Tìm hiểu về đất Tây Vực, Trung Quốc

Cương vực lãnh thổ Trung quốc thời Đường

Cương vực lãnh thổ Trung quốc thời Đường

Trích từ sách Phật Giáo Tây Vực

Tuệ Khai/Thích Tâm Nhãn

Tây Vực là cách người Trung Quốc ngày xưa gọi các nước nằm ở phía Tây của Trung Quốc. Nó được ghi chép trong các biên niên sử Trung Hoa từ khoảng thế kỷ 3 TCN tới thế kỷ 7 và để nói tới khu vực ở phía tây Ngọc Môn quan và Dương quan, phần lớn là để chỉ Trung Á hay là phần phía đông nhất của nó, nghĩa là khu vực bồn địa Tarim  ở Tân Cương

SỰ TRỖI DẬY CỦA CÁC DÂN TỘC VÙNG BIÊN GIỚI PHÍA BẮC: TIÊN TI, NHU NHIÊN, ĐỘT-QUYẾT …. 

Từ khi Ban Dũng5 nhà Hán miễn quan (bị cách chức) trở về sau, tình thế Tây Vực ngày càng bế tắc, tuy hung nô y xa, nhưng các nước bên trong Trung Quốc loạn lạc không cách gì ngăn được. Kế tiếp, Tiên Ti, Nhu Nhiên, Đột-quyết dấy khởi lên thống trị Tây Vực. Các nước từ Thông Lĩnh về phía Tây, muốn thông giao với Trung Quốc cũng không được, nên phần nhiều đều đi theo đường biển. Trước tiên thuật lại sự hưng khởi của các dân tộc phương Bắc có quan hệ với Trung Quốc. 

5 Ban Dũng 班勇: Người An Lăng, Phù Phong (phía Đông bắc Hàm Dương, tỉnh Thiểm Tây ngày nay), thời Đông Hán, tự Nghi Liêu, con Ban Siêu. Năm đầu niên hiệu Nguyên Sơ, An đế (năm 107), Hung Nô phản loạn, ông nhậm chức Trưởng sử Tây Vực, bình được “Xa Sư” sáu nước, lại phát động các nước đánh Hung Nô, giữ được an bình vùng biên cương. Về sau ông bị hạ ngục, cách chức và mất tại nhà.

 

Sự hưng khởi của tộc Tiên Ti: 

Tiên Ti vốn là một chi của tộc người Hồ ở phía Đông, cư trú ở Siberia thuộc Nga ngày nay, tức là Tiên Ti Lợi-á. Từ đầu thời Hán, sau khi Hung Nô đánh phá bộ tộc Hồ phía Đông thì dân tộc ấy chia làm Ô Hoàn6 và Tiên Ti. Tiên Ti dời về Siberia, rồi di cư xuống phía Nam, dần dần trở nên cường thịnh. Đến thời Hán Quang Vũ, thế lực Hung Nô mạnh, thường liên kết với Ô Hoàn và Tiên Ti xâm lược biên giới đất Hán. Đến khi Đan Vu7 Nam Hung Nô hàng Hán thì Tiên Ti phục tùng Hán. Thời Hán Hòa đế, Đậu Hiến8 đánh Bắc Hung Nô, vùng phía Bắc nhà Hán trống rỗng, Tiên Ti chuyển đến chiếm cứ vùng đất ấy, 

6 Ô Hoàn 烏桓: Một bộ tộc ở phương Bắc cổ đại, thuộc hệ thống tộc Đông Hồ, cũng viết là “烏丸” (Ô Hoàn). Đầu đời Hán, Đông Hồ bị Mạo Đốn, Thiền Vu Hung Nô đánh bại, một bộ phận dân chúng rút về núi Ô Hoàn (nay thuộc nội Mông) nên lấy tên ấy gọi tộc mình.

7 Đan Vu 單于: Thời Hán, người Hung Nô gọi quốc vương của họ là Đan Vu.

8 Đậu Hiến 竇憲: Người Bình Lăng, Phù Phong, đời Đông Hán, tự là Bách Độ, anh của Đậu thái hậu (mẹ của Hoà đế). Khi Hoà đế lên ngôi, Hiến được Thái hậu phong làm Thị trung, thao túng triều chính, sau làm Xa kỵ tướng quân. Năm đầu niên hiệu Vĩnh Nguyên, xuất binh Bắc chinh đánh bại Bắc Hung Nô… Về sau, Hoà đế và Hoạn quan mật mưu tiêu diệt thế lực nhà Hiến và bức Hiến tự sát.

 

Hung Nô còn lưu lại đó hơn mười vạn bộ lạc cũng tự xưng là Tiên Ti, nhân đó mà thế lực Tiên Ti mạnh lên. Thời Hán Hoàn đế, Đàn Thạch Hòe9 của Tiên Ti xuất hiện, không chịu sự kiềm chế của nhà Hán, thế nước rất mạnh, phía Nam chiếm đất Hán, Đông đẩy lùi Phu Dư,10 Bắc chống cự Đinh Linh,11 Tây đánh nhau với Ô Tôn.12 Đất chiếm được từ Đông sang Tây hơn một vạn bốn ngàn dặm, lấy hết đất cũ của Hung Nô. Đất ấy chia ra ba vùng lớn để thống lĩnh là Đông, Trung, Tây. Trung bộ đất ấy từ Thượng Cốc13 trở về Tây đến Đôn Hoàng, hơn 20 ấp ở Ô Tôn theo về hết, chịu sự thống lãnh của tộc Tiên Ti, và Thiên sơn bắc lộ cũng trong phạm vi thống trị của nước ấy. 

Đến thời Ngụy-Tấn, dân tộc Tiên Ti lan tràn khắp phương Bắc, lại tiến vào bên trong biên ải. Từ Liêu Đông đến Hà Tây, bộ lạc ấy đã lập quốc như họ Mộ Dung kiến lập Tiền Yên, Hậu Yên, Tây Yên, Nam Yên; họ Khất Phục lập Tây Tần; họ Ngốc Phát lập Nam Lương; họ Thác Bạt lập Hậu Ngụy; họ Vũ Văn lập Hậu Chu v.v…. Trong số ấy nước hậu Ngụy đến thời Thập Dực Kiện14 là mạnh nhất, phía Bắc có sa mạc, phía Nam chiếm cứ Âm Sơn,15 phía Đông từ Uế Mạch (miền Bắc Triều Tiên ngày nay), phía Tây đến Phá-lạc-na (nay là Fergana), không nơi nào không qui thuận. Vua Tiền Tần là Phù Kiên đến chinh phạt, Thập Dực Kiện bại trận chết, nước bị diệt. Nước phương Bắc kế tiếp khởi lên là Nhu Nhiên.

 

9 Đàn Thạch Hòe 檀石槐: Trưởng tộc Tiên Ti (Tl.?-118), lập quốc tại núi Đạn Hãn (huyện Dương Cao, tỉnh Sơn Tây ngày nay), Bắc Cao Liễu thời Đông Hán.

10 Phu Dư 夫餘: Tên một nước thời xưa, tức Phù Dư 扶餘, nơi tộc Uế Mạch kiến lập. Hiện nay phía huyện Thao Nam, huyện Xương Đồ tỉnh Liêu Bắc, cho đến Nam huyện Song Thành, tỉnh Cát Lâm đều thuộc lãnh thổ nước này.

11 Đinh Linh 丁零: Tên một bộ tộc thời cổ đại, địa phương cư trú của họ hiện nay là thượng du sông Yenisey ở Siberia, cho đến hồ Baikal.

12 Ô Tôn 烏孫: Một dân tộc ở Tây bắc cổ đại. Đầu thế kỷ thứ II trước Tl., Ô Tôn và Nguyệt Thị sống du mục ở vùng nay là Đôn Hoàng, Cam Túc, Kỳ Liên, phía Bắc tiếp cận Hung Nô.

13 Thượng Cốc 上谷: Phía Nam huyện Hoài Lai, tỉnh Sát Cáp Nhĩ ngày nay.

 

Sự hưng khởi của tộc Nhu Nhiên: 

Nhu Nhiên còn gọi là Nhuyễn Nhuyễn. Thủ lĩnh bộ tộc gốc người Tiên Ti, dân bộ tộc là Cao Xa, Đột-quyết, họ Úc Cữu Lư (tên khác là Mộc Cốt Lư, Thủ Ngốc Nghĩa, vì danh từ đó với từ Úc Cữu Lư có âm gần nhau nên con cháu đời sau lấy làm họ). Bộ lạc Nhu Nhiên dấy khởi vào thời Hậu Ngụy mà Thỉ tổ là lính kỵ binh tên là Mộc Cốt Lư. Nguyên Mộc Cốt Lư có tội, chạy trốn vào trong núi, rồi tập hợp số người chạy trốn được hơn trăm người, đến đời con là Xa Lộc Hội mới hình thành bộ lạc, tự lấy hiệu là Nhu Nhiên và bắt đầu có tộc Nhu Nhiên. Truyền qua bảy đời, đến đời con của Ôn Hột Đề16 là Xã Luân thì Nhu Nhiên lớn mạnh lên.

14 Thập Dực Kiện (Kiền) 什翼鞬 (): Thập Dực Kiền (318-376 Tl.), tù trưởng họ Thác Bạt, tộc Tiên Ti, tức là tổ của Thác Bạt Khuê (Đạo Võ đế) triều Bắc Ngụy.

15 Âm Sơn 陰山: Phía Bắc huyện Dương Sơn, tỉnh Quảng Đông ngày nay.

16 Ôn Hột Đề 縕紇提, là thủ lãnh tộc Nhu Nhiên. Sau khi thân phụ ông mất, bộ chúng phân thành hai, ông thủ lãnh Tây bộ. Năm đầu niên hiệu Thái Nguyên đời Tấn (năm 376), ông phản Thát Bạt Tiên Ti theo Thiết Phất Lưu Vệ Thìn (?-391, thủ lãnh Hung Nô thời Thập lục quốc). Năm thứ 16, bị Thác Bạt Khuê đánh, phải di dời đến Vân Trung (nay thuộc vùng Thác Khắc Thác nội Mông Cổ). Năm thứ 19, con ông là Xã Luân lánh về Tây, còn ông không rõ ở nơi nào. 

 

Bộ lạc ấy đánh chiếm các bộ lạc ở phía Tây Ngũ Nguyên (huyện Ngũ Nguyên, tỉnh Tuy Viễn ngày nay), khiến họ phải chạy ra phía Bắc sa mạc, rồi đoạt lấy đất Cao Xa (một dải Ô Lương Hải ở Tây bắc Ngoại Mông ngày nay), cư trú ở đó, tự xưng là Đậu Đại Khả Hãn. Ô Tôn cũng bị Nhu Nhiên xâm chiếm, chạy về phía Tây vào núi Thông Lĩnh. Từ đó núi Thiên Sơn trở ra Bắc, núi A-nhĩ-thái (Altai)17 trở về Nam hoàn toàn bị Nhu Nhiên xâm chiếm. Các nước vùng “Thiên sơn nam lộ” như Cao Xương, Yên Kỳ, Vu-điền v.v…. đều nô dịch thần phục Nhu Nhiên. Lịch sử nói nước ấy về phía Tây đến Yên Kỳ (nay là huyện Yên Kỳ tỉnh Tân Cương), phía Đông tiếp giáp với Triều Tiên, phía Nam đến tận Đại Thích,18 thường lấy Đôn Hoàng và Trương Dịch19 ở phương Bắc làm nơi gặp nhau. Có thể thấy vùng đất mà dân tộc Nhu Nhiên cai quản rộng như thế nào; thời đó nhằm thời An đế nhà Đông Tấn.

Đến năm Nghĩa Hy thứ 6 đời An đế nhà Đông Tấn (năm 410 Tl.), Xã Luân mất, người em theo ông là Đại Đàn tự lập Mâu Hãn Hột Thăng Cái Khả Hãn,20 là kẻ địch hùng mạnh của nhà Hậu Ngụy ở phương Bắc. Vào năm Nguyên Gia thứ 6 đời Tống Văn đế (năm 429 Tl.), Thái Võ đế nhà Hậu Ngụy thân chinh đại phá Nhu Nhiên, các bộ tộc Cao Xa tranh nhau làm phản, Nhu Nhiên đầu hàng Ngụy với binh chúng 30 vạn người, ngựa chiến hơn 100 vạn con, số tàn quân bị truy đuổi đến tận núi Trác Tà (phía Tây ngoài Mông Cổ), rồi bộ lạc tan rã, Đại Đàn lo buồn phẫn uất mà chết.

17 Núi A Nhĩ Thái 阿爾泰: Hoặc gọi A Nhĩ Thản, nghĩa của tiếng Mông Cổ là “Kim” (vàng), nhân đó cũng gọi là Kim Sơn.

18 Đại Thích 大磧: Đại sa mạc.

19 Trương Dịch: Xem cht. 24, tr. 155.

20 Mâu Hãn Hột Thăng Cái Khả Hãn 牟汗紇升蓋可汗, nghĩa là ông vua chiến thắng.

 

Con ông ấy là Ngô Đề vào triều cống với Ngụy. Các nước Tây Vực cũng kế tục nhau vào triều cống. Sau đó Nhu Nhiên chấn hưng lại, vào năm Đại Minh thứ 4 đời Hiếu Võ đế nhà Tống (năm 460 Tl.), họ lại đánh phá Cao Xương, lập Hám Bá Châu làm vua Cao Xương. Năm Thái Thỉ thứ 6 đời Tống Minh đế (năm 470 Tl.) lại tấn công Vu-điền, sứ giả Vu-điền cầu cứu với Hậu Ngụy, báo cho biết các nước Tây Vực đều thuộc hết về Nhu Nhiên. Từ Ngô Đề truyền được năm đời đến Phục Hồ, vào năm Thiên Giám thứ 5 thời Lương Võ đế (năm 506 Tl.), cùng với Cao Xa đánh nhau ở Bồ Loại Hải (Nay là hồ Ba Lý Khôn, huyện Trấn Tây tỉnh Tân Cương), Phục Hồ bị giết chết. Con là Xú Nô lên thay phá tan Cao Xa, thế lực chợt mạnh lên, đầu tiên phụng sự nhà Ngụy rất cung kính, đến lúc nhà Ngụy chia cắt Đông, Tây thì Văn đế của Tây Ngụy cưới con gái ông ấy làm hậu, thừa tướng Đông Ngụy là Cao Hoan cưới con gái Nhu Nhiên (Nhuyễn Nhuyễn công chúa) làm thất (vợ), hai bên hòa thân. Về sau Đột-quyết hưng khởi, vào năm đầu niên hiệu Thiệu Thái đời Lương Kính đế (năm 555 Tl.), Mộc Chữ Khả Hãn của Đột-quyết đánh Nhu Nhiên, Đặng Thúc Tử chạy sang Tây Ngụy, Thái sư Vũ Văn Thái nhận lời thỉnh cầu của Đột-quyết, bắt hơn ba ngàn người từ Thúc Tử trở xuống giao cho sứ giả Đột-quyết và bị giết hết ở Thanh Môn (cửa Đông nam thành Trường An), Nhu Nhiên diệt vong.

