Nguyễn Phi Khanh- Nhà Nho khoáng dật, sầu muộn và lỡ thời

368696096_m.jpg

Lê Tư

Nguyễn Phi Khanh (1355 – 1428?) quê thôn Chi Ngại (thuộc huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương nay), trú làng Nhị Khê (thuộc huyện Thường Tín, Hà Nội nay). Dưới triều Trần, Phi Khanh tên Ứng Long. Thời trẻ, Ứng Long là lại viên thuộc Tam quán Kiều tài, đồng thời dạy kèm con gái tướng quốc Trần Nguyên Đán tên Trần Thị Thái. Bà Thái sau trở thành vợ Ông.

Ông sinh hoạt tài tử từ thuở thanh niên, vụng về khiến học trò có bầu rồi bỏ trốn, phiền nhạc phụ tương lai phải chấp nhận cuộc tình sôi nổi. Theo sử cũ, vì xuất thân bình dân lấy vợ quý tộc nên dù đậu Tiến sĩ, Ứng Long bị Thượng hoàng Nghệ Tông ghét bỏ, không dùng. Thực tế, Ông bị từ chối bổ nhiệm tương xứng trình độ Tiến sĩ nhưng vẫn làm việc cho triều đình. Các bài “Tự Thiên Trường phủ phiêu quá hải khẩu ngộ phong”, Từ phủ Thiên Trường đi qua cửa biển gặp gió, “Tạ Băng Hồ tướng công tứ mã”, Cảm ơn tướng công Băng Hồ cho ngựa, đều hãnh diện nói đến việc chầu vua. Rõ nhất là bài thơ của Trần Nguyên Đán tựa đề “Ký tặng Nhị Khê Kiểm chính (a) Nguyễn Ứng Long”, Viết tặng quan Kiểm chính người Nhị Khê Nguyễn Ứng Long, gọi Ông là Tử Vi lang, tức thuộc liêu tòa Trung Thư. Xét nghĩa, “Kiểm chính” gần giống “Thanh tra” ngày nay, có nhiệm vụ thông báo, hướng dẫn và nắm tình hình thực hiện mệnh lệnh triều đình. Tuy chức chưa cao, Ứng Long vẫn có dịp trực tiếp gặp vua, tức địa vị không kém cỏi lắm.

(a) Chúng ta biết rõ một công việc của Kiểm chính tòa Trung Thư qua câu văn miêu tả nghi thức hội thề năm 1227 như sau: “…Ai nấy đều thành đội ngũ, nghi trượng theo hầu ra cửa Tây thành, đến đền thờ thần núi Đồng Cổ, họp nhau lại uống máu ăn thề. Quan Trung thư kiểm chính tuyên đọc lời thề rằng: ‘làm tôi tận trung, làm quan trong sạch, ai trái thề này, thần minh giết chết’. Đọc xong, tể tướng sai đóng cửa điểm danh, người vắng mặt phải phạt 5 quan tiền….” (Toàn Thư II, 10)

Nguyên văn: 各具隊仗騶從出城西門至銅皷山神祠會盟歃血中書檢正宣誓書云為

臣盡忠居官清白有渝此盟神明殛之宣訖宰相點閘(音鴨)閉門也百官欠者罰錢五鏹 (Toàn Thư IV, 169)

Các cụ toại trượng sô tụng xuất thành tây môn chí đồng cổ sơn thần từ hội minh sáp huyết trung thư kiểm chính tuyên thệ thư vân vi thần tận trung cư quan thanh bạch hữu du thử minh thần minh cức chi tuyên ngật tể tướng điểm hạp (âm áp) bế môn dã bách quan khiếm giả phạt tiền ngũ cưỡng.

Khoa Tiến sĩ năm Long Khánh thứ II (1374), Ông không dành ngôi vị Bảng nhãn như tương truyền, chỉ đỗ Tiến sĩ bình thường. Theo Toàn Thư, Bảng nhãn khoa này là Lê Hiến Phủ.

Như vậy, do Thượng hoàng không phân nhiệm Ứng Long theo học vị, Tướng quốc đã đưa Ông vào làm việc dưới quyền trực tiếp của mình. Nguyên Đán từng nhiều lần đề bạt con rể vào chức vụ cao hơn nhưng thất bại. Ứng Long trải nhiều thất vọng, phải xin cha vợ để Ông an phận “quan lang bạc đầu”. Bất bình với Nghệ tông về vấn đề này còn dấu vết trong bài thơ Nguyên Đán thù tạc với con rể nhân một dịp tết Trùng cửu.

Do trường hợp quá đặc biệt, Ứng Long trở nên khó thích nghi với hoàn cảnh. Qua sáng tác của chính Ông, ngoài nguyên nhân bệnh tật phải “thôn cư” để điều dưỡng, chúng ta thấy vị Tiến sĩ lạc thời tạm rời hay ngừng chức vụ do từ nhiệm hay bị bãi truất không phải chỉ một lần.

Trong những dịp về quê sinh sống, hay bị buộc phải về quê, Ứng Long chỉ dạy con hoặc tiểu đồng, Ông hoàn toàn chẳng đề cập việc mở trường.

Hoạn lộ của Ứng Long rất trúc trắc. Ông có chuỗi tác phẩm mô tả chuyến công cán đến Trường An (Ninh Bình nay), trong đó thể hiện tâm lý người bị lãnh đạm được gọi ra làm việc. Lần khác, Ứng Long chán nản thị phi muốn bỏ cuộc, cha vợ phải gửi thơ khích lệ. Khoảng thời gian quan Tư đồ lui nghỉ (1385), Ứng Long có một số tác phẩm tả cảnh thung dung nhàn hạ nơi thôn dã. Nhiều khả năng, Ông xin tạm hưu trong thời điểm này.

Mọi việc hanh thông hơn khi ảnh hưởng Hồ Quý Ly tăng tiến trong triều đình. Ứng Long từng dùng thơ tiễn sứ giả sang Đại Minh 3 lần: lần đầu có thể sau thi đỗ ít lâu, lần kế khó xác định thời điểm, lần thứ 3 đặc biệt để lại ghi nhận chính xác trong Minh Thực lục. Quyển sử này chép Thái trung Đại phu Lê Tông Triệt đại diện vua An Nam dâng voi vào ngày 8/6/1395. Hầu như chắc chắn nhân vật họ Lê là đối tượng của bài “Tống Thái trung Đại phu Lê Dung Trai bắc hành”, Tiễn Thái trung Đại phu Lê Dung Trai đi sứ phương Bắc. Có vẻ Ông tham gia tích cực vào việc giao dịch giữa An Nam và Đại Minh trong thời điểm khó khăn nhất. Đỉnh điểm là chính Ông, với chức Thiếu trung Đại phu, xuất hiện tại triều đình Nam Kinh ngày 19/3/1396 dâng sản vật địa phương. Mục đích chuyến đi dường như để báo tin Nghệ tông qua đời vì sau đó 4 ngày, Minh Thực lục chép việc vua Minh từ chối phúng điếu do Nghệ tông từng giết vua hợp pháp là Nhật Lễ. Nhà Minh cấm An Nam triều cống từ ngày 1/6/1393 với lý do Phế đế Trần Hiện bị sát hại vô cớ. Đế Hiện mất từ 1388, có thể vua Minh chỉ quyết định cấm triều cống sau khi thẩm tra đầy đủ thông tin về sự kiện. Từ thời điểm đó, dĩ nhiên sứ thần Đại Việt không còn được đưa đón đúng nghi thức, dù chỉ nghi thức ngoại giao Thiên triều – Chư hầu. Vua Minh duy trì việc bang giao ở mức tối thiểu. Phái bộ Đại Việt có lần phải lẻn qua ngõ Quảng Đông đến Kim Lăng vì Quảng Tây được lệnh từ chối tiếp sứ thần.

Triều cống trong hoàn cảnh vô vọng là lý do giải thích vì sao Ứng Long không làm được tập thơ “hoàng hoa” như nhiều danh nho khác. Đối xử lạnh nhạt từ thượng quốc hằn dấu ấn trên vài thi phẩm mà chúng ta sẽ cố gắng nhận dạng, phân tích trong phần thơ đi sứ.

Sau chuyến đi, Ứng Long chỉ giữ chức quan nhàn cho đến khi thay đổi triều đại.

Năm 1400, họ Hồ tiếm ngôi. Năm 1401, Ứng Long nhận chức Hàn lâm Học sĩ với tên mới Phi Khanh. Ông đầu hàng Trương Phụ năm 1407 khi đương nhiệm Đại Lý Tự khanh, được đưa về Tàu. Thời gian tiếp theo, tông tích Ông mờ ảo, có thuyết cho rằng Ông qua đời bên Trung quốc, có thuyết nói Ông trở về rồi mất ở quê nhà.

Tiểu sử Nguyễn Phi Khanh trước nay được viết đơn giản, phảng phất vẻ bi tráng. Thực ra, chỉ cần đọc kỹ thơ Ông, thơ cha vợ Ông cùng các sách lịch sử phổ biến từ lâu, chúng ta sẽ phát hiện nhiều điều rất khác. Cuộc đời Phi Khanh phức tạp hơn những gì được hình dung bởi thế kỷ XX. Ông kinh qua cuộc sống gần như triền miên trầm cảm, vinh ít nhục nhiều. Phi Khanh được “may mắn” riêng do người Việt Nam hiện đại, cuồng nhiệt khái niệm quốc gia – dân tộc mới mẻ, đã kiến tạo cuộc đời khác cho Ông.

QUAN LANG NGUYỄN ỨNG LONG

Theo Toàn Thư, vào năm Giáp Dần (1374): “[Tổ chức] thi Đình cho các Tiến sĩ. Ban cho Đào Sư Tích đỗ trạng nguyên, Lê Hiến Phủ đỗ bảng nhãn, Trần Đình Thám đỗ thám hoa, bọn La Tu đỗ hoàng giáp cập đệ và đồng cập đệ. Tất cả đều được ban yến và áo xếp, cho quan chức theo thứ bậc khác nhau. Dẫn ba vị đỗ đầu đi chơi phố 3 ngày. Theo lệ cũ: thái học sinh 7 năm thi một lần, chỉ lấy 30 người thôi. Thi trạng nguyên thì không có lệ định sẵn. Nhưng thuộc quan ở tam quán, thái học sinh, thị thần học sinh, tướng phủ học sinh và người có tước phẩm đều được vào thi cả.” (Toàn thư II, 168) (a)

Xét bổ nhiệm tân khoa, Thượng hoàng kết luận trường hợp Ứng Long và người em cọc chèo Hán Anh như sau:

“Bọn chúng có vợ giàu sang, như thế là kẻ dưới mà dám phạm thượng, bỏ không dùng”. (Toàn thư II, 183) (b)

(a) Nguyên văn: 廷試進士賜状元陶師錫榜眼黎献甫探花陳廷琛黄甲及第同及第

羅修等並賜宴袞衣出身有差引三魁遊街三日故事太學生七年一試取三十人而以状元試無定例然三舘属官太學生侍臣學生相府學生及有爵者皆得入試 (Toàn Thư IV, 244-245)

Đình thí tiến sĩ tứ Trạng nguyên Đào Sư Tích Bảng nhãn Lê Hiến Phủ Thám hoa Trần Đình Thám Hoàng giáp cập đệ đồng cập đệ La Tu đẳng tịnh tứ yến cổn y xuất thân hữu sai dẫn tam khôi du nhai tam nhật cố sự Thái học sinh thất niên nhất thí thủ tam thập nhân nhi dĩ Trạng nguyên thí vô định lệ nhiên Tam quán thuộc quan Thái học sinh Thị thần học sinh Tướng phủ học sinh cập hữu tước giả giai đắc nhập thí.

(b) Nguyên văn: 他有富貴之妻以下犯上廢不用 (Toàn Thư IV, 251)
Tha hữu phú quý chi thê dĩ hạ phạm thượng phế bất dụng.

Qua bài “Thu trung bệnh”, Lâm bệnh vào mùa thu, Ứng Long diễn tả thất vọng ê chề trước quyết định của Nghệ tông:

秋中病

蕭蕭風動轉凄清,
天地初秋客子情。
隆慶二年新進士,
翹才三館舊書生。
少年敢負韓中獻,
多病還憐馬長卿。
萬事背人霄漸永,
貯愁攲臥數殘更。

Thu trung bệnh

Tiêu tiêu phong động chuyển thê thanh,
Thiên địa sơ thu khách tử tình.
Long khánh nhị niên tân tiến sĩ,
Kiều tài tam quán cựu thư sinh.
Thiếu niên cảm phụ Hàn Trung Hiến (a),
Đa bệnh hoàn liên Mã Trưởng Khanh (b).
Vạn sự bội nhân tiêu tiệm vĩnh,
Trữ sầu khi ngọa sổ tàn canh.

(a) Hàn Kỳ (960 – 1127), tể tướng nhà Bắc Tống, hay làm việc thiện và khuyến khích mọi người hướng thiện. Ở đây chỉ Trần Nguyên Đán.

(b) Mã Trưởng Khanh (179 TCN – 117 TCN), tức Tư Mã Tương Như, người tài hoa nhờ ngón đàn điêu luyện nên gạ được nàng Trác Văn Quân bỏ nhà đi theo. Về sau, mối tình được bên vợ công nhận và giúp đỡ. Ông bị bệnh tiêu khát, tức tiểu đường.

Lâm bệnh vào mùa thu

Gió bắt đầu vi vu chuyển hơi mát lạnh,
Trời đất chớm thu gợi tình nơi đất khách.
Người Tiến sĩ mới đỗ năm Long Khánh thứ hai,
Vốn là học trò cũ nơi Tam quán Kiều Tài.
Thân trẻ trung đâu dám phụ lòng Hàn Trung Hiến,
Nhiều bệnh thêm thương Mã Trưởng Khanh.
Mọi chuyện đều trái ý, đêm dài thêm mãi,
Mối buồn chất chứa, trằn trọc đếm mấy canh tàn.

Ông tiết lộ thân phận thuộc lại Tam quán lúc thi đỗ. Như vậy, Ứng Long tham gia hệ thống vương quyền từ trước khi dự thi.

Đây là khoa thi Thái Học sinh lần đầu tiên chuyển danh xưng thành Tiến sĩ, do Thượng Hoàng Nghệ Tông tổ chức tại cung Thiên Trường (nay thuộc Nam Định). Triều đình thực hiện khảo thí đồng bộ với hàng loạt công việc qui mô khác như quyên thóc, thi lại viên, tu sửa thuyền chiến, tuyển đinh, đào kênh ở Thanh Nghệ, chọn võ quan…. Tất cả đều hướng về chiến dịch trừng phạt Chiêm Thành.

Bị từ chối bổ dụng, Ứng Long đã phụ lòng mong mỏi của nhạc phụ dù tai vạ xảy ra ngoài cả ý muốn lẫn khả năng vượt qua của Ông. Lúc này, nhà thơ mới 19 tuổi. Hành động của Thượng hoàng vô tình biến Ứng Long thành một người bi quan, thiếu tự tin: cá tính khiến Ông gặp nhiều trở ngại trên đường đời.

Thất vọng dần biến thành uất ức lẫn so bì não nuột:

秋日曉起有感

殘夢疏疏醒曉鍾,
日含秋影射窗櫳。
客懷擁枕欹眠後,
心事焚香兀坐中。
庭外掃愁看落葉,
天邊灑淚數征鴻。
嗚呼世道何如我?
三撫遺編賦大東。

thu nhật hiểu khởi hữu cảm

Tàn mộng sơ sơ tỉnh hiểu chung,
Nhật hàm thu ảnh xạ song lung.
Khách hoài ủng chẩm y miên hậu,
Tâm sự phần hương ngột tọa trung.
Đình ngoại tảo sầu khan lạc diệp,
Thiên biên sái lệ sổ chinh hồng.
Ô hô thế đạo hà như ngã?
Tam phủ di biên phú Đại Đông.

Cảm xúc khi dậy sớm ngày thu

Tiếng chuông sớm rời rạc lay tỉnh mơ tàn,
Mặt trời mùa thu chiếu vào song cửa sổ.
Ôm gối ngủ, khi thức dậy chỉ còn nỗi lòng đất khách dằng dặc,
Thắp nén hương, ngồi lơ mơ với bầu tâm sự.
Muốn quét sầu, xem lá rụng ngoài sân,
Rơi lệ, đếm hồng hộc bay đến cuối trời.
Ô hô! Đường đời như vậy, ta biết làm sao?
Ba lần vuốt sách cũ ngâm thơ Đại Đông!

Ông ngâm Đại Đông làm gì? Thường thi gia dùng điển này than thở đời loạn. Ứng Long uể oải dậy trễ, đốt trầm, ngâm thơ… xem ra cảnh nhàn hạ thái bình. Dạ sầu, lá rụng, chim bay mỏi… vắng hẳn tiếng động chiến tranh. Đại Đông đúng là nói về cuộc chiến giữa nước Chu với các vương quốc phương Đông, tuy nhiên, có lẽ đoạn thơ sau đây mới là quan tâm chính, nó chia sẻ nỗi niềm với kẻ sinh nghịch thời.

東人之子,職勞不來。
西人之子,粲粲衣服。
舟人之子,熊羆是裘。
私人之子,百僚是試。
Đông nhân chi tử, chức lao bất lại.

Tây nhân chi tử, xán xán y phục.

Chu nhân chi tử, hùng bi thị cầu.

Tư nhân chi tử, bách liêu thị thí.

Con nhà phía đông, việc nặng không ai an ủi.
Con nhà phía tây, trang phục rực rỡ.
Con nhà chèo thuyền, mặc áo cừu bằng da gấu lớn gấu nhỏ.
Con nhà gia thần, được dùng làm bách quan.

(Trích Đại Đông, Tiểu Mân chi thập, Tiểu Nhã)

Ông nhập thân vào con nhà phía đông. Nỗi buồn đạo mạo nho gia đến câu 8 chuyển thành tính hờn dỗi của cậu bé chưa hoàn toàn trưởng thành. Nhấn mạnh thiệt thòi bản thân, Ứng Long cung cấp thêm nguyên nhân giả định khác làm cơ sở cho thái độ Thượng hoàng: Ông thuộc trường phái nho học vùng Hải đông quá “Bắc hướng”.

Số phận Hán Anh không khá hơn. Ứng Long tiễn Thái học sinh Hán Anh đi Hồng châu, nghĩa là, vị Tiến sĩ mới chưa có chức vụ gì, phải về quê chờ thời:

送太學生阮漢英歸洪州

燈前昨夜話匆匆,
馬首今朝跨曉風。
望眼但懸天闕北,
歸心寧住水溪東。
槐庭月白憐棲鵲,
蘆岸秋高惜別鴻。
稻雪橙香村釀熟,
塵埃嗟我絆孤蹤。

Tống Thái học sinh Nguyễn Hán Anh

quy Hồng Châu

Đăng tiền tạc dạ thoại thông thông,
Mã thủ kim triêu khoá hiểu phong.
Vọng nhãn đãn huyền thiên khuyết bắc,
Qui tâm ninh trú thuỷ khê đông.
Hoè đình nguyệt bạch lân thê thước,
Lô ngạn thu cao tích biệt hồng.
Đạo tuyết tranh hương thôn nhưỡng thục,
Trần ai ta ngã bạn cô tung.

Tiễn Thái học sinh Nguyễn Hán Anh về Hồng Châu

Đêm qua còn lật đật chuyện trò dưới ánh đèn,
Sáng nay đã lên ngựa vượt gió sớm.
Mắt trông ngóng chỉ canh cánh nhìn lên cửa khuyết phía bắc.
Lòng muốn về thà gửi nơi khe nước miền đông.
Trăng sáng sân hòe, tội nghiệp chim thước còn đậu,
Trời thu cao trên bờ lau, nhớ cánh hồng biệt dạng.
Nếp trắng tinh, chanh thơm ngát, rượu quê vừa tới,
Thương tôi dấu chân cô độc lấm bụi trần.

Câu 3 thể hiện lòng trông ngóng phân bổ nhiệm vụ từ nhà vua. Nguyên Đán có thể đã giữ Ứng Long lại vì đang tìm cơ hội cho chàng. Thân phận Ứng Long dù sao vẫn dễ chịu hơn tình cảnh người em đồng hao. Tuy vậy, Ông khốn khổ chờ đợi mệnh vua đến nỗi thấy về quê vẫn thích hơn. Câu 5 tội nghiệp chính mình, câu 6 nhớ bạn, nhưng Ông thương thân nhiều hơn thương tri kỷ. Không biết nếp, chanh, rượu có làm dịu lòng Hán Anh? Riêng Ứng Long ca ngợi thú quê mùa nhưng thừa nhận vẫn mong danh vọng.

Cuộc chiến gia nhập quan trường tạo cảm giác như xông trận, Ứng Long tự so mình với chim hồng bay trên quan ải khi nằm chờ việc tại nhà vợ như sau:

秋日遣興

客枕槐亭又塞鴻,
如霜吟鬢欲成蓬。
閉門萬里連朝雨,
過眼三秋落葉風。
世態任他紈扇薄,
閑愁勸我酒杯空。
西窗一枕清眠足,
更詠新詩課小童。

Thu nhật khiển hứng

Khách chẩm hoè đình hựu tái hồng,
Như sương ngâm mấn dục thành bồng.
Bế môn vạn lý liên triêu vũ,
Quá nhãn tam thu lạc diệp phong.
Thế thái nhiệm tha hoàn phiến bạc,
Nhàn sầu khuyến ngã tửu bôi không.
Tây song nhất chẩm thanh miên túc,
Cánh vịnh tân thi khoá tiểu đồng.

Ngày thu gợi cảm hứng

Gối khách nơi đình hòe, lại làm thân chim hồng biên ải,
Tóc mai nhà thơ như sương, muốn rối như cỏ bồng,
Ngoài cửa khép, mưa suốt ngày kéo dài vạn dặm,
Gió thu đưa lá rụng bay qua trước mắt.
Thây kệ người với tình đời mỏng như quạt lụa,
Nỗi buồn không tên xui ta luôn cạn chén.
Nằm bên cửa sổ phía tây, vừa trọn giấc ngủ đầy,
Lại ngâm nga thơ mới dạy chú tiểu đồng.

Bài thơ có gần đủ các yếu tố buồn như “vạn lý”, “lạc diệp”, “thu”, “khách”… trong bài “Đăng cao 登高” của Đỗ Phủ. Khác một điều là Ứng Long luôn cạn chén còn cụ Đỗ không dám đụng đến rượu do bệnh tật.

Ba chữ “phế bất dụng” gãy gọn dẫn người đời sau lầm lạc. Nghệ tông bác bỏ chức vụ xứng đáng cho Ứng Long, nhưng Nguyên Đán vẫn đưa vị Tiến sĩ trẻ vào Trung Thư sảnh, cơ quan đầu não do quan Tư Đồ điều khiển. Theo định chế Hoa Hạ, từ đời Tùy, Nội Sử (tức Trung Thư) chịu trách nhiệm trù hoạch chính sách, soạn thảo văn thư cho hoàng đế; đến đời Nguyên thêm chức năng điều phối quan lại, quản lý hành chánh. Nơi Ứng Long làm việc nhiều khả năng cũng bao gồm các chức năng trên. Mỹ danh như Tử Vi, Ao Phượng Hoàng đều hàm chỉ tòa Trung Thư.

Dĩ nhiên, sử dụng Tiến sĩ phải có chuẩn thuận của vua hay Thượng hoàng. Việc bố trí Ứng Long không dễ dàng. Dường như nhiệm vụ đầu tiên Ông thực hiện sau thời gian chờ đợi là công bố chiếu chỉ hoàng đế đến địa phương. Chàng thanh niên nhà quê, lần đầu đi xa chừng 100km cách kinh đô, lần đầu làm công việc của vị quan nhỏ, rất xúc động vì không bị lãng quên. Dẫu sao, Ông chỉ như cánh chim tập bay. Mới đến rìa đồng bằng sông Hồng đã thấy Ông rơi lệ và gắng gỏi nhiều lắm. Bất kỳ nơi nào ngoài Nhị Khê, chàng trai “hùng tâm tráng chí” đều xem là đất khách. Trích dẫn dưới đây gồm ba bài thơ trình bày diễn tiến chuyến đi đến địa điểm nay thuộc Ninh Bình. Theo nội dung, Ông đang góp phần vào cuộc chiến tranh dằng dai với Chiêm Thành bằng cách thừa mệnh vua đi huy động quân lương.

客路

生世那堪賤丈夫,
離襟忍帶淚痕枯。
日沉建嶺冥投館,
雪霽長州曙戒途。
天地未容斯道捨,
江山肯外此身孤。
明時倘效毫分補,
萬里寧辭我僕痡。

khách lộ

Sinh thế na kham tiện trượng phu,
Ly khâm nhẫn đới lệ ngân khô.
Nhật trầm Kiến Lĩnh minh đầu quán,
Tuyết tễ Trường Châu thự giới đồ.
Thiên địa vị dung tư đạo xả,
Giang sơn khẳng ngoại thử thân cô.
Minh thời thảng hiệu hào phân bổ,
Vạn lý ninh từ ngã bộc phu.

Trên đường nơi xứ khách

Ở đời không kham được tiếng trượng phu hèn,
Đành mang ngấn lệ biệt ly khô trên ngực áo.
Mặt trời chìm sau Kiến Lĩnh, ghé vào quán dịch khi chạng vạng.
Tuyết ngừng rơi trên Trường Châu, chuẩn bị lên đường lúc bình minh.
Trời đất chưa đành vất bỏ đạo này,
Núi sông không nỡ phụ thân cô độc.
Ví dầu chỉ đền đáp đời thịnh bằng công việc nhỏ nhặt,
(Cũng) không dám từ chối hành trình muôn dặm với lý do gã nô bộc đã mệt nhoài.

Địa danh Kiến Lĩnh có lẽ do nghe và chép lầm. Hiện nay, vùng Ninh Bình chỉ có núi Cắm gươm, tức “Kiếm Lĩnh 剑嶺” với sự tích liên quan đến Đinh Tiên hoàng thời trẻ. Quả núi nằm cạnh tuyến đường cổ nối liền Trường Yên và Thăng Long.

Khác với nhà Nho thế hệ trước, như Trương Hán Siêu, Phạm Sư Mạnh hay Lê Quát, nghĩ nhiều về công việc triều đình, Nguyễn Ứng Long quan tâm hơn đến cá nhân. Trong bối cảnh toàn xã hội căng sức đối phó Chiêm Thành, thơ văn Ông phản ánh nỗi lo chung rất chừng mực. Nổi bật là cái tôi bị ruồng rẫy đầy mặc cảm. Khi ngậm ngùi cảm thấy trời đất chưa bỏ “đạo” (a), núi sông không phụ “thân cô”, Ông đã tự ví với Khổng tử và nghiễm nhiên xem mình là người thừa kế “tư văn” của vua Chu. Có thể xem Phi Khanh là cái mốc đầu tiên đánh dấu sự chuyển biến của các văn gia từ con người xã hội thời trung cổ thành con người cá nhân thời cận đại. Nói cách khác, biết chữ và sáng tác không còn là đặc quyền của giai tầng thống trị với cảm hứng cá nhân gắn liền với việc quản trị xã hội hay suy tư tôn giáo, cảm hứng cá nhân của người xuất thân tầng lớp thấp gắn liền với thân phận nổi trôi và ý thức tranh đấu để tồn tại.

(a) 天之未丧斯文也 匡人其如予何 (1)

(Trích Chương 9: Tử Hãn, Quyển 5, Luận Ngữ)

Thiên chi vị táng tư văn dã Khuông nhân kỳ như dư hà?

Nếu trời chưa muốn mất “văn” này, người Khuông làm gì được ta?

Công việc “giao liên hoàng gia” khiến Ứng Long cảm thấy ấm ức. Ông khéo léo diễn đạt tình cảnh “dao mổ trâu giết gà” trong tác phẩm sau:

奉詔長安道中作

武林一帶碧迢迢,
王事寧辭跋涉遙。
山館宿晴煙樹合,
郡庭薄暖雪花消。
武夫感泣觀唐詔,
父老扶藜聽漢朝。
自愧微勞何補報,
願揚皇化憺天驕。

phụng chiếu trường an đạo trung tác

Vũ Lâm nhất đới bích thiều thiều,
Vương sự ninh từ bạt thiệp diêu.
Sơn quán túc tình yên thụ hợp,
Quận đình bạc noãn tuyết hoa tiêu.
Vũ phu cảm khấp quan Đường chiếu,
Phụ lão phù lê thính Hán triều,
Tự quí vi lao hà bổ báo,
Nguyện dương hoàng hóa đảm thiên kiêu.

