CÂU CHUYỆN ĐẦY ĐỦ VỀ CUỘC THẢM SÁT TẠI THẾ VẬN HỘI MUNICH 1972 VÀ CHIẾN DỊCH BÁO THÙ CỦA ISRAEL “CƠN THỊNH NỘ CỦA CHÚA”

SIMON REEVE
Trần Quang Nghĩa dịch
2 Tháng Chín Đen
Phe Tháng Chín Đen hầu như không được thế giới phương Tây biết đến trước vụ tấn công Munich, khiến nó vụt trở nên khét tiếng toàn cầu. Nhưng Munich không phải là lần đầu tiên Tháng Chín Đen xuất hiện trên trường quốc tế. Nhóm này đã nổi lên vào ngày 28 tháng 11 năm 1971, với vụ tấn công vào Wasfi Tell, Bộ trưởng Jordan 52 tuổi.
Tell đang ở Ai Cập, trở về phòng tại Khách sạn Cairo Sheraton sau khi thưởng thức bữa trưa thịnh soạn do Abdul Khalek Hassouna, Tổng thư ký Liên đoàn Ả Rập, chiêu đãi. Ông bước ra khỏi chiếc limousine bọc thép, chào lại người bảo vệ ở cửa và thong thả bước qua cửa khách sạn vào sảnh.
“Tôi thấy ông ta bước ra khỏi xe,” Essat Rabah, một sát thủ Tháng Chín Đen đang đợi cùng một biệt đội ám sát nhỏ ở sảnh khách sạn Sheraton, cho biết, “và khi ông ta mở cửa, tôi đã bắn năm phát súng lục vào ông ta.”¹ Tell thò tay vào áo khoác để tìm khẩu súng của mình, nhưng ngã ngửa ra sau và chết trên sàn đá cẩm thạch.
Monzer Khalifa, một thành viên đội ám sát của Rabah, lập tức cúi xuống và liếm sạch máu chảy ra từ vết thương trên ngực Tell. “Tôi tự hào! Cuối cùng tôi cũng làm được rồi”, Khalifa tuyên bố sau khi nhóm của hắn ta bị cảnh sát Ai Cập bắt giữ. “Chúng tôi đã truy đuổi ông ta suốt sáu tháng. Chúng tôi đã trả thù một kẻ phản bội. Chúng tôi muốn ăn hắn vào bữa sáng nhưng lại phải ăn hắn vào bữa trưa.”
Đó là một cuộc tấn công được lên kế hoạch kỹ lưỡng. Khalifa và Rabah đã bay từ Beirut đến và ngồi bình thản ở sảnh, ăn bánh mì kẹp thịt và uống Coca-Cola, chờ Tell. Khi bọn sát thủ bỏ chạy và nạn nhân của chúng nằm chết trên sàn, vợ Tell ôm xác chồng. “Tụi bây có vui không, hở bọn Ả Rập?” bà hét vói theo. “Palestine đã tận mạt! Bọn Ả Rập là đồ khốn nạn!”
Các chính phủ ở Trung Đông ban đầu nghĩ rằng vụ ám sát là một cuộc tấn công đơn lẻ của một nhóm nhỏ những kẻ cuồng tín trẻ tuổi, sẽ sớm biến mất. Họ đã nhầm. Nhiều du kích của Tháng Chín Đen chắc chắn còn trẻ, nhưng họ không có ý định biến mất vào quên lãng. Trong vòng ba tuần sau cái chết của Wasfi Tell, Tháng Chín Đen chuyển sự chú ý của họ sang London và một nhân vật ủng hộ thân cận của Vua Hussein của Jordan, Zaid el Rifai, đại sứ Jordan tại đó.
Trong một vụ tấn công trắng trợn khác, một tay súng đứng tại đảo giao thông ở ngã tư đường Campden Hill và đường Duchess of Bedford’s Walk ở Kensington đã rút một khẩu súng Sten từ dưới áo mưa và ria vào chiếc xe Daimler của đại sứ khi nó đang chạy qua trên đường đến đại sứ quán Jordan. “Tôi không thể tin được,” William Parsons, một nhân viên điện lực, người đã chứng kiến vụ tấn công. “Anh ta cặp súng ngang hông, bóp cò và bắn khoảng 30 viên đạn. Cảnh tượng giống như một cảnh trong phim gangster Chicago vậy.”
Những viên đạn xuyên qua xe, găm vào tay phải của el Rifai, làm vỡ cửa sổ, và chiếc xe đâm vào bức tường ven đường. Tên sát thủ nhảy lên một chiếc xe đang chực sẵn và tẩu thoát. Thật kỳ diệu, el Rifai đã sống sót. Từ trụ sở ở Beirut, nhóm Tháng Chín Đen đã lên tiếng nhận trách nhiệm.
Phương Tây thường coi những vụ tấn công man rợ như vậy là ghê tởm, và coi thủ phạm là “những kẻ khủng bố độc ác”. Nhưng nguồn gốc của nỗi căm phẫn và thất vọng đã sinh ra Tháng Chín Đen, dẫn đến vụ ám sát Wasfi Tell và vụ tấn công ở Munich, đã ăn sâu vào tận gốc rễ của cuộc tranh chấp giữa người Israel và người Palestine qua nhiều thế kỷ. Thật khó có thể hiểu được nỗi thống khổ mà người Israel phải chịu đựng khi Tháng Chín Đen chiếm đóng số 31 Connollystrasse, hay nỗi tuyệt vọng của bọn khủng bố Munich nếu không hiểu được thảm kịch lịch sử này của cả hai bên.
Bất kỳ biên niên sử nào về câu chuyện của họ cũng phải quay ngược lại hàng ngàn năm, từ khi Vua David (trị vì khoảng năm 1000-962 TCN) đánh bại các bộ lạc lân cận và những phe nhóm Do Thái đồng hương, chinh phục Jerusalem, và lần đầu tiên biến thành phố trung lập này thành thủ đô của mình. Người Do Thái sống trong khu vực này thêm một ngàn năm nữa cho đến khi họ bị người La Mã đàn áp và sau đó bị buộc phải di tản. Theo một số tài liệu, hơn nửa triệu người Do Thái đã bị người La Mã giết hại và gần một ngàn ngôi làng bị phá hủy sau khi người Do Thái nổi dậy chống lại lệnh cấm tục cắt bao quy đầu và thi triển kế hoạch xây dựng một thuộc địa La Mã trên địa điểm Jerusalem vào năm 132 SCN. Một số người Do Thái di cư về phía đông và phía nam, nhưng phần lớn di cư về phía bắc vào Tây Âu và Đông Âu. Họ hình thành nên Cộng đồng Do Thái lưu vong, một dân tộc bị nô lệ, gắn bó bởi tôn giáo và lịch sử. Bị trục xuất khỏi Anh năm 1290, khỏi Pháp năm 1306, khỏi Tây Ban Nha năm 1492, nhiều người Do Thái đã bị ngược đãi ở bất cứ nơi nào họ đặt chân đến định cư. Trong khi các gia đình sống sót nhớ những câu chuyện về quá khứ và vinh quang của Jerusalem, thủ đô của một vùng đất mà phần lớn Cộng đồng Do Thái lưu vong coi là quê hương của họ – thì những dân tộc khác đã biến lãnh thổ đó thành của riêng mình.
Cuộc chinh phạt Palestine của La Mã được tiếp nối bằng sự ra đời của Tiên tri Muhammad vào năm 570 SCN và sự khai sinh Hồi giáo. Người Ả Rập Hồi giáo đã tràn ngập khắp bản đồ thế giới vào thế kỷ thứ bảy, tràn ra khỏi bán đảo Ả Rập và tạo nên một đế chế rộng lớn trải dài từ Ấn Độ ngày nay đến Tây Ban Nha và miền Nam nước Pháp. Vào thời điểm những Thập Tự Quân Cơ Đốc giáo đến Đất Thánh, người Ả Rập đang sống trong thời kỳ hoàng kim của khám phá, khoa học và nghệ thuật.
Hai bên đánh nhau gần hai trăm năm trước khi cuối cùng người Cơ đốc giáo bị đánh bại. Sau một thời gian bị Ai Cập cai trị và Mông Cổ xâm lược, Palestine rơi vào tay người Thổ Nhĩ Kỳ Ottoman, những kẻ đã đến vào đầu thế kỷ 16, cuối cùng chiếm được hầu hết ngoại trừ vùng trung tâm sa mạc của Ả Rập Xê Út. Người Ả Rập Palestine đã kiệt quệ vì hàng thế kỷ bị Thổ Nhĩ Kỳ cai trị. Trong một thời gian, khi Napoleon Bonaparte đến Cairo vào năm 1798 với một đội học giả nhỏ, người Ả Rập bắt đầu tìm lại và khôi phục lịch sử và bản sắc của họ. Nhưng phần còn lại của châu Âu đã đi theo Napoleon, và gần như không có sự thống nhất nào trong chủ nghĩa dân tộc toàn Ả Rập để ngăn chặn các thế lực nước ngoài dễ dàng xâm nhập và nắm quyền kiểm soát khu vực. Các nhà cai trị Ả Rập thích thú với việc duy trì quyền lực trên các lãnh địa nhỏ bé của mình và hăng hái ký kết các thỏa thuận thương mại béo bở với các công ty phương Tây. Người Ả Rập chậm chạp nhận ra rằng đất đai của họ đang rơi vào tầm ảnh hưởng của các thương gia và chính phủ châu Âu. Còn nhiều điều tồi tệ hơn nữa sẽ đến.
Giữa lúc chủ nghĩa bài Do Thái lan tràn khắp Châu Âu và Nga, cuối thế kỷ 19 chứng kiến sự ra đời của Chủ nghĩa Phục quốc Do Thái, một phong trào tìm kiếm sự thành lập một nhà nước Do Thái, một nơi mà người Do Thái được tự do khỏi sự áp bức. Cuộc họp đầu tiên của Đại hội Quốc tế những người theo chủ nghĩa Phục quốc Do Thái được tổ chức tại Basel, Thụy Sĩ, vào năm 1897, và người ta sớm nhận ra rằng, mặc dù các địa điểm khác đã được xem xét, bao gồm Libya, Uganda và Argentina, người theo chủ nghĩa Phục quốc Do Thái vẫn muốn trở về Palestine và xây dựng một nhà nước Do Thái trên “miền đất hứa” của mình.
Ban đầu, hầu hết người Ả Rập không coi trọng chủ nghĩa phục quốc Do Thái; trước năm 1880, Palestine là nơi sinh sống của chưa đến 25.000 người Do Thái, phần lớn sống ở Jerusalem. Tuy nhiên, các doanh nhân Do Thái giàu có ở châu Âu đã bắt đầu vận động mạnh mẽ để thành lập một nhà nước Do Thái ở Palestine, và họ đã tìm được sự ủng hộ ở Washington và châu Âu. Đến năm 1914, có khoảng 85.000 người Do Thái ở Palestine (với 13.000 người định cư tại 43 khu định cư nông nghiệp Do Thái), mặc dù con số này đã giảm gần một nửa trong Thế chiến Thứ nhất.
