn là không sai. Với tư cách là người công giáo, đã hai lần ông sang triều kiến Vatican và gặp các chức sắc ở đây nhằm mục đích chứng minh rằng chính quyền Bảo Đại là chính quyền duy nhất có thể ngăn chặn được cộng sản. Ông đã có dịp gặp các chức sắc như Hồng y Tardini, Constantini và Fumasoni cũng như Montini.
Ông đã được Giáo Hoàng Pius XII tiếp kiến ngày 28-3-1950 trong vòng một tiếng đồng hồ. Tuy nhiên, tại Giáo triều có linh mục Huy vốn theo quan điểm bảo thủ và cứng rắn của Ngô Đình Diệm cũng như của gm Lê Hữu Từ hẳn đã là ráo cản công việc của Nguyễn Đệ không ít. Giáo Hoang tỏ ra thận trọng trước những điều tường trình của Nguyễn Đệ. Cùng lắm, Giáo Hoàng bày tỏ một thiện cảm trong cái tình cha con. Nhưng không nhất thiết là Vatican có quyết định thiết lập một bang giao chính thức với chính quyền do Bảo Đại câm đầu. Vì thê, sứ mạng của Nguyễn Đệ bên cạnh tòa thánh không đạt được những kết quả như ông mong muốn.
Đằng khác, đường lối của Vatican là giải thực và bản địa hóa các giáo hội của thuộc địa, trao quyền quản trị giáo hội cho các địa phương. Việc bổ nhiệm các giám mục như Lê Hữu Từ, Phạm Ngọc Chi, Trịnh Như Khuê, Hoàng Văn Đoàn nằm trong cái tinh thần đó của Vatican.
Nhưng về mặt quản lý, Nguyễn Đệ được coi như cánh tay mặt của Bảo Đại. Nguyễn Đệ trở thành một thứ mưu sĩ hàng đầu của Bảo Đại.