Thơ làm trên đường đi Trường An theo mệnh vua

Một dải đất Vũ Lâm màu biếc dài thăm thẳm,
Vâng mệnh vua, sao dám từ chối trèo đèo lội suối nơi xa xôi.
Quán dịch trên núi, trời trong sáng, khói tụ nơi vòm lá,
Sân quận lỵ, không khí ấm áp, tuyết tan trên cành hoa.
Binh lính khóc mừng khi thấy chiếu nhà Đường,
Phụ lão chống gậy lê lắng nghe lệnh triều Hán
Tự thẹn vì việc mọn, làm sao báo đáp ơn trên!
Nguyện dương cao giáo hoá của hoàng đế để vỗ yên giặc trời.

Qua hai bài thơ, hai lần Ứng Long than rằng công việc đang làm là bé nhỏ. Sự khiêm cung của Phi Khanh ẩn tàng mặc cảm tự cao dễ nhìn thấy. Ông vẫn ngầm mong nhận nhiệm vụ quan trọng hơn để báo đáp được nhiều hơn.

Vũ Lâm (nay thuộc huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình) là địa điểm từng được các vua Trần sử dụng làm căn cứ chống quân Nguyên xâm lăng lần thứ hai. Tại đây có hành cung, bãi tập trận thủy bộ và kho chứa quân nhu. Hoạt động của Ứng Long cho thấy Vũ Lâm vẫn là kho lương của nhà nước vào thời ông. Hiện nay, một khu vực trong cụm di tích vẫn còn mang tên “vườn Kho”.

Ứng Long nhắc đến chiếu nhà Đường, lệnh nhà Hán. Hai điển tích liên quan đến việc vua Đường Đức Tông (780 – 805) trở lại nắm quyền sau loạn Diêu Lệnh Ngôn và vua Quang Vũ (25 – 57) bình định trung nguyên lập nên nhà Đông Hán. Hoàn cảnh gợi ý thời điểm sau biến loạn Nhật Lễ và không cách xa khóa thi Tiến sĩ 1374, có thể khoảng năm 1375 – 1376.

Chuyến đi khiến chàng Nguyễn rơi lệ lúc lên đường biến thành chuyến đi sứ kỳ thú. Cái nhìn bó hẹp sau lũy tre dễ phát kiến sự vĩ đại của lần phiêu bạt đầu đời: thằng mõ cấp vương quốc được đồng hóa thành sứ thần trên bước hoàng hoa. Có lẽ người đại diện triều đình dù cấp thấp vẫn được tiếp đón chu đáo tại địa phương.

宣詔罷別運副阮炎

長安自昔帝王州,
偶賦皇華作勝遊。
俗雜獠夷民太古,
地宜粳稻歲常秋。
山中過我無苛虎,
境上煩君畜木牛。
王事有程軍政急,
胸懷莫向酒杯休。

tuyên chiếu bãi biệt vận phó nguyễn viêm

Trường Yên tự tích đế vương châu,
Ngẫu phú Hoàng hoa (a) tác thắng du.
Tục tạp liêu di dân thái cổ,
Địa nghi canh đạo tuế thường thu.
Sơn trung quá ngã vô hà hổ (b),
Cảnh thượng phiền quân súc mộc ngưu (c).
Vương sự hữu trình quân chính cấp,
Hung hoài mạc hướng tửu bôi hưu.

(a) Hoàng hoa: bài ca Hoàng hoàng giả hoa 皇皇者華, Lộc Minh chi thập, Tiểu Nhã, Kinh Thi diễn tả hành trạng, tâm tình của người đi sứ. “Hoàng hoa” trong văn chương chỉ những gì liên quan đến công việc một sứ thần.

(b) Hà hổ: Khổng tử nói “Hà chính mãnh ư hổ”, chính trị hà khắc tàn bạo hơn cọp dữ. Câu 5 ý nói địa phương có chính trị khoan hòa.

(c) Mộc ngưu: nhắc chuyện Khổng Minh dùng trâu gỗ chuyển lương, ở đây tác giả truyền mệnh vua yêu cầu Trường Yên dự trữ lương thực để cung cấp cho quân viễn chinh.

Tạm biệt Vận phó Nguyễn Viêm sau khi tuyên chiếu.

Từ xưa, Trường Yên vốn là đất của bậc đế vương,
Ngẫu nhiên làm bài thơ Hoàng Hoa để tả cuộc hành trình thú vị.
Phong hóa xen lẫn tục Liêu, tục Di, dân sống như đời thái cổ,
Đất thích hợp cả lúa Tẻ, lúa Nếp, hàng năm thường được mùa.
Trên núi tôi không bắt gặp con “hùm bạo ngược”,
Trong quận xin phiền ông tích sẵn “xe trâu gỗ”.
Việc vua có khuôn phép, quân đội đang cần gấp,
Bụng dạ thôi chớ hướng về chén rượu nữa!

Chuyển vận sứ (Nguyễn Viêm mang chức Phó Chuyển vận sứ) là chức quan trông coi tài vật của cải ở cấp châu, quận. Chuyến du hành qua ba thi phẩm cho thấy Phi Khanh mang chiếu chỉ đến địa phương để truyền lệnh huy động vật lực cho cuộc đối đầu với Chiêm Thành. Chữ “thiên kiêu”, giặc trời, cho thấy bài thơ sáng tác nhân đi công cán phục vụ chiến tranh chống đất nước có văn hóa khác biệt, không phải chống quân Minh. Nhà nho thời đó không gọi giặc Tàu bằng danh từ miệt thị mà người Tàu thường dùng để chỉ quân du mục. Hẳn Ông chỉ là một trong nhiều sứ giả tỏa đi khắp vương quốc làm công việc tương tự. Bài thơ cuối cho thấy lúa thóc Trường châu có dư và vị quan phụ trách vật tư địa phương rất hay uống rượu. Nhà thơ thường say mà phải khuyên can Nguyễn Viêm bớt uống rượu đủ biết quản lý vật tư đời Trần mạt có thu nhập khá hơn lương bổng quan lại bình thường.

Ứng Long nhận thấy sinh hoạt của dân cố đô lẫn lộn tục Liêu Di chứng tỏ Ông và cộng đồng nơi Ông sinh sống thuộc thành phần văn hóa khác. Người Hoa Lư bán sơn địa không thay đổi nhiều theo thời gian nên khác biệt này hẳn do chuyển đổi văn hóa nhanh chóng nơi vùng đồng bằng và ven biển. Toàn Thư chép chuyện Lý Thái tông đánh dẹp Khai Quốc vương Bồ (1028), quản lĩnh phủ Trường Yên, có thuật cảnh người địa phương chào đón quân vua một cách rất bình thường. Trước đó mười tám năm, Lý Công Uẩn sau khi dời đô đã lập ngay hai phủ quan trọng nhất, văn vật nhất, là phủ Thiên Đức và phủ Trường Yên. Một nơi quê vua, từng tập trung thành phần tinh hoa thời bắc thuộc; một nơi cựu đô, từng tập trung các gia tộc quyền quý thời đầu tự chủ. Con mắt Thăng Long đầu thế kỷ XI chưa nhìn dân Trường châu như bọn Liêu Di. Cũng có thể nhãn quan nho sĩ bị lệch lạc bởi ảnh hưởng lý thuyết cao ngạo từ trung nguyên, vì chính vị chủ tể vương quốc Nghệ tông gọi người khiêng kiệu cho mình bằng hai chữ “sơn đồng”, nô bộc người miền núi, chứ không định danh họ là man mọi.

Kiến thức của nho sĩ trung châu có bước cải thiện đáng kể khi làn sóng tị nạn từ đất Tống đổ vào khu vực duyên hải lan đến Thăng Long. Thế hệ môn đồ Tống Nho thành danh trước đó như Nguyễn Trung Ngạn, Phạm Sư Mạnh, Lê Quát….. còn mang chất cứng cỏi, khai phá nhưng đến đời Ứng Long ta thấy đã mềm mại hơn nhiều. Khí hùng tráng Sư Mạnh đã chuyển sang tính hoa mỹ Ứng Long. Tuy nhiên, lòng kiêu hãnh phát sinh từ kiến thức vượt trội không thay đổi. Nho sĩ dễ phát biểu huênh hoang kèm theo ước vọng cao xa. Nhưng đó chỉ thuần túy là chữ, lời và giấc “kê vàng”. Nhà nho thường nghèo túng vì không tham gia trồng trọt hay buôn bán. Nội dung Nho thuật cũng không đủ để giải quyết các vấn đề xã hội ngày càng phát triển phức tạp hơn.

Ứng Long trở lại bình tĩnh khi được vào làm ở Sảnh dưới sự đỡ đầu của nhạc gia. Ông lui tới Thiên Trường thường xuyên, có thể nhiệm vụ của Ông gồm cả việc duy trì thông tin liên tục giữa hai trung tâm chính trị. Giai đoạn Ứng Long làm quan, Nghệ tông vẫn là lãnh đạo cao nhất của vương quốc.

自天長府漂過海口遇風

怒蛟噓霧簸船窗,
四月奔波駃似瀧
岸樹東西旗拂掠,
灘聲上下玉舂撞
煙波萬里舟心寸,
風兩孤蓬綠鬢雙
不是一官天上去,
那堪此日臥滄江。

Tự Thiên Trường phủ

phiêu quá hải khẩu ngộ phong

Nộ giao hư vụ bá thuyền song,
Tứ nguyệt bôn ba khoái tự lang.
Ngạn thụ đông tây kỳ phất lược,
Than thanh thượng hạ ngọc thung chàng.
Yên ba vạn lý đan tâm thốn,
Phong vũ cô bồng lục mấn song.
Bất thị nhất quan thiên thượng khứ,
Na kham thử nhật ngoạ thương giang.

Từ phủ Thiên Trường đi qua cửa biển gặp gió

Thuồng luồng cuồng nộ phả mù, lắc lư cửa thuyền.
Sóng tháng tư đuổi nhau đổ nhanh tựa dòng xiết.
Cây bờ đông bờ tây tung tẩy giống cờ phất,
Tiếng bãi trên bãi dưới gầm gào như giã gạo.
Muôn dặm vượt khói sóng, đỏ rực tấm lòng son,

Thuyền côi xuyên gió mưa, tóc mai còn đen mượt.
Nếu không phải là chức quan đi chầu trời,
(Thì) hôm nay đâu phải nằm trên dòng sông xanh biếc này.

Trải cảnh hiểm nghèo, trong sự bình thản Ứng Long bộc lộ tự hào về chức quan được phép trực tiếp hầu vua hay thượng hoàng. Lòng thương thân thoáng qua cho biết tác giả thuộc dạng hay mủi lòng. Tuy vậy, giúp đỡ từ nhạc phụ đã hiệu quả, đưa Ông khỏi cơn trầm uất ban đầu. Cuộc đời còn dài, nếu Nghệ tông đổi ý cũng chẳng lạ.

Ông nói rõ chỗ làm việc của mình qua bài thơ trao đổi với đồng khóa họ Trương:

薇月芹風今異調,
硯旗殿袞舊同年。
慇懃別後須鞭策,
聖主方今正急賢。(與漳江同年張太學)
Vi nguyệt cần phong kim dị điệu,
Nghiễn kỳ điện cổn cựu đồng niên.
Ân cần biệt hậu tu tiên sách,
Thánh chúa phương kim chính cấp hiền.(Dữ Chương Giang đồng niên Trương thái học)

Tòa Tử vi, nhà Quốc học, nay được bổ nhiệm khác nhau,
Cờ trong nghiên, áo cổn trên điện, xưa cùng khoa thi.
Sau từ biệt, ân cần dặn dò nhau cố gắng,
Thánh chúa hiện rất gấp cầu hiền.

(Gửi bạn cùng khoa thi Thái học sinh họ Trương ở Chương Giang)

Thái học sinh họ Trương làm việc trong Quốc tử giám, Ứng Long phục vụ tại sảnh Trung Thư. Cả hai đều tâm nguyện nỗ lực phục vụ triều đình. Chắc địa vị này chưa phải là ước mơ, nhưng Nguyễn đã bình tâm vượt qua nghịch cảnh.

Vai trò quan trọng khác của Nho sĩ là đảm trách giao dịch giữa An Nam và Trung nguyên. Tùng Chu, người bạn đồng khoa vừa thành danh nhanh chóng được triều đình liên tục cử tháp tùng đoàn sứ sang phương Bắc. Ứng Long đưa bạn bằng bài thơ sau:

送行人杜從周

芹水春風桂殿秋,
科場歷歷憶同遊。
君今又作行人去,
我獨胡為省屬留。
嶺驛雲開豪跨馬,
湖潮雪淨穩登舟。
丈夫送別何須淚,
一笑相看撫蒯緱。

Tống hành nhân Đỗ Tùng Chu

Cần thuỷ xuân phong quế điện thu,
Khoa trường lịch lịch ức đồng du.
Quân kim hựu tác hành nhân khứ,
Ngã độc hồ vi sảnh thuộc lưu.
Lĩnh dịch vân khai hào khoá mã,
Hồ triều tuyết tịnh ổn đăng châu.
Trượng phu tống biệt hà tu lệ,
Nhất tiếu tương khan phủ khoái câu.

Tiễn hành nhân Đỗ Tùng Chu

Gió xuân sông Cần, mùa thu điện quế,
Còn nhớ rành rành thuở cùng kết giao nơi khoa trường.
Nay ông lại lên đường, nhận chức hành nhân,
Mình tôi còn lưu, tạm làm thuộc viên ở sảnh.
Mây tan trên trạm Ngũ Lĩnh, ruổi ngựa hào hùng,
Tuyết rửa sạch sóng Động Đình, lên thuyền vững chãi.
Trượng phu khi tống biệt việc chi phải khóc?
(Chỉ cần) Vỗ chuôi kiếm, nhìn nhau mà cười.

Hành nhân chỉ là nhân viên tòng sự trong phái bộ có chánh, phó sứ hoặc đứng đầu phái bộ không quan trọng. Quan hệ với cấp thấp cùng kỹ niệm thi cử chứng tỏ bài thơ được sáng tác khi Ứng Long rất trẻ.

Sông Cần chỉ Quốc tử giám, điện quế chỉ kỳ thi. Vậy Tùng Chu cùng học, cùng thi với họ Nguyễn. Bạn Ông “hựu tác hành nhân”, lại làm thành viên sứ đoàn, tức từng đi sứ trước đó nay hưởng vinh dự lần nữa. Mừng bạn nhưng loáng thoáng buồn mình. Tùng Chu hơn một lần đi sứ, Ứng Long chưa được lần nào.

Tuy vậy, dù quan nhỏ ở Sảnh không xứng tài năng Tiến sĩ, Ứng Long có vẻ hài lòng địa vị chuyển tiếp này. Ông nêu rõ thân phận không mặc cảm, chỉ nhấn mạnh “hồ vi sảnh thuộc”, tạm thời là thuộc viên ở sảnh. Ông đang mong trách nhiệm vẻ vang hơn. Bài thơ thông báo Tùng Chu đi sứ, chỉ mình tác giả ở lại, chứng tỏ vẫn có Tiến sĩ chưa nhận chức vụ cao ngay sau đăng khoa. Nếu nhà thơ quá tự bi phẫn, thực khó xem là hợp lý.

Mọi việc tạm ổn thì đại họa đến. Mùa xuân năm 1377, quân Đại Việt tan rã trước kinh đô Đồ Bàn, Duệ tông tử trận; mùa thu cùng năm, Chế Bồng Nga thiêu rụi Thăng Long. Quân Chiêm chỉ lưu lại một ngày. Sau khi giặc rút, Ứng Long có bài thơ đánh dấu sự kiện như sau:

昌符元年冬,余自橤溪寓于
城南客舍,感今念昔,因成
八句,奉簡司刑大夫杜公, 兼簡諸同志

客途風雪歲更深,
長向丹霄掛寸心。
亂後交遊非復昔,
城中旅泊到如今!
新愁滾滾憑誰送?
往事悠悠付夢尋。
早晚迴朝將好問,
鬼章何日賀生擒?

xương phù nguyên niên đông, dư tự nhị khê ngụ vu thành nam khách xá, cảm kim niệm tích, nhân thành bát cú, phụng giản tư hình đại phu đỗ công, kiêm giản chư đồng chí

Khách đồ phong tuyết tuế canh thâm,
Trường hướng đan tiêu quải thốn tâm.
Loạn hậu giao du phi phục tích,
Thành trung lữ bạc đáo như câm!
Tân sầu cổn cổn bằng thuỳ tống?
Vãng sự du du phó mộng tầm.
Tảo vãn hồi triều tương hảo vấn,
Quỉ Chương (a) hà nhật hạ sinh cầm?

(a) Quỉ, Chương: theo chú thích của Thơ văn Lý Trần tập III, Quỉ Chương là các tướng giặc chống triều đình nhà Tống. Chúng tôi chưa tìm được thông tin chi tiết hơn.

Mùa đông năm Xương Phù I (1377), tôi từ Nhị Khê đến ngụ tại nhà khách phía nam thành, cảm nay nhớ xưa, nhân làm tám câu thơ gửi Tư hình Đại phu

Đỗ Công và các đồng chí

Gần hết năm, đường xứ khách đầy gió tuyết,
Lòng tưởng nhớ luôn hướng về phía trời hồng.
Sau loạn, bằng hữu chẳng còn như trước,
Trong thành, dừng chân quán khách đến hôm nay!
Ai giải nổi sầu mới đang cuồn cuộn?
Việc cũ dằng dặc đành tìm qua giấc chiêm bao.
Sẽ sớm vào triều hỏi tin lành,
Khi nào được mừng việc bắt sống Quỉ, Chương?

Ứng Long lui về Nhị Khê tránh giặc. Ông phải lưu trú quán khách khi quay lại kinh đô thay vì ở nhà vợ. Điểm này cho thấy người Chiêm không chỉ hủy diệt cung thành mà còn đốt phá dinh phủ các quan. Hậu quả hẳn rất ghê gớm vì đã gần sáu tháng từ khi giặc bỏ đi, kinh đô vẫn chưa hoạt động bình thường.

Đế Hiện tái tổ chức bộ máy triều đình, dĩ nhiên dưới giám sát từ Nghệ tông. Toàn Thư ghi chép khá rõ điều động nhân sự cấm quân, không đề cập bố trí văn chức. Tuy nhiên, chúng ta hiểu rằng nhà vua phải thực hiện việc này. Cuộc đổi thay gây nhiều thất vọng cho Ứng Long, thể hiện trong bài thơ dưới đây:

客舍

淺把鵝兒獨自斟,
羈縻動了鶴猿心。

花邊茅屋春長好,
柳外柴門客易尋。

半榻蕉風和午夢,
一簾梅雨助清吟。
是非不到閒窗椅,
睡起焚香撫素禁。

khách xá

Thiển bả nga nhi độc tự châm,
Ky mi động liễu hạc viên tâm.

Hoa biên mao ốc xuân trường hảo,
Liễu ngoại sài môn khách dị tầm.

Bán tháp tiêu phong hoà ngọ mộng,
Nhất liêm mai vũ trợ thanh ngâm.
Thị phi bất đáo nhàn song kỷ,
Thuỵ khởi phần hương phủ tố cầm.

Nơi nhà khách

Nâng khẽ be rượu hình chim ngỗng rót uống một mình,
Vừa muốn chấm dứt cảnh ràng buộc đã nổi tấm lòng vượn hạc.
Mùa xuân tươi mãi trong gian nhà tranh bên khóm hoa,
Cửa sài mở ngoài cội liễu nên khách dễ tìm.
Gió từ bụi chuối hiu hiu nửa bên giường ru giấc ngủ trưa,
Mưa hoa mơ đầy rèm giúp vần thơ thêm cao khiết.
Nơi chiếc ghế nhàn bên song cửa, thị phi không đến được!
Ngủ dậy, thắp hương, ôm lại chiếc đàn xưa…..

Tác phẩm bộc lộ hai điểm, một rõ ràng, một cần tìm hiểu thêm. Thứ nhất, người Chiêm tàn phá dữ dội, đến nỗi nhà khách dành cho quan viên phải dựng lại tạm thời bằng tranh lá. Thứ hai, Ứng Long bị tiếng thị phi nào đó nên rất buồn phiền, muốn tách khỏi hệ thống để tự do nhàn dật. Sẽ hiểu phần nào việc xảy ra với chàng Nguyễn khi đọc nhắn nhủ dưới đây của Trần Nguyên Đán:

寄贈蕊溪檢正阮應龍

朔風細雨轉淒涼,
客舍蕭蕭客思長。
籬下幽姿好晚節,
溪邊素艷試新粧。
胡兒未款花門塞,
裴老思歸綠野堂。
釣月耕雲何太早,
千鍾萬宇紫微郎。

Ký tặng Nhị Khê Kiểm chính

Nguyễn Ứng Long

Sóc phong tế vũ chuyển thê lương,
Khách xá tiêu tiêu khách tứ trường.
Ly hạ u tư tồn vãn tiết,
Khê biên tố diễm thí tân trang.
Hồ nhi (a) vị khoản Hoa Môn (b) tái,
Bùi lão (c) tư qui Lục Dã (d) đường.
Điếu nguyệt canh vân hà thái tảo?
Thiên chung vạn vũ Tử vi lang.

(a) Hồ nhi: giặc Hồ, ở đây chỉ giặc Chiêm.

(b) Hoa Môn: tên tòa thành phòng thủ rợ Hồ phía Bắc trung nguyên.

(c) Bùi lão: Bùi Độ (765 – 839), danh thần đời Đường, có công dẹp nạn cát cứ vùng Hoài Tây.

(d) Lục Dã: tên dinh thự nơi Bùi Độ nghỉ hưu.

Gửi tặng Kiểm chính Nguyễn Ứng Long người Nhị Khê

Gió bấc mưa phùn mang đến lạnh lẽo buồn rầu,
Quán khách quạnh hiu, người nhiều nghĩ ngợi.
Dưới hàng giậu, phẩm chất sâu kín hết tiết vẫn còn,
Bên dòng suối, nét đẹp tinh khôi thử khoe vẻ mới.
Giặc Hồ chưa đến ải Hoa Môn quy thuận,
Lão Bùi đã nghĩ tới việc quay về Lục Dã.
Câu cá dưới trăng, cày ruộng trong mây sao mà sớm vậy!
Tử Vi lang xứng với nghìn hộc lúa, vạn căn nhà.

Cụ Trần đến tận nhà khách an ủi Ứng Long nhẹ nhàng, tế nhị. Cụ biết rõ bệnh trầm cảm vào mùa lạnh của con rể. Câu 3 nói về hoa cúc, câu 4 dành cho hoa mai, hàm ý hoa mai cần thử thách phong sương mới đạt phẩm chất bền vững như hoa cúc. Bốn câu sau cho biết tình cảnh chàng Nguyễn: không được bố trí chức vụ tốt nên giận dỗi đòi về, bỏ mặc quốc gia đại sự. Bài họa vận dưới đây bởi Ứng Long củng cố thêm giải thích trên:

奉賡冰壼相公寄

贈杜中高韻

城中幾度鬬炎涼,
漫送悠悠歲月長。
散質豈堪便世用,
嬌心羞把妒時粧。
寒松晚菊淵明徑,
獨樹孤村子美堂。
賢相儻憐門下士,
肯容群作白頭郎。

Phụng canh Băng Hồ tướng công ký tặng Đỗ Trung Cao vận

Thành trung kỷ độ đấu viêm lương,
Mạn tống du du tuế nguyệt trường.
Tán chất khởi kham tiên thế dụng,
Kiều tâm tu bả đố thời trang.
Hàn tùng vãn cúc Uyên Minh (a) kính,
Độc thụ cô thôn Tử Mỹ (b) đường.
Hiền tướng thảng lân môn hạ sĩ,
Khẳng dung quần tác bạch đầu lang.

(a) Uyên Minh: Đào Tiềm (365 – 427), lưu danh với dòng thơ nhàn dật.

(b) Tử Mỹ: Đỗ Phủ (712 – 770), một trong những nhà thơ đời Đường nổi tiếng nhất, có ảnh hưởng mạnh mẽ và lâu bền trong thế giới văn học chữ Hán.

Vâng họa thơ Tướng công Băng Hồ gửi tặng Đỗ Trung Cao

Nơi đô thành, mấy bận phải đối diện tình đời ấm lạnh,
Uổng công trải qua năm tháng dài dằng dặc.
Tư chất vốn nhàn, sao đủ nhanh nhẹn chiều chuộng thế gian?
Lòng mềm yếu, không điểm trang bởi ngại lòng đố kỵ.
Tùng lạnh cúc muộn: vườn Uyên Minh,
Cây đơn xóm trọi: nhà Tử Mỹ.
Vị tể tướng hiền nếu thương kẻ sĩ dưới cửa,
Xin cứ để chúng tôi yên phận “quan lang bạc đầu”.

Kèn cựa địa vị trên đống tro tàn của kinh đô có điều gì bất nhẫn. Cụ Trần khéo nhắc con rể cần kiên trì chứng tỏ cho mọi người biết năng lực của mình, và chàng Nguyễn giải thích trong câu 3, 4. Uyên Minh từ chối cúi luồn, trở lui với cúc. Đỗ Phủ nghèo đói, bị triều đình xử tệ. Chàng Nguyễn thấy mình trong cả hai nhân vật.

Câu 7, 8 cho biết quan Tư Đồ đã đề bạt Ứng Long, và người nào đó nữa có thể là Hán Anh, nhưng thất bại.

Nguyễn tỏ vẻ thanh thản hơn khi chúc mừng ba người bạn thành công với chức vụ đáng tự hào:

慶歷昔聞揚四諫,
昌符今喜擢三人。
已將風采儀朝著,
好把精忠動紫宸。(賀宋黎杜三御使)
Khánh Lịch (a) tích văn dương tứ gián,
Xương Phù kim hỷ trạc tam nhân.
Dĩ tương phong thái nghi triều trứ,
Hảo bả tinh trung động tử thần.(Hạ Tống, Lê, Đỗ tam ngự sử)

(a) Khánh Lịch (1041 – 1048), một niên hiệu của vua Tống Nhân tông (1023 – 1063), là giai đoạn vua Tống tiến hành chính sách mới mệnh danh “Khánh Lịch tân chính”. Bốn vị Gián nghị đại phu: Âu Dương Tu, Dư Tĩnh, Vương Tố và Thái Tương.

Xưa nghe đời Khánh Lịch tuyên dương bốn quan gián nghị.
Nay mừng năm Xương Phù đề bạt ba người.
Đã đem phong thái làm mực thước triều nghi,
Hãy thêm lòng trung lay động cung cấm.

(Mừng ba quan ngự sử Tống, Lê, Đỗ)

Như vậy Ứng Long một lần nữa bị bỏ rơi khi vua Xương Phù tái bố trí quan chức sau thảm họa Đồ Bàn gây tiêu hao trầm trọng nguyên khí quốc gia. Họ Trần mở rộng cửa cho giới bình dân nhưng vẫn tôn trọng nguyên tắc nội hôn của gia tộc, đặc biệt đối với thành viên nữ.

Bi kịch không dừng tại đây. Quân Chiêm lại đánh phá Thăng Long vào mùa hạ năm 1378, lần này với sự hợp tác của vị tù binh đặc biệt Ngự Câu vương Trần Húc, con Thượng hoàng. Ứng Long mô tả những ngày chạy giặc như sau:

避寇山中

山房盡日醉昏昏,
世路難危懶出門。
六帙慈親千里隔,
兩年寇亂一身存。
風塵天地空搔髮,
煙瘴林巒只斷魂。
謾有寸懷勞耿耿,
夜依牛斗望中原。

Tị khấu sơn trung

Sơn phòng tận nhật tuý hôn hôn,
Thế lộ nan nguy lãn xuất môn.
Lục dật từ thân thiên lý cách,
Lưỡng niên khấu loạn nhất thân tồn,

Phong trần thiên địa không tao phát,
Yên chướng lâm loan chỉ đoạn hồn.
Mạn hữu thốn hoài lao cảnh cảnh,
Dạ y Ngưu Đẩu vọng trung nguyên. (a)

(a) Phạm Đình Hổ – Nguyễn Án qua truyện Lê Trãi trong Tang thương ngẫu lục cho rằng bài này được Phi Khanh viết khi tránh giặc Minh ở Côn Sơn. Năm 1407, Phi Khanh 52 tuổi, nếu cha mẹ mới 60 e bất hợp lý. Thêm nữa, sử Việt lẫn sử Minh đều chép Phi Khanh cùng vài quan tướng khác chủ động đầu hàng, không trốn tránh đâu cả. (2)

Tránh giặc trên núi

Suốt ngày say túy lúy trong căn nhà trên núi,
Đường đời nguy nan khiến người lười ra khỏi cửa.
Mẹ cha sáu mươi tuổi, cách xa ngàn dặm,
Giặc giã hai năm, một thân vẫn còn.
Vò tóc giữa đất trời gió bụi,
Mất hồn trước lam chướng núi rừng.
Dai dẳng tấc lòng lo âu đau đáu,
Đêm đêm nương sao Ngưu sao Đẩu vọng về trung nguyên.