Vào ngày 2 tháng 11 năm 1917, Arthur Balfour, bộ trưởng ngoại giao Anh, đã chính thức đồng ý hỗ trợ việc thành lập một nhà nước Do Thái trong một bức thư dài 117 từ gửi cho Lord Rothschild, người đứng đầu chi nhánh Anh của gia đình ngân hàng Do Thái quốc tế. Trong mắt người Ả Rập, “Tuyên bố Balfour” là một sự phản bội hoàn toàn. Chiến tranh Thế giới Thứ nhất đang diễn ra ác liệt, và dưới thời Đại tá T. E. Lawrence (Lawrence xứ Ả Rập), nhiều người Ả Rập đã chiến đấu vì nước Anh chống lại người Thổ Nhĩ Kỳ, tin rằng hành động của họ sẽ dẫn đến sự độc lập khỏi ách cai trị của chế độ Ottoman.
Palestine nằm dưới sự quản lý của Anh sau khi chiến tranh kết thúc, và sự bất mãn của người Ả Rập càng tăng lên khi làn sóng người Do Thái nhập cư tiếp tục đổ xô đến. Những kẻ khủng bố Ả Rập sớm bắt đầu tấn công các khu định cư Do Thái, và người Do Thái sống ở các quốc gia Ả Rập khác cũng bị khủng bố và sát hại.
Khi Chiến tranh Thế giới Thứ hai bùng nổ năm 1939, nhiều nhà lãnh đạo Ả Rập đã nhìn thấy khả năng chiến thắng của Đức như một cú hích tiềm năng cho khát vọng dân tộc của họ. Ngược lại, hầu hết những người theo chủ nghĩa phục quốc Do Thái ngay lập tức đứng về phía Đồng minh và bắt đầu lên kế hoạch xem chiến thắng của Đồng minh có thể gia tăng cơ hội thành lập một nhà nước Do Thái mới như thế nào. Tuy nhiên, các nhóm khủng bố Do Thái mới nổi đã bắt đầu xuất hiện, quấy rối người Anh (vì chính quyền Anh đã áp đặt các hạn chế về nhập cư và mua đất vào năm 1939 để xoa dịu người Ả Rập, ngay cả khi các nhà lãnh đạo chính trị theo chủ nghĩa phục quốc Do Thái vận động thành lập nước.
Khi tin tức về các cuộc tấn công bài Do Thái ngày càng gia tăng ở châu Âu lan đến thế giới tự do, chiến dịch hồi hương của người Do Thái trở nên tuyệt vọng hơn. Ở Đức, người Do Thái bị buộc phải đeo ngôi sao vàng “Jude” khét tiếng bắt đầu từ năm 1941 và ở Pháp vào năm 1942. Các khu ổ chuột Do Thái bị giải tỏa, và những tin tức đầu tiên về các cuộc tàn sát của Đức Quốc xã đã lan đến thế giới tự do. Rồi bắt đầu xuất hiện những tin đồn của tội ác thậm chí còn lớn hơn, của nỗi kinh hoàng không thể tưởng tượng nổi: của các trại tập trung, hàng rào thép gai, và khí độc, nay được biết đến là Zyklon B (năm kilôgam có thể giết chết 1.500 người), lần đầu tiên được sử dụng trên con người tại trại Auschwitz vào tháng 8 năm 1941. Đến cuối chiến tranh, người Do Thái trên khắp thế giới đã biết rằng những người châu Âu “văn minh” đã ra sức tiêu diệt họ. Đến lúc đó, không gì có thể ngăn cản họ khao khát một nơi an toàn khỏi sự đàn áp.
Thế giới đã biết quá muộn về cuộc diệt chủng Holocaust, gần như mọi người đều cảm thông với nỗi thống khổ của người Do Thái và trước tình hình số lượng lớn người Do Thái châu Âu bị xua đuổi do Chiến tranh Thế giới Thứ hai, Tổng thống Mỹ Harry Truman cuối cùng đã bắt đầu ủng hộ khái niệm về một quốc gia Do Thái. Năm 1947, khi Anh kiệt sức và không thể giải quyết những căng thẳng giữa các cộng đồng, họ đã đưa vấn đề này ra Liên Hợp Quốc mới thành lập giải quyết
Dân Palestine giờ bắt đầu
đau khổ trên quê hương mình. Những người Do Thái Phục quốc đã buộc hàng chục ngàn gia đình Ả Rập đã từng sống trong khu vực trong nhiều thế kỷ phải chạy trốn khỏi nhà của họ. Cả hai bên đều chịu trách nhiệm về những hành động tàn bạo khủng khiếp gây cho nhau. Vào đêm 9 tháng 4 năm 1948, các thành viên của nhóm du kích Do Thái cực đoan Irgun đã tấn công làng Dier Yassin, một cứ điểm quan trọng trong cuộc phong tỏa Jerusalem của người Ả Rập và là căn cứ của binh lính và thường dân Ả Rập, và đã sát hại khoảng 254 người Ả Rập, bao gồm cả phụ nữ và trẻ em cũng như các du kích đối lập. Giới lãnh đạo Do Thái đã kịch liệt tố cáo và lên án các vụ giết người, nhưng vụ tấn công này vẫn còn vang vọng trong nhiều thập kỷ. Ngay cả khi người Do Thái thương tiếc những đồng bào đã chết trong hàng loạt vụ tấn công khủng bố của người Ả Rập kể từ đó, thì người Palestine vẫn còn nhớ những người dân vô tội của họ ở Deir Yassin.
Đây không phải là vụ tấn công khủng bố duy nhất của phe Phục quốc Do Thái nhằm mục đích trục xuất người Anh và người Palestine. Sau khi đưa ra nhiều cảnh báo qua điện thoại, người Do Thái còn cho nổ tung Khách sạn King David ở Jerusalem (nơi đặt trụ sở bộ tư lệnh quân đội Anh), gài bẫy bom vào thi thể của hai trung sĩ quân đội Anh mà họ đã treo cổ trong một vườn cam, và sát hại hàng chục người Ả Rập vô tội. Các vụ tấn công khủng bố ít nhất đã thành công một phần: quyền ủy trị của Anh bị bãi bỏ và nhà nước Israel được tuyên bố vào tháng 5 năm 1948. Một nhóm thiểu số người Palestine đã thành lập các nhóm khủng bố của riêng họ, nhưng hầu hết đều kinh hoàng trước bạo lực diễn biến sau đó. Hơn 700.000 người Palestine đã rời bỏ nhà nước Israel mới, bất chấp lời khẩn khoản của một số người Do Thái kêu gọi họ nên ở lại. Trớ trêu thay, Đại Mufti (Đại Giáo sĩ Hồi giáo) của Jerusalem cũng khuyến khích người Palestine chạy trốn sang các quốc gia láng giềng. Nhiều người đã làm theo vì nghĩ rằng họ sẽ làm tăng quân số của quân đội Ả Rập, rồi sau đó sẽ quay trở lại Israel và đẩy người Do Thái xuống biển. Lời thề nguyền này không bao giờ được thực hiện.
“Nhìn lại, tôi nghĩ rằng những người đồng hương đã sai lầm khi tin vào chế độ Ả Rập và trong mọi trường hợp đã để ngỏ cánh cửa cho những kẻ thực dân Do Thái”, Abu Iyad, người sáng lập Tháng Chín Đen, đã viết vài thập kỷ sau đó. “Họ nên giữ vững lập trường của mình, bất kể phải trả giá thế nào. Bọn Do Thái không bao giờ có thể tiêu diệt họ đến người cuối cùng.”
Mặc dù sự do dự của người Anh và thất bại trong việc ngăn chặn làn sóng di cư ồ ạt và đột ngột của người Do Thái vào khu vực này sau Thế chiến Thứ nhất là một yếu tố góp phần, nhưng chính cuộc diệt chủng Holocaust cuối cùng đã dẫn đến sự ra đời của nhà nước Israel. Một số người Phục quốc Do Thái cực đoan tin rằng họ vượt trội hơn người Palestine cả về trí tuệ lẫn tôn giáo, nhưng đại đa số người Do Thái đổ xô đến khu vực này chỉ đơn giản là đang cố gắng thoát khỏi sự hủy diệt ở châu Âu. Hàng thế kỷ áp bức đã dẫn đến cuộc diệt chủng được tiến hành có tổ chức và triệt để nhất trong lịch sử loài người. Sáu triệu người chết đã ám ảnh và truyền cảm hứng cho những người Do Thái Phục quốc chiến đấu dữ dội để thành lập Israel.
Hoa Kỳ và Liên Xô đã công nhận nhà nước mới trong vòng hai ngày, nhưng các nước Ả Rập láng giềng đã phát động cuộc xâm lược và các nhóm vũ trang Ả Rập bên trong Palestine đã tấn công mạng giao thông và làng mạc của người Do Thái. Người Ả Rập Palestine đã chiến đấu hết mình cho vùng đất mà họ coi là của riêng mình, nhưng họ thiếu nhiệt huyết như người Do Thái Phục quốc, vốn khao khát cháy bỏng một đất nước nơi họ có thể thoát khỏi sự đàn áp và sống đúng với phẩm giá con người. Khi cuộc chiến tranh Ả Rập-Israel bắt đầu trở nên bất lợi cho người Ả Rập, nhiều nhà lãnh đạo Ả Rập-Palestine đã phải rút lui vào chốn lưu vong ngoài khu vực. Nhưng hàng trăm ngàn thường dân Ả Rập vô gia cư không có quyền được lựa chọn, họ thấy mình bị chính các chính phủ Ả Rập láng giềng dồn nén vào các trại tị nạn.
Việc giam giữ người Palestine trong các trại tị nạn thực sự phù hợp với nhiều chính quyền khu vực. Mặc dù người tị nạn có thể được tiếp nhận vào tất cả các quốc gia Ả Rập xung quanh Israel, nhưng các nhà lãnh đạo chính trị ở những quốc gia này lo ngại về tác động của hàng chục nghìn người Palestine đối với quốc gia mong manh của họ. Họ cũng biết rằng điều đó sẽ làm người Palestine nản lòng trong việc theo đuổi cuộc chiến chống lại người Israel. Tốt hơn hết là giữ họ ở lại trong cảnh nghèo đói gần quê hương và nuôi dưỡng tinh thần chiến đấu của họ. Và thế là lòng căm phẫn của người Palestine ngày càng dâng cao.
Yasser Arafat, lãnh đạo của Tổ chức Giải phóng Palestine hiện đại, và là người chịu trách nhiệm chính cho việc thành lập Tháng Chín Đen và vụ tấn công Munich, sinh ra tại Cairo năm 1929, trong một gia đình trung lưu Palestine. Ông mất mẹ từ khi còn nhỏ, nổi loạn chống lại chính quyền, và đến năm 15 tuổi đã trở thành tay buôn súng cho các băng nhóm nông dân Ả Rập chống lại Haganah, Stern Gang và các nhóm chiến binh Do Thái cực đoan khác.
Đến năm 1947- 48, Arafat đã chiến đấu như một chiến binh du kích cấp thấp, nhưng sau khi Israel ra đời, ông trở về Cairo để hoàn thành việc học và trở thành một nhà hoạt động nổi tiếng vì quyền của người Palestine.
