CÂU CHUYỆN ĐẦY ĐỦ VỀ CUỘC THẢM SÁT TẠI THẾ VẬN HỘI MUNICH 1972 VÀ CHIẾN DỊCH BÁO THÙ CỦA ISRAEL “CƠN THỊNH NỘ CỦA CHÚA”

SIMON REEVE
Trần Quang Nghĩa dịch
Giới thiệu
Đại hội được coi là “Thế vận hội của Hòa bình và Niềm vui”. Thế vận hội Olympic năm 1972, được tổ chức tại thành phố Munich, miền nam nước Đức, được coi là thế vận hội lớn nhất và tốn kém nhất từ trước đến nay, với nhiều vận động viên đại diện cho nhiều quốc gia hơn bất kỳ sự kiện thể thao nào trước đó.
Vào lúc 3:00 chiều ngày 26 tháng 8 năm 1972, thế giới đã chứng kiến hàng loạt vận động viên Hy Lạp cao lớn diễu hành vào Sân vận động Olympic đông đúc ở phía bắc thành phố để tắm mình trong ánh nắng ấm áp và tiếng sóng vỗ tay vang dội.
Sự xuất hiện của đội tuyển Hy Lạp, đại diện cho quốc gia đã sáng tạo ra Thế vận hội cổ đại, báo hiệu sự khởi đầu của một lễ khai mạc hoành tráng cho Thế vận hội Olympic lần thứ XX. Các đội tuyển từ khắp nơi trên thế giới bước ra từ đường hầm sân vận động trong tiếng trống và chũm chọe, và theo sau đoàn Hy Lạp theo thứ tự bảng chữ cái. Khán giả reo hò cổ vũ, cờ và biểu ngữ tung bay trong làn gió nhẹ. Phía sau đội tuyển Ai Cập (tiếng Đức: “Aegypten”) là các đội tuyển đến từ Afghanistan, Albania, Brazil: nơi quy tụ những vận động viên xuất sắc nhất thế giới để tranh tài trong các cuộc thi về sức mạnh thể chất, sự nhanh nhẹn và kỹ năng.
Trong khi hầu hết 10.490 vận động viên có mặt tại Thế vận hội tụ tập quanh sân vận động, chen lấn để có tầm nhìn tốt hơn, các nhóm vũ công dân gian Bavaria múa roi da đã khuấy động đám đông. Tiếp theo, 5.000 con chim bồ câu được thả lên bầu trời xanh thẳm trên Munich. Sáu mươi chàng trai mặc trang phục dân tộc Bavaria bắn những khẩu súng lục cổ lên trời, báo hiệu sự xuất hiện của ngọn đuốc Olympic thiêng liêng được mang từ Peloponnese, địa điểm diễn ra các Thế vận hội cổ đại. Với ngọn đuốc Munich được thắp sáng, Thế vận hội có thể bắt đầu.
Lễ khai mạc là một trải nghiệm xúc động đối với các quan chức Tây Đức, những người đã kiên trì đấu tranh để đưa Thế vận hội đến Munich. Hans-Jochen Vogel, thị trưởng Munich từ những năm 1960 cho đến chỉ vài tuần trước khi Thế vận hội bắt đầu, đã vỡ òa niềm tự hào trong buổi lễ. “Thật xúc động”, ông nói, “theo nghĩa tích cực.”
Các quan chức Bavaria hy vọng sự kiện này sẽ khẳng định sự phục hồi của nước Đức như một xã hội văn minh, xóa bỏ ký ức về Thế chiến Thứ hai và Thế vận hội Berlin khét tiếng năm 1936, mà Hitler đã dùng để tôn vinh hệ tư tưởng Đức Quốc xã. Họ đã mời lực lượng truyền thông, đông đảo hơn bao giờ hết, để chứng kiến lễ hội thể thao và sự phát triển trở lại của Tây Đức.
“Điều đầu tiên bạn cảm nhận được khi đến Munich là quyết tâm tuyệt đối của người Đức, dù họ là quan chức Olympic, cảnh sát, nhà báo hay thậm chí là toàn thể người dân Munich, nhằm xóa bỏ ám ảnh quá khứ”, ông nói.
Gerald Seymour, phóng viên Thế vận hội của Đài Truyền hình Độc lập (ITN) Anh, cho biết: “Chúng tôi hoàn toàn choáng ngợp trước cảm giác đây là một nước Đức mới. Đó là một nỗ lực to lớn, và điều đó đã tác động ngay lập tức, bởi người Đức muốn tỏ ra cởi mở, hiện đại và gạt bỏ quá khứ. Sự thân thiện được thể hiện một cách mạnh mẽ.”
Ít nhất 4.000 nhà báo, tạp chí và phát thanh đã đến thủ phủ Bavaria, cùng với 2.000 phóng viên truyền hình, phát thanh viên và đoàn làm phim. Họ kể những câu chuyện về lòng dũng cảm và sự kiên cường trong rèn luyện và phấn đấu cho gần một tỷ khán giả truyền hình tại hơn một trăm quốc gia trên toàn thế giới. Công nghệ vệ tinh mới đã biến sự kiện này thành sự kiện truyền thông đại chúng của thế kỷ.
Hòa giải giữa những cựu thù là một mục tiêu cao quý, và người Đức đã dốc sức xây dựng một địa điểm tổ chức Olympic mà cả thế giới có thể tận hưởng. Một Sân vận động Olympic hùng vĩ được xây dựng trên vùng đất hoang bên cạnh Làng Olympic rộng lớn, nơi các vận động viên sẽ lưu trú.
Nhưng không có sự khẳng định nào trong nỗ lực phục hồi của Đức lớn hơn là sự hiện diện tại Thế vận hội của một phái đoàn Israel. Nhà nước Do Thái, vẫn đang miệt mài xây dựng mối quan hệ với Tây Đức, đã cử đoàn vận động viên và quan chức lớn nhất từ trước đến nay, nhiều người trong số họ là người Đông Âu lớn tuổi, vẫn mang trong mình những vết sẹo thể xác và tinh thần từ các trại tập trung của Đức Quốc xã. Để ngăn chặn bất kỳ ký ức nào về quá khứ Đức Quốc xã trỗi dậy, 2.000 nhân viên an ninh Olympic đã mặc đồng phục màu xanh nhạt trang nhã và duyên dáng trong ánh mắt thiện cảm của thế giới, chỉ trang bị không gì hơn một máy bộ đàm.
“Bầu không khí… khiến mọi người cảm nhận được nước Đức đã thay đổi kể từ năm 1936”, Shmuel Lalkin, trưởng đoàn Israel, nhớ lại. “Đó là một kỳ Thế vận hội mở.” Khắp khuôn viên Olympic rộng lớn, nổi bật với tháp truyền hình cao 950 bộ và mái che hình lều mang phong cách tương lai, một bầu không khí tiệc tùng nhanh chóng lan tỏa. Ngay cả việc vào Làng Olympic cũng dễ dàng cho cả vận động viên lẫn nhóm người săn chữ ký. “Không khí thật sự. . . , hãy tự mình tận hưởng, chứng kiến nước Đức không còn như xưa nữa.”
Tuy nhiên, nhiều người Israel có những cảm xúc lẫn lộn về sự hiện diện của mình ở Đức. Henry Herskowitz, một vận động viên bắn súng trường, cảm thấy phần nào tự hào khi người Do Thái trở về và giương cao lá cờ Israel trên đất Đức. Điều này chứng tỏ Đức Quốc xã chưa giết chết tinh thần của họ. Nhưng nỗi sợ hãi sâu sắc của người Do Thái về nước Đức, và trước khi rời Israel, Herskowitz “đã có linh cảm rằng điều gì đó” có thể xảy ra. Herskowitz là vận động viên được chọn cầm cờ Israel trong lễ khai mạc, và trong những cơn ác mộng tồi tệ nhất, ông đã hình dung ra cảnh mình bị bắn khi đang mang Ngôi sao David đi quanh sân vận động Olympic.
Nỗi kinh hoàng không hề ập đến tại lễ khai mạc, và vận động viên chạy nước rút Esther Shahamurov, giờ là Roth, một trong những ngôi sao điền kinh sáng giá nhất của Israel, diễu hành chỉ cách Herskowitz vài mét, cũng tràn đầy tự hào. “Thật là một cảm giác độc đáo khi diễu hành trước lá cờ Israel… Có rất nhiều người Do Thái trên khắp thế giới; bạn đồng cảm với họ và họ đồng cảm với bạn. Bạn cảm thấy mình phải đại diện xứng đáng cho họ.”
Đối với Roth, Thế vận hội “tốt hơn cả mơ ước”. “Khi đến đó mắt tôi cứ trố ra. Tôi nhìn thấy mọi người từ khắp nơi trên thế giới, tôi không biết phải nhìn vào đâu trước.” Cô nhớ lại Thế vận hội như một bữa tiệc cho cặp mắt: quá nhiều màu sắc, quá nhiều quốc tịch khác nhau. “Thật tuyệt vời, không chỉ đối với các vận động viên, mà còn đối với tất cả mọi người… Bạn nhìn thấy một vận động viên và bạn có thể biết môn thể thao mà họ đang tham gia qua vóc dáng của họ. Ví dụ, những người chơi bóng rổ, họ cao đến mức bạn xấu hổ khi đứng cạnh họ. Các đô vật, họ có đôi tai đó, bạn có thể nhìn thấy thịt trong tai họ. Đó… là một trải nghiệm tuyệt vời”, Roth nhớ lại.
