CÂU CHUYỆN ĐẦY ĐỦ VỀ CUỘC THẢM SÁT TẠI THẾ VẬN HỘI MUNICH 1972 VÀ CHIẾN DỊCH BÁO THÙ CỦA ISRAEL “CƠN THỊNH NỘ CỦA CHÚA”

Trần Quang Nghĩa dịch
4 Chiến dịch Ánh Dương
Chỉ còn chưa đầy mười lăm phút nữa là đến hạn chót buổi trưa, Manfred Schreiber rảo bước trên phố Connollystrasse, hướng về tòa nhà Israel, cùng với A. D. Touny. Nhiệm vụ của họ thật sự rất khó khăn. Hai người phải thuyết phục Issa, vốn đã cảnh giác với mọi thủ đoạn, gia hạn thêm vài giờ. Số phận của người Israel phụ thuộc vào khả năng thuyết phục của họ.
Anneliese Graes, người trung gian, đang đợi hai viên chức bên ngoài cánh cửa màu xanh của số 31 phố Connollystrasse. Cô gọi vào trong và Issa bước ra với dáng vẻ tự tin, nghênh ngang để nghe lời cầu xin của họ. Hắn đã trét xi giày lên mặt như một hình thức ngụy trang kỳ quái và dường như đang tận hưởng điều đó.. Tony đứng gác phía sau hắn trên phố, một dáng người lố bịch, nham hiểm với gót giày cao gót, hai quả lựu đạn và một khẩu súng lục đeo ở thắt lưng, ngón tay đặt trên cò súng trường tấn công Kalashnikov. Một tên khủng bố khác theo dõi nhóm bằng súng từ tầng hai.
Schreiber lên tiếng trước, giọng khẩn thiết, giải thích với tên Palestine rằng Israel hoàn toàn không thể tìm thấy tất cả tù nhân mà hắn ta yêu cầu trong vòng vài giờ. Schreiber nói rằng Israel đang cố gắng đáp ứng các yêu cầu, nhưng bọn khủng bố phải gia hạn thêm thời gian.
Walther Tröger, một người mà Issa dường như tin tưởng, đã đến đúng lúc Schreiber bắt đầu trần tình. Thị trưởng Làng lặng lẽ đứng phía sau khi đến lượt Touny có bài phát biểu ngắn của riêng mình, giải thích với Issa rằng kết nối điện thoại với Tel Aviv rất kém và có vấn đề trong việc tập hợp toàn bộ nội các Israel, cơ quan chính trị duy nhất có quyền quyết định số phận của các tù nhân Palestine.
Issa, một linh hồn bị tước đoạt, giờ đây bị cả thế giới theo dõi nhất cử nhất động của mình, tận hưởng khoảnh khắc quyền lực tối cao. Hắn trao đổi ngắn gọn với các tên khủng bố khác rồi đưa ra phán quyết: thời hạn chót sẽ được gia hạn đến 1 giờ chiều. Nếu đến lúc đó vẫn không có tiến triển, hắn hăm dọa, hai con tin sẽ bị hành quyết.
Manfred Schreiber rất muốn được gia hạn thêm ít nhất vài giờ, nhưng nhận ra Issa đã chán ngấy những nỗ lực hòa giải của mình. Schreiber kể rằng mình đã nói với Issa “một cách rất khoa trương” rằng ông sẽ nhờ hai thành viên cấp cao của chính phủ Đức và Bavaria đến nói chuyện với anh ta. “Ít nhất anh ta cũng nên lắng nghe những quý ông này,” Cảnh sát trưởng lý luận. Schreiber và Touny vội vã quay trở lại phố Connollystrasse để tìm hai nhân vật Đức mà cảnh sát trưởng đang nhắm đến:
Hans-Dietrich Genscher, Bộ trưởng Nội vụ Đức và Bruno Merk, Bộ trưởng Nội vụ bang Bavaria.
Issa chắc chắn đã chán ngấy việc đàm phán với vị cảnh sát trưởng Munich hung dữ. Hắn ta nói với Anneliese Graes rằng nếu thời hạn 1 giờ chiều trôi qua, hắn ta muốn báo chí đến nghe hắn phát biểu và sau đó chứng kiến cảnh hành quyết hai con tin. Hai người Israel sẽ bị xử tử ngay trước tòa nhà “để cả thế giới có thể chứng kiến”.
Sau đó Issa biến mất vào số 31, giơ hai ngón tay lên về phía thế giới đang theo dõi mình. Hầu hết người xem nghĩ hắn đang ra dấu hiệu chữ V tượng trưng cho chiến thắng, nhưng thực ra hắn ta đang cảnh báo rằng sẽ có hai người Israel phải bỏ mạng.
Trở lại tòa nhà hành chính G-1, Genscher và Merk đang theo dõi sát sao tình hình từ bên trong văn phòng quản lý khủng hoảng thì Schreiber quay lại và đề nghị họ nói chuyện với bọn khủng bố. Cả hai đều đồng ý và cùng nhau đi bộ xuống phố Connollystrasse. Issa tỏ ra sẵn lòng tiếp nhận lời đề nghị của họ, có lẽ vì cảm thấy được tôn trọng trước sự quan tâm của những nhà đàm phán cấp cao như vậy.
Tuy nhiên, Ulrich Wegener tin rằng đó là một sai lầm nghiêm trọng khi để các quan chức cấp cao đó tiến hành đàm phán. “Theo quan điểm của tôi, đó là một sai lầm khác,” ông nói. “Bởi vì đó là khâu cuối cùng của chuỗi chỉ huy.” Wegener chỉ trích gay gắt nhiều khía cạnh, thậm chí là hầu hết, trong phản ứng của Đức đối với cuộc tấn công của Palestine. Ông chỉ ra rằng đàm phán luôn phải do một sĩ quan cấp dưới tiến hành. “Để rồi anh ta luôn có thể nói, ‘Chà, tôi không thể quyết định việc này, tôi phải hỏi ý ai đó, một trong những cấp trên của tôi,’ và chuyện này cứ tiếp diễn, tiếp diễn, tiếp diễn, và như vậy, bạn có thể tranh thủ thời gian quan trọng.”
Nhưng khi thời hạn chót mới là 1:00 giờ P.M. đang đến gần, phía Đức cảm thấy họ không còn lựa chọn nào khác ngoài việc phải đưa các nhà đàm phán cấp cao vào cuộc. Genscher đứng cao vượt xa Issa khi cả hai quan chức Đức đều khẩn khoản xin tên khủng bố cho thêm thời gian.
Đó là thời điểm cho một hành động kịch tính: “Khi tôi thấy rõ rằng đàm phán với bọn khủng bố chẳng có ích gì, tôi đã tự nguyện làm con tin cho chúng”, Genscher nói. Đó là một động thái chưa từng có tiền lệ của một chính trị gia Đức, nhưng không phải là một quyết định bộc phát tại chỗ. Genscher đã cân nhắc liệu có nên tự nộp mình trong vài giờ hay không. “Tôi đã nghĩ về việc này nhiều lần trước đó rồi,” ông tiết lộ. Ông thậm chí còn gọi điện cho mẹ và con gái để mong nghe giọng nói của họ, phòng trường hợp lời đề nghị của ông được chấp nhận và ông bị giết.
“Tôi đã cầu xin anh ta hết lần này đến lần khác,” Genscher nói. “Anh biết chuyện gì đã xảy ra với người Do Thái ở Đệ Tam Đế chế chứ,” ông nói với Issa, “và anh phải hiểu rằng điều này không thể xảy ra ở Đức một lần nữa. Vì lý do này, tôi cầu xin anh thực hiện cuộc trao đổi này.”
Người Đức rất tuyệt vọng vì một giải pháp hòa bình đến nỗi cả Walther Tröger và Hans-Jochen Vogel đều đã đề nghị thay thế mình với các con tin Israel nhưng đều vô ích.
“Tên thủ lĩnh liên tục từ chối,” Genscher nói. Issa không muốn bắt bất kỳ người Đức nào làm con tin. Hắn đã nhận được lệnh từ các chỉ huy Tháng Chín Đen và hắn ta phải tuân thủ chúng.