Trong khi Liên Hợp Quốc và nhiều quốc gia chấp nhận hoặc hoan nghênh việc thành lập Israel, người Ả Rập vẫn thề sẽ tiếp tục chiến đấu và phá hủy nhà nước Do Thái mới. Tuy nhiên, phải mất một thời gian Arafat và những người Palestine khác mới nhận ra rằng họ sẽ phải chiến đấu một mình. Vua Farouk của Ai Cập đã cử quân du kích (những người này sử dụng tên gọi fedayeen) vào Israel để thực hiện các nhiệm vụ đột kích sau đó.
Năm 1949; Gamal Abdul Nasser đã tăng cường sự ủng hộ của Ai Cập cho các cuộc đột kích khi ông lên nắm quyền; và Syria cũng tích cực tài trợ cho các hoạt động du kích chống lại nhà nước Israel. Nhưng những cuộc đột kích này khó có thể đẩy người Israel xuống biển. Gia súc bị giết, mùa màng bị phá hoại, và người định cư Israel bị sát hại. Nhưng đến giữa những năm 1950, Arafat và các nhà hoạt động Palestine khác đã nhận ra rằng các hoạt động du kích của Ai Cập và Syria chỉ nhằm mục đích tư lợi, không nhằm mục đích thành lập một nhà nước Palestine, mà là duy trì nguyên trạng khu vực.
Năm 1955, Arafat thành lập một công ty kỹ thuật tại Kuwait và với số tiền kiếm được, ông bắt đầu làm việc với hàng ngàn thanh niên Palestine đang học tập tại Đức, đảm bảo các khoản quyên góp và tuyển dụng cho Fatah, một tổ chức mà ông thành lập để khai thác sự căm phẫn của các chiến binh trẻ tuổi trong các trại tị nạn Palestine.
Arafat đã sớm di chuyển giữa Đức (đặc biệt là Đại học Stuttgart, trung tâm hoạt động của người Palestine ở Châu Âu), Algeria (nơi ông giúp tổ chức các trại huấn luyện quân sự cho tân binh Fatah) và Kuwait (nơi mà túi của những công nhân Palestine xa xứ được trả lương cao bị moi tiền “cho cuộc đấu tranh ở quê nhà”).
Một phong trào kháng chiến của người Palestine dần dần nổi lên. Ahmed Shukairy, một luật sư Palestine, đã đề xuất thành lập một chính phủ Palestine lưu vong, và vào tháng 5 năm 1964, Tổ chức Giải phóng Palestine (PLO) được thành lập, với Shukairy sau đó được bổ nhiệm làm người đứng đầu. Fatah lần đầu tiên được biết đến vào tháng 1 năm 1965, khi một chiếc ba lô chứa 10 thanh gelignite và một kíp nổ được phát hiện trôi nổi trên một con kênh ở Thung lũng Beit Netofa thuộc Hạ Galilee. Mặc dù quả bom đã được vô hiệu hóa, các trinh sát Israel vẫn nhận ra những kẻ tấn công đã vượt sông Jordan vào Israel. Hai ngày sau, Fatah nhận trách nhiệm và một chương mới đã mở ra trong lịch sử Trung Đông.
Fatah thỉnh thoảng tiến hành các cuộc đột kích chống lại Israel từ các căn cứ ở Dải Gaza cho đến tháng 2 năm 1966, khi đảng Ba’ath cánh tả của Syria lên nắm quyền ở Damascus. Trong số những mục tiêu mà đảng Ba’ath công khai tuyên bố là giải phóng Palestine, và Arafat đã nhanh chóng thuyết phục các sĩ quan tình báo Syria cho phép Fatah mở các trại huấn luyện tại Syria. Trong khi Shukairy bị các chỉ huy Ai Cập hạn chế phát biểu công kích Israel, Syria lại cho phép Fatah tự do hành động. Các du kích đã mở hàng loạt cuộc đột kích xuyên biên giới. Các nhà lãnh đạo quân sự và chính trị Israel, phẫn nộ trước các cuộc xâm lược này, đã bắt đầu đưa ra các bài phát biểu trong tháng 4 và tháng 5 năm 1967, trong đó chính phủ Syria nhìn thấy cảnh báo về một cuộc xâm lược của Israel.
Liên Xô đã cho tin tình báo đến Damascus rằng quân đội Israel đang tập trung ở biên giới (thực tế không phải vậy), và Syria đã kêu gọi Ai Cập hỗ trợ quân sự. Nasser đã điều quân vào sa mạc Sinai, phía nam Israel, để thể hiện sự ủng hộ, và eo biển Tiran sau đó đã bị đóng cửa vào ngày 22 tháng 5, ngăn cản Israel tiếp cận Biển Đỏ.
Người Israel cảm thấy tương lai của đất nước họ đang bị đe dọa. Khoảng thời gian này, từ ngày 23 tháng 5 đến ngày 4 tháng 6, giờ đây được gọi là Hamtana, “thời kỳ chờ đợi”, khi người dân Israel lắng nghe chương trình phát thanh của Nasser, một vị lãnh đạo đầy sức lôi cuốn, kêu gọi người dân chiến đấu chống lại người Do Thái. Người Israel nghĩ rằng họ sắp bị người Ả Rập tiêu diệt, nhưng người Do Thái quyết không để mình bị xua đuổi nữa. Họ sẽ không còn lặng lẽ cúi đầu đi vào màn đêm nữa.
Ngày 1 tháng 6 năm 1967, Tướng Moshe Dayan được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Quốc phòng Israel trong Chính phủ Thống nhất Quốc gia, và vào ngày 5 tháng 6, ông ra lệnh tấn công chớp nhoáng vào các nước láng giềng Ả Rập. Máy bay Israel bay thấp qua biển và chỉ trong vài giờ đã phá hủy 17 sân bay Ai Cập và một nửa lực lượng không quân của nước này trước khi quay sang tàn phá quân đội Syria và Jordan. Vào ngày 6 và 7 tháng 6, xe tăng và lữ đoàn thiết giáp Israel đã tràn vào Cao nguyên Golan của Syria, Bờ Tây của Jordan và Sinai của Ai Cập. Vào thời điểm lệnh ngừng bắn do Liên Hợp Quốc bảo trợ chấm dứt chiến tranh đưa ra bắt đầu có hiệu lực vào ngày 10 tháng 6, Israel đã chiếm được một khu vực Ả Rập rộng gấp bốn lần diện tích của mình; bằng cách chiếm Bờ Tây và Dải Gaza, 2,4 triệu người Israel đã tăng dân số Ả Rập của đất nước họ từ khoảng 400.000 người trước năm 1967 lên ít nhất 1,4 triệu người.
Israel ngay lập tức bắt đầu ăn mừng sự kết thúc của “Cuộc chiến Sáu ngày” và một chiến thắng ngoạn mục. Tầm quan trọng về mặt cảm xúc của cuộc chiến khó có thể được coi là đánh giá quá cao. Người Do Thái ở Israel cảm thấy họ đã bị áp bức hàng thế kỷ, nhưng vào năm 1967, quốc gia nhỏ bé mới thành lập này đã đánh bại các nước láng giềng trong trận chiến; điều này đã mang lại cho nhiều người Israel một cảm giác tự hào và sức mạnh mới. Ngược lại, người Ả Rập phải chịu một thất bại nhục nhã. Israel mất 778 binh sĩ và 61 xe tăng, trong khi hơn 1.000 binh sĩ Syria và khoảng 10.000 binh sĩ Ai Cập thiệt mạng, nhiều người trong số họ chết vì khát. Các quốc gia Ả Rập mất 700 xe tăng, và riêng Ai Cập mất hơn 360 máy bay chiến đấu và 69 máy bay ném bom.
Nhưng không nơi nào thảm họa lại gây ấn tượng mạnh mẽ hơn các trại tị nạn Palestine, nơi hàng trăm ngàn người tị nạn mới tràn ngập. Yasser Arafat đã hành động nhanh chóng để ngăn chặn sự sụp đổ tinh thần, ra lệnh cho một loạt các cuộc tấn công của Fatah vào Israel và các vùng lãnh thổ mới chiếm đóng. Các tân binh xếp hàng dài để gia nhập Fatah, và các chính phủ Ả Rập bắt đầu quyên góp một lượng lớn vũ khí và tiền bạc cho cuộc đấu tranh của Palestine để xoa dịu nỗi nhục nhã của chiến tranh. Khi Israel không chịu rút quân khỏi vùng đất chiếm được trong Cuộc chiến Sáu ngày, sự ủng hộ dành cho Fatah ngày càng tăng.
Đầu năm 1968, du kích Fatah đã mở các cuộc tấn công thường xuyên vào Israel, và vào ngày 18 tháng 3, hai trẻ em đã thiệt mạng và hai mươi tám người bị thương khi một quả mìn Fatah phá hỏng xe buýt của họ. Điều này vượt quá sức chịu đựng của Israel. Một đoàn xe bọc thép được điều động đến tấn công căn cứ chính của Fatah tại Karameh, bên kia biên giới Jordan. Tờ rơi được rải xuống khu vực, cảnh báo dân thường rời đi trước khi quân đội tấn công, nhưng thông báo trước đã cho du kích Fatah thời gian để chuẩn bị cho cuộc tấn công. Dưới sự chỉ huy trực tiếp của Arafat, một nhóm nhỏ chiến binh Fatah quyết tâm chiến đấu đến người cuối cùng. Không một người Palestine nào tin rằng họ có thể chiến thắng, và người bạn đồng thời là đồng chí của Arafat, Abu Jihad, được cử đến Damascus để tái tổ chức lực lượng kháng chiến Palestine sau khi Fatah gần như chắc chắn bị xóa sổ.
Sáng ngày 21 tháng 3 năm 1968, một cuộc giao tranh ác liệt trên đường phố nổ ra giữa du kích Palestine và khoảng 15.000 lính Israel thiện chiến đã tiến vào Jordan. Người Palestine, biết rằng họ có thể phải đối mặt với nguy cơ bị tận diệt, đã chiến đấu một cách oanh liệt. Những chàng trai trẻ mang thuốc nổ đã đánh bom liều chết trước các mũi xe tăng Israel, chặn đứng được chúng trên đường tiến quân và buộc các chiến sĩ Israel phải tháo chạy để tìm nơi an toàn. Du kích Fatah chiến đấu giành giật từng tấc đất.
Ít nhất một 150 chiến binh Palestine và Jordan đã thiệt mạng trong trận chiến và những ngôi nhà kiên cố của họ đã bị phá hủy; 20 người Israel đã thiệt mạng và 70 người khác bị thương, nhưng quân đội Jordan đang tiến lên đã đẩy lùi quân Israel quay trở lại bên kia biên giới. Đối với người Palestine, đây có lẽ là trận chiến quan trọng nhất của thế kỷ. Trong thế giới Ả Rập và trong số những người ủng hộ Fatah, Karameh (có nghĩa là “phẩm giá”) được xem là một chiến thắng to lớn cho phong trào Palestine, và đặc biệt là cho Arafat. Người Israel không phải là bất khả chiến bại; họ có thể bị đánh bại. Tiền chảy vào ngân khố của Fatah và hàng ngũ những người ủng hộ Arafat lại tăng lên với những quân đoàn chiến binh mới.
