Một Ngày Tháng Chín (Bài 7)

CÂU CHUYỆN ĐẦY ĐỦ VỀ CUỘC THẢM SÁT TẠI THẾ VẬN HỘI MUNICH 1972 VÀ CHIẾN DỊCH BÁO THÙ CỦA ISRAEL “CƠN THỊNH NỘ CỦA CHÚA” 

SIMON REEVE

Trần Quang Nghĩa dịch

9 Chiến dịch Cơn Thịnh nộ của Chúa

Nhóm nhỏ các chính trị gia và quan chức cấp cao của Israel phụ trách chiến dịch ám sát những kẻ khủng bố liên quan đến vụ thảm sát Munich được đặt mật danh là “Ủy ban X”. Đó là một cái tên đầy kịch tính cho một nhóm bí mật mà ngay cả các quan chức cấp cao khác cũng không biết đến số liệu trong cơ sở của Israel.

Tướng Aharon Yariv, một trong những người khởi xướng ban đầu của chiến dịch, được bổ nhiệm vào vị trí mới “Cố vấn Thủ tướng về Chống khủng bố”, với vai trò là người chỉ huy chung của chiến dịch. Chỉ thị của ông, được Meir chấp thuận, là “gieo rắc nỗi sợ hãi lên người Palestine”. Những tên bị nhắm đến để ám sát không chỉ bị bắn chết, mà còn bị giết một cách ngoạn mục. Chỉ bắn hạ tất cả bọn họ trên phố đơn giản là không đủ; các điệp viên Israel phải sử dụng một mức độ tưởng tượng nhất định trong các vụ ám sát để gieo rắc nỗi sợ hãi trong hàng ngũ người Palestine.

Yariv là một lựa chọn kỳ lạ cho vai trò báo thù. Là một con người thông minh và ôn hòa, sinh ra ở Moscow năm 1920, ông di cư sang Palestine vào năm 1935 khi “quê hương Do Thái” vẫn còn nằm dưới sự bảo hộ của Anh. Năm 1941, ông gia nhập quân đội Anh, thăng tiến lên cấp bậc đại úy, và sau đó gia nhập các nhóm chiến binh Do Thái vào năm 1946. Đến năm 1957, ông là tùy viên quân sự Israel tại Washington, và thăng tiến lên vị trí giám đốc tình báo quân sự vào năm 1964. Ông đã chứng tỏ mình là một thiên tài tình báo, và Meir hoàn toàn tin tưởng vào khả năng của ông.

Kế hoạch mà Ủy ban X đưa ra là để các điệp viên mật của Israel, chủ yếu từ Mossad, tiến hành các vụ giết người bằng “mọi cách”. Theo Yariv: “Có thể là bằng cách đặt bẫy, có thể là bằng cách bắn, có thể là bằng cách cho nổ tung một chiếc xe. Tất cả đều là những phương pháp rất quen thuộc.”

Chiến dịch trả thù này sẽ mang tính chất chính thức và mang tầm quốc tế. Các đặc vụ Mossad sẽ tiêu diệt những kẻ khủng bố “bất cứ nơi nào chúng tôi có thể tìm thấy chúng, và bất cứ nơi nào người của chúng tôi có thể thi hành công việc chết tiệt này”, Yariv xác nhận.

Rất ít quốc gia dân chủ hiện đại dám thành lập các biệt đội ám sát được cấp phép để tiêu diệt kẻ thù, còn ít hơn nữa nếu được sự đồng ý hoàn toàn của lãnh đạo đất nước, nhưng Yariv tin rằng sau Munich, chính phủ Israel không còn lựa chọn nào khác: “Chúng tôi buộc phải bắt chúng dừng lại, không còn cách nào khác. Chúng tôi không mấy tự hào về. Nhưng đó là vấn đề hoàn toàn cần thiết. Chúng tôi đã quay trở lại với nguyên tắc “mắt đền mắt, răng đền răng” trong Kinh thánh.”

Với cuộc tấn công ở Munich, người Palestine đã thay đổi các quy tắc của

xung đột và người Israel sẽ thích nghi nhanh chóng. Yariv giải thích: “Tôi tiếp cận những vấn đề này không phải từ quan điểm đạo đức mà, thật khó nghe, từ quan điểm chi phí-lợi ích. Nếu tôi thực sự cứng rắn, tôi có thể nói, lợi ích chính trị của việc giết người này là gì? Liệu nó có đưa chúng ta đến gần hơn hòa bình không? Liệu nó có đưa chúng ta đến gần hơn sự thấu cảm với người Palestine hay không? Trong hầu hết các trường hợp, tôi không nghĩ điều đó sẽ xảy ra. Nhưng trong trường hợp Tháng Chín Đen chúng tôi không còn lựa chọn nào khác và nó đã thành công. Liệu nó có thể chấp nhận được về mặt đạo đức không? Người ta có thể tranh luận về câu hỏi đó. Liệu nó có quan trọng về mặt chính trị không? Nó có.”

Chiến dịch chống lại người Palestine kể từ đó được biết đến với tên gọi Chiến dịch Cơn thịnh nộ của Chúa, mặc dù ít ai trong số những người liên quan trực tiếp đến chiến dịch này thường xuyên sử dụng cái tên đầy cảm xúc như vậy. Trách nhiệm ban đầu của chiến dịch được giao cho Mossad và một nhóm nhỏ.

các đặc vụ ưu tú do “Mike”, điệp viên cấp cao phụ trách bộ phận tác chiến, chỉ huy.