Ứng Long dùng từ “khấu 寇” để trỏ đám giặc, chứng tỏ giặc từ ngoài vào. “Lưỡng niên khấu loạn 兩年寇亂” chỉ có thể là sự kiện Thăng Long thất thủ vào hai năm 1377, 1378. Hai sao Ngưu Đẩu chỉ hướng Đông Bắc và Bắc, như vậy nhà thơ chạy loạn vào vùng có thể là Hòa Bình hay Ninh Bình hiện nay.

Rồi mọi việc cũng ổn, mọi người đoàn tụ tại kinh thành. Nguyên Đán từng mời con rể dự tiệc Trùng cửu, tiếp tục an ủi chàng nỗi đau công danh lận đận (Xem Thơ văn Lý – Trần III, 161). Trong tiệc ngà say, Nguyễn ca hát váng trời.

Nguyên Đán đối đãi chàng rể bình dân bằng lòng quý trọng tài năng thật sự, ông cho chàng một chú ngựa để có phương tiện đi làm. Ứng Long xúc động cảm tạ bằng thơ:

謝冰壼相公賜馬

早歲才名泛不羈,
驪黃偶幸駿圖披。
長途每恨加鞭策,
空谷何心受縶維。
伯樂廄邊頻賞識,
王良範內更驅馳。
東風快踏朝天路,
希冀深懷答所知。

Tạ Băng Hồ tướng công tứ mã

Tảo tuế tài danh phiếm bất ky,
Ly, hoàng ngẫu hạnh tuấn đồ phi.
Trường đồ mỗi hận gia tiên sách,
Không cốc hà tâm thụ trấp duy.
Bá Nhạc cứu biên tần thưởng thức,
Vương Lương phạm nội cánh khu trì.
Đông phong khoái đạp triều thiên lộ,
Hy ký thâm hoài đáp sở tri.

Cảm tạ Tướng công Băng Hồ cho ngựa

Tuổi trẻ, mang tiếng buông tuồng như ngựa thiếu dàm,
(Chẳng mong) ngựa ô, ngựa vàng, bỗng may được tuấn mã đẹp như tranh.
Trên đường dài, thường giận người thúc giục,
Nơi lũng không, lòng nào chịu buộc ràng!
Bên chuồng ngựa Bá Nhạc, nhiều lần được khen ngợi,
Trong khuôn phép Vương Lương, càng ra sức ruổi giong.
Nhanh đạp gió xuân trên đường đi chầu trời,
Tận đáy lòng mong có ngày đáp đền tri ngộ.

Bài thơ chồng chất những điển tích ẩn chứa tâm sự riêng của Ứng Long và tình cảm trân trọng đối với nhạc phụ. Hai câu 3, 4 tác giả nói về ngựa, cũng là nói về mình. Vị “quan lang” Tiến sĩ buồn bực khi bị cấp trên, chắc trình độ kém thua, gây sức ép trong công việc. Mỉa mai hơn, Ông cố gắng cũng vô ích vì chẳng ai quan tâm đến nổ lực đó. Vợ họ Trần nhưng bản thân bị Nghệ tông ghét, đó chính là bi kịch đời Ông. Câu 4 lấy ý từ bài ca Bạch Câu, Kinh Thi, trong đó có đoạn tương tự cách đối xử nồng ấm của Nguyên Đán đối với chàng Nguyễn:

皎皎白駒,賁然來思。
爾公爾侯,逸豫無期。
慎爾優游,勉爾遁思。
Hiệu hiệu bạch câu, bôn (bí) nhiên lai tư.

Nhữ công nhữ hầu, dật dự vô ky.

Thận nhữ ưu du, miễn nhữ tuần tư.

Ngựa trắng rực rỡ, nếu ghé thăm ta.
Mày sẽ là công hầu, hạnh phúc sẽ vô biên.
Hãy cẩn thận việc rong chơi nhàn nhã, hãy cố chống ý muốn ẩn dật.

(Trích Bạch Câu, Kỳ Phụ chi thập, Kinh Thi)

Chúng ta từng bắt gặp ý này qua bài thơ “Ký tặng Nhị Khê Kiểm chính Nguyễn Ứng Long”, Gửi tặng Kiểm chính Nguyễn Ứng Long người Nhị Khê.

Chú ngựa trắng được đối xử rất tốt:

皎皎白駒,食我場藿。
縶之維之,以永今夕。
所謂伊人,於焉嘉客。
Hiệu hiệu bạch câu, thực ngã tràng hoắc.

Trập chi duy chi, dĩ vĩnh kim tịch.

Sở vị y nhân, ư diên gia khách.

Ngựa trắng rực rỡ, ăn trên đồng lá đậu của ta.
Buộc chân buộc vòng cổ mày, để kéo dài buổi tối nay.
Bảo người kia biết, cứ làm khách quý ở đây.

(Trích Bạch Câu, Kỳ Phụ chi thập, Kinh Thi)

Một đoạn khác nói giúp tâm tình bất mãn dày vò viên quan trẻ đồng thời xiển dương cách nhìn và ứng xử với nhân tài của cha vợ:

皎皎白駒,在彼空谷。
生芻一束,其人如玉。
毋金玉爾音,而有遐心。
Hiệu hiệu bạch câu, tại bỉ không cốc.

Sinh sô nhất thú, kỳ nhân như ngọc.

Mưu kim ngọc nhữ âm, nhi hữu hà tâm.

Ngựa trắng rực rỡ, tại hẻm núi trống không kia.
(Ôm) Một bó cỏ tươi, người ấy lấp lánh như ngọc.
Chớ để âm hao hiếm như vàng như ngọc, chớ mang lòng cách xa.

(Trích Bạch Câu, Kỳ Phụ chi thập, Kinh Thi)

Chú ngựa Ứng Long đang ở trong hẻm núi thiếu cỏ. Không cao lương mỹ vị hà cớ gì tuấn mã phải chịu buộc ràng? Suy nghĩ của chàng Nguyễn thiên về cá nhân như giới trẻ ngày nay; mạnh mẽ hơn, Ông dám nói điều khó nói. Quả là hiện tượng lạ trong xã hội xưa vốn thiên về nghĩa vụ.

Bá Nhạc, theo huyền thoại Hoa Hạ cổ, là thần cai quản ngựa trên trời. Về sau, ai giỏi xem tướng ngựa đều được gọi là Bá Nhạc. Ứng Long mượn chuyện xưa tôn vinh nhạc phụ ở kỹ năng nhìn ra nhân tài và tạo cơ hội để người tài phát triển. Nịnh bố vợ nhưng chàng cũng tỏ ý cao ngạo ngầm.

Vương Lương, người đời Xuân Thu, tài điều khiển ngựa. Ứng Long muốn nói sẽ cố gắng hết mình dưới sự điều khiển của nhạc gia.

Nguyễn thực hiện đúng cam kết của mình. Nhiệm vụ nối liền Thăng Long – Thiên Trường được viên quan nhỏ ở Sảnh thực hiện cần mẫn. Xa nhà thường xuyên khiến chàng trai chín chắn chạnh tình thương nhớ vợ:

天長舟中其二

一篷煙雨泛晴春,
紫閣鶯花夢裡人。
湖海四年多病疾,
扁舟愁殺未歸人。

Thiên Trường chu trung kỳ 2

Nhất bồng yên vũ phiếm tình xuân,
Tử các oanh hoa mộng lý nhân.
Hồ hải tứ niên đa bệnh tật,
Thiên chu sầu sát vị quy nhân.

Trong thuyền ở Thiên Trường kỳ 2

Kẻ dạn dày trên chiếc thuyền phiêu bồng trong xuân tươi,
Chính là người trong mộng của oanh hoa gác tía.
Bốn năm hồ hải nhiều bệnh tật,
Trong thuyền con, khách chưa về buồn chết được!

Ứng Long có xu hướng trầm trọng hóa điều mình chịu đựng, ngoài thủ pháp văn chương, nó phản ánh tâm hồn quá nhạy cảm theo hướng tiêu cực. Hai câu đầu đưa chúng ta ngược về bài hành Lũng Tây nổi tiếng, khi Trần Đào (812 – 885) nhìn thấy đống xương bên sông Vô Định, di cốt lương nhân của nhiều phụ nữ xuân sắc, những người vẫn ngỡ chồng mình sẽ trở về. Ông chỉ nhiều bệnh, gắn kết mình với đống xương trắng làm người đọc kinh hoảng. Dựa vào thông tin “bốn năm hồ hải”, suy đoán bài thơ ra đời khoảng năm 1378.

Ông có nhiều thơ tả tâm trạng khi dưỡng bệnh tại quê nhà, đa số sáng tác vào mùa thu như “Thu dạ tảo khởi ký Hồng châu Kiểm chính”, Đêm thu dậy sớm viết gửi quan Kiểm chính người Hồng châu; “Bệnh trung hoài Hồng châu Kiểm chính Nguyễn Hán Anh ‘Thu dạ’ vận”, Đương bệnh, nhớ vần bài thơ ‘Thu dạ’ của quan Kiểm chính người Hồng châu Nguyễn Hán Anh; “Thôn cư”, Ở quê. Quá trình làm quan của Ông do bệnh hoạn nên nhiều lần gián đoạn.

Có lẽ sau bài thơ “bốn năm hồ hải” trên, Ông phát bệnh nên phải về quê tĩnh dưỡng. Mùa hạ năm 1379, Toàn Thư ghi nhận hạn hán lớn gây nạn đói. Năm 1384, có đợt hạn khác nặng tới mức triều đình phải làm lễ cầu mưa. Tuy nhiên, trong đợt hạn sau Ứng Long chứng kiến cảnh sửa soạn cầu đảo tại triều đình nên ta có thể đoán bài thơ dưới đây được sáng tác nhằm đợt hạn 1379.

村居感事寄呈冰壼相公

稻畦千里赤如燒,
田野咻嗟意不聊?
后土山河方滌滌,
皇天雨露正迢迢。
吏胥網罟渾多竭,
民命膏脂半已消。
好把新詩當奏牘,
只今臥病未能朝。

Thôn cư cảm sự ký trình

Băng Hồ tướng công

Đạo huề thiên lý xích như thiêu,
Điền dã hưu ta ý bất liêu?
Hậu thổ sơn hà phương địch địch,
Hoàng thiên vũ lộ chính thiều thiều!
Lại tư võng cổ hồn đa kiệt,
Dân mệnh cao chi bán dĩ tiêu.
Hảo bả tân thi đương tấu độc,
Chỉ kim ngoạ bệnh vị năng triều.

Ở quê, xúc động trước sự việc viết trình tướng công Băng Hồ

Ruộng nước khô đỏ như cháy kéo dài nghìn dặm,
Đồng quê dậy tiếng than van không biết sống cậy vào đâu?
Núi sông của thần đất đang trơ trụi,
Mưa móc tự trời cao còn xa vời!
Quan lại dùng hình pháp vét kiệt nơi nơi,
Mỡ dầu của dân đã bị ép mất một nửa.
Xin dâng bài thơ mới thay cho tờ tấu,
(Vì người) Hiện đang nằm bệnh chưa thể vào triều.

Tình trạng xã hội rối loạn khởi đầu từ nạn đói kém, mất mùa liên tục trong ba năm 1343, 1344, 1345 chứ không đơn thuần do các vua Trần cai trị tồi. Nhờ những tìm tòi gần đây, chúng ta có thêm phương tiện để quan sát diễn biến thời cuộc giai đoạn này từ góc độ tự nhiên, qua đó suy nghĩ khoan dung hơn với triều đại.

Để tìm hiểu nguyên nhân sụp đổ của đế quốc Angkor từ góc nhìn mới, Brendan M. Buckley cùng cộng sự đã dùng phương pháp phân tích vòng tăng trưởng của thông pơ mu (lấy mẫu ở Lâm Đồng, Việt Nam) và đưa ra thông tin về sự thay đổi thời tiết khác thường trong quãng thời gian từ giữa đến gần cuối thế kỷ XIV và quãng thời gian ngắn hơn vào đầu thế kỷ XV (3). Sự thay đổi gây hạn hán nặng nề xen kẽ mưa nhiều quá mức. Gió mùa rối loạn, thời tiết có xu hướng lạnh giá. Đối chiếu với kết quả trên, có thể tóm lược ghi nhận thiên tai từ giữa đến gần cuối thế kỷ XIV trong Toàn Thư như sau:

– Năm 1343: mất mùa, đói kém, nhiều người dân trở thành trộm cướp, nhất là gia nô các vương hầu.

– Năm 1344: Ngô Bệ, người Trà Hương, họp đảng ở núi Yên Phụ để đi trộm cướp. Năm ấy mất mùa, đói kém, nhiều người đi làm tăng và làm gia nô cho thế gia.

– Năm 1345: mùa hạ, tháng 4 và tháng 5 đại hạn.

– Năm 1346: Chiêm Thành sang cống, lễ vật rất ít.

– Năm 1348: mùa hạ đại hạn, mùa thu nước to.

– Năm 1351: mùa thu, tháng 7, nước to.

– Năm 1352: vỡ đê Bát Khối, ruộng lúa bị ngập, năng nhất tại Hồng châu, Khoái châu và phủ Thuận An.

– Năm 1354: vì đói kém, dân gian khổ bởi trộm cướp. Tên Tề, xưng là cháu ngoại Trần Hưng Đạo, tụ tập gia nô các vương hầu cướp bóc Lạng Giang và Nam Sách. Mùa thu, tháng 9, có sâu lúa,

– Năm 1355: tháng 3 đến tháng 6 đại hạn, tháng 7 lại mưa to, nước lớn.

– Năm 1358: đại hạn và sâu ăn lúa, cá chết nhiều.

– Năm 1359: mưa lớn, nước to trôi cả nhà cửa, thóc lúa bị ngập.

– Năm 1360: nước to. Ngô Bệ bị giết.

– Năm 1362: sao chổi mọc. Đại hạn. Lại mưa to. Tha tù, giảm phân nửa tô thuế. Đói to.

– Năm 1369: mưa to gió lớn.

– Năm 1374: đại hạn.

– Năm 1379: đại hạn, đói to.

– Năm 1382: có nước to.

Dù Toàn Thư không đề cập thiên tai trong năm 1384, ta được biết năm này bị hạn qua bài thơ “Giáp Tí hạ hạn, hữu sắc chư lộ đảo vũ, vị đảo nhi tiên vũ”, Nhân hạn mùa hè năm Giáp Tí, có sắc chỉ cho các lộ cầu mưa, chưa cầu đã mưa, của Nguyễn Ứng Long.

Hạn hán đi kèm nước to sau đó diễn ra nhịp độ cao từ năm 1342 đến năm 1362. Có khoảng mưa thuận gió hòa kéo dài 7 năm sau đó. Chỉ năm 1369 có mưa to gió lớn nhưng thời tiết ổn định trở lại đến giữa năm 1374. Sau đó, thiên tai có xu hướng diễn biến ở nhịp độ thưa dần.

Thay đổi thời tiết không chỉ làm hệ thống thủy lợi khu vực Angkor bị thoái hóa, sản lượng nông nghiệp sụt giảm, dẫn đến sự suy yếu của đế quốc lừng lẫy một thời. Đại hạn xen lẫn lụt lội khác thường cũng phá vỡ nền tảng xã hội Đại Việt thời mạt Trần. Hoạt động của Chiêm Thành như cống lễ vật đạm bạc, thường xuyên cướp phá lân bang cũng phản ánh sự đói kém của xứ này. Thời tiết tương đối ổn định từ năm 1362 đến 1369, là thời gian vua Dụ Tông buông tuồng phóng túng, có thể do việc thu thuế của triều đình có khả quan hơn. Từ năm 1370 đến giữa năm 1374, sau biến loạn Dương Nhật Lễ, thiên tai tạm vắng bóng khiến thịnh thế thời “trung hưng” xuất hiện. Câu thơ “Triệu tính âu ca lạc thịnh thì”, Dân chúng ca hát vui đời thịnh trị, của Trần Nguyên Đán được sáng tác ngay sau khi hoàn tất khoa thi Tiến sĩ, chỉ hai tháng trước thời điểm xuất hiện kỳ đại hạn mới.

Ứng Long dưỡng bệnh, ghi nhận sự kiện và sẽ vào triều. Ông gián đoạn công việc chứ không phải về quê do bị biếm hay xin thôi chức.

Ngoài hạn hán, chiến tranh diễn ra liên miên, trải dài từ biên giới phía nam đến tận kinh thành trong quãng 1379 đến 1384. Năm 1384, nhà Minh lại bắt đầu đánh Vân Nam, yêu cầu Đại Việt cung cấp quân lương. Kinh tế đã lao đao càng thêm bế tắc.

Thời gian Duệ Tông chuẩn bị chiến dịch đánh Chiêm Thành (1377), nguồn lực quốc gia bị vét kiệt. Dĩ nhiên, người chịu đựng là dân thường chứ không phải quý tộc. Mặt khác, cũng như vào thời suy của bất kỳ triều đại nào, hệ thống quan lại hủ bại trở thành môi trường nguy hiểm cho người lương thiện. Sau khi Duệ Tông thất trận, đại quân tan rã, tình hình an ninh các phủ lộ cực nam vô cùng rối loạn. Ngự Câu Vương Húc bị bắt trong trận thua của Duệ Tông ở Đồ Bàn, nay lại theo quân Chiêm Thành cướp phá Nghệ An, tiến thẳng đến kinh sư. Bài thơ dưới đây có lẽ được làm ra ít lâu sau vụ Thăng Long thất thủ lần thứ 2 (1378) khi Ông cùng Hán Anh công vụ tại Thiên Trường.

洪州檢正以余韻作術懷詩
見復用其韻以贈
其一

萬姓嗷嗷待哺裘,
誰家金玉亞高丘?
人情艱險君方轂,
世路風濤我亦舟。
帝里客懷逢暮雨,
書房舊話念英遊。
西風刮夢傳邊信,
腸斷南壖四五州。

Hồng Châu kiểm chính dĩ dư vận tác thuật hoài thi, kiến phục dụng kỳ vận dĩ tặng

Kỳ I

Vạn tính ngao ngao đãi bộ cầu. 
Thuỳ gia kim ngọc á cao khâu! 
Nhân tình gian hiểm, quân phương cốc, 
Thế lộ phong đào, ngã diệc châu. 
Đế lý, khách hoài, phùng mộ vũ, 
Thư phòng, cựu thoại, niệm anh du. 
Tây phong quát mộng truyền biên tín, 
Trường đoạn nam nhuyên tứ ngũ châu.

Quan Kiểm chính Hồng châu dùng vần của tôi làm thơ thuật hoài, nay tôi cũng dùng vần ấy làm thơ tặng lại.

Kỳ 1

Muôn họ xao xác chờ cơm áo, 
Nhà ai vàng ngọc chất như gò cao? 
Anh như trục xe lăn trong tình người gian hiểm, 
Tôi giống con thuyền xuyên qua sóng gió đường đời. 
Làm khách ở quê vua, lòng nhớ nhung lại gặp cơn mưa chiều. 
Chuyện cũ trong thư phòng, gợi hoài niệm thuở rong chơi thời trẻ. 
Gió tây mang tin tức từ biên cương làm tỉnh giấc mộng, 
Buồn đứt ruột về bốn năm châu duyên hải phía nam.

Năm 1378, Đỗ Tử Bình đề nghị các đinh nam mỗi hộ nộp 3 quan để bù ngân sách trống rỗng. Năm 1379, hoàng gia sai quân dân tải tiền đồng đi dấu ở núi Thiên kiện và khám Khả lãng thuộc Lạng Sơn. Nghệ Tông trở thành ông nhà giàu chạy giặc, không xứng tí nào cương vị hoàng đế đứng đầu đạo quân từng chiến thắng người Nguyên. Hành động này xác nhận sự bất lực của quân đội và chắc chắn dấy lên phong trào tẩu tán tài sản của quý tộc, trưởng giả đến nơi ngoài tầm quân Chiêm. Hình ảnh tương phản giữa tài sản tầng lớp thống trị chồng chất trên các chuyến xe với áo cơm khan hiếm của dân chúng đã đông lại mãi trong thơ Ứng Long.

Điểm lại quá trình suy thoái của quân đội Trần, ta thấy nổi bật các mốc thời gian và sự kiện sau:

Năm 1370, mùa thu, Thái tể Nguyên Trác cùng nhiều tôn thất đang đêm xâm nhập cấm cung định giết vua Đại Định. Quân túc vệ rõ ràng thông đồng với nhóm thích khách. Việc thất bại, 18 tôn thất bị Nhật Lễ hành quyết, kèm theo chắc chắn là bộ phận cấm quân không hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ hoàng đế.

Năm 1370, mùa đông, quân còn trung thành do Nhật Lễ sai đi bắt Cung Định vương Trần Phủ ở Đại Lại nhiều người không trở về. Họ gia nhập nhóm binh biến.

Cuối năm 1370, Nghệ hoàng nhập triều. Dĩ nhiên, bộ phận quân ngự lâm quanh Nhật Lễ phải bị giết hoặc giải tán.

Phục hồi nhờ chỉnh đốn của Trần Duệ tông, quân chính quy lại bị tiêu diệt triệt để trước chân thành Đồ Bàn vào mùa xuân năm 1377.

Năm 1377, mùa hạ, Chiêm Thành chiếm Thăng Long. Phần quân tinh nhuệ còn lại tan rã nốt.

Năm 1378, chủ lực được tái tổ chức bởi Đế Hiện lại tan vỡ dưới sức tấn công của Chế Bồng Nga. Kinh thành thất thủ.

Qua bao thất bại, Nghệ tông mất lòng tin nơi quan quân. Dân chúng cũng thế.

Năm 1380, dân Tân Bình, Thuận Hóa theo dẫn dụ của người Chiêm đi cướp phá Nghệ An, Diễn Châu. Rõ ràng, Ứng Long cảm thấy thất vọng trong buổi loạn lạc. Thời này không thuộc về Ông.

Suy nghĩ hướng ra xã hội nhanh chóng quay lại tâm tình cá nhân trong bài thứ nhì cùng chủ đề:

謾曾一第詫鄉鄰,
誰道清風不療貧。
霜後菊花還酒客,
雪中梅意可詩人。
吟邊客舍雙蓬鬢,
夢裡天門八翼身。
城月浦雲相望處,
故人來地欲清春。

Kỳ II

Mạn tằng nhất đệ sá hương lân,
Thuỳ đạo thanh phong bất liệu bần.
Sương hậu cúc hoa hoàn tửu khách,
Tuyết trung mai ý khả thi nhân.
Ngâm biên khách xá song bồng mấn,
Mộng lý thiên môn bát dực thân (a).
Thành nguyệt phố vân tương vọng xứ,
Cố nhân lai địa dục thanh xuân.

(a) Bát dực thân: Đào Khản (259 – 334), danh tướng nhà Đông Tấn, nằm mơ thấy thân mọc ra 8 cánh, bay qua chín tầng cửa trời. Đến cửa cuối cùng bị gác cửa dùng gậy đánh rơi xuống đất, các cánh bên trái đều gãy. Ở đây, Ứng Long thể hiện ước mong làm quan to.

Kỳ 2

Uổng công từng thi đậu làm kinh ngạc xóm làng,
Ai bảo phong cách thanh tao không giải tỏa được cảnh nghèo?
Sương tan, hoa cúc lại về cùng khách rượu,
Giữa mùa tuyết, ý hoa mai thật hợp với người thơ.
Tàn cuộc ngâm, hai đám tóc mai rối rắm nơi quán khách,
Trong giấc mộng, tấm thân tám cánh bay lên cửa trời.
Ngóng trông nhau chỉ còn cách ngắm trăng trong thành, mây trên bến,
Cầu mong nơi cố nhân sắp đến có mùa xuân trong sáng.

Cách sống từ tốn phong lưu đậm chất nho gia được Ứng Long giữ gìn trong thời chiến. Tuy nhiên, Ông thoáng luyến tiếc vì việc đỗ đạt không giúp thoát khỏi cảnh nghèo. Mộng làm quan to tiếp tục dày vò, tuy vậy, Ông hết sức vô tư, không nghĩ ngợi nhiều đến đại sự mà một đại quan phải đối đầu.

Tiếp tục xướng họa với Nguyễn Hán Anh, nhân trình bày việc dựng nhà cạnh phủ Tướng để tiện vào triều, Ứng Long một lần nữa cho biết Ông làm quan trong Sảnh, có vẻ an phận chứ không nghĩ là tạm thời như bài thơ trước:

洪州復前韻,復寄答之

槐府西邊晚卜鄰,
翛然一室樂清貧。
床頭金劍酬知己,
枕畔黃梁夢故人。
湖海當年天下士,
風流此日省郎身。
客程歲暮寒砭骨,
最愛冰壼別樣春。

Hồng Châu phúc tiền vận, phục ký đáp chi

Hoè phủ tây biên vãn bốc lân,
Tiêu nhiên nhất thất lạc thanh bần.
Sàng đầu kim kiếm thù tri kỷ,
Chẩm bạn hoàng lương mộng cố nhân.
Hồ hải đương niên thiên hạ sĩ,
Phong lưu thử nhật sảnh lang thân.
Khách trình tuế mộ hàn biêm cốt,
Tối ái Băng Hồ biệt dạng xuân.

Hồng Châu phúc đáp bài thơ trước, xin lại trả lời

Muộn màng chọn chỗ ở phía tây tướng phủ,
Dựng ngôi nhà thong dong tự tại, vui với cảnh nghèo.
Gươm báu để đầu giường, tạ người tri kỷ,
Giấc kê vàng đến bên gối, tưởng đến cố nhân.
Khách giang hồ ngày xưa hiện là danh sĩ trong thiên hạ,
Kẻ phong lưu hôm nào nay làm thuộc quan ở sảnh.
Trên đường đất khách cuối năm trời lạnh buốt xương,
Hết sức ngưỡng mộ nét xuân riêng của Băng Hồ.

Câu 3 Ứng Long nói về nhạc gia, câu 4 và 5 về Hán Anh. Câu 6 nói về mình. Lúc này, có thể Ông đã có nhiều con nên phải làm nhà. Cũng có thể, trước khi về hưu chính thức, quan Tư Đồ dành thời gian lưu lại Côn Sơn nhiều hơn nên tùy tùng và người phục vụ phải đi theo. Do vậy, Ứng Long cùng gia đình phải sinh hoạt riêng.

Ứng Long rất bận rộn, chưa có dịp về động Thanh Hư thăm nhạc phụ. Ông trần tình hoàn cảnh qua lời dẫn 2 bài thơ “Trình Thanh Hư động chủ” như sau:

Tôi vì bận việc, chưa kịp theo đi thăm núi Côn Sơn, vẫn nặng lòng cảm nhớ, viết thành hai bài thơ bát cú luật Đường, một là để tụng đọc khi việc miếu đường rảnh rỗi mà được cái vui nhàn tản; một là để tả cái sẵn có trong lòng mà phát lộ ra âm thanh ca vịnh; xin chép lại đệ trình Chủ nhân động Thanh Hư (Thơ văn Lý – Trần III, 403)

Nguyên văn: 走以多事,未即陪昆山遊,感念之深,因成八句律二首,一以頌廟堂之暇而有閒適之趣,一以寫胸懷之素而播歌詠之聲,因錄呈清虛洞主 (Thơ văn Lý – Trần III, 402)

Tẩu dĩ đa sự, vị tức bồi Côn Sơn du, cảm niệm chi thâm, nhân thành bát cú luật nhị thủ; nhất dĩ tụng miếu đường chi hạ nhi hữu nhàn thích chi thú; nhất dĩ tả hung hoài chi tố nhi bá ca vịnh chi thanh; nhân lục trình Thanh Hư Động chủ.

Lời dẫn này phải được viết trước khi Ông hoàn tất “Thanh Hư động ký”. Điều lạ là dù bài ký ghi rõ năm sáng tác 1384, nội dung lại biểu hiện sinh hoạt nhàn dật của Băng Hồ như thể cụ đã về hưu:

Sau khi Người từ giã triều đình lui về nghỉ ở đây, có khi rong ngựa chơi vùng Gia Lâm, có khi chèo thuyền dạo miền Bình Than (Thơ văn Lý – Trần III, 497).

Nguyên văn: 公朝之退,匹馬嘉林,扁舟平灘。(Thơ văn Lý – Trần III, 493)

Công triều chi thoái, thất mã Gia Lâm, biển châu Bình Than. (Thơ văn Lý – Trần III, 496)

Như vậy, vài năm trước khi nghỉ chính thức, Nguyên Đán chủ yếu sống ở Côn Sơn, khi cần thiết mới lên kinh.

Ứng Long thực sự là rất bận trong các năm 1381, 1382, 1383, 1384. Triều đình có vô số sự kiện quan trọng phải huy động toàn bộ nhân lực, cụ thể:

Năm 1381, Thượng hoàng ra lệnh rước thần tượng các lăng ở Thái Bình và Nam Định về Yên Sinh, Đông Triều để tránh Chiêm Thành. Cuối năm, Đế Hiện lập kế giết con Thượng hoàng là Trần Húc.