Tröger nhớ lại: “Họ nói, ‘Không đời nào, chúng tôi không liên quan gì đến các ông, chúng tôi chỉ giao dịch với người Israel thôi,’ và họ không chấp nhận điều đó.” Ông khiêm tốn bác bỏ mọi lời ca tụng về lòng dũng cảm. Những người Israel “là khách của tôi, và tôi muốn làm mọi cách để giải thoát họ.”
Việc lôi kéo các quan chức cấp cao của Đức vào cuộc là một canh bạc nguy hiểm, nhưng Genscher và Merk đã thuyết phục Issa gia hạn thời hạn đến 3:00 chiều. Manfred Schreiber, đứng ở phía sau trong khi Genscher nói chuyện với Issa, thừa nhận rằng các cuộc đàm phán “khá khó khăn”: “Tôi . . . tin chắc rằng nếu tôi đích thân đàm phán. . . thì bọn sát nhân hẳn đã giết thêm hai con tin nữa rồi.”
Nhưng vì những lý do hiện đang làm Magdi Gohary bối rối, bọn khủng bố Tháng Chín Đen thực sự có vẻ đã tin Genscher và Merk khi họ nói rằng chính phủ Israel đang tuân thủ mệnh lệnh của chúng. Đến 12:57 chiều, tình hình ở Connollystrasse đã đủ yên tĩnh để Anneliese Graes tạm nghỉ và uống một lon Coca-Cola bên ngoài ngôi nhà Israel.
Thành công khiêm tốn này đã khích lệ chính phủ ở Bonn. Thủ tướng Willy Brandt, người chủ trì các cuộc thảo luận nội các, đã rút ngắn cuộc họp và bay đến Munich để theo dõi các cuộc đàm phán tiếp theo. Mặc dù chính quyền ở Bavaria vẫn còn phụ trách tình hình tại Làng Olympic, Brandt đã ra lệnh cho các viên chức của mình tại Bộ Ngoại giao đưa ra lời kêu gọi khẩn cấp tới các nguyên thủ quốc gia và chính phủ các nước Ả Rập để làm mọi thứ trong khả năng của mình nhằm đảm bảo việc thả các con tin.
Sự tin cậy đang tăng lên của người Đức không được phản ánh ở Israel. Chính phủ Golda Meir tin chắc rằng bọn khủng bố thực sự nghiêm túc và sẽ không để bất kỳ con tin nào sống sót. Thiếu niềm tin hoàn toàn vào khả năng cứu mạng sống người Do Thái của chính quyền Đức, Meir và các bộ trưởng của bà đã ra lệnh cho biệt đội tinh nhuệ của Israel, Sayeret Matkal, hay còn gọi đơn giản là “Đơn vị”, chuẩn bị bay đến Đức để hỗ trợ chiến dịch giải cứu con tin. Hàng chục chiến binh được đặt trong tình trạng sẵn sàng chiến đấu.
Những binh sĩ Sayeret Matkal là tinh hoa của lực lượng Israel. Đơn vị này cực kỳ bí mật, được lấy cảm hứng từ Lực lượng Không quân Đặc biệt Anh và được thành lập vào những năm 1960 bởi một quân nhân huyền thoại tên là Avraham Arnan. Những chiến binh Sayeret Matkal, vốn chỉ được nhận dạng bằng những chiếc ghim vàng nhỏ đeo bên trong ve áo, thuộc một số ít người có thể hiểu được phần nào nỗi thống khổ mà các vận động viên Israel đang phải trải qua: trong quá trình huấn luyện của Đơn vị, đôi khi binh lính bị bắt cóc khi đang nghỉ phép, hay đang đi bộ trên phố trong bộ thường phục và sau đó bị thẩm vấn khắc nghiệt, như thể họ đang nằm trong tay bọn biệt kích Ả Rập thực sự. Khi trụ sở đội nhận được cuộc gọi hãy bắt đầu chuẩn bị cho chuyến bay đến Munich, những chiến sĩ đã theo dõi diễn biến sự kiện suốt cả ngày và biết rõ tầm trọng đại của nhiệm vụ này.
Muki Betser lúc đó là chỉ huy trung đội trong đội đặc nhiệm: “Ehud Barak [thủ tướng tương lai của Israel] là chỉ huy của Đơn vị. Một biệt đội đặc biệt đã được lựa chọn và chúng tôi được giao nhiệm vụ bay đến Munich để giải cứu con tin. Chúng tôi chờ đợi vài giờ; chúng tôi sắp xếp trang thiết bị, thu thập thông tin, hộ chiếu và quần áo thường dân, và về cơ bản là chúng tôi đang chờ đợi diễn biến ở Munich.”
Tuy nhiên, theo Betser, đội biết rằng có những vấn đề có thể ngăn cản việc triển khai của họ ở Munich. “Chúng tôi biết rằng một vấn đề chính trị có thể xảy ra, rằng người Đức có thể từ chối đưa chúng tôi vào thực hiện chiến dịch thay họ.” Người Israel thậm chí còn không chắc liệu người Đức có một đội chống khủng bố đặc biệt tương tự như Sayeret Matkal hay không. “Vào thời điểm đó, chủ đề này còn mới mẻ ở Đức. Chúng tôi không biết chính xác liệu họ có lực lượng đặc nhiệm hay không. Chúng tôi… hy vọng rằng nếu chúng tôi đến đó, nghiên cứu đối tượng và đưa ra một kế hoạch tốt, chúng tôi sẽ có thể tiến hành một chiến dịch thành công.”
Betser và những người lính khác đã chờ đợi cả ngày. “Chúng tôi hy vọng sẽ nhận được câu trả lời tích cực và có thể bay đến đó thực hiện nhiệm vụ này. Nhiều giờ trôi qua, rồi chúng tôi nhận ra rằng cơ hội đó rất mong manh.”
Lời kêu gọi họ hành động đã không bao giờ đến. Mặc dù Đức không có lực lượng chống khủng bố, chính phủ Đức đã từ chối lời đề nghị giúp đỡ của Israel, nói rằng “lực lượng an ninh của họ sẽ giải quyết vấn đề”, theo Betser. Đội Sayeret Matkal, vào thời điểm đó là một trong số ít đơn vị quân đội trên thế giới được huấn luyện chiến thuật chống khủng bố và giải cứu con tin chưa bao giờ rời khỏi Israel.
Một số chính trị gia Đức và các quan chức Bavaria đã phủ nhận việc Israel từng đề nghị giúp đỡ, nhưng Muki Betser vẫn kiên quyết: “Đơn vị giải cứu con tin của chúng tôi đã sẵn sàng hành động. Nhưng chính phủ Đức đã từ chối.”
Zvi Zamir, người đứng đầu cơ quan tình báo Israel, Mossad, cũng nhớ Golda Meir đã nói với ông và một số đồng nghiệp trong nội các rằng Willy Brandt đã từ chối cho phép một nhóm Israel hỗ trợ giải cứu
con tin: “Đã có một cuộc thảo luận tại nội các và… cảm nhận chung là nếu quân đội Đức hoặc bất kỳ ai có khả năng làm tốt ở Đức thì không cần thiết phải cử đội Israel. Và cảm nhận là Thủ tướng Brandt cảm thấy đây là nghĩa vụ của Đức, một phần của việc đăng cai Thế vận hội tại Đức cho thấy sự kiện Olympic này được bảo vệ và điều hành hiệu quả. Và kết quả là quyết định chờ xem người Đức sẽ làm gì.”
Người Israel không thể làm gì khác ngoài việc để người Đức cố gắng cứu các vận động viên của họ. Sau khi buổi thảo luận nội các Israel kết thúc và cuộc họp kết thúc, Zvi Zamir trở về văn phòng ở Tel Aviv để trao đổi với các quan chức cấp cao của Mossad đang theo dõi tình hình ở Munich. Ông vừa trở về được vài phút thì nhận được điện thoại báo rằng Moshe Dayan, Bộ trưởng Quốc phòng huyền thoại của Israel và là kiến trúc sư cho chiến thắng của đất nước trong Cuộc Chiến Sáu ngày năm 1967, đã quyết định bay sang Đức để theo dõi tình hình ở Munich và điều phối việc đáp trả của Israel.
Dayan muốn Zamm đi cùng mình đến Munich cùng với Victor Cohen, một đặc vụ của Tổng cục An ninh (Shin Bet), cơ quan tình báo quốc nội. Cohen, người nói tiếng Ả Rập lưu loát, đã làm việc với Moshe Dayan chỉ vài tuần trước đó, khi ông ta đàm phán với nhóm khủng bố Tháng Chín Đen đã cướp máy bay Sabena. Dayan muốn có chuyên môn và tính bình tĩnh của Cohen.