“Khi tôi còn trẻ, vào những năm 1960, tôi có một cảm giác lạc quan về triển vọng giải phóng Palestine, một phần được hỗ trợ bởi các bài phát biểu của Nasser”, Jamal Al-Gashey nhớ lại. “Các tổ chức bí mật của Palestine được thành lập, chẳng hạn như Fatah, vào năm 1965. Những chiến dịch quân sự đầu tiên của họ đã khơi dậy niềm hy vọng và khích lệ rằng chúng tôi sẽ có thể giải phóng Palestine, trở về nhà và chấm dứt cảnh khốn cùng và tủi nhục. Thảm họa của cuộc chiến năm 1967 là một thảm họa lớn đối với chúng tôi, nhưng sau Trận Karameh ở Jordan năm 1968, thất bại đầu tiên của quân đội Israel trước các chiến binh Palestine đấu tranh cho tự do, chúng tôi trở nên rất lạc quan. Hàng chục ngàn thanh niên đã tham gia cuộc cách mạng ở Jordan vì chúng tôi tin rằng Palestine chỉ có thể được giải phóng bởi con cái của nó, chắc chắn không phải bởi các nhà lãnh đạo Ả Rập.”
Al-Gashey gia nhập Fatah ngay khi văn phòng tuyển quân được mở tại trại tị nạn của anh. “Tôi gia nhập Fatah ngay lập tức, lần đầu tiên cầm súng và được huấn luyện sử dụng. Lần đầu tiên, tôi cảm thấy tự hào và cảm thấy sự tồn tại và cuộc sống của mình có ý nghĩa, rằng tôi không chỉ là một người tị nạn khốn khổ, mà là một người cách mạng đang đấu tranh cho một lý tưởng.”
Với những tân binh như Al-Gashey, các cuộc tấn công của Fatah vào Israel gia tăng. Nhưng chúng thường không hiệu quả. Du kích ở Dải Gaza dường như quan tâm nhiều hơn đến việc thực thi quyền kiểm soát đối với những người Palestine khác, trong khi ở biên giới với Jordan, lực lượng tuần tra Israel lại nổi tiếng đáng sợ. Các fedayeen thường bị phát hiện ngay sau khi lẻn vào nước này, rồi bị truy lùng và tiêu diệt. Nhiều du kích quá sợ hãi việc vượt biên sang Israel nên họ thường bắn một loạt đạn từ phía biên giới Jordan rồi quay về căn cứ, tuyên bố đã có một trận chiến lớn với quân đội Israel.
Đến tháng 7 năm 1968, Arafat đã tập hợp các nhóm chiến binh Palestine khác dưới sự bảo trợ rộng lớn của mình và thành công trong việc lật đổ Ahmed Shukairy khỏi vị trí lãnh đạo PLO tại cuộc họp của Đại hội Dân tộc Palestine ở Cairo. Tại các cuộc họp tiếp theo của Đại hội vào tháng 2 và tháng 6 năm 1969, quyền lãnh đạo của Arafat được mở rộng và ông nắm quyền điều hành liên minh Fatah-PLO với tư cách là chủ tịch mới và đứng đầu một ủy ban gồm 11 thành viên chịu trách nhiệm tổ chức tất cả các hoạt động chống lại Israel.
Du kích Palestine sẽ tiến hành cái mà ông coi là một cuộc chiến tranh quân sự chính đáng chống lại nhà nước Israel, chủ yếu từ các căn cứ ở Jordan. Tuy nhiên, mọi chuyện đã diễn ra trái ngược với những gì ông mong đợi.
George Habash, nhà lãnh đạo theo chủ nghĩa Marx của Mặt trận Bình dân Giải phóng Palestine (PFLP), quyết định theo đuổi một chương trình khủng bố và từ chối tham gia cùng Arafat. Ngày 23 tháng 7 năm 1968, du kích PFLP bắt đầu một loạt hành động bằng cách chiếm quyền điều khiển một chuyến bay của hãng hàng không El Al của Israel từ Rome đến Tel Aviv và buộc phi công phải hạ cánh xuống Algiers, nơi các hành khách Israel đã bị bắt giữ ngay lập tức. Vào ngày 26 tháng 12 cùng năm đó, một đơn vị PFLP nhỏ đã bắn hạ một máy bay phản lực khác của El Al đang rời sân bay Athens, làm thiệt mạng một hành khách, một sĩ quan hải quân Israel đã nghỉ hưu và làm bị thương một số người khác trên chuyến bay.
Vụ tấn công Athens đã khiến Israel trả đũa Lebanon, quốc gia bị Israel cáo buộc chứa chấp và tiếp tay cho khủng bố, và 13 máy bay phản lực của Ả Rập đã bị phá hủy trong một cuộc đột kích của lực lượng biệt kích trực thăng vào sân bay Beirut. Tuy nhiên, các cuộc tấn công của PFLP vẫn tiếp diễn. Leila Khaled, một nữ du kích trẻ tuổi nổi tiếng quốc tế nhờ lòng quả cảm và vẻ ngoài ưa nhìn, đã chỉ huy một nhóm PFLP cướp một máy bay phản lực của TWA tới Damascus vào ngày 29 tháng 8 năm 1969. Năm văn phòng của El Al đã bị tấn công ở Châu Âu và Trung Đông bởi một nhóm khủng bố, bao gồm cả nhóm “Sư tử Con”: ba tên khủng bố tuổi từ mười bốn đến mười lăm.
Vào ngày 10 tháng 2 năm 1970, một vụ tấn công bằng lựu đạn vào một chiếc xe buýt chở khách ở Munich đã giết chết một hành khách và làm bị thương nặng 11 người khác, bao gồm cả Hannah Marron, một nữ diễn viên nổi tiếng người Israel. Bảy người Do Thái cao tuổi đã thiệt mạng trong một vụ hỏa hoạn tại Viện dưỡng lão Do Thái ở cùng thành phố và vào ngày 22 tháng 2, một chiếc máy bay của Swissair đang trên đường đến Tel Aviv đã bị nổ tung trên bầu trời, khiến 47 hành khách và phi hành đoàn (bao gồm 15 người Israel) thiệt mạng. Sự phẫn nộ của quốc tế trước những hành động tàn bạo đang gia tăng, nhưng George Habash vẫn kiên quyết: “Cuộc đấu tranh của chúng ta mới chỉ bắt đầu, điều tồi tệ nhất vẫn chưa đến. Viễn cảnh châm ngòi cho Thế chiến thứ ba không làm chúng tôi bận tâm. Thế giới đã lợi dụng chúng tôi và lãng quên chúng tôi. Đã đến lúc họ nhận ra sự tồn tại của chúng tôi. Đã đến lúc họ ngừng bóc lột chúng tôi. Dù phải trả giá thế nào, chúng tôi sẽ tiếp tục cuộc đấu tranh.”
Ở Jordan Vua Hussein lo sợ sức mạnh ngày càng tăng của người Palestine và mệt mỏi với sự sỉ nhục quốc tế đổ lên đầu ông với tư cách là chủ nhà của họ. Ông bắt đầu tập hợp lực lượng, chờ đợi một cái cớ để trục xuất hoặc đè bẹp quân du kích, và chẳng mấy chốc ông đã có được. Vào ngày 6 tháng 9 năm 1970, PFLP đã tấn công bốn máy bay chở khách trên khắp thế giới. Hai máy bay, thuộc sở hữu của TWA và Swissair, đã bị cướp và bay đến một sân bay cũ của Không quân Hoàng gia Anh tại Jordan tên là Dawson’s Field, nơi hành khách bị giữ làm con tin. Một máy bay phản lực của Pan Am cũng bị cướp và bay đến Cairo. Các hành khách thoát ra bằng cầu trượt khẩn cấp và sau đó bọn khủng bố đã cho nổ tung máy bay.
Vụ tấn công thứ tư, nhắm vào một máy bay phản lực của El Al, do Leila Khaled và một tên khủng bố khác tên là Patrick Arguello, một người Mỹ gốc Nicaragua ủng hộ PFLP, chỉ huy. Nhưng khi hai tên này rút súng ra khi đang bay qua eo biển Manche, một đội đặc nhiệm an ninh El Al (được gọi là “Biệt đội 007”) đã bắn hạ Arguello và bắt giữ Khaled. Các phi công El Al được hướng dẫn nghiêm ngặt phải bay thẳng về Israel trong những tình huống như vậy, nhưng Cơ trưởng Uri Bar-Lev, lo sợ cho tính mạng của tiếp viên Shlomo Vider, người đã bị Arguello bắn năm phát trong vụ tấn công, đã nhanh chóng hạ cánh xuống sân bay Heathrow ở ngoại ô London. Khaled bị bắt và bị đưa đến đồn cảnh sát Ealing.
Ba ngày sau, một chiếc BOAC VC-10 bay từ Bahrain tới London đã bị bọn khủng bố PFLP cướp để đổi lấy việc thả Khaled và bay đến để gia nhập cùng hai chiếc máy bay khác bị giữ tại Dawson’s Field ở Jordan.
425 con tin nhanh chóng phải chịu đựng cảnh oi bức đổ mồ hôi dưới cái nắng sa mạc. Khaled nhanh chóng được chính quyền Anh thả ra – họ không có nhiều lựa chọn khi hàng trăm sinh mạng đang bị đe dọa và chỉ có 40 con tin được PFLP thả tự do.
Vua Hussein và binh lính Bedouin kiêu hãnh của ông đã chịu đựng quá đủ. Các chỉ huy quân đội Jordan đã cầu xin Hussein cho phép họ tiêu diệt du kích Palestine trong vương quốc. Nhà vua sau đó kể về một cuộc gặp với một chỉ huy xe tăng đã treo một chiếc áo ngực phụ nữ vào cột ăng-ten phát sóng; khi nhà vua hỏi tại sao thì được trả lời: “Vì chúng tôi trông chẳng khác bọn phụ nữ hèn nhát!”
Khi Hussein trở về cung điện của mình, ông được tin PFLP đã cho nổ tung các máy bay phản lực đậu tại sân bay Dawson trước sự chứng kiến của đông đảo giới truyền thông thế giới. Thống chế Habes al-Majali được bổ nhiệm làm thống đốc quân sự, phát động một cuộc tấn công quy mô nhắm vào lực lượng du kích Palestine. Sáng ngày 17 tháng 9 năm 1970, xe tăng và xe bọc thép lăn bánh trên đường phố Amman và lệnh giới nghiêm 24 giờ được áp đặt. Trận chiến bắt đầu.
Các vị trí du kích Palestine, và thậm chí cả những vị trí chỉ bị nghi ngờ là nơi ẩn náu của du kích, đều bị pháo kích không thương tiếc. Để hỗ trợ Arafat, quân Syria đã đưa xe tăng vào Jordan và Hussein ngay lập tức tấn công họ từ trên không. Hàng ngàn binh sĩ Israel và hàng chục xe tăng được điều đến biên giới để chuẩn bị cho một cuộc xâm lược toàn diện vào Jordan nếu Palestine chiếm được ưu thế, và ít nhất 12.000 lính dù Mỹ cùng Hạm đội Sáu hùng mạnh của Mỹ đã được đặt trong tình trạng sẵn sàng can thiệp. Arafat cầu xin Iraq và Ai Cập hỗ trợ quân sự, lực lượng Liên Xô được huy động, và khu vực này đứng bên bờ vực của một cuộc chiến tranh lớn.
Người Palestine đã chiến đấu dữ dội, nhưng quân đội Jordan được huấn luyện bài bản, trang bị tốt và quyết tâm chiến thắng. Trong cuộc thảm sát sau đó, ít nhất 4.000 chiến binh fedayeen đã bị tàn sát. Người Palestine gọi đó là Tháng Chín Đen.