Lễ khai mạc kết thúc, Thế vận hội chính thức bắt đầu, và tuần đầu tiên đã diễn ra vô cùng ngoạn mục. Bất chấp những vấn đề của thế giới bên ngoài – Chiến tranh Lạnh giữa Đông và Tây, tình hình “nóng” ở Việt Nam, bạo lực chiến tranh ở Ulster và Trung Đông, Munich vẫn là minh chứng cho lý tưởng Olympic.
Đối với nhiều người xem Thế vận hội, dường như giữa lúc căng thẳng quốc tế ngày càng gia tăng, thể thao là cơ hội duy nhất để mọi người giữ được sự tỉnh táo, một phương tiện giao tiếp với kẻ thù quốc tế ở cấp độ cá nhân, cấp độ con người. Người hâm mộ ăn mừng thành tích của các vận động viên như Valery Borzov, vận động viên chạy nước rút Liên Xô, và vận động viên năm môn phối hợp Mary Peters, “Cô gái Vàng” của Ulster. Mark Spitz, vận động viên bơi lội người Mỹ 22 tuổi, đã phá vỡ kỷ lục thế giới và giành bảy huy chương vàng, trong khi vận động viên thể dục dụng cụ Liên Xô tinh nghịch Olga Korbut giành huy chương vàng đầu tiên và khiến cả thế giới kinh ngạc. Khi Korbut kết thúc bài biểu diễn trên sàn với một cái hất tóc và một cái bĩu môi, cả thế giới như vỡ òa. Cô gái tuổi teen này trái ngược hoàn toàn với những nhà lãnh đạo Liên Xô tóc muối tiêu diễu hành trước phương Tây, như một bằng chứng cho thấy người Liên Xô cũng có khiếu hài hước.
Đám đông hò reo yêu cầu chấm điểm “10” tuyệt đối cho cô. “Tôi không tin được! Hãy cho cô ấy điểm 11!”, bình luận viên truyền hình người Mỹ Gordon Maddux thốt lên.
Tuy nhiên, không phải tất cả các vận động viên đều thích thú với thời gian ở Munich. Ký ức về Thế chiến Thứ hai và 6 triệu người Do Thái bị diệt chủng đã in sâu vào tâm trí người dân Israel. Nhiều vận động viên Israel cảm thấy không thoải mái ở Đức. Suy cho cùng, Munich nằm gần trại tập trung Dachau, nơi ít nhất 65.000
người Do Thái bị tàn sát. Các vận động viên và quan chức Israel đã buộc phải đối mặt với những ký ức đầy ám ảnh và lấy hết can đảm để thi đấu và hoạt động trên đất Đức.
“Cả gia đình tôi đã bị thảm sát tại xứ sở đó”, Tuvia Sokolovsky, một huấn luyện viên cử tạ người Israel trong đội tuyển năm 1972, nói. “Tôi là một người sống sót sau thảm họa diệt chủng Holocaust. Đối với tôi, người Đức và Munich đồng nghĩa với việc tiêu diệt sáu triệu người Do Thái, bao gồm cả cha tôi và gia đình ông ấy.” Sokolovsky bị quá khứ dày vò ngay từ khi đặt chân lên đất Đức: “Tôi có một cảm giác nặng nề khi nhìn thấy mỗi người Đức trưởng thành đều in khuôn mặt của những kẻ đã giết cha mẹ tôi.”
Những vận động viên Israel khác cũng cảm thấy như vậy, nhưng tất cả vẫn thi đấu hết lòng. Esther Roth, một niềm hy vọng lớn cho nội dung chạy vượt rào 100 mét, đã được huấn luyện viên Amitzur Shapira ghi danh vào nội dung chạy nước rút 100 mét. “Tôi đã phá kỷ lục cá nhân và cảm thấy rất nhanh,” cô nhớ lại. “Tại Thế vận hội Olympic đó, tôi cảm thấy mình như một chú ngựa hoang.” Cô đã vào đến bán kết nội dung chạy nước rút, nhưng rồi “thất bại. Tôi đã bỏ lỡ trận chung kết chỉ trong tích tắc,” Roth cho biết, liền sau đó bắt đầu tập luyện cho nội dung chạy vượt rào 100 mét sẽ diễn ra vài ngày sau, gần cuối Thế vận hội.
Tuy nhiên, thành công đã không mỉm cười với các thành viên còn lại của đội, và hầu hết các vận động viên Israel đều bị loại ngay từ những nội dung đầu. Thành công của Roth đã tiếp thêm niềm tự hào cho họ, nhưng hầu hết đều thầm khao khát được trở về nhà với những người thân yêu. Yossef Romano, một vận động viên cử tạ sinh ra tại Tripoli, Libya, đã gửi tin nhắn và băng cassette cho vợ và ba cô con gái, chúc họ ngày lễ Rosh Hashanah (Tết Do Thái) hạnh phúc. Zeev Friedman, một vận động viên cử tạ đến từ Haifa, đã viết bưu thiếp cho cha mẹ và chị gái Nina. Andre Spitzer, huấn luyện viên môn đấu kiếm, sinh ra ở Romania đã bơm tiền xu vào điện thoại công cộng để gọi cho vợ mình là Ankie ở Hà Lan.
Vào ngày 4 tháng 9 năm 1972, một ngày nghỉ của đội tuyển Israel, hầu hết các vận động viên đều thư giãn quanh Làng Olympic, rồi vào thành phố Munich vào buổi tối để xem vở kịch nổi tiếng “Người chơi Vĩ cầm trên Mái nhà”, với sự tham gia của Shmuel Rodensky, “Laurence Olivier của Israel”. Đó là một đêm tuyệt vời. Esther Roth ngồi cạnh Amitzur Shapira, người đã phát hiện ra tài năng chạy bộ của cô khi cô mới 14 tuổi và đã hứa sẽ huấn luyện cô cho Thế vận hội. Vở kịch nói tiếng Đức, nhưng vì Amitzur nói tiếng Yiddish (ngôn ngữ Do Thái pha trộn với Đức) nên ông có thể hiểu được. Esther chăm chú lắng nghe khi ông dịch cho cô.
“Chúng tôi cảm thấy thật tuyệt vời; đó là một bầu không khí thật đáng nhớ,” Roth nói. “Tôi đã đạt đến chặng thứ hai, và cảm giác như cả đoàn đã chiến thắng. Mọi người đều ăn mừng chiến thắng. Đó là một đêm rất cảm động. Giữa vở kịch, chúng tôi được mời uống rượu vang. Họ chụp ảnh tôi và Shmuel Rodensky. Họ nâng chúng tôi lên không trung, cả đoàn.”
Khi vở kịch kết thúc và bữa tiệc đã qua, đoàn Israel lũ lượt trở về phòng của họ ở Làng Olympic. Roth nhớ lại: “Khi chúng tôi trở về làng, Amitzur bảo tôi rằng sáng mai chúng tôi sẽ gặp nhau ở phòng ăn. Và chuyện là thế. Tôi đi ngủ. Tôi có đủ thứ giấc mơ về thể thao.”
1
Khống chế
Vào khoảng 4 giờ sáng ngày 5 tháng 9 năm 1972, một nhóm nhỏ những bóng người bí ẩn đã đến ngoại ô Làng Olympic và lặng lẽ tiến đến hàng rào cao sáu bô (gần 2m) được cho là có chức năng bảo vệ hàng nghìn vận động viên đang ngủ bên trong.
Rón rén trong bóng tối mang theo những chiếc túi thể thao nặng nề, nhóm người tiến đến một đoạn hàng rào gần đó.
Cổng 25A, bị khóa lúc nửa đêm nhưng không có người canh gác. Thủ lĩnh 35 tuổi của nhóm, Luttif Afif, còn được gọi là “Issa”, đã cẩn thận chọn điểm mà người của mình sẽ tiến vào Làng. Các đêm trước, hắn đã quan sát thấy các vận động viên leo hàng rào gần Cổng 25A trong tình trạng say xỉn trở về từ các bữa tiệc đêm bên ngoài. An ninh lỏng lẻo và không có vận động viên nào bị chặn lại. Issa trang bị cho bảy đồng bọn của mình bộ đồ thể thao, lý luận rằng nếu lính canh nhìn thấy chúng, họ sẽ nghĩ chúng chỉ là những vận động viên đang ttrở về làng thế vận.
Jamal Al-Gashey, 19 tuổi, một trong những thành viên trẻ nhất của nhóm, nhớ lại sự căng thẳng dâng cao khi họ tiến đến hàng rào. Đến gần hơn, họ bắt gặp một nhóm nhỏ vận động viên Mỹ say xỉn đang trở về phòng ngủ theo cùng một con đường. “Họ đã lén lút rời khỏi làng để đi chơi đêm”, Al-Gashey nói. “Chúng tôi có thể thấy họ là người Mỹ và họ cũng sẽ… vượt qua hàng rào.” Issa nhanh chóng quyết định rằng các vận động viên nước ngoài này có thể che chắn cho nhóm của hắn nếu họ giúp nhau vượt qua hàng rào. “Chúng tôi trò chuyện,” Al-Gashey nhớ lại, “và sau đó chúng tôi giúp đỡ nhau trèo qua.” Anh ta đã đẩy một thành viên của đội Hoa Kỳ lên hàng rào, trên hàng rào không có dây thép gai mà chỉ có những hình nón tròn nhỏ, sau đó người Mỹ đó quay xuống và giúp kéo anh ta lên và vượt qua hàng rào.