Năm 1382, quân Trần dành thắng lợi trước người Chiêm tại Ninh Bình và Thanh Hóa.

Năm 1383, quân Trần xuất thủy sư đánh Chiêm nhưng gặp bão phải quay về. Giữa năm, Chiêm phản công bức bách kinh thành, Nghệ tông phải lánh sang cung Bảo Hòa (nay thuộc xã Phật Tích, huyện Tiên Du, Bắc Ninh). Đầu năm 1384, Ngài tổ chức thi Thái học sinh tại đây sau khi quân Chiêm rút lui.

Chúng ta thấy dấu vết Ứng Long phục vụ Thượng hoàng qua bốn bài thơ đề cập các địa điểm thuộc Bắc Ninh là “Du Phật Tích sơn đối giang ngẫu tác”, Dạo núi Phật Tích nhìn ra sông ngẫu nhiên làm thơ, “Bạc Nguyễn gia lăng”, Đậu thuyền nơi lăng nhà Nguyễn, “Đề Tiên Du tự”, Đề chùa Tiên Du, “Thiên Thánh hựu quốc tự tảo khởi”, Dậy sớm ở chùa Thiên Thánh hựu quốc. Dưới đây xét riêng bài “Du Phật Tích sơn đối giang ngẫu tác” vì trong đó Ứng Long có nói đến tuổi mình.

遊佛跡山對江偶作

半生塵土負登臨,
光景蹉跎便到今。
浮世百年真一瞬,
古人片樂值千金。
前川午日傍花興,
沂水春風與物心。
仰止高山懷曩哲,
澗河路次正幽尋。

Du Phật Tích sơn đối giang ngẫu tác

Bán sinh trần thổ phụ đăng lâm,
Quang cảnh tha đà tiện đáo câm.
Phù thế bách niên chân nhất thuấn,
Cổ nhân phiến lạc trị thiên câm.
Tiền xuyên ngọ nhật bàng hoa hứng,
Nghi thuỷ xuân phong dữ vật tâm.
Ngưỡng chỉ cao sơn hoài nẵng triết,
Giản hà lộ thứ chính u tầm.

Dạo núi Phật Tích nhìn ra sông ngẫu nhiên làm thơ

Nửa đời bụi bặm phụ cảnh núi non,
Hoài phí thời gian mãi đến hôm nay.
Cuộc thế trăm năm thực như chớp mắt,
(Nên) Người xưa quý niềm vui chốc lát đến ngàn vàng.
Cái hứng bên hoa buổi trời trưa ngắm dòng nước,
(Tựa như) Tấm lòng hòa cùng gió xuân bên sông Nghi.
Ngước nhìn núi cao nhớ bậc hiền xưa,
Tìm được thanh tịnh chính vào lúc dừng lại trên con đường bên suối.

“Bán sinh”, nửa đời theo ý niệm xưa là nửa chu kỳ 60 năm, tức 30 tuổi ta. Với tính chất mềm của văn, ta xác định bài thơ ra đời khi tác giả khoảng 29, 30 hay 31 tuổi, tức khoảng năm 1383, 1384, 1385.

Tắm sông Nghi, hóng gió đài Vũ Vu là lý tưởng cuộc đời của Tăng Tích, môn đệ Khổng Tử. Liên tưởng sông Nghi và triết nhân xưa giúp thu hẹp thời điểm bài thơ ra đời vào năm 1384, dịp Nghệ tông tổ chức cuộc thi Nho học tại cung Bảo Hòa, chùa Vạn Phúc trên núi này (a). Nhà Nho Ứng Long có thể thuộc nhóm nhân sự phục vụ cuộc thi.

(a) Giáp Tý [Xương Phù] năm thứ 8 (1384), (Minh Hồng Vũ năm thứ 17). Mùa xuân, tháng 2, Thượng hoàng cho thi Thái học sinh ở chùa Vạn Phúc núi Tiên Du, [lấy đỗ] bọn Đoàn Xuân Lôi, Hoàng Hối Khanh… 30 người (Toàn Thư II, 181).

Nguyên văn: 甲子八年明洪武十七年春二月上皇於僊遊山萬福寺試太學生段

春雷黄晦卿等三十名 (Toàn Thư IV, 251)
Giáp Tí bát niên Minh Hồng Vũ thập thất niên xuân nhị nguyệt Thượng hoàng ư Tiên Du sơn Vạn Phúc tự thí Thái học sinh Đoàn Xuân Lôi Hoàng Hối Khanh đẳng tam thập danh.

Nhà thơ rất thanh thản thưởng thức thiên nhiên. Chiến tranh gây xáo trộn toàn xã hội chẳng lưu dấu vết nào trong văn chương khoáng dật. Giữa năm Giáp Tý 1384, Ông ở kinh đô quan sát công tác chuẩn bị cầu mưa, tinh thần vẫn tráng kiện.

Tuy nhiên khi trời trở lạnh, tâm trạng Ông buồn bã khác thường lúc lênh đênh trên Hoàng giang, gần Thiên Trường. Ông biết tin nhạc phụ sắp về hưu chăng?

黃江夜雨

蓼浦三秋雨,
筠篷半夜聲。
孤燈明又滅,
湖海十年情。

Hoàng giang dạ vũ

Liễu phố tam thu vũ,
Quân bồng bán dạ thanh.
Cô đăng minh hựu diệt,
Hồ hải thập niên tình.

Mưa đêm trên Hoàng giang

Mưa thu xuống trên bến mọc đầy rau đắng,
Nửa đêm lộp độp mui thuyền tre.
Đèn côi khi mờ khi tỏ,
Cám cảnh mười năm phiêu bạt giang hồ.

“Mười năm hồ hải” giúp ta xác định bài thơ ra đời vào mùa thu năm 1384.

Nỗi lo lắng về tương lai bất định khi mất sự đỡ đầu của Tướng quốc hiện lên thê thiết trong bài “Cửu nguyệt thôn cư độc chước”, Tháng chín, ở quê uống rượu một mình. Cùng với tiếc nuối hội “Long Sơn”, tình trạng hoa cúc không nở được vì ít mưa giúp chúng ta có cơ sở đoán thời điểm tác phẩm hình thành cũng vào năm 1384.

九月村居獨酌

村醪酌罷自談詩,
欲把幽懷更向誰?
荒徑人行秋色少,
故園雨勒菊花遲。
龍山後會知何日?
彭澤歸心最此時。
萬事悠悠拚一醉,
了知身到鳳凰池。

Cửu nguyệt thôn cư độc chước

Thôn lao chước bãi tự đàm thi,
Dục bả u hoài cánh hướng thuỳ?
Hoang kính nhân hành thu sắc thiểu,
Cố viên vũ lặc cúc hoa trì.
Long sơn (a) hậu hội tri hà nhật?
Bành Trạch (b) quy tâm tối thử thì.
Vạn sự du du phiên nhất tuý,
Liễu tri thân đáo phụng hoàng trì.

(a) Hội Long Sơn: tiệc mừng tết Trùng dương ở núi Long Sơn do Hoàn Ôn (312 – 373) chủ trì với câu chuyện “Long Sơn lạc mạo”, Rơi mũ ở Long Sơn, rất phổ biến. Nguồn gốc điển tích lấy từ Tấn Thư, Mạnh Gia truyện. Ở đây, chỉ các buổi tiệc nhân ngày chín tháng chín do Tư Đồ Nguyên Đán tổ chức.

(b) Bành Trạch: nơi Đào Tiềm ở ẩn.

Tháng chín, ở quê uống rượu một mình

Uống hết rượu đục quê mùa, tự mình ngâm thơ,
Muốn giải tỏa u hoài biết nói cùng ai?
Người đi qua lối hoang, vẻ thu phai nhạt
Mưa ít rơi trên vườn cũ, hoa cúc muộn mằn.
Sau hội Long Sơn biết ngày nào nữa?
Lòng về Bành Trạch chính giữa lúc này!
Muôn sự dài dằng dặc ném hết vào cuộc say,
Mới biết mình đã đến ao Phượng Hoàng!

Trùng cửu thường là ngày Tướng quốc uống rượu thưởng cúc với tri kỷ và các con rể. Ngày vui như thế sẽ vĩnh viển không còn. Ý noi bước Đào Tiềm lại dấy lên trong lòng nhà thơ sầu muộn. Ông muốn Bành Trạch, nhưng khi đủ say, lại thấy hồn mình đến nhiệm sở. Dằng co giữa Nho và Đạo kéo dài hầu như suốt đời thư sinh họ Nguyễn.

Khi cha vợ tại vị, Ứng Long vẫn bị điều tiếng thị phi. Nay tướng quốc nghỉ quan, hẳn tương lai bất ổn khiến Ứng Long phải nghĩ ngợi nhiều. Cùng làm việc với vị thái học sinh Đạo Khê nhân dịp xét duyệt sổ sách các quan văn võ đầu năm 1385 (a), Ông thổ lộ can tràng như sau:

酬道溪太學春寒韻

渺渺春城雪正漫,
東風牢鑽未全乾。
宦情細惹楊煙薄,
客緒偏隨杏雨殘。
流水高山琴下韻,
紅旗赤幟夢將闌。
鄰渠萬姓皆吾與,
此屋誰家面面寒。

Thù Đạo Khê thái học “Xuân hàn” vận

Diểu diểu xuân thành tuyết chính man,
Đông phong lao toản vị toàn can.
Hoạn tình tế nhạ dương yên bạc,
Khách tự thiên tuỳ hạnh vũ tàn.
Lưu thuỷ cao sơn cầm bất vận,
Hồng kỳ xích xí (b) mộng tương lan.
Lân cừ vạn tính giai ngô dữ,
Thử ốc thùy gia diện diện hàn.

(a) Ất Sửu, [Xương Phù] năm thứ 9 (1385), (Minh Hồng Vũ năm thứ 18). Mùa xuân, tháng giêng, xét duyệt sổ sách quan văn võ (Toàn Thư II, 181).

Nguyên văn: 乙丑九年明洪武十八年春正月閲定文武從官帳籍 (Toàn Thư IV, 251).Ất Sửu cửu niên [Minh Hồng Vũ thập bát niên] xuân chính nguyệt duyệt định văn võ tòng quan trướng tịch .

(b) Hồng kỳ xích xí: chỉ mộng lập công danh bằng chiến tích.

Dùng vần bài thơ “Xuân hàn” đáp Thái học Đạo Khê

Tuyết phủ trùm, thành xuân mờ mịt, 
Gió xuân vừa lách khỏi nơi giam giữ nên trời chưa khô hẳn. 
Vướng vít quan trường, (mới biết) tình người mỏng như mành liễu, 
Sự nghiệp nơi đất khách nghiêng theo mưa hạnh tiêu tan. 
Đàn lạc nhịp “cao sơn lưu thủy”, 
Mộng cờ hồng cờ đỏ cũng hầu tàn. 
Muôn họ nơi chòm xóm đều là đồng bào ta, 
Dưới nếp nhà này gia đình nào trú ngụ mà mọi khuôn mặt đều giá buốt?

Đạo Khê có thể là vị Thái học sinh vừa qua kỳ thi năm 1384 tổ chức tại cung Bảo Hòa và chưa nhận chức tước. Ứng Long nhẹ nhàng thông tin cho vị tân khoa biết nghiệt ngã trong nghề làm quan. Người sắp ra chào đón kẻ bước vào bằng bài ca u ám.

Tinh nghĩa hai câu 3, 4 tụ lại các chữ “tình 情”, “bạc 薄”, “tự 緒”, “tàn 殘”.

Tình đời bạc nên sự nghiệp lụn tàn. Người vốn “bạc”, tập hợp người nơi quan trường phải “rất bạc”. “Dương yên” là mành liễu rũ mong manh như khói, tương tự nghĩa “dương yên” trong câu từ Ngọc Lâu Xuân lừng danh “Lục dương yên ngoại hiểu hàn khinh 綠楊煙外曉寒輕”, Hơi buổi sớm se lạnh bên ngoài mành liễu xanh của Tống Tử Kinh (998 – 1065). Chữ “tế nhạ” khơi gợi suy nghĩ mông lung, Ứng Long tự trách mình dây dưa công danh khiến cuộc đời khó tính. Chúng ta hiểu rõ tác giả hơn nếu biết nguồn cơn chữ “nhạ” từ câu thơ “Triêm nhạ hư danh ngộ thử thân 霑惹虛名誤此身”, Dây vào hư danh khiến thân này lầm lỡ của Vương Vũ Xứng (954 – 1001).

Trong mùa xuân phất phơ dương liễu, Tử Kinh hạ câu tuyệt bút chấn động văn đàn đến bây giờ: “Hồng hạnh chi đầu xuân ý náo 紅杏枝頭春意鬧”, Ý xuân nôn nao trên đầu cành hồng hạnh. Đứng từ niềm “nôn nao” của ý xuân sẽ nhìn thấy trọn vẹn sự “tàn lụi” công danh của Ứng Long nơi đất khách.

Câu chuyện Bá Nha – Tử Kỳ đặt ra ở câu 5 cho biết người hiểu, đánh giá cao tác giả sắp không còn chức vụ, cũng hàm ý Thượng hoàng và Vua không nhìn thấy khả năng của Ông xuyên qua đàm tiếu. Chính câu này củng cố giả định thời điểm bài thơ hình thành là vào mùa xuân năm 1385.

Xuất thân bình dân, Ứng Long có điều kiện gần gũi và thông cảm dân thường. Ông thường đặt tình cảnh khó khăn của riêng mình trong bối cảnh bất hạnh chung của dân đen. Thời tiết thêm lạnh lẽo khi mộng công hầu tan vỡ. Ông không làm quan, lấy ai cứu rỗi trăm họ?

Tỏ lòng thương xót lê dân, cầu mộng quan tước để có điều kiện ưu quốc, con người tự hào suốt đời “đi trên tơ trắng” rồi cũng đến nơi cần đến. Nhưng Ứng Long đủ khí phách, tài năng để hiện thực hóa tâm nguyện của mình hay không lại là chuyện khác.

Theo dòng mạch trên, bài thơ dưới đây lại lần nữa than thở hoàn cảnh công danh dang dở.

三月初一日曉起

已無畫燭醉裙紅,
更倚青燈照鬢蓬。
破屋吟殘紅杏雨,
清都夢醒紫薇風。
一身九竅七情內,
萬事千憂百慮中。
慌底不知寒食過,
啟窗花又折梧桐。

Tam nguyệt sơ nhất nhật hiểu khởi

Dĩ vô hoạ chúc tuý quần hồng,
Cánh ỷ thanh đăng chiếu mấn bồng.
Phá ốc ngâm tàn hồng hạnh vũ,
Thanh Đô mộng tỉnh Tử Vi phong.
Nhất thân cửu khiếu thất tình nội,
Vạn sự thiên ưu bách lự trung.
Hoảng để bất tri hàn thực quá,
Khải song hoa hựu chiết ngô đồng.

Ngày mùng một tháng ba, sáng dậy

Không có đuốc hoa để mê đắm khách quần hồng,
Chỉ nhờ ngọn đèn xanh soi tóc mai bù rối.
Nhà dột nát, mưa hồng hạnh khiến khúc ngâm lụi tàn,
Chốn kinh đô, gió tử vi làm chiêm bao bừng tỉnh.
Chín khiếu bảy tình gom vào một thân,
Trăm nghĩ ngàn lo chìm trong vạn sự.
Cập rập, không biết tiết hàn thực đã qua,
Mở cửa sổ hoa, lại bẻ thêm cành ngô đồng.

Qua “Băng Hồ di sự lục”, Chuyện cũ về Băng-Hồ Tiên sinh (4), Nguyễn Trãi cho biết mẹ Ông mất trước ông ngoại. Không rõ bà mất năm nào, nhưng ở đây Ứng Long cho thấy căn nhà một thời hạnh phúc đã trở nên vắng lạnh, hoang tàn. Dù làm quan nhỏ, khó nói rằng Ông nghèo đến mức thiếu phương tiện chỉnh trang nhà ở cho tươm tất. Chỉ có thể hiểu rằng Ông không định lưu lại kinh đô khi cha vợ từ giã triều đình nên bỏ mặc nhà cửa. Mặt khác, bà Thái có thể đã về Côn Sơn chuẩn bị nơi chốn nghỉ ngơi cho cha. Mưa hồng hạnh rơi từ bài thơ thù tạc với Đạo Khê dai dẳng mãi đến tác phẩm ngậm ngùi này. Làn “Tử Vi phong”, gió từ cung nội, đánh thức cơn mê danh vọng hàm ý nhà vua không nhiệt thành tiếp tục dùng Ông.

Ngô đồng là nơi phượng hoàng tìm đậu, hành động bẻ cành ngô đồng biểu trưng nỗi bất bình của Ứng Long với quan niệm tổ chức của hoàng gia.

Dường như tựa đề có điểm bất ổn vì hàn thực là ngày mồng ba tháng ba, nếu Ứng Long viết thơ vào sáng ngày mồng một, khó bảo rằng đã qua tiết này.

ỨNG LONG Ở QUÊ

Bài “Sơn thôn cảm hứng”, Cảm hứng khi ở sơn thôn, dưới đây cho thấy quãng 30 tuổi, tuổi mềm của văn học tức khoảng năm 1385 là khoảng thời gian cha vợ nghỉ quan, Ông rời kinh thành.

山村感興

虛名卅載絆塵羈,
一反江山沒是非。
殘雪墊巾奇野土,
春風晞髮大灘磯。
夢中往事攘蕉鹿,
世上浮雲任狗衣。
誰道江村生計薄?
桑麻繞屋綠初肥。

sơn thôn cảm hứng

Hư danh táp tải bán trần ky,
Nhất phản giang sơn một thị phi.
Tàn tuyết điện cân cơ dã thổ,
Xuân phong hy phát đại than ky.
Mộng trung vãng sự nhương tiêu lộc (a),
Thế thượng phù vân nhiệm cẩu y.
Thuỳ đạo giang thôn sinh kế bạc,
Tang ma nhiễu ốc lục sơ phì.

(a) “Tiêu lộc”, hươu đậy lá chuối: câu chuyện trong sách Liệt Tử, biện giải tính mộng tương đối của cuộc đời và tính thực tương đối của giấc mơ. Ở đây tác giả xem chuyện cũ như giấc mộng.

Cảm hứng khi ở sơn thôn.

Đã ba mươi năm bị hư danh trói vào cuộc đời câu thúc,
Quay về cảnh sông núi, dứt hết thị phi.
Đội khăn đi dưới tuyết tàn qua làng quê xinh tươi mộc mạc,
Đón gió xuân hong tóc nơi mỏm đá lớn đầu ghềnh.
Trong mộng, việc đã qua ngỡ như chuyện trộm “hươu đậy lá chuối”,
Cảnh đời, tựa phù vân phó mặc đổi thay.
Ai bảo sinh kế nơi làng quê bên sông là đạm bạc?
Chung quanh nhà, dâu gai vừa chuyển màu lục thẫm.

“Sơn thôn” có vẻ ở Chí Linh hơn là Nhị Khê vì có núi. Ông cố gắng ca ngợi phong cảnh và lối sống nhà nông nhưng chuyện buồn sự nghiệp dường như đeo đẳng. Cảm hứng đến từ nuối tiếc, quên lãng, buông trôi…. hơn là từ môi trường sống đậm chất thiên nhiên. Tiếng thị phi nơi danh lợi hằn dấu tổn thương khó lành. Bản chất tĩnh của Ứng Long khiến Ông rất chậm chạp trong việc thích nghi cách sống khác, dù đó là cách sống Ông thường đề cao. Làm quan nhỏ thì nghèo, về quê thì bị đè nặng dưới cái bóng đạm bạc. Hay nhắc đến thiếu thốn và cố sức hài lòng với nó chứng tỏ Ứng Long sống trong ám ảnh giàu sang. Cái nhàn của Chu Văn An xuất phát từ tâm nguyện, cụ từ tạ mọi ân sủng của triều đình một cách quyết liệt cực đoan. Cái nhàn của Ứng Long mang màu sắc thời thượng, nó giống như vật trang sức thanh tao giúp các nhà nho bớt căng thẳng trên đường lập công danh.

Bài thơ tiếp theo, nếu Nguyễn Trãi chính xác sinh năm 1380, là bằng chứng cụ thể cho việc Ứng Long phải chăm sóc con tại Nhị Khê sau khi nhạc phụ lui về Côn Sơn. Cũng là yếu tố khả tín để cho rằng Nguyễn Trãi không phải là đứa con vượt ngoài lễ giáo. Cuộc loạn đề cập trong thơ hẳn là trận vây bức Thăng Long của Chế Bồng Nga vào năm 1383.

家園樂

故園亂後有先廬,
六歲兒童頗愛書。
啼鳥落花深巷永,

涼風殘夢午窗虛。
心從閒處千憂失,
學到充時四體舒。
逐物勞人休誤我,
安仁志已遂幽居。

gia viên lạc
 
cố viên loạn hậu hữu tiên lư,
lục tuế nhi đồng phả ái thư.
đề điểu lạc hoa thâm hạng vĩnh,
lương phong tàn mộng ngọ song hư.
tâm tòng nhàn xứ thiên ưu thất,
học đáo sung thời tứ thể thư,
trục vật lao nhân hưu ngộ ngã,
an nhân (a) chí dĩ toại u cư.

(a) An Nhân: tức Phan Nhạc (247 – 300), văn gia nhà Tây Tấn, tác giả “Nhàn cư phú”.

Thú vườn quê

Vườn cũ sau loạn còn nếp nhà xưa,
Đứa bé mới lên sáu đã rất yêu sách.
Ngõ sâu hun hút, nghe tiếng chim kêu, hoa rụng,
Song trưa để ngỏ, gió mát lay tỉnh mộng tàn.
Tâm gửi đến cõi nhàn, ngàn mối lo tiêu tán,
Học đến khi lĩnh hội đầy đủ, thư thái tay chân.
Người lao nhọc chạy theo vật chất, ta không lầm nữa !
Chí An Nhân đã thỏa nơi u tịch.

Ca ngợi cảnh sống thanh u nhưng lòng ông chưa nhẹ thoáng. Ông bay bổng vào cõi nhàn, khi tỉnh dậy lại tự dằn vặt mình. Cũng như Chu Văn An, Ứng Long chưa hội được chân ý. So với hành động theo nhàn huyên náo dư luận của thầy Chu, phong cách chàng Nguyễn càng kém xa. Với một nhàn ông, “thỏa” hay “không thỏa” còn có nghĩa gì?

村家趣

抱籬竹樹萬條槍,
老屋弓餘古寺傍。
過雨池塘蛙語聒,
落花庭院燕泥香。
閒情湛湛春醪足,
世路茫茫午睡長。
醒後出門攜僕去,
逢人只向說農桑。

Thôn gia thú

Bão ly trúc thụ vạn điều thương,
Lão ốc cung dư cổ tự bàng.
Quá vũ trì đường oa ngữ quát,
Lạc hoa đình viện yến nê hương.
Nhàn tình trạm trạm xuân giao túc,
Thế lộ mang mang ngọ thuỵ trường.
Tỉnh hậu xuất môn huề bộc khứ,
Phùng nhân chỉ hướng thuyết nông tang.

Thú quê nhà

Rào tre quanh nhà dương muôn nhánh nhọn,
Nhà xưa cách bên chùa cổ chừng một cung.

Mưa tạnh, ngoài đầm ao tiếng ếch oàm oạp,
Hoa rụng, trong đình viện bọt én thoảng thơm.
Cảnh nhàn thanh thản, rượu xuân đầy đủ,
Đường đời mờ mịt, giấc ngủ trưa kéo dài.
Thức dậy, ra cửa dắt theo đầy tớ,
Gặp mọi người chỉ nói chuyện nông tang.

Tương tự “Sơn thôn cảm hứng”, Cảm hứng khi ở sơn thôn và “Gia viên lạc”, Thú vườn quê; “Thôn gia thú”, Thú quê nhà, bị trì kéo bởi ám ảnh công danh. Khẳng định việc xưa đã quên, biết theo ngoại vật là lầm, ngán ngẩm đường đời mờ mịt đều thể hiện đắng cay khó nuốt. Niềm vui từ cảnh nhàn ngờ ngợ hư ảo; xót xa lỡ mộng quan trường mới là thực.

Bị bệnh tật hành hạ, Ứng Long mượn rượu để quên danh. Cảnh ngộ thật lạ lùng khi thân ở khê động, tâm vẫn nổi chìm.

村居

數椽書室掩蓬筸,
池草園林夢入騷。
覆屋霜勻千瓦重,
侵門日上半籬高。
病中活計存靈藥,
身外浮名付濁醪。
萬事無營心自可,
春風滿砌太陶陶。

Thôn cư

Sổ duyên thư thất yểm bồng cao,
Trì thảo viên lâm mộng nhập tao.
Phú ốc sương quân thiên ngoã trọng,
Xâm môn nhật thượng bán ly cao.
Bệnh trung hoạt kế tồn linh dược,
Thân ngoại phù danh phó trọc giao.
Vạn sự vô doanh tâm tự khả,
Xuân phong mãn xế thái giao giao!

Ở quê

Vài gian nhà đọc sách ẩn trong vùng lau lách,
Giấc mộng cỏ cây ao vườn nhập vào hồn thơ.
Phủ mái, sương nặng đều trên ngàn viên ngói,
Ánh nắng xuyên qua cửa, mặt trời lên đã nửa sào.
Khi đau ốm, cứu chữa còn có thuốc tiên,
Danh hão ngoài thân gửi hết vào rượu đục.
Muôn việc chẳng mưu cầu, tự mình thích nghi,
Gió xuân hớn hở đầy thềm!

Thỉnh thoảng, Ứng Long lên kinh. Nhân dịp Hồ Tông Thốc nhận chức Hàn lâm học sĩ phụng chỉ năm 1386, Ông có bài “Thướng Hồ Thừa chỉ Tông Thốc”, Trình lên quan Thừa chỉ Hồ Tông Thốc, để chúc mừng:

萬丈光芒窺太白,
一團和氣挹伊川。
寸懷別後勞傾仰,
耿耿高明月夜懸。
Vạn trượng quang mang khuy Thái Bạch (a),
Nhất đoàn hòa khí ấp Y Xuyên (b).
Thốn hoài biệt hậu lao khuynh ngưỡng,
Cảnh cảnh cao minh nguyệt dạ huyền.

(a) Thái Bạch: tức nhà thơ Lý Bạch (701 – 762), cũng là tên một ngôi sao.

(b) Y Xuyên: tức triết gia Trình Di (1033 – 1107), Y Xuyên chảy cạnh nhà ông.

Muôn trượng rực sáng tranh với Thái Bạch.
Một vùng khí hòa chẳng nhường Y Xuyên.
Sau từ biệt, xin nghiêng tấc lòng ngưỡng phục,
Vầng trăng đêm treo cao vằng vặc.

(Trích các câu 5, 6, 7, 8)

Khi chào ra về, Ứng Long dùng chữ “biệt 別”, ngoài nghĩa chia tay còn hàm ý xa cách. Có thể hiểu Ông sẽ không lưu lại kinh thành mà trở lại nơi ẩn cư.

Bài tiếp theo dưới đây bộc lộ cái nhìn từ bên ngoài quan trường:

城中有感寄呈同志

朝中朱紫動紛紛,
幻眼誰能各自分。
頭上老天依日月,
人間夢景付煙雲。
習池何處招山簡?
杜曲無錢覓廣文。
謀議廟堂吾豈敢,
擬將泉石夢諸君。

Thành trung hữu cảm ký trình đồng chí

Triều trung chu tử động phân phân,
Huyễn nhãn thuỳ năng các tự phân.
Đầu thượng lão thiên y nhật nguyệt,
Nhân gian mộng cảnh phó yên vân.
Tập Trì (a) hà xứ chiêu Sơn Giản (b)?
Đỗ Khúc (c) vô tiền mịch Quảng Văn (d).
Mưu nghị miếu đường ngô khởi cảm!
Nghĩ tương tuyền thạch mộng chư quân.

(a) Tập: tức Tập Tạc Xỉ, người Tương Dương, học giả đời Tấn (266 – 420), tác giả quyển sử Hán Tấn Xuân Thu.

(b) Sơn Giản: con Sơn Đào, một trong bảy vị hiền rừng trúc. Là danh thần thời Tấn Hoài đế (284 – 313), trấn thủ Tương Dương, rất thân thiết với họ Tập.

(c) Đỗ: tức Đỗ Phủ (712 – 770). Ông từng sáng tác bài “Túy thời ca” tặng người bạn thân tên Trương Kiền trong đó có câu “Đắc tiền tức tương mịch ”, Có tiền thì ngay lập tức tìm nhau.

(d) Quảng Văn: nơi làm việc của Trương Kiền. Chức danh đầy đủ của ông là “Quảng Văn quán bác sĩ”.