Arafat và toàn bộ phong trào giải phóng Palestine cảm thấy hoàn toàn bị phản bội bởi các cuộc tấn công của Jordan. Họ đã mất quê hương vào tay người Phục quốc Do Thái, và giờ đây người Ả Rập anh em của họ lại quay lưng lại với họ.
Khi quân đội Bedouin tiếp tục dẹp tan sức kháng cự ở các thành trì của người Palestine, một số chiến binh Fatah đã chạy trốn sang Syria, nhưng hầu hết di chuyển hàng loạt đến miền nam Lebanon, nơi chính phủ trao cho họ quyền kiểm soát hơn một chục trại tị nạn và căn cứ ở Arkoub, trên biên giới phía đông nam của Lebanon với Israel.
Tại Jordan, một trong những phó tướng tài giỏi và hung hăng nhất của Arafat, Abu Ali Iyad, đã bị quân đội của Vua Hussein bắt giữ, tra tấn và sát hại trong nỗi sỉ nhục cuối cùng. Thi thể ông bị kéo lê qua các làng mạc phía sau xe tăng. Phong trào Palestine tan rã, người dân dường như phải cam chịu số phận vĩnh viễn vùi dập trong những trại tị nạn tồi tàn. Những người Palestine trẻ tuổi bắt đầu theo về cánh PFLP cực đoan.
Arafat biết Fatah không thể tiếp tục mất đi những người ủng hộ. Dường như ông cảm thấy mình không còn lựa chọn nào khác ngoài việc ngầm chấp thuận việc sử dụng chủ nghĩa khủng bố trắng trợn. Từ cấp dưới đến cấp cao, những người theo ông đều bị giày vò bởi tinh thần sa sút và sự phẫn nộ trước sự thờ ơ của thế giới đối với hoàn cảnh của họ. Trừ khi cho thấy mình đang hành động chống lại nhà nước Israel, cho dù cuộc tấn công có tuyệt vọng đến đâu, Arafat cũng sẽ mất quyền kiểm soát PLO. Nhưng các chính phủ Ả Rập từ chối cho phép PLO tấn công Israel từ lãnh thổ của mình vì sợ vấp phải sự phẫn nộ của Israel và sự chỉ trích của quốc tế. Vậy nên, với sự chấp thuận ngầm của Arafat, một nhóm mới được thành lập, chuyên phát động các cuộc tấn công khủng bố và ám sát, chủ yếu ở nước ngoài. Bằng cách giữ bí mật về giới lãnh đạo, tách biệt hệ thống cấp bậc và với Fatah, Arafat hy vọng duy trì được “khả năng phủ nhận hợp lý” trong trường hợp hành động của nhóm khủng bố mới gây khó dễ cho Fatah hoặc những người Ả Rập giàu có ủng hộ họ.
Tên của nhóm chẳng bao lâu sau vang vọng khắp châu Âu và Trung Đông. Để tưởng nhớ cuộc tấn công của Jordan năm trước, nó được đặt tên đầy ám ảnh và đen tối là Tháng Chín Đen.
“Sau những gì xảy ra với phong trào kháng chiến của người Palestine ở Jordan vào tháng 9 và việc chúng tôi bị trục xuất khỏi toàn bộ đất nước vào năm 1971, đã có bằng chứng mới về sự vô dụng của giới lãnh đạo Palestine”, Abu Daoud, một người đàn ông cao gầy từng là chỉ huy lực lượng Fatah ở Jordan, xác nhận. “Cần phải tìm ra một cách có ý nghĩa để theo đuổi cuộc đấu tranh.” Daoud và một số ít quan chức cấp cao Palestine khác “quyết định thành lập một nhóm không liên quan gì đến Fatah. Nhóm này sẽ đóng vai trò thu hút sự chú ý đến tầm quan trọng của cuộc đấu tranh và sau đó quay trở lại với tổ chức mẹ, Fatah. Vì vậy, chúng tôi đã thành lập một tổ chức có tên là Tháng Chín Đen.”
Theo Abu Daoud, Tháng Chín Đen độc lập với Fatah về cả “quyết định” lẫn “tài chính”. “Nó tách biệt với Fatah để Fatah và PLO không phải chịu sự chỉ trích vì các hoạt động của chúng tôi. Nhóm này, với tư cách lãnh đạo cá nhân và tập thể, phải chịu trách nhiệm cho những thành công và thất bại của chính mình, thỏa hiệp mà không có sự lãnh đạo hợp pháp của nhân dân Palestine [PLO].” Về cơ bản, Abu Daoud nói, “không có cái gọi là Tháng Chín Đen. Fatah công bố các hoạt động của mình dưới cái tên này để Fatah không xuất hiện như là người thực hiện trực tiếp các hoạt động.” Abu Iyad, lãnh đạo trên thực tế của Tháng Chín Đen, đưa ra xác nhận: “Không có một tổ chức nào cả. Chỉ có một chính nghĩa, Tháng Chín Đen. Đó là một tâm thế của nhân dân Palestine.”
Abu Iyad, một giáo viên sinh năm 1933 tại Jaffa, được coi là một thành viên “bồ câu” trong nội bộ Fatah. Nhưng sau sự phản bội của Jordan, ông trở thành một chiến binh hung hăng. Dưới quyền chỉ huy của Iyad, cơ cấu của Tháng Chín Đen được hình thành từ tàn dư của Jihaz el Razd, nhánh tình báo của Fatah, phần lớn bao gồm những thanh niên nam nữ có học thức, thanh lịch, nhiều người trong số họ đã học tại Đại học Mỹ ở Beirut. Iyad đã chọn một người đàn ông đẹp trai và quyến rũ, một tay sát gái tên là Ali Hassan Salameh làm phó tướng. Là con trai của Sheikh Hassan Salameh, một chiến binh huyền thoại chống lại người Israel đã hy sinh năm 1948, Ali Hassan mang họ cha mình với niềm tự hào.
Ngoài Abu Daoud, Iyad còn tuyển dụng Ahmed Afghani (còn gọi là Abu Motassin) để trông coi tài chính và nguồn cung cấp của nhóm; một kỹ sư tên là Ghazi el Husseini để phát triển hoặc thu thập vũ khí và thiết bị tinh vi; và Fakhri al Umari, một chiến binh du kích tài năng, làm người đứng đầu cái gọi là bộ phận dịch vụ đặc biệt của Tháng Chín Đen, bộ phận hoạt động chịu trách nhiệm về các cuộc tấn công khủng bố.
Những chiến binh này là lực lượng tinh nhuệ của phong trào giải phóng Palestine. Salameh, Abu Daoud và Umari nằm trong số ít chiến binh Fatah được cử đi tham gia khóa đào tạo tình báo đặc biệt tại Cairo năm 1968, nơi họ được học về các thủ đoạn khủng bố đô thị. Họ nhanh chóng thể hiện sự hiện diện của mình với vụ ám sát Wasfi Tell ở Cairo và vụ ám sát hụt đại sứ Jordan tại London.
Từ đầu năm 1972, Tháng Chín Đen bắt đầu lấn sân sang vũ đài thế giới. Vào ngày 6 tháng 2, năm người Jordan bị cáo buộc hợp tác với Israel đã bị sát hại tại Bruehl, gần Cologne, Đức; cùng ngày đó, các bồn chứa dầu của Gulf Oil tại Hà Lan cũng bị phá hủy. Hai ngày sau, nhà máy ở Hamburg của một công ty sản xuất động cơ cho Israel cũng bị phá hủy, và vào ngày 22 tháng 2, các thành viên Tháng Chín Đen đã phá hủy đường ống dẫn dầu Esso Oil gần thành phố này.
Nỗ lực đầu tiên của nhóm nhằm thực hiện một vụ khủng bố “ngoạn mục” diễn ra vào đầu tháng 5 năm 1972. Bốn tên khủng bố liên can – “Thiếu tá” Ahmed Mousa Awad, “Trung úy” Abdel Aziz el Atrash, Therese Halsa và Rima Tannous – đã dành ba ngày ở Brussels, ngủ chung phòng, mua sắm thả ga, ăn uống tại các nhà hàng sang trọng và khiêu vũ cùng nhau vào buổi tối. Đó là một cách kỳ lạ để chuẩn bị cho một cuộc tấn công khủng bố lớn, nhưng xét cho cùng, họ cũng là một nhóm khủng bố kỳ lạ. Halsa, một nữ sinh viên điều dưỡng 19 tuổi sinh ra trong một gia đình trung lưu gần Nazareth, đã gia nhập Fatah vào năm trước đó tại Jordan, sau cả cuộc đời sống dưới sự cai trị của Israel. Tannous, 21 tuổi, là một bé gái mồ côi được giáo dục bởi các nữ tu từng làm y tá ở Amman.
Ngày 8 tháng 5, bốn tên khủng bố, nói được một ít tiếng Do Thái và mang theo hộ chiếu Israel giả cùng súng và lựu đạn, đã lên chuyến bay Sabena 571 từ Brussels đến Tel Aviv. Hai người phụ nữ này sau đó khai rằng họ chỉ biết hai người đàn ông là “Yosef” và “Zechariah”, và không biết đích đến cuối cùng của họ là Israel cho đến khi máy bay rời Vienna trong chặng bay thứ hai.
Khi Đại úy Reginald Levy, một người Do Thái Anh, lái máy bay qua Belgrade hướng tới Đất Thánh, bốn tên khủng bố Tháng Chín Đen, cầm súng và lựu đạn, đã bất ngờ tấn công, cướp máy bay, với 87 hành khách và 10 thành viên phi hành đoàn. Levy cảnh báo sân bay Tel Aviv, điểm đến ban đầu của chuyến bay, rằng mình đang cho máy bay hạ cánh và bọn không tặc muốn hàng trăm người đồng hương của chúng được thả khỏi nhà tù Israel.
Tướng Moshe Dayan, người hùng của Israel trong cuộc chiến năm 1967, đã sắp xếp một nhóm lực lượng đặc biệt được tuyển chọn kỹ lưỡng để đón máy bay khi nó hạ cánh. Một thành viên của đội mặt đất thong thả tiến đến máy bay, xả hết hơi trong lốp và xả hết hệ thống thủy lực. Vì vậy, bọn không tặc bị kẹt lại tại sân bay.
Các cuộc đàm phán kéo dài hơn 20 giờ, mặc dù phía Israel chưa bao giờ có ý định thả một tù nhân nào: họ chỉ đang câu giờ trong khi lực lượng đặc nhiệm của họ chuẩn bị một cuộc tấn công vào máy bay Sabena bằng cách thực tập trên một chiếc Boeing 707 khác đậu tại một sân bay khác. Khi các biệt kích đặc nhiệm hùng hục luyện tập để tìm cách giảm thời gian tấn công xuống dưới 90 giây, họ liền được cử đến hiện trường hành động.
Mặc bộ đồng phục trắng của phi hành đoàn mặt đất, các chiến binh tiến đến gần bọn khủng bố. “Mọi chuyện xảy ra đột ngột cùng một lúc”, một hành khách kể lại. “Đột nhiên cửa máy bay bị xé toạc và người Israel tràn vào, bắn khắp nơi và hét lớn, ‘Nằm xuống, nằm xuống, mọi chuyện kết thúc rồi!'”