Một số viên chức Đức, bao gồm 6 người đưa thư đang trên đường đến một bưu điện dã chiến ở Làng Plaza, đã nhìn thấy các nhóm đang lần lượt trèo qua hàng rào mang theo túi thể thao vào khoảng 4:10 sáng. Nhưng như Issa đã dự kiến, không có người qua đường nào thách thức họ vì cứ nghĩ họ chỉ là những vận động viên về muộn phải leo rào trở về phòng. “Chúng tôi đi bộ một lúc với các vận động viên Mỹ, rồi tạm biệt,” Al-Gashey nhớ lại. Nhóm tách ra và rón rén qua Làng đang ngủ yên để đến một tòa nhà ba tầng đơn điệu trên phố Connollystrasse, một trong ba con phố đi bộ rộng rãi, được trang trí bằng cây bụi và đài phun nước, uốn lượn từ đông sang tây xuyên qua Làng. Ngay cả khi lúc đó lực lượng bảo vệ Olympic không vũ trang hoặc cảnh sát Munich được báo động, có lẽ cũng đã quá muộn. Bởi vì tám gã đàn ông đó là những kẻ khủng bố được trang bị vũ khí hạng nặng từ tổ chức Tháng Chín Đen, một phe cực đoan trong Tổ chức Giải phóng Palestine. Các fedayeen (“chiến binh vì đức tin”) mang theo loại súng trường tấn công Kalashnikov và lựu đạn, giấu dưới lớp quần áo trong túi thể thao, và chúng đã sẵn sàng chiến đấu đến mục tiêu: số 31 Connollystrasse, tòa nhà nằm ở trung tâm Làng Olympic, nơi đoàn đại biểu Israel tham dự Thế vận hội Olympic cư ngụ. Những tên mới bước vào sắp ghi dấu ấn của mình tại Thế vận hội Olympic lần thứ XX.
Bọn khủng bố Tháng Chín Đen biết chính xác mình phải đi đâu sau khi trèo qua hàng rào bao quanh. Vụ tấn công đã được lên kế hoạch từ nhiều tuần trước, và Issa cùng phó tướng của mình, “Tony” (tên thật là Yusuf Nazzal), đã bí mật làm việc tại Làng Olympic để làm quen với địa hình của nó. Issa đã sống ở Đức năm năm và học đại học ở Berlin. Hắn nhận việc tại Làng Olympic với tư cách là một kỹ sư xây dựng. Tony, người được cho là đã làm việc cho một công ty dầu mỏ ở Munich, đã đăng ký làm đầu bếp dưới vỏ bọc.
Công việc tạm thời cho phép cả hai được tự do đi lại khắp Làng. Khi thế giới vui mừng trong vinh quang thể thao, Issa và Tony ngồi trên một chiếc ghế dài tại phố Connollystrasse cùng nhau chơi cờ dưới ánh nắng mặt trời, quan sát các vận động viên ra vào từ số 31. Tony tỏ ra là một đặc vụ đặc biệt giỏi. Luis Friedman, một quan chức của đội Uruguay, cùng chia sẻ số 31 phố Connollystrasse với đội Israel, thậm chí còn phát hiện ra hắn ta bên trong tòa nhà lúc 8 giờ sáng ngày 4 tháng 9. Nói bằng tiếng Anh, người Palestine rụt rè nói với Friedman rằng anh ta là một công nhân trong Làng và thỉnh thoảng có người trong tòa nhà đưa cho hắn ta một ít trái cây dư dùng. Friedman đi đến thùng táo và lê đặt trên bàn và đưa cho hắn ta tất cả số trái cây mà hắn ta có thể mang đi.
Đêm hôm sau, Issa và Tony dẫn đầu đội khủng bố nhanh chóng đi qua Làng. Họ dừng lại ngay gần tòa nhà Israel, thay bộ đồ thể thao vận động viên bằng bộ đồ tác chiến, rồi tiến về phía Connollystrasse (được đặt theo tên vận động viên Mỹ James B. Connolly, người đã giành huy chương vàng tại Thế vận hội năm 1896).
Có 24 căn hộ riêng biệt tại số 31: 11 căn hộ nằm trên hai tầng, với lối vào nằm trên phố chính và một khu vườn phía sau; số còn lại nằm trên tầng bốn, trên cùng là 2 căn hộ áp mái. 21 thành viên của phái đoàn Israel được bố trí ở các căn hộ thông tầng từ 1 đến 6. Tòa nhà này cũng là nơi ở của các vận động viên và quan chức Uruguay, những người có các căn hộ thông tầng khác, từ 7 đến 10, và một số căn hộ khác nữa ở tầng bốn, và đội tuyển Hồng Kông có năm căn hộ ở tầng bốn và hai căn hộ áp mái. Một quản gia Đức sống trong căn hộ song lập còn lại với vợ và hai đứa con nhỏ, và một người phục vụ sở hữu căn hộ còn lại ở tầng bốn.
Ngay sau 4:30 sáng, bọn khủng bố tập trung ở cuối tòa nhà, mở cửa chính màu xanh của căn hộ số 1 và lẻn vào sảnh chung. Trong khi mười căn hộ song lập khác mở thẳng ra đường, căn hộ số 1 có sảnh với thang máy và cầu thang dẫn lên các căn hộ tầng bốn và tầng áp mái, rồi xuống tầng hầm, những con phố và bãi đậu xe ở tầng dưới. Cửa không bao giờ bị khóa.
“Khi chúng tôi đến tòa nhà, người chỉ huy chiến dịch đã giao nhiệm vụ cho chúng tôi,” Al-Gashey kể. “Nhiệm vụ của tôi là đứng gác ở lối vào tòa nhà và những người khác bước lên cầu thang vào tòa nhà để bắt đầu nhiệm vụ.” Với Jamal canh gác lối vào, bọn còn lại trong nhóm đứng bên ngoài căn hộ số 1, nơi ở của 7 người Israel, và cố gắng mở cửa bằng chiếc chìa khóa họ lấy được trong quá trình chuẩn bị cho cuộc tấn công.
Bên trong căn hộ người Israel đang ngủ say: Amitzur Shapira, huấn luyện viên điền kinh, Kehat Shorr, huấn luyện viên bắn súng, Andre Spitzer, huấn luyện viên đấu kiếm, Tuvia Sokolovsky, huấn luyện viên cử tạ, Jacov Springer, trọng tài cử tạ, và Moshe Weinberg, huấn luyện viên đấu vật. Yossef Gutfreund, trọng tài đấu vật, là người duy nhất bị đánh thức bởi tiếng sột soạt ở cửa.
Gutfreund rón rén ra khỏi phòng ngủ và vào phòng khách chung, không muốn đánh thức mọi người. Khi anh đứng chân trần bên cửa, lắng nghe tiếng động, cánh cửa mở ra chỉ vài phân. Ngay cả trong ánh sáng lờ mờ, cơn buồn ngủ vẫn còn làm mờ mắt, anh vẫn nhìn thấy ánh mắt của bọn fedayeen và nòng súng trường tấn công Kalashnikov của chúng. Cơn ngái ngủ lập tức chuyển thành nỗi kinh hoàng. “CHEVRE TISTATRU!!” (“NẤP ĐI, TỤI BÂY!!”), Gutfreund cao 1m90 hét toáng lên, thân hình nặng 110kg như gấu của anh ta đè mạnh vào cánh cửa khi bọn khủng bố bỏ chìa khóa và bắt đầu đẩy từ phía bên kia.
Căn hộ bùng nổ. Sokolovsky, Tuvia, ở chung phòng với Gutfreund, nhảy khỏi giường và chạy vào phòng khách chung.
Gutfreund đang dùng thân mình chặn cửa trước lại.
“Qua cánh cửa hé mở, tôi nhìn thấy một người đàn ông mặt sơn đen đang cầm vũ khí”, Sokolovsky kể lại. “Ngay lúc đó, tôi biết mình phải trốn thoát.”
Sokolovsky hét lên với bạn bè ở các phòng khác, nhảy trở lại phòng ngủ và chạy về phía cửa sổ. “Tôi cố mở cửa nhưng không được. Tôi dùng hết sức đẩy nó.”
Phía sau anh, ba tên khủng bố đang cố gắng hết sức để đẩy Gutfreund ra và đẩy cửa mở. Họ dùng tay đẩy, chống chân vào tường bên kia hành lang, rồi thọc nòng hai khẩu Kalashnikov qua khe hở nhỏ và dùng chúng để nạy khung cửa. Gutfreund, người đàn ông lực lưỡng, giữ chúng ít nhất mười giây trước khi chúng tràn được vào căn hộ, ép anh ngã xuống đất dưới họng súng.
Trong cơn hoảng loạn mù quáng, cuối cùng Sokolovsky cũng phá được cửa sổ. “Nó rơi ra và tôi nhảy lên rồi bắt đầu chạy.” Tên fedayeen chạy vào phòng ngủ phía sau anh. “Bọn khủng bố Ả Rập bắt đầu bắn vào tôi và tôi có thể nghe thấy tiếng đạn bay sát tai mình.”
Sokolovsky không hề ngoảnh lại. Anh chạy thụt mạng qua khu vườn nhỏ, chân trần trong bộ đồ ngủ, rẽ vào một nhánh đường Connollystrasse, rồi trốn sau một bồn hoa bê tông cao.