Sự hưng khởi của tộc Đột-quyết: 

Thời Hán, Hung Nô ở phía Bắc bị nhà Hán đánh bại, sau khi chạy về phía Tây, đất để lại bị các bộ tộc Tiên Ti, Nhu Nhiên v.v…. chiếm cứ, rồi Tiên Ti xuống miền Nam, còn Nhu Nhiên trước khi bị diệt thì ở dải đất trung tâm châu Á. Đột-quyết lại hưng khởi, tộc này về nguyên lai truyền thuyết

cũng giống như các tộc khác, Châu thư,21 Bắc sử, Tùy thư22 đều có ghi chép rõ ràng, một thuyết cho là chủng tộc khác của Hung Nô, họ A Sử Na,23 tách thành bộ lạc riêng, sau bị lân quốc đánh phá, tận diệt họ tộc ấy; nhưng có một đứa trẻ còn sống sót, sinh ra mười đứa con mà A Sử Na là một đứa trong số ấy, con cháu sinh sôi nhiều gọi là Nhuyễn Nhuyễn (Nhu Nhiên) đoàn thiết (rèn sắt), cư trú ở phía Nam núi Kim Sơn (nay là núi A-nhĩ-thái). Núi Kim Sơn hình giống như cái mũ trụ24 nên gọi là Đột-quyết. Hoặc có thuyết nói rằng, Đột-quyết vốn có nguồn gốc từ nước Sách, người lớn của bộ lạc ấy có từ sáu đến mười vợ, A Sử Na là con của người vợ nhỏ. Tóm lại bộ tộc này ở phía Bắc Hung Nô, xa đến Tây Hải (Lý Hải25 hoặc là hồ Balkhash)26 thuộc Hung Nô, trải rộng mênh mông đến phía Nam núi A Sơn. Sau đó, Thổ Môn27 mạnh dần lên, bắt đầu thông hôn với Hậu Ngụy, tộc ấy cầu hôn với Nhu Nhiên, Nhu Nhiên cự tuyệt, gọi tộc ấy là: “Thiết nô (nô lệ làm thợ rèn) của ta, sao dám nói ra lời đó”. Đến năm đầu niên hiệu Thừa Thánh, đời Hiếu Nguyên đế nhà Lương (năm 552 Tl.), Thổ Môn phát binh đánh Nhu

21 Châu thư 周書: Sách sử thời Bắc Châu, 50 quyển, do Linh Hồ Đức Phần v.v… phụng sắc biên soạn vào đời Đường.

22 Bắc sử, xem cht. 46, tr. 32. Tuỳ thư, xem cht. 47, tr. 33.

23 Họ A Sử Na 阿史那氏: A Sử Na là họ thủy tổ Đột-quyết. Thời xưa, Đột-quyết có 10 họ đều lấy theo họ người mẹ (mẫu hệ), “A Sử Na” là một trong những họ đó.

24 Mũ trụ (兜鍪 đâu mâu): Mũ sắt, mũ đội đánh trận thời xưa.

25 Lý Hải 裏海: E. Caspian Sea, hồ lớn nhất thế giới, vị trí giữa miền Tây Trung Á và núi Kavkaz.

26 Hồ Balkhash (Ba-nhĩ-khách-thập 巴爾咯什), là hồ nước mặn phía Đông nam nước Cộng hòa Kazakhstan Trung Á của Nga.

27 Thổ Môn 土門: Tên bộ lạc Đột-quyết. Cuối đời Hậu Ngụy, bộ lạc này hưng thịnh dần và bắt đầu thông giao với Trung Quốc, tự lấy hiệu Y Lợi Khả Hãn. 

 

 Nhiên, Nhu Nhiên thất bại, Đầu Binh Khả Hãn tự sát. Từ đó Thổ Môn tự xưng là Y Lợi Khả Hãn. Ba năm sau tận diệt Nhu Nhiên, tóm thâu đất ấy. Đồng thời em của Thổ Môn là Thất Điểm Mật thống soái mười đại đầu lĩnh, với mười vạn người đánh úp Tây Vực, tự xưng là Khả Hãn, hiệu là bộ lạc Thập Tính (mười họ), đó là Tây Đột-quyết Khả Hãn, cũng là Thỉ tổ của bộ lạc Thập Tính.

Về sau Thổ Môn mất, con là Ất Tức Ký Khả Hãn lên thay. Ất mất, em là Sĩ Cân (tên khác là Yên Đô) lên thay, đó là Mộc Chữ Khả Hãn. Mộc Chữ đánh Nhu Nhiên, kiến thiết vương triều28 ở núi Đô Cân (biên giới phía Nam Tam Âm Nặc Nhan Hãn, bên ngoài Mông Cổ ngày nay), đồng thời phía Tây phá tan Áp-đạt29 (vùng đất riêng của Đại Nguyệt Thị, vị trí hiện nay thuộc núi Badakhshan), phía Đông đuổi Khiết Đan,30 phía Bắc bình định Kết Cốt31(tức là Kiên Côn, hoặc Hiệt Kiết Tư), phía Nam thu phục Thổ-cốc-hồn,32 cương vực mở rộng, phía Đông đến tận Liêu Đông, phía Tây đến Tây Hải (Lý Hải) rộng hàng vạn dặm, phía Nam đến Đại Mạc,33 phía Bắc tận bờ Bắc Hải (hồ Baikal ngày nay),34 

28 Hán: Kiến nha 建牙. Thời xưa khi hưng binh xuất quân, Võ thần xuất quân, đứng trước đại kỳ (cờ), hoặc bộ tộc thiểu số kiến thiết vương triều nơi nào đều gọi là kiến nha.

29 Áp-đạt: Xem cht. 4, tr. 121.

30 Khiết Đan 契丹: Một bộ tộc ở phương Bắc cổ đại, thuộc hệ tộc Đông Hồ, ngôn ngữ có chỗ tương đồng với cổ ngữ Mông Cổ.

31 Kết Cốt 結骨: Bộ tộc cổ đại, cư trú ở phương Bắc Hung Nô, nay là thượng du sông Yenisey. Thời xưa gọi Kiên Côn, đến đầu đời Đường gọi là Kết Cốt, năm thứ 22 niên hiệu Trinh Quán đổi hiệu Hiệt Kiết Tư.

32 Thổ-cốc-hồn 吐谷渾: Bộ tộc ở Tây bắc thời cổ đại, chi nhánh họ Mộ Dung của tộc Tiên Ti ở Liêu Đông. Tổ tiên họ cư trú ở Thanh Sơn nay thuộc tỉnh Liêu Ninh.

33 Đại Mạc: Xem cht. 32, tr. 163.

 

Năm Thái Kiến thứ 4 thời Trần Tuyên đế (năm 572 Tl.), Mộc Chữ mất, lập em là Đà Bát làm Khả Hãn, con ông ấy là Đại La Tiện chẳng phục. Đang lúc thịnh thế, Bắc Tề cát cứ phương bắc, Bắc Châu giành lấy công chúa Tệ Bạch theo phò Đột-quyết, Đà Bát từng nói: “Chỉ cần ta ở mặt Nam, hai con luôn hiếu thuận, lo gì không có vật ấy?” (Bắc sử quyển 99) Chưa bao lâu thì Đà Bát mất, con là Am La lên thay, Mộc Chữ Đại La Tiện chẳng phục, Am La sợ nhường ngôi cho con là Y Lợi Khả Hãn, tức là Nhiếp Đồ, hay gọi Sa Bát Lược Khả Hãn, lại lập Đại La Tiện làm A Ba Khả Hãn để vỗ về an ủi. Lúc này nhà Tuỳ rất hưng thịnh, sai Trường Tôn Thịnh36 dùng kế để ly gián Đột-quyết, về sau quả nhiên phân làm hai bộ phận Đông và Tây. 

Đông Đột-quyết — vào năm Khai Hoàng thứ 4 đời Tuỳ Văn đế (năm 584 Tl.), Đạt Đầu Khả Hãn hàng nhà Tuỳ, Sa Bát Lược Khả Hãn cũng xin hoà hiếu thân thiện, nhà Tuỳ lại trợ giúp em của Sa là Mạc Hà Khả Hãn đánh A Ba Khả Hãn của Tây Đột-quyết. Sa mất, em là Xử La Hầu lên ngôi tức Mạc Hà Khả Hãn. Mạc Hà mất, con của Sa Bát La là Ung Ngu Lư lên ngôi, là Đô Lan Khả Hãn.37 

 34 Hồ Baikal (Bối-gia-nhĩ 貝加爾), vị trí phía Tây bộ Siberia hướng Đông nước Nga, giữa tỉnh Irkutsk oblast và nước Cộng hòa tự trị Buryat A. S. S. R.

35 Taskhent (Tháp-thập-can 塔什干), thủ đô nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Uzbekskaja S.S.R.

36 Trường Tôn Thịnh 長孫晟: Trường Tôn Thịnh (552-609), tự là Quí Thịnh, người Lạc Dương, Hà Nam thời Tuỳ, đa mưu túc trí, võ nghệ siêu quần. Đầu đời Tuỳ, Đột-quyết Nam chinh, ông hiến kế sách ly gián các bộ tộc Đột-quyết. Văn đế giao cho ông hành sự. 

 

Nhà Tuỳ lại muốn ly gián họ nữa, con của Xử La Hầu là Nhiễm Can hiệu là Đột Lợi Khả Hãn ở phương Bắc sai sứ cầu hôn, được nhà Tuỳ đem công chúa An Nghĩa gả cho, còn Đô Lan cầu hôn thì cự tuyệt, do đó Đô Lan đánh Đột Lợi, cướp phá biên giới nhà Tuỳ, Đột Lợi chạy trốn vào Trung Quốc được phong làm Khải Dân Khả Hãn. Khải Dân Khả Hãn mất, con là Đốt Cát lên thay, đó là Thỉ Tất Khả Hãn. Vào năm Đại Nghiệp thứ 11 (năm 615 Tl.), Dương đế đi tuần thú phương Bắc bị Thỉ Tất vay khốn ở Nhạn Môn (tại tỉnh Sơn Tây ngày nay), được công chúa Nghĩa Thành cứu thoát. Lúc đó, thế lực nhà Tuỳ đã suy yếu, người theo về Đột-quyết rất đông, phía Đông của Thỉ Tất từ Khiết Đan, Thất Vi, về phía Tây đến tận Thổ-cốc-hồn, Cao Xương đều thần phục họ, xạ tiễn, binh lính hàng trăm vạn. Những kẻ cát cứ xưng hùng như Lưu Võ Châu, Vương Thế Sung v.v… đều quay mặt về phương Bắc xưng thần, sách vở đầu đời Đường đều ghi chép, có thể thấy sự hùng mạnh của thế lực ấy.

Tây Đột-quyết — khởi lên từ con của Mộc Chử là Đại La Tiện (A Ba Khả Hãn), sau khi bị Đông Đột-quyết bắt giết, nhân dân và chư hầu lập con của Ương Tố Đặc Lặc là Nê Lợi Khả Hãn, ông mất, con là Đạt Mạn lên thay, đó là Xử La Khả Hãn. Sau khi Xử La bị tiểu Khả Hãn của phương Tây là Xạ Quỹ đánh bại, Xạ tự lập làm Đại Khả Hãn, khai thác cương thổ, đông đến Kim Sơn (nay là núi A-nhĩ-thái), Tây đến Tây Hải, hầu hết các nước về phía Tây Ngọc Môn38 đều thần phục họ, kiến thiết vương triều39 ở núi Tam Di40 phía Bắc Qui-tư, cùng đối địch với Đông Đột-quyết. Xạ Quỹ chết, em là Thống Diệp Hộ Khả Hãn lên thay, phía Bắc chiếm Thiết Lặc, phía Tây chống Ba-tư, phía Nam tiếp giáp Kế Tân, chiếm cứ đất cũ của Ô Tôn, làm bá chủ cả Tây Vực, dời triều đình về Thiên Tuyền phía Bắc Thạch Quốc (một dải Tashkent). Hầu hết các nước Tây Vực đều được Tây Đột-quyết bảo vệ, sử gọi là “sự hưng thịnh của Tây Nhung chưa từng có vậy”. Đây là thời kỳ cực thịnh của Tây Đột-quyết. 

37 Đô Lan Khả Hãn 都蘭可汗: Hay gọi Đô Lam Khả Hãn 都藍可汗 (?-599), là Đông Đột-quyết Khả Hãn (đời Tuỳ), tại vị từ năm 588-599 Tl., tên Ung Ngu Lư, hiệu Hiệt Ca Thi Đa Na Đô Lam Khả Hãn, con Sa Bát Lược Khả Hãn. Lúc đầu cùng Tuỳ thông hảo, sau nhà Tuỳ sai Trường Tôn Thịnh dùng kế ly gián nên cùng Nhiễm Can (Đột Lợi [Khải Dân] Khả Hãn) đánh nhau.