Một tên khủng bố nam bị bắn vào giữa hai mắt bởi một người Israel vừa chui ra từ cửa thoát hiểm. Tên còn lại bị giết bằng vài phát súng lục. Therese Halsa bị thương, còn Rima Tannous bị đè bẹp dí trên sàn bởi một chiến binh lực lưỡng. Một hành khách, Miriam Anderson, 22 tuổi, bị thương nặng và qua đời sau đó tại bệnh viện. Hai người trong biệt đội đặc nhiệm Israel cũng bị thương, nhưng chiến dịch này đã thành công rực rỡ đối với người Israel. Và nó đã đến trong tích tắc.
Đại úy Levy sau đó đã mô tả việc các con tin đã suýt. bị giết chết hết như thế nào: “Bọn Ả Rập rất kích động vì người Israel không giao nộp những đồng đội fedayeen của họ. Tất cả bọn họ đều mang theo lựu đạn và quyết định cho nổ tung tất cả chúng tôi để cùng lên thiên đường, kể cả chúng nữa.” Halsa và Tannous đang khóc và hôn tạm biệt hai tên khủng bố khi cuộc tấn công của Israel bắt đầu.
Chiến dịch Sabena là một thất bại thảm hại của Tháng Chín Đen. Israel không chỉ lừa gạt bọn khủng bố và buộc chúng phải trì hoãn thời hạn, mà còn dùng vũ lực tấn công máy bay, giết chết hoặc bắt sống cả bốn du kích. Các lãnh đạo cấp cao Palestine quyết định rằng chỉ phát động thêm nhiều cuộc tấn công nữa mới có thể khôi phục danh tiếng và duy trì tinh thần trong các trại tị nạn. Trong khi người Israel đang ăn mừng chiến thắng, ca tụng kỹ năng quân sự của các chiến binh cừ khôi của họ, Abu Iyad và Fuad Shemali của Tháng Chín Đen được cho là đã đến dự một hội nghị khủng bố lớn do George Habash tổ chức tại trại tị nạn Baddawi ở Lebanon.
Đó là một cuộc họp đặc biệt. Đại diện của Quân đội Cộng hòa Ireland đã có mặt, cũng như Hồng quân Nhật Bản và băng đảng Baader-Meinhof của Đức. Các cuộc đàm phán kết thúc bằng một thỏa thuận rằng một số nhóm sẽ hỗ trợ hoặc “đại diện” cho nhau trong các cuộc tấn công trên lãnh thổ của mình. Vì vậy, băng đảng Baader-Meinhof sẽ tấn công các mục tiêu ở Đức thay mặt cho người Palestine. Ít nhất thì đó là lý thuyết. Vụ tấn công đầu tiên xuất phát từ tinh thần hợp tác khủng bố quốc tế mới mẻ này là một vụ thảm sát kinh hoàng ở Israel do Hồng quân Nhật Bản thực hiện.
Ba người đàn ông, Kozo Okamoto, Takeshi Okidoro và Yasuiki Yashuda, đã được truyền bá những câu chuyện về cuộc đấu tranh của người Palestine ở Nhật Bản và đã đến Beirut vài tháng trước đó để chuẩn bị cho một cuộc tấn công khủng bố chưa được xác định trong tương lai. Cả ba đã bị đưa đến Port Said và được quân du kích Palestine huấn luyện sử dụng thuốc nổ, lựu đạn và súng trường tấn công Kalashnikov.
Mang theo hộ chiếu giả, ba sát thủ trẻ tuổi đã bay từ Beirut đến Paris vào ngày 22 tháng 5, sau đó tiếp tục đến Rome, nơi chúng thuê phòng tại một khách sạn thường được du khách Ả Rập đến thành phố này sử dụng. Ngày 30 tháng 5, ba người đàn ông bắt taxi đến Sân bay Leonardo da Vinci để bắt chuyến bay 132 của Air France đến Tel Aviv và gửi hành lý chứa một kho vũ khí nhỏ vào khoang máy bay.
Đó là một chuyến bay bình yên vô sự, và khi họ hạ cánh tại sân bay Lod ở Tel Aviv, Israel, ba tên Nhật bình tĩnh xuống máy bay và chờ hành lý tại khu vực đến cùng với những hành khách khác. Bên kia hành lang là một nhóm người hành hương từ Puerto Rico, đang thu dọn hành lý cho một kỳ nghỉ trọn gói ở Đất Thánh. Giáo sư Aharon Katchalsky, một trong những nhà vật lý hàng đầu thế giới, cũng đang chờ lấy hành lý của mình.
Bọn khủng bố bình tĩnh lấy ba chiếc vali sợi thủy tinh từ băng chuyền và cẩn thận đặt xuống đất. Chúng cúi xuống, mở các vali và lấy ra các khẩu súng máy VZT-58 do Séc sản xuất và một lượng lớn lựu đạn phân mảnh. Không một lời, chúng đứng dậy và nổ súng vào đám hành khách. Cảnh tượng thật kinh hoàng: 24 người, hầu hết là người hành hương Puerto Rico, đã chết dưới làn đạn và 78 người khác bị thương. Giáo sư Katchalsky nằm trong số những người thiệt mạng. Chỉ trong vòng hai phút, sảnh phi trường ngập trong máu.
Trong lúc hỗn loạn, Yashuda vô tình trúng phải loạt đạn do một đồng đội của mình bắn ra và Okidoro đã kích nổ một quả lựu đạn ngay sát đầu hắn ta. Sau khi đã bắn hết đạn đem theo vào đám đông, Okamoto chạy ra đường băng sân bay và định cho nổ tung một chiếc máy bay đang đỗ bằng lựu đạn. Nhưng hắn đã bị Hannan Claude Zeiton, một quan chức của El Al, vật cổ, và sau đó bị cảnh sát bắt giữ.
Vụ thảm sát tại sân bay Lod đã gây chấn động khắp thế giới, và quân du kích Palestine tiếp tục thực hiện thêm nhiều vụ tấn công khủng bố. Ngày 5 tháng 8 năm 1972, một nhóm Tháng Chín Đen gồm người Ả Rập, ít nhất một người Ý và một vài người Pháp đã phá hủy một cảng dầu lớn ở Trieste, gây ra một vụ hỏa hoạn kéo dài hai ngày, thiêu rụi hàng triệu gallon dầu. Chỉ mười một ngày sau, hai phụ nữ trẻ người Anh đang đi nghỉ ở Ý đã được hai người Palestine kết bạn và mời đến Israel. Hai người phụ nữ đồng ý, và được họ, Adnam Ali Hasham và Ahmed Zaid, tặng một chiếc máy ghi âm. Ngay khi họ sắp rời đi, hai người Ả Rập bỗng thông báo rằng họ cần phải thực hiện một chuyến đi ngắn đến Tehran, nhưng sẽ gặp lại hai người phụ nữ ở Israel. Hai người phụ nữ đã lên một chiếc El Al 707 cho chuyến bay ngắn đến Israel, và nhờ trời, họ đã cất giữ máy ghi âm, trong đó cài một quả bom nhỏ và một kíp nổ điều khiển bởi áp suất khí quyển, vào hành lý của họ được ký gửi trong khoang bọc thép của máy bay. Khi nó phát nổ, khoang chứa đã ngăn chặn được vụ nổ và máy bay đã hạ cánh an toàn xuống Israel.
Trong thời kỳ chủ nghĩa khủng bố hoành hành ở Palestine, Israel đã chuẩn bị cử vận động viên của mình đến Thế vận hội Munich, dự kiến khai mạc vào đầu tháng 9, và người Palestine bắt đầu lên kế hoạch tấn công.
Nguồn gốc của cốt truyện luôn mơ hồ, nhưng giờ đây nó có thể được truy ngược lại đầu tháng 7 năm 1972, tại một quán cà phê ngoài trời ở Quảng trường Piazza della Rotonda đẹp như tranh vẽ ở Rome.
Vào thời điểm đó, Abu Daoud đang ở trong một căn hộ tại Thành phố Vĩnh cửu và chờ đợi sự xuất hiện của chỉ huy Tháng Chín Đen Abu Iyad, người sẽ gặp các nhóm cực hữu ở miền bắc đất nước. Ngày 13 tháng 7, Iyad cuối cùng đã đến Rome cùng đồng nghiệp Fakhri al-Umari, và chỉ vài ngày sau, ba người đã gặp nhau để uống cà phê.
Ngồi dưới ánh nắng bên ngoài quán cà phê, tận hưởng bầu không khí của Rome và lướt qua các tờ báo châu Âu và Ả Rập, giới lãnh đạo Palestine phát hiện ra một bài viết nhỏ về Thế vận hội Munich sắp tới, khi đó chỉ còn chưa đầy hai tháng nữa là khai mạc. Ủy ban Olympic Quốc tế vừa xác nhận việc từ chối cho phép một phái đoàn Palestine tham dự Thế vận hội.
“Đầu năm 1972, PLO đã gửi một lá thư chính thức tới Ủy ban Olympic đề nghị một đội vận động viên Palestine tham gia Thế vận hội”, Abu Iyad sau này nhớ lại. “Vì không nhận được hồi âm, một lá thư thứ hai đã được gửi đi, và nhận được phản hồi không gì hơn là một sự im lặng khinh miệt. Rõ ràng là đối với tổ chức danh giá tự xưng là phi chính trị này, chúng tôi không tồn tại, hoặc tệ hơn, không xứng đáng tồn tại.”
Ba tên trùm khủng bố vô cùng tức giận trước sự khinh miệt này. Sau khi đọc chi tiết trên báo, Fakhri al Umari quay sang các đồng nghiệp và nói rằng người Palestine vẫn nên cố gắng tham gia Thế vận hội. Nhưng Abu Iyad thắc mắc, họ có thể làm gì?
Vào thời điểm đó, al Umari, dường như đã ngẫu hứng đề xuất bắt cóc một số vận động viên Israel và giam giữ họ làm con tin.
Abu Iyad, ban đầu còn hoài nghi về ý tưởng này, nhưng nhanh chóng đồng tình. Ba gã đàn ông trò chuyện rôm rả, xây dựng niềm tin lẫn nhau cho một cuộc tấn công ngoạn mục như vậy, trước khi Abu Iyad đề xuất rằng họ nên bắt cóc càng nhiều vận động viên và quan chức Israel càng tốt và đổi họ để chuộc lấy các bộ hạ đang bị giam giữ. Số phận của đội tuyển Israel đã được định đoạt.
Abu Daoud dự định đến Sofia, Bulgaria để cố gắng tìm mua một số súng tiểu liên giảm thanh cho Fatah, và họ quyết định rằng trên đường đến đó, ông ta sẽ ghé qua Munich để bắt đầu phác họa kế hoạch tấn công.
Một buổi chiều giữa tháng 7 năm 1972, Abu Daoud đến Munich, mua một bản đồ đường phố chi tiết và thu thập thông tin về khách sạn và các chuyến bay đến và đi khỏi thành phố. Ở phía bắc Munich, ông ta tìm thấy địa điểm của Công viên Olympic, nơi chỉ còn cần hoàn thiện thêm một chút nữa trước khi Thế vận hội bắt đầu. Sau khi quan sát nhanh xung quanh, Abu Daoud rời Munich cùng ngày và đến Bulgaria để mua vũ khí cho Fatah.