“Mike” là một điệp viên kỳ cựu 46 tuổi, vốn đã hoạt động bí mật trong nhiều thập kỷ. Được đào tạo thành một nhân viên vô tuyến, ông đóng quân tại Rome sau Thế chiến II, giúp đưa người Do Thái trở về Palestine. Ông được tuyển vào Shin Bet năm 1950 sau khi rời quân ngũ, và đến những năm 1960 đã chuyển sang Mossad, tại đó ông thăng tiến đều đặn trong bộ phận điều hành, nắm quyền chỉ huy vào khoảng năm 1970.

Sau khi nhận được lệnh thành lập đội ám sát, “Mike” đã dành nhiều tuần để trinh sát, đi khắp châu Âu và Trung Đông bằng nhiều hộ chiếu giả, bao gồm một hộ chiếu cho thấy ông ta là một doanh nhân người Pháp tên là Edouard Stanislas Laskier. Ông ta đã tập hợp một nhóm nhỏ các đặc vụ Israel và chuyển họ đến những ngôi nhà an toàn ở Paris, nơi các hoạt động sẽ được tiến hành, với sự giúp đỡ của các quan chức tại đại sứ quán Israel.

Chiến dịch Cơn Thịnh Nộ của Chúa là một chiến dịch phi thường, được đặc trưng bởi việc lên kế hoạch tỉ mỉ, lập danh tính giả, sử dụng vũ khí và mưu mẹo kỳ lạ. Trong khi sự thật vẫn còn bị che giấu, một số chi tiết về đơn vị do “Mike” tập hợp đã được công bố. Đội sát thủ cho một nhiệm vụ cụ thể  gồm 15 người được chia thành 5 đội: “Aleph”, hai sát thủ được huấn luyện; “Bet”, hai vệ sĩ sẽ theo dõi Aleph; “Heth”, hai đặc vụ sẽ tạo vỏ bọc cho phần còn lại của đội bằng cách thuê phòng khách sạn, căn hộ, xe hơi, v.v.; “Ayin”, bao gồm từ sáu đến tám đặc vụ tạo thành xương sống của chiến dịch, theo dõi mục tiêu và thiết lập đường thoát cho các đội Aleph và Bet; và “Qoph,” hai đặc vụ chuyên về truyền thông.

Tuy nhiên, nhiệm vụ đầu tiên của Mossad là lập danh sách những tên khủng bố đứng sau Tháng Chín Đen, và những tên Palestine đã trực tiếp hỗ trợ và giúp đỡ các cuộc tấn công khủng bố của chúng. Các đơn vị tình báo Israel trên khắp châu Âu và Trung Đông đã bắt đầu một cuộc điều tra chuyên sâu về những kẻ đứng sau vụ tấn công Munich.

Chi tiết đầy đủ về danh sách Mossad biên soạn chưa bao giờ được tiết lộ. Mặc dù Victor Ostrovsky, một cựu “katsa” Mossad

(đặc vụ tình huống), tuyên bố “Meir đã ký lệnh tử hình cho khoảng 35 tên khủng bố Tháng Chín Đen được biết đến,” các nguồn thông tin tình báo khác khẳng định con số thực sự gần với 20. Ngay khi  xác định được mục tiêu, đặc vụ Israel đã tiến hành việc giám sát rộng rãi đối tượng, dàn dựng các bước đi của mình và khả năng thành công của một “cú đánh”, rồi sau đó một thành viên cấp cao của biệt đội Israel sẽ liên hệ với Ủy ban X để xin phép ra tay.

Đứng đầu danh sách Cơn Thịnh nộ của Chúa là một số nhân vật cấp cao nhất trong PLO, bao gồm Abu Iyad, thủ lĩnh của Tháng Chín Đen, và Ali Hassan Salameh, chiến binh du kích trẻ quyến rũ được Yasser Arafat đào tạo để kế nhiệm và lãnh đạo phong trào Palestine.

Salameh đã vượt ra khỏi hình ảnh truyền thống mà phương Tây quen hình dung về một tên khủng bố Palestine thường sinh ra trong cảnh khốn cùng ở trại tị nạn và lớn lên trong ký ức ám ảnh và hận thù sâu dày. Là con trai của doanh nhân giàu có Sheikh Hassan Salameh (một nhân vật huyền thoại trong những năm đầu của cuộc chiến Palestine chống lại người Do Thái), Salameh đã biết từ nhỏ rằng mình được số phận định sẵn sẽ nối nghiệp cha. “Ảnh hưởng của cha tôi đã gây ra những vấn đề cá nhân cho tôi”, y từng nói. “Tôi lớn lên trong một gia đình coi ‘cuộc đấu tranh’ là vấn đề di sản, phải được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác … Ngay từ khi còn nhỏ, tôi đã phải tuân theo một khuôn mẫu hành vi nhất định … Tôi liên tục ý thức được rằng mình là con trai của Hassan Salameh và phải sống theo điều đó.”

Khi vai trò lãnh đạo gia đình rơi vào tay Salameh trẻ tuổi, y chuyển từ trường trung học tại Bir-Zeit ở Bờ Tây đến Cairo, và sau đó đến Tây Đức, nơi y học ngành kỹ thuật.

Nghe lời mẹ, y kết hôn ở Cairo năm 1963, nhưng Salameh vẫn tiếp tục trăng hoa với những phụ nữ cực kỳ quyến rũ, học karate, mặc đồ hiệu và lái xe thể thao tốc độ cao. Cuộc sống trong lều bạt ở Dải Gaza không dành cho y. Salameh trở thành một tay chơi hào nhoáng với một biệt thự ở Geneva và chìa khóa ra vào một loạt ngôi nhà ở miền Nam nước Pháp. Y đã trở thành một huyền thoại sống.