Trở lại căn hộ số 1, bọn khủng bố lôi Gutfreund ra khỏi sàn và bắt đầu vây bắt các vận động viên khác. Shapira và Kehat Shorr, một người Romania từng chiến đấu với Đức Quốc xã trong Thế chiến thứ hai, đều bị lôi ra khỏi giường. Nhưng một trong hai người Israel vẫn còn thức, và di chuyển nhanh chóng. Khi Issa xông vào một phòng ngủ khác, hắn bị Moshe Weinberg chặn lại, giật phắt một con dao gọt hoa quả trên bàn cạnh giường và chém vào tên thủ lĩnh khủng bố, làm rách túi áo khoác bên trái của hắn nhưng không chạm được vào người hắn.
Issa ngã sang một bên, và một tên khủng bố khác đứng phía sau hắn bắn một phát súng trường thẳng vào đầu Weinberg. Viên đạn xuyên qua mép miệng Weinberg, xuyên ra phía bên kia, để lại một vết thương sâu hoắm. Sức mạnh của viên đạn khiến Weinberg quay cuồng, máu tuôn ra như suối từ bên khuôn mặt của anh.
Theo Al-Gashey, Weinberg đã tấn công Issa “và tóm lấy anh ta”. “Ngay lúc đó, một thành viên khác trong nhóm khủng bố bước vào phòng và nổ súng vào vận động viên đang ôm chặt thủ lĩnh và đã tước lấy vũ khí của anh ta.”
Cuộc tấn công giờ đây trở nên vô cùng khủng khiếp. Máu, máu Do Thái, một lần nữa lại đổ trên đất Đức.
Bọn fedayeen lôi Weinberg ra khỏi sàn và kéo vào phòng khách chung. Sau đó, chúng đẩy bốn người Israel còn lại lên cầu thang trong căn hộ số 1 vào phòng ngủ của Andre Spitzer và Jacov Springer. Tất cả người Israel đều bị trói chặt ở cổ tay và mắt cá chân bằng những sợi dây thô được cắt sẵn theo đúng độ dài.
Mặc dù bị thương nặng, Weinberg vẫn còn tỉnh táo. Trong khi Issa và hai tên khủng bố khác canh gác tù nhân, Tony và bọn Palestine còn lại lôi người Israel bị thương ra đường Connollystrasse và bắt đầu xô đẩy anh ta đến căn hộ tiếp theo mà bọn fedayeen muốn bắt thêm con tin.
Tuy nhiên, không hiểu sao, bọn khủng bố đã bỏ qua căn hộ số 2, nơi hai vận động viên đấu kiếm người Israel có thân hình mảnh khảnh Dan Alon và Moshe Yehuda Weinstain, hai xạ thủ Henry Herskowitz và Zelig Shtroch, cùng vận động viên đi bộ Tiến sĩ Shaul Ladany đều đang ngủ. Thay vào đó, bọn fedayeen kéo Weinberg thêm vài thước nữa dọc theo lối đi bộ cho đến khi anh ta đứng bên ngoài căn hộ số 3, nơi lưu trữ của 6 đô vật và vận động viên cử tạ Israel.
Ngôi làng vẫn yên tĩnh đến chết người, và đang ngủ yên bên trong căn hộ số 3 là David Berger, một sinh viên Mỹ tốt nghiệp trường Luật Columbia và là con trai của một gia đình giàu có ở Cleveland; Zeev Friedman, một đô vật cao 1m60, sinh ra ở Siberia; và Eliezer Halfin, Yossef Romano, Gad Tsabari, và Mark Slavin, có lẽ là những đô vật tài năng nhất của Israel. Nhóm Palestine lên đạn súng trường tấn công, mở cửa và lẻn vào bên trong.
Tsabari, một đô vật cao 1m63, người đã hoàn thành vị trí thứ 12 đáng nể trong nội dung vật tự do Olympic, bị đánh thức bởi tiếng súng đã xé toạc hàm của Moshe Weinberg (anh nói rằng mình nghe “một tiếng gì đó giống như một tiếng nổ”). Nhưng giống như hàng chục vận động viên và quan chức khác ở ngôi nhà xung quanh nghe thấy tiếng súng đầu tiên, anh ta nghĩ mình đang mơ và chỉ trở mình ngủ tiếp. Vài phút sau, anh nghe thấy tiếng nói bên ngoài cửa phòng ngủ của mình. Tò mò nhưng không quá sợ hãi, Tsabari trèo ra khỏi giường, cẩn thận không đánh thức bạn cùng phòng, David Berger, rồi nhảy vào mặc quần dài và ngái ngủ mở cửa xem có chuyện gì bên ngoài.
Tsabar đụng đầu với một tên khủng bố mặc áo len vàng chói đang chĩa súng vào hai người bạn đã bị bắt của anh là Mark Slavin và Eliezer Halfin. Ngay khi Tsabari xuất hiện tên Palestine quay sang chĩa súng vào Tsabari. “Kể từ lúc đó, tôi phải đứng sát tên khủng bố và hắn ra lệnh cho Slavin và Halfin đứng sát sau tôi.” Những thành viên tò mò khác của đội Israel nghe thấy tiếng động, và vài giây sau, David Berger xuất hiện phía sau Tsabari. Anh ta “cũng mắc sai lầm như tôi”, Tsabari nhớ lại. “Tôi bước ra, anh ta cũng vậy, và thế là anh ta… cũng bị kẹt cứng.”
Đâm mũi súng Kalashnikov vào ngực các vận động viên, những tên khủng bố hét lớn ra lệnh cho họ bước xuống cầu thang để gia nhập với các vận động viên cử tạ cơ bắp Yossef Romano và Zeev Friedman cùng với Moshe Weinberg tội nghiệp đang lấy tay giữ chặt chiếc khăn đè lên gò má đẫm máu. Bọn Palestine đã có các mục tiêu của chúng. Weinberg bắt đầu lau vết thương bằng chiếc khăn, rồi bóp chặt miếng vải cho đến khi máu nhỏ giọt xuống sàn nhà bóng loáng.
Trong khi một tên khủng bố bắt đầu kiểm tra các phòng để tìm kiếm bất kỳ thành viên nào khác của nhóm Israel còn trốn trong tủ hoặc dưới gầm giường, những người đã bị bắt đứng gần như trần truồng dưới nòng súng rung rung đầy hăm dọa. Tony chạy xuống cầu thang từ tầng hai, hỏi xem những người còn lại trong đội đang trốn ở đâu. Không ai trả lời.
“Chúng ta hãy xông vào đánh chúng!” David Berger nói nhanh bằng tiếng Do Thái ngắn gọn với những anh em Israel khác. “Chúng ta chẳng còn gì để mất!” Nhưng bọn Palestine đã quá tinh ý. “Một tên khủng bố hiểu ý David Berger và dí nòng súng vào eo tôi, ra lệnh cho tôi đi về phía hành lang, hướng về phía lối ra”, Tsabari kể lại.
Bọn khủng bố thúc người Israel đứng thành một hàng, tay giơ lên đầu – ngay cả Yossef Romano, người phải chống nạng sau khi bị rách dây chằng ở chân trong lúc thi đấu, cũng giơ tay lên đầu – và ra hiệu cho họ đi ra đường Connollystrasse.
Tsabari biết tình hình đã rất nguy cấp. Bọn Palestine đẩy họ về phía căn hộ số 1, nơi những người Israel khác đang bị giam giữ, nhưng Tsabari không hề hay biết chuyện gì đang xảy ra. Theo như anh linh cảm, có lẽ bọn Palestine sắp hành quyết tất cả bọn anh. Với lời kêu gọi của David Berger rằng chúng mình không còn gì để mất vẫn còn văng vẳng trong đầu, Tsabari quyết định tìm đường thoát thân.
Khi họ được dẫn xuống đường Connollystrasse và quay trở lại lối vào tiền sảnh số 1, Tsabari liền lao sang một bên: “Thay vì đi về phía những huấn luyện viên, tôi đi xuống cầu thang.” “Tôi tin rằng chính bàn tay của Chúa đã dẫn đường cho tôi,” Tsabari đã nói.
Tsabari đẩy một tên khủng bố đang chặn đường mình và lao xuống cầu thang từ căn hộ số 1, hướng đến tầng hầm ngầm và bãi đậu xe Olympic, một khu bên dưới các căn hộ của các vận động viên. Ít nhất một tên khủng bố đã đuổi theo anh, nhưng các cột trụ trong bãi đậu xe ngầm đã che chắn Tsabari khi anh chạy đến nơi an toàn. “Tôi cảm thấy hai hoặc ba viên đạn đang nhắm vào mình. Tôi chạy thục mạng, chạy ngoằn ngoèo để tránh loạt đạn. Tôi không thể tin được là không viên đạn nào trúng tôi. Sự việc chỉ kéo dài vài phút nhưng mỗi phút lại dài bằng cả năm tháng cuộc đời tôi.”
Tsabari bỏ lại hỗn loạn phía sau. Khi vận động viên đô vật đang liều mình chạy thoát thân, lợi dụng sự hỗn loạn tức thời Weinberg dù đang bị thương nặng đã vật ngã một tên khủng bố, 19 tuổi có mật danh là “Badran” (tên thật Mohammed Safady), tung một cú đấm cực mạnh vào mặt hắn khiến hắn gãy nhiều răng và vỡ xương quai hàm.