Trong khi đó, Abu Iyad lo tổ chức một đội biệt kích. Sau này, ông khẳng định chiến dịch này được “lên kế hoạch tỉ mỉ”. “Hai chỉ huy biệt kích… là những chiến binh dày dạn kinh nghiệm đã chiến đấu ở Amman vào tháng 9 năm 1970 và tại trận Jerash và Ajlun vào tháng 7 năm 1971”, Iyad viết.
Iyad và Ali Hassan Salameh đã chọn Luttif Afif (“Issa”), một chiến binh Palestine sinh ra ở Nazareth, làm chỉ huy cuộc tấn công. Trớ trêu thay, mẹ của Issa là người Do Thái; cha y là một doanh nhân Ả Rập theo đạo Thiên chúa giàu có, và y có ba người anh em trai khác, tất cả đều tham gia Tháng Chín Đen và hai người trong số họ đang nằm trong nhà tù Israel.
Năm 1958, y chuyển đến Đức để học kỹ thuật, học tiếng Đức, rồi chuyển đến Pháp làm việc. Y rất thích thời gian ở châu Âu, nhưng đã gia nhập Fatah vào năm 1966, có thể là khi còn ở Đức, và trở lại Trung Đông để tham gia nhiều trận chiến chống lại binh lính Israel. Tuy nhiên, đến đầu những năm 1970, y đã sống ở Berlin và đính hôn với một phụ nữ trẻ người Đức.
Issa dường như là lựa chọn hoàn hảo để chỉ huy hành động. “Tony” (Yasuf Nazzal), một chiến binh fedayeen tận tụy, người cũng đã học tập tại Đức, hắn là ứng cử viên sáng giá cho vị trí phó chỉ huy. Hai người ngay lập tức được điều động đến Munich để bắt đầu chuẩn bị cho cuộc tấn công và làm quen với bố cục của Làng Olympic.
Việc lựa chọn các tên thủ lĩnh tương đối dễ dàng đối với Iyad. Việc lựa chọn bộ hạ thì khó khăn hơn. Ban đầu, khoảng 50 chiến binh fedayeen trẻ tuổi từ 17 đến 20 tuổi được chọn để huấn luyện chuyên sâu. “Tất cả bọn họ đều đến từ các trại tị nạn ở Lebanon, Syria, và đặc biệt là Jordan, và tất cả đều xuất thân từ những gia đình nghèo khó”, Iyad nói. Theo Iyad, hầu hết họ đều có động lực từ quyết tâm chứng kiến người thân trong gia đình được thả khỏi nhà tù Israel. “Họ không hề biết về chiến dịch sắp tới mà một số họ cuối cùng sẽ được chọn thực hiện, nhưng tất cả đều nóng lòng muốn trở thành những người may mắn được chọn.”
Cuối cùng, từ danh sách rút gọn khoảng 12 người, 6 thanh niên cuối cùng đã được chọn cho chiến dịch: Afif Ahmed Hamid, Khalid Jawad, Ahmed Chic Thaa, Mohammed Safady 19 tuổi, Adnan Al-Gashey (27 tuổi) và cháu trai 19 tuổi của hắn là Jamal Al-Gashey.
Jamal là một tân binh tiêu biểu của Fatah, đã trải qua những thực tế khắc nghiệt của cuộc sống tị nạn ngay từ khi sinh ra: “Tôi là thành viên của một gia đình Palestine bị các băng nhóm Phục quốc trục xuất chúng tôi ra khỏi quê làng mình ở Galilee, Palestine vào năm 1948. Gia đình tôi phải chuyển từ trại này sang trại khác và cuối cùng định cư tại Chatila [trại tị nạn].” Al-Gashey tuyên bố cậu sinh ra vào giữa những năm 1950 “trong điều kiện vô cùng nghèo đói” và lớn lên trong một túp lều tị nạn “làm bằng những tấm tôn”. Cho đến tận ngày nay, gia đình cậu trong trại vẫn “chịu đựng cái lạnh khắc nghiệt vào mùa đông và cái nóng ngột ngạt vào mùa hè”.
Cậu nhớ lại những năm tháng hình thành nhân cách của mình với sự phẫn nộ. “Nhiều năm trời, chúng tôi phải nhờ đến viện trợ lương thực từ UNRWA [Cơ quan Cứu trợ và Công trình của Liên Hợp Quốc dành cho Người tị nạn Palestine], nhưng số lượng rất ít, đôi khi có nghĩa là mười ngày sau khi được phân phát, chúng tôi chỉ ăn một bữa mỗi ngày để đủ dùng cho đến cuối tháng.” Quần áo thì làm từ bao tải cứu trợ; giày làm từ lốp xe cao su cũ.
“Tôi lớn lên với những câu chuyện gia đình kể về Palestine, thiên đường mà chúng tôi bị đuổi khỏi đó, về việc bọn Do Thái đã cướp đất đai của chúng tôi và trục xuất chúng tôi, về việc giới lãnh đạo Ả Rập đã phản bội chúng tôi. Khi lớn lên, tôi nghĩ rằng sẽ chẳng có tương lai nào cho chúng tôi nếu không được trở về Palestine, và nếu không trở về, tôi sẽ sống cả đời như một kẻ tị nạn, bị tước đoạt mọi quyền con người.”
Theo Abu Daoud, tất cả tám tên khủng bố được chọn cho chiến dịch này đều đã phải chịu đựng dưới bàn tay của người Israel: “Họ là những người đã rời bỏ quê hương vào năm 1948, buộc phải chạy trốn, và sau đó sống mòn mỏi trong các trại tị nạn ở Lebanon kể từ đó. Họ là những người mà nhà cửa giờ đây là nhà của bọn Do Thái Ba Lan, Pháp và Mỹ, đã thay thế họ ngay trên đất nước họ, sống như những công dân ở đó trong khi không có bất kỳ quyền nào như vây.” Tất cả những du kích trẻ, hay “shabab,” đều quyết tâm “chiến đấu thứ nhất vì đất nước mình, thứ hai vì phẩm giá mình, và thứ ba vì quyền được sống một cuộc sống đàng hoàng.”
Một số tên khủng bố lớn lên gần nhau trong trại tị nạn Chatila và thậm chí còn chơi chung trong cùng một đội bóng đá (Khalid Jawad, đặc biệt, là một cậu bé mê bóng đá, theo lời kể của hai anh trai Adel và Mahmoud). Tuy nhiên, mặc dù những tên fedayeen được chọn để tấn công đều từng là trẻ em trong các trại tị nạn, lý do hầu hết được chọn dường như là do chúng đã quen thuộc với nước Đức từ trước. Ahmed Chic Thaa đã sống ở Berlin trước vụ tấn công và đã kết hôn với một phụ nữ Đức. Khalid Jawad đã sống ở Đức hai năm với anh trai Farud, trước khi Tháng Chín Đen chiêu mộ y cho cuộc tấn công. Afif Ahmed Hamid, người gia nhập Fatah vào năm 1968, đã sống và học tập tại Đức hơn một năm trước khi trở về Lebanon vào năm 1971.
Adnan Al-Gashey dường như chưa từng sống ở Đức, nhưng y tháo vát, đáng tin cậy và tận tụy. Từng là sinh viên điều dưỡng ở Tripoli, y đã giành được học bổng ngành hóa học tại Đại học Mỹ ở Beirut. “Anh ấy cũng giống như nhiều thanh niên khác, tự tin, đầy tham vọng; anh ấy yêu đời”, vợ anh ta nói.
Sáu chiến binh fedayeen được chọn cho chiến dịch này được lệnh chuẩn bị bay đến Libya để tham gia khóa huấn luyện cuối cùng. Gia đình họ không được biết về mục tiêu của họ. Hajja Hamid, mẹ của Afif, chỉ biết rằng y sẽ đến Đức.
Một ngày nọ, bà hỏi con trai mình: “Con định làm gì ở Đức?”
“Con sẽ đi học rồi quay về”, y nói dối.
“Vậy con sẽ đi bao lâu?” Hajja hỏi.
“Hai tháng, hai tháng rưỡi gì đó,” y trả lời.
An ninh được thắt chặt đến mức Mahmoud Mohammad Jawad, anh trai của Khalid, thậm chí còn không biết chuyện gì đang xảy ra: “Một ngày nọ, Khalid nói, ‘Tôi sẽ chơi bóng đá ở Syria.’ Cậu ta đi xa khoảng một hoặc hai tuần, và khi trở về, cậu ta có dấu vết đeo ba lô trong quá trình huấn luyện. Chúng tôi hỏi cậu đã đi đâu và cậu ấy nói đã chơi bóng đá. Sau đó, cậu ấy nói, ‘Đừng nói với ai nhé.’ Vài tuần sau, họ đến Libya. Chúng tôi biết có chuyện gì đó không ổn. Vì vậy, chúng tôi đã theo dõi tin tức. Một người khác biết về chiến dịch này nói, ‘Đừng lo, mọi chuyện sẽ ổn thôi.'”
Một tháng trước khi Thế vận hội bắt đầu, sáu người đã bay đến Tripoli. “Ban lãnh đạo đã cử chúng tôi đến Libya để tham gia khóa huấn luyện đặc biệt, và họ chỉ nói với chúng tôi về điều đó mà không nói rõ mục đích của khóa huấn luyện”, Jamal Al-Gashey nói. “Ở Libya, chúng tôi được huấn luyện quân sự nâng cao khoảng một tháng và đặc biệt chú trọng đến các bài tập nhảy từ những bức tường cao. Chúng tôi đoán rằng đây là khóa huấn luyện đặc biệt để xâm nhập vào các căn cứ quân sự của Israel. Sau này tôi mới biết, chúng tôi thực hiện bài tập này vì một phần kế hoạch là vào Làng Olympic bằng cách nhảy từ một bức tường cao.”
Mọi thứ đều được tính kỹ. Abu Iyad và Abu Daoud đã soạn thảo hai yêu sách để trình lên cảnh sát Đức trong chiến dịch. Yêu sách đầu tiên, được đánh máy bằng tiếng Anh, buộc phải thả các tù nhân Palestine và các tù nhân khủng bố khác. Yêu sách thứ hai, bằng tiếng Đức, được một sinh viên Palestine viết tay bằng bút bi, cho phép gia hạn thời hạn đã định và yêu cầu cung cấp máy bay chở các con tin và bọn khủng bố ra khỏi Đức.
Hai ông trùm cũng đặt cho cuộc tấn công một mật danh – Chiến dịch Iqrit và Biri’m, tên của hai ngôi làng Cơ đốc giáo Ả Rập cổ xưa ở miền bắc Israel đã bị quân đội Israel trục xuất vào năm 1948, vì “những lo ngại an ninh”. Các gia đình Ả Rập bị buộc phải rời bỏ những ngôi nhà mà tổ tiên họ đã sống qua nhiều thế hệ và được thông báo rằng họ sẽ được phép trở về trong vòng hai tuần. Nhiều thập kỷ sau, người Palestine vẫn còn phải chờ đợi mỏi mòn. Trong khi hầu hết người Israel hầu như không biết gì về thảm kịch này, thì đối với người Ả Rập, nó vẫn là một vết thương nhức nhối.