Tuy nhiên, bất chấp lối sống thượng lưu này, Salameh vẫn hoàn toàn tận tụy với sự nghiệp giải phóng Palestine. Mặc dù y chắc chắn khác biệt so với những nhân vật  trung niên khác đã điều hành PLO – chẳng hạn trong nhiều năm, sở thích xa xỉ của Arafat không vượt quá một thìa mật ong pha trà –  y được cần đến chính vì sức hút và kỹ năng lãnh đạo của mình. Arafat tin tưởng Salameh một cách tuyệt đối đến nỗi, sau khi thăng tiến trong hàng ngũ Fatah, Salameh được đề bạt cầm đầu Lực lượng 17, lực lượng cận vệ của Yasser Arafat. Người Israel coi Salameh không chỉ là mối đe dọa khủng bố mà còn là một nhà lãnh đạo Palestine có khả năng lãnh đạo một phong trào rộng lớn hơn chống lại nhà nước Do Thái. Họ đã trao cho y

Mật danh “Ông Hoàng Đỏ”, và kế hoạch ám sát y đã trở thành nỗi ám ảnh đối với một số đặc vụ cấp cao của Israel. Nhưng trong những tuần đầu của Chiến dịch cơn Thịnh nộ của Chúa, người Israel nhận ra rằng Ali Hassan Salameh là mục tiêu trả thù cần phải chờ đợi. Y được bảo vệ quá kỹ lưỡng, thường xuyên di chuyển với nhiều vệ sĩ giữa những ngôi nhà kiên cố. Thay vào đó, ngay cả trước khi vụ “cướp máy bay” của Lufthansa khuyến khích họ đẩy mạnh đòn tấn công, Mossad đã chọn mục tiêu đầu tiên là một trí thức Palestine không được bảo vệ đang sống ở châu Âu.

Wael Zwaiter là một người Palestine mảnh khảnh, đã sống ở Rome 16 năm và làm thư ký tại đại sứ quán Libya. Công việc chính thức của ông là phiên dịch, và một trong những thành tựu lớn nhất của ông là dịch tác phẩm kinh điển Nghìn Lẻ Một Đêm từ tiếng Ả Rập sang tiếng Ý. Có rất ít bằng chứng cụ thể về sự tham gia của ông vào phong trào khủng bố, mặc dù từ năm 1972, các quan chức Israel đã tuyên bố riêng rằng Zwaiter có liên quan đến Tháng Chín Đen và đóng vai trò chủ chốt trong âm mưu vào tháng 8 năm 1972 nhằm cho nổ tung một chiếc Boeing 707 của El Al khỏi bầu trời bằng một quả bom giấu trong máy ghi âm.

Cho đến ngày nay, nhiều người Palestine vẫn khẳng định rằng Zwaiter, người gốc Nablus ở Bờ Tây, không liên quan đến vụ tấn công Munich.

“Tôi thách thức chính phủ Israel, hoặc bất kỳ bộ ngành nào của họ, chứng minh rằng Wael Zwaiter, một triết gia chỉ mang sách vở chứ không mang súng, có liên quan gì đến chiến dịch Munich”, Abu Daoud, một lãnh đạo của Tháng Chín Đen, phát biểu. “Zwaiter có quan hệ với tất cả các đảng phái chính trị Ý. Ông ta là một triết gia, chứ không phải một chiến binh vũ trang đấu tranh cho tự do. Họ giết ông ta vì muốn xóa bỏ mọi hình ảnh tích cực về sự nghiệp của người Palestine ở châu Âu.”

Người Israel tuyên bố rằng Zwaiter có liên quan đến việc tổ chức và điều hành các cuộc tấn công Tháng Chín Đen bắt nguồn từ thủ đô của Ý, và chắc chắn người ta đã nghe ông biện minh cho vụ tấn công Munich và thậm chí còn ám chỉ rằng người Israel đã cố tình để các vận động viên của họ bị giết để đạt được lợi thế chính trị và một cái cớ để đàn áp phong trào Palestine.

Những cáo buộc này có thể là bản án tử hình dành cho ông. Sau này người ta mới biết ông cũng là anh em họ của Yasser Arafat.

Tối ngày 16 tháng 10 năm 1972, Zwaiter đến thăm người bạn cũ Janet von Braun, một phụ nữ Úc 50 tuổi đang sống tại Rome. Sau khi trò chuyện và ăn tối, Zwaiter thong thả trở về căn hộ của mình trong một tòa nhà trên quảng trường Piazza Annibaliano ở phía bắc thành phố. Ông ta mua một ít rượu vang và đồ tạp hóa từ một cửa hàng bán đồ ăn khuya rồi ghé vào

quán bar Trieste gần căn hộ của mình để gọi vài cuộc điện thoại. Zwaiter cuối cùng cũng vào tòa nhà ngay sau 10:30 tối, tìm đồng xu 10 lira để đi thang máy lên căn hộ nhỏ. Hai nam đặc vụ Israel đã làm mờ đèn ở sảnh vào.

Khi ông ta tiến đến thang máy, các điệp viên Israel đã rút ra những khẩu súng lục Beretta nhỏ cỡ nòng .22 đã được cải tiến, vũ khí ưa thích của các đặc vụ Israel, và họ bắn 12 phát đạn vào người ông ta ở cự ly gần, và Zwaiter gục chết trong vũng máu ở sảnh vào.

Hai kẻ giết người chạy ra ngoài và lao vào phía sau chiếc Fiat 125 màu xanh lá cây, được du khách người Canada “Anthony Hutton” thuê, chiếc xe đã đợi sẵn bên lề đường cùng với hai đặc vụ khác, một cặp đôi giả vờ hôn nhau say đắm khi Zwaiter vừa đi ngang qua họ. Chiếc Fiat tăng tốc rời khỏi hiện trường, suýt va chạm với một chiếc xe khác, và sau đó bị bỏ lại chỉ cách đó vài trăm mét trên đường Via Bressanone. Những kẻ giết người chuyển sang một chiếc xe khác đang chờ sẵn đưa họ đến một ngôi nhà an toàn trong thành phố. Họ không bao giờ bị bắt.