 

Sự hưng khởi của tộc Thiết Lặc: 

Thiết Lặc và Cao Xa nguyên là một bộ tộc, đều xuất phát từ Đinh Linh.41 Đinh Linh nguyên ở phía bắc Hung Nô, đến đầu nhà Ngụy, tộc đó bị nhà Ngụy đánh phá nên nhiều người trong tộc ấy dời về phía Nam sa mạc, xưng là Cao Xa. Những người lưu lại Mạc bắc (sa mạc phía Bắc) và đất cũ của tộc ấy sử gọi là Thiết Lặc.
Bộ tộc Thiết Lặc rất nhiều, “Bắc sử” từng  ghi chép: 

“Tổ tiên của Thiết Lặc là con cháu của Hung Nô. Chủng loại rất nhiều, từ phía Đông của Tây Hải, họ nương theo núi chiếm cứ hang động ở, truyền thống thường như vậy chẳng dứt. Phía Bắc sông Độc Lạc (Sông Thổ Lạp ở Ngoại Mông ngày nay) có Bộc Cốt, Đồng La, Vi Hột, 

38 Ngọc Môn 玉門: 1- Tên cổng, tức cổng Ngọc Môn (Ngọc Quan), phía Tây huyện Đôn Hoàng tỉnh Cam Túc ngày nay. 2- Tên huyện, phía Tây huyện Tửu Tuyền tỉnh Cam Túc.

39 Hán: Kiến nha. Xem cht. 28 trước.

40 Nay là núi Hán Đằng Cách Lý ở phía Bắc huyện Khố-xa. (cht. Tg)

41 Đinh Linh: Xem cht. 11 trước. 

 

Bạt Dã Cổ, xét lại đều là hiệu của các họ Sĩ Cân, Mông Trần, Thổ Như Hột, Tư Kết, Hồn, Hộc Tiết v.v… binh lực hùng mạnh có thể đến hai vạn. Từ Y Ngô (nay là huyện Y Ngô tỉnh Tân Cương) trở về phía Tây, phía Bắc Yên Kỳ (nay là huyện Yên Kỳ tỉnh Tân Cương), cạnh núi Bạch Sơn thì có Khiết Tệ, Bạc Lạc Chức, Ất Hí, Tô Bà, Na Hạt, Ô Hộ Khất, Cốt Dã Hí, Ư Ni Hộ v.v… binh lực hùng mạnh có đến hai vạn. Phía Tây nam núi Kim Sơn có Tiết Diên Đà, Hí Lặc Nhi, Thập Bàn, Đạt Khiết v.v… hơn một vạn binh. Phía Bắc Khương quốc42 cạnh biển A-đắc (Hàm hải)43 thì có A Hí, Hạt Tài, Bát Hốt, Tỉ Can, Bối Hải, Hạt Tỳ Tất, Hà Tha, Tô Bạt, Dã Mạt, Yết Đạt v.v… có ba vạn binh. Ở Đông-Tây Đắc Nghi Hải (Nghi, hoặc Lý Hải)44 có các họ Tô Lộ Yết, Tam Tố, Yết, Miệt, Tróc Tát Hốt v.v… hơn tám ngàn binh. Phía Tây Phất Lâm (tức La-mã) thì có họ Ân Khuất, A Lan, Bắc Nhục, Cửu Ly, Phục Ốt v.v…  gần hai vạn người, phía Nam-Bắc Hải thì có Đổ Ba v.v… Tuy mang họ khác nhau nhưng gọi chung là Thiết Lặc, đều không có quân trưởng, phân chia thành hai hệ Đột-quyết Đông và Tây”.45

Nhưng trong Đường thư46 ghi chép về bộ lạc Thiết Lặc có sự thêm bớt: 

42 Khương quốc 康國: Nay phía Bắc dải Samarkand, Trung Á.

43 A-đắc thuỷ 阿得水, hay gọi là biển (hồ) A-lạp 阿拉() (Aral Sea), tức biển Hàm (Hàm Hải). Vị trí giữa nước Cộng hoà Uzbekskaja và Kazakhstan, miền Tây nam nước Nga. Hồ này lớn thứ tư thế giới. (xem thêm cht. 19, tr. 20).

44 Lý Hải: Xem cht. 25 trước.

45 Xem Bắc sử quyển 99. (cht. Tg)

46 Tân Đường thư: Xem cht. 11, tr. 126. 

 

“Bộ lạc ấy gọi là Viên Hột, Tiết Diên Đà, Khiết Bật Vũ, Đô Bá, Cốt Lợi Cán, Đa Lãm Cát, Bộc Cốt, Bạt Dã Cổ, Đồng La, Hồn, Ân Kết, Hộc Tiết, Hề Kết, A Trật, Bạch Tập, gồm mười lăm chủng tộc đều ở rải rác phía Bắc dải sa mạc”.47

Các bộ lạc nêu trên đều thần phục với Đột-quyết, vì người Thiết Lặc giỏi cưỡi ngựa bắn cung nên thường cung cấp cho Đột-quyết kỵ binh, nhưng Đột-quyết đối đãi người Thiết lặc như trâu ngựa:

“Năm đầu niên hiệu Đại Nghiệp, Xử La Khả Hãn của Đột-quyết đánh các bộ tộc Thiết Lặc, đánh thuế nặng, thu lấy sản vật của họ, lại nghi kỵ Tiết Diên Đà v.v… sợ họ làm binh biến, liền tập họp tướng lĩnh của họ hơn trăm người giết hết. Do đó họ đồng loạt nổi dậy làm phản”.48

Từ đó họ ủng hộ và lập Ca Lăng của bộ tộc Khiết Bật làm Mạc Hạ Đại Khả Hãn, Dã Hí của bộ tộc Tiết Diên Đà làm Tiểu Khả Hãn, thường đánh phá binh của Xử La. Mạc Hạ được nhiều bộ tộc khác ủng hộ, Y Ngô, Cao Xương, Yên Kỳ đều quy thuận. Năm Đại Nghiệp thứ ba (năm 607 Tl.), họ cướp phá biên giới, Dương đế sai tướng ra Đôn Hoàng, thất lợi, Thiết Lặc liền sai sứ tạ tội, Bùi Củ phụng sứ vỗ yên họ. Đến khi Xạ Quỹ của Tây Đột-quyết tấn công giết chết Xả La thì Mạc Hạ, Dã Hí đều bỏ Hãn, đồng loạt trở lại thần phục Tây Đột-quyết.
Tóm lại, các tộc nêu trên đều lấy vùng biên giới phía Bắc làm căn cứ địa, nhưng Tây Đột-quyết và Thiết Lặc thì lấy Thiên sơn bắc lộ” làm căn cứ, các nước vùng “Thiên sơn nam lộ” thường làm nô dịch cho họ 

47 Xem Tân Đường thư 142, thượng. (cht. Tg)

48 Xem Bắc sử quyển 99. (cht. Tg).

 

ĐỊA THẾ VÀ TÌNH HÌNH CÁC NƯỚC TÂY VỰC 

Vào cuối đời Hán, các nước Tây Vực phân chia hơn 50 nước. Đến thời Ngụy Tấn trở về sau, từ Tam quốc phân tranh, ngũ Hồ loạn Hoa, rồi cuộc đối đầu Nam-Bắc Triều, thẳng đến đời Tuỳ, các nước Tây Vực lớn nhỏ công phạt thôn tính lẫn nhau, tình huống rối loạn cũng giống như Trung Nguyên. Căn cứ trong “Ngụy lược”,49 “Tấn thư”,50 “Bắc sử”, “Nam sử”51 ghi chép chung về tình hình các nước, xin lược thuật lại như sau:
Nước Thiện Thiện: Thủ đô là Hãn Nê thành, là nước Lâu Lan xưa, sau nước ấy có các nước Thả-mạt,52 Tiểu Uyển,53 Tinh Tuyệt54 v.v…, địa khu bao quát có Nặc Khương,55 Thả-mạt và Đông bắc bộ Vu-điền ngày nay, ở phía Đông Tarim đại (sa mạc) Qua-bích.56           

49 Ngụy lược: Xem cht. 68. tr. 71.

50 Tấn thư: Xem cht. 44, tr. 32.

51 Nam sử 南史: Bộ sách sử gồm 80 quyển, do Lý Diên Thọ soạn thời Đường; ghi lại lịch sử thời Nam Triều, từ đời Tống đến đời Trần, 170 năm.

52 Thả-mạt 且末: Hiện nay trong sa mạc Gobi, phía Bắc huyện Thả-mạt tỉnh Tân Cương.

53 Tiểu Uyển 小宛: Vị trí hiện nay trong sa mạc, biên giới huyện Thả-mạt tỉnh Tân Cương.

54 Tinh Tuyệt : Phía Đông huyện Hòa-điền tỉnh Tân Cương ngày nay.

55 Nặc Khương 諾羌: Nay là huyện Nặc Khương tỉnh Tân Cương.

56 Tarim đại Qua-bích, Hán: Tháp-lý-mộc đại Qua-bích 塔里木大戈壁: 1- Tarim là thung lũng nội lục rộng nhất Trung Quốc, vây quanh giữa núi Thiên Sơn và Côn Lôn, trong có sa mạc Qua-bích (Gobi) (xem cht. 32, tr. 163). 2- Tarim cũng là tên con sông (xem thêm cht. 15, tr. 51). 

 

Nước Vu-điền: Rộng cả ngàn dặm, núi liền lớp lớp. Sau Vu-điền có Nhung Lư,57 Hãn Nhĩ (?), Cừ Lặc,58 Bì Sơn59 (Bì Quỹ, Bồ Sơn) v.v…, bao gồm khu vực Vu-điền, Bì Sơn, Hoà-điền (Khotan) ngày nay v.v… Đô thành nước ấy vuông 8, 9 dặm. Bên trong có 5 đại thành và vài mươi thành nhỏ. Ba mươi dặm về phía Đông thành có sông Thủ Bạt (tức là sông Hoà-điền) sản xuất ngọc thạch. Đất thích hợp với ngũ cốc, cây dâu tằm, cây gai, nhiều ngọc đẹp, có ngựa tốt, lạc đà, lừa. Hình pháp nước ấy hễ giết người là xử tử, còn các tội khác tuỳ theo nặng nhẹ mà trừng phạt. Phong tục, vật sản đại lược giống Qui-tư. Truyền thống tôn trọng Tam bảo; chùa tháp, Tăng ni rất nhiều. Vua rất kính tín, ngày nào thiết lập trai đàn, nhà vua đích thân quét dọn, dâng cúng thực phẩm. Năm mươi dặm về phía Nam thành có chùa Tán-ma, tức là chỗ La-hán Tỳ-kheo Lô-chiên vì vua nước ấy tạo tháp hình bát úp. Trên đá có chỗ đi chân không của vị Bích-chi Phật mà hai dấu chân vẫn còn. Năm trăm dặm về phía Tây Vu-điền có chùa Tỷ-ma, là chỗ Lão Tử hoá Hồ thành Phật.60 Phong tục không có lễ nghĩa, nhiều đạo tặc, dâm dục phóng túng. Người của các nước từ Cao Xương trở về phía Tây đều mắt sâu mũi cao, chỉ có người nước này là rất giống người Hoa Hạ.

Nước Đại Nguyệt Thị:61 Thủ đô là thành Thứng-giám-thị,62 đương thời Ký-đa-la63 hưng binh vượt qua phía Nam núi Đại Sơn (núi Hindu Kush),64 xâm lược Bắc Thiên Trúc, năm nước từ Kiền-đà-la trở ra phía Bắc đều thần phục Đại Nguyệt Thị. Bấy giờ Kế Tân, Đại Hạ, Cao-phụ, và cả Thiên trúc đều lệ thuộc Đại Nguyệt Thị.

Những nước nêu trên đều ở hướng Nam (Tây Vực).

 

57 Nhung Lư 戎盧: Trong sa mạc Gobi, phía Đông huyện Lạc Phố tỉnh Tân Cương ngày nay.

58 Cừ Lặc 渠勒: Vị trí hiện nay trong sa mạc, biên giới huyện Lạc Phố tỉnh Tân Cương.

59 Bì Sơn: Xem cht. 32, tr. 131.

60 Lão Tử hoá Hồ thành Phật: Truyền thuyết Lão Tử vào Ấn Độ giáo hoá Phật, hoặc Lão Tử chuyển sanh thành Phật, là do Phật giáo và Đạo giáo chống nhau nên phát sanh ra thuyết đặc dị này. Căn cứ Hậu Hán thư Liệt truyện quyển 20, hạ, Tương Giai truyện ghi: Lão Tử vào Di Địch làm Phù-đồ (Phật). Tam quốc chí Ngụy thư, Bùi Chú dẫn, truyện Tây Nhung trong Ngụy lược ghi: Lão Tử xuất Quan (Quan Trung) đi về Tây, qua Tây Vực vào Thiên Trúc giáo hoá người Hồ, Phù-đồ cũng là đệ tử ngài v.v… Sự phát sinh thuyết Lão Tử hoá Hồ làm Phật cũng có nguyên do: 1- Đồ chúng Đạo giáo muốn đề cao địa vị Đạo giáo trên Phật giáo; 2- Đồ chúng Phật giáo muốn tông giáo ngoại lai này là có nguồn gốc từ Trung Quốc nên dựng lên thuyết này. 

61 Nước Đại Nguyệt Thị: Vị trí hiện nay là một dải Đông tỉnh Thanh Hải và Tây Trung bộ tỉnh Cam Túc.

62 Theo Phật quang đại từ điển: Đại Nguyệt Thị sau khi chủ định, thủ đô là thành Lam Tử (nay phía Bắc Afghanistan), Bắc (sông) Qui Thủy. Từ Hải (từ điển) v.v…: Thủ đô là thành Bạc La.