Trong thành cảm xúc, gửi trình các đồng chí

Trong triều, áo bào đỏ, tía chuyển động nhiễu loạn,
(Đã) Hoa mắt, còn ai tự phân biệt được mình !
Trên đầu, trời già trơ theo năm tháng,
Giữa đời, cảnh mộng buông mặc khói mây.
Biết ao họ Tập nơi đâu để mời Sơn Giản?
(Người) xóm họ Đỗ không tiền đi tìm Quảng Văn.
Tôi không dám bàn việc triều đình,
Chỉ dự tính từ chốn núi khe mộng gặp các ông.

Với cảm xúc năm đầu Xương Phù, Ứng Long còn hăm hở vào thành và có dự định tương lai; ở đây, Ông xúc động mạnh tương tự nhưng tâm tình nhuốm vẻ dửng dưng. Thay đổi hẳn là kịch liệt trong triều đình khiến con người càng cảm nhận sự bền vững của không gian và thời gian. Câu 5 buồn cảnh người biến đổi, câu 6 than không đủ phương tiện thay đổi hoàn cảnh đơn độc. Khi xưa, nhà thơ còn mong bắt được Quỉ Chương, bây giờ Ông miễn bàn vì đã ngoài cương tỏa.

Nhưng việc gì xảy ra khiến tác giả thấy đời biến đổi nhanh như khói mây? Nhiều khả năng chính là việc Phế Đế do mưu khử Hồ Quý Ly mà bị Nghệ tông truất ngôi rồi giết hại. Không chỉ thế, nhiều quan tướng muốn cứu vua đều bị khép tội tử hình. Rối loạn và xôn xao quan trường vọng vào thơ rõ rệt. Đó là năm 1388.

Trần Ngạc, con trưởng Thượng hoàng Nghệ tông, tham gia việc này nên khó tránh khỏi kinh động trước phản ứng quá bạo liệt của cha mình. Vị thế Thái Úy không bao giờ bình ổn như trước. Uy thế áp đảo của Quý Ly khiến tân Đại vương Ngạc trốn chạy khỏi kinh thành năm 1391 để rồi chịu cái chết mờ ám sau đó.

Linh Đức bị bức tử khiến em là Nguyên Diệu dẫn quân bản bộ chạy sang Chế Bồng Nga tìm dịp báo thù. Bồng Nga tử trận, kéo theo cái chết của nhiều tôn thất làm phản: Trần Nguyên Diệu, Trần Nguyên Đĩnh, Trần Tôn….. (1390).

Oái ăm thay, nhờ họ Trần mất dần chính quyền mà Ứng Long được làm quan trở lại với chức vụ cao hơn. Ông lưu dấu vết hoạt động tại triều trong khoảng thời gian giữa thập niên 1390.

 

THƠ TIỂN SỨ VÀ ĐI SỨ

Minh Thực lục ghi nhận hoạt động cống sứ của Đại Việt từ khi Phế đế bị giết như sau:

Ngày 8/12/1389: Bồi thần Nguyễn Đổng Thúc cống đồ uống rượu bằng vàng, bạc và sản vật địa phương. Nhà Minh biết Trần Vĩ (Phế đế) đã chết nhưng Quý Ly vẫn dùng tên vua cũ.

Ngày 15/12/1389: vua Minh qui định An Nam 3 năm cống một lần.

Ngày 17/5/1390: sứ An Nam đến, vua Minh ra lệnh Bố chính Quảng Tây không nhận, cho về. Hẹn ba năm sau hãy sang.

Ngày 12/2/1393: Đại phu Nguyễn Tông Lượng đến cống ngựa và thổ sản, được ban yến, thưởng tiền giấy và lụa.

Ngày 1/6/1393: vua Minh cấm An Nam triều cống vì tội giết vua (Phế đế). Quảng Tây thực hiện mệnh này.

Ngày 14/6/1394: sứ thần An Nam Nguyễn Quân đến cống qua đường Quảng Đông. Vua Minh khước từ.

Ngày 8/6/1395: Thái trung Đại phu Lê Tông Triệt, Triều nghi Đại phu Bùi Khinh dâng biểu và cống voi. Vua Minh nhận, thưởng khăn và đai cho quan sứ, thưởng tiền cho tùy tùng.

Ngày 19/3/1396: Thông phụng Đại phu Đào Toàn Kim (5), Thiếu trung Đại phu Nguyễn Ứng Long dâng biểu, cống sản vật địa phương. Vua Minh thưởng tiền.

Ngày 23/3/1396: Vua Minh từ chối phúng điếu Trần Thúc Minh (Nghệ tông) vì ông giết vua (Nhật Lễ) đoạt nước.

Trong quãng thời gian này, Toàn Thư ghi nhận tiếp xúc Minh – Việt như sau:

Cuối năm 1388: vua Minh sai Đỗ Tử Hiền mang sắc rồng sang phong, nhưng Linh Đức đã mất.

Năm 1395: nhà Minh sai Nhâm Hanh Thái sang đòi 5 vạn quân, 50 voi và 50 vạn thạch lương. Cuối năm lại sai sứ đòi cống nhà sư, phụ nữ xoa bóp, người hoạn.

Thái độ ngờ vực của vua Minh đối với An Nam khá rõ. Đoàn sứ tháng 12 năm 1389 hẳn có nhiệm vụ thăm dò thái độ Minh đế về vụ Linh Đức. Vua Minh nhận lễ, không nói gì. Nhưng chỉ 8 ngày sau ngài cho phép An Nam 3 năm cống một lần, có lẽ để dành thời gian điều tra sự thực. Năm 1390, vua Minh từ chối cống sứ An Nam thẳng thừng. Ngờ rằng phía Minh đã nắm được nội vụ. Vua Hồng Võ vốn ít thiện cảm với Nghệ tông vì vụ lật đổ Nhật Lễ không được tường trình rõ ràng, nay bồi thêm vụ giết Phế đế mà phía An Nam cố tình che dấu. Cùng giai đoạn, sứ đoàn Chiêm Thành vẫn tiến cống hàng năm với lễ vật trọng hậu, vài lần cống đến hai lượt mỗi năm. Khả năng giọt nước tràn ly là vụ Đại Việt sát hại Chế Bồng Nga, vị vua chư hầu có lúc rất được lòng Hồng Võ. Do La Ngai cướp ngôi nên không tường trình lên Minh đế sự việc Bồng Nga mất trong chiến trận, phải 3 năm sau vua Minh mới hiểu và mạnh tay cấm An Nam vào cống. Chế Bồng Nga qua đời làm đổ vỡ chính sách viễn giao cận công của thiên tử.

Ngoài bài “Tống hành nhân Đỗ Tùng Chu” có dấu hiệu làm từ thời trẻ, Ứng Long còn sáng tác 2 bài thơ tiễn sứ khác ghi nhận đối tượng có chức vụ cao hơn hành nhân. Một vị Ông gọi là Trung sứ, vị kia Ông ghi đầy đủ chức vụ Thái trung Đại phu. Trung sứ có nghĩa người đại diện tạm thời cho nhà vua thực hiện công việc nhất định. Thái trung Đại phu là chức quan thông thường.

Chúng ta xét bài “Tống Trung sứ Vũ Thích Chi” dưới đây:

送中使武適之

五色雲邊出使星,
凜然忠義照人明。
春臨梅驛霜蹄急,
雪霽淮潮玉節清。
天地北南雙眼闊,
山河夷險寸心平。
慇懃今日送君別,
杯酒難勝萬里情。

tống trung sứ vũ thích chi

Ngũ sắc vân biên xuất sứ tinh,
Lẫm nhiên trung nghĩa chiếu nhân minh.
Xuân lâm Mai dịch (a) sương đề cấp,
Tuyết tễ Hoài triều (b) ngọc tiết thanh.
Thiên địa bắc nam song nhãn khoát,
Sơn hà di hiểm thốn tâm bình.
Ân cần kim nhật tống quân biệt,
Bôi tửu nan thăng vạn lý tình.

(a) Mai dịch: trạm dịch trên Mai lĩnh, tượng trưng các trạm sứ thần sẽ đi qua.

(b) Hoài thủy: sông Tần Hoài, một nhánh của Trường giang, chảy qua thành phố Kim Lăng.

Tiễn Trung sứ Vũ Thích Chi

Từ vầng mây ngũ sắc xuất hiện vị sứ thần đáng kính mộ,
Lòng trung nghĩa uy nghiêm chói sáng mắt người.
Xuân tới trạm Mai, tiếng vó ngựa trong sương gấp gáp,
Tuyết ngừng rơi trên sóng Tần Hoài, tiết ngọc sáng trong.
(Rong ruổi) khắp đất trời nam bắc mở mang tầm mắt,
Sông núi an hay nguy nhờ tấc lòng nhu hòa.
Ân cần tiễn biệt Ông hôm nay,
Một chén rượu không đủ bày tỏ mối tình muôn dặm.

Minh Thực lục không ghi nhận sứ thần An Nam nào mang họ Vũ trong khoảng 1380 – 1400. Chỉ có thể đoán chừng tác giả tiễn Vũ Trung sứ trong giai đoạn sau Phế Đế và trước chuyến đi của bản thân Ứng Long, tức quãng 1388 – 1396. Xác định mốc thời gian như thế vì Ông từng trần thuật sinh hoạt ở thôn quê khi ngoài 30 tuổi (sau 1385). Thời điểm này Nguyên Đán về hưu, nghi rằng mất sự bảo bọc nên Ứng Long bị loại khỏi công việc. Phải sau biến cố rất lớn như hạ bệ Đế Hiện (1388) hay ám sát Thái Úy Trần Ngạc (1391), Ứng Long mới có cơ hội quay lại triều đình vì nhân sự phải đổi chuyển phù hợp dưới thế lực mới Hồ Quý Ly. Cuối năm 1396 đầu 1397, Minh Thực lục chỉ chép việc sứ Minh sang An Nam đòi đất biên giới. Từ khi Minh Huệ đế lên ngôi năm 1398 đến lúc Yên vương Chu Lệ tấn công Nam kinh năm 1402, do nội bộ tương tranh, việc ngoại giao của nhà Minh bị gián đoạn.

Vũ Thích Chi nằm trong hai trường hợp, một là ông không phải chức sắc cao cấp nhất phái bộ nên phía Minh không ghi nhận; hai là ông đi sứ năm 1390, chuyến đi bị vua Thái tổ từ chối nên sử gia chưa kịp rõ tên sứ thần.

Toàn thể bài thơ đều mang tính xã giao, trừ câu 6. Ứng Long kín đáo thông tin tình hình ngoại giao căng thẳng, quan hệ tới hòa bình hay chiến tranh giữa hai thể chế. Ông xác định sự mềm dẻo, trọng hòa hợp có thể “hóa hiểm vi di”, biến nguy thành an. Nhẫn nhục chắc là chính sách phải chọn của triều Trần đang ở cuối quá trình sụp đổ.

Riêng lần tiễn Thái trung Đại phu Lê Dung Trai, bài thơ có các chi tiết giúp chúng ta xác định thời điểm đi sứ.

送太中大夫黎庸齋北行

黎家人物越邦香,
公也籃青出異常。
一郡生靈惟借寇,
九重使者重煩張。
匣中秋水清長路,
馬上春風聽異鄉。
早向南臺專對了,
經歸夔禹佐吾皇。

Tống thái trung đại phu Lê Dung Trai

bắc hành

Lê gia nhân vật Việt bang hương,
Công dã lam thanh xuất dị thường.
Nhất quận sinh linh duy tá Khấu (a),
Cửu trùng sứ giả trọng phiền Trương (b).
Hạp trung thu thuỷ (c) thanh trường lộ,
Mã thượng xuân phong thính dị hương.
Tảo hướng Nam Đài (d) chuyên đối liễu,
Kinh qui Quỳ, Vũ (e) tá ngô hoàng.

(a) Khấu: Khấu Tuân, một trong 28 công thần của Hán Quang Vũ đế (5 TCN – 37) được vẽ hình treo trong Vân đài do có công phò vua tái lập nhà Hán (Đông Hán). Ông từng làm quan cai trị Dĩnh Xuyên, khi vua điều chuyển đi nơi khác, dân địa phương xin vua cho ông ở lại thêm một năm.

(b) Trương: Trương Khiên (164 TCN – 114 TCN): sứ giả nhà Tây Hán, rất thành công ở Tây Vực, có đóng góp lớn trong việc xác lập con đường tơ lụa.

(c) Hạp trung thu thủy: chỉ thanh gươm sứ giả mang theo, ám chỉ tài năng của Dung Trai.

(d) Nam Đài: Kim Lăng, kinh đô nhà Minh.

(e) Quỳ, Vũ: Quỳ là nhạc quan, chịu trách nhiệm giáo hóa; Vũ chịu trách nhiệm trị thủy. Cả hai đều là bầy tôi hiền của vua Thuấn.

Tiễn Thái trung Đại phu Lê Dung Trai đi sứ phương bắc

Nhân vật họ Lê là hương thơm nước Việt,
Ông nổi bật khác thường trong giới văn học.
(Biết rằng) Dân trong quận chỉ nương nhờ vào họ Khấu,
(Nhưng để xứng đáng) Sứ giả của cửu trùng lại phải phiền họ Trương.
Nước mùa thu trong hộp thanh tẩy đường trường,
Trên lưng ngựa đạp gió xuân thăm dò đất khách.
Sớm đến Nam Đài chu toàn việc chuyên đối,
Khi trở về đem tài năng Quỳ, Vũ phò tá vua ta.

Lê Dung Trai có phải Lê Tông Triệt, người hiện diện tại triều đình Nam Kinh ngày 8/6/1395? Nhiều chỉ dấu chứng tỏ hai người là một. Một mặt, cả hai cùng chức Thái trung Đại phu. Mặt khác, xét chữ “trọng 重” trong câu 4 với nghĩa “lại lần nữa” ta hiểu cụ Lê từng đi sứ trước đó. Minh Thực lục xác nhận đúng như vậy: Tông Triệt và Bùi Khinh từng dâng biểu, cống voi lên vua Minh ngày 5/6/1384. Cuối cùng, cụ Lê lên đường vào mùa Xuân, có lẽ vừa sau Tết Nguyên đán, nên đến Nam Kinh vào tháng 5, tháng 6 là phù hợp.

Người Minh đang có kế hoạch bình định Long châu (nay thuộc Quảng Tây), cần hỗ trợ quân, lương, voi từ Đại Việt nên tiếp phái bộ tử tế. Tông Triệt khởi hành sau khi Nghệ tông băng, nhưng dường như thông tin chưa được truyền đạt đến vua Minh nhân lần bệ kiến này. Nếu Ứng Long cho rằng chuyến đi Vũ Thích Chi cốt yếu ở chữ “bình 平”, nhu hòa; thì tinh thần chuyến đi Lê Tông Triệt nằm ở chữ “thính 聽”, thăm dò. Ngoài bàn bạc về đóng góp vào việc động binh, hẳn sứ giả phải nghe ngóng, đánh giá thái độ của Hồng Võ đối với triều đình Đại Việt sau thời gian cấm triều cống. Cụ Lê dọn đường cho phái đoàn Toàn Kim – Ứng Long sang thông báo tin buồn Nghệ tông. Chuyển dịch quyền lực tại phương Nam luôn là sự kiện quan trọng đối với Trung nguyên, họ vẫn thường lợi dụng thời điểm tế nhị để khởi xướng chiến tranh.

Chúng ta hãy xem xét tâm tình Ứng Long trong chuyến hành trình đầy lo âu dưới đây.

中秋感事

金波自海漫空流,
河漢微雲淡淡收。
雨後池臺多貯月,
客中情緒下勝秋。
願憑天上清光夜,
遍照人間疾苦愁。
長使國家多暇日,
五湖歸夢到扁舟。

Trung thu cảm sự

Kim ba tự hải mạn không lưu,
Hà Hán vi vân đạm đạm thu.
Vũ hậu trì đài đa trữ nguyệt,
Khách trung tình tự bất thăng thu.
Nguyện bằng thiên thượng thanh quang dạ,
Biến chiếu nhân gian tật khổ sầu.
Trường sử quốc gia đa hạ nhật,
Ngũ hồ quy mộng đáo biên chu.

Trung thu, cảm xúc trước sự việc

Sóng vàng như nước biển chảy tràn thinh không,
Bầu trời chỉ vài cụm mây nhỏ, sắc thu lành lạnh.
Sau mưa, đài trên hồ chất chứa ánh trăng,
Nơi đất khách, tình thu khôn xiết !
Muốn bay vào đêm trong sáng trên trời cao.
(Để) Soi thấu mọi khổ đau nhân thế.
Khiến nước nhà mãi được những ngày thanh nhàn,
(Khi đó) chiếc thuyền con mới tới giấc mộng quay về Năm hồ.

Lần đầu tiên được trọng dụng lại đảm nhiệm trách vụ gay cấn, Ứng Long ra đi khi lệnh cấm triều cống chưa dỡ bỏ chính thức. Báo tin vị quân chủ cầm quyền 24 năm tại Đại Việt qua đời trong lúc quân Minh hoạt động gần biên giới là công việc gợi bất an cho bất cứ sứ thần nào.

Ứng Long đặt chân đến Nam Kinh trước Tết nên thời điểm khởi hành vào mùa thu là thích đáng. Khác với hoa lá, tiếng gió, tiếng chim và “trì đài” chỉ có trong tranh phương Nam, quang cảnh tráng lệ bên kia biên giới mồn một những đài cao trên hồ giữa mùa thu cận ôn đới. Có thể Ứng Long cùng phái bộ đang ngụ tại một đình quán dùng để tiếp sứ đoàn thập phương. Tính theo thời gian, địa điểm sẽ nằm ở Quảng Tây, liền ranh giới Đại Việt.

Chàng trai quê xem Thăng Long luôn là đất khách nay mới nếm trải “đất khách” thực sự như thế nào. Cảm thán thân phận cá nhân nhường chỗ cho lời nguyện cầu chung cho nhân gian và triều đại. Suy nghĩ vượt khỏi cái tôi phản chiếu tầng nấc xã hội của tác giả, nhà thơ từ địa vị “quan lang” vươn lên “đại phu” nên ưu tư phải tải thêm vận mệnh nước nhà. Cá tính Ứng Long không dễ bắt kịp sự đảo điên trong quan hệ giữa hai bên. Sử Việt ghi rằng Nhâm Hanh Thái đòi 80 vạn thạch lương, 5 vạn quân và 50 voi. Minh Thực lục chỉ chép duy nhất yêu sách về gạo. Phải chăng lính và voi là vòi vĩnh riêng từ họ Nhâm? Sau cùng, Đại Việt chỉ cung ứng 20 vạn thạch lương đến động Bằng Tường kèm 1.000 lạng vàng, 20.000 lạng bạc. Do đầu lĩnh giặc sớm đầu phục nên vua Minh chỉ nhận lương, trả lại vàng bạc. Hanh Thái bị kỷ luật khi quay về bởi tội mua riêng người man làm nô lệ. Chưa chắc nguyên nhân đó chuẩn xác vì hành tung họ Nhâm rất kỳ lạ, chính ông ta khuyên Đại Việt đừng đưa người đến để tránh bị bắt cóc. Như vậy, đòi hỏi về binh tượng chỉ là mánh khóe làm tiền của Thái. Toàn Kim – Ứng Long ngoài nhiệm vụ báo tang hẳn phải tổng kết tình hình hỗ trợ chiến dịch của Đại Việt lên vua Minh. Không rõ lòng tự tín của Nhị Khê đến đâu nhưng cầu nguyện và cảm thấy mình như chiếc thuyền con hé lộ mặc cảm nhỏ bé.

Hai bài thơ mùa thu dưới đây nhấn mạnh địa điểm Nam hoặc Bắc khơi gợi người đọc xếp chúng vào cụm thơ đi sứ.

中秋玩月有懷

匆匆客裡又中秋,
月自風清獨自愁。
遙望故人襟韻在,
騷魂幾度繞南樓。

Trung thu ngoạn nguyệt hữu hoài

Thông thông khách lý hựu trung thu,
Nguyệt tự phong thanh độc tự sầu.
Dao vọng cố nhân khâm vận tại,
Tao hồn kỷ độ nhiễu Nam Lâu (a).

(a) Nam Lâu: một tòa lầu ở Ngạc châu (nay thuộc thành phố Vũ Hán, Hồ Bắc), nơi Dữu Lượng (289 – 340) cảm nhận hứng nhàn của Lão Tử. Tại đây, ông cùng thân hữu uống rượu, ngắm trăng, đàm đạo thâu đêm. Về sau, Nam Lâu thường được các nhà thơ dùng chỉ địa điểm hội họp, tiệc tùng, nghe nhạc và thưởng trăng vào mùa thu.

Trung thu, ngắm trăng chợt nhớ…

Vội vàng nơi đất khách nay lại đến trung thu.
Trăng tự sáng rỡ, mình tự buồn.
(Muốn) viếng cố nhân xa xôi, thơ lòng không gửi được,
(Chỉ còn cách để) Hồn thơ mấy bận lượn quanh lầu Nam.

Ứng Long đặc biệt mẫn cảm với mùa thu. Trong gần 80 bài văn-thơ sưu tập được, chủ đề mùa thu chiếm 13 đơn vị. Cố nhân ở đây nhiều khả năng là Nguyễn Hán Anh, người em đồng hao. Từ thời trẻ, hai vị đã tương đắc qua rượu, cúc, thơ và thu.

Mùa thu tha hương này rất đặc biệt đối với Ứng Long. Ông được giao nhiệm vụ báo tin con người hủy hoại cuộc đời mình vừa tạ thế. Chính cái chết của Đế Hiện, Trần Ngạc đặc biệt là Nghệ tông đã khai mở cánh cửa cho sự tiến thân trễ muộn. Nói cách khác, Ông vươn lên ngược chiều đà đổ nát của quyền lực Trần. “Sầu” quốc tang và “hận” bạc đãi cũng trớ trêu như nhà nghèo lấy vợ phú quý, tiến sĩ làm thuộc lại hay tình cảnh ở quê mộng chức cao….

秋夜

新愁舊恨撥難平,
南北情懷夢亦驚。
月色無人更無賴,
秋來夜夜總關情。

Thu dạ

Tân sầu cựu hận bát nan bình,
Nam bắc tình hoài mộng diệc kinh.
Nguyệt sắc vô nhân cánh vô lại,
Thu lai dạ dạ tổng quan tình.

Đêm thu

Khó đè nén cả sầu mới lẫn hận xưa,
Ôm ấp tình kẻ bắc người nam, trong mộng vẫn xúc động.
Thiếu người, vẻ trăng đẹp chẳng ích gì,
Mùa thu đến, đêm nào cũng bận lòng.

Nếu bài trước nhắc bạn, bài này đượm tình gia đình. Ý nghĩ thế kỷ XIV đã có đặc tính “trăng phương nam tròn hơn trăng phương bắc”.

Phái bộ đến Kim Lăng trước Tết nhưng chưa được sắp xếp lịch triều kiến. Đêm trừ tịch, nhóm người An Nam quây quần uống rượu với nhau:

除夜用杜老韻,諸君席上同作

客中送臘虎亭家,
殘雪猶飄六出花。
天地冬春庭外草,
光陰昏曉樹間鴉。
燈因守歲常常續,
酒為消愁數數賒。
萬事細思看鬢髮,
平明梳洗向東華。

Trừ d dng Đ lão vn,

chư quân tch thượng đng tác

Khách trung tống lạp hổ đình gia,
Tàn tuyết do phiêu lục xuất hoa.
Thiên địa đông xuân đình ngoại thảo,
Quang âm hôn hiểu thụ gian nha.
Đăng nhân thủ tuế thường thường tục,
Tửu vị tiêu sầu sác sác xa.
Vạn sự tế tư khan mấn phát,
Bình minh sơ tẩy hướng Đông Hoa.

Đêm ba mươi Tết dùng vn ca Đ Ph, cùng các bn trong tic làm thơ

Trên đất khách, lễ tất niên ở nhà hổ đình,
Tuyết tàn còn rơi hoa sáu cánh.
Nhìn cỏ ngoài sân biết trời đông hay xuân,
Thấy quạ trong cây đoán trời sáng hoặc tối.
Nhân tiễn năm cũ, đèn luôn châm dầu,
Vì muốn tiêu sầu, rượu thường gọi mãi.
Trông đám tóc mai biết mọi sự đều suy tính kỹ,
Bình minh, chải gội, hướng đến cửa Đông Hoa.

Nhà trang trí tượng hổ có lẽ là nơi dành cho sứ thần phiên man, kiến trúc lạ lẫm đồ sộ gây ấn tượng nhất định cho nhà thơ. Ứng Long vẫn thường tả tuyết ở đồng bằng sông Hồng, loại tuyết mơ hồ không hình dạng vốn thiên về cảm xúc hơn thực tế. Giờ đây, Ông nhìn rõ sáu cánh của nụ hoa thật. Chi tiết này khẳng định đoàn người đang ở đất Bắc. Thay đổi lớn về vĩ độ khiến tri giác thời gian như mụ mẫm. Thơ thù tạc hay vịnh phong cảnh hương xa hoàn toàn vắng bóng trong di sản văn chương của Nguyễn phó sứ. Dường như, Đại Minh vẫn cung cấp phương tiện di chuyển, nơi ăn chốn ở xứng đáng cho phái bộ nhưng không cử người đặc biệt quan tâm, thù tiếp. Dù Đại Việt có hỗ trợ Minh triều chút lương thảo giúp đạo quân bình định vùng cực nam nhưng như vậy chưa đủ biến quan hệ trở nên bình thường. Thái độ lãnh đạm, thời gian chờ đợi lâu khiến tinh thần quan sứ càng căng thẳng. Con người cực nhạy cảm đó đã uống quá nhiều rượu. Sáng mồng một, nhóm quan lại An Nam đến cửa Đông Hoa để vào thành chúc Tết hoàng đế nhà Minh theo tục lệ bấy giờ.

Phái bộ chỉ triều kiến chính thức ngày 19/3/1396. Bốn ngày sau, Minh Thái tổ thông báo từ chối phúng viếng Thúc Minh. Ứng Long tiến thêm một bước trên quá trình thất bại của đời mình. Thất bại có lẽ là lớn nên cả Toàn Thư lẫn gia phả đều không nhắc đến sự kiện cụ Nguyễn đi sứ. Thơ ca riêng của Ông cũng không lưu lại rõ ràng về chuyến đi. Thật dễ hiểu vì không ai muốn gợi nhắc điều cay đắng. Mọi việc như chưa xảy ra bao giờ.

Tệ hơn nữa, cuối năm 1396 đã thấy sứ Minh sang đòi một số động vùng biên. Nhà chính trị lão luyện Chu Nguyên Chương suy đoán chính xác rối loạn chính trị sau khoảng trống quyền lực Nghệ tông. May mắn, Minh Thái tổ lâm bệnh rồi qua đời. Tranh chấp quyền lực giữa Kiến Văn và Chu Đệ tạo thời gian lý tưởng cho Hồ Quý Ly thực hiện kế hoạch ấp ủ từ lâu. Sự phủ nhận của Hồng Võ đối với Nghệ tông là quả đấm cuối cùng giáng vào thế lực họ Trần đang hấp hối.

THỜI GIAN RỖI VIỆC TRƯỚC KHI NHÀ HỒ THÀNH LẬP

Triều đình mạt Trần, thực chất là Hồ Quý Ly, đã tạo điều kiện cho con người kiêu hãnh Ứng Long thể hiện năng lực. Tiếc thay, nhà thơ sứ Bắc khi sức mạnh Đại Việt vào buổi cuối mùa, tiếng nói vương triều không được vua trời để ý lắng nghe nữa. Hoàng đế vĩ đại Hồng Võ có kế hoạch khác mà con ông sau này khởi sự thực hiện vào năm 1406. Có vẻ Ứng Long trở về trong sự thất vọng của mọi người.

Bài thơ dưới đây bắt đầu nhắc đến trọng lượng của tuổi tác.

村居

松筠三徑在,
歲晚薄言歸。
把酒看秋色,
攜筇步夕暉。
雲空山月出,
天闊塞鴻飛。
忽聽昏鐘報,
呼童掩竹扉。

Thôn cư

Tùng quân tam kính tại,
Tuế vãn bạc ngôn quy.
Bả tửu khan thu sắc,
Huề cùng bộ tịch huy.
Vân không sơn nguyệt xuất,
Thiên khoát tái hồng phi.
Hốt thính hôn chung báo,
Hô đồng yểm trúc phi.

Ở quê

Ba luống tùng trúc vẫn còn,
Tuổi già hãy tính chuyện quay về.
Cầm chung rượu ngắm màu thu,
Chống gậy dạo dưới ánh chiều.
Mây tan, trăng nhô trên núi,
Trời rộng, ngoài ải hồng bay.
Chợt nghe chuông tối điểm,
Gọi trẻ hầu khép cửa tre.