Biệt đội ám sát nhanh chóng di chuyển từ Rome đến Paris, khi người Israel chuyển sự chú ý của họ sang Tiến sĩ Mahmoud Hamshari, một đại diện cấp cao hói đầu, tuổi trung niên của PLO ở Pháp, một nhân vật mà Mossad sau đó tuyên bố là người đứng đầu tổ chức Tháng Chín Đen ở quốc gia đó.

Hamshari sống lặng lẽ không có vệ sĩ trong một căn hộ sang trọng tại số 175 phố d’Alésia, cùng người vợ Pháp Marie-Claude và con gái Amina. Ông dường như đã thắt chặt an ninh hơn một chút sau cái chết của Zwaiter, nhưng ông vẫn là một “mục tiêu dễ bị tấn công” mà người Israel có thể dễ dàng giết chết ngay

trên đường phố. Tuy nhiên, một cái chết kịch tính hơn Zwaiter được chọn cho Hamshari, một cái chết sẽ khiến đồng bọn của ông ta sợ hãi hoặc khiến bọn khủng bố khiếp đảm, theo quan điểm của người Israel. Việc giết Hamshari đòi hỏi đội sát thủ Israel phải vạch ra một kế hoạch phức tạp.

Các đặc vụ đã dành ít nhất một tuần để theo dõi chặt chẽ Hamshari và cẩn thận ghi nhận rằng vợ ông ta sẽ đưa con gái của họ đi nhà trẻ mỗi sáng sớm, rồi sau đó trở về căn hộ. Điều này giúp đội Israel có “cửa sổ” thời gian để tấn công chính xác khi mục tiêu chỉ có một mình, nhờ đó tránh được thương vong.

Đầu tháng 12 năm 1972, một đặc vụ Israel, đóng giả làm nhà báo Ý quan tâm đến cuộc đấu tranh của người Palestine, đã sắp xếp gặp Hamshari tại một quán cà phê gần căn hộ của ông. Khi hai người nhâm nhi cà phê và thảo luận về chính trị Trung Đông, hai đặc vụ Israel khác lặng lẽ kiểm tra ổ khóa cửa trước nhà Hamshari.

Vài ngày sau, “nhà báo người Ý” lại sắp xếp một cuộc gặp khác với Hamshari bên ngoài căn hộ của ông ta. Trong lúc họ gặp nhau và nói chuyện tiếp, ít nhất hai thành viên của đội sát thủ, gồm các chuyên gia chất nổ được điều động đặc biệt từ Israel, đã đột nhập vào căn hộ của Hamshari và đặt một thiết bị nổ nhỏ dưới gầm bàn cạnh điện thoại.

Đội Israel tiếp tục giám sát căn hộ, và ngày hôm sau, thứ sáu, ngày 8 tháng 12, ngay sau khi Marie-Claude và con gái Amina rời nhà đến trường, “nhà báo người Ý” đã gọi điện cho Hamshari tại nhà ông ta.

“Có phải ông Hamshari không?”, đặc vụ Israel hỏi bằng tiếng Ả Rập khi người Palestine trả lời điện thoại.

“Vâng, tôi là Mahmoud Hamshari”, ông ta trả lời.

Người Israel ra hiệu cho các đồng đội khác trong đội sát thủ và họ kích nổ quả bom. Chỉ một giây trước khi nó phát nổ, Hamshari hẳn đã rời khỏi bàn, bởi vì mặc dù bị thương nặng, ông ta vẫn còn đủ tỉnh táo để kể lại cho các thám tử Paris đang kinh ngạc chuyện gì đã xảy ra. Ông ta nghe thấy một tiếng rít chói tai ngay trước khi quả bom phát nổ. Người Israel đã truyền một tín hiệu kích nổ xuống dưới đường dây điện thoại, và các kỹ thuật viên pháp y sau đó xác định rằng một kíp nổ tinh vi đã được lắp đặt trong quả bom dưới gầm bàn, sử dụng cùng nguyên lý như điện thoại “scrambler”. Hamshari qua đời tại bệnh viện vài tuần sau đó.

Tin đồn rằng người Israel đang theo đuổi một cuộc ám sát trả thù chống lại Tháng Chín Đen hiện đã bắt đầu lan truyền khắp Trung Đông, nhưng nhiều nhà hoạt động Palestine dường như vẫn còn giữ nguyên thói quen thường ngày của họ.

Ám sát không phải là chiến thuật duy nhất mà nhóm Cơn Thịnh Nộ của Chúa sử dụng để khủng bố những đàn ông và phụ nữ mà họ xác định là khủng bố. Mossad cũng bắt đầu đăng cáo phó trên các tờ báo tiếng Ả Rập, ca ngợi những người Palestine vẫn còn trong độ tuổi sung sức. Các cảnh báo được hỗ trợ bởi các cuộc gọi điện thoại.

Ở châu Âu, hàng chục các nhân vật hoạt động của tổ chức PLO trẻ, Fatah và thậm chí cả tổ chức Tháng Chín Đen cũng được các đặc vụ Israel gọi cảnh cáo tránh xa cuộc đấu tranh vũ trang, nếu không sẽ phải đối mặt với cái chết chắc chắn. Các đặc vụ sẽ gọi điện cho một người Palestine, hỏi tên đầy đủ bằng tiếng Ả Rập, sau đó xác nhận tên vợ, con và nơi làm việc của y. Khi nhân vật Palestine biết rõ rằng người gọi đã nắm rõ hầu hết mọi khía cạnh cuộc sống của mình, đặc vụ Mossad sẽ cảnh cáo người đó không nên tham gia thêm bất kỳ hoạt động nào hợp tác với PLO hoặc các đơn vị vũ trang khác nhau của tổ chức này.