Ban đầu, kế hoạch là Zamir, Cohen và Moshe Dayan sẽ cùng nhau đến Munich với tư cách là một phái đoàn cấp cao để đàm phán với người Ả Rập và người Đức và giám sát bất kỳ kế hoạch tấn công chống khủng bố nào. Nhưng khi ba người gặp nhau tại sân bay vào đầu giờ chiều, Dayan và Cohen bắt đầu lo ngại về số lượng nhà báo tụ tập xung quanh. Dayan là một nhân vật được người Israel kính trọng, nhưng người Ả Rập lại khinh miệt, và ba người đồng ý rằng nếu quân du kích Tháng Chín Đen ở Munich biết được sự hiện diện của ông, điều đó có thể khuyến khích chúng hành động hung hăng hơn nữa. “Vào phút chót, tôi nghĩ rằng việc Dayan đi cùng chúng tôi là không khôn ngoan”, Cohen nói. “Tướng Dayan chấp nhận ý tưởng của tôi và nói: ‘Được thôi, anh sẽ chỉ bay với Tướng Zamir.’
Dayan đã trao đổi với Golda Meir qua điện thoại, và bà đồng ý rằng Zamir và Cohen vẫn nên bay đến Munich. Theo Zamir: “Tôi nói, ‘Đại sứ đang ở đó,’ nhưng Golda Meir nói, ‘Nhưng mà nếu anh ở đó, anh sẽ nắm được người Đức đang làm gì. Điều quan trọng là chúng ta phải ở đó và xem. . . họ giải cứu đội của chúng ta như thế nào.’ Họ khăng khăng yêu cầu tôi phải có mặt.” Cohen và Zamir cùng nhau
lên đường đến Munich.
Đến 2 giờ chiều, tình hình ở Munich trở nên căng thẳng. các con tin đang đói, và bọn khủng bố yêu cầu gửi thức ăn (“đủ cho hai mươi người”). “Chúng tôi sẽ không ăn,” Issa nói với Graes. Bọn khủng bố cho rằng người Đức có thể tìm cách trộn bất kỳ loại thức ăn hoặc đồ uống nào với ma túy, vì vậy chúng đã tự mang theo thực phẩm dự trữ của mình.
Yêu cầu này tạo cơ hội cho người Đức thực hiện một trong những kế hoạch giải cứu thảm hại hơn của mình. Lúc 2:18 chiều, Manfred Schreiber và Walther Tröger xuất hiện cùng hai sĩ quan cảnh sát, cải trang một cách lố bịch thành đầu bếp mặc bộ áo liền quần trắng muốt, tay xách bốn hộp thức ăn lớn. Một trong hai đầu bếp là chỉ huy của một “đội cảnh sát tấn công” Munich của Schreiber mà Schreiber nghĩ có thể được sử dụng trong bất kỳ cuộc tấn công nào vào tòa nhà, và ông hy vọng bọn khủng bố sẽ không thể tự mình mang tất cả các hộp thức ăn và sẽ yêu cầu sự giúp đỡ của các “đầu bếp”, cho phép họ vào và nhờ đó có cơ hội đánh giá tình hình bên trong. “Đây là lý do tại sao chúng tôi phân phát thức ăn vào ít nhất bốn giỏ, vì vậy chúng tôi cần càng nhiều người càng tốt để mang chúng”, Schreiber nói. Nhưng đó là một nỗ lực ngụy trang đáng thương, và bọn khủng bố thì quá khôn ngoan. Schreiber và Tröger lấy sữa chua từ các hộp và ăn chúng trước mặt Issa để chứng minh thức ăn không bị đầu độc, sau đó Issa từ từ mang từng hộp vào bên trong, từng hộp một.
Thức ăn dường như đã xoa dịu phần nào sự căng thẳng trên phố. Vào lúc 2:40 chiều, theo ghi chép của Stasi, “bọn du kích trông có vẻ mãn nguyện và tự phụ. Trên tầng hai, một tên đang nghiêng người ra ngoài cửa sổ, tắm nắng, hút thuốc liên tục và quan sát đường phố. Ở lối vào số 31 có một máy bán thuốc lá. Một người lính gác, mặc đồng phục màu xanh nhạt, sử dụng máy bán hàng tự động – họ có thể di chuyển tự do quanh khu vực mà không có bất kỳ sự can thiệp nào.”
Đồng hồ điểm từng giây, và chỉ còn mười lăm phút nữa là đến hạn chót 3 giờ chiều, Genscher, Schreiber và Merk lại đi bộ một đoạn dài đến tòa nhà Israel để cầu xin kéo dài thêm hạn chót và cứu sống các con tin Israel. Chắc hẳn đó là một nhiệm vụ gây sốc cho các quan chức Đức, khi phải đàm phán vì mạng sống của những người Israel. Chỉ cần một từ sai, một câu bị hiểu sai, là bọn fedayeen sẽ tỏ ra sẵn sàng sát hại những con tin.
Nhưng Bruno Merk quyết định hành động táo bạo. Ông nói với Issa rằng phía Israel vẫn chưa thu thập được đầy đủ hồ sơ về các tù nhân. Chúng tôi vẫn chưa có gì chắc chắn cả,” ông nói. “Nếu các anh muốn giết những người Israel mà các anh đang giam giữ, chúng tôi không thể làm gì để ngăn cản. Dù các anh có bắn một hay nhiều phát súng trong năm phút nữa, cũng chẳng thay đổi được gì.”
Issa nổi cơn thịnh nộ. Hắn dọa sẽ bắn một trong nhóm con tin trong vòng năm phút. “Các người nghĩ rằng giữa mạng sống của một tên Do Thái và sự tự do của những anh em chúng tôi bị giam giữ ở Israel, chúng tôi sẽ do dự sao?” hắn ta nói một cách giận dữ.
Merk năn nỉ hắn đợi một lát rồi sải bước trở lại phố. Schreiber và Genscher đứng bên cạnh Issa, trong lòng bừng lửa giận.
Chỉ trong vòng hai phút, Merk đã quay lại, theo sau là Mahmoud Mestiri, đại sứ Tunisia tại Tây Đức, và Mohammed Khadif, người đứng đầu Liên đoàn Ả Rập tại Bonn. Đến lượt họ khẩn nài Issa. Mestiri van xin: “Hãy cho người Israel thêm thời gian; hãy cho thế giới thấy rằng người Palestine không hề muốn giết chóc”. Đó là một sự can thiệp có tính quyết định quan trọng.
Issa dừng lại để cân nhắc, rồi đồng ý gia hạn thời hạn đến 5:00 chiều. Tuy nhiên, hắn ta không hề ảo tưởng; Issa biết mình đang bị lừa.
Bọn khủng bố “ngày càng lo lắng hơn”, Walther Tröger xác nhận, “và chúng chắc chắn biết rằng thời gian đang chống lại chúng, và chúng biết hoặc đoán rằng việc kéo dài thời gian là một nỗ lực của phía bên kia -,phía chúng tôi – nhằm chuẩn bị tốt hơn cho quyết định cuối cùng.” Issa thậm chí còn nói với Anneliese Graes rằng hắn không tin tưởng Schreiber và cho rằng người Đức đang “đùa cợt” với hắn.
Vị thủ lĩnh nhóm Tháng Chín Đen dần nhận ra người Israel không hề có ý định thả tù nhân. Đó là một đòn giáng mạnh. Theo cách riêng của mình, chính phủ Israel đã chứng tỏ mình cuồng tín không kém gì bọn khủng bố. Người Đức đang trì hoãn, và Issa biết rằng người của mình chỉ có thể cảnh giác trong một khoảng thời gian hữu hạn.
Nhưng hắn ta có thể làm gì? Tên thủ lĩnh Tháng Chín Đen biết rằng hắn ta không thể duy trì quyền kiểm soát số 31 Connollystrasse trong một thời gian dài; cuối cùng quân Đức sẽ ồ ạt tiến vào tòa nhà, và sau đó cuộc tấn công của họ sẽ thất bại.