Chúng tôi dựa vào khẩu khí bài thơ và hai chữ “tuế vãn”, tuổi già, để suy đoán thời điểm sáng tác là sau khi hoàn tất chuyến đi sứ. Ngôi nhà Ông đang trú không phải nhà cạnh phủ tướng ở Đông đô, cũng không phải nhà cạnh chùa ở Nhị Khê. Nhiều khả năng đây là nhà tạm tại ngoại thành Tây Đô vì Ứng Long thấy trăng nhô lên sau rặng núi. Ứng Long tuyệt hẳn thói quen ngậm ngùi bực tức bởi lạc nhịp công danh như những lần “thôn cư” thời trẻ. Ông đã có cơ hội mà không chứng tỏ tài năng gì đặc biệt ngoài tài văn với đồng liêu, đồng chí. Theo phong tục xưa, 50 tuổi được vinh dự lên lão. Khi đó, Ông khoảng 43 tuổi ta. Nếu thành công, tuổi ấy khá trẻ; ngược lại, số tuổi này dễ thành gánh nặng vì cơ hội làm lại từ đầu xem như cực hiếm hoi. Bài thơ không thể xếp vào giai đoạn sáng tác thời Hồ vì Phi Khanh mang thần thái hoan hỉ, hoàn toàn khác với Ứng Long. Rìu búa sau đó đã giáng xuống viên phó sứ không tròn nhiệm vụ. Theo tinh thần bài thơ dưới đây, Ông bị bãi chức.

偶作

自詫平生履素絲,
文章無分敢論時。
展禽焉往非三黜,
章子誰云惰四肢。
老即田園真事業,
心無暮夜愧妻兒。
乾坤形著皆吾道,
飛躍高深可遂宜。

Ngẫu tác

Tự sá bình sinh lý tố ti,
Văn chương vô phận cảm luân thì.
Triển Cầm yên vãng phi tam truất,
Chương Tử thuỳ vân nọa tứ chi.
Lão tức điền viên chân sự nghiệp,
Tâm vô mộ dạ quí thê nhi.
Càn khôn hình trước giai ngô đạo,
Phi dược cao thâm khả toại nghi.

Ngẫu nhiên làm thơ

Tự hào suốt đời đi trên tơ trắng,
Không có duyên phận với văn chương sao dám bàn luận thế thời?
Triển Cầm đến nơi nào chẳng bị ba lần bãi chức !
Ai nói rằng Chương Tử luôn uể oải tứ chi?
Về già, ruộng vườn mới là sự nghiệp thật.
Đêm khuya, lòng không thẹn với vợ con.
Biểu hiện trong trời đất đều tuân theo đạo ta,
Chim cá đều có thể bay nhảy thoả thích.

Vấn đề cũng không thuần túy việc bị bãi chức. Tâm tình bối rối của nhà thơ thể hiện qua nhiều điển tích, một phần để biện minh trước lời chiêu dụ Ông không tiện nói ra, một phần bài bác lời ra tiếng vào, phần khác nữa bộc lộ thái độ trung dung trước tương lai bất định. Dưới đây xin cố gắng giải thích những điều Ứng Long muốn nói.

Lý tố ti, đi trên tơ trắng: lấy ý từ quẻ Lý, kinh Dịch, bày tỏ sự thận trọng, đúng mực trong hành xử.

Triển Cầm (720 TCN – 621 TCN): người đất Liễu Hạ nước Lỗ, khi mất có thụy là Huệ nên đời sau còn gọi là Liễu Hạ Huệ. Ông làm Sĩ Sư, ba lần bị truất. Mạnh Tử khen ông “Tấn bất ẩn hiền tất dĩ kỳ đạo dĩ dật nhi bất oán ách cùng nhi bất mẫn 進不隱賢 必以其道遺佚而不怨阨窮而不憫” (a), Khi tiến, không dấu tài lành, đem đạo lý ra thi hành; khi lui về không oán hận ai; khi cùng khổ không lo rầu.

Chương Tử: Khuông Chương, người nước Tề, nổi danh là bất hiếu. Do Mạnh Tử (372 TCN – 288 TCN) vẫn giao du và kính trọng ông nên bị học trò chất vấn. Mạnh Tử bênh vực Chương bằng lập luận gồm năm điểm, mỗi điểm thể hiện một hành vi bất hiếu mà ông không phạm phải. Điểm thứ nhất là “Nọa kỳ tứ chi, bất cố phụ mẫu chi dưỡng, nhất bất hiếu dã 惰其四肢,不顧父母之養, 一不孝也” (b),Tay chân uể oải, không đoái hoài nuôi nấng cha mẹ, là một điều bất hiếu vậy !

(a)(b) Phần chữ Hán trích từ tập Mạnh Tử, trang 112 & 64, Tứ Thư (trọn bộ 4 tập), Nhà xuất bản Thuận Hóa (2013), của dịch giả Đoàn Trung Còn. Phiên âm, dịch nghĩa tham chiếu tài liệu này, có điều chỉnh phù hợp với ngôn ngữ hiện thời.

Phi dược, bay nhảy: mượn chữ từ bài ca Hạn Lộc, Văn Vương chi thập, Đại Nhã, Kinh Thi “Diên phi lệ thiên, ngư dược vu uyên 鳶飛戾天,魚躍于淵”. Hai câu này được sách Trung Dung sử dụng để giải thích tính phổ quát của đạo.

Thời trẻ, Ứng Long cho rằng hoạn lộ gian nan bởi dèm pha của tha nhân. Bây giờ Ông qui trách nhiệm cho số mệnh. Ông ngưng trách người để chuyển sang đối tượng mới là “phận”. Kẻ bình sinh đi trên tơ trắng dĩ nhiên không lỗi lầm gì. Ngày xưa, bị từ chối bổ dụng, Ông khóc; bây giờ mất chức, Ông trở nên minh triết: tự thỏa lòng với mệnh.

Có lẽ Ông hiểu bản thân chỉ là nạn nhân của chính sách dùng Chiêm Thành làm suy yếu Giao Chỉ chủ trương bởi Minh đế. Đại Việt đã tận tâm phụng sự thiên triều. Lương thực, nhân lực, vật hiếm quý… đều được cung ứng mỗi khi có yêu sách từ phương Bắc. Thậm chí dưới thời Hồ, Quý Ly phải cắt một phần đất vùng biên cho nhà Minh để tránh chiến tranh. Tất cả nhân nhượng đều không làm thay đổi kế hoạch người Minh dự định từ trước.

Câu 2 và câu 3 cung cấp manh mối nhỏ về thời điểm sáng tác. Một là, triều đình đang nhộn nhạo, đặc biệt do việc dời đô, khiến quan liêu bàn tán thời sự nhiều. Hai là có người hỏi Ông sao cứ mãi trung thành với vua Trần dù thường bị xử thiếu công bình. Thời điểm sau khi đi sứ và trước khi Hồ Quý Ly bức vua Thuận tông nhường ngôi cho hoàng tử An là khoảng năm 1397 và đầu năm 1398. Hẳn có người thăm dò Ứng Long về việc chọn phe giữa Trần và Hồ.

Câu 4 nói về đạo hiếu. Có thể vào Tây đô làm quan khiến Ứng Long xa cách mẹ cha lúc đó đã rất già nên bị đàm tiếu, nhưng câu thơ cũng hàm ý ứng xử ngay thẳng ắt trước sau gì mọi người cũng hiểu cho. Ông dự định né tránh thế tiến thoái lưỡng nan bằng cách chọn nghiệp ruộng vườn. Chính thất của Ông người họ Trần, đó là điểm nan giải nếu Ông có quyền chọn lựa. Theo Hồ, Ông thẹn với vợ con.

Bị bãi chức nhưng vẫn thấy Ông hiện diện trong sinh hoạt của nhóm quan viên tòa Trung Thư. Bài bát cú buồn bã dưới đây, được làm trong một buổi tiệc, nhẹ nhàng so sánh mình với nhà thơ bị biếm truất lừng danh: Khuất Nguyên.

暮秋

歲晚天寒客易悲,
騷人何必怨江蘺。
西風籬落菊殘後,
夜雨湖山雁斷時。
老景逼人侵亹亹,
秋光戀我去遲遲。
薇垣清夢頭將白,
正恐蓴鱸每負期。

Mộ thu

Tuế vãn thiên hàn khách dị bi,
Tao nhân hà tất oán giang ly.
Tây phong ly lạc cúc tàn hậu,
Dạ vũ hồ sơn nhạn đoạn thì.
Lão cảnh bức nhân xâm vỉ vỉ,
Thu quang luyến ngã khứ trì trì.
Vi viên thanh mộng đầu tương bạch,
Chính khủng thuần lư mỗi phụ kỳ.

Cuối thu

Trời cuối năm giá lạnh khiến khách dễ buồn rầu,
Nhà thơ cần chi phải oán giận cỏ Giang ly.
Vừa khi gió tây thổi hoa cúc tàn bên bờ giậu,
(Thì) Chim nhạn mất hút trong mưa đêm giữa núi hồ.
Cảnh già thúc bách người xồng xộc tới gần,
Ánh thu lưu luyến ta trôi đi chầm chậm.
Xong giấc mộng Vi viên đầu sắp bạc,
Chính là lúc sợ lỗi hẹn mãi với “cá vược rau thuần”.

Khuất Nguyên (340 TCN – 278 TCN) bị vua Sở bãi chức, buồn rầu viết thiên Ly Tao trong đó có câu: “Hỗ giang ly dữ tích chỉ hề 扈江離與辟芷兮”, đeo cỏ giang ly và tích chỉ hề. Giang ly và tích chỉ là tên gọi các loại cỏ thơm. Theo ông, nếu vua hiền thì cỏ thơm mọc đúng chỗ, tức người tài được sử dụng xứng đáng. Ứng Long chấp nhận việc cỏ thơm mọc nhầm nơi, không oán hận gì. Thời điểm nhà thơ gần xong giấc mộng Vi viên cũng là lúc vua Thuận tông đang bất lực trước vận mệnh của chính mình.

Ứng Long nhắc đến “Vi viên” chứng tỏ tác phẩm được viết ra vào những năm cuối Trần khi Ông làm việc tại tòa Tử Vi. Thời Hồ, theo bố trí của vua mới, Ông rời sảnh Trung Thư chuyển sang Viện Hàn Lâm với chức Hàn Lâm học sĩ và sau đó là Đại Lý Tự với chức Đại Lý Tự khanh.

Mùa thu chứ không phải án kỷ luật mang nỗi buồn đến. Ứng Long mất chức nhưng chưa đến nỗi phải rời quan trường. Có thể khi đó, Hồ Quý Ly chỉ quan tâm đến việc trừ khử Thuận tông, còn bản thân nhà vua chưa tìm ra cách nào để sống. Chẳng ai chú ý đến đám văn quan ngóng chờ chiều gió.

Do tranh chấp quyền lực thượng tầng, việc quản lý quan lại phụ trách hành chánh dường như bị buông lơi. Chúng ta thấy năm 1399, Ứng Long tránh xa rối rắm trong triều bằng cách theo đuổi thú nhàn ngay giữa đô thành.

城西大隐廬口占

宦途四十五年身

城巿戲為大隐民

竹石安排詩好景

鳥花團占酒佳賓

衡門自有安心樂

聖世何憂抱道貧

誰道趨时吾計拙

一閒風味儘吾仁

Thành tây đại ẩn lư khẩu chiếm (6)

Hoạn đồ tứ thập ngũ niên thân,

Thành thị huy vi đại ẩn dân.

Trúc thạch an bài thi hảo cảnh,

Điểu hoa đoàn chiếm tửu giai tân.

Hoành môn tự hữu an tâm lạc,

Thánh thế hà ưu bão đạo bần.

Thùy đạo xu thời ngô kế chuyết,

Nhất nhàn phong vị tận ngô nhân.

Nơi nhà Đại ẩn phía tây thành, buộc miệng làm thơ

Thân bốn mươi lăm tuổi còn trên đường quan,
Giữa chốn thị thành vui làm người dân đại ẩn.
Bài trí tre, đá: cảnh đẹp cho thơ,
Chiếm trọn chim, hoa: rượu là khách quý.
Trong cánh cửa quê mùa, tự có niềm vui của “tâm an”,
Giữa đời vua thánh cần chi phải lo cái nghèo do “ôm đạo”.
Ai bảo mình tính kế vụng về nên không hợp thời?
Phong vị nhàn chính là cái thiện lương hết mực của ta.

Năm này, Quý Ly cưỡng bức Thuận tông đi tu Đạo giáo, dời ra ở quán Ngọc Thanh (Quảng Ninh nay), sau đó sai người ám hại. Nhóm quan tướng trung thành Trần Hãng, Trần Khát Chân phản ứng, mưu sát họ Hồ tại hội thề Đốn Sơn (Thanh Hóa nay) nhưng thất bại, bị truy sát trên 370 người. Sau sự biến, Quý Ly tự xưng Quốc Tổ Chương Hoàng, Hán Thương xưng Nhiếp thái phó, Nguyên Trừng được chức Tư Đồ. Vấn đề quan trọng của quan lại thời điểm ấy rõ rệt là việc chọn phe nào giữa Hồ và Trần. Quyền thế mới vun trồng nhóm xu thời mới, riêng Ứng Long vì hoàn cảnh đặc biệt nên khó dứt khoát chọn phe nào. Bài thơ trên đây cho thấy xu thế ngả về họ Hồ của Ứng Long không hình thành trong một sớm một chiều, qua một định ngữ nho gia thường dùng để chỉ triều đại mình phục vụ, Ông khẳng định triều Trần vẫn là “thánh thế”.

Tuy vậy, dường như do “ngồi chơi xơi nước” nên cảm giác bị bỏ quên nổi lên khi Ông rụt rè dâng thơ mừng vị Trung Thư Thị lang nhà Hồ, người phụ trách tổ chức hệ thống quan lại dưới tân triều Đại Ngu. Qua bài “Hạ Trung Thư Thị lang”, Mừng quan Thị lang tòa Trung Thư, tác giả tự cho mình là vật bị vứt đi đồng thời khẩn khoản ngỏ ý xin tái dụng.

TÂM TRẠNG LẠC QUAN DƯỚI THỜI HỒ

Năm 1401, Hồ Quý Ly soán ngôi họ Trần và sắp xếp lại hệ thống quan chức. Thời điểm này, Ông đổi tên thành Phi Khanh. Tâm trạng chờ đợi đổi đời theo hướng khởi sắc phản ánh rõ ràng trong bài thơ sau

賀中書侍郎

虞庭庶事務熙康,
績典惟公合陟揚。
人望夔龍參玉鉉,
天教星鳳展彝章。
曲江夙負經綸學,
司馬寧辭四六長。
聖世倘懷遺棄物,
願施栽藻到農桑。

hạ trung thư thị lang

Ngu đình thứ sự vụ hy khang,
Tích điển duy công hợp trắc dương.
Nhân vọng Quì (a) Long (b) tham ngọc huyễn,
Thiên giao Tinh (c) Phượng (d) triển di chương.
Khúc Giang (e) túc phụ kinh luân học.
Tư Mã (f) ninh từ tứ lục trường.
Thánh thế thảng hoài di khí vật.
Nguyện thi tài tảo đáo nông tang.

(a) Quỳ: là nhạc quan, chịu trách nhiệm giáo hóa dưới đời vua Thuấn.

(b) Long: cùng thời với ông Quỳ, có nhiệm vụ xem xét lời bàn bạc của triều thần.

(c)Tinh: tên một vì sao thuộc “nhị thập bát tú”, tương ứng với con ngựa. Sao Tinh mang ý nghĩa tốt cho việc xây dựng.

(d) Phượng: loài chim huyền thoại báo hiệu bậc đế vương xuất hiện.

(e) Khúc Giang: tức Trương Cửu Linh (678 – 740), văn gia, danh thần đời Đường. Ông là người mở rộng đường đèo qua Dữu Lĩnh.

(f) Tư Mã: tức Tư Mã Tương Như, tên thật là Mã Trường Khanh (179 TCN – 117 TCN). Ông nổi tiếng về tài văn và tài đàn.

Mừng quan Thị lang tòa Trung Thư

Việc triều đình nhà Ngu đều chuyên chú vào chấn hưng và ổn định,
Xây dựng chuẩn tắc chỉ mình ông là xứng đáng.
Mọi người đều mong bậc Quỳ, Long được bổ vào vị trí tam công,
Trời giao sao Tinh, chim Phượng mở mang qui phạm.
Khúc Giang nổi tiếng từ lâu về cái học tế thế kinh bang,
Tư Mã lẽ nào từ chối sở trường văn tứ lục !
Đời vua thánh, nếu kẻ bỏ đi này được chiếu cố,
Sẽ nguyện đem tài văn khiêm tốn đến tận xóm làng.

Bài thơ ngầm so sánh việc phân công các đại thần đời Hồ với việc bổ nhiệm các chức quan bởi vua Thuấn. Phi Khanh đồng nhất Đại Ngu với Ngu Thuấn, triều đại thịnh trị lý tưởng của nho gia.

Tân Hoàng đế đã chọn vị trí thích hợp hơn cho thư sinh Phi Khanh: chức Hàn lâm Học sĩ.

Trong thi phẩm “Họa Chu Hàn lâm Vị Ương tảo triều”, Họa bài ‘Vị Ương tảo triều’ của quan Hàn lâm họ Chu, Phi Khanh kín đáo thể hiện một tâm tình khác. Ông không còn chê công việc nhỏ nhặt, bản thân phải thực hiện một cách miễn cưỡng, trái lại, thầm nguyện nỗ lực để chu toàn công việc của vị quan nay đã được mặc áo bào đẹp.

和朱翰林未央早朝

高閣纔開夜漏乾,
九天宮闕悄輕寒
雲開瑞日乾坤曉,
春布皇仁雨露寬
董賈彬彬揚殿陛,
夔龍楚楚集朝端

華袍忝綴群公後,
願罄涓埃效一官。

Họa Chu Hàn lâm Vị Ương (a) tảo triều

Cao các tài khai dạ lậu can,
Cửu thiên cung khuyết tiễu khinh hàn.
Vân khai thuỵ nhật càn khôn hiểu,
Xuân bố hoàng nhân vũ lộ khoan.
Đổng (b), Giả (c) bân bân dương điện bệ,
Quì (d), Long (e) sở sở tập triều đoan.

Hoa bào thiểm chuế quần công hậu,
Nguyện khánh quyên ai hiệu nhất quan.

(a) Vị Ương: tên tiền điện trong hệ thống cung thất thời Tây Hán tại Trường Yên.

(b) Đổng: Đổng Trọng Thư (180 TCN – 105 TCN), danh nho thời Tây Hán, chủ trương nho thuật độc tôn. Ông đưa ra khái niệm “Thiên nhân hợp nhất” và “Dương tôn âm ty”.

(c) Giả: Giả Nghị (201 TCN – 169 TCN), danh thần đời Tây Hán, có đầu óc cấp tiến. Do lời dèm pha ông bị biếm ra đất Trường Sa và mất ở đó.

(d) Quỳ: là nhạc quan, chịu trách nhiệm giáo hóa dưới đời vua Thuấn.

(e) Long: cùng thời với ông Quỳ, có nhiệm vụ xem xét lời bàn bạc của triều thần.

Họa bài “Vị Ương tảo triều” của quan Hàn Lâm họ Chu

Đồng hồ qua đêm đã cạn, gác cao vừa mở,
Cung khuyết trên chín tầng mây lặng lẽ trong tiết trời gợn lạnh.
Ngày lành, màn mây khai vén bầu trời hừng sáng,
Lòng nhân của vua như mưa móc mùa xuân bao trùm.
Họ Đổng, họ Giả phong nhã được tuyên dương trên thềm điện,
Ông Quỳ, ông Long rỡ ràng hội tụ nơi đầu mối triều đình.

Thẹn mặc áo bào đẹp đứng nối sau lưng các ngài,

Nguyện mang hết tài hèn để chu toàn phận sự chức quan này.

Đây có thể là buổi chầu của các quan chức cao cấp mới được bổ nhiệm sau khi họ Hồ lập nước Đại Ngu. Địa điểm thiết triều là Tây đô, Thanh Hóa.

Năm 1402, Hồ Hán Thương cử binh chống Chiêm Thành, An Phủ sứ lộ Đông đô Nguyễn Bằng Cử được chỉ định chức Đồng Chiêu dụ sứ. Phi Khanh tiễn Nguyễn công bằng bài thơ lạc quan sau:

送京師尹阮公為行營招討使

釜中占賊久逋誅,
四海人神怨憤俱。
誰卜百年遺此虜,
公煩寸舌討狂胡。
金戈鐵馬鯨猊沒,
羽檄星麾象兕驅。
指日皇風清絕域,
大功出任屬吾儒。

Tống Kinh sư Doãn Nguyễn công vi

Hành doanh Chiêu thảo sứ

Phủ trung Chiêm tặc cửu bô tru,
Tứ hải nhân thần oán phẫn câu.
Thuỳ bốc bách niên di thử lỗ,
Công phiền thốn thiệt thảo cuồng hồ.
Kim qua thiết mã kình nghê một,
Vũ hịch tinh huy tượng hủy khu.
Chỉ nhật hoàng phong thanh tuyệt vực,
Đại công xúy nhiệm thuộc ngô nho.

Tiễn Kinh sư Doãn Nguyễn công nhậm chức Hành doanh Chiêu thảo sứ

Giặc Chiêm trốn tội chết đã lâu nay chỉ như cá trong chảo,
Thần, người bốn biển đều căm oán.
Không ngờ bọn giặc này còn sót lại sau cả trăm năm,
Cảm phiền Ông dùng tấc lưỡi sửa trị lũ man di ngông cuồng.
Giáo vàng ngựa sắt tiêu diệt cá kình cá nghê,
Hịch lông cờ sao xua đuổi voi và trâu rừng.
Mong đến ngày gió lành quét sạch cõi xa xôi hẻo lánh,
Gánh vác sự nghiệp to lớn là nhiệm vụ nhà nho chúng ta.

Ông tiếp tục truyền thống khinh miệt văn hóa phi-Hoa của nho sĩ Đại Việt, những người vốn là học trò tận tụy của nền văn minh phương Bắc. Tuy nhiên, vì nhiều lý do, đồ đệ phương Nam chỉ đủ sức tiếp thu phần thấp của Nho học. Xem các nền văn hóa khác Hán là man di, tức ý tưởng phân biệt Hoa-Di, chính là phần cặn bã của Nho giáo nói riêng, của văn minh Tàu nói chung. So với tâm thức Phật giáo của vua Nhân Tông đầu đời Trần, vốn xem mọi sinh linh có tính Phật như nhau, nên đã gả Huyền Trân cho Chế Mân để gầy dựng một liên minh phòng vệ trước đế quốc Mông Cổ quá hùng mạnh, nhận thức chính trị của tầng lớp biết chữ tại châu thổ sông Hồng cuối Trần đầu Hồ có bước lùi đáng kể. Chính nho gia góp phần tạo ngăn cách giữa Chiêm và Việt, làm suy yếu cả hai dân tộc, tự mình biến thành mồi ngon trước Đại Minh đang bước vào giai đoạn toàn thịnh. Giữa vai trò nước mạnh có tiềm năng liên kết, dẫn đạo các vương quốc biển Nam và vai trò môn đệ yếu đuối của Hoa Hạ, đáng tiếc tầng lớp tinh hoa Việt dứt khoát chọn vế thứ hai, sau một thế kỷ phân vân của các vua Trần. Thay vì kiêu hãnh đối diện Trung Hoa, Đại Việt trong nhiều giai đoạn chỉ là bóng mờ nép vào vùng ngoại biên đại đế quốc.

Có thể hình ảnh Thăng Long tả tơi dưới gót chân Chế Bồng Nga chưa phai nhạt trong ký ức Phi Khanh. So với lời lẽ hung hãn kích động khi tiễn sứ đi Chiêm Thành, câu văn dành cho quan lại đối diện Trung Nguyên nằm ở thái cực khác: mềm mỏng và thanh tao.

賀京兆尹阮公

為雲屯經略使

芝綍優頒自九天,
榮遷經略使司權。
潮門半是嗷鴻澤,
屯嶺猶殘劫石煙。
籌劃小施經國手,
折衝終賴濟時賢。
歸來揆路庸何晚,
聖主方今急在邊。

Hạ Kinh Triệu doãn Nguyễn Công

vi Vân Đồn Kinh lược sứ

Chi phất ưu ban tự cửu thiên,
Vinh thiên Kinh lược sứ ty quyền.
Triều môn bán thị ngao hồng trạch,
Đồn lĩnh do tàn kiếp đạn yên.
Trù hoạch tiểu thi kinh quốc thủ,
Chiết xung chung lại tế thời hiền.
Qui lai quĩ lộ dung hà vãn,
Thánh chúa phương kim cấp tại biên.

Mừng ông Nguyễn, quan Triệu doãn Kinh đô

nhận chức Kinh lược sứ Vân Đồn

Chiếu chỉ ưu đãi từ chín tầng trời ban xuống,
(Ông) Được vinh dự chuyển giao quyền Kinh lược sứ.
Cửa biển nửa phần đã thành đầm ao nháo nhác chim hồng,
Núi Đồn hãy còn bị tàn hại bởi khói đạn giặc cướp.
Tính toán bàn định ra tay sửa sang việc nước,
Nơi xung yếu rốt cục phải nhờ bậc tài năng cứu đời.
Đường trở về văn chức vẫn chưa muộn,
Hiện nay vua thánh cần ông gấp tại biên cương.

Giữa năm 1402, Nguyễn Bằng Cử “chiêu thảo” thành công ở Chiêm Thành. Có lẽ nhờ thành tích đó, triều đình tiếp tục điều cụ Nguyễn giải quyết nạn cướp biển ở Vân Đồn. Chính năm 1402 này, Yên Vương Chu Đệ (Minh Thành Tổ) đã vào Nam Kinh truất ngôi vua của cháu ruột Chu Doãn Văn (Kiến Văn đế) đồng thời tiến hành giết chóc những người bất phục. Một số phần tử trung thành với vua cũ đã chạy ra hướng đại dương. Minh Thực Lục có ghi nhận (vào ngày 4/10/1402) một số quân nhân, dân thường, lưu manh ở nội địa đã phối hợp với các sắc dân phi Hoa chiếm đóng các đảo ngoài biển hành nghề trộm cướp. Có thể Vân Đồn bị đốt phá trong thời gian này. Vua mới Chu Đệ kêu gọi các sắc dân phiên trở về quê quán, người Hoa trốn lánh thì được tha tội để quay lại chức nghiệp cũ. Có vẻ Bằng Cử đại diện họ Hồ để hợp tác với người Minh giải quyết vụ rối loạn trên biên giới biển.

Ta thấy Ông hãnh diện với chức vụ trong viện Hàn Lâm, nơi thảo chiếu chỉ. Chưa bao giờ Ông tự tin đến vậy. Ngày nào không dám bàn việc ở “miếu đường”, nay Ông sẵn sàng “ưu quốc”. Mặc cảm nhỏ bé tự ti hoàn toàn tan biến.

喜學士陳若虛自乂安至

桃花浪泛暖青春,
湖海風流卻羡陳。
老我一官閒草詔,
壯君萬里遠辭親。
暮雲自豁相思地,
夜月欣逢久別人。
懮國正須吾輩事,
憑渠為說乂安民。

hỉ học sĩ trần nhược hư tự nghệ an chí

Đào hoa lãng phiếm noãn thanh xuân.
Hồ hải phong lưu khước tiễn Trần.
Lão ngã nhất quan nhàn thảo chiếu,
Tráng quân vạn lý viễn từ thân.
Mộ vân tự khoát tương tư địa,
Dạ nguyệt hân phùng cửu biệt nhân.
Ưu quốc chính tu ngô bối sự,
Bằng cừ vị thuyết Nghệ An dân.

Mừng Học sĩ Trần Nhược Hư đến từ Nghệ An

Chàng tuổi trẻ nồng nhiệt vượt sóng hoa đào đến đây,
(Lòng) rất hâm mộ họ Trần, khách phong lưu nơi hồ hải.
Ta già rồi, giữ chức quan nhàn thảo chiếu,
Anh mạnh thay, từ biệt song thân đi vạn dặm.
Trên vùng đất mong nhớ nhau, mây chiều tự tiêu tán.
(Hé lộ) vầng trăng đêm hân hoan vì gặp lại người xa cách đã lâu,.
Ưu tư việc nước chính là nhiệm vụ của tầng lớp chúng ta,
Xin nhờ người nhắn với dân Nghệ An điều đó.

Chú ngựa Ứng Long quên phắt việc tìm thoát buộc ràng vì thiếu cỏ. Ông khẳng định mạnh mẽ, nhiều lần rằng kinh bang tế thế là sự nghiệp của chính Ông và đồng đạo.