63 Ký-đa-la, tức là Wema Kudphises (Diêm-cao-trân) vào thời Tấn Mẫn đế, đã từ Bộc Đạt vượt qua Đại Tuyết Sơn, vượt qua sông Ấn Độ chinh phục vương quốc Ô-đức-cổ-phổ-bồi, chiếm hai vùng Bắc và Trung Ấn Độ. Lúc đó biên giới quốc gia Đông, Tây, Nam, Bắc đều ba, bốn ngàn dặm, đổi hiệu là Áp-đạt, kiến lập đô thành ở sông Oxus, phía Nam gọi là Bạt-đình-diên tức là thành Ba-nhĩ-khắc ở biên giới phía Bắc Afghanistan, tục gọi là Tiểu Thành Vương-xá. Nhưng vua ấy có thành quách mà chẳng ở, thường tuần qua vùng núi Thổ-hỏa-la (xem rõ ở truyện Áp-đạt của Ngụy thư và Lạc Dương già-lam ký). (cht. Tg)

64 Hindu Kush (Hưng-đô-khố-thập 興都庫什), dải núi lớn ở Trung Á.

65 Nước Yên Kỳ 焉耆國: Hiện nay huyện Yên Kỳ tỉnh Tân Cương. 

 

Nước Yên Kỳ:65 Thủ đô là thành Viên Cừ, đô thành rộng hai dặm vuông, trong nước gồm có 9 thành. Không có kỷ cương pháp lệnh, binh lính trang bị đao, cung, giáp, giáo dài. Về hôn nhân đại lược giống với Hoa Hạ. Người tử vong đều thiêu đốt rồi mới chôn. Chế phục (để tang) của nước ấy đủ bảy ngày mới trừ phục. Người lớn đều cắt tóc để làm đẹp đầu. Văn tự giống với văn tự Bà-la-môn. Tục thờ Thiên Thần (tức là Yêu giáo) và tôn sùng Phật pháp. Rất trọng ngày mùng 8 tháng 2, mùng 8 tháng 4, vào những ngày đó người nước ấy đều y theo Thích giáo (đạo Phật) mà trai giới hành đạo. Khí hậu lạnh, ruộng đất màu mỡ. Ngũ cốc có lúa nước, lúa tẻ, đậu, lúa mì; súc vật có lạc đà, ngựa, nuôi tằm chẳng để lấy tơ mà chỉ bổ sung cho sợi bông. Thường chuộng rượu nho, thích âm nhạc. Mười dặm về phía Nam có biển (tức là hồ Bosten), cá, muối, rau ráng dồi dào. Các vùng thuộc nước ấy có Úy Lê, Nguy Tu, Sơn Quốc (Sơn Vương) v.v…, bao gồm hai huyện Yên Kỳ và Uý Lê ngày nay. 

Nước Qui-tư:66 Thủ đô là thành Diên, nước cũ đời Hán. Thành vuông năm, sáu dặm, có ba lớp. Ở giữa có hàng ngàn tháp miếu Phật. Nhân dân lấy việc ruộng nương, chăn nuôi làm nghề nghiệp. Trai gái đều cắt tóc trên đỉnh đầu. Vua nước ấy đầu buộc dải lụa ngũ sắc, ngồi giường sư tử vàng. Hình pháp nước ấy là “giết người đền mạng”, trộm cướp thì xử chặt một cánh tay và một chân. Thuế má lấy đất làm tiêu chuẩn; về thuế ruộng, người không ruộng thì đóng thuế bằng bạc. Phong tục, hôn nhân, ma chay, sản vật đại lược giống Yên Kỳ. Khí hậu có phần ôn hoà. Lại sản xuất các thứ dạ mịn, nhiều thép, sắt, chì, da hươu, thảm đệm dệt bằng lông, muối hạt, phẩm xanh, thư hoàng,67 hồ phấn,68 hương An 

66 Nước Qui Tư 龜玆國: Hiện nay nằm giữa hai huyện Sa Nhã và Khố Xa tỉnh Tân Cương.

67 Thư hoàng 雌黃: E. orpiment, tên khoáng vật, thành phần hoá học là AS2S3, dùng chế thuốc nhuộm màu vàng.

68 Hồ phấn 胡粉: Thời xưa người ta dùng “diên phấn” (phấn nấu từ chì) và “yên chi” (son, phấn sáp) hoà lại, tạo thành một loại phấn trang sức bôi mặt.

 

Tức,69 và có nhiều ngựa, trâu rừng, công. Chư hầu nước ấy có Cô Mặc, Ôn Túc, Uý Đầu và các vùng phía Đông đến Luân Đài, phía Tây đến Bắc Ô Thập (thuộc tỉnh Tân Cương ngày nay).

Nước Sơ-lặc:70 Ở phía tây Cô Mặc, hơn trăm dặm phía Nam núi Bạch Sơn, nước cũ thời Hán. Đô thành nước ấy vuông năm dặm, trong nước có 12 ngôi thành lớn, vài mươi ngôi thành nhỏ, chân tay đều sáu ngón, người sinh con không có sáu ngón thì không nuôi, binh lực hùnh mạnh hai ngàn người. Thổ sản: nhiều lúa nước, lúa tẻ, đay (gai), đồng, sắt, thiếc, thư hoàng. Chư hầu nước Sơ-lặc có Trinh Trung (truyện Ban Siêu trong Hậu Hán thư gọi là thành Tổn Trung, chú thích là Đốn Trung), Sa-xa, Kiệt Thạch (nay là Kāshgar), Cừ Sa (Bắc sử gọi là Cừ Sa, ở thành Sa-xa cũ, phía Tây bắc Tử Hợp), Tây Dạ (nước Tất-cư-bán, một tên là Tử Hợp), Y Nại,71 Mãn Lê (Bồ Lê),72 Ức Nhược (Hậu Hán thư gọi là Đức Nhược),73 Du Linh (Tiền, Hậu Hán thư đều không có tên nước này), Quyên Độc,74 Hưu Tu (Hưu Tuần),75 Cầm Quốc (Tiền, Hậu Hán thư đều không có nước này), bao gồm vùng rộng lớn từ phía Đông đến Ba Sở,76 phía  Tây đến Thông Lĩnh, phía Nam đến Bồ Lê, phía Đông đến Diệp Thành.77 Về phía Tây là nước Đại Uyển,78 An Tức,79 Điều Chi,80 Ô Dặc Sơn Li81 v.v… những nước đó không thêm bớt.

Những nước nêu trên ở Trung đạo (Tây Vực).

69 Hương An Tức 安息香: Cây hương An Tức, Skt. guggula, dịch âm Quật-cụ-la. Cây này sinh trưởng ở Ấn Độ, Ba-tư v.v… Từ cây này người ta có thể chế ra một loại hương liệu. Hương liệu này do thương nhân nước An Tức đem vào Trung Quốc đầu tiên nên gọi hương An Tức.

70 Nước Sơ-lặc: Xem cht. 9, tr. 19.

71 Y Nại: Xem cht. 28, tr. 130. 

72 Bồ Lê: Xem cht. 27, tr. 130.

73 Đức Nhược 德若: Nay vùng huyện Diệp Thành tỉnh Tân Cương.

74 Quyên Độc 捐毒: Phía Tây bắc huyện Ô Kháp, tỉnh Tân Cương ngày nay.

75 Hưu Tuần 休循: Nay thuộc vùng đất A Lại Cốc phía Bắc cao nguyên Pamir, cũng là phía Tây Thông Lĩnh ngày nay.

76 Ba Sở 巴楚: Phía Đông huyện Già Sư tỉnh Tân Cương ngày nay.

 
Xa Sư Hậu Bộ:82 Thời Hậu Ngụy thuộc về Nha Nhiên Bộ. Chư hầu nước ấy có Đông, Tây Thả Di,83 Đan Hoàn,84 Tất Lục (Ty Lục),85 Bồ Lục (Bồ Loại),86 Ô Tham (Ô Tham Tí Li).87 Phía Tây bắc là Ô Tôn,88Khương Cư,89 những nước đó không thêm bớt.

 

77 Diệp Thành: Xem cht. 25, tr. 129.

78 Đại Uyển 大宛: Nay thuộc một phần nước Cộng hòa Uzbekskaja, Trung Á. 

79 An Tức 安息: Tên nước Ba-tư thời xưa, gọi là Parthia, vị trí ở cao nguyên Iran.

80 Điều Chi 條支: Vương quốc cổ đại ở Tây Vực thời Hán, phía Tây nước An Tức, bị La-mã tiêu diệt vào năm 65 trước Tl.. 

81 Ô Dặc Sơn Li 烏弋山離: Hoặc gọi Ô Dặc, một dải Nam bộ Iran và Baluchistan ngày nay.

82 Xa Sư Hậu Bộ: Xem Xa Sư Tiền Bộ, cht. 77, tr. 74.

83 Thả Di 且彌: Thời Hán, Thả Di phân làm hai nước Đông, Tây, sau hợp lại thành một. Nay thuộc vùng đất hai huyện Tuy Lai và Xương Cát tỉnh Tân Cương.

84 Đan Hoàn 單桓: Nay thuộc vùng Ô Lỗ Mộc Tề tỉnh Tân Cương.

85 Ty Lục 卑陸: Nay là vùng đất của hai huyện Phu Viễn và Phụ Khang tỉnh Tân Cương.

86 Bồ Loại 蒲類: Nay là huyện Trấn Tây tỉnh Tân Cương.

87 Ô Tham Tí Li 烏貪訾離: Nay là huyện Tuy Lai tỉnh Tân Cương.

88 Ô Tôn: Tên quốc gia cũng là tên một bộ tộc (xem cht. 12 trước). Vị trí hiện nay từ huyện Ôn Túc về phía Bắc, huyện Y Ninh về hướng Nam tỉnh Tân Cương đều thuộc đất của Ô Tôn.

89 Khương Cư: Xem cht. 31, tr. 56. 

Những nước nêu trên là các nước ở Bắc tân đạo.Trong truyện Tây Nhung sách “Ngụy lược” gọi là: “Các nước Tây Vực, đầu thời Hán lập ra 36 đạo90, sau phân hơn 50. Từ niên hiệu Kiến Võ trở lại, họ thôn tính tiêu diệt lẫn nhau, tới nay còn có 20. Về vị trí trước có hai đạo, nay có ba đạo”. Đó là Nam, Trung, Bắc tân đạo. Nói 20 nước là những nước theo sau nước lớn hùng mạnh. Tại “Thiên sơn nam lộ” còn có nước Cao Xương mới thành lập (xem bài sau sẽ rõ). Trừ các nước nói trên, còn có các nước trong vùng Thông Lĩnh và bên ngoài Thông Lĩnh, tóm lược những nước ấy trong biểu đồ sau:

 

Tên nước Đô thành Đặc sản Tên đất
ngày nay
Bị chú
 
Quyền-ư-ma
     
Ô-tạp-đề của vùng Khảm-cự-đề91
 
Tức nước
Ô Trạ92thời xưa
 
Duyệt Bát
   
Thạch lưu hoàng
 
Đông bắc hồ
Balkhash, Tây bắc
Ô Tôn
 
 
Giả-chí-bạt
 
Giả-chí-bạt
 
Sắt tốt
và sư tử
 
Phía Tây Sơ-lặc
 
 
Mê Mật
 
Mê Mật
Vàng, ngọc, nhiều sắt Phía Tây
Giả-chí-bạt
 
 
Tất-vạn-cân
 
Tất-vạn-cân
 
Sư tử
 
Vùng Samarkand
 

 

90 Đạo : Xem cht. 3, tr 172.

91 Khảm-cự-đề 坎巨提: Ở phía Bắc Kashmir, Tây nam huyện Bồ Lê tỉnh Tân Cương.

92 Ô Trạ: Xem cht. 33, tr. 134.

 

 
Nữu Mật
 
Nữu Mật
   
Bukhara (Bokhara)
 
 
 
Lạc Na
 
 
Quí Sơn
 
Ngựa
Hãn huyết93
 
 
 
Fergana
Nước Đại Uyển tức nước
Phá-lạc-na trong Đổng Uyển thông bắc sử
Tây Vực truyện
 
Túc-đặc
   
Ngựa, nho, rượu
Túc-đặc trong Hậu Hán thư, nay là
núi Caucasus,
phía Bắc Lý Hải
Còn gọi là
Yêm-sái, tên khác Ôn-na-sa
 
 
Ba-tư
 
 
Túc Lợi
 
Vàng, san hô, đồng, sắt, hổ phách, mã não, chân châu, lưu ly, ngựa, lừa, voi trắng, sư tử
 
 
Một dải
Syrian
 
 
Xưa là nước
Điều Chi
 
 
Phục-lô-ni
 
 
Phục-lô-ni
 
Đà điểu, bạc, san hô, hổ phách, sư tử, ngũ quả
 
 
Bắc Ba-tư
 
 
Già-sắc-ni
 
Già-sắc-ni
Muối đen, nhiều
ngũ quả
Nam Tất-vạn-cân tức Nam Samarkand  
 
Bạc Tri
 
Bạc Lý
 
Ngũ quả
Phía Nam nước
Già-sắc-ni, tức
Nam Samarkand
 

 

93 Hán: Hãn huyết mã 汗血馬: Tên một loại tuấn mã ở Đại Uyển. Loại ngựa này sau khi phi nước đại, mồ hôi thấm trên lông, đỏ giống như chảy máu.