Theo Abu Iyad, một giải pháp khả thi đã được đưa ra bởi “một đại sứ quán Ả Rập”, người đã chuyển được một đề xuất đến người Palestine, có thể tạo cơ sở cho một thỏa thuận bí mật giữa tất cả các bên. “Các con tin Israel sẽ được trả tự do và thay thế bằng các tình nguyện viên Đức, và họ sẽ được nhóm fedayeen đưa đến một quốc gia Ả Rập”, Iyad nói. Theo một phần của thỏa thuận, “hai hoặc ba tháng sau”, Israel sẽ bí mật thả khoảng 50 tù nhân. Theo Iyad, một số quốc gia khác đã sẵn sàng đóng vai trò là người bảo lãnh cho thỏa thuận.
Vẫn chưa rõ đề xuất từ Đại sứ quán Ả Rập đã tiến triển đến đâu, và các quan chức cũng như chính trị gia tham gia đàm phán hiện đều phủ nhận mọi thông tin. Tuy nhiên, Abu Iyad mô tả đề xuất này là “hấp dẫn”, và cho rằng nó có lợi thế là vừa làm hài lòng người Palestine vừa giữ thể diện cho chính phủ Golda Meir.
Trong khi nhiều kịch bản đã được ban lãnh đạo Tháng Chín Đen cân nhắc trong quá trình chuẩn bị cho vụ tấn công, đề xuất này dường như đã khiến Issa bất ngờ. Theo Abu Iyad, hắn quyết định kiểm tra xem đề xuất này có được các quan chức cấp cao của Tháng Chín Đen chấp thuận hay không và đã gọi đến số điện thoại của một chiến binh, mật danh “Talal”, ở Tunisia.
“Thật không may cho tất cả những người liên quan, Talal nói trên hiện đang bị giam giữ tại sân bay Tunis vì đã không xin được thị thực trước”, Abu Iyad viết. Một trùng hợp phi thường là người đàn ông trả lời điện thoại ở Tunis cũng có tên là Talal. “Sự hiểu lầm khó tin đã xảy ra khi Issa gọi điện.” Gã Talal lạ lẫm này không hiểu tại sao có người gọi từ Munich và nói ra những câu tối nghĩa, còn Issa ngạc nhiên khi đang nói chuyện với một Talal mà hắn nhận ra mình không hề quen biết và không hiểu những mật khẩu mình sử dụng.
Issa biết điện thoại mình đang dùng có thể đang bị Đức nghe lén, nên hắn ta bỏ cuộc, rồi gọi lại sau đó một lúc. Talal giả lại nhấc máy, lúc này Issa mới chịu bó tay. Hắn nói với nhà ngoại giao Ả Rập, người đã đề xuất ý tưởng đó, rằng đề xuất đã bị bác bỏ.
Jamal Al-Gashey là một chiến binh cấp dưới trong nhóm tấn công, nhưng cậu ta vẫn nhớ rõ những nỗ lực hòa giải khác nhau: “Các đại sứ quán Ả Rập đã làm trung gian, và một trong số họ thông báo với chúng tôi rằng Israel từ chối thả bất kỳ tù nhân Palestine nào và họ rất kiên quyết về điều này, và thay vào đó, họ đề nghị cho chúng tôi 9.000.000 đô la và một lối đi an toàn để thả các con tin … Chúng tôi đã từ chối lời đề nghị đó, vì mục đích nhiệm vụ của chúng tôi là đấu tranh cho quyền của người dân chúng tôi và gây thanh thế cho chính nghĩa chúng tôi, không phải để kiếm tiền.”
Mặc dù Issa ngày càng lo lắng trong khoảng thời gian từ 3 giờ chiều đến 5 giờ chiều, nhưng bề ngoài bọn khủng bố vẫn thể hiện sự tự tin thường thấy. Vào lúc 4 giờ 15 phút chiều, hồ sơ sự kiện của Stasi ghi nhận rằng “Cao bồi” ở tầng một tòa nhà Israel “cười lớn và giơ cao nắm đấm, rõ ràng là anh ta đang cố gắng thể hiện rằng chúng đang trên đường đến chiến thắng. Sau đó, anh ta làm dấu hiệu chữ V bằng cả hai tay, tượng trưng cho chiến thắng.”
Bọn khủng bố biết rằng cả thế giới đang dõi theo chúng. Mọi người đang bị ám ảnh bởi những sự kiện ở Munich, và điều đó hẳn đã tiếp thêm niềm tin: họ là những chiến binh fedayeen đã đạt được mục tiêu quảng bá sự nghiệp của Palestine trên toàn cầu. Ngay cả xung quanh phố Connollystrasse, đám đông ước tính khoảng 75 đến 80 nghìn người vào lúc 4:20 chiều, vừa nhóp nhép nhai dưa cải bắp và xúc xích Đức vừa theo dõi diễn biến của vụ việc. Bên trong tòa nhà, Issa không mấy tự tin. Khi “Cao bồi” đứng trên tầng hai, Issa quyết định xem nên làm gì với các con tin của mình. Có lúc hắn ta
chắc hẳn đã trao đổi với con tin người Israel, vì vào cùng thời điểm này Anneliese Graes tuyên bố một hoặc nhiều con tin đã đề nghị toàn bộ nhóm nên bay đến Cairo và cố gắng giải quyết bế tắc từ thủ đô Ai Cập.
Vào lúc 4:35 chiều, Genscher, Schreiber, Tröger, Merk và một số quan chức Đức khác đi bộ trở lại Connollystrasse đến số 31. Annaliese Graes yêu cầu Issa ra ngoài, và phía Đức bắt đầu những nỗ lực quen thuộc của họ để thuyết phục Issa kéo dài thời hạn lần này của mình sau 5:00 chiều.
Bruno Merk lên tiếng trước, giải thích với Issa rằng chính phủ Israel vẫn chưa đưa ra phản hồi cuối cùng cho những yêu cầu của hắn ta. Ông nói rằng vẫn còn một số thành viên trong nội các cần được thuyết phục. Họ cần thêm thời gian.
Issa biết bọn Đức đang nói dối. “Các người không thể lừa được chúng tôi đâu!” hắn hét lên, dùng ngón tay chĩa vào các viên chức. “Các người đang cố gắng đùa giỡn với chúng tôi!”
Nhưng người Đức cũng đang mệt mỏi. Hans-Dietrich Genscher cắt ngang. “Đức đang làm tất cả những gì có thể,” ông nhấn mạnh. “Tất cả những yêu cầu của anh mà chúng tôi có thể đáp ứng một cách hợp lý đã được giải quyết. Chúng tôi sẵn sàng lắng nghe bất kỳ yêu cầu nào khác của quý vị.”
Issa dừng lại. Thật khó hiểu: lúc thì nóng nảy, lúc lại thụ động. Giờ thì hắn che giấu sự bực bội, thò tay vào túi lấy một điếu thuốc, châm lửa và rít một hơi dài, chậm rãi. “Đợi một chút,” hắn nói với các viên chức bằng tiếng Đức, rồi sải bước trở vào tòa nhà.
Trong vòng hai phút, Issa lại xuất hiện. Hắn nói với các quan chức Đức rằng tình hình đã thay đổi. Bọn khủng bố đã chán ngấy với sự bế tắc, Issa nói, và rồi tuyên bố một trong những con tin đã đề xuất rằng toàn bộ nhóm nên bay đến Cairo và giải quyết khủng hoảng từ đó. Issa thích ý tưởng này. Hắn ta yêu cầu hai máy bay và phải sẵn sàng cất cánh trong vòng một giờ.
Các quan chức Đức tuyên bố Issa sau đó nói với họ rằng nếu Israel không thả tù nhân và đưa họ đến Ai Cập để gặp Tháng Chín Đen tại sân bay, tất cả các con tin sẽ bị hành quyết.
Tuy nhiên, điều quan trọng là Anneliese Graes, người đang đứng gần đó, sau này
tuyên bố rằng Issa đã nói với người Đức rằng anh ta và một tên khủng bố khác đã chuẩn bị chịu giam giữ tại một nhà tù Đức như một “cuộc trao đổi con tin” để mọi việc diễn ra suôn sẻ sau khi những tên khủng bố và con tin còn lại được đưa ra ngoài bằng máy bay. Thủ lĩnh Tháng Chín Đen dường như đang cố gắng tránh đổ máu.