Bất kỳ ai đủ can đảm – hoặc ngây thơ – dập chiếc điện thoại xuống mà vẫn cảm thấy an toàn thường bị đánh thức khỏi sự tự mãn khi bị ném gạch qua cửa sổ, hoặc bị đập cửa trước. Đó không hẳn là một phản ứng bạo lực đối với chủ nghĩa khủng bố, nhưng người Israel vẫn cố gắng chứng tỏ rằng – nếu họ muốn – họ có thể xóa sổ bất kỳ ai, ở bất kỳ đâu.

Đến tháng 1 năm 1973, đội sát thủ của Golda Meir đã chuyển từ Paris đến Nicosia trên đảo Síp thuộc Địa Trung Hải. Nằm ở vị trí thuận tiện, chỉ cách Israel, Lebanon và Ai Cập một quãng đường ngắn, Síp từng là bối cảnh của nhiều bi kịch Chiến tranh Lạnh.

Mục tiêu ở Síp là Hussein Abad Al Chir (biệt danh Hussein Bashir, còn gọi là Abd el Hir), một quan chức cấp cao của Fatah, 36 tuổi và theo người Israel, là người đứng đầu Tháng Chín Đen trên đảo. Nhưng đây không phải là lý do duy nhất khiến Al Chir bị nhắm đến: điều khiến người Israel tức giận và lo lắng là mối quan hệ chặt chẽ của Al Chir với KGB Liên Xô.

Đến đầu những năm 1970, PLO đã nhận được sự giúp đỡ và hỗ trợ từ Moscow dưới hình thức vũ khí (chẳng hạn như số lượng lớn súng trường tấn công AK-47 đầy uy lực) và huấn luyện tại các căn cứ phía sau Bức màn sắt. Al Chir chịu trách nhiệm tuyển chọn hoặc sàng lọc chiến binh Palestine sẽ được đào tạo. Y cũng được cho là đã thiết lập mối quan hệ với các sĩ quan tình báo cấp cao của Liên Xô và với một đại tá KGB, người phụ trách một phần Trung Đông từ đại sứ quán Liên Xô tại Síp.

Đối với người Israel, các mối liên hệ của Al Chir với KGB đại diện cho một mối đe dọa hoàn toàn mới, và mối đe dọa này có thể khiến các điệp viên nước ngoài của họ bị các sát thủ Palestine nhắm đến. Vụ thảm sát Munich chỉ là cái cớ mà Mossad cần để biện minh cho việc giết Al Chir.

Al Chir chỉ mới ở Nicosia một thời gian ngắn thì một đội trinh sát Israel đã âm thầm theo dõi hành tung của y. Y ít khi tuân theo một khuôn mẫu cố định nào, nhưng ngày của y luôn bắt đầu và kết thúc trong phòng riêng tại Khách sạn Olympic trên Đại lộ Tổng thống Makarios của Nicosia. Al Chir đã từng ở tại khách sạn này, nơi được các đồng bọn của y ưa chuộng, nhiều lần trước đó. Việc y ưa chuộng khách sạn này có thể đã khiến y mất mạng, vì Mossad đã quyết định y sẽ phải chết trong phòng mình.

Vào giữa tháng 1 năm 1973, các thành viên cấp cao của đội sát thủ Israel, bao gồm một đặc vụ sử dụng hộ chiếu Anh dưới cái tên “Jonathan Ingleby”, đã đến đảo và đặt phòng tại Khách sạn Olympic dưới nhiều tên giả khác nhau. Chi tiết chính xác về hoạt động của họ vẫn chưa rõ ràng, nhưng người ta tin rằng họ đã đột nhập vào căn phòng khách sạn của Chir khi y ra ngoài vào ban ngày và đặt một khối thuốc nổ nhỏ dưới gầm giường.

Đêm 24 tháng 1, Al Chir trở về khách sạn và lê bước một mình lên lầu về phòng. Vài phút trôi qua khi y cởi đồ và chuẩn bị đi ngủ. Khi đèn phòng tắt và Al Chir đã lên giường, một thành viên của đội sát thủ Israel đang theo dõi bên ngoài đã nhấn nút kích nổ và vụ nổ đã làm tan xác Al Chir, phá hủy căn phòng của y và thổi bay cánh cửa khỏi bản lề.

Các vụ hành quyết vẫn tiếp diễn. Đầu tháng 4 năm 1973, Mossad quay trở lại Paris để truy tìm Tiến sĩ Basil Al-Kubaissi, một giáo sư luật tại Đại học Hoa Kỳ ở Beirut, người được cho là đã làm thêm ngoài giờ với tư cách là một quan chức cấp cao trong phong trào du kích Palestine. Kubaissi bị cáo buộc là một sĩ quan hậu cần cho các hoạt động của Tháng Chín Đen ở châu Âu, bao gồm việc sắp xếp cung cấp và vận chuyển vũ khí và chất nổ. Ông ta cũng được cho là đã tham gia vào một âm mưu ám sát Golda Meir trong chuyến thăm Hoa Kỳ của bà. Một quả bom xe lớn đã được đặt bên ngoài nhà ga El Al tại Sân bay JFK, nhưng đã được vô hiệu hóa trước khi chuyến bay của bà hạ cánh.