 

 
 
Mâu Tri
 
 
Mâu Tri
Cầm thú,
thảo mộc
cùng loại với
Trung Quốc
 
Phía Tây Nữu Mật, tức Tây Bukhara
 
A-phất-thái- hãn A-phất-thái-hãn Đất bằng, nhiều
ngũ quả
Phía Tây Nữu Mật, tức Tây Bukhara  
 
Hô-tư-mật
 
Hô-tư-mật
Bạc, sư tử, hổ phách, nhiều ngũ quả Phía Tây A-phất-thái-hãn,
Bắc sông Amu Darya
 
 
Nặc-sắc-ba-la
 
Ba-la
Lúa nước, lúa mạch, nhiều ngũ quả Phía Nam Nữu Mật, tức
Nam Bukhara
 
 
Tảo-già-chí
 
Tảo-già-chí
Ít ruộng,
lấy lúa và
lúa mạch
ở lân quốc,
có ngũ quả
Phía Tây Nữu Mật,
Bắc sông Amu Darya
 
 
Già-bất-đan
 
Già-bất-đan
Lúa nước,
lúa mạch,
ngũ quả
Phía Tây bắc
Tất-vạn-cân,
tức Tây bắc
Samarkand
 
 
Giả Thiệt
     
Phía Tây bắc
Phá Lạc,
nay là Tashkent
 
Nước
Khương Cư xưa
 
Già Bội
 
Hòa Mặc
 
Cư trú hang núi
Wakhan  
núi Badakh
Xưa là Hấp hầu94 Hưu Mật, cũng là Hộ Mật
 
Thành Chiết- bệ-mạc-tôn
 
 
Song Mĩ
 
Cư trú hang núi
 
Đất La-lỗ-thiện bộ
 
Xưa là Hấp hầu Song Mĩ

 

94 Hấp hầu: Xem cht. 26, tr. 23. 

 

 
Kiềm Đôn
 
Hộ Tháo
 
Cư trú hang núi
Đất Nhã-khắc-ba trong núi Tạp-thập-đông (một thuyết nói là ở Tây Sa-xa)  
Xưa là Hấp hầu Quí Sương
Phất-địch-sa Bạt-mao Cư trú hang núi Núi Badakh Xưa là Hấp hầu Hật Đốn
 
Diêm-phù-yết
 
Cao-phụ
 
Cư trú
hang núi
 
Một dải Bukhara
 
Xưa là Hấp hầu Cao-phụ
 
 
An Tức
 
 
Uý Sưu
 
 
Cư trú hang núi
 
 
Một dải
Đông nam Iran
 
 
Có thuyết nói là An Quốc,
tức Bokhara
 
Đại Nguyệt Thị
 
Thứng-giám- thị
 
Đất đai nóng ẩm, sư tử, tê giác, Trâu lớn, Khổng tước (công),
Đại tước
(đà điểu)
 
Một dải Bắc Ấn
Pakistan đến Kashmir
 
Điều Chi     Một dải Syrian  
 
Đại Tần
 
An Đô
Ngũ cốc, dâu tằm, đay (gai), minh châu, ngọc bích dạ quang  
La-mã
 
 
A-câu-khương
  Ngũ cốc, các thứ trái cây, tiền tệ,
binh khí, vàng, ngọc
Ở Đông nam
Kỷ-nhĩ-kỷ-đặc
 

 

 
Ba Lộ
  Có thục mã (?), sản vật và phong tục quốc gia giống A-câu-khương  
Kỷ-nhĩ-kỷ-đặc
 
 
Tiểu
Nguyệt Thị
 
Phú-lâu-sa
Tiền, vàng, bạc là hàng hoá trao đổi, theo súc vật đến vùng có nước, cỏ, có tháp Phật Ở Tây nam
Kỷ-nhĩ-kỷ-đặc,
tức một dải
Bắc Ấn
 
 
Kế Tân
 
Thiện Kiến
Ngũ cốc, văn khắc, dệt len, vàng, bạc, đồng, thiết  
Kashmir
 
Thổ-hô-la Bạt-đề Ngũ cốc, ngựa hay,
lạc đà, lừa
Phía Nam sông
Amu Darya
Đất Đại Hạ xưa
 
Phó Hoá
 
Phó Hoá
Ngũ cốc, nho, ngựa, lạc đà, lừa    
 
Nam
Thiên Trúc
 
Phục-xú
Ngọc Ma-ni, san hô,
hoàng kim,
bạch ngân
Nam bộ Ấn Độ  
 
Điệp-phục-la
   
Ngũ cốc, vải, muối
   
 
 
Bạt-đậu
   
Vàng, bạc, nhiều loại báu vật, voi trắng, trâu nước, ngũ cốc v.v…
   

 

 
Áp-đạt
 
Bạt-để-diên
  Từ sông Amu Darya trở về Nam
đến Ấn Độ
Theo Bắc sử thuộc tộc Đại Nguyệt Thị
 
Châu Cư
  Lúa mạch, trái cây, thờ Phật, ngôn ngữ giống Vu-điền  
Tây Vu-trí
 
Khát-bàn-đà     Một dải Bồ Lê  
Bát Hoà   Lúa mạch, rượu, gia súc Wakhan
Pamir
Tức Hộ Mật
Ba Tri     Tây nam Wakhan
Pamir
 
Xa Di     Nam Ba Tri,
Bắc Ô-trường
 
Càn Đà     Bắc Ấn hoặc một dải Afghanistan  
 
Khương quốc
  Gia súc, vàng, lỗ sa,95
da hươu,
rượu nho
 
Samarkand
 
An Quốc   Muối ngũ sắc Một dải
Bukhara
 
 
Thạch Quốc
 
Dược Sát Thuỷ
Lúa, lúa mạch,
ngựa giỏi
Một dải sông
Tích-nhĩ (Sir-Daria),
Tashkent
 
 
 
Nữ quốc
   
Chu sa,
xạ hương,
bò rừng
(Tây Tạng),
ngựa, muối
 
Tại Nam Thông Lĩnh, một thuyết nói là sau Tây Tạng
 

 

95 Lỗ sa 磠砂: Khoáng vật Sal amoniac (NH4Cl), một chất đá như vỏ cây sinh ở bên núi lửa, dùng làm thuốc đánh màng mắt và rất cần dùng về điện. 

Phạt Hãn     Fergana Xưa là nước
Cừ Sưu
Mê Quốc     Đông nam
Samarkand
 
 
 
Ô-trường
 
 
Măng-yết-lợi
 
Nhiều trái cây rừng, dẫn nước tưới ruộng, nhiều lúa, lúa mì
 
 
Phía Tây
Kỷ-nhĩ-kỷ-đặc
 
 
Sử Quốc
     
Thành Kiệt Thạch
 
 
Tào Quốc
    Ở khoảng giữa
Fergana và
Samarkand
 
Hà Quốc     Tây bắc
Samarkand
 
Ô-na-át     Ban Hắc  
 
Mục Quốc
     
Thành Mộc Lộc
 
 
 
 
Tào Quốc
   
Lúa mì, trâu lớn, voi, ngựa, vàng, bạc, thảm lông, hương An Tức,96muối đen v.v…
 
 
 
Kashmir
 
 
Chú: Việc ghi chép trong Bắc sử và Tùy thư về các nước Tây Vực có tăng giảm, lược bớt có sai khác, biểu đồ này theo sự liệt kê của Bắc sử. Tuỳ thư ghi nước Khương ở phía Tây Thông Lĩnh rất mạnh, gồm các nước: Mễ, Sử, Tào, Hà, An, Tiểu An, Na-sắc-ba, Ô-na-át, Mục, Ấp-đát v.v…

 

96 Hương An Tức: Xem cht. 69 trước.

 

 TÂY VỰC TỪ THỜI NGỤY-TẤN ĐẾN THỜI TUỲ

Thời Ngụy-Tấn, Nam-Bắc Triều, việc kinh doanh của Tây Vực rất suy vi. Nhà Ngụy chiếm cứ Hoa Bắc, hùng mạnh một thời, những nước ở Tây Vực như Qui-tư, Vu-điền, Khương Cư, Ô Tôn, Sơ-lặc Nguyệt Thị, Thiện Thiện, Xa Sư v.v… năm nào cũng phụng lệnh triều cống, nhưng một số nước ở Tây Vực không thể đến hết; phía Tây Thông Lĩnh còn có Khương Cư, Đại Nguyệt Thị. Đến thời Tấn chỉ có Khương Cư, Yên Kỳ, Qui-tư, Đại Uyển, Đại Tần đến triều cống. Thời Nam-Bắc Triều thì hoàn toàn gián đoạn, có chăng phần nhiều theo đường biển mà giao thông với phương Tây. Mãi đến đời Tuỳ mới bắt đầu có sự kinh doanh với Tây Vực, lúc ấy các nước Tây Vực đến triều cống rất đông. 

1. Tam Quốc: Ba nước Ngụy, Thục, Ngô lập thế chân vạc, trong đó nước Ngụy mạnh nhất, phạm vi thế lực bao gồm phía Đông đến vùng Tây bắc Triều Tiên, phía Nam đến Giang Tô, An Huy v.v… phía Tây đến Tây Vực nên các nước Tây Vực thường đến hiến cống. Năm đầu niên hiệu Hoàng Sơ đời Ngụy Văn đế (năm 220 Tl.), Yên Kỳ, Vu-điền sai sứ phụng hiến. Năm Hoàng Sơ thứ 3 (năm 222 Tl.), vua các nước Thiện Thiện, Qui-tư, Vu-điền đều sai sứ tiến nhập triều. Năm Thái Hoà thứ 3 (năm 229 Tl.), vua Đại Nguyệt Thị sai sứ đến hiến cống. Năm Cảnh Sơ thứ 3, Tây Vực hiến vải không cháy.97 Năm đầu niên hiệu Cảnh Nguyên (năm 260 Tl.), Chu Sĩ Hành xuất phát từ Ung Châu đến Vu-điền tìm cầu kinh Bát-nhã. Nhà Ngụy đặt chức quan Mậu kỷ hiệu uý để bảo vệ Tây Vực. 

97 Hán: Hỏa hoán bố 火浣布, một loại vải chịu đựng được lửa, gặp lửa không cháy. Vải này dùng Thạch miên 石綿 (Asbestos [amiăng] – chất khoáng mềm, màu xám, thể sợi, có thể dùng để làm vật liệu chịu lửa hoặc cách nhiệt) dệt thành. 

Tây Tấn: Họ Tư Mã thay nhà Ngụy, đó là Tây Tấn. Năm đầu niên hiệu Thái Thỉ đời Hiếu Võ đế nhà Tấn (năm 265 Tl.), và năm Thái Thỉ thứ 3 (năm 267 Tl.), Khương Cư sai sứ đến hiến ngựa. Năm đầu niên hiệu Hàm Ninh (năm 275 Tl.), Mậu kỷ hiệu uý Tây Vực là Mã Tuần thảo phạt Tiên Ti. Năm sau ông lại dụng binh ở Tiên Ti. Sau đó bốn năm, các nước Xa Sư Tiền Bộ, Thiện Thiện, Qui-tư, Yên Kỳ v.v… của Tây Vực sai con vào hầu (ở làm con tin). Các nước bên ngoài Thông Lĩnh như Đại Uyển, Khương Cư cũng sai sứ cống hiến ngựa. Đến năm đầu niên hiệu Nguyên Khang đời Huệ đế (năm 291 Tl.), vua nước Qui-tư đến chầu, vua và phu nhân đều ban cho ấn tín và tua lụa buộc ấn tín. Chưa bao lâu thì “Bát vương hoạ Tấn”, nhà Tấn rối ren, nối tiếp nhau lại có “Ngũ Hồ loạn Hoa”, vua Nguyên đế phải sang phía Đông, đóng đô ở Kiến Nghiệp trở thành cục diện thiên an (an phận).

3. Tiền Lương: Sau khi Nguyên đế dời về phía Đông thì năm đầu đời Đông Tấn, Trương Tuấn (người Hán) chiếm cứ phía Tây Lương Châu Cam Túc ngày nay, sử gọi là Tiền Lương. Bấy giờ Hoa Bắc rơi vào loạn lạc nhưng vùng đất từ Cam Túc trở về phía Tây thì bình lặng, thế lực rất phấn chấn. Các nước Tây Vực cống hiến các vật phẩm trân quý như ngựa Hãn huyết, vải không cháy, trâu rừng, chim công v.v… Năm Thái Ninh thứ 2, đời Minh đế nhà Đông Tấn (năm 324 Tl., năm đầu niên hiệu Thái Nguyên nhà Tiền Lương), Trương Tuấn ra lệnh cho bộ tướng của ông là Dương Tuyên vượt qua sa mạc, thảo phạt bình định các nước Thiện Thiện, Qui-tư, do đó bên trong các nước Tây Vực hàng phục. Vua nước Thiện Thiện là Nguyên Mạnh dâng hiến mỹ nữ, các nước Yên Kỳ, Xa Sư Tiền Bộ, Vu-điền đều sai sứ cống hiến những sản vật địa phương.

Đến năm Hàm Hoà thứ 2, đời Thành đế nhà Đông Tấn (năm 327 Tl., năm Thái Nguyên thứ 4 nhà Tiền Lương), quan Mậu kỷ hiệu uý Tây Vực chẳng phục Trương Tuấn, sai binh sĩ bắt giữ Triệu Trinh, đem vùng đất cai trị của quan Mậu kỷ hiệu uý đổi làm quận Cao Xương, đây là lần đầu tiên Tây Vực thiết lập quận huyện. Về sau trở thành đất của Tiền Tần.

4. Tiền Tần: Thị tộc Phù Kiên chiếm cứ Quan Trung, thế lực nước ấy rất mạnh, phía Đông đến vùng Hoài Tứ (sông Hoài, sông Tứ), phía Tây đến Tây Vực, phía Nam đến Tứ Xuyên, phía Bắc đến tận sa mạc lớn. Nhưng nước ấy không muốn vượt xâm lược Đông Tấn mà muốn kinh doanh Tây Vực. Vào năm Thái Nguyên thứ 7, đời Hiếu Võ đế nhà Đông Tấn (năm 382 Tl., năm Kiến Nguyên thứ 18 nhà Tiền Tần), vua nước Xa Sư Tiền Bộ là Di Đề hội cùng với vua nước Thiện Thiện là Hưu Mĩ Sử đến triều yết Tần Phù Kiên, hiến dâng một bộ kinh Bát-nhã bản phạn (vì đất ấy Phật giáo đã thịnh hành). Phù Kiên ban cho họ triều phục, dẫn xem Tây đường, hai vua ấy thấy cung thất tráng lệ, uy nghi trang nghiêm, quá kinh ngạc nên nguyện xin hằng năm cống hiến. Vì đường Tây Vực xa xôi, Phù Kiên không cho, ban lệnh cứ 3 năm một lần cống, 9 năm một lần triều kiến. Hai vua ấy lại nói rằng: “Các nước Đại Uyển… tuy đến triều cống nhưng không trung thành, xin y theo Hán chế thiết lập lại sự đô hộ, nếu nhà vua xuất quân, xin nguyện làm hướng đạo”. Phù Kiên lập tức ra lệnh cho Lữ Quang làm Trì tiết đô hộ, đốc xuất binh sĩ bảy vạn năm ngàn người đi chinh phục Tây Vực. Đang khi Lữ Quang đốc suất binh đến quận Cao Xương thì nghe tin Phù Kiên tấn công Đông Tấn, ông muốn dừng binh ở Cao Xương, nhưng vì bộ hạ can gián nên ông tiếp tục hành quân về phía Tây. Binh của Lữ Quang đến Yên Kỳ thì vua Yên Kỳ hàng. Ông lại công phá tiếp Qui-tư và lập vua mới. Do đó uy danh của họ Lữ chấn động rất xa, các nước Tây Vực đốc suất nhau, sai Phái viên ngoại giao với Tiền Tần. 