Bị một khẩu Kalashnikov chĩa thẳng vào từ phía sau, Yossef Romano và David Berger chỉ biết bất lực nhìn Weinberg chộp lấy khẩu súng của Badran mà anh đã đánh văng xuống sàn. Tên khủng bố đang nhắm bắn vào Tsabari liền quay phắt lại, ngắm vào người Israel gây rối kia, và bắn một loạt đạn thẳng vào ngực anh. Weinberg hứng đạn, ngã gục xuống đất trong vũng máu.
Dĩ nhiên, phe Palestine nhìn nhận sự việc theo một góc nhìn khác. Mặc dù họ không ngần ngại xác nhận chi tiết về vụ giết người, nhưng họ kiên quyết không muốn có thêm thương vong. Theo Abu Daoud, một chỉ huy của nhóm Tháng Chín Đen và là một trong số đầu não đã lên kế hoạch và tổ chức vụ tấn công, nhóm khủng bố chưa hề nhận được chỉ thị cụ thể nào để nổ súng vào các con tin. Tuy nhiên, y tuyên bố, “một trong những vận động viên Israel, một người lực lưỡng, đã cố gắng giật lấy khẩu súng của nhóm, và vì vậy họ buộc lòng phải bắn anh ta, nếu không thì tất cả bọn họ sẽ chết. Việc bắn ai đó để tự vệ là điều hợp lý.”
Jamal Al-Gashey ra mặt xác nhận: “Chúng tôi chưa bao giờ nhận được chỉ thị giết bất kỳ ai, dù là để gây áp lực hay vì bất kỳ lý do nào khác.” Tuy nhiên, bọn Palestine đã được lệnh phải nổ súng nếu gặp bất kỳ sự kháng cự nào, và họ hẳn đã biết trước những vận động viên Israel khỏe mạnh, cường tráng này sẽ không dễ dàng khuất phục trước một mối đe dọa vũ trang. Bạo lực là một điều bi thảm không sao tránh khỏi.
Sau khi giết Weinberg, bọn fedayeen biết rằng tiếng súng nổ đã đánh thức những người khác đang ngủ gần đó. Đèn nhấp nháy trong các phòng dọc phố Connollystrasse; rèm cửa sột soạt mở ra. Cảnh sát
chắc chắn sẽ có mặt tại hiện trường trong vòng vài phút, và bọn khủng bố bắt đầu la hét và dùng súng uy hiếp những con tin còn lại đi về phía căn phòng trên lầu của số 31 Connollystrasse, nơi Gutfreund và các vận động viên khác đang bị giam giữ.
Nhưng Yossef Romano, một thợ trang trí nội thất, vốn thường xuyên tập cử tạ tại nhà ở Israel tới bốn tiếng mỗi ngày, không muốn ra đi trong im lặng. Ngay cả cảnh tượng những viên đạn xé toạc thân thể Moshe Weinberg cũng không dập tắt được tinh thần chiến đấu của anh. Khi Romano bị đẩy vào trong phòng trên lầu, anh ta ném nạng xuống và lao vào một tên khủng bố, cố gắng tuyệt vọng để cướp súng và cứu bạn bè. Khi anh giật được một khẩu Kalashnikov trên tay địch thì một loạt đạn từ một khẩu súng Palestine khác găm vào người anh. Yossef, người cha yêu quý của ba cô con gái nhỏ, ngã giật xuống sàn. Một người Israel thứ hai đã chết.
“Điều đó là cần thiết và nằm ngoài tầm kiểm soát của bất kỳ ai”, Al-Gashey tuyên bố. “Họ suýt nữa đã làm hỏng chiến dịch. Họ là những vận động viên lực lưỡng. Người thứ hai là một vận động viên lực lưỡng khác đã tấn công một thành viên trong nhóm chúng tôi và gần như giật được khẩu súng trong tay anh ta, vì vậy chúng tôi cũng phải nổ súng vào y.”
Bốn người Israel sống sót từ căn hộ số 3, Berger, Friedman, Halfin và Slavin, bị trói và dồn vào phòng ngủ của Andre Spitzer, nơi các vận động viên khác đang bị giam giữ. Thi thể của Yossef Romano được đặt trên sàn giữa phòng như một lời nhắc nhở đầy kịch tính cho người Do Thái về số phận sẽ giáng xuống họ nếu họ cố gắng trốn thoát. Trong khi đó, các thành viên khác của đội Israel ở các tòa nhà liền kề, nghe tiếng súng, đang cố gắng thoát ra qua cửa sổ phía sau. Trong số đó có Tiến sĩ Shaul Ladany, một giáo sư tại Trường Kinh doanh hậu đại học ở Tel Aviv, nổi tiếng với khả năng đi bộ 50km, người đã được giải thoát khỏi trại tập trung Bergen-Belsen khi mới tám tuổi.
“Mọi chuyện diễn ra quá nhanh đến nỗi tôi không kịp suy nghĩ thấu đáo”, Tiến sĩ Ladany kể lại. “Tôi nhanh chóng nhìn quanh, thấy rõ chuyện gì đang xảy ra và vội vã chạy ra phía sau. Bạn không nhìn người khác khi họ đang bắn bạn. Theo tôi biết, chúng tôi không nhận được cảnh báo việc này sẽ xảy ra, nhưng người Do Thái luôn cảnh giác vì nguy hiểm rình rập họ ở bất cứ nơi đâu họ đến.”
Shaul Ladany chạy vòng quanh tòa nhà nơi đội tuyển Hoa Kỳ đóng quân và đập cửa phòng huấn luyện viên ở tầng trệt. Theo lời kể của vận động viên marathon người Mỹ Kenny Moore, người đang ngủ ở tầng sáu, Bill Bowerman, huấn luyện viên điền kinh của đội tuyển Hoa Kỳ, đã trả lời một cách uể oải. Ladany đứng trước mặt anh ta, hoàn toàn suy sụp.
“Tôi có thể vào không?” Ladany hỏi với giọng tuyệt vọng.
“Vì sao?” Bowerman hỏi với vẻ mệt mỏi, gầm gừ.
“Bọn Ả Rập đang ở trong tòa nhà của chúng tôi”, Ladany nói.
“Được rồi, đẩy chúng ra ngoài đi,” Bowerman trả lời.
“Họ có súng,” Ladany nói, “hai người đã chết.”
Nghe vậy, Bowerman choàng tỉnh ngay, liền kéo Ladany vào phòng an toàn và gọi cảnh sát.
Bọn khủng bố muốn bắt giữ những người Israel ở căn hộ số 2 nhưng phát hiện Ladany đang chạy trốn khỏi tòa nhà nên quyết định dừng lại. “Chúng tôi cũng muốn chiếm căn hộ số 2 nhưng dường như những người ở số 2 đã nghe thấy những gì đang xảy ra và đã thoát ra ngoài qua cửa sổ”, Jamal Al-Gashey cho biết.
Nhưng mặc dù Ladany đã trốn thoát, vẫn còn một số người Israel khác ở trong căn hộ số 2, nhìn qua rèm cửa để xem chuyện gì đang xảy ra. Những người Israel bên trong đã bị đánh thức trước đó bởi các tiếng súng liên tục của các vận động viên tác xạ bắn chỉ thiên để ăn mừng thành tích cá nhân trong Thế Vận hội, nhưng tiếng súng này nghe có vẻ khác.
Henry Herskowitz, tay súng người Israel đã mang cờ Israel đi quanh Sân vận động Olympic trong lễ khai mạc, tỉnh giấc vì một chi tiết nhỏ trong cơn hỗn loạn. “Tôi nghe thấy tiếng súng trường tự động [đang lên đạn],” anh nhớ lại. “Khi nạp đạn vào nòng, bạn có thể nghe thấy âm thanh đặc biệt này; chỉ loại súng trường này mới có thể tạo ra âm thanh đó. Vì vậy, tôi cảm thấy có điều gì đó không ổn. Tôi đứng dậy và nhìn ra ngoài cửa sổ.”
Herskowitz vẫn đang nhìn ra ngoài cửa sổ thì một nhân viên an ninh trẻ của Làng Olympic chạy bộ xuống phố hướng về tòa nhà Israel. Một nữ lao công người Đức trên đường đi làm đã gọi điện đến văn phòng an ninh và báo cáo có tiếng súng nổ lúc gần 4:50 sáng; viên chức phụ trách đã cử nhân viên an ninh mang theo bộ đàm đến kiểm tra báo cáo. Người bảo vệ trông có vẻ không mấy vui vẻ khi đi lang thang trên phố vào sáng sớm, và khi thấy Herskowitz nhoài người ra ngoài cửa sổ, anh ta lớn tiếng gọi to với người Israel, hỏi chuyện gì đã xảy ra.
Herskowitz chỉ có thể nhún vai một cách kịch tính thay cho câu trả lời. Nhân viên an ninh Đức nhìn quanh quất nhưng không có gì bất thường, và rồi, ngay khi anh ta vừa quay người định rời đi, cửa trước của tòa nhà phái đoàn Israel từ từ mở ra. Đứng chắn trước mặt người Đức trong khung cửa là một người Ả Rập trang bị súng Kalashnikov.
Nhân viên an ninh vẫn giữ được vẻ bình tĩnh. “Chuyện này nghĩa là sao?” anh ta quát lên, lúc đầu bằng tiếng Đức, sau đó bằng tiếng Anh chậm rãi, đều đặn. Nhưng tên khủng bố dường như không hề biết đến sự hiện diện của nhân viên Đức. Tên khủng bố chỉ đảo mắt nhìn khắp phố, rồi quay người và biến mất bên trong tòa nhà, để lại viên cảnh sát trẻ đứng bên ngoài, người toát cả mồ hôi.