Vào đêm ngày 6 tháng 4, giáo sư đã thưởng thức một bữa ăn ngon lành tại

Café de la Paix sang trọng và đang đi bộ trở lại khách sạn của mình gần Nhà thờ Madeleine thì hai đặc vụ trẻ Israel đã theo dõi ông ta tiến đến bên cạnh, rút ​​khẩu súng lục .22 tiêu chuẩn và bắn ông ta khoảng một chục phát.

Nhưng Tháng Chín Đen không ngồi yên chịu đựng các cuộc tấn công này. Các thành viên của tổ chức này nhanh chóng bắt đầu đáp trả tương tự. Cuối tháng 4 năm 1973, một sát thủ tên là Zaharia Abu Saleh được phái đến Rome với lệnh trả thù cho cái chết mới nhất của người Ả Rập. Hắn đã theo dõi Vittorio Olivares, một nhân viên người Ý của El Al (hãng Hàng không Israel) mà Tháng Chín Đen nghi là điệp viên Israel, quanh Rome và sau đó bắn anh ta vào bụng bằng một khẩu súng lục giảm thanh giữa đám đông người mua sắm bên ngoài một cửa hàng bách hóa.

Ali Hassan Salameh, Ông Hoàng Đỏ, cũng ra lệnh thực hiện thêm các cuộc tấn công khủng bố “ngoạn mục” vào các mục tiêu của Israel trong thời gian này, việc llnày sẽ tiếp tục duy trì chu kỳ của bạo lực. Một trong những sự kiện bất thường hơn, nếu xét về vị trí địa lý, là vụ tấn công vào đại sứ quán Israel ở Bangkok vào ngày 28 tháng 12 năm 1972.

Bốn du kích Tháng Chín Đen đã phát động cuộc tấn công ngay sau khi Rehavam Amir, đại sứ Israel, rời khỏi sứ quân để đến tham dự lễ tấn phong của Thái tử Vajiralongkorn, người thừa kế ngai vàng Thái Lan. Cải trang thành các nhà ngoại giao trong những bộ vest lịch lãm, hai thành viên của đơn vị Tháng Chín Đen đã vượt qua hàng rào bảo vệ để liên lạc với hai tay súng vũ trang khác. Cả đơn vị đã bắt giữ sáu nhà ngoại giao, trong đó có hai phụ nữ, làm con tin. Có thể họ đã bỏ lỡ việc bắt giữ Rehavam Amir, nhưng họ đã bắt được Simon Avimor, đại sứ Israel tại Campuchia, người không may đang ở Thái Lan vào thời điểm đó.

Một mô hình đàm phán quen thuộc diễn ra sau đó. Các con tin bị dồn vào một căn phòng trên lầu và bị đe dọa giết chết. Bọn khủng bố ném một lá thư chứa đựng yêu sách của chúng ra ngoài cửa sổ. Chúng muốn ngay lập tức thả tên khủng bố Nhật Bản Kozo Okamoto khét tiếng khỏi nhà tù Israel, cùng với 35 tên khủng bố Palestine và ủng hộ Palestine. Israel cảnh báo chính quyền Thái Lan rằng mình hoàn toàn không có ý định đầu hàng trước những yêu sách này, và thế giới chuẩn bị đón nhận một cuộc tàn sát lớn hơn.

Sau những cuộc đàm phán kéo dài và với sự giúp đỡ của Mustapha el Assawy, đại sứ Ai Cập tại Thái Lan, chính quyền Thái Lan đã thuyết phục được du kích Tháng Chín Đen rời khỏi đại sứ quán và đi xe buýt đến sân bay, nơi họ nói rằng có một chiếc máy bay đang chờ để đưa cả nhóm đến điểm đến mà chúng chọn. Tất cả đều giống hệt một cách đáng sợ với thảm họa ở Munich.

Có lẽ chính xác là vì bọn khủng bố lo sợ tình huống Munich sẽ lặp lại nên lúc đầu họ đã từ chối đề nghị chuyển giao. Tuy nhiên, Đại sứ el Assawy luôn có mặt để trấn an và hứa hẹn về sự an toàn, và những kẻ khủng bố đã giữ lời. Chúng đi đến sân bay cùng các con tin bị trói, sau đó trao trả cho cảnh sát Thái Lan, trước khi lên chuyến bay của Thai Airways đến Cairo. Như một biểu hiện cuối cùng của lòng tin, Đại sứ el Assawy đã dũng cảm lên đường với bọn Tháng Chín Đen để đảm bảo chuyến đi an toàn cho chúng

Các chính trị gia ôn hòa Israel ăn mừng điều mà họ gọi là một chiến thắng ngoại giao: bằng chứng cho thấy chủ nghĩa khủng bố có thể bị đánh bại mà không cần đến súng đạn và bom đạn. Không có gì ngạc nhiên khi các quan chức cấp cao của Tháng Chín Đen lại có cái nhìn khác về kết cục của cuộc khủng hoảng Bangkok. Ali Hassan Salameh vô cùng tức giận vì những tên khủng bố đã thực sự đầu hàng và ra về trắng tay.

Một số báo cáo cho rằng Salameh đã ra lệnh giết bốn tên khủng bố vì chúng đã thất bại. Chắc chắn hắn ta đang rất muốn thực hiện một “cuộc tấn công ngoạn mục” khác chống lại Israel, và cơ hội của hắn ta là thực hiện một cuộc tấn công vào châu Âu mà hắn đã lên kế hoạch trong nhiều tuần.