Mặc dù việc chuẩn bị cho chiến dịch Munich diễn ra suôn sẻ, Abu Daoud vẫn lo lắng về việc tuồn lậu vũ khí cần thiết cho cuộc tấn công vào Đức. Abu Iyad bảo y đừng lo; ông ta sẽ tự mình xử lý.
Sau khi bay đến Damascus để thăm vợ con trong thời gian ngắn, Daoud đã đến Tunis vào khoảng ngày 17 hoặc 18 tháng 8 để gặp Yasser Arafat, Abu Iyad, Abu Youssef và một số thành viên cấp cao khác của Fatah. Daoud từ chối tiết lộ chính xác những gì đã được bàn luận tại các cuộc họp, nhưng sau hai ngày ở Tunis, đã đến lúc ông phải trở về Munich để hoàn tất khâu chuẩn bị cuối cùng. Khi rời khỏi biệt thự sang trọng nơi nhóm Fatah đang ở – thuộc sở hữu của Mohammed Masmoudi, người đứng đầu cơ quan ngoại giao Tunisia – Daoud đã phải ngắt ngang cuộc trao đổi giữa Arafat, Abu Iyad và Abu Youssef (họ đang bận thảo luận về một âm mưu ám sát Vua Hassan II của Maroc). Tất nhiên mỗi người đều ôm choàng lấy Abu Daoud để tiễn biệt y.
Có thể không có nhiều nghi ngờ rằng Arafat biết về cuộc tấn công được lên kế hoạch vào đội Olympic Israel. Mặc dù Abu Daoud không đích thân thảo luận chi tiết về chiến dịch Munich với nhà lãnh đạo PLO, Arafat biết lý do ông ta ra đi.
Bay theo một lộ trình vòng vèo, Abu Daoud trở về Munich để chuẩn bị tiếp nhận số vũ khí được sử dụng cho cuộc tấn công đã định. Thế vận hội Olympic chỉ còn chưa đầy một tuần nữa.
Daoud đã trải qua vài ngày lo lắng ở Munich, chờ đợi Abu Iyad liên lạc. Cuối cùng, Daoud được thông báo Iyad sẽ đến Frankfurt trên chuyến bay từ Algiers qua Paris vào ngày 24 tháng 8. Abu Daoud rời Munich và đi 198 dặm về hướng tây bắc để gặp đồng mưu của mình.
Iyad đến sân bay cùng một gã đàn ông và một phụ nữ, rồi cả ba cùng đặt hành lý lên cùng một xe đẩy hành lý và đi về phía Hải quan. Iyad bước đi với dáng vẻ tự tin, nhưng gã đàn ông đi cùng ông ta cứ dáo dác nhìn các nhân viên Hải quan khiến xe đẩy của mình va vào các hành khách đi bên cạnh. “Đó là một khoảnh khắc cực kỳ căng thẳng khi đưa vũ khí vào Đức”, Iyad thừa nhận. Khi ba tên khủng bố đi qua sảnh đến, một nhân viên Hải quan chỉ vào một trong ba chiếc vali và yêu cầu mở nó ra.
May mắn cho nhóm fedayeen, đó là chiếc duy nhất trong ba chiếc không chứa vũ khí; nó chứa đầy đồ lót và quần áo phụ nữ. Khi gã Palestine lúng túng bắt đầu trải những chiếc quần lót xếp nếp lên mặt bàn trước mặt viên chức Đức, người phụ nữ đồng lõa của gã, đang đóng giả là vợ gã, giả vờ đưa mắt nhìn với vẻ phẫn nộ. Nhân viên Hải quan bối rối nhìn thoáng qua, rồi vẫy tay cho những người Palestine đi qua và ra ngoài trên lãnh thổ Đức. Súng đạn đã tới.
Đến ngày 26 tháng 8, ngày khai mạc Thế vận hội, nhân vật Palestine lo lắng mang mười quả lựu đạn vào Munich trong hành lý xách tay. Abu Daoud cất chúng cùng với súng trong các tủ khóa riêng biệt tại ga xe lửa Munich. Mọi thứ đã sẵn sàng. Daoud ngồi trong khách sạn để theo dõi lễ khai mạc trên TV và chờ đợi năm thành viên cuối cùng của đơn vị biệt kích Tháng Chín Đen đến.
Ngày 31 tháng 8 năm 1972, Jamal Al-Gashey bay từ Libya đến Rome cùng với chú Adnan và Afif Ahmed Hamid. Từ đó, họ đi tàu đến Munich, gặp những đồng đội tại nhà ga chính, lấy vũ khí để sử dụng từ các tủ chứa đồ và đăng ký phòng tại một khách sạn nhỏ. Ba thành viên cấp dưới còn lại của đơn vị đã đi đến Munich qua Belgrade.
Jamal khẳng định rằng lúc đó cậu ta vẫn chưa chắc chắn về mục tiêu, mặc dù không thể đi quanh quẩn Munich mà không biết về Thế vận hội. Trong vài ngày và đêm tiếp theo, bọn khủng bố thư giãn và chuẩn bị cho cuộc tấn công. Jamal thậm chí còn mua vé xem Thế vận hội và đến xem hai trận bóng chuyền.
Đêm 4 tháng 9, trong khi đội Israel đang xem vở kịch Fiddler on the Roof và thù tạc cùng nam diễn viên Shmuel Rodensky, đội Palestine đã gặp nhau tại một nhà hàng ở ga tàu Munich để ăn tối và nhận chỉ thị cuối cùng về Chiến dịch Iqrit và Biri’m từ các chỉ huy Tháng Chín Đen là Ali Hassan Salameh và Abu Daoud. Sáu thành viên cấp dưới dường như vẫn chưa được thông báo chi tiết về hành động này.
Jamal Al-Gashey khẳng định: “Tôi biết lần đầu tiên vào đêm diễn ra chiến dịch, vài giờ trước khi nó bắt đầu”. Theo Al-Gashey, cuộc họp ở nhà ga xe lửa là nơi lần đầu tiên cậu gặp tất cả những kẻ khủng bố khác tham gia chiến dịch. “Tôi biết một số người trong số họ . . . Chúng tôi sống cùng nhau trong các trại tị nạn Palestine và đến từ cùng một tổ chức.. . Chúng tôi đã làm quen với nhau trong quá trình huấn luyện ở Libya; tất cả chúng tôi đều giống nhau, là những đứa trẻ trong các trại tị nạn có chung lý tưởng và chung mục tiêu.”
Trong ánh sáng mờ ảo của nhà hàng, một chỉ huy Palestine đã phác thảo chi tiết về hoạt động và phân công cho từng thành viên của đơn vị khủng bố nhiệm vụ cá nhân của họ. “Cá nhân tôi cảm thấy tự hào và vui mừng”, Al-Gashey nhớ lại. “Ước mơ được tham gia một chiến dịch chống lại người Israel của tôi đã thành hiện thực.”
Đó sẽ là một cuộc tấn công táo bạo, như Al-Gashey kể lại: “Chỉ thị cuối cùng là khống chế các vận động viên Israel và đàm phán để thả tù nhân Palestine khỏi các nhà tù Israel. Cuộc đàm phán này sẽ kéo dài không quá 24 giờ, đó là giới hạn được đặt ra cho khả năng thể chất và tâm lý của chúng tôi để kiểm soát tình hình. Đến cuối thời hạn đó, nếu không có thỏa thuận từ phía Israel, chúng tôi sẽ yêu cầu một chiếc máy bay đưa chúng tôi và các con tin đến một quốc gia Ả Rập.”
Sau khi thông tin chi tiết về vụ tấn công được công bố, tiền bạc, hộ chiếu “và bất cứ thứ gì khác tiết lộ danh tính của chúng tôi” đều bị tịch thu. Những chiến binh fedayeen rời ga tàu và đi bộ về khách sạn.
Al-Gashey khẳng định cậu không hề cảm thấy sợ hãi: “Tôi còn trẻ, tràn đầy nhiệt huyết và động lực, và lý tưởng về Palestine cùng việc trở về đó đã chi phối toàn bộ suy nghĩ và con người tôi. Để đạt được mục tiêu, chúng tôi biết mình sẽ phải trả giá bằng sinh mạng, nhưng kể từ ngày nhập ngũ, chúng tôi đã ý thức rằng mình có thể tử vì đạo bất cứ lúc nào vì Palestine. Chúng tôi không sợ hãi, nhưng chúng tôi cảm nhận được nỗi lo lắng thường trực của một người khi bắt tay vào một nhiệm vụ quan trọng, nỗi sợ thất bại.”
Trời đã tờ mờ sáng khi bọn khủng bố chuẩn bị rời khỏi khách sạn ở trung tâm Munich để lên đường tấn công, hành lý đã được đóng gói và chuẩn bị sẵn sàng. Khi Esther Roth và các vận động viên Israel khác đang ngủ say, mơ về những chiến tích thể thao, thì những thành viên từ Tháng Chín Đen lặng lẽ rời khỏi khách sạn, nhảy lên hai chiếc taxi đang chờ và lái xe về phía Làng Olympic.

Các tình trạng dẫn đến việc thành lập Tháng Chín Đen: trại Nahr-el-Bared ở Lebanon, nơi sinh sống của 6.000 người Người tị nạn Palestine năm 1952. Hầu hết người tị nạn đã tự nguyện rời bỏ nhà cửa của họ ở Palestine sau khi nhà nước Israel ra đời năm 1948, nhưng nhiều người đã bị trục xuất.

Điều kiện sống trong các trại tị nạn Palestine ban đầu thật kinh khủng. Đây là trường học đầu tiên trong trại tị nạn Jala ở Bờ Tây vào đầu những năm 1950.

Jamal Al-Gashey, 19 tuổi, một trong ba người sống sót sau vụ tấn công Munich của Tháng Chín Đen trong một bức ảnh chụp sau khi bị bắt. Anh ta là kẻ tấn công duy nhất còn sống.

Mohammed Safady 19 tuổi, một người sống sót khác, trong một bức ảnh chụp sau khi bị cảnh sát Munich bắt giữ. Sau đó, anh ta bị các điệp viên Israel giết chết trong một nhiệm vụ trả thù bí mật, “Chiến dịch Cơn Thịnh Nộ của Chúa”.

Adnan Al-Gashey, người sống sót thứ ba của sự kiện Tháng Chín Đen tại Munich trong một bức ảnh chụp sau khi y trở về an toàn. Y cũng bị các điệp viên Israel giết chết.

Afif Ahmed Hamid, người đã nói với mẹ mình là Hajja trước vụ tấn công rằng anh sẽ đến Đức để du học.

Khalid Jawad, một thanh niên yêu bóng đá đã sống ở Đức trong hai năm trước cuộc tấn công Tháng Chín Đen vào đội tuyển Israel.

Đội khủng bố Tháng Chín Đen tràn vào tòa nhà Israel vào sáng sớm khi các vận động viên đang ngủ. Bức ảnh này, chụp ngày 5 tháng 9 năm 1972, cho thấy bóng dáng của một sĩ quan cảnh sát Đức bên ngoài số 31 phố Nollystrasse.

Hàng trăm cảnh sát và lính biên phòng Đức đã được đưa bằng xe buýt vào Làng Olympic trong một nỗ lực tuyệt vọng nhằm ngăn chặn