Nhưng người Đức đã kinh ngạc trước đề nghị này. Họ biết rằng Israel sẽ không bao giờ cho phép công dân của mình bị bọn khủng bố đưa ra khỏi Đức. Bối rối, các quan chức đã cố gắng thay đổi ý định của Issa. Mọi phương án đều được cân nhắc, theo Manfred Schreiber.
“Chúng tôi đã đưa ra đủ mọi lời đề nghị,” Schreiber khẳng định. “Chúng tôi đề nghị tiền bạc, chúng tôi đã thử mọi cách trao đổi; chúng tôi cũng nói, vì lý do chiến thuật, rằng họ có thể rời khỏi Đức với điều kiện phải để lại các con tin.” Những nỗ lực giải quyết tình hình thậm chí còn bao gồm cả việc người Đức một lần nữa tự nguyện làm con tin. Genscher nói rằng “ông sẵn sàng đi cùng họ trên chuyến bay, với điều kiện họ phải để lại các con tin.” Những người khác cũng tự nguyện làm
con tin: Schreiber, Tröger, Merk, 10 quan chức tổ chức Thế vận hội Olympic Tây Đức; thậm chí Peter Brandt, con trai của Thủ tướng Đức, đã thực hiện bước đi phi thường khi tự nguyện làm con tin thay cho người Israel. Nhưng mọi lời đề nghị trao đổi đều bị từ chối.
Tiếp theo, Genscher thử một chiến thuật trực tiếp hơn, cảnh báo Issa rằng sẽ rất khó để tìm được hai máy bay có phi công tình nguyện trong khung thời gian yêu cầu. Cuối cùng, Issa đồng ý chỉ cần một máy bay duy nhất, và phía Đức đồng ý sẽ chuẩn bị sẵn sàng cho hắn vào lúc 7 giờ tối.
Genscher, Merk, Schreiber và Tröger di chuyển ra xa Issa một chút để có hội ý riêng. Tất cả đều đồng ý rằng có một điều chắc chắn: chính phủ Đức không bao giờ cho phép người Israel bị bắt cóc khỏi Đức.
Nhóm quay lại và nói với Issa rằng “đối với chúng tôi, thật không thể tưởng tượng được rằng, khi nhớ lại những gì đã xảy ra vào năm 1945, các con tin người Israel lại có thể một lần nữa bị đưa khỏi đất Đức bằng vũ lực”, Manfred Schreiber nhớ lại.
Người Đức nói với Issa rằng họ sẽ chỉ đồng ý với kế hoạch của hắn nếu họ có thể gặp và nói chuyện với các con tin. Các quan chức sau đó tuyên bố họ muốn biết liệu các con tin còn sống hay không và cũng muốn hỏi xem họ có đồng ý rời khỏi Đức cùng những kẻ khủng bố hay không. Tuy nhiên, Anneliese Graes sau này tuyên bố rằng lý do thực sự khiến người Đức muốn gặp các con tin là vì họ không tin lời Issa cho rằng chính người Israel đã đề xuất chuyến bay đến Cairo.
Issa cân nhắc yêu cầu của họ một lúc rồi đồng ý. Hắn ra hiệu lên tầng hai, hét lớn bằng tiếng Ả Rập, rồi Andre Spitzer, người nói tiếng Đức lưu loát, bị đẩy đến cửa sổ tầng hai của tòa nhà chung cư. Hai tay bị trói chặt ra sau lưng, Spitzer trông thật kiêu hãnh nhưng gầy gò. Kehat Shorr đứng nghiêm nghị phía sau anh. Một cuộc trao đổi ngắn ngủi nhưng xúc động bắt đầu giữa Spitzer và các chính trị gia và cảnh sát Đức bên dưới.
Ở Hà Lan, vợ của Spitzer “Tôi, Ankie, đang dán mắt vào bản tin truyền hình trực tiếp: đột nhiên thấy cửa sổ căn hộ nơi họ bị giam giữ làm con tin mở ra và tôi thấy Andre ở phía trước
cửa sổ, tay bị trói ra sau lưng, và họ hỏi anh ấy những câu hỏi. Tất nhiên tôi không nghe được anh ấy nói gì, nhưng sau đó tôi nghe được từ Tiến sĩ Genscher nội dung cuộc trò chuyện.
“Chào các quý ông,” Spitzer lịch sự nói.
“Mọi người ổn chứ? Tình hình các con tin khác thế nào rồi?” Genscher hỏi Spitzer.
“Mọi người đều ổn, trừ một người,” Andre bắt đầu nói, không chịu khuất phục trước tình huống kinh khủng này. Nhưng một tên khủng bố đã dùng báng súng đánh anh để bịt miệng anh lại. Khi anh được phép nói lại để đưa ra một bình luận khó hiểu hơn: “Tất cả các con tin sống sót sau vụ tấn công lúc rạng sáng đều còn sống và trong tình trạng ổn định.”
Genscher hét lại với Spitzer, tuyệt vọng muốn gửi gắm với anh một chút lời trấn an, một chút hy vọng: “Chúng tôi đang làm mọi cách có thể để giải thoát các anh!”
Spitzer bắt đầu bày tỏ lòng biết ơn của mình, nhưng bọn khủng bố đã lôi anh trở lại phòng một cách thô bạo, khuất khỏi tầm nhìn của các quan chức và khán giả truyền hình.
Ankie Spitzer nhớ lại: “Andre rõ ràng đã cố gắng trả lời… Tôi thấy anh ấy không được phép nói … Anh ấy bị đánh bằng báng súng của một tên Palestine … và bị đẩy đi và chúng kéo màn lại. Đó thực sự là lần cuối cùng tôi nhìn thấy anh ấy tận mặt. Thật khủng khiếp.”
Người Đức còn lâu mới hài lòng. Genscher bảo Issa mình muốn nhóm khủng bố cho phép các quan chức tiếp cận các con tin, để có thể nói chuyện với họ.một cách thích hợp. Chỉ khi đó, họ bảo Issa, họ mới cho phép bọn khủng bố và các con tin rời khỏi đất Đức.
Issa không còn lựa chọn nào khác. Lúc đó đã 5 giờ chiều, và sau gần mười tiếng đàm phán, hẳn hắn nhận ra rằng quân mình sẽ sớm mệt mỏi và kiệt sức. Lựa chọn tốt nhất của hắn là đưa toàn bộ nhóm đến một quốc gia Trung Đông thân thiện và hoặc tiếp tục đàm phán, hoặc giết hết con tin Israel rồi trốn thoát.
“Ông Genscher nói rằng ông muốn có một cuộc thảo luận trực tiếp với các con tin Israel”, Walther Tröger nhớ lại, “sau đó Schreiber nói rằng mình cũng muốn đi cùng ông ấy nhưng họ nói ‘Không, ông là cảnh sát, ông không được phép vào.'” Thay vào đó Tröger xung phong. “Tôi nói, ‘Được rồi, vậy thì tôi đi.’ “
Issa đồng ý cho Genscher và Tröger vào, và lúc 5:05 chiều, hai người đàn ông bước qua cánh cửa màu xanh vào tòa nhà Israel. “Chúng tôi lên cầu thang, qua hành lang và cuối cùng cũng đến được căn phòng”, Genscher nói. Hai tên khủng bố cầm súng tiểu liên đang canh gác căn phòng và mở cửa, để lộ ra cảnh tượng thảm sát.
Nằm bất động giữa phòng là xác của Yossef Romano. Anh bị bắn vào háng, gây ra một vết thương khủng khiếp, khiến người vợ góa Ilana của anh tin rằng anh đã bị tra tấn. Gutfreund, người đàn ông cao lớn, bị trói vào ghế, và tám con tin còn lại bị đặt nằm sát nhau trên giường, tay bị trói. Những lỗ đạn in sâu trên tường và máu thấm đẫm sàn nhà. Mùi hôi thối kinh khủng. “Phải nói là một ấn tượng khủng khiếp,” Tröger nhớ lại. “Bức tường đầy máu trong căn phòng đó.”
Khi hai người Đức bước vào, kinh hoàng trước những gì họ đang chứng kiến, chín con tin ngước nhìn lên, ánh mắt lộ rõ vẻ lạc quan tuyệt vọng. Genscher nói: “Hình ảnh căn phòng này sẽ ở lại với tôi cho đến suốt cuộc đời. Tôi sẽ không bao giờ quên những khuôn mặt ấy, đầy sợ hãi nhưng cũng tràn đầy hy vọng.”