Người cảnh sát Đức vội vã lắp bắp gọi vào bộ đàm, báo cho các đồng nghiệp đang sững sờ trong phòng điều khiển rằng một tên bịt mặt, tay cầm súng máy, đang ở trong tòa nhà Israel. Anh ta cũng nhìn thấy hai tên vũ trang nữa ở tầng một. Chuông báo động cuối cùng cũng reo lên. Hai nhân viên an ninh không vũ trang khác của Làng Thế Vận chạy cuống cuồng xuống phố Connollystrasse.
Quan chức cấp cao đầu tiên của Đức được đánh thức với tin tức về vụ tấn công Làng Olympic là Manfred Schreiber, Cảnh sát trưởng Munich có khuôn mặt sắc như đá granit. Được biết đến với biệt danh “Sheriff” vì lúc nào cũng tóm được thủ phạm trong mọi vụ án hình sự, Schreiber là một cử nhân luật đã chứng tỏ được bản lĩnh của mình khi là đứng đầu đội thám tử địa phương, phá được hàng loạt vụ án khó và trở thành cảnh sát trưởng trẻ nhất nước Đức vào tháng 11 năm 1963.
Schreiber được liên lạc qua điện thoại tại nhà ngay sau 5:00 sáng, trong vòng 10 phút sau lần chạm trán đầu tiên giữa tên fedayeen và nhân viên an ninh Đức.
Ông ngay lập tức ra lệnh phong tỏa khu vực xung quanh tòa nhà của Israel và niêm phong Làng Olympic.
Sau đó, Schreiber gọi điện cho Bruno Merk, Bộ trưởng Nội vụ Bavaria, và thông báo ngắn gọn về tình hình. Schreiber mặc quần áo vội vã, để vợ và hai cô con gái nhỏ đang ngủ trên giường, rồi phóng xe đến Làng, còi xe inh ỏi và đèn xanh nhấp nháy giữa đêm.
Trong khi Schreiber lái xe, các đường dây điện thoại Đức bắt đầu kêu réo inh ỏi. Merk gọi điện cho Hans-Dietrich Genscher, người đồng cấp của ông trong chính phủ liên bang. Tin tức “như một cú sốc lớn đối với tôi”, Genscher nói. “Điều đó có nghĩa là người Do Thái ở Đức lại gặp nguy hiểm.” Genscher ngay lập tức gọi điện cho Thủ tướng Đức Willy Brandt và Bộ trưởng Ngoại giao Walter Schee. Scheel đánh thức viên chức cấp cao của mình, Paul Frank, và liên lạc với Eliashiv Ben Horin, đại sứ Israel tại Bonn. Đến 5:40 sáng, đại sứ đã liên lạc với các nhân vật cấp cao trong chính phủ Israel, và các quan chức trên khắp Bonn và Israel bắt đầu thức giấc để nghe tin về cuộc khủng hoảng. Golda Meir, thủ tướng Israel, được đánh thức tại dinh thự chính thức của bà trên phố Ramban ở Jerusalem bởi thư ký quân sự của bà, Tướng Israel Lior. Các quan chức của bà sớm phát hiện ra ai đang khống chế những chàng trai Israel.
Lúc 5 giờ 10 phút sáng, một cảnh sát Munich, được điều đến Connollystrasse theo lệnh của Schreiber, đi bộ dọc theo đường phố để đến khu nhà ở của người Israel, hai tay hơi giơ lên để ra hiệu mình không mang vũ khí. Khi anh ta nhìn lên tòa nhà ba tầng, tìm kiếm dấu hiệu của sự sống, một tên khủng bố xuất hiện ở cửa sổ tầng hai và ném hai tờ giấy xuống vỉa hè. Đó là tối hậu thư của Tháng Chín Đen. Viên cảnh sát vội vã nhặt hai tờ giấy và hấp tấp chạy đi.
Trong vòng mười lăm phút, khoảng 5:25 sáng, một sĩ quan cảnh sát Đức cấp cao hơn xuất hiện trước tòa nhà Israel, yêu cầu được biết chuyện gì đang xảy ra. Người Đức không thể tin được là có người đang cố gắng phá hỏng Thế vận hội của họ. Mặc bộ đồ safari mỏng, với sáp xi đánh giày bôi đen mặt, cổ và tay, Issa bước ra từ cửa trước để nói chuyện ngắn gọn với viên sĩ quan. Bọn fedayeen khác từ cửa sổ tầng trên chĩa súng tiểu liên vào cả hai người.
Thế vận hội Munich được tổ chức rất có trật tự và hiệu quả đến nỗi viên cảnh sát nghĩ rằng mình có thể ra lệnh cho các tay súng rời khỏi tòa nhà và đầu hàng. Nhưng nhóm Palestine là những kẻ liều mạng, và Issa quyết định chứng minh quyết tâm của chúng với thế giới. Hắn ra hiệu qua vai, và thi thể gần như trần truồng, đẫm máu của Moshe Weinberg được mang ra cửa và bị ném một cách thô bạo trước mặt viên sĩ quan cảnh sát đang trố mắt kinh hoàng.
Weinberg bị sát thương rất nặng. Một bên mặt của anh bị bắn văng ra và ngực bị vỡ tung. Máu của anh tạo thành một tấm vải liệm quanh cơ thể anh.
“Anh ta trần truồng, máu me bê bết… khắp xung quanh”, Shmuel Lalkin, trưởng đoàn Israel tại Thế vận hội Munich, cho biết. Lalkin đang ngủ trong căn hộ số 5, chỉ cách căn hộ số 1 vài mét, thì những phát súng đầu tiên nổ ra. Anh tỉnh dậy, đi đến cửa sổ và liếc nhìn khắp con phố bên ngoài. Không thấy gì, anh quay lại giường, nhưng sau đó lại bị đánh thức bởi những phát súng tiếp theo. “Tôi nhìn lại, và rồi tôi nhận ra Weinberg đã… bị ném ra khỏi cửa xuống vỉa hè.” Thi thể anh nằm cách cửa sổ của Lalkin không tới hai mươi thước.
Ở căn hộ số 2, Henry Herskowitz cũng đang kinh hãi nhìn Weinberg. Herskowitz và bạn cùng phòng đã chặn cửa trước để bọn khủng bố không vào được nhưng vẫn có thể nhìn ra ngoài qua cửa sổ. “Tôi nhìn sắc mặt anh ấy và thấy anh ấy không có dấu hiệu gì của sự sống”, anh nói. Viên cảnh sát hét vào bộ đàm cầu cứu, và lúc 5 giờ 30 phút, hai nhân viên y tế của Hội Chữ thập đỏ đã đỗ xe cứu thương trên đường dưới tòa nhà Israel. Họ chạy bộ lên cầu thang đến Connollystrasse và chạy đến chỗ Weinberg, dũng cảm phớt lờ những tên khủng bố có vũ trang đang đứng ở lối vào căn hộ số 1. Các nhân viên y tế quỳ xuống bên cạnh thi thể Weinberg và kiểm tra mạch của anh: không còn hy vọng gì nữa.
“Hai nhân viên Hội Chữ thập đỏ đến và họ làm dấu bằng tay, và tôi hiểu rằng anh ấy đã chết”, Herskowitz nhớ lại. “Tôi nói với bạn cùng phòng, ‘Chúng ta phải rời khỏi căn hộ thôi.’ Chúng tôi xuống cầu thang, đi về phía bên kia tòa nhà. Mỗi căn hộ đều có một khu vườn nhỏ. Chúng tôi ra khỏi đó và chạy sang phía bên kia đường.”
Bên ngoài, cảnh sát bắt đầu vây quanh tòa nhà; hai nhân viên y tế khiêng thi thể Weinberg đi.
Trong khi đó, Shmuel Lalkin chạy xuống cầu thang, đến văn phòng nhỏ của mình sau khi thấy Weinberg bị ném ra đường và bắt đầu gọi điện cho các quan chức Olympic, Israel và các nhà báo để báo cáo sự việc. Các quan chức ngay lập tức gọi điện cho Israel và báo cáo tóm tắt cho các quan chức chính phủ cấp cao, trong khi các nhà báo lục tục xuống Làng Olympic. Vào thời điểm đó, Manfred Schreiber và hàng chục tay súng vũ trang của Cảnh sát Đức đã đến vào khoảng 5:30 đến 5:45 sáng. Các nhà báo Israel đã có mặt tại hiện trường bên trong hàng rào cảnh sát để cố gắng tìm hiểu chuyện gì đang xảy ra.
Trong khi Schreiber đang chạy về phía Làng Olympic, Walther Tröger, vị thị trưởng trẻ tuổi của Làng Olympic và là tổng thư ký của Ủy ban Olympic Quốc gia Tây Đức, cũng được báo tin về vụ tấn công. “Chúng tôi bị đánh thức bởi tiếng cảnh sát đập cửa lúc 5:30 sáng”, Tröger nói. “Vợ tôi ra mở cửa và gọi tôi. Họ [cảnh sát] nói đã xảy ra hành động khủng bố ở Làng có liên quan đến người Israel. Vì sự việc xảy ra ở Làng, nên bọn khủng bố cho biết chúng muốn thị trưởng Làng phải có mặt trong cuộc đàm phán. Chúng sẽ không chấp nhận cảnh sát trừ khi có tôi đi cùng.” “Tôi không kịp sốc… vì tôi gần như dính líu ngay từ đầu,” Tröger nói. Ông nhanh chóng mặc quần áo và chạy xuống hiện trường.