Phù Kiên đánh Đông Tấn, bại ở sông Phì Thuỷ, Tiền Tần tan rã, các cường hào Hoa Bắc đều dấy lên, đất đai chia cắt. Lữ Quang thấy nước Qui-tư giàu có muốn lưu trú đất ấy, nhưng qua sự khuyên bảo của Sa-môn Cưu-ma-la-thập98 người Thiên Trúc, Lữ Quang mới trở về Đông. Ngài Cưu-ma-la-thập là vị Sa-môn rất được sùng bái ở Tây Vực. Khi Lữ Quang Tây chinh, Phù Kiên có lệnh rằng: “Nếu được ngài La-thập thì tức tốc đưa về ngay”, nhưng khi được La-thập thì Phù Kiên thất bại lại. Ngài La-thập khuyên Lữ Quang trở về Đông. Trong đại hội văn võ bàn bạc đại kế, nên trở về hay ở lại, mọi người cùng chủ trương trở về Đông, cuộc quay về dùng hơn hai vạn lạc đà chuyên chở đồ trân quý ngoại quốc và những kỹ nghệ kỳ đặc, trò chơi mới lạ, cầm thú quái dị, tuấn mã hơn một vạn con. Lữ Quang vào Ngọc Môn đánh lấy Lương Châu, kiến lập nước Hậu Lương. Quang lệnh cho con của mình làm Đô đốc đại đô hộ, coi hết những việc quân từ Ngọc Môn trở ra phía Tây, trấn thủ quận Cao Xương. Các Nước Yên Kỳ, Qui-tư triều cống cho Lữ Quang. Nhà Hậu Lương kiến lập nước được 15 năm thì bị Tự-cừ-mông-tốn đoạt lấy, kiến lập Bắc Lương, cũng gồm quận Cao Xương và các nước Tây Vực.

 

98 Cưu-ma-la-thập (Kumarajiva): Tổ tiên ngài là người Thiên Trúc đời đời làm tướng quốc. Cha là Cưu-ma-la-viêm từ bỏ tướng vị xuất gia, đi về phía Đông đến Thông Lĩnh, vua nước Qui Tư ra tận ngoài xa rước ngài vào nước, thỉnh làm quốc sư, lấy em vua là Kỳ-bà-thê-la sinh ra La-thập. La-thập lúc 7 tuổi theo mẹ xuất gia, 9 tuổi cùng mẹ qua sông Ấn Độ vào nước Kế Tân, lúc 12 tuổi theo mẹ trở về, sau được vua Qui Tư rước về, năm 20 tuổi thọ giới ở vương cung đã vang danh tới Trung Quốc. Thời Tiền Tần, Lữ Quang công phá Qui Tư bắt được ngài La-thập, khi Lữ Quang trở lại đất Lương xưng Lương Vương, La-thập sống ở Lương 18 năm không tuyên hóa được gì. Năm Hoằng Thỉ thứ ba đời Hậu Tần (năm 401 Tl.), Tần chủ Diêu Hưng thảo phạt Lương khắc chế được, rồi rước ngài La-thập vào Trường An, dùng lễ quốc sư đãi ngài. Diêu Hưng giúp ngài dịch kinh đến hơn tám trăm vị Sa-môn, trước sau dịch được hơn 300 quyển, năm Hoằng Thỉ thứ 11 đời Hậu Tần (năm 409 Tl.), ngài tịch ở ngôi chùa lớn thành Trường An. (cht. Tg)

 

5. Hậu Ngụy: Trước đã trình bày, từ Tiên Ti tộc Hậu Ngụy, đến lúc Thập Dực Kiện bị Tiền Tần Phù Kiên đánh bại diệt vong. Khi Tiền Tần loạn diệt vong thì cháu của Thập Dực Kiện là Thác Bạt Khuê vào Hoa Bắc chiếm lại, phục hưng Hậu Ngụy, đó là Đạo Võ đế. Đúng vào năm Thái Nguyên thứ 11, đời Hiếu Võ đế nhà Đông Tấn (năm đầu niên hiệu Đăng Quốc nhà Hậu Ngụy, năm 386 Tl.), ông quay trở lại đuổi Hậu Yên, lấy đất lại. Cháu ông là (Thát Bạt) Đảo tức là Thái Võ đế lại diệt các nước Hạ, Bắc Yên, Bắc Lương, thống nhất phương Bắc Trung Quốc, bao gồm những vùng đất ngày nay: Hà Bắc, Sơn Đông, Sơn Tây, Cam Túc, Giang Tô, Hà Nam, miền Bắc Thiểm Tây, miền Tây Liêu Ninh v.v…., thế nước lúc ấy rất mạnh.

Nguyên buổi đầu thời Đạo Võ (Đạo Võ đế), kinh doanh của Trung Nguyên chưa thong thả và tứ phương lại xa xôi mà việc cống nạp của Tây Nhung chẳng đến. Có vị quan Tư tấu trình y theo việc xưa của nhà Hán, tâu xin thông giao với Tây Vực, Đạo Võ đế nói rằng: “Nhà Hán chẳng bảo vệ biên cương, vỗ yên nhân dân mà mở mang ra tận Tây Vực, khiến cho trong nước hao tốn trống rỗng, nào có lợi gì? Nay nếu mở thông ra đó thì trước tiên tệ hại thêm cho trăm họ!” Vua chẳng nghe theo.99 Trải qua thời Minh Nguyên đế (Thát Bạt Tự) cũng không chấp thuận việc đó. Đến đời cháu của Đạo Võ đế là Thái Võ đế, vào năm đầu niên hiệu Thái Diên nhà Ngụy (Tấn đã mất, năm Nguyên Gia thứ 12 đời Tống Văn đế, năm 435

 

99 Xem Bắc sử quyển 97, Liệt truyện (Tây Vực) thứ 85. (cht. Tg)

 

Tl.), chín nước Tây Vực là Sơ-lặc, Qui-tư, Ô Tôn, Duyệt Bát, Hát-bàn-đà,100 Thiện Thiện, Yên Kỳ, Xa Sư, Túc-đặc sai sứ cống hiến. Do đó Thái Võ đế nhà Ngụy sai sứ là Vương Ân Sinh, Hứa Cương v.v…. hơn 20 người sang đáp lại. Họ Vương và những người khác ra đến sa mạc thì bị Nhu Nhiên bắt giữ. Thái Võ đế sai người đánh phạt, Nhu Nhiên Khả Hãn là Ngô Đề (cha của Ngô Đề là Đại Đàn bị Thái Võ đánh bại, lúc này Ngô Đề đang thờ Ngụy), ông liền phóng thích bọn Vương Ân Sinh về, cuối cùng việc đi Tây Vực không đạt kết quả.

Đến năm Thái Diên thứ 3 nhà Ngụy (năm Nguyên Gia thứ 14 đời Tống Văn đế, năm 437 Tl.), vua lại sai Tán kỵ thị lang là Đổng Uyển, Cao Minh v.v…. mang theo nhiều gấm lụa ra đến nước Thiện Thiện, chiêu an vỗ về chín nước. Đổng Uyển qua chín nước, đi về phía Bắc đến nước Ô Tôn (lúc này bị Nhu Nhiên xâm chiếm, dời về phía Tây ở trong núi Thông Lĩnh). Ô Tôn sai người địa phương dẫn đường đi về phía Tây đến nước Phá-lạc-chu (nước Đại Uyển xưa), Giả Thiệt (nước Khương Cư xưa), do đó các nước Tây Vực theo nhóm Đổng Uyển vào triều cống có đến 16 nước.101 Từ đó về sau nối tiếp nhau, năm nào cũng đến triều cống chẳng gián đoạn. Sứ giả nhà Ngụy cũng nhiều hơn mười đoàn.

Đang khi Thái Võ diệt Bắc Lương, em vua Bắc Lương kiêng sợ, sai em mình là An Châu đến bang giao Thiện Thiện. Vua Thiện Thiện thấy Bắc Lương mất, nước ông ta gần nước Ngụy, nếu thông giao (với Bắc Lương) thì chắc chắn nước Ngụy biết sự việc nước Thiện Thiện, nguy cơ mất

 

100 Hát-bàn-đà 喝槃阤: Khiết-bàn-đà 朅槃阤 (xem cht. 41, tr. 61).

101 Cùng với Hậu Ngụy thông sứ giả có 16 nước là Tất-vạn-cân, Mễ, Thạch quốc, Nữu Mật, Tào, Hà quốc, Giả Thiệt, Thổ-hỏa-la, Áp-đạt, Phá-lạc-na, Duyệt Bát, Túc-đặc, Đại Nguyệt Thị, Kế Tân, Nam Thiên Trúc, Ba-tư… (cht. Tg) 

 nước nhất định cận kề, chẳng bằng chống lại Bắc Lương. Nhân đó, cho lấp nghẽn lối đi, chận giết sứ giả đến, chẳng thông giao vài năm. Đến năm Nguyên Gia thứ 22 đời Tống Văn đế (năm Thái Bình Chân Quân thứ 6 đời Ngụy, năm 445 Tl.), Ngụy Thái Võ đế lệnh cho Châu Công, Vạn Độ Qui dẫn binh tấn công Thiện Thiện, vua nước ấy hàng, Thái Võ cho Hàn Bạt làm vua Thiện Thiện, Hộ Tây Vực hiệu uý, trấn thủ Thiện Thiện, coi như quận huyện. Về sau, vào năm Nguyên Gia thứ 25 (năm Thái Bình Chân Quân thứ 9 nhà Ngụy, năm 448 Tl.), Vạn Độ Qui đem năm ngàn kỵ binh chinh phạt Yên Kỳ, vì nước ấy thường chận đường giết sứ giả Ngụy, tháng 9 năm ấy triệt hạ Yên Kỳ, vua nước ấy chạy trốn sang Qui-tư, họ Vạn đuổi theo đến Qui-tư, rồi bình định luôn Qui-tư, Tây Vực lại thông suốt, người đi triều yết nối gót nhau mà đến.

6. Nước Cao Xương: Cao Xương là đất cũ của Tiền Xa Sư. Từ Đông sang Tây 200 dặm, từ Nam ra Bắc 500 dặm, bốn bề nhiều núi lớn, xưa Hán Võ sai binh thảo phạt phía Tây, quân đội đình trệ rất khốn đốn, nhân đó trú đóng ở đây. Đất ấy có thành lũy đóng quân cao ngất nên gọi là Cao Xương. Quan Trưởng sử Tây Vực đời Hán và quan Mậu kỷ hiệu úy chia nhau cư trú. Nhà Tấn lấy đất này làm quận Cao Xương, quan Mậu kỷ hiệu úy cũng trụ ở đây. Trương Quỹ, Lữ Quang, Tự-cự-mông-tốn khi chiếm cứ Hà Tây đều đặt quan Thái thú để thống lĩnh Cao Xương. Bên trong bờ cõi có nhiều người Hoa, họ là những người dân di trú của thời Hán-Ngụy. Lúc đó, nhà Bắc Lương mất, em vua nước ấy không kiêng dè vùng sa mạc mà tập kích Cao Xương, lại xâm lược đất Xa Sư Tiền Bộ. Đến năm Đại Minh thứ 4, đời Hiếu Võ đế nhà Tống (năm 460 Tl.), Nhu Nhiên đánh phá Cao Xa, lập người Hán là Hám Bá Châu làm vua Cao Xương, đó là lần đầu tiên kiến lập nước Cao Xương. Sau khi

Bá Châu chết, con ông ấy là Nghĩa Thành lên thay, về sau bị người anh họ là Thủ Qui giết chết, Thủ Qui lại làm vua Cao Xa, mở rộng đến tận nước La Sát.102 Sau đó, người Đôn Hoàng là Trương Mạnh Minh làm vua, ông lại bị nhân dân nước ấy giết chết để lập Mã Nhu lên, rồi người trong nước giết Mã Nhu lập Khúc Gia lên làm vua, ông này xưng thần với Nhu Nhiên, họ Khúc vốn người Kim Thành (huyện Cao Lan), cũng thuộc người Hán.

 

102 Nước La Sát 剎國: Hoặc gọi La Thiền, tức nước Nga.

103 Ngũ kinh, Chư sử: Thi, Thư, Dịch, Lễ, Xuân Thu và những bộ sử.

104 Lỗ Ai Công 魯哀公: Một trong những vị quân chủ nước Lỗ thời Xuân Thu, tại vị được 27 năm, từ năm 494 đến năm 468 trước Tây lịch. 

 

Họ Khúc kiến lập quốc, tất cả lễ nghi quan phủ đại lược đều theo phép người Hán, văn tự cũng đồng, có sử dụng thêm sách vở người Hồ, tin dùng “Ngũ kinh, Chư sử”,103 đặt chức học quan để giáo dục mọi người, nhưng đều là ngôn ngữ người Hồ. Trong Vương thất vẽ tượng Lỗ Ai Công104 hỏi việc chính trị với đức Khổng Tử, chế định niên hiệu của triều đại ấy, lại có những niên hiệu như Trùng Quang, Chương Hòa, Vĩnh Hòa, Kiến Xương, Diên Hòa, Nghĩa Thọ v.v…. đều ảnh hưởng văn hóa Hán. Tục thờ thiên thần và tin Phật pháp, trải nhiều đời phụng sự nước Nhu Nhiên, Đột-quyết và Thiết Lặc, có lúc phụng sự Trung Quốc. Thời Hậu Ngụy từng sai sứ cống hiến sản vật địa phương, thời Bắc Châu có 16 thành, thời Tùy có 18 thành, nước ấy một mặt thì bảo trì văn hóa Hán, một mặt thì hấp thu văn hóa các dân tộc ở bên ngoài biên giới, tạo nên một hình thức văn hóa tổng hợp tiêu biểu.