Hai người Đức bắt đầu một cuộc thảo luận ngập ngừng bằng tiếng Anh với các con tin Israel, với sự phiên dịch của Tröger. Genscher nhớ lại: “Tôi tự giới thiệu mình là Bộ trưởng Nội vụ và đảm bảo với họ rằng tôi sẽ làm bất cứ điều gì có thể để giúp đỡ họ.” Sau đó, ông lịch sự hỏi các con tin xem họ có được đối xử tốt không và có đói không.
“Họ nói rằng họ được đối xử tốt,” Tröger nói. Tuy nhiên, “cuộc thảo luận hoàn toàn bị lu mờ bởi tâm trạng vô cùng chán nản của các con tin.” Ông tin rằng các con tin lo sợ hai điều. Thứ nhất, tất nhiên, là bọn khủng bố, những kẻ đã không ngại sẵn sàng sát hại bạn bè của họ, nhưng thứ hai là một cuộc tấn công của cảnh sát vào tòa nhà, mà các vận động viên nghĩ rằng sẽ dẫn đến cái chết của họ. Khi Tröger và Genscher hỏi liệu họ có sẵn sàng bay ra khỏi nước Đức, với điều kiện được đảm bảo an toàn nghiêm ngặt hay không, các vận động viên sẵn sàng đồng ý.
Tröger nhớ lại rằng các con tin “rất chán nản và sợ hãi.” “Họ chắc chắn hiểu rằng mình cũng như các người lính, những người Israel đại diện cho đất nước họ… và họ cũng phải ghi nhớ lợi ích và tương lai của đất nước mình, nhưng họ cũng muốn đi đến một giải pháp có thể cứu mạng sống của mình.” Ông nói thêm: “Nhưng họ không mấy hy vọng về mặt đó.”
Sau đó, với vẻ mặt buồn bã, hai người Đức bị buộc phải rời khỏi tòa nhà, bỏ mặc những người Do Thái với số phận mình. Genscher vô cùng xúc động trước những gì ông chứng kiến (“Genscher dĩ nhiên cũng u sầu như tôi vậy,” Tröger nói sau này): “Tôi ra ngoài và một lần nữa xin được làm con tin.”
Ulrich Wegener, phụ tá của Genscher, đã rất ngạc nhiên trước vẻ mặt đau khổ của chính trị gia người Đức khi ông trở về: “Ông ấy bị sốc trước toàn bộ tình cảnh bên trong tòa nhà. Ông ấy rất buồn rầu sau khi trở về. Tôi vẫn còn nhớ. Ông ấy nói, ‘Họ làm thật đấy, không nghi ngờ, anh biết đấy. Họ nói là làm đấy.’ Ông ấy chắc chắn họ là những kẻ cuồng tín; và dĩ nhiên là họ như vậy – Họ nói là làm đấy, chắc chân.
Các quan chức Đức trở về trung tâm quản lý khủng hoảng và ngay lập tức bắt đầu lên kế hoạch cho những việc cần làm tiếp theo. Ưu tiên hàng đầu là nghe Genscher và Tröger báo cáo.
Manfred Schreiber và các cảnh sát Đức khác đang chờ bên ngoài đã yêu cầu Genscher và Tröger ghi lại nơi các con tin bị giam giữ và chính xác là ai đang canh gác họ.
Schreiber giải thích: “Chúng tôi muốn có một ý tưởng chính xác về trạng thái tinh thần của người Israel, chúng tôi muốn có thông tin đáng tin cậy về số lượng con tin, chúng tôi muốn xác định có bao nhiêu thủ phạm, tình trạng chung của ngôi nhà như thế nào, liệu có cơ hội thuận lợi cho một cuộc tấn công vào bên trong ngôi nhà hay không.”
Sự kiện quan trọng nhất cần xác định là số lượng các tên khủng bố. Cả ngày hôm đó, người ta đồn đoán về số lượng người Palestine đang đối đầu với hàng ngũ cảnh sát Munich đông đảo đang cắm trại bên ngoài Connollystrasse.
Việc xác định con số chính xác là rất quan trọng nếu một cuộc tấn công được tiến hành nhằm vào những kẻ khủng bố bên trong hoặc bên ngoài tòa nhà. Điều quan trọng là, hai quan chức Đức dường như đã nói với Schreiber rằng họ chỉ nhìn thấy bốn, có lẽ năm tên khủng bố. Ủy ban quản lý khủng hoảng coi thông tin này là một tuyên bố chắc chắn, và sau đó cảnh sát đã dựa vào đó khi chuẩn bị giải cứu con tin.
Genscher và Tröger còn có tin tức khác muốn thông báo khi trở về: họ đã nhìn thấy xác chết đẫm máu nằm giữa phòng. Việc xem xét kỹ lưỡng các bức ảnh của đội chụp trước đó trong cuộc thi đã xác nhận đó chính là Yossef Romano.
Trở lại Israel, nỗi đau khổ tận cùng của Ilana Romano đã bắt đầu. Một cảnh sát đến nhà cô với một thành viên của Ủy ban Olympic. Tin tức về vụ ám sát Yossef cuối cùng từ Munich đã lan truyền khắp nơi.
“Yossef đang trong tình trạng nguy kịch”, viên cảnh sát nói với Ilana.
Cô biết anh đang chuẩn bị cho cô đón nhận điều tồi tệ nhất. Ilana nhìn thẳng vào mắt anh ta và nói đơn giản: “Hãy nói cho tôi biết sự thật.”
Không thể chối cãi thêm nữa. “Cô nói đúng, Ilana,” viên cảnh sát khẽ nói, “sự thật kinh hoàng. Yossef đã bị sát hại. Trong buổi sáng,. Moshe rồi đến Yossef.”
“Yossef có đau đớn không?” Ilana lặng lẽ hỏi.
Cô nhớ lại: “Anh ấy nói ‘Không’, nhưng cô không tin anh ấy dù chỉ một phút.” Cô bị sốc và bác sĩ đã đến tận nhà cho thuốc an thần Valium và tiêm thuốc. Cô trải qua 24 giờ tiếp theo dưới ảnh hưởng của thuốc an thần mạnh.
Genscher và Tröger cũng có tin tức cho Ankie Spitzer. Andre đã chuyển lời nhắn cho vợ qua Genscher, và Bộ trưởng Ngoại giao Đức rất muốn chuyển lời nhắn này. Eliashiv Ben Horin, đại sứ Israel tại Tây Đức, đã đích thân gọi điện cho Ankie để báo tin.
“Andre đã nhắn tin rằng tôi không nên lo lắng về kết quả của toàn bộ thử thách này”, Ankie Spitzer tiết lộ, “rằng anh ấy biết rằng cuối cùng mọi chuyện sẽ kết thúc trong hòa bình và chúng tôi sẽ lại ở bên nhau. Và rồi khi nhìn lại, có lẽ chúng tôi sẽ cười về việc đó, về toàn bộ chuyện ngớ ngẩn này.”
“Tôi rất ngạc nhiên”, cô nói thêm, “chính anh ấy bị bắt làm con tin mà lại bảo tôi đừng lo lắng”. Andre kết thúc tin nhắn của mình bằng những lời lẽ yêu thương tới Ankie và con gái Anouk.
Ngay khi Ankie đang nhận được tin nhắn của chồng từ Munich thì bên trong số 31, Issa đang chuẩn bị cho đội mình rời đi Trước chiến dịch, các thủ lĩnh Tháng Chín Đen đã đưa cho đội một danh sách các quốc gia mà họ nên cố gắng đến đó với con tin nếu Israel không chấp nhận yêu cầu của họ. Đầu tiên trong danh sách là Ai Cập, “và nếu không thể thì là Maroc”, Jamal Al-Gashey nói. “Ý tưởng là đến một quốc gia Ả Rập lớn, có ảnh hưởng và có quan hệ tốt với phương Tây, để sau đó có thể đàm phán với phương Tây, vốn cũng có quan hệ tốt với Israel, nhằm đạt được thỏa thuận thả tù nhân Palestine khỏi nhà tù Israel.”