Trong nỗ lực tìm kiếm sự công nhận toàn diện của quốc tế đối với nhà nước Israel, Golda Meir đã nhiều năm mong muốn được gặp Đức Giáo hoàng tại Vatican. Vào mùa thu năm 1972 cuối cùng hai bên đã thống nhất về các chi tiết. Meir sẽ dành một ngày gặp Giáo hoàng vào ngày 15 tháng 1 năm 1973, sau khi dành hai ngày ở Paris tham dự một hội nghị xã hội chủ nghĩa quốc tế, và trước hai ngày họp với Tổng thống Bờ Biển Ngà Felix Houphouët-Boigny.

Bằng cách nào đó, có lẽ thông qua các mối liên hệ ở Israel, hoặc thông qua các điệp viên ở Vatican, giới lãnh đạo Palestine đã biết được chi tiết về chuyến đi đã lên kế hoạch của Meir và quyết rằng đó là cơ hội quá quá tốt để bỏ lỡ.

Một lãnh đạo cấp cao của Palestine đã liên lạc với Salameh, lúc đó đang ở Đông Đức với Stasi, và gửi cho hắn ta một tin nhắn riêng: “Hãy bắt lấy kẻ đang làm đổ máu chúng ta khắp châu Âu.” Salameh nhanh chóng bắt đầu lên kế hoạch tấn công táo bạo vào nhà lãnh đạo Israel. Hắn ta lặng lẽ di chuyển khắp châu Âu bằng một loạt hộ chiếu và đích thân bay đến Rome để giám sát một âm mưu ám sát.

Sau khi đi hết chặng đường

Meir có thể sẽ được đưa từ sân bay đến Vatican, Salameh dường như đã quyết định cách tốt nhất để ám sát bà là tấn công máy bay của bà bằng tên lửa đất đối không khi nó hạ cánh xuống sân bay Fiumicino hỗn loạn của Rome. PLO đã có một số tên lửa Strella do Liên Xô sản xuất phóng từ vai (được NATO đặt tên mã là “Grail”) tại các căn cứ ở Nam Tư. Salameh chỉ cần lén lút vận chuyển chúng qua biên giới biển Adriatic và vào Ý để tấn công.

Ông Hoàng Đỏ đã sắp xếp một chiếc du thuyền nhỏ để đón nhận một số thùng chứa tên lửa hủy diệt từ thành phố cổ Dubrovnik và tuồn lậu vào Ý. Những tên lửa này được dỡ xuống gần Bari vào cuối tháng 12 năm 1972, được chở vào Rome trên một chiếc xe tải lớn và được giấu trong một căn nhà an toàn của phe Tháng Chín Đen. Salameh đã sẵn sàng cho trận tấn công nhà lãnh đạo Israel.

Nhưng ngay cả khi Ông Hoàng Đỏ đang sắp xếp việc này, một đầu mối cấp dưới của Mossad gài trong PLO đã cảnh báo những người Israel của mình rằng anh ta đang được yêu cầu tham gia một cuộc tấn công vào một mục tiêu Israel chưa được xác định. Ban đầu, người Israel nghĩ rằng đó có thể là vụ tấn công vào đại sứ quán Israel ở Bangkok ngày 28 tháng 12, nhưng một số điệp viên cấp cao của Mossad ở châu Âu không tin. Họ càng lo ngại hơn vào tuần thứ hai của tháng 1 khi bản ghi âm từ máy nghe lén trên điện thoại của một gái mại dâm cao cấp ở Brussels được biết đến là nơi chứa chấp các quan chức PLO tiết lộ các cuộc gọi từ ai đó – được cho là Salameh – đến một số điện thoại ở Rome.

“Dọn sạch căn hộ và lấy hết 14 cái bánh đi,” người đàn ông nói. Người Israel, nghi ngờ thông điệp, nhanh chóng lần theo dấu vết cuộc gọi ở Rome và đột nhập vào căn hộ. Không có gì ở đó ngoài một mảnh giấy bị xé nát cho thấy phần cuối hình tên lửa Strella và một vài từ tiếng Nga giải thích cách sử dụng nó. Golda Meir dự kiến ​​sẽ đến Rome trong vòng chưa đầy 72 giờ nữa và các quan chức an ninh của bà bắt đầu hoảng sợ.

Cảnh sát Ý đã được cảnh báo về khả năng xảy ra âm mưu ám sát, và họ cùng với người Israel, làm việc riêng lẻ và phối hợp, bắt đầu lùng sục những kẻ khủng bố ở khu vực xung quanh sân bay. Chính xác chuỗi sự kiện tiếp theo vẫn còn mơ hồ, nhưng chỉ vài giờ trước khi Meir đến, một quan chức Mossad dường như đã phát hiện ra một trong hai đội sát thủ Tháng Chín Đen trên một cánh đồng phía bắc sân bay. Họ bắn hắn, hắn bỏ chạy, cảnh sát Ý đến, và giữa lúc hỗn loạn, một đội Mossad khác đã bắt được một tên khủng bố và đưa hắn đi thẩm vấn nhanh chóng.

Có rất ít thời gian để hành xử lịch sự: khi tên khủng bố bị bắt, chỉ chưa đầy một giờ nữa là Golda Meir sẽ đến. Các đặc vụ Mossad đã phải sử dụng đến bạo lực với tên khủng bố, đánh đập hắn cho đến khi hắn chịu khai ra chi tiết về kế hoạch ám sát Meir, rồi thừa nhận có một nhóm sát thủ Tháng Chín Đen khác trong khu vực. Ngay lập tức các đặc vụ Mossad gọi điện cho máy bay của Meir và tuyệt vọng cầu xin vị thủ tướng quyết tâm và liều lĩnh của họ hãy quay lại, đồng thời một đặc vụ Mossad khác lái xe quanh khu vực sân bay đã phát hiện ra điều gì đó đáng ngờ về một chiếc xe tải nhỏ bán cà phê lưu động đỗ bên lề đường.