Schreiber đến cùng lúc với Tröger, và hai người đàn ông được cho xem những mảnh giấy mà bọn khủng bố đã ném ra khỏi cửa sổ. Yêu cầu rất rõ ràng: bọn khủng bố muốn thả 234 tù nhân đang bị giam giữ tại các nhà tù Israel và hai người đang bị giam giữ tại các nhà tù Đức: Andreas Baader và Ulrike Meinhof, thủ lĩnh của băng đảng khủng bố khét tiếng Baader-Meinhof. Đó là một cuộc trao đổi người trực tiếp, dù không công bằng, và hạn chót là 9 giờ sáng. Nếu giới lãnh đạo Israel không sẵn sàng thả hàng chục tên khủng bố Palestine cứng đầu, bọn du kích Tháng Chín Đen sẽ bắt đầu hành quyết các con tin của chúng.
Cảnh sát Đức hiện đã đổ vào Làng Thế vận hội. Vụ tấn công được xác nhận là một vụ khủng bố và Schreiber đã chính thức báo động cho chính quyền Bonn và quân đội ngay sau 5:30 sáng. Lực lượng tiếp viện nhanh chóng đến: lính bắn tỉa với áo chống đạn, súng tiểu liên và súng trường có kính ngắm. Họ tràn vào Connollystrasse, trèo lên mái nhà nhìn xuống số 31 và chờ đợi.
Schreiber, Tröger và các quan chức cấp cao khác của Đức đã ngay lập tức triệu tập một cuộc họp giải quyết khủng hoảng trong một căn phòng tại Tòa nhà hành chính phía đông Làng Olympic để quyết định cách ứng phó với vụ tấn công. Ưu tiên hàng đầu của Schreiber là mở một kênh liên lạc với bọn khủng bố. Một sĩ quan của ông, một nữ cảnh sát trẻ tên là Frau Lauterbach, đã có mặt tại Connollystrasse để cố gắng liên lạc với bọn khủng bố, nhưng cô sẽ sớm cần được thay thế bởi một sĩ quan giàu kinh nghiệm hơn.
Anneliese Graes, một nữ cảnh sát 42 tuổi đến từ Essen, người đã tình nguyện làm nhân viên bảo vệ Olympic, đề nghị làm trung gian. Đó là một quyết định dũng cảm, và Graes hoàn toàn phù hợp với công việc này: cô có phong thái chín chắn, đường hoàng mà cấp trên hy vọng sẽ khiến bọn khủng bố cảm thấy an tâm.
Vào lúc 8:10 sáng, Anneliese Graes bắt đầu cuộc hành trình dài từ tòa nhà hành chính Olympic, đi qua hàng rào cảnh sát, xuống giữa phố Connollystrasse, dưới ánh mắt tò mò của các vận động viên vẫn còn trong phòng, và dọc theo số 31. Cô dừng lại cách tòa nhà một đoạn ngắn và bắt đầu nói với nữ cảnh sát Lauterbach rằng cô sẽ tiếp quản nhiệm vụ.
Trong khi cô đang nói chuyện, Issa xuất hiện ở cửa trước của số 31. Hắn nán lại một lúc, có lẽ bối rối trước cảnh tượng hai người phụ nữ – Graes, rực rỡ trong bộ đồng phục an ninh Olympic màu xanh nhạt đứng trước mặt hắn không mang vũ khí.
Graes là người nóng tính. “Đây là thứ rác rưởi gì vậy?” cô lập tức hỏi tên khủng bố.
“Chuyện này chẳng liên quan gì đến cô hay nước Đức cả,” Issa nói, giật mình vì giọng điệu của cô. Нắn nói tiếng Đức lưu loát (theo Graes thì có pha giọng Pháp) và bắt đầu giải thích những yêu cầu của mình.
“Chúng tôi không thể làm gì để giải thoát khỏi Israel tất cả tù nhân chính trị mà ông muốn,” Graes nói với Issa. “Chúng tôi chỉ có thể chuyển các điều khoản của ông. Tại sao ông không đưa ra những điều kiện mà chúng tôi có thể đáp ứng?”
Issa mỉm cười gượng gạo. Hắn không muốn mặc cả. “Thả hết tù nhân ra,” hắn nói đơn giản, “nếu không tất cả con tin sẽ chết.”
Ngoại trừ sự xuất hiện của Graes, đường Connollystrasse tương đối im lặng và ít hoạt động từ 6:00 đến 8:15 sáng. Issa hoặc Tony thỉnh thoảng xuất hiện bên ngoài cửa trước để liếc nhìn lên xuống đường phố, và bọn khủng bố thỉnh thoảng lại liếc nhìn ra ngoài cửa sổ tầng trên và dọc theo lối đi để bảo đảm quân đội Đức không tấn công bất ngờ. Nhưng những cảnh tượng kinh hoàng ở số 31 không làm xáo trộn phần còn lại của Làng. Các quan chức Đức chỉ cần dựng rào chắn xung quanh tòa nhà, và phần còn lại của Làng thức dậy và bắt đầu chuẩn bị cho Thế vận hội, không hề hay biết về cuộc bao vây. Lúc 8 giờ sáng, các sự kiện trong ngày bắt đầu khởi tranh đúng lịch trình với các giải đấu cưỡi ngựa.
Cảnh tượng ở Connollystrasse lúc 8:15 sáng có lẽ được mô tả rõ nhất bởi Wolfgang Gitter, một nhà báo Đông Đức đã lẻn vào phòng của các vận động viên cử tạ Đông Đức, ngay đối diện với phái đoàn Israel. Cách đó khoảng 15 thước, “năm người đàn ông có vũ trang đang mỉm cười với tôi [Gitter]”, theo báo cáo diễn tiến sự kiện, sau này được tìm thấy trong hồ sơ của cảnh sát mật Đông Đức, cơ quan Stasi đáng sợ, có hàng chục điệp viên tại Thế vận hội.
Ở lối vào tòa nhà, khuôn mặt vẫn còn sẫm màu vì sáp xi đánh giày, Issa đứng đó trong bộ đồ vải lanh và chiếc mũ trắng, thỉnh thoảng bên khung cửa sổ tầng hai là một tên khác đội mũ rộng vành màu xám đậm, đeo kính râm lớn, mặc áo sơ mi họa tiết đỏ hở phía trước để lộ sợi dây chuyền vàng. Đó là Tony, phó chỉ huy của Tháng Chín Đen, biệt danh “Cao bồi”.
“Cuối cùng, một gã trẻ hơn với mái tóc xoăn đen và áo sơ mi đỏ xuất hiện ở cửa ban công tầng ba và một tên ăn mặc tương tự với khẩu súng lục. Ngoài ra, một tên khác mặc áo sơ mi xanh đậm cũng được nhìn thấy một phần ở cầu thang và cũng ở phòng trên tầng hai.” Khi những người Đông Đức khác bắt đầu chụp ảnh ngôi nhà, “anh chàng cao bồi nháy mắt và chạm vào khẩu súng lục mà không thực sự rút ra. ‘Tôi không thích điều đó,’ y nói, nhưng y cho họ hiểu rằng nhóm người Đông Đức không có gì phải sợ cả”, báo cáo của Stasi viết.
Mặc dù ít có hoạt động trên phố Connollystrasse, tòa nhà hành chính G-1 của Làng Olympic lại là một khung cảnh náo nhiệt từ 6 giờ sáng đến 7 giờ tối. Lúc 7 giờ sáng, Hans-Dietrich Genscher, Bộ trưởng Nội vụ Liên bang Đức, đã bay đến Munich cùng Ulrich Wegener, tùy viên của ông, người đóng vai trò là sĩ quan liên lạc giữa Genscher và lực lượng biên phòng liên bang Đức (Bundesgrenzschutz). Hàng chục, rồi hàng trăm nhà báo và phóng viên truyền hình cũng bắt đầu đổ xô đến trung tâm hành chính. Báo chí chỉ có rất ít thông tin, nhưng tất cả mọi người ở đó đều biết đó là một thời khắc quan trọng trong lịch sử: một cuộc tấn công khủng bố tại Thế vận hội Olympic. Hầu hết những người có mặt đều khó có thể tin điều đó là sự thật. Chẳng có gì là thiêng liêng sao? Các báo cáo về
cuộc tấn công bắt đầu dẫn đầu các chương trình phát thanh và truyền hình tin tức trên toàn thế giới.
Lúc 7:15 sáng, các quan chức cấp cao của Đức đã họp tại tầng hầm của tòa tháp hành chính Olympic G-1. Những người tham dự bao gồm Schreiber, Tröger, Genscher, Hans-Jochen Vogel (phó chủ tịch Ban Tổ chức và cựu thị trưởng Munich), Willi Daume (chủ tịch Ủy ban Olympic Quốc gia Đức và trên thực tế là người đứng đầu Liên đoàn Điền kinh Nghiệp dư Đức), và Bộ trưởng Nội vụ Bavaria Bruno Merk.
Mặc dù Hans-Dietrich Genscher là quan chức hoặc chính trị gia cấp cao nhất có mặt, nhưng những đặc thù của hiến pháp Đức thời hậu chiến đã đảm bảo rằng cuộc khủng hoảng sẽ vẫn là vấn đề riêng của Bavaria. Genscher chỉ có thể đưa ra lời khuyên và hỗ trợ cho các quan chức nhà nước.