Người Đức không hề có ý định cho phép những kẻ khủng bố rời khỏi đất nước cùng với các con tin; chính phủ Israel đã nghiêm cấm điều này. Tuy nhiên, một số quan chức Đức đã nói dối Issa rằng họ đang bắt đầu lên kế hoạch cho lộ trình rời khỏi đất nước của hắn. Issa dường như đã tin vào lời đề nghị an toàn của họ. “Genscher đã đảm bảo rằng chính phủ Đức sẽ cho phép chúng tôi rời khỏi Đức cùng với các con tin và đưa họ đến một quốc gia Ả Rập”, Al-Gashey tuyên bố. Theo Walther Tröger, người Đức kiên quyết không cho phép bọn khủng bố đưa người Israel ra khỏi đất nước: “chúng tôi sẽ cố gắng tạo ấn tượng với bọn khủng bố rằng chúng tôi sẽ để chúng bay khỏi đất nước nhưng sẽ tìm mọi cách để giết chúng hoặc đưa chúng vào tù trước khi chúng có thể rời khỏi Đức.” Cuối cùng, người Đức đã bắt đầu một nỗ lực nghiêm túc đầu tiên để giải cứu người Israel bằng vũ lực.
Kế hoạch tấn công vào số 31 phố Connollystrasse đã được triển khai ngay cả trước khi Genscher và Tröger quay trở lại tòa nhà của Israel. Đến 4:50 chiều, khoảng mười phút trước khi Andre Spitzer được đưa đến cửa sổ để nói chuyện với Genscher, hàng chục sĩ quan Đức đã mặc đồ thể thao và rón rén lên mái nhà Connollystrasse nhìn xuống để chuẩn bị cho một cuộc tấn công có thể xảy ra vào ngôi nhà. Tin tức từ Genscher và Tröger rằng có tối đa năm tên khủng bố bên trong là một thông tin tình báo quyết định. Một nhóm cảnh sát Munich đã được tóm tắt về sơ đồ bố trí các ống thông gió và được lệnh lẻn vào qua các ống này để tiêu diệt hoặc bắt giữ những tên khủng bố.
Quá trình lựa chọn cho nhiệm vụ liều lĩnh nhất này lại rất thô sơ: “Họ tuyển chọn thành viên, hỏi đã từng bắn súng hay gì chưa? Chỉ có vậy thôi, họ chưa từng được đào tạo bài bản, chưa gì cả”, Ulrich Wegener nói.
Heinz Hohensinn, một thanh tra cảnh sát 30 tuổi, là một trong những sĩ quan được giao nhiệm vụ phát động vụ tấn công. Là một thành viên cấp cao của Nhóm Truy lùng Đặc biệt Munich (Sonderfahndung), vốn quen với việc chống tội phạm có tổ chức, Hohensinn đã có mặt tại Connollystrasse từ lúc 7 giờ sáng. Anh nhớ lại: “Chúng tôi, tức là, Nhóm Truy lùng Đặc biệt, được coi là đơn vị có đủ năng lực nhất để giải quyết vấn đề, bởi vì chúng tôi được huấn luyện chiến đấu tay đôi.” Cùng với 12 đồng đội trong nhóm, anh trèo lên mái nhà liền kề và phía trên số 31 phố Connollystrasse để chuẩn bị cho cuộc tấn công, được đặt mật danh lạc quan là Chiến dịch Ánh Dương. “Chúng tôi được trang bị bộ đồ huấn luyện, áo giáp, súng máy và súng lục ổ quay thông thường. Mục tiêu của hành động này là tấn công sau khi phát mật lệnh “Sonnenschein [Ánh Dương”], Thanh tra thông báo. Sau đó, chúng tôi sẽ phải chui vào các ống thông gió và giải cứu con tin. Chúng tôi đã mở nắp các ống thông gió rồi.”
Nhóm đã dành nhiều giờ để thu thập và nghiên cứu sơ đồ tòa nhà. “Nhưng chúng tôi không biết chính xác vị trí của bọn khủng bố trong tòa nhà. Chúng tôi đã có sơ đồ về vị trí các ống thông gió, biết cách thoát ra ngoài, nhưng lúc đó chúng tôi không biết vị trí của kẻ thù.”
Hohensinn và các sĩ quan khác rất hoài nghi về khả năng thành công của họ. Những chiến binh, anh nói, đã đồng ý “làm bất cứ điều gì có thể để cứu các con tin Israel, những vận động viên hoàn toàn vô tội, và giảm thiểu tối đa lượng máu đổ”, nhưng anh tin rằng “đó chắc chắn sẽ là một nhiệm vụ tự sát đối với chúng tôi”.
Peter Jennings của đài truyền hình ABC nhớ lại cảnh đã theo dõi từ ban công của phái đoàn Ý đối diện với tòa nhà Israel khi bình sĩ Đức tiến vào vị trí: “Tôi nhớ khi người Đức trông như thể họ sắp phái đến một đội biệt kích và cố gắng đột nhập vào 31 từ trên xuống; tôi nhớ mình đã cảm thấy rất mạnh mẽ rằng chuyện này có thể sẽ kết thúc tồi tệ.”
Đó là một giai đoạn vô cùng căng thẳng. Hàng ngàn khán giả, theo dõi hoạt động của cảnh sát từ một mô đất ngay bên ngoài hàng rào, trở nên kích động; một số người bắt đầu la hét ủng hộ các sĩ quan, trong khi số khác hét lên những đề xuất chiến thuật như thể họ đang xem một sự kiện thể thao (“Nằm xuống! Nằm xuống!”). Ép sát vào hàng rào, một nhóm thanh niên Do Thái biểu tình trong nước mắt, cầm biểu ngữ phản đối hành động bắt cóc con tin, bắt đầu cất tiếng hát “Chúng ta Sẽ Vượt qua” và quốc ca Israel “Hatikvah” (“Hy vọng” trong tiếng Do Thái).
Nhưng vẫn còn rất nhiều khán giả đang theo dõi nhóm cảnh sát chuẩn bị tấn công. Hàng chục đoàn làm phim truyền hình đã chĩa máy quay vào cảnh sát. “Họ đã chọn đúng góc quay để ghi hình chúng tôi đứng đó, sẵn sàng xông vào tòa nhà”, Heinz Hohensinn nói.
Cuối cùng, một chỉ huy Đức nhận ra rằng khán giả truyền hình có thể thấy đội cảnh sát di chuyển vào vị trí và ngăn chặn một thảm họa. “Chúng tôi đã chờ đợi và chờ đợi trên mái nhà,” Hohensinn nhớ lại, quên đi mình phải đảm bảo an toàn cho các con tin “vì sau này chúng tôi mới biết rằng – trên tòa nhà của người Đông Đức khi đó – có một đội làm phim TV đang quay phim và phát sóng trực tiếp các sự kiện trên mái nhà, bao gồm cả cảnh chúng tôi đứng đó, sau khi đã tháo nắp ống thông gió và sẵn sàng xông vào tòa nhà để bắt đầu cuộc tấn công… Những hình ảnh đó đã được phát sóng trên toàn thế giới, bao gồm cả nhà tôi, nơi vợ tôi nhìn thấy tôi lo lắng ngồi và trèo lên mái nhà.”
Bọn khủng bố cũng đang theo dõi các sự kiện diễn ra xung quanh. Issa ngừng triển khai kế hoạch rút đi cho đồng bọn của mình và được nhìn thấy đang quan sát mái nhà, trong khi đầu của một tên khủng bố khác liên tục nhô ra khỏi cửa sổ bên dưới Hohensinn để kiểm tra xem có cảnh sát nào không.
Issa chạy xuống cầu thang đến cửa trước và hét vào mặt các viên chức bên ngoài rằng nếu cảnh sát không rút lui ngay lập tức, hắn ta sẽ đích thân sát hai con tin. “Sau đó, tất nhiên chúng tôi phát hiện ra rằng có một chiếc TV trong mỗi phòng của các vận động viên và bọn khủng bố đã có thể theo dõi diễn biến trên mái nhà trực tiếp trên TV,” Hohensinn cho biết.