Victor Ostrovsky, cựu điệp viên Mossad, người đã phục vụ nhiều năm trong ngành, đã tiếp cận được các hồ sơ mật về âm mưu ám sát này. Ông cho biết đặc vụ đó “đã lái xe qua chiếc xe tải đáng ngờ hai lần, nhưng đến lần thứ ba, anh ta mới nhận ra: có ba ống khói nhô ra khỏi mái xe nhưng chỉ có một ống bốc khói.” Bọn khủng bố rõ ràng đã khoan lỗ trên mái xe và các tên lửa thực sự nhô ra từ đó. “Không lãng phí một giây nào, đặc vụ Mossad quay ngoắt 180 độ và lái xe đâm thẳng vào chiếc xe tải, làm nó lật sang một bên và đè bẹp hai tên khủng bố bên dưới,” Ostrovsky nói thêm. Khi tiếng còi cảnh sát hú vang từ xa, đặc vụ Mossad kiểm tra khu vực đã an toàn và không có cơ hội nào cho bọn khủng bố Tháng Chín Đen trốn thoát khỏi cảnh sát Ý. Sau đó, anh biến mất.

Ali Hassan Salameh đã thất bại trong nỗ lực ám sát Golda Meir, nhưng người của hắn vẫn không ngừng tấn công. Hoàn toàn ngược lại. Mạng lưới điệp viên của hắn đã theo dõi các hoạt động và di chuyển của một điệp viên Israel thông minh tên là Baruch Cohen, và chỉ trong vòng hai tuần sau vụ ám sát bất thành Meir, Tháng Chín Đen đã sẵn sàng tấn công lần nữa.

Cohen, một người bản xứ nói tiếng Ả Rập, đã làm việc với tư cách là thống đốc quân sự của thị trấn lớn Nablus sau cuộc chiến năm 1967 và là chỉ huy của một nhóm suýt bắt được Yasser Arafat. Ông gia nhập Mossad vào năm 1970 và được cử đến Châu Âu để xây dựng một mạng lưới những người Palestine cung cấp thông tin trong số các sinh viên trẻ, nhưng ông có thể bị tổn thương nghiêm trọng bởi  một bức ảnh chụp ông xuất hiện bất thường trong ấn phẩm chính thức của quân đội Israel kỷ niệm cuộc chiến năm 1967 (bàn tay kiểm duyệt cứng rắn của Israel bình thường sẽ ngăn chặn những thảm họa như vậy).

Cohen khác xa hình mẫu của một đặc vụ hào hoa hay đi du hí, nhưng ông vẫn cực kỳ giỏi trong công việc. “Brochi không phải là một con người cứng cỏi,” vợ góa của ông, Nurit, nói. “Ngược lại, ông ấy thấp bé và rất khác xa hình ảnh một điệp viên hào hoa. Ông ấy không biết nhảy. Ông ấy

 không biết uống rượu. Ông ấy nhút nhát, rất khép kín. Nhưng ông ấy biết cách lắng nghe. Nếu ông ấy chọn một nghề khác, ông ấy đã có thể trở thành một nhà tâm lý học. Nói chuyện với ông ấy thật dễ chịu. Ông ấy nói một lời chỗ này, một lời chỗ kia, và người đối thoại sẽ cởi mở hơn. Ông ấy toát lên một vẻ đáng tin cậy.”

Tuy nhiên, khi đang làm việc ở Tây Ban Nha để tuyển mộ thanh niên Ả Rập, Cohen đã bị lừa. Theo Abu Iyad: “Điều mà ông ấy không biết là một số sinh viên mà ông ta tuyển dụng lại thuộc tổ chức Tháng Chín Đen và giả vờ hợp tác với ông ta theo yêu cầu của tổ chức. Khi ông bắt đầu nghi ngờ về lòng trung thành của những người không hoàn thành nhiệm vụ được giao với nhiều cớ khác nhau, họ quyết định xử tử ông. Việc loại bỏ ông ta trở nên cấp bách khi, vào đầu tháng 1, ngay sau vụ ám sát Mahmoud Hamshari tại Paris, Cohen tuyên bố mình sẽ rời Tây Ban Nha để đảm nhiệm những nhiệm vụ khác.”

Ngày 23 tháng 1 năm 1973, Cohen gặp một sinh viên y khoa Palestine 25 tuổi mà ông đang đào tạo để làm đầu mối liên lạc tại một quán cà phê đông đúc trên phố Grand Via sầm uất của Madrid. Hai người đang trò chuyện thì gã sinh viên Palestine trẻ tuổi thò tay vào túi, dường như để lấy tài liệu, nhưng lại rút ra một khẩu súng. Ngay khi Cohen vừa nhảy ra khỏi bàn thì gã Palestine đã bắn ông bốn phát ở cự ly gần. Đây là lần đầu tiên một điệp viên Israel bị bọn khủng bố sát hại, và sự việc đã gây chấn động cộng đồng tình báo nước này.

Người Palestine đã suýt thành công trong việc ám sát Golda Meir, và giờ họ đã thành công trong việc sát hại một điệp viên Mossad. Các cuộc thẩm vấn những người Palestine bị bắt, các cuộc nghe lén điện thoại, thu thập thông tin tình báo từ các chính phủ nước ngoài, và việc nghiên cứu riêng của Mossad tiếp tục đúc kết cùng một danh sách những cái tên chịu trách nhiệm cho các vụ tấn công. Tên Ali Hassan Salameh đứng đầu danh sách. Cái chết của hắn trở thành một mệnh lệnh cấp thiết đối với nhóm Cơn Thịnh Nộ của Chúa.

 

Bình luận về bài viết này