Sau khi nhất trí rằng phản ứng ban đầu đối với cuộc khủng hoảng nên là đàm phán thay vì vũ lực, các quan chức đã cùng nhau nhất trí rằng một ủy ban khủng hoảng (Krisenstab) sẽ được thành lập ngay lập tức dưới quyền Bruno Merk tại văn phòng của Walther Tröger ở tầng 4 của G-1.
Manfred Schreiber tuyên bố đã gọi một xe cảnh sát liên lạc công nghệ cao và sẽ đỗ nó gần Connollystrasse để làm trạm chỉ huy tiền phương. Các sĩ quan cấp dưới vội vã đi sắp xếp.
Tin tức mới nhất từ Bonn đã đến. Các quan chức Bộ Ngoại giao Đức đã thực hiện một loạt cuộc gọi điện thoại khẩn cấp để tìm kiếm phản ứng của Israel đối với các yêu cầu của khủng bố. Phản ứng ban đầu không mấy tích cực: chính phủ Israel sẽ không để Tháng Chín Đen tống tiền. Họ sẽ
không cho phép bất cứ thỏa thuận nào với bọn khủng bố.
Tất cả những người có mặt tại cuộc họp ở G-1 đều biết họ đang phải chạy đua với thời gian để giải cứu các con tin. Hạn chót 9 giờ sáng đã cận kề.
Shmuel Lalkin, trưởng đoàn Olympic của Israel, lặng lẽ ở trong phòng một tiếng rưỡi sau vụ tấn công ban đầu, đầu tiên là quan sát thi thể của Moshe Weinberg bị vứt trên đường phố, sau đó theo dõi hành động của bọn khủng bố. Khoảng 6:30 sáng, ông rời khỏi phòng và được cảnh sát Đức dẫn đến văn phòng của Walther Tröger, tại đó ông ngay lập tức đến máy điện thoại, lần này là với Israel. “Tôi đã liên lạc trực tiếp với chính phủ Israel, với thủ tướng”, Lalkin nói.
Lalkin biết bọn khủng bố đã ném ra ngoài cửa sổ một danh sách yêu sách, và ông biết các đồng đội của mình đang lâm nguy. Thủ tướng Israel Golda Meir đã nhiều lần tuyên bố rằng bà sẽ không chấp nhận đàm phán với bọn khủng bố. … “Chính sách chủ yếu là không nhượng bộ bọn khủng bố, không đầu hàng chúng.”
Đó là một khoảng thời gian vật vã của toàn bộ phái đoàn Israel. Gad Tsabari, vận động viên đô vật, vẫn còn choáng váng khi được đưa đến tòa nhà hành chính Olympic để các quan chức thẩm vấn. Sau khi trốn thoát, anh chạy đến đường Connollystrasse, chạy đến hàng rào Làng Olympic, cách tòa nhà Israel khoảng 70 thước, nhảy qua và chạy vào trung tâm báo chí Olympic.
Ban đầu, anh bị phớt lờ: “Trong hai mươi giây, không ai để ý đến tôi, họ chỉ cười đùa.” Tsabari kéo một nhà báo ra ngoài, đứng cạnh hàng rào bao quanh và giải thích “một cách bình tĩnh” mình là ai và chuyện gì đã xảy ra. “Và đó là cách câu chuyện, bi kịch bắt đầu.”
Một cảnh sát Munich dẫn anh đến khu hành chính dưới sự bảo vệ của lính gác vũ trang. “Có một phụ nữ nói tiếng Đức và tiếng Do Thái, và tôi đã phác họa trên bản đồ suốt năm giờ về những gì đã xảy ra, nơi tôi ở, ai bị thương, loại người nào, bao nhiêu tên khủng bố”, Tsabari nhớ lại. Người Đức đưa cho anh quần áo, giày đi biển và một chiếc áo sơ mi của cảnh sát Đức “to bằng một chiếc váy trên người tôi” và sau đó đưa anh đến một văn phòng nơi anh chờ cùng các thành viên khác của phái đoàn Israel để biết thêm tin tức về bạn bè của mình.
Tin tức về vụ tấn công lan truyền trong giới vận động viên và quan chức Israel khác. Esther Roth đang ngủ trong khu vực dành cho nữ của Làng Olympic thì nghe thấy tiếng gõ cửa. “Tôi chắc chắn người ta đến đánh thức tôi dậy để thi đấu Thế vận hội”, Roth nói. Trước đó tại Thế vận hội, hai vận động viên Mỹ đã ngủ quên khi một quan chức của họ sử dụng lịch trình đã cũ, tạo điều kiện cho vận động viên chạy nước rút người Nga Valery Borzov giành chiến thắng. “Tôi, Roth, sợ mình sẽ đến muộn trong cuộc thi. Tôi lập tức mặc quần áo và nói ‘chờ một chút’. Tôi mở cửa và thấy Shlomit Nir, vận động viên bơi lội, cùng một người khác [đang ở hành lang]. Cô ấy nói với tôi rằng một nhóm khủng bố đã xâm nhập vào ký túc xá của Israel. Chúng tôi phải thu dọn đồ đạc và rời khỏi nơi đó. Tôi không biết phải làm gì. Tôi bị sốc, tôi rất sợ hãi.”
Roth nhanh chóng thu dọn hành lý và được đưa đến tòa nhà hành chính nơi Lalkin và Tsabari đang đợi. “Tôi nhớ cảm giác đó,” cô nói. “Chúng tôi cảm thấy như thể có khủng bố trong mọi tòa nhà, và tất cả chúng đều muốn làm hại chúng tôi. Chúng tôi sợ phải di chuyển từ tòa nhà này sang tòa nhà khác.” Các thành viên khác trong đoàn đã nghe tin đồn rằng một, có thể là hai người bạn của họ đã bị giết. “Họ không nói tên anh ấy và tôi nghĩ có lẽ đó là huấn luyện viên của tôi. Đó là một cảm giác rất tồi tệ.” Các vận động viên Israel thoát nạn bắt đầu đến. “Họ chỉ mặc đồ ngủ. Và tất cả đều hoảng loạn,” Roth nhớ lại. Những người Israel ngồi cùng nhau trong một căn phòng lớn,
Xem tivi, nghe radio để cập nhật tin tức mới nhất, và an ủi nhau khi hạn chót 9 giờ sáng ngày 1 tháng 10 đang đến gần. “Tôi nhớ cảm giác căng thẳng lúc đó,” Roth nói. “Chúng tôi không biết phải làm gì.”

Phái đoàn Israel chụp chỉ vài ngày trước vụ tấn công khủng bố của Tháng Chín Đen, gồm hầu hết thành viên của đoàn Olympic Israel.

Yossef Gutfreund, trọng tài môn đấu vật. Ông dùng thân hình nặng 130 kí của mình để chận cánh cửa số 31 Connollystrasse khi bọn khủng bố tấn công, giúp vài đồng đội một ít giây quý giá để tẩu thoát.

Yossef Romano, vận động viên cử tạ sinh tại Tripoli, Libya. Anh bị thương trong khi tranh nguyên vẹn và phải chống nạn khi bọn Tháng Chín Đen tấn công.

Jacov Springer và Yossef Romano, trọng tài và vận động viên môn cử tạ. Jacov, có gia quyến bị sát hại trong vụ Holocaust, chiến đấu với ray rứt nội tâm để tranh tài trên đất Đức. Còn vợ của Yossef linh cảm có điều chẳng lành sẽ xảy ra.

Làng Olympic rộng lớn được xây dựng để chứa hơn 10.000 vận động viên tranh tài trong Thế vận hội 1972.

Ngôi sao David được mang vào Vận động trường Olympic trong lễ khai mạc Thế vận hội Munich.

Vào đêm trước khi bọn khủng bố tấn công nhiều thành viên Israel đến xem Người chơi Vĩ cầm trên Mái nhà” tại trung tâm Munich. Hình này được chụp chỉ một ít giờ trước vụ tấn công.

Đội đấu vật Israeli và huấn luyện viên. Từ trái: Gad Tsabari (người đã tẩu một lời trong vụ tấn công Tháng Chín Đen tại 31 Connollystrasse, Mark Slavin, Moshe Weinberg (huấn luyện viên), và Eliezer Halfn.
Tôi là độc giả, trong nhiều năm nay, theo dõi tương đối đầy đủ các bản dịch từ tiếng Anh của dịch giả Trần Quang Nghĩa trên trang NCLS. Nhờ đó giúp tôi mở rộng kiến thức, tôi xin tri ân dịch giả và trang web của chúng ta. Tôi hiểu rằng người dịch có toàn quyền chọn chủ đề mình thích miễn nó không ra ngoài phạm vi LỊCH SỬ và còn phải làm sao để thỏa mãn phần lớn sự tò mò của độc giả ở nhiều lĩnh vực khác nhau. Tuy nhiên cho phép tôi góp vài ý như sau: chỉ nói về mảng Lịch sử Việt Nam do người nước ngoài viết đã được dịch và in ấn khá nhiều, nhưng theo tôi biết số lượng tư liệu đó chỉ chiếm phần nhỏ. Có nhiều tác giả, sống từ vài thế kỷ trước hoặc những nhà Việt Nam học đương đại như Wilhelm G. Solheim II, John K. Whitmore, Anthony Reid, Stanley Thomson, Li Tana… mà những nghiên cứu, phân tích và đúc kết của họ chắc chắn sẽ soi rọi cho chúng ta một quá khứ còn nhiều mờ mịt chưa rõ.
ThíchThích