Tưởng cuộc đời sang trang khác, không may, quân Minh kéo đến vào năm 1406. Dăm năm làm quan ngắn ngủi, chưa thi thố được gì thì chiến tranh thay đổi mọi thứ tận gốc rễ.

NGUYỄN PHI KHANH ĐẦU HÀNG GIẶC MINH

Toàn thư ghi nhận ngắn gọn về hành vi của Phi Khanh khi quân Đại Ngu tan vỡ tại trận Hàm Tử vào năm 1407 như sau:

“Bọn Hồ Đỗ, Phạm Lục Tài, Nguyễn Ngạn Quang, Đoàn Bồng đều bị bắt. Còn bọn Trần Nhật Chiêu, Nguyễn Phi Khanh, Nguyễn Cẩn, Đỗ Mãn đều đã đầu hàng từ trước.” (Toàn Thư II, 233)(a)

(a) Nguyên văn: 胡杜范六材阮彦光段…皆被擒其餘陳日昭阮飛卿阮謹杜

以先降 (Toàn Thư IV, 276)

Hồ Đỗ Phạm Lục Tài Nguyễn Ngạn Quang Đoàn… giai bị cầm kỳ dư Trần Nhật Chiêu Nguyễn Phi Khanh Nguyễn Cẩn Đỗ Mãn tịnh dĩ tiên hàng.

Ngoài ghi nhận anh hùng Hy Chu bị bắt sau đó bị hành hình vì chưởi mắng giặc, các trung thần Kiều Biểu và Ngô Miễn cùng phu nhân tuẫn tiết; chính sử Đại Việt phân thành hai nhóm quan tướng nữa, rất rõ ràng: nhóm Đỗ, Tài, Quang, Bồng chống đến cùng cho đến sa cơ; nhóm Chiêu, Khanh, Cẩn, Mãn đầu hàng từ trước. Toàn Thư thể hiện minh bạch tinh thần “bao biếm” thông qua cách ghi chép.

Cho rằng Phi Khanh chống Minh bị bắt chứ không phải đầu hàng sẽ khiến tiểu sử Nguyễn Trãi trở nên mơ hồ trong quãng thời gian mà chính Ức Trai gọi là “thập niên phiêu chuyển”.

Thử xét cái nhìn từ phía đối diện. Minh Thực Lục, sau khi miêu tả trận đánh quyết định tại Hàm Tử vào ngày 4 tháng 5 năm 1407 với chiến công bắt sống Nguyễn Hy Chu, giết Hồ Xạ cùng hàng vạn quân Đại Ngu, đã thông báo cha con họ Hồ thoát thân trên vài chiếc thuyền nhỏ. Về những người đầu hàng, Minh Thực Lục cho biết như sau:

“Lại bộ Thượng thư Phạm Nguyên Lãm, Đại lý Tự khanh Nguyễn Phi Khanh, Thiên Vệ Tướng quân Trần Nhật Chiêu, Hoa Ngạch tướng quân Lê Uy của ngụy đều đến đầu hàng Trương Phụ.” (Minh Thực Lục I, 252)(a)

(a) Nguyên văn: 偽吏部尚書範元覽大理卿阮飛卿千衛將陳日昭華頟將軍黎威

等皆詣輔降 (Minh Thực Lục I, 656). Ngụy Lại bộ Thượng thư Phạm Nguyên Lãm, Đại lý khanh Nguyễn Phi Khanh, Thiên Ngưu vệ tướng Trần Nhật Chiêu, Hoa Ngạch tướng quân Lê Uy đẳng giai nghệ Phụ hàng. Nhận xét: bản tiếng Việt thiếu chữ “Ngưu” phiên hiệu đơn vị của Nhật Chiêu.

Sử nhà Minh ghi rõ nhóm Lãm, Khanh, Chiêu, Uy chủ động tìm đến Trương Phụ để đầu hàng khi quân chủ lực nhà Hồ bị tiêu diệt. Nên chú ý chức vụ của Nguyễn Phi Khanh do phía Minh ghi lại, chắc chắn căn cứ vào bản khai của chính Ông. Vào thời điểm đó, Ông không giữ chức Hàn lâm Học sĩ mà là Đại Lý Tự khanh. Triều Hồ ngắn ngủi không để lại rõ ràng hệ thống quan chức; nếu dựa vào hệ thống nhà Tống, ta thấy Đại Lý Tự khanh thuộc hàng chánh tam phẩm. Phi Khanh là quan lại cao cấp nên được sử gia hai bên ghi nhận hành trạng.

Phi Khanh vì hoảng hốt trước chiến cuộc tàn khốc nên đầu hàng hay Ông đã suy nghĩ chín chắn trước khi quyết định?

Qua bài “Quan vi kỳ” ta thấy một phần tính cách của Ông. Phi Khanh làm gì đều có cân nhắc

萬事如棋須說著,

(觀圍棋)

Vạn sự như kỳ tu thuyết trước,

(Quan vi kỳ)

Vạn sự đều như đánh cờ, nên tính toán trước.

(Xem đánh cờ vây)

Hoặc trong bài “Trừ dạ dụng Đỗ lão vận, chư quân tịch thượng đồng tác”

萬事細思看鬢髮,

(除夜用杜老韻,

諸君席上同作)

Vạn sự tế tư khan mấn phát,

(Trừ dạ dụng Đỗ lão vận,

Chư quân tịch thượng đồng tác)

Trông đám tóc mai biết mọi sự đều suy tính kỹ,

(Đêm ba mươi Tết dùng vần của Đỗ Phủ, cùng các bạn trong tiệc làm thơ)

Thời điểm đầu hàng của Phi Khanh cho thấy Ông không quyết định ngẫu nhiên. Sau trận Hàm Tử, quân Hồ không còn sức kháng cự đáng kể nữa, chỉ chạy dài cho đến khi vua tôi đều bị bắt.

Chính sách của nhà Minh rất khéo léo đối với các dạng đối tượng khác nhau.

Về số phận hoàng gia và những quan tướng bị bắt, Toàn thư ghi chép như sau

“Bắt giải Quý Ly và các con là Hán Thương, Trừng, Triết, Uông, các cháu là Nhuế, Lô, Phạm, cháu nhỏ là Ngu Lang, em là Quý Tỳ, cháu gọi bằng bác là Nguyên Cữu, Tử Tuynh, Thúc Hoa, Bá Tuấn, Ðình Diệp, Ðình Hoảng; các tướng thần là Ðông Sơn hương hầu Hồ Ðỗ, Hành khiển Nguyễn Ngạn Quang, Lê Cảnh Kỳ; các tuớng quân là Huyện bá Ðoàn Bồng, Đình bá Trần Thang Mông, Trung lang tuớng Phạm Lục Tài cùng các ấn tín đến Kim Lăng để dâng.” (Toàn Thư II, 235) (a)

(a) Nguyên văn: 俘送季犛及其子漢蒼澄澈汪孫芮滷范幼孫五郎弟季貔姪元

騂叔驊伯駿廷燁廷爌将臣東山鄕侯胡杜行遣阮彦光黎景琦将軍縣伯段… 亭伯陳湯夢中郎 范六才及其印信至金陵以献.(Toàn Thư IV, 277)

Phù tống Quý Li cập kì tử Hán Thương Trừng Triệt Uông tôn Nhuế Lỗ Phạm ấu tôn Ngũ lang đệ Quý Tì điệt Nguyên Cữu Tử Tuynh Thúc Hoa Bá Tuấn Đình Diệp Đình Hoảng tướng thần Đông Sơn Hương hầu Hồ Đỗ Hành khiển Nguyễn Ngạn Quang Lê Cảnh Kì tướng quân Huyện bá Đoàn Bồng Đình bá Trần Thang Mộng Trung lang tướng Phạm Lục Tài cập kì ấn tín chí Kim Lăng dĩ hiến .

Minh Thực Lục ghi nhận buổi lễ hiến phù tại Kim Lăng với danh sách tù binh tương tự, chỉ sai biệt tên bốn người trên tổng số 22 người, có thể do ghi chép nhầm nét hoặc phiên sang Hán tự tên thuần nôm bằng phương pháp khác với cách phiên của người An Nam, cụ thể: Triệt 澈 thành Đôn 潡, Phạm 范 thành Nê 坭, Diệp 燁 thành Đạn 燀, Bồng … thành Bế鼙. Ba trường hợp đầu các cặp chữ phát âm khác nhau có tự dạng gần giống nhau nên khả năng sai lệch do tam sao thất bản là cao. Riêng tên Bồng hay Bế không có chữ Hán chuẩn tương thích, có thể vị bá tước cấp huyện này tên Đoàn Bé.

Vua Minh chỉ giam Quý Ly, Hán Thương và Hồ Đỗ. Số còn lại được tha và chu cấp quần áo, lương thực.

Trong danh sách tù binh nạn nhân của lễ hiến phù, không có tên bất kỳ quan lại đầu hàng nào. Chỉ có hoàng tộc Hồ và các quan tướng chống cự đến giờ phút cuối cùng.

Về cách ứng xử của kẻ chiến thắng đối với người đầu hàng, có thể quan sát số phận một nhân vật hàng Minh cùng lúc với Phi Khanh là Trần Nhật Chiêu, chỉ huy vệ quân Thiên Ngưu. Nhật Chiêu ngay lập tức được tướng Minh thu nhận và giao trông coi đất Nghệ An. Rủi thay, cũng trong năm 1407, Nhật Chiêu bị Giản Định đế trừ khử cùng với Trần Thúc Dao, một hàng tướng khác là cậu ruột Nguyễn Trãi, đang được người Minh giao trông coi đất Diễn châu (Bắc Nghệ An nay). Chiêu và Dao không bị giết đơn lẻ mà cùng với gia thuộc hơn 500 người. Điều này cho thấy quân Minh trọng dụng những người đầu hàng họ, và phía nổi dậy cực kỳ thù ghét nhóm trở cờ này. Giản Định không chỉ giết người đứng đầu, Ông giết toàn thể gia đình và bộ thuộc của kẻ đầu hàng. Nguyên nhân không vì hai người họ Trần chống lại quân nổi dậy, mà chỉ vì họ không chủ động chào đón Giản Định. Hành động của cha và cậu ruột vô tình chắn mất con đường kháng chiến dưới cờ Hậu Trần của Nguyễn Trãi, nếu lúc đó Nguyễn Trãi có ý định chống Minh. Những người đầu hàng khác như Mạc Thúy, Mạc Viễn, Nguyễn Huân…….. đều được nhà Minh trao quan tước.

Như vậy, Nguyễn Phi Khanh đã sang Tàu nhưng theo chế độ dành cho người đầu hàng, không bị bắt và áp giải trong cũi hay đóng gông. Ông phải được đối đãi tốt như người Minh từng đối đãi trọng thị Trần Nhật Chiêu. Vua quan nhà Minh thừa khôn ngoan để tận dụng đại thần Nguyễn Phi Khanh làm mẫu mực nhằm dẫn dụ các quan đang trốn tránh. Theo qui định Minh triều, Phi Khanh sẽ cầm “giấy khám hợp” sang phương Bắc trình diện theo chính sách được ghi nhận trong Minh Thực Lục như sau:

Ngày 5 tháng 7 năm 1407: “Cải chức Đại lý Tự khanh Trần Hiệp làm Tả Thị lang bộ Lại, sai Lang trung Trương Tông Chu mang 20 bằng khám hợp giao cho Hiệp. Phàm những người đáng trao chức quan thì bàn với quan Tổng binh Tân Thành hầu Trương Phụ, Tả Phó Tướng quân Tây Bình hầu Mộc Thạnh, [Thượng thư] bộ Binh Lưu Tuấn để lượng tài giao chức, rồi cấp cho bằng khám hợp. Lúc gọi về kinh khảo xét thì căn cứ vào những chi tiết điền trong khám hợp, nếu không có sự trở ngại sẽ được bổ dụng.” (Minh Thực Lục I, 271) (a)

(a) Nguyên văn: 改大理寺卿陳洽為吏部左侍郎遣郎中張宗周等以吏部勘合二十

道付洽凡當受官必與總兵官新城侯張輔左副將軍西平侯沐晟兵部劉俊計議量才授職給與勘合來朝之日憑此稽考其先已授職如無礙者皆補與之合底簿填寫則奏繳 (Minh Thực Lục I, 680).

Cải Đại Lý Tự khanh Trần Hiệp vi Lại bộ tả Thị lang, khiến Lang trung Trương Tông Chu đẳng dĩ Lại bộ khám hợp nhị thập đạo phó Hiệp. Phàm đang thụ quan tất dư Tổng binh quan Tân Thành hầu Trương Phụ, Tả Phó Tướng quân Tây Bình hầu Mộc Thạnh, Binh bộ Lưu Tuấn kế nghị lượng tài thụ chức cấp dư khám hợp. Lai triều chi nhật bằng thử kê khảo kỳ tiên dĩ thụ chức như vô ngại giả giai bổ dư chi hợp để bạ trấn tả tắc tấu kiểu.

Đó là giấy tờ dùng cho quan văn, do bộ Lại quản lý. Với võ tướng, do bộ Binh trông coi, nhà Minh cũng có chủ trương phù hợp.

Ngày 23 tháng 8 năm 1407: “Lệnh bộ Binh phát hành 1.000 bằng khám hợp dành cho võ chức gửi sang Giao Chỉ để Thượng thư Lưu Tuấn dùng. Như vậy, gặp trường hợp quan dân địa phương lập thành tích, ông ta có thể nghị xét để trao quan chức tương tự như chế độ của văn ban.” (a)

Con số 20 bằng khám hợp dành cho văn chức rất đáng ngờ vì quá ít ỏi để tuyển đủ người cai trị vùng đất có hơn năm triệu dân. Geoff Wade đã đối chiếu các bản khác và cho rằng số lượng bằng khám hợp là 2.000 (hoặc 20). Như vậy, Geoff Wade tin con số 2.000 hơn (b). Xét số lượng 1.000 bằng dành cho võ chức chuyển giao đến Binh bộ Thượng thư Lưu Tuấn, chúng ta đoán được nhà Minh cần 2.000 quan văn chứ không phải 20. Văn chức bao gồm các vị trí thuộc Ty Bố chính và Ty Án sát. Võ chức thuộc quyền Đô Ty. Dự trù từ Minh triều hẳn là 1.000 người cho mỗi Ty. Chữ “thập 十”, mười, và “thiên千”, ngàn, rất dễ khiến người sao chép lầm lẫn.

(a) Đoạn này do chúng tôi dịch vì ấn bản Minh Thực Lục, Nhà Xuất Bản Hà Nội (2010) thiếu phần dịch đoạn đầu của ghi chép ngày 23/8/1407, chỉ thể hiện đoạn sau nói về thành trì bị sụp cần sửa chữa và việc điều quân từ Khâu Ôn, Ải Lưu về Thanh Hóa. Bản tiếng Hán kèm theo thì vẫn đầy đủ thông tin.

Nguyên văn: 敕兵部編武職勘合一千道往交址付尚書劉俊掌之遇土官土人有功者

會議授官如文職之制 (Minh Thực Lục I, 689)

Sắc Binh bộ biên võ chức khám hợp nhất thiên đạo vãng Giao Chỉ phó Thượng thư Lưu Tuấn chưởng chi ngộ thổ quan thổ nhân hữu công giả hội nghị thụ quan như văn chức chi chế.

(b) Bản dịch sang tiếng Anh ghi chép ngày 5/7/1407 của Geoff Wade

Yong-le: Year 5, Month 6, Day 1 (5/7/1407). The Director Zhang Zong-zhou and others were sent with 2,000 (Alt: 20) Ministry of Personnel tally-slips to issue to those suitable for appointment as officials. They were required to discuss the matter with the Xin-cheng Marquis and Regional Commander Zhang Fu, the Xi-ping Marquis and Deputy General Mu Sheng and the Minister of War Liu Jun, select those with ability for appointment as officials and provide them with tally-slips. When these officials came to the Court, they would be received only on the basis of these tally-slips. Those persons who had already been appointed to posts and were acceptable in their positions were also be given slips. When the tally-slip reference stub-book was completely filled, it was to be sent back to the Court.(7)

Cách ứng xử của nhà Minh dành cho quan chức tương lai thể hiện trong chiếu chỉ gửi Trương Phụ như sau:

Ngày 17 tháng 3 năm 1407: “Khi quân chiếm được An Nam, hãy thăm dò rộng rãi khắp nước để tìm người tài đức, hoặc có một điều hay, một nghề giỏi. Hãy dùng lễ để

sai khiến, tìm cách đưa về kinh đô.” (Minh Thực Lục I, 250) (a)

Sau đó, vua Minh lại tiếp tục dặn dò kỹ lưỡng việc săn lùng và ứng xử với nhân tài.

Ngày 28 tháng 7 năm 1407: “Đất Giao Chỉ chắc có những người tài đức song toàn ẩn dật tại núi rừng, rành kinh điển văn hay học rộng, có tài hiền lương đứng đắn; nông dân hiếu đễ thông minh chính trực; kẻ thư lại có khả năng được việc, thông thạo sách vở, người luyện tập binh pháp vũ nghệ trí mưu, dung mạo khôi ngô cao lớn, ăn nói lưu loát, có sức vóc dũng cảm; kẻ biết thuật số âm dương, rành y dược chẩn mạch. Hãy hỏi han tìm cho được, dùng lễ sai khiến để mang về kinh dùng.” (Minh Thực Lục I, 274)(b)

Toàn Thư cho biết những kẻ hợp tác khi sang nước Minh đều có người bạn tống, được chu cấp tiền đi đường và cung ứng thực phẩm dọc đường. Có lẽ sử Việt đã đề cập đến “lễ 禮” này. Còn con dân Đại Ngu hưởng ứng ở mức độ nào?

Toàn thư ghi nhận tình hình nhân sĩ Đại Ngu vào năm 1407 như sau:

“Những người có tiếng tăm một chút đều hưởng ứng. Duy có Bùi Ứng Đẩu từ chối, lấy cớ đau mắt, bọn hạ trai (c) học sinh Lý Tử Cấu mấy người lui ẩn không chịu ra mà thôi.” (Toàn Thư II, 235)(d)

(a) Nguyên văn:師克安南之日其境內才德賢知之士及有一善可稱一藝可用者

為詢問悉以禮遣送赴京 (Minh Thực Lục I, 652)

Sư khắc An Nam chi nhật kỳ cảnh nội tài đức hiền tri chi sĩ cập hữu nhất thiện khả xứng nhất nghệ khả dụng giả quảng vi tuân vấn tất dĩ lễ khiển tống phó kinh.

(b) Nguyên văn:敕交址總兵官新城侯張輔左副將軍西平侯沐晟等兵部尚書劉俊曰

交址應有懷才抱德山林隱逸明經能文博學有才賢良方正孝弟力田聰明正直廉能幹濟練達吏事精通書算明習兵法武藝智謀容貌魁偉語言便利膂力勇敢陰陽術數醫藥方脈之人悉心訪求以禮遣送赴京擢用 (Minh Thực Lục I, 687-688)

Sắc Giao Chỉ Tổng binh quan Tân Thành hầu Trương Phụ, Tả Phó Tướng quân Tây Bình hầu Mộc Thạnh đẳng Binh bộ Thượng thư Lưu Tuấn viết: Giao Chỉ ưng hữu hoài tài bão đức sơn lâm ẩn dật minh kinh năng văn bác học hữu tài hiền lương phương chính hiếu đễ lực điền thông minh chính trực liêm năng cán tế luyện đạt lại sự tinh thông thư toán minh tập binh pháp võ nghệ trí mưu dung mạo khôi vĩ ngữ ngôn tiện lợi lữ lực dũng cảm âm dương thuật số y dược phương mạch chi nhân tất tâm phỏng cầu dĩ lễ khiển tống phó kinh trạc dụng.

(c) Theo Lê Quý Đôn, Hạ Trai là hiệu của Lý Tử Cấu (8). Theo Quốc sử quán triều Nguyễn, nhà Trần chia học sinh ra 3 bậc: Thượng trai, Trung trai và Hạ trai (9).

(d) Nguyên văn: 稍有名稱者皆應之惟裴應斗以眼疾辝下齋學生李子構等數人

不出而已 (Toàn Thư IV, 277)

Sảo hữu danh xưng giả giai ứng chi duy Bùi Ứng Đẩu dĩ nhãn tật từ hạ trai học sinh Lý Tử Cấu đẳng số nhân ẩn bất xuất nhi dĩ

Phía nhà Minh, Trương Phụ báo cáo về Kim Lăng như sau:

Ngày 6 tháng 11 năm 1407: “..đã thăm hỏi các quận huyện tại Giao Chỉ để đề cử những người tài đức, rành kinh điển, giỏi văn chương, học rộng tài cao, thông minh chính trực, lực điền hiếu đễ, hiền lương đoan chính, thông thạo việc quan, hiểu rành binh pháp và tài nghệ các mặt gồm 9.000 người, đang lục tục đến kinh đô.”(Minh Thực Lục I, 285)(a)

Vua Minh cho rằng dân phía Nam không quen chịu lạnh nên ra lệnh cấp áo bông, ủng vớ cho những người này.

Như vậy, mặc dù từ vùng nay là Ninh Bình đến biên giới Chiêm Thành tình hình chưa yên hẳn vì cuộc khởi nghĩa Hậu Trần, Trương Phụ đã tuyển được số nhân sự gấp ba lần số giấy khám hợp nhà Minh dự trù. Họ Trương thành công ngoài sức tưởng tượng.

Vì sao có chuyện đáng buồn này? Ngay đầu năm 1407, vừa khi Đông đô bị chiếm, Toàn Thư đã cho biết “Kinh lộ phần nhiều theo giặc làm phản” (b) (Toàn Thư II, 231). Một tháng sau lại thông báo “…người ở Kinh lộ bị quân Minh sai khiến và mất cả gia thuộc, mang lòng oán hận, các quân nhân và tráng đinh đều đến cửa quân tự nguyện gắng sức lập công.” (c) (Toàn Thư II, 232). Thực sự ai theo giặc làm phản? Ai hồi tâm quay lại với Quý Ly và Hán Thương? Tổng quát, có thể thấy tầng lớp trên có tài sản hay “có chút tiếng tăm”, chịu nhiều ảnh hưởng văn hóa Hán đã nhanh nhẩu hợp tác; tầng lớp dưới như “quân nhân đinh nam 軍人丁男” ngả theo người chủ nào quan tâm đến số phận của họ và gia đình họ.

(a) Nguyên văn: 訪舉交址郡縣懷才抱德明經能文博學有才聰明正直孝弟力田賢

良方正練達吏事明習兵法及材武諸色之人凡九千人陸續遣送赴京 (Minh Thực Lục I, 716)....phỏng cử Giao Chỉ quận huyện hoài tài bão đức minh kinh năng văn bác học hữu tài thông minh chính trực hiếu đễ lực điền hiền lương phương chính luyện đạt lại sự minh tập binh pháp cập tài võ chư sắc chi nhân phàm cửu thiên nhân lục tục khiển tống phó kinh.

(b) Nguyên văn: 京路多從賊以叛 (Toàn thư IV, 275). Kinh lộ đa tùng tặc dĩ phản.

(c) Nguyên văn: 京路人爲明人役使及失家属自怨憤軍人丁男各詣軍門自效立 功 (Toàn thư IV, 275). Kinh lộ nhân vi Minh nhân dịch sử cập thất gia thuộc tự hoài oán phẫn quân nhân đinh nam các nghệ quân môn tự hiệu lập công.

Quan dân Đại Ngu chỉ là cừu non trước cáo già Chu Đệ. Tuy vậy, cũng có người sáng suốt, lưu truyền trong dân gian câu ngạn ngữ: ‘Muốn sống vào ẩn núi rừng, muốn chết làm quan triều Ngô.’

Vào năm 1416, Toàn thư ghi nhận mặt trái của chính sách này như sau:

“Nhà Minh chiêu dụ các quan cũ của triều trước, giả cách bổ đi các nha môn quan, dân làm việc rồi chuyển đưa về Yên Kinh giữ lại. Bọn người bon chen, vốn không phải

là quan lại cũ, chưa được thực thụ quan chức, cũng hăng hái ra nhận, trong nước vì thế trở nên trống rỗng. Ở được vài năm, thấy vất vả khổ sở, thỉnh thoảng họ lại trốn về.” (Toàn Thư II, 254)(a)

(a) Nguyên văn: 明招誘前朝舊官假軍民衙門辨事轉送燕京留之奔競之徒素非

舊官未得實授官職亦挺身出國内爲之空虚居數年艱苦往匕迯回 (Toàn Thư IV, 288). Minh chiêu dụ tiền triều cựu quan giả bạt quân dân nha môn biện sự chuyển tống Yên Kinh lưu chi bôn cạnh chi đồ tố phi cựu quan vị đắc thực thụ quan chức diệc đĩnh thân xuất quốc nội vi chi không hư cư số niên gian khổ vãng chủy đào hồi.

Nguyễn Phi Khanh và Nguyễn Trãi cũng phải cuốn theo cơn lốc thế sự đương thời. Khi vương quốc Đại Ngu non trẻ sụp đổ, hai cha con chẳng có nhiều lựa chọn.

Xem xét các ghi chép về giai đoạn này, cả chính sử lẫn dã sử, chúng ta thấy chính sách nhà Minh rất minh bạch, hợp lý. Thiên triều có 3 chủ trương đối với dân Nam:

– Tiêu diệt hoặc vô hiệu hóa hai hoàng tộc Trần và Hồ.

– Chiêu dụ, trọng dụng tầng lớp ưu tú trung gian giữa triều đình và dân chúng. Đa số trí thức, cựu quan lại, thân hào nhân sĩ, thợ thủ công, người tu hành… được đưa về Bắc để nâng cao mức độ Hán hóa và củng cố lòng trung thành. Sau đó những người phù hợp được phân bổ trở lại An Nam.

– Khai thác tầng lớp dưới, sẵn sàng đàn áp khi cần thiết.

Nguyễn Phi Khanh không thuộc đối tượng cần loại trừ, lăng nhục hay trấn áp.

Năm 1408, quân Hậu Trần thắng lớn ở Bô Cô (Nam Định nay), sau đó phát triển hoạt động tích cực ở vùng Hạ Hồng (Hải Dương nay), rất gần cơ sở ở Côn Sơn của gia tộc Nguyên Đán. Do từng hợp tác với nhà Hồ và đầu hàng quân Minh, nếu Phi Khanh rơi vào tay Giản Định, số phận Ông và gia đình sẽ không khác số phận Trần Thúc Dao. Không đáng ngạc nhiên nếu Phi Khanh chọn hướng đi sang phương Bắc.

Phi Khanh là nhân vật bản tính nghệ sĩ có học Nho hơn là một nhà Nho mang loại “tiết tháo” mà các nhà cai trị muốn Nho gia sở đắc. Quan hệ nam nữ vượt khuôn khổ, lòng trung với vua Trần nhợt nhạt, lòng trung với ân nhân họ Hồ hoàn toàn thiếu vắng khi Ông chủ động hàng giặc trước lúc triều đình bị bắt. Thời trẻ, có chút ưu tư với dân nghèo nhưng địa vị xã hội và hùng tâm đều không đủ lớn để thực hiện điều mình muốn. Khi đạt ước nguyện quan cao, Ông vẫn tuyên bố lòng ưu quốc. Tuy nhiên, ngay thời điểm quyết định, Phi Khanh đã chọn con đường ít thiệt hại nhất cho bản thân và gia đình. Ông cũng chẳng còn lối khác để tồn tại. Dĩ nhiên, chọn bảo toàn mạng sống, con người phải coi nhẹ thân danh.

Cũng có thể suy nghĩ phẫn nộ về sự đầu hàng chỉ là sản phẩm thời hiện đại, chứ đa số nhà nho đương thời cho rằng việc lựa chọn ai để phụng sự là quyền của họ. Chính Nguyễn Trãi, người con danh tiếng của quan Đại Lý Tự khanh, trong thư nhân danh Lê Lợi gửi hàng tướng Thái Phúc, đã đưa nhiều ví dụ để thuyết phục họ Thái ở lại với Nam triều. Ức Trai cho rằng Bá Lý Hề làm tôi nhà Ngu thì Ngu mất nước, sang Tần lại giúp Tần dựng nên nghiệp bá; Lý Tả Xa phục vụ nước Triệu thì Triệu diệt vong, theo Hán lại phù Hán thành đế nghiệp (10). Chọn Ngu, Tần, Triệu hay Hán cũng như chọn Minh hay Việt, chỉ dựa vào sáng suốt của từng sĩ nhân. Trong thế giới văn hóa Hoa Hạ, lẽ phải thuộc về con người có “chân mạng đế vương” mà kẻ sĩ có nhiệm vụ phát hiện và khuông phò. Quay lưng với vị vua đã mất “thiên mệnh” thực sự chẳng có gì ầm ĩ vì trách nhiệm chính của nhà nho là phải sống để rao giảng đạo trời.