Schreiber không còn lựa chọn nào khác ngoài việc tuân thủ. Lúc 6:10 chiều, các xạ thủ bắt đầu lui xuống. Hohensinn nói: “Chúng tôi không được thông báo về tình hình thực tế của cuộc đàm phán khi chúng tôi ở trên nóc nhà. Chúng tôi chỉ được thông báo qua máy truyền tin là phải rời khỏi nóc nhà ngay lập tức. Cảm ơn Chúa vì toàn bộ sự việc đã bị hủy bỏ, nếu không hẳn sẽ có hậu quả thảm khốc cho chúng tôi. Tôi rất vui và biết ơn Chúa vì chúng tôi không bao giờ nhận được mật lệnh Sonnenschein vì nếu có thì tôi không chắc mình có thể ngồi đây hôm nay hay không. Chúng tôi coi toàn bộ sự việc như một nhiệm vụ tự sát. Chúng tôi hoàn toàn không được huấn luyện để chống khủng bố.”
Ngay khi Hohensinn và các sĩ quan Đức khác ra khỏi mái nhà phía trên tòa nhà Israel, bọn khủng bố bắt đầu thay đổi tâm trạng rõ rệt. Chỉ vài phút sau, Issa đã ra ngoài trò chuyện với Graes. Hắn ta mời cô một điếu thuốc và hai người trao đổi thân mật trong mười phút, rồi Issa ăn ngấu nghiến một quả chuối và mời Graes một quả.
“Anh ta ăn một quả chuối và đưa cho cô ấy một quả”, biên bản ghi chép sự kiện của Stasi viết. “Khi ăn xong, họ ném vỏ chuối xuống cầu thang, nhưng tên thủ lĩnh đi vào trong, nhặt vỏ chuối lên và mang đi.” Đối với những ai đang chứng kiến, đó là một cảnh tượng kỳ lạ.
Chỉ sau khi Chiến dịch Ánh Dương thất bại, cảnh sát mới thừa nhận rằng một cuộc tấn công giải cứu bên trong tòa nhà Israel là bất khả thi. Bọn Ả Rập cố thủ quá kỹ. Tòa nhà là một mê cung hành lang, bất kỳ hành lang nào cũng có thể chứa bom hoặc một tên khủng bố vũ trang hạng nặng. Cuộc bao vây sẽ chấm dứt khi nhóm Palestine ra khỏi ngôi nhà, vì vậy cảnh sát Munich bắt đầu vạch ra kế hoạch tấn công bọn khủng bố khi chúng di chuyển từ Làng Olympic đến chiếc máy bay mà chúng đã yêu cầu.
Tuy nhiên, chính phủ Đức tại Bonn vẫn tuyệt vọng tìm cách tránh đổ máu thêm nữa. Thủ tướng Brandt quyết định đưa ra một nỗ lực cuối cùng cho một giải pháp hòa bình và cố gắng gọi điện cho nhà lãnh đạo Ai Cập, Tổng thống Sadat, để làm trung gian cho một thỏa thuận có thể mang lại tự do cho các con tin. Nhưng Sadat thậm chí không trả lời điện thoại, và Brandt đành phải nói chuyện với Thủ tướng Ai Cập, Aziz Sidky. “Tôi đã cố gắng nhấn mạnh với ông ấy rằng việc giải quyết vấn đề mà không gây thêm tổn thất nhân mạng là vì lợi ích chung của chúng ta”, Brandt viết sau đó. “Tôi hỏi liệu những chiếc máy bay mà bọn khủng bố yêu cầu cho chúng và các con tin có thể hạ cánh xuống Cairo hay không. Liệu có thể tách chúng ra khỏi các con tin tại thủ đô Ai Cập hay không? Sidky không đồng ý. Tôi đã mất công vô ích khi chỉ ra rằng thiệt hại nghiêm trọng hơn nữa sẽ gây ra hậu quả cho người Ả Rập. Tôi được thông báo thẳng thừng rằng Cairo không muốn dính líu gì đến ‘những người đó’. “
Aziz Sidky lại đưa ra một phiên bản hoàn toàn khác về sự việc. Sidky cho rằng Brandt đã yêu cầu mình đảm bảo tuyệt đối rằng nếu các con tin được đưa đến Cairo, họ sẽ không bị tổn hại. Sidky nói với Brandt rằng ông ta không thể đảm bảo tuyệt đối (xét cho cùng, ông ta không kiểm soát được Tháng Chín Đen), nhưng sẽ làm hết sức mình để đảm bảo an toàn cho các con tin. Việc Sidky không thể đưa ra điều không thể – việc đảm bảo an toàn – đồng nghĩa với việc người Đức không thể cho phép người Israel rời đi. Các quan chức Đức sau đó đã cố gắng phóng đại mối đe dọa tiềm tàng đối với các con tin nếu họ bị đưa đến Ai Cập, có thể là để tránh làm mất mặt chính phủ Israel, vốn đã phủ quyết mọi đề xuất chuyển các vận động viên đến Cairo. Một chính trị gia cấp cao của Đức sau đó nói rằng nếu con tin Israel đến Cairo thì “họ chắc chắn chết”. “Làm sao ông ta dám khẳng định chính phủ Ai Cập sẽ để cho các con tin bị thảm sát?” Sidky giận dữ phản đối. “Bất kỳ người sáng suốt nào cũng sẽ phải nhận ra mình sai. Nếu tôi chấp nhận giúp đỡ, thì tôi làm vậy để cứu mạng chứ không phải để giết con tin. Chúng tôi muốn cứu mạng con tin. Thực tế là chính phủ Đức đã chọn một cách khác. Mọi người đều phải chết, để họ có thể loại bỏ vấn đề.”
Cố vấn Ai Cập Magdi Gohary cũng tuyên bố rằng ông đã được thông báo rằng chính phủ Ai Cập “sẵn sàng cho phép những kẻ khủng bố Palestine và con tin của chúng hạ cánh xuống Cairo, và họ sẽ cố gắng tách chúng ra để đưa các con tin an toàn trở về Israel. Kế hoạch này đã không được thực hiện.” Gohary tin rằng Brandt đã yêu cầu chính phủ Ai Cập đảm bảo chắc chắn rằng các con tin sẽ không bị tổn hại, một yêu cầu bất khả thi. “Các bạn chỉ có thể hứa sẽ làm hết sức mình, chứ không thể đảm bảo mọi việc sẽ diễn ra như dự định,” Gohary nói. Sadat được cho là đã rất tức giận trước thảm họa này đến mức ông thậm chí còn trì hoãn, và gần như cố tình hoãn lại, lễ nhậm chức của đại sứ Đức mới tại Ai Cập.
Trong mọi trường hợp, Brandt không nhận được sự giúp đỡ từ Ai Cập và việc Sadat từ chối xem xét giải quyết tình hình đã khiến cuộc khủng hoảng chuyển biến không thể tránh khỏi thành xung đột bạo lực.
Các quan chức cấp cao hiện đã thừa nhận riêng tư rằng đây chính là lúc họ tin chắc rằng cuộc khủng hoảng gần như không thể kết thúc mà không đổ máu. Đó là một khoảng thời gian thống khổ đối với phái đoàn Israel, đang rất lo sợ điều tồi tệ nhất. “Chúng tôi chẳng biết gì cả”, Esther Roth nói. “Lúc đó, chúng tôi nhận được những thông điệp khác nhau. Chúng tôi không biết điều gì là sự thật và điều gì là sai sự thật.” Các quan chức Đức đã tập hợp đoàn vận động viên Israel lại trong một căn phòng và cung cấp cho họ thêm thức ăn, quần áo, một chiếc tivi và một phiên dịch viên tiếng Do Thái. Nỗi đau khổ của người thân họ còn tồi tệ hơn. Phân tán khắp thế giới, họ chỉ có thể chờ đợi tin tức. “Tôi cả ngày theo dõi những diễn biến,” Ankie Spitzer nói. Cô nhớ rằng phần khó khăn nhất của nỗi chờ đợi tra tấn, chính là những tối hậu thư. Đầu tiên là 9 giờ sáng, sau đó là buổi trưa, và suốt thời gian đó, các gia đình đều nghĩ rằng bọn khủng bố “sẽ bắt đầu sát hại người Israel một cách có hệ thống.” “Rồi trưa trôi qua và thời hạn chót cũng trôi qua. Vậy là họ lại đưa ra tối hậu thư lúc ba giờ chiều, rồi năm giờ chiều, rồi bảy giờ. Và đó là phần khó khăn nhất của việc chờ đợi, để xem liệu họ có làm gì không . . . Liệu họ có bắn từng người Israel một hay không.” Khi từng phút trôi qua hướng đến một thời hạn chót khác, bà nói, “nó giống như đang chết dần từng chút một.”