 

7. Triều Tùy: Việc kinh doanh Tây Vực của các nước Tống, Tề, Lương, Trần ít thấy biểu hiện, vì đường xá xa xôi, núi sông cách trở, nhưng những người đi đến Tây Vực cầu kinh thì rất nhiều, như ngài Pháp Hiển đến Ấn, ngài Huệ Sinh, Tống Vân v.v… đi về phía Tây Ấn Độ, cho đến các vị sư ở các nước Tây Vực nối gót nhau đi về phía Đông phiên dịch kinh điển (xem thêm ở tiết sau), khiến cho văn minh Phật giáo phát triển cực thịnh. Đến khi Tùy Văn đế thống nhất Trung Quốc, nước giàu dân thịnh, phía Bắc còn kiêng dè Đột-quyết. Thời Dương đế thì có tâm nghĩ đến Tây Vực, lúc ấy có thể vì thấy Trương Dịch là nơi thương nhân Tây Vực buôn bán, nên nhà vua mới ra lệnh cho Bùi Củ quản lý việc buôn bán của thương nhân người Hồ. Họ Bùi thăm dò hỏi han những thương nhân người Hồ, biết rõ phong tục, núi sông, chỗ hiểm yếu của từng nước, rồi soạn vẽ ra ba quyển “Tây Vực đồ ký” dâng lên vua. Dương đế rất vui lòng, ra lệnh cho họ Bùi chiêu tập các nước Tây Vực. 

Năm Đại Nghiệp thứ 4 nhà Tùy (năm 608 Tl.), Dương đế lệnh cho Tiết Thế Hùng làm Ngọc Môn hành quân đại tướng, liên hiệp với Khải Dân Khả Hãn của Đông Đột-quyết đánh Y Ngô. Lúc ấy Y Ngô thuộc về Thiết Lặc. Quân ra khỏi Ngọc Môn, binh của Khải Dân Khả Hãn chẳng đến, chỉ một mình quân của họ Tiết vào sâu, đầu tiên Y Ngô cho là quân Tuỳ không thể đến nên khi nghe Thế Hùng đến thì xin hàng. Thế Hùng cho xây dựng ngôi thành ở phía Đông thành Y Ngô, rồi để lại hơn một ngàn người đóng giữ ở đó. 

Đến tháng 6 năm Đại Nghiệp thứ 5 (năm 609 Tl.), Dương đế đi tuần phương Tây đến Trương Dịch. Trước khi đi tuần, vua lệnh cho Bùi Củ đi đến Tây Vực thuyết phục vua Cao Xương, quan Thổ-đồn-thiết ở Y Ngô, dùng lợi lộc nhiều, nhử cho họ vào triều yết. Xa giá vua vừa đến núi Yên Kỳ thì vua Cao Xương là Bá Nhã và quan Thổ-đồn ở Y Ngô cùng sứ giả của 27 nước Tây Vực đều triều yết ở bên trái đường, họ được lệnh đeo vàng ngọc, mặc gấm dạ, đốt hương tấu nhạc, lại

lệnh cho trai gái của Võ Uy, Trương Dịch ăn mặc trang sức lộng lẫy; xe, ngựa không đẹp thì quận huyện giám sát, kiểm tra. Quan Thổ-đồn-thiết hiến đất đến vài ngàn dặm, sau đó người vào cống hơn 30 nước, đặt quan Hiệu úy Tây Vực để ứng tiếp họ. Bấy giờ ngoại trừ Cao Xương, Y Ngô phía Nam núi, còn có các nước Yên Kỳ, Qui-tư, Sơ-lặc, Vu-điền v.v… đều sai sứ vào cống. Bên ngoài núi Thiết Lặc Tây Đột-quyết cũng thông hảo với nhà Tùy, sứ giả thông giao ra ngoài Thông Lĩnh hơn 20 nước.105

Về sau ở vùng đất phía Tây Thả-mạt, Nặc Khương thiết trí hai quận là Thả-mạt và Thiện Thiện. Nguyên vì Thiết Lặc vi phạm biên giới, Dương đế sai Bùi Củ công phạt, Thiết Lặc tạ tội, lấy việc đánh Thổ-cốc-hồn (nay tại Thanh Hải) làm điều kiện. Năm Đại Nghiệp thứ 4 (năm 608 Tl.), quả nhiên Thiết Lặc đánh, đại phá Thổ-cốc-hồn, quân Tùy lại sai Vũ Văn Thuật truy đuổi họ, đến hai thành Bạt-mạn-đầu và Xích Thủy, bắt được từ vương công nước ấy trở xuống hơn 200 người, người qui hàng kể cả nam nữ hơn mười vạn. Vua Thổ-cốc-hồn là Phục Duẫn chạy về phía Nam Tuyết Sơn (tại tỉnh Tây Khương ngày nay), đất bỏ lại từ Đông sang Tây tới bốn ngàn dặm, từ Nam ra Bắc hai ngàn dặm, đều thành sở hữu của nhà Tùy, cắt đặt làm bốn quận là Tây Hải, Hà Nguyên, Thiện Thiện, Thả-mạt, lưu đầy những tội nhân trong thiên hạ làm lính thú để giữ vùng đó. Mở mang đồn điền ở trấn Thích Thạch (nay là Thích Thạch Sơn), chế ngự Thổ-cốc-hồn để giữ lưu thông con đường Tây Vực, toàn bộ Thanh Hải thẳng đến phía Nam núi Thiên Sơn đều thuộc về Trung Quốc. 

105 Cùng với Tùy thông sứ giả có nước: Khương, Mễ, Sử, An, Tào, Hà, Thạch, Tào, Mục Quốc, Thổ-hỏa-la, Áp-đạt, Duyệt Bát, Phạt Hãn, Ô-na-át, Nữ quốc v.v….

 

VĂN HIẾN NGÔN NGỮ TÂY VỰC CỔ ĐẠI 

 

Khoảng giữa thế kỷ XIX, người châu Âu theo chủ nghĩa Đế quốc đua nhau tranh giành vùng Trung Á, dồn dập sai phái nhiều đội thám hiểm đến Trung Á điều tra, khai quật được nhiều sử liệu văn vật quan trọng, do đó cũng tác động đến giới Phật giáo Nhật Bản. 

Lúc bấy giờ, nhà sư Đại cốc Quang Thụy (Ōtani Kōzui) ở chùa Bản Nguyện, kinh đô Nhật Bản liền tổ chức đội thám hiểm Tây Vực, vào năm Minh Trị thứ 35 (năm 1902 đến năm 1914), ba lần đến thám hiểm một dải Tây Vực Trung Á. Người tham gia lần đầu, ngoài ngài Quang Thụy còn có bốn người đệ tử của ngài là Độ Biên Triết Học, Quật Hiền Hùng, Bản Đa Huệ Long, Tỉnh Thượng Hoằng Viên, đều là những thanh niên ưu tú trên dưới 20 tuổi. Lúc ngài Quang Thụy lưu học ở nước Anh, năm mới 27 tuổi, do sự cổ vũ khích lệ của học giả khảo cổ châu Âu đến Trung Á thám hiểm, nên ngài muốn thám sát nghiên cứu tình huống Phật giáo ở các nước Tây Vực, theo con đường bộ mà Phật giáo từ Ấn Độ truyền vào Trung Quốc, cho đến những vết chân lịch đại Cao tăng Trung Quốc đi đến Ấn Độ. Do đó, ngài quyết định đến Trung Á thám hiểm. Ngài Quang Thụy cùng hai ông Bản Đa, Tỉnh Thượng đi tàu hoả xuyên Siberia rồi chuyển vào Trung Á, vượt qua Thông Lĩnh, đến Ấn Độ khảo sát. Còn ông Độ Biên và Quật Hiền phụ trách việc thám hiểm Tây Vực. 

Hai ông Độ Biên và Quật Hiền đến những vùng đất Tân Cương, Kucha, Turfan, Vu-điền v.v… để điều tra, đến tháng 3 năm Minh Trị thứ 37 (năm 1904), họ qua Thiểm Tây quay về nước. Vì thời gian hạn chế nên chưa đến được động Thiên Phật ở Đôn Hoàng. Lúc ngài Quang Thụy đang tìm hiểu thành Vương Xá thì đột ngột nhận điện báo từ Nhật Bản, phụ thân ngài là Thượng nhân Quang Tôn mất, ngay sớm hôm ấy ngài vội vàng trở về nước, tề tựu chùa Bản Nguyện để làm lễ. 

Thám hiểm lần thứ hai vào năm 1908 (năm Minh Trị thứ 41), ngài sai phái hai ông Quất Thụy Siêu và Dã Thôn Vinh Tam Lang đến Trung Á thám hiểm. Lúc bấy giờ, ông Quất Thụy Siêu mới 18 tuổi, một mình đi từ Bắc Kinh qua hết Mông Cổ rồi vào Tân Cương, còn ông Dã Thôn tiến về phía Tây, chân núi phía Nam Thiên Sơn; ông Quất đi ngang qua sa mạc, trải qua 5 tháng, hai người mới gặp nhau. Về sau thì ông Dã Thôn trở về nước, còn ông Quất đi đến Anh lưu học. 

Thám hiểm lần thứ ba vào tháng 8 năm 1910 (năm Minh Trị thứ 43), năm đó Quất Thụy Siêu được 20 tuổi, nhân cơ hội trở về nước, một mình từ London xuất phát, đi qua những vùng đất Siberia và vào Tân Cương điều tra. Ở vùng Tây Vực, nhà sư Quang Thụy đã một lần điều tra kỹ, lại phái thêm đi đến Tây Vực. Vào tháng 5 năm 1911 (năm Minh Trị thứ 44) họ Cát xuất phát. Lúc này, ông Cát Xuyên Tiểu Nhất Lang đã 27 tuổi, cùng với trợ thủ của mình là Lý Dục Khánh qua Thượng Hải, Hán Khẩu, Trịnh Châu, Lạc Dương, Tây An v.v…, mùa thu tháng 10 đến được Đôn Hoàng, dừng lại đây 24 ngày, tận tâm điều tra khảo cổ học. 

Lúc bấy giờ, động Thiên Phật tại Đôn Hoàng tuy được hai ông Stein, Pelliot báo cáo vang danh khắp thế giới nhưng vẫn chưa có người nước khác đến Đôn Hoàng điều tra. Ông Cát Xuyên là người Nhật đầu tiên thám sát điều tra động Thiên Phật tại Đôn Hoàng, công việc này đối với ông rất hứng thú. Khi ấy, ông Quất Thụy Siêu cũng từ Tân Cương đến huyện thành Đôn Hoàng, ở đó hai người phối hợp tìm hiểu động Thiên Phật, và được Vương đạo sĩ trao cho phần lớn kinh viết thời Đường, rồi hai người lại đến vùng Tây bắc điều tra. Họ Quất theo đường sắt Siberia để trở về nước. 

Ở vùng đất xưa Cao Xương, Qui-tư, ông Quất thu hoạch được kinh điển Phật giáo và nhiều thứ văn vật khác, ông mới soạn ra Nhị lạc tòng thư. Còn ông Cát Xuyên cùng với trợ thủ của mình trải qua khắp thành Qui Hóa; sau đó, ông từ Trương Gia Khẩu16 đến Bắc Kinh, nhằm năm Minh Trị thứ 47 (năm 1914). Vậy là ông Cát Xuyên đã hoàn thành nhiệm vụ lịch sử quang vinh trong cuộc thám hiểm Tây Vực lần thứ 3. 

Phần trước đã thuật những việc thám hiểm của đội thám hiểm Đại cốc Nhật Bản, tất cả là ba lần thám hiểm Tây Vực. Những tư liệu thu hoạch được lấy văn vật kinh điển Phật giáo làm đầu, tiếp đến là những vật khác như  sách kinh, văn thư cổ Trung Quốc, văn hiến Hồ ngữ, hội họa, điêu khắc, dệt, nhuộm, thêu đan, tiền cổ, bản in, bản rập lại, thẻ gỗ v.v… 

16 Trương Gia Khẩu 張家口: Tên thành phố, xưa gọi Trương Viên, tại huyện Vạn Toàn tỉnh Sát Cáp Nhĩ.

 

Số vật phẩm có được trong lần thám hiểm thứ nhất, phần nhiều khai quật ở các di tích chùa Phật xung quanh Kucha; còn lần thám hiểm thứ hai, thứ ba thì lấy Turfan làm trung tâm, những văn hiến, sử vật và những vật quí khác do người dân đào ở Đôn Hoàng, Lop Nor, Vu-điền và Kucha. Sách “Tây Vực khảo cổ đồ phổ” xuất bản năm 1915, sách “Tân Tây Vực ký” xuất bản năm 1935, trong đó là tổng báo cáo thành tích thám hiểm Tây Vực. Do những sử liệu phong phú thu hoạch được ở các cuộc thám hiểm Tây Vực, khiến cho học giả Nhật Bản thay đổi xu hướng nghiên cứu lịch sử. Cho nên 70 năm gần đây, các nhà sử học Phật giáo Nhật Bản viết rất nhiều luận văn nghiên cứu chuyên đề về lịch sử Trung Á và mối quan hệ với lịch sử Tây Vực. 

Những văn hiến mà đội thám hiểm Đại cốc thu hoạch được ở Trung Á đều có liên quan đến ngôn ngữ cổ đại Tây Vực, đó là những mảnh kinh Phật chủ yếu bằng ngôn ngữ Phạn, Tukhara (Đổ-hoá-la, Tocharian),17 Vu-điền, Qui-tư, Thổ-nhĩ-kỳ cổ ngữ, Sogdian (Túc-đặc), và Tây Hạ ngữ.18 Căn cứ vào chúng mà chỉnh lý báo cáo lại:

 

17 Tukhara ngữ: Xem cht. 75, tr. 74.

18 Tây Hạ ngữ 西夏語: Ngôn ngữ của dân tộc ít người kiến lập ở vùng Tây bắc Trung Quốc, cùng tồn tại với Bắc Tống. Năm 1032, Lý Nguyên Hạo thuộc tộc Đảng Hạng xưng đế, quốc hiệu Đại Hạ, đóng đô ở phủ Hưng Khánh (nay thuộc tỉnh Ninh Hạ), sử gọi là Tây Hạ. 