Tuy vậy, thay thầy đổi chủ tự nguyện vẫn tạo chấn thương tinh thần. Tâm trạng sau binh lửa lần này hết còn lạc quan thấp thoáng như sau những lần Chiêm Thành cướp phá kinh đô. Năm 1383, Chế Bồng Nga vây Thăng Long lần cuối khi Ứng Long mới hai mươi tám tuổi; quân Trần tuy kiệt quệ nhưng còn cơ tập họp. Năm 1407, khi quân Minh vào Đông đô, Phi Khanh đã năm mươi hai; và quân chủ lực nhà Hồ hoàn toàn tan vỡ. Cánh chim báo hiệu ly hương hiện lên buồn bã. Bài “Thu thành vãn vọng” sáng tác bởi một người già cam chịu, sau cuộc loạn ly, giúp chúng ta định thời điểm ra đời nhằm quãng ngày tháng Phi Khanh chờ đợi chuyến đi sang Đại Minh.

秋城晚望

木落都城九月天,
斜陽罩地截雲煙。
離鴻遠遠迎風陣,
隙月涓涓隔樹懸。
吟興四時秋易感,
人生萬事老堪憐。
兵戈況復彫殘後,
遙望晴旻一慨然。

thu thành vãn vọng

Mộc lạc đô thành cửu nguyệt thiên,
Tà dương tráo địa tiệt vân yên.
Ly hồng viễn viễn nghênh phong trận,
Khích nguyệt quyên quyên cách thụ huyền.
Ngâm hứng tứ thời thu dị cảm,
Nhân sinh vạn sự lão kham liên.
Binh qua huống phục điêu tàn hậu,
Dao vọng tình mân nhất khái nhiên.

Ngắm cảnh chiều thu trong thành.

Sang tháng chín, lá rụng khắp đô thành,
Bóng chiều phủ trùm mặt đất, mây khói tiêu tan.
Xa xa, bầy ngỗng trời biệt ly bay ngược gió,
Mong manh, vầng trăng khuyết lơ lửng sau hàng cây.
Hứng thơ qua bốn mùa, chỉ mùa thu là dễ cảm,
Muôn việc trong đời người, thương tuổi già thêm cam chịu.
Huống hồ lại giữa cảnh điêu tàn sau binh lửa,
Vời trông trời mông quạnh…. một dạ ngậm ngùi !

Với cá tính thể hiện trong thơ văn, với tuổi hơn năm mươi khi đầu phục quân Minh, nhiều khả năng Phi Khanh sẽ không được giao việc gì quan trọng dù thực tâm đầu hàng và cộng tác.

Chúng ta cũng có thể suy nghĩ theo chiều ngược lại: việc qui hàng là hành động tùy thời, và tâm tư Phi Khanh đã chìm lấp trong bụi thời gian.

Căn cứ thông tin còn lại điểm qua bên trên, ta có thể suy đoán Nguyễn Phi Khanh phải mất trước khi Nguyễn Trãi vào Lỗi Giang đầu quân Lê Lợi năm 1423. Nguyễn Trãi chỉ có thể tham gia kháng chiến khi người Minh không có phương tiện nào để bức bách Ông ra đầu thú. Lê Lợi cũng chỉ tin cẩn Nguyễn Trãi một khi gia đình Ông đã tuyệt giao với giặc.

PHẨM BÌNH VÀ CÁC THÔNG TIN MUỘN

1. Hồ Tông Thốc (? -?) khi họa vần thơ mừng của Ứng Long đã đánh giá: “Tài thức như quân diệc thiếu niên 才識如君尚少年”, Tài năng hiểu biết như ông mà hãy còn trẻ. Việc cụ đại thần kiêm tác gia danh tiếng ca ngợi và mong mỏi Nguyễn năng ghé thăm chứng minh vị trí vững chãi của chàng thanh niên trong giới văn học đương thời. Thốc gọi Ứng Long là Nhị Khê thay vì chức tước, lại khen chàng trai đã vượt thoát khỏi “được mất”, “công danh”, tức thời điểm này (1386) Nguyễn đang ngoài quan trường. (11)

2. Nguyễn Trãi (1380 – 1442) lưu lại nhiều văn thơ chữ Hán nhưng qua đó ít nhắc đến cha mình. Trong “Băng Hồ di sự lục”, Ức Trai chỉ thoáng đề cập tác phẩm “Thanh Hư động ký” của Nhị Khê tiên sinh bên cạnh phần chính tỏ bày lòng yêu mến, kính trọng đối với ông ngoại. Kháng chiến chống Minh thành công, Nguyễn Trãi quay về xây dựng lại khu vực động Thanh Hư thay vì có hoạt động tu tạo tại Nhị Khê hay nhà gốc ở Chi Ngại. Có thể hành vi hàng giặc nhanh chóng của cha khiến Nguyễn Trãi phải suy nghĩ nhiều. Bài thơ dưới đây, theo nội dung, được sáng tác lúc Ức Trai ngoài 30 tuổi (khoảng năm 1409 – 1410) khi ông lẫn tránh người Minh trong vùng núi Đông Triều.

題東山寺

君親一念久嬰懷,
澗愧林慚夙願乖。
三十餘年塵境夢,
數聲啼鳥喚初回。

Đề Đông Sơn tự (12)

Quân thân nhất niệm cửu anh hoài,
Giản quý lâm tàm túc nguyện quai.
Tam thập dư niên trần cảnh mộng,
Sổ thanh đề điểu hoán sơ hồi.

Đề chùa Đông Sơn

Một niềm trung hiếu đeo đẳng mãi,
Tủi với suối, thẹn với rừng vì sai lời nguyện xưa.
Hơn ba mươi năm mộng giữa cõi trần,
Vài tiếng chim kêu gọi người tỉnh lại.

Hai vua Hồ và Nguyễn Phi Khanh có thái độ khác nhau đối với người Minh. Khó xử khiến Nguyễn Trãi hối tiếc vì bỏ qua con đường thứ 3: theo nhàn.

3. Toàn Thư đưa thông tin khá tiêu cực về Nguyễn Ứng Long. Sử gia nhà Lê cho rằng khi kèm cặp Trần thị Thái, Nguyễn đã làm thơ nôm quyến dụ học trò, còn cả gan quan hệ vượt lễ khiến bà Thái mang bầu. Việc vở lỡ, thay vì thú nhận lại bỏ trốn. Thông tin sau cùng về Nguyễn là sự kiện Ông đầu hàng Trương Phụ. Toàn Thư là tài liệu xưa nhất ghi nhận quyết định của Thượng hoàng Nghệ tông “phế bất dụng”, bỏ không dùng, hai Tiến sĩ Ứng Long và Hán Anh khi xét duyệt bổ nhiệm tân khoa khóa thi năm 1374. Tuy nhiên, Toàn Thư không khẳng định hai vị bị loại khỏi quan trường suốt đời Trần. (Xem Toàn Thư II, 182, 183, 233)

4. Trần Khắc Kiệm, vào năm Hồng Đức XI (1481), viết tựa cho Ức Trai thi tập có nói về cha của Nguyễn Trãi như sau

“Cha ông họ Nguyễn húy Phi Khanh, hiệu Nhị Khê tiên sinh. Đỗ Bảng nhãn, từng làm các chức quan Thông Chương đại phu, Đại Lý Tự khanh kiêm Trung Thư Thị lang, Hàn Lâm viện Học sĩ, Thái tử Tả Tán Thiện đại phu, Quốc tử giám Tư nghiệp, được ban túi kim ngư, Thượng Khinh Xa Đô úy.” (a) (13)

(a) Nguyên văn: 父姓阮諱飛卿號瀰溪中進士弟二名儮官通大夫大理寺

中書侍郎翰林院學士太子左賛善大夫國子監司業賜金魚袋上輕車都尉

Phụ tính Nguyễn húy Phi Khanh, hiệu Nhị Khê tiên sinh. Trúng tiến sĩ đệ nhị danh, lịch quan Thông Chương đại phu, Đại Lý Tự khanh kiêm Trung Thư Thị lang, Hàn Lâm viện Học sĩ, Thái tử Tả Tán Thiện đại phu, Quốc tử giám Tư nghiệp, tứ kim ngư đại, Thượng Khinh Xa Đô úy.

Các chức danh Thông Chương đại phu, Trung Thư thị lang, Thái tử Tả Tán Thiện đại phu, Quốc tử giám Tư nghiệp, Thượng Khinh Xa Đô úy không thấy nhắc đến trong các tài liệu khả tín hơn như Toàn Thư, Minh Thực lục và thơ văn người cùng thời. Chúng ta chỉ chắc chắn Phi Khanh kinh qua các chức vụ Kiểm Chính, Thiếu Trung đại phu vào thời Trần; Hàn Lâm học sĩ và Đại Lý Tự khanh đời Hồ. Trần Khắc Kiệm là người đầu tiên ghi nhận Phi Khanh đỗ Bảng nhãn. Bài tựa đề năm 1481 nhưng được Dương Bá Cung sưu tầm và thân hữu khắc in vào năm 1868, do vậy, nội dung chưa chắc còn như nguyên bản. Ở đây, chúng ta thấy chức quan mang tính chất “tư pháp” như Đại Lý Tự khanh được đặt chung với chức “hành pháp” như Trung Thư thị lang. Văn chức như Tư nghiệp Quốc tử giám đặt chung với võ chức như Thượng Khinh Xa Đô úy.

5. Phạm Đình Hổ (1768 – 1839) và Nguyễn Án (1770 – 1815) qua “Tang Thương Ngẫu Lục” cho rằng Phi Khanh tránh loạn ở Côn Sơn khi nhà Hồ mất, tức không có chuyện quan Đại Lý Tự khanh đầu hàng Trương Phụ. (14)

6. Phan Huy Chú (1782 – 1840) trong phần Văn tịch chí, Lịch triều hiến chương loại chí, trình bày lại quan điểm của Nghệ tông đồng thời khẳng định Ứng Long không được làm quan dưới thời Trần. Huy Chú trích duy nhất một bài thơ của Ứng Long, bài “Gia viên lạc”, có lẽ vì ông quan niệm đứa trẻ xuất hiện trong thơ chính là nhân vật lớn Nguyễn Trãi. Trong phần Nhân Vật chí, Huy Chú cho rằng Trương Phụ ép Nguyễn Phi Khanh viết thư dụ Nguyễn Trãi ra hàng. (15)

7. Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục loại bỏ các chi tiết đời tư của Ứng Long chép trong Toàn Thư, chỉ tái ghi nhận ý kiến Thượng hoàng “phế bất dụng” vị Tiến sĩ.

Cương Mục xác nhận Hồ Hán Thương cất nhắc bổ nhiệm Ứng Long và đổi tên Ông thành Phi Khanh. So với Toàn Thư khá thô ráp khi đem lỗi lầm của một thiếu niên vào chính sử bằng ngôn ngữ dung dị, các tác giả Cương Mục thể hiện bản lĩnh văn hóa và tính chuyên nghiệp vượt trội. Bộ sách chính thống này không phủ nhận việc hàng giặc của Nguyễn Phi Khanh. (16)

8. Dương Bá Cung (1795 – 1868), trong phần tiểu sử Nguyễn Phi Khanh, cho rằng cụ Nguyễn đỗ tiến sĩ năm Long Khánh II (1374), lúc 19 tuổi. Do lấy vợ hoàng tộc nên không được Duệ tông dùng. Đến đời Hán Thương, niên hiệu Thiệu Thành, mới nhận chức Hàn lâm Học sĩ. Khi người Minh xâm phạm, bắt Quý Ly và Hán Thương, Ông đầu hàng quân giặc. Còn tập thơ Nhị Khê truyền lại. (17)

Trong phần Sự Trạng thuộc bộ Ức Trai tập, Cụ Dương lại dẫn tộc phả Nhị Khê, cho rằng Phi Khanh đỗ Bảng nhãn, làm quan triều Hồ, lấy con gái Trần Nguyên Đán sinh bốn con: Trãi, Bảo, Phi Hùng, Ly. Năm 73 tuổi, Ông cùng hai người con bị quân Minh bắt đưa đến điếm Vạn Sơn. Trước khi mất, Phi Khanh khuyên các con quay về tìm cách trả thù cha, rửa hận nước.

Nếu theo thông tin từ chính các thi phẩm của Phi Khanh, năm sinh nhà thơ sẽ nằm trong quãng 1354, 1355, 1356 nên số tuổi 73 ở đây có vẻ là nhầm. Câu chuyện cụ Nguyễn bị bắt sang Vạn Sơn và lời cụ khuyên các con trở về nước lần đầu tiên được chép là trong tộc phả này, không rõ niên đại. Tuy nhiên, ghi nhận số tuổi sai lệch quá xa cho thấy thời điểm viết không gần giai đoạn sinh thời của Nguyễn Trãi hay của các con ông, lúc ký ức tộc họ còn sống động. (18)

9. Trần Trọng Kim (1883 – 1953), qua Việt Nam sử lược, cho rằng Nguyễn Phi Khanh bị quân Minh bắt đưa về Kim Lăng. Nguyễn Trãi tiễn cha đến Nam Quan, quyến luyến khóc than. Người cha thốt lời nổi tiếng: “Con phải trở về mà lo trả thù cho cha, rửa thẹn cho nước, chứ đi theo khóc lóc mà làm gì?” Đây là quyển sử viết bằng chữ quốc ngữ đầu tiên của Việt Nam nên sự kiện chia tay cảm động được lan truyền rất rộng rãi. Cụ Trần đã kéo câu chuyện từ Vạn Sơn điếm về biên giới Minh – An Nam. (19)

10. Văn Tân (1913 – 1988), Đào Duy Anh (1904 – 1988), Trần văn Giáp (1902 – 1973) qua phần tiểu sử Nguyễn Trãi trong bộ Nguyễn Trãi toàn tập (1976) thuật lại chuyện tình Ứng Long – Thị Thái tương tự nội dung thể hiện trong Toàn Thư, chỉ đảo ngược chiều chủ động. Các nhà biên tập cho rằng bà Thái làm thơ nôm chòng ghẹo gia sư. Tiểu sử này khẳng định Ứng Long không làm việc cho nhà Trần mà về quê mở trường dạy học. Về sau, Ứng Long nhận chức quan từ vua Hồ với tên mới Phi Khanh để rồi bị quân Minh bắt cùng hoàng tộc và nhiều quan tướng khác. Cuộc chia tay trên biên giới giữa “người tù” Phi Khanh và Nguyễn Trãi được tường thuật khá giống miêu tả trong Việt Nam sử lược nhưng thêm nhiều chi tiết hơn. (20)

11. Nhóm biên soạn bộ sưu tập Thơ văn Lý Trần III, cũng như các vị biên soạn Nguyễn Trãi toàn tập, đã xây dựng tiểu sử Nguyễn Phi Khanh bằng cách tích hợp thông tin từ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Ức Trai tập, Việt Nam sử lược và gia phả. Các cụ chấp nhận hầu hết dữ liệu trình bày trong số thư tịch này, chỉ trừ sự kiện đầu hàng quân Minh của Phi Khanh. Khác với Viện Sử học đặc tả Phi Khanh như một nạn nhân bất khuất, Viện Văn học dù không thừa nhận việc Phi Khanh hàng Minh nhưng vẫn đưa chi tiết này vào diện tồn nghi. (21)

12. O. W. Wolters (1915 – 2000) cũng tin rằng Nguyễn Phi Khanh mở trường dạy học dưới đời Trần, sau đó làm quan cho nhà Hồ với kết cục bị người Minh bắt. Ông xem Phi Khanh thuộc dạng “chứng nhân” của thời đại, tức dạng quan chức trí thức gần dân và vì dân. Đi trước giới nghiên cứu văn học Việt Nam, Wolters bình giảng mười bốn tác phẩm của Phi Khanh bằng xét đoán lấp lánh kiến văn thâm hậu. Dầu vậy, vẫn thấy rõ ông đối diện thơ bằng đôi mắt tinh tường thay vì hòa vào thơ theo mạch ngôn ngữ thi ca Á đông. Mặt khác, do chông chênh trong xác định tiểu sử Phi Khanh, Wolters không hình dung chính xác bối cảnh ra đời từng bài thơ. Điều này dẫn đến diễn giải sai ý tác giả trong vài trường hợp (a). (22)

(a) Ví dụ khi phân tích bài “Tống Thái học sinh Nguyễn Hán Anh qui Hồng châu”, do giả định bài thơ được viết ra sau năm 1377, thời gian Băng Hồ bắt đầu hướng về Côn Sơn nên bỏ hoang dinh thự ở Thăng Long, Wolters không nghĩ rằng bài thơ bộc lộ nỗi khắc khoải của tác giả khi chờ đợi lệnh bổ nhiệm của nhà vua. Thực ra, câu 2 bài thơ diễn tả rõ ràng Ứng Long luôn nhìn về cửa khuyết phía bắc, nơi ban hành chiếu chỉ, với lòng trông mong mòn mỏi; câu 3 cho biết Thái học sinh Nguyễn Hán Anh, vị tân khoa chưa nhận chức vụ, đã trở lại cộng đồng dân thường nơi khê động. Dinh thự tướng quốc năm 1374, 1375 chưa bị bỏ hoang. Chim thước, bình dân gọi là chim khách, đậu lại trong dinh chẳng gì khác hơn là Ứng Long còn “làm khách” trong nhà cha vợ để chờ đợi công danh. Chim hồng biệt dạng dưới trời thu thể hiện kẻ sĩ chưa gặp thời Hán Anh phải quay lại đời sống cũ của mình.

Ví dụ khác là trường hợp Lê Dung Trai. Wolters không thể tìm thấy thông tin về sứ giả họ Lê trong các tài liệu nhà Minh liên quan đến sứ bộ Đại Ngu. Đơn giản vì Dung Trai, tức Tông Triệt, đại diện cho Trần Thuận tông (1388 – 1398); còn tác giả Phi Khanh thời điểm đó là quan Thiếu Trung đại phu nhà Trần. Như vậy, lời lẽ khích lệ trong bài thơ không hẳn là dấu hiệu về một chính quyền khả kính mà nặng phần dự cảm về chuyến đi vô vàn khó khăn.

Nguyễn Phi Khanh mang nhiều tính cách của dạng nho sĩ văn tài lỗi lạc nhưng ngộ nhận bản thân có khả năng kinh tế. Qua quá trình hoạt động năm thế kỷ, dạng văn nhân này bộc lộ hết mọi ưu khuyết điểm và được chính nho sĩ cuối thế kỷ XVIII cách điệu cao độ bằng nhân vật tiểu thuyết Phan Huy Ích.

Họ Phan được Ngô Thì Chí (1753 – 1788), qua Hoàng Lê nhất thống chí, biến thành hình tượng vui nhộn khi thuật lại chuyện ông cho người làm sẵn cái trống to trước khi ra quân để nhốt tay giang hồ nổi loạn Nguyễn Hữu Chỉnh. Kết quả trận đánh đầy mơ mộng là Đốc thị Ích bị Chỉnh bắt sống lúc đang phi ngựa chạy thục mạng khỏi chiến trường. Nghe thuộc hạ dèm pha Ích từng lên kế hoạch lạc quan, vị hảo hán chỉ phì cười: “Cái bộ thầy đồ nói khoác … !” (23)

Giọng điệu văn gia họ Ngô đậm tính hoạt kê pha lẫn độc địa. Phê phán chừng mực của Lê Quý Đôn đối với dạng nhà nho thiếu thực tiễn xét ra hợp lý hơn: “Ta thấy người sĩ phu vào hạng văn học ở trên đời, phê phán việc đời xưa đời nay, rõ ràng như trỏ vào bàn tay, đến khi dùng vào công việc thì phần nhiều không gánh vác nổi; người ở dưới triều đường, không biết việc chiến thắng là cần kíp; người ăn nhờ vào bổng lộc, không biết việc cày cấy là khó nhọc; người đứng trên hàng ngũ quan lại mà không biết việc lao động phải chuyên cần, cho nên những người ấy khó có thể dùng để ứng phó với đời để xử lý công việc được.” (24)

Tóm lại, có thể kết luận Nguyễn Phi Khanh là một văn nhân xuất thân từ tầng lớp bình dân vùng duyên hải, một trí thức Đại Việt thuộc thế giới văn hóa Hoa Hán, với đầy đủ các mặt mạnh, yếu của dạng người này.

 

Tài liệu tham khảo:

A. Bản chữ Hán thơ văn Nguyễn Phi Khanh, Trần Nguyên Đán được lấy từ quyển Thơ văn Lý-Trần tập III của Viện Văn học, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội – Hà Nội (1978).

B. Các chi tiết lịch sử đều trích từ bộ Đại Việt sử ký toàn thư, bản in Nội các quan bản, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội (tái bản 2004). Dịch giả: Ngô Đức Thọ, Hoàng Văn Lâu, Ngô Thế Long. Để chú thích đỡ rườm, thông tin từ sách này được chú là (Toàn Thư – Tập – Trang) ngay tại đoạn trích.

C. Các ghi chép của người Minh đều trích từ bộ Minh Thực Lục, quan hệ Trung quốc – Việt Nam thế kỷ XIV – XVII (bản dịch Hồ Bạch Thảo), Nhà xuất bản Hà Nội (2010). Để chú thích đỡ rườm, thông tin từ sách này được chú là (Minh Thực lục – Tập – Trang) ngay tại đoạn trích.

D. Bản chữ Hán các đoạn kinh Thi trích từ phần “Shijing” thuộc trang web http://ctext.org/book-of-poetry.

(1) Đoàn Trung Còn (dịch), Tứ Thư, phần Luận Ngữ, Nhà xuất bản Thuận Hóa (Huế 2013), trang 134.

(2) Xem Phạm Đình Hổ & Nguyễn Án, Tang Thương Ngẫu Lục (bản dịch Trúc Khê), Nhà xuất bản Hồng Bàng – Pleiku (tái bản 2012), trang 116.

(3) Để rõ hơn thông tin về biến đổi khí hậu tại Đông Nam Á trong giai đoạn này, tham khảo Brendan M. Buckley et al (2010). Climate as a contributing factor in the demise of Angkor, Cambodia. http://www.pnas.org/cgi/doi/10.1073/pnas.0910827107.

(4) Xem Viện Sử học, Nguyễn Trãi toàn tập, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội – Hà Nội (1976), trang 91.

(5) Vị Thông phụng Đại phu Đào Toàn Kim chánh sứ của Nguyễn Ứng Long rất có thể là Đào Sư Tích, con trai Đào Toàn Bân, từng đỗ Trạng Nguyên khoa Tiến sĩ năm 1374, tức đồng khoa với cụ Nguyễn. Tương truyền, Đào Sư Tích qua đời năm 1396 trên đường đi sứ về. Giỗ cụ nhằm ngày 4 tháng 9 âm lịch, như vậy phù hợp hai thời điểm:

– Sứ đoàn Đại Việt triều kiến ngày 10 tháng 2 ta, năm Hồng Vũ 29.

– Vua Minh ra lệnh bộ Lễ từ chối phúng viếng Nghệ tông vào ngày 14 tháng 2 ta, cùng năm Hồng Vũ 29 (1396).

Ngày giỗ cho thấy cụ mất khi về gần đến, hoặc vừa đến Đại Việt. Câu chuyện Đào tiên sinh dùng thuốc độc tự sát do vua Minh bức tử dường như không hợp lý lắm vì sứ đoàn đã an toàn rời Nam Kinh từ nhiều tháng trước. Có thể cụ Đào mất do bệnh, cũng có thể do không kham nổi gánh nặng tinh thần khi nhà Minh đã từ chối phúng điếu lại còn đòi đất vùng biên giới. Nếu quả đúng Đào Sư Tích chính là Đào Toàn Kim và bị mất trên đường về, vì bất cứ nguyên nhân gì, chuyến đi của Ứng Long cũng là một thảm kịch. Chúng tôi đoán rằng cụ Đào lãnh đạo phái bộ về đến Quảng Tây và chỉ tự vẫn sau khi làm tròn chức vụ trưởng đoàn đối với thuộc hạ, đồng thời riêng mình nhận trách nhiệm của một chánh sứ thất bại. Ký ức về 23 kỵ binh người Ngô hộ tống quan tài giúp xác định địa điểm cụ mãn phần là trên đất Đại Minh. (Xem Trần Mỹ Giống, Trạng Nguyên Đào Sư Tích: Cuộc Đời và Giai Thoại, http://newvietart.com/index4.705html, truy cập ngày 28/6/2016).

(6) Hoàng Khôi (dịch), Nguyễn Trãi toàn tập, tập thượng, quyển 2, Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin (tái bản 2001), trang 184. Bài này Thơ văn Lý – Trần tập III xếp vào mục tác giả Trần Thuấn Du.

(7) Geoff Wade, translator, Southeast Asia in the Ming Shilu: an open access resource, Singapore: Asia Research Institute and the Singapore E-Press, National University of Singapore, http://epress.nus.edu.sg/msl/entry/1106, accessed February 17, 2016.

(8) Xem Lê Quý Đôn, Kiến văn tiểu lục (bản dịch Phạm Trọng Điềm), Nhà xuất bản Trẻ/Hồng Bàng – TPHCM-Pleiku (tái bản 2013), trang 28.

(9) Xem Quốc sử quán triều Nguyễn, Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục (bản dịch Viện Sử học), Nhà xuất bản Giáo Dục – Hà Nội (1998), bản điện tử của nhóm Lê Bắc, trang 339.

(10) Xem Viện Sử học, Nguyễn Trãi toàn tập, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội – Hà Nội (1976), trang 110.

(11) Xem Viện Văn học, Thơ văn Lý-Trần III, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội – Hà Nội (1978), trang 68.

(12) Viện Sử học, Nguyễn Trãi toàn tập, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội – Hà Nội (1976), trang 331.

(13) Hoàng Khôi (dịch), Nguyễn Trãi toàn tập, tập hạ, quyển 5, Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin (tái bản 2001), trang 583, 585, 587.

(14) Xem Phạm Đình Hổ & Nguyễn Án, Tang Thương Ngẫu Lục (bản dịch Trúc Khê), Nhà xuất bản Hồng Bàng – Pleiku (tái bản 2012), trang 116 – 128.

(15) Xem Phan Huy Chú, Lịch triều Hiến chương loại chí, Nhà xuất bản Trẻ – TPHCM (tái bản 2014); phần Văn Tịch chí, quyển 5 (bản dịch của Nguyễn Trọng Hân, Trịnh Đình Rư, Cao Huy Giu, Trương Văn Chinh, Nguyễn Mạnh Duân), trang 194, 195; phần Nhân Vật chí, quyển 2 (bản dịch của Nguyễn Mạnh Duân, Trương Văn Chinh), trang 96.

(16) Xem Quốc sử quán triều Nguyễn, Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục (bản dịch Viện Sử học), Nhà xuất bản Giáo Dục – Hà Nội (1998), trang 326, 337.

(17) Xem Hoàng Khôi (dịch), Nguyễn Trãi toàn tập, tập thượng, quyển 2, Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin (tái bản 2001), trang 165.

(18) Xem Hoàng Khôi (dịch), Nguyễn Trãi toàn tập, tập hạ, quyển 5, Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin (tái bản 2001), trang 591.

(19) Xem Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược, Nhà xuất bản Văn học – Hà Nội (tái bản 2015), trang 226.

(20) Xem Viện Sử học, Nguyễn Trãi toàn tập, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội – Hà Nội (1976), trang 251.

(21) Xem Viện Văn học, Thơ văn Lý Trần III, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội – Hà Nội (1978), trang 380, 381. Nhóm biên soạn bao gồm các vị Đào Phương Bình, Phạm Đức Duật, Trần Nghĩa, Trần Lê Sáng, Đào Thái Tôn, Nguyễn Đức Vân, Nguyễn Đức Vỹ. Hai cụ Đặng Thai Mai, Cao Xuân Huy chỉ đạo và duyệt.

(22) Xem O. W. Wolters, Celebrating the Educated Official: A Reading of Some of Nguyen Phi Khanh’s Poems (bản dịch Ngô Bắc).

http://www.gio-o.com/NgoBac/NgoBacWoltersNguyenPhiKhanh.htm

(23) Xem Ngô gia văn phái, Hoàng Lê nhất thống chí (bản dịch Nguyễn Đức Vân, Kiều Thu Hoạch), Nhà xuất bản Trẻ – TPHCM (tái bản 2015), trang 236 – 241.

(24) Xem Lê Quý Đôn, Kiến văn tiểu lục I (bản dịch Phạm Trọng Điềm), Nhà xuất bản Trẻ/Hồng Bàng – TPHCM/Pleiku (tái bản 2013), trang 33.

Nguồn bài đăng

Trả lời

Điền thông tin vào ô dưới đây hoặc nhấn vào một biểu tượng để đăng nhập:

WordPress.com Logo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản WordPress.com Đăng xuất /  Thay đổi )

Facebook photo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Facebook Đăng xuất /  Thay đổi )

Connecting to %s