1. Phương diện Phật điển Phạn văn:

a) Tây Vực khảo cổ đồ phổ (sách hình ảnh khảo cổ Tây Vực) hai bộ, xuất bản năm Đại Chính thứ 4 (năm 1915).
b) Nhị lạc tòng thư 4 quyển, Quất Thụy Siêu biên soạn, xuất bản năm đầu đến năm thứ 2 niên hiệu Đại Chính (năm 1912-1913).    
c) Tây Vực di vật tả chân tập (tập chân dung di vật Tây Vực) do nhà bảo tàng Tổng đốc phủ Triều Tiên biên soạn, xuất bản năm Chiêu Hòa thứ 9 (năm 1934).
d) Lữ Thuận bác vật quán đồ lục (ghi chép hình ảnh ở nhà bảo tàng Lữ Thuận) 1 quyển, do Quan đông cục biên soạn, xuất bản năm Chiêu Hoà thứ 8 (năm 1933).
e) Lữ Thuận bác vật quán khảo cổ đồ lục (ghi chép hình ảnh khảo cổ ở nhà bảo tàng Lữ Thuận) 1 quyển, Chiêu Hòa năm thứ 10 (năm 1935).
f) Tân Tây Vực ký 2 quyển, do Thượng Nguyên Phương Thái Lang biên soạn, xuất bản năm Chiêu Hòa thứ 12 (năm 1937).

 

Tác phẩm Tân Tây Vực ký là y theo những ghi chép trong nhật ký của các đội viên thám hiểm mà biên tập thành. Nhờ đó mới có thể biết hoàn cảnh gian khổ của những người vào các vùng đất Tây Vực khai quật, điều tra. Những tư liệu đã thu hoạch được, không luận phương diện lượng hay chất đều quí giá và khiến mọi người kinh ngạc. Những văn hiến có liên quan đến kinh điển Phật giáo trong ba lần thu hoạch đều khác nhau. Những văn hiến thu hoạch lần thám hiểm thứ nhất (năm 1902-1904), phần lớn đều liệt kê trong “Tây Vực khảo cổ đồ phổ”, mà trong 33 điểm những mảnh rời loại ngôn ngữ cổ đại quan hệ Tây Vực, liên quan đến tư liệu Phạn văn, tính ra có:

a) Mảnh kinh Phật Phạn văn (Khotan) 1 điểm.b) Mảnh kinh Phật Phạn văn (Kucha) 3 điểm.
c) Mảnh kinh Phật Phạn văn (Khotan) 1 điểm.    
d) Mảnh kinh Phật Phạn văn (Thổ-cốc-hồn)19 2 điểm.
e) Mảnh kinh Phật Phạn văn (Khotan) 1 điểm.    
f) Mảnh kinh Phật Phạn văn (Khotan) 1 điểm.
g) Mảnh kinh Phật Phạn văn (Khố-xa-thổ-lạt) 1 điểm.
h) Đối chiếu Phạn ngữ, Tukhara ngữ (Kucha) 1 điểm.

Tổng kết những điểm nêu trên, tức là bốn điểm khai quật ở Khotan, bốn điểm khai quật ở Kucha, hai điểm khai quật ở Thổ-cốc-hồn (Tuyuhun), một điểm khai quật ở Khố-xa-thổ-lạt (Kumtora), tổng cộng là 11 điểm.

Cuộc thám hiểm lần thứ 2 (năm 1908-1909), trong nhật ký lữ hành qua Mông Cổ, Tân Cương, ông Dã Thôn Vinh Tam Lang đã ghi, trong những vật phẩm khai quật phát hiện ở vùng Thổ-cốc-hồn, gần Kucha, ngoài tượng điêu khắc, tranh tường, những khí cụ v.v…, còn có mục lục văn thư cổ khai quật ở Turfan, gần Kucha, tổng cộng có 84 điểm theo chủng loại văn thư, số trang, số hàng, số chữ, hoàn chỉnh và không hoàn chỉnh, phân loại hạng mục trong ấy là: 

a) Kinh văn chữ Hán là 29 điểm, trong ấy có hai điểm ghi chép bằng văn tự Tây Vực.
b) Văn tự Tây Vực là 55 điểm, trong ấy văn Tây Vực viết trên mảnh gỗ là 22 điểm. 

19 Thổ-cốc-hồn 吐谷渾: Bộ tộc ở Tây bắc thời cổ đại, chi nhánh họ Mộ Dung của tộc Tiên Ti ở Liêu Đông. Tổ tiên họ cư trú ở Thanh Sơn nay thuộc tỉnh Liêu Ninh. 

 

Cuộc thám hiểm lần thứ 3 (1911-1914), người tham gia là ông Cát Xuyên Tiểu Nhất Lang, nhật ký “Chi-na ký hành” của ông đã ghi, từ trong ngôi chùa sập cách 40 dặm về phía Bắc Kucha, khai quật được những mảnh trang trí, có miếng kinh chữ Phạn bị cả khối đất đè ép làm hư hoại. Ông mang luôn cả khối đất về, đây là một mảnh rời vỏ cây Hoa. Thám hiểm xong, đem những tư liệu thu hoạch gom lại ở Lục giáp nhị lạc trang, nghiên cứu chỉnh lý thêm, rồi phân ra cất giữ ở nhà bảo tàng Triều Tiên Tổng đốc phủ và nhà bảo tàng Quang Đông, Lữ Thuận.

Từ đây có thể biết, nội dung ấy rất phong phú: Trước là lấy tượng Phật, hội họa, bích họa làm chủ, có 705 điểm liên quan từ mỹ thuật văn vật, phong tục tập quán dân tộc, đào được ở các di tích Phật giáo, tháp cổ, mộ phần cổ v.v… Tiếp theo là lấy Phật điển Hán dịch làm chủ, như kinh Pháp hoa, Bát-nhã, Niết-bàn v.v…. thuộc về loại Phật điển kinh, luật, luận gồm 408 quyển; kinh Tây Vực gồm 209 quyển, kinh, hội họa v.v…. những mảnh rời v.v…. 4 điểm; những thứ khác như văn thư cổ, tượng Phật, tháp cổ, tiền cổ, những mảnh loại khí cụ v.v…. 72 điểm. 

2. Phật điển ngôn ngữ cổ đại Tây Vực: 

a) Tukhara ngữ, tức là ngôn ngữ Đại Nguyệt Thị, Phật điển được viết bằng ngôn ngữ này phần nhiều phát hiện ở Turfan và Kucha, phía Bắc lòng chảo Tarim. Các học giả khảo đính xác nhận ngôn ngữ Tukhara thuộc ngữ hệ châu Âu. Họ lại phân Tukhara ngữ ra làm hai thứ A và B. Ngữ văn loại A lưu hành xưa hơn, lưu hành ở con đường phía Bắc núi Thiên Sơn, là ngôn ngữ sử dụng thích hợp những vùng đất Yên Kỳ,20 Qui-tư 

20 Yên Kỳ 焉耆: Một trong những nước ở Tây Vực thời Hán. Hiện nay là huyện Yên Kỳ tỉnh Tân Cương.

 

v.v…. Ngữ văn loại B lưu hành ở miền trung và miền nam Tân Cương. Giáo thọ S. Lévi lại cải đổi ngôn ngữ Tukhara loại A là Yên Kỳ ngữ, Tukhara loại B là Qui-tư ngữ.

b) Sogdinia ngữ, là ngôn ngữ sử dụng của dân tộc Khương Cư. Sogdinia ngữ là thứ ngôn ngữ sử dụng thời cổ đại ở lưu vực sông Phược-sô21 và Bactria.22 Phật điển bằng ngữ văn Sogdinia phần nhiều tìm thấy từ Lop Nor đến đường xưa Đôn Hoàng, qua sự khảo đính của học giả là văn tự đầu thế kỷ thứ IV.

c) Ba-tư ngữ (Pehlevi), tức ngôn ngữ Đột-quyết xưa, hoặc là Tây-nhĩ cổ ngữ, Hồi Cốt ngữ, An Tức ngữ, đều thuộc ngữ hệ Iran. Kinh Phật viết loại ngữ văn này đều tìm thấy ở miền Nam lòng chảo Tarim.

d) Phật điển văn Tây Hạ phần nhiều khai quật ở Đôn Hoàng và Thổ-cốc-hồn. Nói về văn tự Tây Hạ: Nước Tây Hạ kiến lập vào đời Tống, do người Đảng Hạng dân tộc Tây Tạng kiến lập. Cuối đời Đường, thủ lĩnh Đảng Hạng là Thác-bạt-tư-cung tham gia thảo phạt Hoàng Vinh, có công được nhà Đường phong là Hạ quốc công, ban cho họ Lý. Con cháu ông tiếp nhau thế tập (con được tiếp nhận chức tước của cha), trụ ở Hạ Châu (Ordos ngày nay). Thời Tống Thái Tông, Lý Kế của nước Hạ còn vào triều cống. Năm Ung Hi thứ 3, em ông ấy là Kế Thiên (Võ Tông) theo kế sách nước Liêu là Hạ Vương, phản Tống tự lập. Đến con của Kế Thiên là Triệu Đức Minh (Thái Tông) lại cùng Tống giao hảo. Con Triệu Đức Minh là Triệu Nguyên Hạo (Cảnh Tông), ông có hùng chí đại lược, trước phá tan Hồi Cốt, đoạt lấy Cam Châu. Năm đầu niên hiệu Minh Đạo nhà Tống, ông nối nghiệp cha làm quốc chủ, lại đoạt luôn ba châu: Qua, Sa, Túc. Năm đầu niên hiệu Bảo Nguyên, ông tự xưng là Đại Hạ hoàng đế, lấy Hưng Khánh (phủ Ninh Hạ, Ninh Tráng ngày nay) làm quốc đô, đó là thời cực thịnh của lịch sử văn hiến. 

21 Sông Phược-sô: Xem cht. 19, tr. 20.

22 Bactria, một nước thời xưa, cũng gọi “Vương quốc Hy Lạp-Bactria” (Graeco-Bactria Kingdom), vị trí giữa sông Amu Darya và núi Hindu Kush. Hiện nay ở phía Bắc Afghanistan.

 

Đến năm Bảo Khánh thứ 3 thời Nam Tống, nước ấy bị Thành-cát-tư-hãn diệt, từ Nguyên Hạo xưng đế trải qua mười đời quốc chủ, gồm 190 năm thì mất. Nước Tây Hạ phụng hành Phật giáo và có Đại tạng kinh văn Tây Hạ. Hiện nay nước Tây Hạ tuy đã mất nhưng những tác phẩm văn Tây Hạ còn lại rất nhiều. Trong số đó, cái làm cho người ta chú ý đầu tiên chính là vách tường bên trong ngôi tháp trên đường đi qua Cư Dung Quan23 tỉnh Hà Bắc, có khắc kinh “Phật đỉnh tôn thắng đà-la-ni”, “Phật đỉnh phóng vô cấu quang minh nhập phổ môn quan sát nhất thiết Như Lai tâm đà-la-ni” bằng văn tự Tây Hạ và văn tự các nước Phạn, Hán, Mông Cổ, Hồi Cốt, Tây Tạng v.v… Những kinh ấy được khắc vào năm Chí Chánh thứ 5. Từ năm 1908 đến năm tiếp theo, ông P. E. Eozlov người Nga đã phát hiện di tích Hắc thành (Bara Bhoto) của Tây Hạ ở Trương Dịch,24 rồi khai quật phát hiện vài mươi hòm kinh sách đều văn chữ nước Tây Hạ. Trong ấy có một quyển dịch đối chiếu Tây Hạ ngữ và Hán ngữ, ước chừng 50 tờ, tên là Chưởng trung châu (Ngọc trong bàn tay) 

23 Cư Dung Quan 居庸關: Cửa (cổng) Cư Dung. Cư Dung là tên hòn núi, do hai núi dựng đứng hợp lại, tạo thành cửa đi qua nên gọi Cư Dung Quan, tại huyện Xương Bình tỉnh Hà Bắc. 

24 Trương Dịch 張掖: Hiện nay ở phía Tây bắc huyện Võ Oai tỉnh Cam Túc, cũng là nơi giao thông then chốt các tỉnh Cam Túc, Ninh Hạ, Thanh Hải.

 

Ngũ Hồ đại loạn Trung Hoa. Sau khi vua Võ đế nhà Tấn mất, chư Vương tranh quyền sát hại lẫn nhau, quốc nội bất an, thừa cơ năm chủng tộc Hồ: Hung Nô, Yết, Tiên Ti, Đê, Khương phân cứ Trung Nguyên, tương tục tiếm ngôi, chiến tranh không nghỉ. Từ năm  đầu niên hiệu Hoàng Sơ đời Ngụy Văn đế, đến năm đầu niên hiệu Nghĩa Ninh đời Tùy Cung đế (năm 220-617 Tl.), gồm 397 năm, hơn 390 năm này, vùng Trung Nguyên nhiễu nhương, không rỗi đâu mà toan tính đến vùng biên thùy. Các tộc vùng hiểm yếu phía Bắc như Tiên Ti, Nhu Nhiên, Đột-quyết, Thiết Lặc trỗi dậy, vùng “Thiên sơn bắc lộ” (con đường phía Bắc núi Thiên sơn) bị bộ tộc mạnh hơn tranh giành, các nước vùng “Thiên sơn nam lộ (đường phía Nam)” đều thần phục các tộc ở Bắc lộ. Đặc biệt, các dân tộc miền biên giới phía Bắc lúc nào cũng muốn nhảy lên ngựa tiến vào Trung Nguyên, chính là giặc thù ở biên giới đất Hán. Chung cuộc, Tiên Ti xuống phía Nam lập ra các nước Yến, Tần, Nam Lương, Hậu Ngụy; sau đó nhân nhà Tấn loạn mất, diễn thành cục diện Ngũ Hồ, mười sáu nước loạn Hoa, đây chính là thời kỳ hỗn hợp lớn của dân tộc Trung Hoa. Cục diện sau đó trở nên hỗn loạn hơn, các nước Tây Vực tuy muốn giao thông với Trung Quốc, nhưng bị các tộc mạnh cản trở nên khó đạt được nguyện vọng, thời kỳ này Trung Quốc tuy kinh doanh với Tây Vực, nhưng cục diện so với thời Hán thì không như thuở xưa.

 

One thought on “Tìm hiểu về đất Tây Vực, Trung Quốc

  1. Pingback: “Tiếng Việt từ TK 17: vừng, mè … tự vị, tự vựng và tự điển” (phần 36) | Nghiên Cứu Lịch Sử

Trả lời

Điền thông tin vào ô dưới đây hoặc nhấn vào một biểu tượng để đăng nhập:

WordPress.com Logo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản WordPress.com Đăng xuất /  Thay đổi )

Facebook photo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Facebook Đăng xuất /  Thay đổi )

Connecting to %s